Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Nho giáo trong lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 33222" data-attributes="member: 7"><p>3. Lịch sử từ thế kỉ XV càng nói lên điều đó: một con người Việt Nam nhất trong những con người Việt Nam là Nguyễn Trãi đã từng nếm mật nằm gai trong cuộc chiến đấu vĩ đại của nhân dân, của dân tộc, đã áo vải hài gai, chân đất, sống làm đứa lê dân, nói tiếng nói mộc mạc của nhân dân, con người Việt Nam ấy cũng chính là con người đầu tiên thất vọng với chế độ phong kiến và Nho giáo mà mình đã từng tin tưởng dấn thân vào xây dựng nền móng cho nó. “Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng” vì quyền sống của dân tộc, của con người Việt Nam chân chính mà miệng vẫn nói: <em>Bụi có một lòng trung với hiện</em></p><p><em>Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen!</em></p><p>Ôi! Lí tính và nghĩa vụ cơ hồ như chỉ còn lại ở ngôn từ Nho giáo nữa mà thôi. Còn tình cảm thì cơ hồ như đã là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa của nhân dân rồi. Bi kịch Nguyễn Trãi mở đầu cho một cuộc đấu tranh có tính chất dân chủ và nhân đạo chống lại chế độ phong kiến nếu không toàn bộ thì cũng là trên những mặt tinh thần chủ yếu nhất của nó. Như mọi người đều biết, từ thế kỉ XV, Nