Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
SỐNG ĐẸP
Nho pháp tịnh dụng và con đường bành trướng của thiên triều (Trần Đình Hượu)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 36075" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">2. Ngụy thiện </span></strong></p><p></p><p>Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hình thành từ trước, nhất là từ đời Tần nhưng từ đời Hán về sau mới thành xu hướng ổn định. Chủ nghĩa bành trướng từ Hán về sau – tức là sau khi tìm ra phương hướng Nho Pháp tịnh dụng - không trắng trợn như đời Tần. Khi chinh phạt các nước láng giềng bao giờ cũng là “lễ tiền binh hậu”, bao giờ hoàng đế cũng tuyên xưng không có tham vọng đất đai và thần dân, thậm chí còn dè bĩu “đất cằn cỗi”, “dân khó bảo”, hoàng đế không thèm; chinh phạt chẳng qua là bất đắc dĩ vì đạo lý, vì mục đích giáo hoá, vì mục đích cứu vớt. Lừa dối ngụy thiện thành một nét đặc trưng. Cướp phá, chém giết, phá hoại văn hoá, đồng hoá đó là một chính sách bành trướng rất tàn bạo. Nhưng sự tàn bạo bao giờ cũng được nguỵ trang bằng những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Trơ tráo nhất là tấm lòng từ thiện chỉ muốn “kẻ có tội” hối hận, đầu hàng ngay để khỏi phải dùng đến khí giới vì hoàng đế vốn nhân ái không nỡ nhìn thấy cảnh tàn phá giết chóc. </p><p></p><p>Chế độ chuyên chế vốn yếu. Sự tồn tại của nó về bản chất là dựa vào sự lừa dối, dựa vào thủ đoạn thâm hiểm. Càng yếu lại càng mong dùng cách đe doạ, sự lừa dối ngụy thiện mà thắng người. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Trọng danh hơn thực </span></strong></p><p></p><p>Bắt thêm một nước thần phục không phải bao giờ cũng mang lại lợi ích thực tế cho thiên triều. Ta không nói đến nhân dân hai nước hoàn toàn bị thiệt hại nặng khi có chiến tranh xâm lược như vậy. Ngay cả với hoàng đế Trung Quốc, chiến tranh làm tốn công tốn của, lại làm mạnh lên thế lực của võ tướng, quý tộc, và khi chiến thắng, không trực tiếp quản lý khai thác được đất đai nên cũng chỉ thu được món tuế cống không phải là nhiều. Nhiều khi hoàng đế chỉ thu được cái danh suông: Được một nước chịu tiếng là bề tôi thiên triều. Thế nhưng vì là thiên triều, hoàng đế Trung Quốc không chấp nhận ai đứng ngang hàng. Thiên tử có thái độ kẻ cả không chỉ với các nước như Lào, Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hung Nô, những nước láng giềng, về danh nghĩa, phải tự nhận là phiên bang, thiên triều từ xưa theo lệ phong vương, đối xử như chư hầu; tuy một số trong đó đã nhiều phen đánh cho thiên triều thua liểng xiểng. Ngay cả các nước phương Tây như Anh, Pháp, ngay từ khi mới tiếp xúc đã đánh bại, đã làm nhục thiên triều bao chuyến, lại chưa bao giờ là chư hầu cũng chỉ được thiên tử coi là Tổng đốc nước Anh, Tổng đốc nước Pháp và công khai đối xử như di địch. Thiên triều không bao giờ chịu cảnh bị khinh thường đến mức để các nước láng giềng độc lập, không nghe theo mệnh lệnh của mình. Để buộc các nước đó chịu phận đàn em, có khi thiên triều sẵn sàng làm ông anh đối xử rộng rãi, biết quà cáp cho em – những ông em bất trị – khá hậu hĩnh. Trường hợp nhà Tống đối với Khiết đan, nhà Thanh đối với vua Quang Trung là như vậy. Chịu nhận là đàn em thì đâu có ngỗ nghịch hay vòi vĩnh một chút thiên triều cũng ngơ cho. </p><p></p><p>Chế độ chuyên chế đó sống bằng uy tín chính trị. Nó xâm lược để bảo vệ danh hơn là giành lợi thực. Thói quen muốn làm bề trên cũng dẫn đến sự quan tâm, suy tính về danh nghĩa hơn là tính toán thực tế. Điều đó cũng thường thành nguyên nhân gây ra hành động phiêu lưu. </p><p></p><p>Đáng ngạc nhiên không phải là xu hướng bành trướng ở giai cấp thống trị ở một nước rộng lớn như Trung Quốc mà đáng ngạc nhiên là tâm lý bành trướng có cả trong nhân dân Trung Quốc. Bành trướng Đại Hán là dựa vào thiên chức thiên tử chứ không phải dựa vào sự ưu việt của dân tộc. Vì thánh đức của thiên tử chứ không phải vì vinh quang của dân tộc. Người dân Trung Quốc sống dưới chế độ chuyên chế, trong tổ chức xã hội quân sự hóa, có cuộc sống thấp kém nhất, nghèo đói, ngu dốt và vô quyền. Có chiến tranh lại phải làm thêm nghĩa vụ đi phu nộp thuế, đi lính, mang thêm chết chóc và nghèo đói. Sống lâu đời trong cảnh bi đát đó, họ trở thành cần cù, chịu khó đến nhẫn nhục, lầm lỳ, cam chịu. Thế nhưng không phải họ bất bình vì bị lôi kéo vào chiến tranh xâm lược mà nhiều khi lại có tâm lý say sưa chia sẻ cái hống hách, kẻ cả của chính kẻ áp bức mình. Tâm lý lạ lùng đó tồn tại cả trong những người Hoa Kiều vì bị áp bức bóc lột làm cho phá sản phải bỏ quê hương lưu lạc, kiếm ăn ở tận nước khác bằng những nghề hèn mọn như bán thuốc, bán phở… </p><p></p><p>Cái thân phận thần dân tử đệ, cái liên minh tự nhiên lâu đời giữa hoàng đế và dân chống các lực lượng phân tán, đạo lý sống trung nghĩa đã che lấp quan hệ thực giữa vua và dân. Không gọi là nô lệ mà gọi là xích tử, cũng như không gọi là đầy tớ mà gọi là gia nhân (người nhà). Họ thấy mình dự phần cao sang của ông chủ, thậm chí vì thế mà khoe khoang tự hào còn mong cả lợi dụng uy thế, danh nghĩa của ông chủ để ra oai, bắt nạt đàn em. </p><p></p><p>Xâm lược, bành trướng vốn gắn liền với chuyên chế, với điều kiện quốc gia thống nhất rộng lớn. Tư tưởng Pháp gia đầu tiên tạo ra cục diện đó nhưng nó không có khả năng giữ chuyên chế và thống nhất được lâu dài. Sự kết hợp Nho Pháp mới duy trì được những cái đó, có khi là mong manh, có khi chỉ là hình thức nhưng dai dẳng, khó phá vỡ. Tư tưởng Pháp gia làm cho tính hiếu chiến lộ rõ tàn bạo. Sự kết hợp Nho Pháp mới làm cho nó có bộ mặt giả dối để đánh lừa. Kết hợp Nho Pháp mới là cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng và điều đó được xác lập từ đời Hán. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai hệ tư tưởng đối lập như vậy phản ảnh sự kết hợp cũng rất lạ lùng giữa sự tập trung chuyên chế với sự phân tán của làng xã, sự kết hợp lạ lùng giữa tên độc tài là hoàng đế với người dân cùng khổ vô quyền. Sự kết hợp như thế tồn tại trên cơ sở liên minh giữa hai lực lượng đều yêu cầu chống lại sự uy hiếp của lực lượng thứ ba: quý tộc và thổ hào theo xu thế tự nhiên tự nhiên hướng đến chế độ lãnh chúa. </p><p></p><p>Sự kết hợp đó tạo ra một thế giằng co lâu dài. Ổn định thống nhất chỉ là bề ngoài, chỉ là khéo che đậy, nhưng mâu thuẫn sâu sắc. </p><p></p><p>Nhưng hợp chất nào cũng có khe hở, có khả năng bị phá vỡ liên kết. Đó chính là chỗ cần phát hiện, khai thác để phá vỡ sự chuyên chế và chủ nghĩa bành trướng. </p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">III. Đề cao tinh thần Pháp gia để hiện đại hóa quá khứ và hiện tại </span></strong></p><p></p><p>Nho gia và Pháp gia là hai anh em, con đẻ của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Tuy cả hai đều được hoàng đế cưng chiều, tịnh dụng mỗi bên một cách, nhưng giống như cảnh con cái tranh quyền đoạt lợi trong nhiều nhà, hai anh em Nho Pháp xung khắc gay gắt. Mở đầu xung đột là thời kỳ Chiến Quốc đến Tần Hán. Cuộc tranh luận trùng với thời điểm vương chế Ân Chu nhường chỗ cho chế độ hoàng đế Tần Hán. Hoàng đế Tần Hán nối tiếp nhau giành được thiên hạ. Sau khi đế chế thành lập vấn đề đặt ra cho nó là giữ vững sự thống nhất thiên hạ, củng cố và phát triển uy quyền hoàng đế, tức là củng cố chế độ chuyên chế và tiếp tục bành trướng. Tranh luận Nho Pháp biểu hiện sự lựa chọn một ý thức hệ thích hợp với nhu cầu đó của đế chế. Bách gia tranh minh kết thúc ở kết luận Nho Pháp tịnh dụng của Hán Võ đế. Tịnh dụng không phải để bất phân thắng phụ, dung hòa, chấp nhận nhau mà là Nho gia được tuyên bố độc tôn, công khai thống trị, còn Pháp gia thành học thuyết ngự dụng, bí truyền. Thực chất nội dung tranh chấp là độc tài tuyệt đối hay là nhân nhượng một mức độ nhất định với làng xã, ưu đãi, tin cậy, đối xử có lễ độ chứ không phải khinh miệt, nô dịch quan lại và đẳng cấp sĩ, nói tóm lại là làm thế nào bảo vệ chế độ chuyên chế có hiệu quả hơn. Từ khi đế chế kiểu nhà Hán ổn định, Nho gia trở thành học thuyết thống trị, Pháp gia tuy là đồ ngự dụng, nhưng bên ngoài ở vào cảnh tội phạm, thành cái đích cho các nhà nho suốt hai mươi thế kỉ công kích mạt sát mà không bao giờ phản kích lại. </p><p></p><p>Cho đến sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, năm 1957 một phong trào mang tên: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” làm sống dậy không khí học thuật thời Chiến Quốc. Khắp nơi tranh luận về rất nhiều vấn đề chính trị và học thuật - theo cách nhìn của những người theo Mao thì học thuật cũng là chính trị. Tiếp theo đó là phong trào chống phái hữu, cũng tức là trừng trị những người đã đua tiếng, khác với giọng chính thống. Rồi phong trào chống xét lại, và hơn mười năm sau, sau đại cách mạng văn hóa vô sản, vấn đề Nho Pháp nổi bật lên. </p><p></p><p>Trong chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” những kẻ thù của Mao được gán cho cái nhãn hiệu là Nho, với tội trạng là âm mưu phục hồi chủ nghĩa tư bản, là bảo thủ, là phản cách mạng. Ngày xưa cuộc tranh luận Nho Pháp không chỉ tốn nhiều thì giờ, nhiều nước bọt, nhiều thẻ tre mà còn tốn khá nhiều máu. Tần Thủy Hoàng theo đề nghị của Pháp gia đã “đốt sách chôn Nho”. Pháp lệnh thi hành triệt để, có hiệu quả đến mức mấy chục năm sau khó khăn lắm nhà Hán mới tìm được người còn nhớ, đọc cho chép lại các kinh điển Nho gia. Còn ở Trung Quốc ngày nay, những người bị phe Mao ghép tội theo Nho bị đấu tố, bị đưa đi cải tạo và bị tiêu diệt. Con số người bị nạn gấp hàng trăm lần thời Tần Thủy Hoàng nhưng Mao Trạch Đông cho thế vẫn còn là ít. </p><p></p><p>Tôi muốn nhấn mạnh sự giống nhau giữa hai hoàn cảnh đặt vấn đề và cũng giống nhau trong nội dung vấn đề tranh luận nữa. Đặc điểm của lịch sử Trung Quốc là những thời đại lịch sử kéo rất dài thường là nhân tuần, thay đổi dần, không có đột biến cách mạng. Thời Tần Hán và thời cận hiện đại là hai thời điểm có chuyển biến mạnh nhất. Ở hai thời điểm đó rõ ràng xuất hiện nhu cầu tổng kết quá khứ, tìm đường đi cho lịch sử hướng đến tương lai. </p><p></p><p>Trước kia trên cơ sở tồn tại khách quan của làng họ và cục diện thống nhất, thời Tần Hán đã phải giải quyết quan hệ giữa tập trung và phân tán theo hướng nhân nhượng làng-họ, duy trì tàn dư công xã để chống lại xu hướng lãnh chúa, hàng ngày dễ nảy nở trực tiếp uy hiếp sự tập trung chuyên chế của hoàng đế và nuôi dưỡng xu hướng bành trướng, mở rộng thiên hạ do chế độ chuyên chế đẻ ra. Cách giải quyết của Hán Võ đế đã thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại từ nhà Hán đến nhà Thanh. </p><p></p><p>Cuối đời Thanh mâu thuẫn xã hội đã cực kỳ trầm trọng. Mâu thuẫn dân tộc Hán-Mãn, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc phương Tây lại càng làm cho tình hình càng rối loạn hơn. Sự thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949 đã giải quyết cùng một lúc các mâu thuẫn do lịch sử để lại. Trong sự hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục nhiệm vụ bỏ dở của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, nhiệm vụ bỏ dở của phong trào dân tộc chống đế quốc. Từ Vạn lí Trường chinh, theo sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã học tập và phát triển kinh nghiệm khởi nghĩa xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh nông dân, huy động và tổ chức quân chủ lực là nông dân để giải quyết các vấn đề đó. Về sau khi thắng lợi, vấn để đặt ra là tìm con đường cụ thể xây dựng đất nước hướng đến tương lai. Cứ nhìn những vấn đề được đem ra thảo luận và các phong trào được phát động, ta cũng có thể thấy được nội dung phương hướng được lựa chọn là gì. Sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, tam phản, ngũ phản, chống phái hữu, đại nhảy vọt, toàn dân làm gang thép, xây dựng công xã, đại cách mạng văn hóa vô sản, bốn hiện đại hóa với các chủ trương học tập Lôi Phong, hạ phóng, xây dựng công xã kiểu Đại Trại, xí nghiệp kiểu Đại Khánh và các cuộc tranh luận về quan hệ sản xuất, về vô sản chuyên chính, về “một phân đôi”, về chống dùng vật chất kích thích… Quán xuyến tất cả là việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông. Việc tranh luận Nho - Pháp được đặt ra trong bối cảnh như vậy, và hướng giải quyết của nó, theo tinh thần “cổ vi kim dụng”, có ý nghĩa nhìn lại quá khứ, lựa chọn một giải pháp cho tương lai. </p><p></p><p>Nội dung của tất cả những việc vừa kể trên chỉ là: </p><p></p><p>• Tăng cường chuyên chế đến mức tập trung tất cả quyền hành vào chỉ một người; hạn chế đến tiêu diệt mọi thế lực đối lập dẫu là cá nhân, tổ chức quần chúng, tổ chức Đảng hay thể chế của nhà nước… </p><p></p><p>• Tổ chức công xã thành đơn vị cơ sở phổ biến; cải tạo xí nghiệp, trường học – các tổ chức có tính chất thành thị - theo mẫu công xã, nhất thể hóa thành xã hội quân sự hóa, một thứ xã hội canh chiến. </p><p></p><p>• Cải tạo mọi tầng lớp thành nông dân. Các loại dân thành thị dầu là tư sản, trí thức hay là công nhân công nghiệp đều phải học tập nông dân, học tập quân đội, học tập “giáo sư chân đất”, lấy bần cố nông làm thầy, biến tất cả thành những người giống như nông dân, gắn bó với công xã, tuyệt đối cảm ơn, sùng tín, nghe lệnh lãnh tụ, hết sức lao động, thắt lưng buộc bụng hy sinh cho nhà nước chuyên chế. </p><p></p><p>• Cả nước võ trang, toàn dân luyện tập quân sự, mọi sinh hoạt quân sự hóa. Cả nước thành một trại lính chuẩn bị chiến tranh. </p><p></p><p>Đề cao Pháp gia thực chất là tăng cường chuyên chế và phát triển chủ nghĩa bành trướng. </p><p></p><p>Nông dân khởi nghĩa đã thắng lợi. Đại ca đã lên ngôi hoàng đế. Rút kinh nghiệm “chính quyền từ mũi súng”, đại ca muốn dùng mũi súng trong tay nông dân mà mở rộng chính quyền của hoàng đế ra cả thiên hạ. Và thiên hạ vào thời hiện đại, với tri thức địa lý đã mở rộng, ngũ phục đã lan đến năm châu bốn bể, nếu không phải là rộng hơn. </p><p></p><p>Những người theo Mao nói tìm ra ở Pháp gia tinh thần cách mạng, tức là không nửa đường dừng bước, không thủ cựu, dám nghĩ dám làm, dám thay đổi. Đó chỉ là giả nhân, giả nghĩa theo thủ đoạn “ngoại Nho” của hoàng đế mà thôi. Còn phần “nội Pháp” thì họ muốn tìm ở đó tinh thần cực quyền, tinh thần vũ lực, hiếu chiến và coi dân là công cụ. Không phải chỉ có đối với tư tưởng Pháp gia, cả đối với tư tưởng Mác-Lênin, Mao Trách Đông cũng chẳng phải chỉ tìm ở đó lý thuyết mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính và quan hệ sản xuất (tập thể hóa, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất) đó sao? Cái họ thích ở chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản không phải là lý luận xây dựng xã hội tiền tiến, tự do, hạnh phúc, dân chủ, nhân đạo cao, mà chỉ là phương pháp củng cố được chuyên chính hiệu quả hơn, thu sản phẩm lao động của dân được dễ dàng hơn và được nhiều hơn để chuẩn bị chiến tranh làm cho Trung Quốc thành siêu cường. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng được biểu đạt bằng những thuật ngữ Mácxít như mâu thuẫn, biện chứng pháp, đấu tranh giai cấp… nhưng không phải dựa vào một cơ sở khoa học, một phương pháp luận khoa học nào mà là lựa chọn, lấy bỏ trong tất cả mớ lý luận hỗn tạp xưa và nay, đông và tây theo một lập trường, đúng những quan điểm củng cố chuyên chế (với nhãn hiệu vô sản chuyên chính) và phát triển bành trướng (với nhãn hiệu làm cách mạng thế giới). </p><p></p><p>Rõ ràng một xu hướng phục tích nhưng không phải phục tích tư bản chủ nghĩa. Sau cách mạng thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành nhiều hoạt động cải tạo và xây dựng với tốc độ đáng phấn khởi. Những hoạt động đó có ý nghĩa cách mạng, có lợi cho nhân dân Trung Quốc và chuẩn bị điều kiện cho Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh và cũng là kết quả đã thu được là làm hình thành quan hệ sản xuất mới. Thế nhưng sự thay đổi đó, tự thân nó, trong điều kiện của nền sản xuất thấp kém và trình độ văn hóa và xã hội lạc hậu của Trung Quốc chỉ đang là đứng trước ngã ba đường: Trung Quốc có khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng hướng sang chủ nghĩa tư bản hay nằm ỳ ở phong kiến. Cả một nông thôn bao la với số nông dân khổng lồ đang nằm trong tình trạng lạc hậu đe dọa níu sự phát triển lại. Mặt khác, ở một số điểm, những cải cách nói trên lại làm cho xã hội Trung Quốc giống chế độ chuyên chế xưa hơn. </p><p></p><p>Trong quan hệ sản xuất mới, tư liệu sản xuất được tập thể hóa, quốc hữu hóa, người ta thấy gắn với chế độ vương hữu hơn chế độ tư hữu tư sản. Người nông dân thấy ở việc tập thể hóa nông nghiệp hình ảnh chế độ công điền, hợp với lí tưởng quân bình mà họ ôm ấp xưa nay. Trong một xã hội công nông binh mà các tổ chức phi nông thôn cũng đều công xã hóa, như Mao Trạch Đông đã muốn làm triệt để như vậy, người dân sẽ thấy mình sống trong làng xã phổ biến hơn, rất hợp với tư tưởng ghét thành thị, ghét tư sản, ghét trí thức, ghét mọi cái xa lạ họ. Về mặt chính quyền, cũng lại là bộ máy quan liêu, đội quân thường trực và trên cùng cũng lại là một người cầm lái vĩ đại, anh minh, thần thánh, chẳng khác thiên tử. Do đặc điểm lịch sử, kinh tế và xã hội của Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản tuy đã phát triển nhưng chỉ tập trung ở vùng ven biển và các thành phố lớn. Quan hệ tư sản chưa thành phổ biến để sự phục tích hướng vào đó. Mao đã xây dựng chính quyền mới không khác sau các cuộc khởi nghĩa nông dân thắng lợi xưa kia: những người có mặt ở tụ nghĩa đường chia nhau cầm quyền thiên hạ trong đó đại ca lên ngôi hoàng đế. Mao đã lập một tân trào cũng có hai ban văn võ (phái quân sự, phái hành chánh) cũng có xung đột phe phái, xung khắc giữa địa phương và trung ương và cuối cùng lại xuất hiện cả thái tử và hoàng hậu nữa. Cho nên nếu như đối với các nước láng giềng tân trào này có nảy ra tham vọng thiên triều thì cũng chỉ là việc tự nhiên: ngựa đi theo đường cũ. </p><p></p><p>Người nông dân được cách mạng giải phóng lại tiếp tục sống trong một môi trường đã được cải tạo thành ra quen thuộc, tư tưởng lại không được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa chân chính. Họ được lãnh tụ đưa lại ruộng đất giúp họ trả thù phú nông, địa chủ, hàng ngàn đời áp bức bóc lột và làm nhục họ, lại đưa họ lên làm gương, làm mẫu, làm thầy để cải tạo dân thành thị là những người họ vẫn kỳ thị, thỏa mãn được lòng ghét kẻ giầu sang, ghét trí thức, trả thù cái thành thị vừa phức tạp vừa kiêu hãnh khó hiểu. Với cuộc sống cô lập vì cột chặt vào công xã, với thói quen sống đói rách, ít đòi hỏi tự do, hạnh phúc, văn hóa, họ dễ thỏa mãn và cam chịu. Thỏa mãn vì những cái họ có được hưởng, thỏa mãn vì ơn nghĩa, thỏa mãn vì ít đòi hỏi. Họ chỉ phải lao động nhiều, đóng góp nhiều, bị ràng buộc hơn, nhưng những cái đó đối với họ cũng đã thành quen. Trước cách mạng họ còn khổ hơn. Họ sẵn sàng tin tưởng ở lãnh tụ, cũng do thói quen của nông dân, từ lâu đã được đồng nhất với Thánh nhân: nhân ái, sáng suốt và linh thiêng. Giữa một bên là Hoàng đế và một bên là lê dân - xích tử, những người được đưa vào bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội cũng đã có sẵn những mẫu mực, những con đường để bước theo: quan, lại, thổ hào, quân phiệt và kẻ sĩ. </p><p></p><p>Trong tình hình thực tế đã đi đến như vậy, thật không có gì lạ lùng vấn đề con đường phát triển được đưa ra bàn lại, xuất hiện dưới dạng tranh luận Nho - Pháp. </p><p></p><p>Con đường Mao Trạch Đông lựa chọn đã đưa Trung Quốc quay lại với các triều đại phong kiến, nhưng Mao thiết tha muốn Trung Quốc thành một cường quốc của thế giới hiện đại, dè bỉu sự nghiệp tầm thường của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ đế, Đường Thái Tông. Những người chống Mao, bị Mao coi là Nho cũng vậy. Họ có thừa nhiệt tình, quyết tâm, không ngại san bằng mọi trở lực và học được không ít những kinh nghiệm thế giới trong vấn đề hiện đại hóa. Nhắm mục đích đó những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cố gắng giải quyết vấn đề vốn, vấn đề kỹ thuật, vấn đề chuyên gia, không ngần ngại dùng cả những biện pháp phản động, nhục nhã như bắt tay với các nước đế quốc, quan hệ với các chế độ phản động để đạt mục đích. Quan niệm một nước hiện đại, cường quốc hiện đại của họ là có nền công nghiệp hiện đại, có nền nông nghiệp hiện đại, có nền kỹ thuật hiện đại, có nền quốc phòng hiện đại - bốn cái hiện đại theo thứ tự này hay thứ tự khác. Nói cách khác bốn hiện đại cũng là phú cường, phú cường dựa trên sản xuất hiện đại, với khoa học kỹ thuật hiện đại. Nước Trung Hoa phú cường hiện đại mà họ định xây dựng cũng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, và tính đến sự sốt ruột đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông của những năm 50 thì còn muốn nó là cộng sản chủ nghĩa trước cả Liên Xô nữa. Có lẽ cũng không nên nghĩ rằng họ nói như vậy hoàn toàn chỉ là để lừa dối. Nhưng có phần chắc là chưa bao giờ những người lãnh đạo Bắc Kinh cả Mao và những người kế tục Mao, hiểu đúng thực chất xã hội xã hội chủ nghĩa cả. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa của Mao chưa bao giờ quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, đến chủ nghĩa dân chủ, đến tự do hạnh phúc của con người, đến nền văn hoá phát triển, đến lợi ích quốc tế, lợi ích các dân tộc bình đẳng. Thiếu một cơ chế xã hội dân chủ, một nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, một cường quốc hiện đại như vậy – dẫu có thực hiện được - cũng chưa thể coi là dân chủ chứ chưa nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản. Việc đề cao tinh thần Pháp gia của những người lãnh đạo Bắc Kinh cho ta thấy khuynh hướng hạn chế thêm nữa những quyền dân chủ đã quá ít ỏi, bóp nghẹt hơn nữa những đòi hỏi nhân đạo chủ nghĩa vốn đã quá nghèo nàn trong xã hội Trung Quốc. Cho nên nếu có giải quyết được mọi vấn đề mà họ đặt ra để thực hiện được bốn hiện đại hóa thì nước Trung Hoa đó đi theo hướng chuyên chế và bành trướng, tức là phát xít hóa. </p><p></p><p>Lịch sử thật là bướng bỉnh. Hơn hai mươi thế kỉ đã trôi qua mà khi giải quyết phương hướng cho tương lai thực tế lại quay lại vấn đề Nho hay Pháp, và cũng có thể cả Nho, Pháp, Đạo - một cái thế chân vạc vững vàng xưa nay trong lịch sử Trung Quốc. Sự luẩn quẩn như vậy bắt chúng ta phải nghĩ đến một cái gì đó thuộc về phần sâu xa nhất trong quy luật phát triển của xã hội Trung Quốc, của lịch sử Trung Quốc, chi phối lâu dài sự phát triển của Trung Quốc. </p><p></p><p>Có thể rồi đây vấn đề Nho Pháp không đặt ra một cách lố bịch như phong trào “phê Lâm phê Khổng” nữa. Mao Trạch Đông và tư tưởng Mao Trạch Đông cũng có thể bị lên án, đem ra phê phán kịch liệt. Nước Trung Hoa có thể thành cường quốc hiện đại. Nhưng cường quốc hiện đại, để theo hướng phát xít đó, có tránh khỏi những nét rất Tầu? Và để đối phó với cái hiểm họa mà nó sẽ gây ra cho cả loài người, và trước tiên cho nước Việt Nam, không may quá gần gũi lại án ngữ ngay cửa ngõ bành trướng của họ, mọi người nên tìm trong bộ mặt hiện đại của nó cái bản chất mang dấu ấn sâu sắc của quá khứ? </p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">Kết luận </span></strong></p><p></p><p>Giữa một thời đại mà tất cả các dòng thác cách mạng đang đổ về một hướng, lôi kéo mọi thế lực không cưỡng lại được, thì con đường Trung Quốc thật độc đáo. Mọi người hướng về dân chủ thì Trung Quốc tăng cường chuyên chế, mọi người tìm kiếm hòa bình thì Trung Quốc gây chiến, mọi người đổ xô vào kinh tế, khoa học kỹ thuật thì Trung Quốc dốc sức vào chiến tranh, mọi người đang hướng vào tương lai tìm lời giải đáp thì Trung Quốc quay về quá khứ. Trong hoạt động quân sự Mao Trạch Đông muốn chọn một cách đi độc đáo, hơn thế lại muốn cả thế giới coi đó là duy nhất đúng, muốn cả thế giới đi theo con đường của mình. Kết quả là dẫn Trung Quốc đến một chế độ quân sự hóa cực tàn bạo, một chủ nghĩa bành trướng thật phiêu lưu, tàn bạo, phiêu lưu đặc biệt Tầu. Quá khứ đang định hướng sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Dân tộc Trung Hoa có một nền văn minh lâu đời một quá khứ vĩ đại. Nó làm vinh quang cho cả dân tộc. Thế nhưng nó cũng là cây cổ thụ thân to, gốc bền, rễ và cành của nó trùm lên cả thời hiện tại; nó cũng là một gánh nặng cho sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Đối với mọi người suy nghĩ lành mạnh con đường của Mao, cách làm, cách nghĩ của những người theo Mao thật phi lí, khó hiểu, tưởng như không thể nào có thực. Nhiều người vì vậy trong một thời gian dài đã không tin có thể là như vậy. Thế nhưng đó lại là thực tế kéo được hàng mấy trăm triệu con người đi theo, ngày nay thành một sức mạnh hung bạo chống cách mạng. Không tìm được bản chất của hiện tượng đó thì không cải tạo được nó, không giải được cái lí của cái phi lí thì không làm chủ khắc phục được nó. </p><p></p><p>Rõ ràng là không thể bỏ qua cái đặc thù của Trung Quốc, tất nhiên làm vậy không phải theo hướng cường điệu cái đặc thù để đối lập đi đến phủ nhận cái phổ biến, phủ nhận quy luật chung của lịch sử loài người, phủ nhận tính chân lý của chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm của phong trào công nhân các nước, biện hộ cho những mưu mô xảo trá, dựa vào tính đặc thù để biện hộ con đường dân tộc chủ nghĩa tư sản. Tìm hiểu nét đặc thù Trung Quốc chỉ là để, và nhất định sẽ giúp ta, hiểu cái phổ biến cụ thể hơn, hành động có kết quả hơn. </p><p></p><p>Vấn đề Nho Pháp là một chứng tích cho ta đi tìm cái đặc thù như vậy. Tôi đã không bàn nội dung và giá trị của hai học thuyết đó, không bàn chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” mà chỉ nhấn mạnh cách đặt vấn đề và hướng giải quyết vấn đề như vậy có ý nghĩa lịch sử bộc lộ một cái gì cố hữu rất quen thuộc của Trung Quốc. </p><p></p><p>Lịch sử lâu dài đã rèn luyện cho giai cấp thống trị từ vua, quan, quân phiệt, thổ hào đến nha lại những thủ đoạn, những thói quen, những lý thuyết để thống trị. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia, biện pháp Nho pháp tịnh dụng chính là tổng kết lý luận của nhóm thống trị cao nhất. Hướng tịnh dụng Nho và Pháp đã cung cấp cho các thế hệ người cầm quyền trong lịch sử cho đến cả ngày nay hướng để sắp xếp, xử lí với các lực lượng, cách quan niệm chức trách, làm hình thành những mưu đồ, những tham vọng, những cách đối phó với thực tế. Theo dấu vết đó ta có thể tìm được cái tham, cái phi lý, cái thâm hiểm đang chi phối cách tính toán của những người theo chủ nghĩa bành trướng đại Hán hiện tại. </p><p></p><p>Nhưng lịch sử cũng lại rèn luyện cho nhân dân sống dưới ách thống trị như vậy những mánh khóe để đối phó với các biện pháp thống trị trên. Cách đối phó thường là “dùng gậy ông đập lưng ông”. Ở đây hầu như chỉ thấy Nho mà không thấy Pháp. Nhưng không nên quan niệm Nho và Pháp hoàn toàn đối lập, cô lập, không nên quan niệm chỉ có bộ hai Nho Pháp. Đằng sau hệ tư tưởng còn có một cơ sơ kinh tế - xã hội, một cơ chế chính trị xã hội còn có sức tác động mạnh hơn là hệ tư tưởng, là tàn dư của hệ tư tưởng. </p><p></p><p>Tìm hiểu những điều đó và sự tương ứng giữa những cái đó, chúng tôi nghĩ có thể cung cấp được những dữ kiện khoa học giúp ta hiểu xu hướng của nước Trung Hoa ngày nay, góp phần vào việc tìm hướng đối phó bằng hành động thực tế chống nguy cơ bành trướng Đại Hán. </p><p></p><p><em><p style="text-align: right">Huế 07/05/1979</p><p></em>________________________________________</p><p>[1]Trong bản gốc, tác giả đánh máy là “tĩnh dụng”. Thực ra từ này đọc là “tịnh dụng” hoặc “tính dụng” nghĩa là “kiêm dùng” hoặc “cùng dùng”. Theo chúng tôi, từ này tác giả phát âm theo lối xứ Nghệ, vì vậy chúng tôi mạo muội sửa lại cho đúng âm đọc. Gs Nguyễn Tài Cẩn cũng xác định như vậy (Tất cả các chú thích đều của người đánh máy.)</p><p>[2]Chiến tranh “kiêm tính”: Chữ dùng của Mặc Tử trong thiên “Thiên chí hạ”, để chỉ việc chiến tranh thôn tính đất đai</p><p>[3]Kha lão: Từ để tôn xưng những người cao tuổi tôn quý ở trong làng xã</p><p>[4]Tam lão: Thời xưa mỗi làng cử ra một người từ 50 tuổi trở lên có đức hạnh, nắm giữ việc giáo hóa dân chúng ở trong làng gọi là “tam lão”. Như nước Ngụy thời Chiến Quốc có “tam lão”, nước Tần thì đặt ra chức “hương tam lão”, đến đời Hán thì lại thêm “huyện tam lão”, đến thời Đông Hán còn có “quận tam lão”, và “quốc tam lão”…</p><p>[5]Cỗ thái lao: Cỗ hiến sinh dùng thịt của ba loài vật là: ngưu (bò), dương (dê), thỉ (lợn).</p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">Nguồn: VHNA</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 36075, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]2. Ngụy thiện [/COLOR][/B] Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán hình thành từ trước, nhất là từ đời Tần nhưng từ đời Hán về sau mới thành xu hướng ổn định. Chủ nghĩa bành trướng từ Hán về sau – tức là sau khi tìm ra phương hướng Nho Pháp tịnh dụng - không trắng trợn như đời Tần. Khi chinh phạt các nước láng giềng bao giờ cũng là “lễ tiền binh hậu”, bao giờ hoàng đế cũng tuyên xưng không có tham vọng đất đai và thần dân, thậm chí còn dè bĩu “đất cằn cỗi”, “dân khó bảo”, hoàng đế không thèm; chinh phạt chẳng qua là bất đắc dĩ vì đạo lý, vì mục đích giáo hoá, vì mục đích cứu vớt. Lừa dối ngụy thiện thành một nét đặc trưng. Cướp phá, chém giết, phá hoại văn hoá, đồng hoá đó là một chính sách bành trướng rất tàn bạo. Nhưng sự tàn bạo bao giờ cũng được nguỵ trang bằng những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Trơ tráo nhất là tấm lòng từ thiện chỉ muốn “kẻ có tội” hối hận, đầu hàng ngay để khỏi phải dùng đến khí giới vì hoàng đế vốn nhân ái không nỡ nhìn thấy cảnh tàn phá giết chóc. Chế độ chuyên chế vốn yếu. Sự tồn tại của nó về bản chất là dựa vào sự lừa dối, dựa vào thủ đoạn thâm hiểm. Càng yếu lại càng mong dùng cách đe doạ, sự lừa dối ngụy thiện mà thắng người. [B][COLOR="Blue"]3. Trọng danh hơn thực [/COLOR][/B] Bắt thêm một nước thần phục không phải bao giờ cũng mang lại lợi ích thực tế cho thiên triều. Ta không nói đến nhân dân hai nước hoàn toàn bị thiệt hại nặng khi có chiến tranh xâm lược như vậy. Ngay cả với hoàng đế Trung Quốc, chiến tranh làm tốn công tốn của, lại làm mạnh lên thế lực của võ tướng, quý tộc, và khi chiến thắng, không trực tiếp quản lý khai thác được đất đai nên cũng chỉ thu được món tuế cống không phải là nhiều. Nhiều khi hoàng đế chỉ thu được cái danh suông: Được một nước chịu tiếng là bề tôi thiên triều. Thế nhưng vì là thiên triều, hoàng đế Trung Quốc không chấp nhận ai đứng ngang hàng. Thiên tử có thái độ kẻ cả không chỉ với các nước như Lào, Thái Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên, Hung Nô, những nước láng giềng, về danh nghĩa, phải tự nhận là phiên bang, thiên triều từ xưa theo lệ phong vương, đối xử như chư hầu; tuy một số trong đó đã nhiều phen đánh cho thiên triều thua liểng xiểng. Ngay cả các nước phương Tây như Anh, Pháp, ngay từ khi mới tiếp xúc đã đánh bại, đã làm nhục thiên triều bao chuyến, lại chưa bao giờ là chư hầu cũng chỉ được thiên tử coi là Tổng đốc nước Anh, Tổng đốc nước Pháp và công khai đối xử như di địch. Thiên triều không bao giờ chịu cảnh bị khinh thường đến mức để các nước láng giềng độc lập, không nghe theo mệnh lệnh của mình. Để buộc các nước đó chịu phận đàn em, có khi thiên triều sẵn sàng làm ông anh đối xử rộng rãi, biết quà cáp cho em – những ông em bất trị – khá hậu hĩnh. Trường hợp nhà Tống đối với Khiết đan, nhà Thanh đối với vua Quang Trung là như vậy. Chịu nhận là đàn em thì đâu có ngỗ nghịch hay vòi vĩnh một chút thiên triều cũng ngơ cho. Chế độ chuyên chế đó sống bằng uy tín chính trị. Nó xâm lược để bảo vệ danh hơn là giành lợi thực. Thói quen muốn làm bề trên cũng dẫn đến sự quan tâm, suy tính về danh nghĩa hơn là tính toán thực tế. Điều đó cũng thường thành nguyên nhân gây ra hành động phiêu lưu. Đáng ngạc nhiên không phải là xu hướng bành trướng ở giai cấp thống trị ở một nước rộng lớn như Trung Quốc mà đáng ngạc nhiên là tâm lý bành trướng có cả trong nhân dân Trung Quốc. Bành trướng Đại Hán là dựa vào thiên chức thiên tử chứ không phải dựa vào sự ưu việt của dân tộc. Vì thánh đức của thiên tử chứ không phải vì vinh quang của dân tộc. Người dân Trung Quốc sống dưới chế độ chuyên chế, trong tổ chức xã hội quân sự hóa, có cuộc sống thấp kém nhất, nghèo đói, ngu dốt và vô quyền. Có chiến tranh lại phải làm thêm nghĩa vụ đi phu nộp thuế, đi lính, mang thêm chết chóc và nghèo đói. Sống lâu đời trong cảnh bi đát đó, họ trở thành cần cù, chịu khó đến nhẫn nhục, lầm lỳ, cam chịu. Thế nhưng không phải họ bất bình vì bị lôi kéo vào chiến tranh xâm lược mà nhiều khi lại có tâm lý say sưa chia sẻ cái hống hách, kẻ cả của chính kẻ áp bức mình. Tâm lý lạ lùng đó tồn tại cả trong những người Hoa Kiều vì bị áp bức bóc lột làm cho phá sản phải bỏ quê hương lưu lạc, kiếm ăn ở tận nước khác bằng những nghề hèn mọn như bán thuốc, bán phở… Cái thân phận thần dân tử đệ, cái liên minh tự nhiên lâu đời giữa hoàng đế và dân chống các lực lượng phân tán, đạo lý sống trung nghĩa đã che lấp quan hệ thực giữa vua và dân. Không gọi là nô lệ mà gọi là xích tử, cũng như không gọi là đầy tớ mà gọi là gia nhân (người nhà). Họ thấy mình dự phần cao sang của ông chủ, thậm chí vì thế mà khoe khoang tự hào còn mong cả lợi dụng uy thế, danh nghĩa của ông chủ để ra oai, bắt nạt đàn em. Xâm lược, bành trướng vốn gắn liền với chuyên chế, với điều kiện quốc gia thống nhất rộng lớn. Tư tưởng Pháp gia đầu tiên tạo ra cục diện đó nhưng nó không có khả năng giữ chuyên chế và thống nhất được lâu dài. Sự kết hợp Nho Pháp mới duy trì được những cái đó, có khi là mong manh, có khi chỉ là hình thức nhưng dai dẳng, khó phá vỡ. Tư tưởng Pháp gia làm cho tính hiếu chiến lộ rõ tàn bạo. Sự kết hợp Nho Pháp mới làm cho nó có bộ mặt giả dối để đánh lừa. Kết hợp Nho Pháp mới là cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa bành trướng và điều đó được xác lập từ đời Hán. Sự kết hợp lạ lùng giữa hai hệ tư tưởng đối lập như vậy phản ảnh sự kết hợp cũng rất lạ lùng giữa sự tập trung chuyên chế với sự phân tán của làng xã, sự kết hợp lạ lùng giữa tên độc tài là hoàng đế với người dân cùng khổ vô quyền. Sự kết hợp như thế tồn tại trên cơ sở liên minh giữa hai lực lượng đều yêu cầu chống lại sự uy hiếp của lực lượng thứ ba: quý tộc và thổ hào theo xu thế tự nhiên tự nhiên hướng đến chế độ lãnh chúa. Sự kết hợp đó tạo ra một thế giằng co lâu dài. Ổn định thống nhất chỉ là bề ngoài, chỉ là khéo che đậy, nhưng mâu thuẫn sâu sắc. Nhưng hợp chất nào cũng có khe hở, có khả năng bị phá vỡ liên kết. Đó chính là chỗ cần phát hiện, khai thác để phá vỡ sự chuyên chế và chủ nghĩa bành trướng. [B][COLOR="Blue"] III. Đề cao tinh thần Pháp gia để hiện đại hóa quá khứ và hiện tại [/COLOR][/B] Nho gia và Pháp gia là hai anh em, con đẻ của chế độ chuyên chế Trung Quốc. Tuy cả hai đều được hoàng đế cưng chiều, tịnh dụng mỗi bên một cách, nhưng giống như cảnh con cái tranh quyền đoạt lợi trong nhiều nhà, hai anh em Nho Pháp xung khắc gay gắt. Mở đầu xung đột là thời kỳ Chiến Quốc đến Tần Hán. Cuộc tranh luận trùng với thời điểm vương chế Ân Chu nhường chỗ cho chế độ hoàng đế Tần Hán. Hoàng đế Tần Hán nối tiếp nhau giành được thiên hạ. Sau khi đế chế thành lập vấn đề đặt ra cho nó là giữ vững sự thống nhất thiên hạ, củng cố và phát triển uy quyền hoàng đế, tức là củng cố chế độ chuyên chế và tiếp tục bành trướng. Tranh luận Nho Pháp biểu hiện sự lựa chọn một ý thức hệ thích hợp với nhu cầu đó của đế chế. Bách gia tranh minh kết thúc ở kết luận Nho Pháp tịnh dụng của Hán Võ đế. Tịnh dụng không phải để bất phân thắng phụ, dung hòa, chấp nhận nhau mà là Nho gia được tuyên bố độc tôn, công khai thống trị, còn Pháp gia thành học thuyết ngự dụng, bí truyền. Thực chất nội dung tranh chấp là độc tài tuyệt đối hay là nhân nhượng một mức độ nhất định với làng xã, ưu đãi, tin cậy, đối xử có lễ độ chứ không phải khinh miệt, nô dịch quan lại và đẳng cấp sĩ, nói tóm lại là làm thế nào bảo vệ chế độ chuyên chế có hiệu quả hơn. Từ khi đế chế kiểu nhà Hán ổn định, Nho gia trở thành học thuyết thống trị, Pháp gia tuy là đồ ngự dụng, nhưng bên ngoài ở vào cảnh tội phạm, thành cái đích cho các nhà nho suốt hai mươi thế kỉ công kích mạt sát mà không bao giờ phản kích lại. Cho đến sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, năm 1957 một phong trào mang tên: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” làm sống dậy không khí học thuật thời Chiến Quốc. Khắp nơi tranh luận về rất nhiều vấn đề chính trị và học thuật - theo cách nhìn của những người theo Mao thì học thuật cũng là chính trị. Tiếp theo đó là phong trào chống phái hữu, cũng tức là trừng trị những người đã đua tiếng, khác với giọng chính thống. Rồi phong trào chống xét lại, và hơn mười năm sau, sau đại cách mạng văn hóa vô sản, vấn đề Nho Pháp nổi bật lên. Trong chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” những kẻ thù của Mao được gán cho cái nhãn hiệu là Nho, với tội trạng là âm mưu phục hồi chủ nghĩa tư bản, là bảo thủ, là phản cách mạng. Ngày xưa cuộc tranh luận Nho Pháp không chỉ tốn nhiều thì giờ, nhiều nước bọt, nhiều thẻ tre mà còn tốn khá nhiều máu. Tần Thủy Hoàng theo đề nghị của Pháp gia đã “đốt sách chôn Nho”. Pháp lệnh thi hành triệt để, có hiệu quả đến mức mấy chục năm sau khó khăn lắm nhà Hán mới tìm được người còn nhớ, đọc cho chép lại các kinh điển Nho gia. Còn ở Trung Quốc ngày nay, những người bị phe Mao ghép tội theo Nho bị đấu tố, bị đưa đi cải tạo và bị tiêu diệt. Con số người bị nạn gấp hàng trăm lần thời Tần Thủy Hoàng nhưng Mao Trạch Đông cho thế vẫn còn là ít. Tôi muốn nhấn mạnh sự giống nhau giữa hai hoàn cảnh đặt vấn đề và cũng giống nhau trong nội dung vấn đề tranh luận nữa. Đặc điểm của lịch sử Trung Quốc là những thời đại lịch sử kéo rất dài thường là nhân tuần, thay đổi dần, không có đột biến cách mạng. Thời Tần Hán và thời cận hiện đại là hai thời điểm có chuyển biến mạnh nhất. Ở hai thời điểm đó rõ ràng xuất hiện nhu cầu tổng kết quá khứ, tìm đường đi cho lịch sử hướng đến tương lai. Trước kia trên cơ sở tồn tại khách quan của làng họ và cục diện thống nhất, thời Tần Hán đã phải giải quyết quan hệ giữa tập trung và phân tán theo hướng nhân nhượng làng-họ, duy trì tàn dư công xã để chống lại xu hướng lãnh chúa, hàng ngày dễ nảy nở trực tiếp uy hiếp sự tập trung chuyên chế của hoàng đế và nuôi dưỡng xu hướng bành trướng, mở rộng thiên hạ do chế độ chuyên chế đẻ ra. Cách giải quyết của Hán Võ đế đã thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi triều đại từ nhà Hán đến nhà Thanh. Cuối đời Thanh mâu thuẫn xã hội đã cực kỳ trầm trọng. Mâu thuẫn dân tộc Hán-Mãn, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các đế quốc phương Tây lại càng làm cho tình hình càng rối loạn hơn. Sự thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Thắng lợi của Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1949 đã giải quyết cùng một lúc các mâu thuẫn do lịch sử để lại. Trong sự hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiếp tục nhiệm vụ bỏ dở của phong trào nông dân Thái Bình Thiên Quốc, nhiệm vụ bỏ dở của phong trào dân tộc chống đế quốc. Từ Vạn lí Trường chinh, theo sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã học tập và phát triển kinh nghiệm khởi nghĩa xây dựng căn cứ và tiến hành chiến tranh nông dân, huy động và tổ chức quân chủ lực là nông dân để giải quyết các vấn đề đó. Về sau khi thắng lợi, vấn để đặt ra là tìm con đường cụ thể xây dựng đất nước hướng đến tương lai. Cứ nhìn những vấn đề được đem ra thảo luận và các phong trào được phát động, ta cũng có thể thấy được nội dung phương hướng được lựa chọn là gì. Sau khi tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp và phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, tam phản, ngũ phản, chống phái hữu, đại nhảy vọt, toàn dân làm gang thép, xây dựng công xã, đại cách mạng văn hóa vô sản, bốn hiện đại hóa với các chủ trương học tập Lôi Phong, hạ phóng, xây dựng công xã kiểu Đại Trại, xí nghiệp kiểu Đại Khánh và các cuộc tranh luận về quan hệ sản xuất, về vô sản chuyên chính, về “một phân đôi”, về chống dùng vật chất kích thích… Quán xuyến tất cả là việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông. Việc tranh luận Nho - Pháp được đặt ra trong bối cảnh như vậy, và hướng giải quyết của nó, theo tinh thần “cổ vi kim dụng”, có ý nghĩa nhìn lại quá khứ, lựa chọn một giải pháp cho tương lai. Nội dung của tất cả những việc vừa kể trên chỉ là: • Tăng cường chuyên chế đến mức tập trung tất cả quyền hành vào chỉ một người; hạn chế đến tiêu diệt mọi thế lực đối lập dẫu là cá nhân, tổ chức quần chúng, tổ chức Đảng hay thể chế của nhà nước… • Tổ chức công xã thành đơn vị cơ sở phổ biến; cải tạo xí nghiệp, trường học – các tổ chức có tính chất thành thị - theo mẫu công xã, nhất thể hóa thành xã hội quân sự hóa, một thứ xã hội canh chiến. • Cải tạo mọi tầng lớp thành nông dân. Các loại dân thành thị dầu là tư sản, trí thức hay là công nhân công nghiệp đều phải học tập nông dân, học tập quân đội, học tập “giáo sư chân đất”, lấy bần cố nông làm thầy, biến tất cả thành những người giống như nông dân, gắn bó với công xã, tuyệt đối cảm ơn, sùng tín, nghe lệnh lãnh tụ, hết sức lao động, thắt lưng buộc bụng hy sinh cho nhà nước chuyên chế. • Cả nước võ trang, toàn dân luyện tập quân sự, mọi sinh hoạt quân sự hóa. Cả nước thành một trại lính chuẩn bị chiến tranh. Đề cao Pháp gia thực chất là tăng cường chuyên chế và phát triển chủ nghĩa bành trướng. Nông dân khởi nghĩa đã thắng lợi. Đại ca đã lên ngôi hoàng đế. Rút kinh nghiệm “chính quyền từ mũi súng”, đại ca muốn dùng mũi súng trong tay nông dân mà mở rộng chính quyền của hoàng đế ra cả thiên hạ. Và thiên hạ vào thời hiện đại, với tri thức địa lý đã mở rộng, ngũ phục đã lan đến năm châu bốn bể, nếu không phải là rộng hơn. Những người theo Mao nói tìm ra ở Pháp gia tinh thần cách mạng, tức là không nửa đường dừng bước, không thủ cựu, dám nghĩ dám làm, dám thay đổi. Đó chỉ là giả nhân, giả nghĩa theo thủ đoạn “ngoại Nho” của hoàng đế mà thôi. Còn phần “nội Pháp” thì họ muốn tìm ở đó tinh thần cực quyền, tinh thần vũ lực, hiếu chiến và coi dân là công cụ. Không phải chỉ có đối với tư tưởng Pháp gia, cả đối với tư tưởng Mác-Lênin, Mao Trách Đông cũng chẳng phải chỉ tìm ở đó lý thuyết mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp, vô sản chuyên chính và quan hệ sản xuất (tập thể hóa, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất) đó sao? Cái họ thích ở chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản không phải là lý luận xây dựng xã hội tiền tiến, tự do, hạnh phúc, dân chủ, nhân đạo cao, mà chỉ là phương pháp củng cố được chuyên chính hiệu quả hơn, thu sản phẩm lao động của dân được dễ dàng hơn và được nhiều hơn để chuẩn bị chiến tranh làm cho Trung Quốc thành siêu cường. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng được biểu đạt bằng những thuật ngữ Mácxít như mâu thuẫn, biện chứng pháp, đấu tranh giai cấp… nhưng không phải dựa vào một cơ sở khoa học, một phương pháp luận khoa học nào mà là lựa chọn, lấy bỏ trong tất cả mớ lý luận hỗn tạp xưa và nay, đông và tây theo một lập trường, đúng những quan điểm củng cố chuyên chế (với nhãn hiệu vô sản chuyên chính) và phát triển bành trướng (với nhãn hiệu làm cách mạng thế giới). Rõ ràng một xu hướng phục tích nhưng không phải phục tích tư bản chủ nghĩa. Sau cách mạng thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã tiến hành nhiều hoạt động cải tạo và xây dựng với tốc độ đáng phấn khởi. Những hoạt động đó có ý nghĩa cách mạng, có lợi cho nhân dân Trung Quốc và chuẩn bị điều kiện cho Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh và cũng là kết quả đã thu được là làm hình thành quan hệ sản xuất mới. Thế nhưng sự thay đổi đó, tự thân nó, trong điều kiện của nền sản xuất thấp kém và trình độ văn hóa và xã hội lạc hậu của Trung Quốc chỉ đang là đứng trước ngã ba đường: Trung Quốc có khả năng phát triển lên chủ nghĩa xã hội, cũng có khả năng hướng sang chủ nghĩa tư bản hay nằm ỳ ở phong kiến. Cả một nông thôn bao la với số nông dân khổng lồ đang nằm trong tình trạng lạc hậu đe dọa níu sự phát triển lại. Mặt khác, ở một số điểm, những cải cách nói trên lại làm cho xã hội Trung Quốc giống chế độ chuyên chế xưa hơn. Trong quan hệ sản xuất mới, tư liệu sản xuất được tập thể hóa, quốc hữu hóa, người ta thấy gắn với chế độ vương hữu hơn chế độ tư hữu tư sản. Người nông dân thấy ở việc tập thể hóa nông nghiệp hình ảnh chế độ công điền, hợp với lí tưởng quân bình mà họ ôm ấp xưa nay. Trong một xã hội công nông binh mà các tổ chức phi nông thôn cũng đều công xã hóa, như Mao Trạch Đông đã muốn làm triệt để như vậy, người dân sẽ thấy mình sống trong làng xã phổ biến hơn, rất hợp với tư tưởng ghét thành thị, ghét tư sản, ghét trí thức, ghét mọi cái xa lạ họ. Về mặt chính quyền, cũng lại là bộ máy quan liêu, đội quân thường trực và trên cùng cũng lại là một người cầm lái vĩ đại, anh minh, thần thánh, chẳng khác thiên tử. Do đặc điểm lịch sử, kinh tế và xã hội của Trung Quốc, chủ nghĩa tư bản tuy đã phát triển nhưng chỉ tập trung ở vùng ven biển và các thành phố lớn. Quan hệ tư sản chưa thành phổ biến để sự phục tích hướng vào đó. Mao đã xây dựng chính quyền mới không khác sau các cuộc khởi nghĩa nông dân thắng lợi xưa kia: những người có mặt ở tụ nghĩa đường chia nhau cầm quyền thiên hạ trong đó đại ca lên ngôi hoàng đế. Mao đã lập một tân trào cũng có hai ban văn võ (phái quân sự, phái hành chánh) cũng có xung đột phe phái, xung khắc giữa địa phương và trung ương và cuối cùng lại xuất hiện cả thái tử và hoàng hậu nữa. Cho nên nếu như đối với các nước láng giềng tân trào này có nảy ra tham vọng thiên triều thì cũng chỉ là việc tự nhiên: ngựa đi theo đường cũ. Người nông dân được cách mạng giải phóng lại tiếp tục sống trong một môi trường đã được cải tạo thành ra quen thuộc, tư tưởng lại không được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa chân chính. Họ được lãnh tụ đưa lại ruộng đất giúp họ trả thù phú nông, địa chủ, hàng ngàn đời áp bức bóc lột và làm nhục họ, lại đưa họ lên làm gương, làm mẫu, làm thầy để cải tạo dân thành thị là những người họ vẫn kỳ thị, thỏa mãn được lòng ghét kẻ giầu sang, ghét trí thức, trả thù cái thành thị vừa phức tạp vừa kiêu hãnh khó hiểu. Với cuộc sống cô lập vì cột chặt vào công xã, với thói quen sống đói rách, ít đòi hỏi tự do, hạnh phúc, văn hóa, họ dễ thỏa mãn và cam chịu. Thỏa mãn vì những cái họ có được hưởng, thỏa mãn vì ơn nghĩa, thỏa mãn vì ít đòi hỏi. Họ chỉ phải lao động nhiều, đóng góp nhiều, bị ràng buộc hơn, nhưng những cái đó đối với họ cũng đã thành quen. Trước cách mạng họ còn khổ hơn. Họ sẵn sàng tin tưởng ở lãnh tụ, cũng do thói quen của nông dân, từ lâu đã được đồng nhất với Thánh nhân: nhân ái, sáng suốt và linh thiêng. Giữa một bên là Hoàng đế và một bên là lê dân - xích tử, những người được đưa vào bộ máy Đảng, chính quyền, quân đội cũng đã có sẵn những mẫu mực, những con đường để bước theo: quan, lại, thổ hào, quân phiệt và kẻ sĩ. Trong tình hình thực tế đã đi đến như vậy, thật không có gì lạ lùng vấn đề con đường phát triển được đưa ra bàn lại, xuất hiện dưới dạng tranh luận Nho - Pháp. Con đường Mao Trạch Đông lựa chọn đã đưa Trung Quốc quay lại với các triều đại phong kiến, nhưng Mao thiết tha muốn Trung Quốc thành một cường quốc của thế giới hiện đại, dè bỉu sự nghiệp tầm thường của Tần Thủy Hoàng, Hán Võ đế, Đường Thái Tông. Những người chống Mao, bị Mao coi là Nho cũng vậy. Họ có thừa nhiệt tình, quyết tâm, không ngại san bằng mọi trở lực và học được không ít những kinh nghiệm thế giới trong vấn đề hiện đại hóa. Nhắm mục đích đó những nhà lãnh đạo Bắc Kinh đã cố gắng giải quyết vấn đề vốn, vấn đề kỹ thuật, vấn đề chuyên gia, không ngần ngại dùng cả những biện pháp phản động, nhục nhã như bắt tay với các nước đế quốc, quan hệ với các chế độ phản động để đạt mục đích. Quan niệm một nước hiện đại, cường quốc hiện đại của họ là có nền công nghiệp hiện đại, có nền nông nghiệp hiện đại, có nền kỹ thuật hiện đại, có nền quốc phòng hiện đại - bốn cái hiện đại theo thứ tự này hay thứ tự khác. Nói cách khác bốn hiện đại cũng là phú cường, phú cường dựa trên sản xuất hiện đại, với khoa học kỹ thuật hiện đại. Nước Trung Hoa phú cường hiện đại mà họ định xây dựng cũng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, và tính đến sự sốt ruột đại nhảy vọt của Mao Trạch Đông của những năm 50 thì còn muốn nó là cộng sản chủ nghĩa trước cả Liên Xô nữa. Có lẽ cũng không nên nghĩ rằng họ nói như vậy hoàn toàn chỉ là để lừa dối. Nhưng có phần chắc là chưa bao giờ những người lãnh đạo Bắc Kinh cả Mao và những người kế tục Mao, hiểu đúng thực chất xã hội xã hội chủ nghĩa cả. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa của Mao chưa bao giờ quan tâm đến chủ nghĩa nhân đạo, đến chủ nghĩa dân chủ, đến tự do hạnh phúc của con người, đến nền văn hoá phát triển, đến lợi ích quốc tế, lợi ích các dân tộc bình đẳng. Thiếu một cơ chế xã hội dân chủ, một nền văn hóa nhân đạo chủ nghĩa, một cường quốc hiện đại như vậy – dẫu có thực hiện được - cũng chưa thể coi là dân chủ chứ chưa nói đến xã hội chủ nghĩa hay cộng sản. Việc đề cao tinh thần Pháp gia của những người lãnh đạo Bắc Kinh cho ta thấy khuynh hướng hạn chế thêm nữa những quyền dân chủ đã quá ít ỏi, bóp nghẹt hơn nữa những đòi hỏi nhân đạo chủ nghĩa vốn đã quá nghèo nàn trong xã hội Trung Quốc. Cho nên nếu có giải quyết được mọi vấn đề mà họ đặt ra để thực hiện được bốn hiện đại hóa thì nước Trung Hoa đó đi theo hướng chuyên chế và bành trướng, tức là phát xít hóa. Lịch sử thật là bướng bỉnh. Hơn hai mươi thế kỉ đã trôi qua mà khi giải quyết phương hướng cho tương lai thực tế lại quay lại vấn đề Nho hay Pháp, và cũng có thể cả Nho, Pháp, Đạo - một cái thế chân vạc vững vàng xưa nay trong lịch sử Trung Quốc. Sự luẩn quẩn như vậy bắt chúng ta phải nghĩ đến một cái gì đó thuộc về phần sâu xa nhất trong quy luật phát triển của xã hội Trung Quốc, của lịch sử Trung Quốc, chi phối lâu dài sự phát triển của Trung Quốc. Có thể rồi đây vấn đề Nho Pháp không đặt ra một cách lố bịch như phong trào “phê Lâm phê Khổng” nữa. Mao Trạch Đông và tư tưởng Mao Trạch Đông cũng có thể bị lên án, đem ra phê phán kịch liệt. Nước Trung Hoa có thể thành cường quốc hiện đại. Nhưng cường quốc hiện đại, để theo hướng phát xít đó, có tránh khỏi những nét rất Tầu? Và để đối phó với cái hiểm họa mà nó sẽ gây ra cho cả loài người, và trước tiên cho nước Việt Nam, không may quá gần gũi lại án ngữ ngay cửa ngõ bành trướng của họ, mọi người nên tìm trong bộ mặt hiện đại của nó cái bản chất mang dấu ấn sâu sắc của quá khứ? [B][COLOR="Blue"]Kết luận [/COLOR][/B] Giữa một thời đại mà tất cả các dòng thác cách mạng đang đổ về một hướng, lôi kéo mọi thế lực không cưỡng lại được, thì con đường Trung Quốc thật độc đáo. Mọi người hướng về dân chủ thì Trung Quốc tăng cường chuyên chế, mọi người tìm kiếm hòa bình thì Trung Quốc gây chiến, mọi người đổ xô vào kinh tế, khoa học kỹ thuật thì Trung Quốc dốc sức vào chiến tranh, mọi người đang hướng vào tương lai tìm lời giải đáp thì Trung Quốc quay về quá khứ. Trong hoạt động quân sự Mao Trạch Đông muốn chọn một cách đi độc đáo, hơn thế lại muốn cả thế giới coi đó là duy nhất đúng, muốn cả thế giới đi theo con đường của mình. Kết quả là dẫn Trung Quốc đến một chế độ quân sự hóa cực tàn bạo, một chủ nghĩa bành trướng thật phiêu lưu, tàn bạo, phiêu lưu đặc biệt Tầu. Quá khứ đang định hướng sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Dân tộc Trung Hoa có một nền văn minh lâu đời một quá khứ vĩ đại. Nó làm vinh quang cho cả dân tộc. Thế nhưng nó cũng là cây cổ thụ thân to, gốc bền, rễ và cành của nó trùm lên cả thời hiện tại; nó cũng là một gánh nặng cho sự phát triển của Trung Quốc hiện đại. Đối với mọi người suy nghĩ lành mạnh con đường của Mao, cách làm, cách nghĩ của những người theo Mao thật phi lí, khó hiểu, tưởng như không thể nào có thực. Nhiều người vì vậy trong một thời gian dài đã không tin có thể là như vậy. Thế nhưng đó lại là thực tế kéo được hàng mấy trăm triệu con người đi theo, ngày nay thành một sức mạnh hung bạo chống cách mạng. Không tìm được bản chất của hiện tượng đó thì không cải tạo được nó, không giải được cái lí của cái phi lí thì không làm chủ khắc phục được nó. Rõ ràng là không thể bỏ qua cái đặc thù của Trung Quốc, tất nhiên làm vậy không phải theo hướng cường điệu cái đặc thù để đối lập đi đến phủ nhận cái phổ biến, phủ nhận quy luật chung của lịch sử loài người, phủ nhận tính chân lý của chủ nghĩa Mác và kinh nghiệm của phong trào công nhân các nước, biện hộ cho những mưu mô xảo trá, dựa vào tính đặc thù để biện hộ con đường dân tộc chủ nghĩa tư sản. Tìm hiểu nét đặc thù Trung Quốc chỉ là để, và nhất định sẽ giúp ta, hiểu cái phổ biến cụ thể hơn, hành động có kết quả hơn. Vấn đề Nho Pháp là một chứng tích cho ta đi tìm cái đặc thù như vậy. Tôi đã không bàn nội dung và giá trị của hai học thuyết đó, không bàn chiến dịch “phê Lâm phê Khổng” mà chỉ nhấn mạnh cách đặt vấn đề và hướng giải quyết vấn đề như vậy có ý nghĩa lịch sử bộc lộ một cái gì cố hữu rất quen thuộc của Trung Quốc. Lịch sử lâu dài đã rèn luyện cho giai cấp thống trị từ vua, quan, quân phiệt, thổ hào đến nha lại những thủ đoạn, những thói quen, những lý thuyết để thống trị. Tư tưởng Nho gia và Pháp gia, biện pháp Nho pháp tịnh dụng chính là tổng kết lý luận của nhóm thống trị cao nhất. Hướng tịnh dụng Nho và Pháp đã cung cấp cho các thế hệ người cầm quyền trong lịch sử cho đến cả ngày nay hướng để sắp xếp, xử lí với các lực lượng, cách quan niệm chức trách, làm hình thành những mưu đồ, những tham vọng, những cách đối phó với thực tế. Theo dấu vết đó ta có thể tìm được cái tham, cái phi lý, cái thâm hiểm đang chi phối cách tính toán của những người theo chủ nghĩa bành trướng đại Hán hiện tại. Nhưng lịch sử cũng lại rèn luyện cho nhân dân sống dưới ách thống trị như vậy những mánh khóe để đối phó với các biện pháp thống trị trên. Cách đối phó thường là “dùng gậy ông đập lưng ông”. Ở đây hầu như chỉ thấy Nho mà không thấy Pháp. Nhưng không nên quan niệm Nho và Pháp hoàn toàn đối lập, cô lập, không nên quan niệm chỉ có bộ hai Nho Pháp. Đằng sau hệ tư tưởng còn có một cơ sơ kinh tế - xã hội, một cơ chế chính trị xã hội còn có sức tác động mạnh hơn là hệ tư tưởng, là tàn dư của hệ tư tưởng. Tìm hiểu những điều đó và sự tương ứng giữa những cái đó, chúng tôi nghĩ có thể cung cấp được những dữ kiện khoa học giúp ta hiểu xu hướng của nước Trung Hoa ngày nay, góp phần vào việc tìm hướng đối phó bằng hành động thực tế chống nguy cơ bành trướng Đại Hán. [I][RIGHT]Huế 07/05/1979[/RIGHT][/I] ________________________________________ [1]Trong bản gốc, tác giả đánh máy là “tĩnh dụng”. Thực ra từ này đọc là “tịnh dụng” hoặc “tính dụng” nghĩa là “kiêm dùng” hoặc “cùng dùng”. Theo chúng tôi, từ này tác giả phát âm theo lối xứ Nghệ, vì vậy chúng tôi mạo muội sửa lại cho đúng âm đọc. Gs Nguyễn Tài Cẩn cũng xác định như vậy (Tất cả các chú thích đều của người đánh máy.) [2]Chiến tranh “kiêm tính”: Chữ dùng của Mặc Tử trong thiên “Thiên chí hạ”, để chỉ việc chiến tranh thôn tính đất đai [3]Kha lão: Từ để tôn xưng những người cao tuổi tôn quý ở trong làng xã [4]Tam lão: Thời xưa mỗi làng cử ra một người từ 50 tuổi trở lên có đức hạnh, nắm giữ việc giáo hóa dân chúng ở trong làng gọi là “tam lão”. Như nước Ngụy thời Chiến Quốc có “tam lão”, nước Tần thì đặt ra chức “hương tam lão”, đến đời Hán thì lại thêm “huyện tam lão”, đến thời Đông Hán còn có “quận tam lão”, và “quốc tam lão”… [5]Cỗ thái lao: Cỗ hiến sinh dùng thịt của ba loài vật là: ngưu (bò), dương (dê), thỉ (lợn). [B][I][RIGHT]Nguồn: VHNA[/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
SỐNG ĐẸP
Nho pháp tịnh dụng và con đường bành trướng của thiên triều (Trần Đình Hượu)
Top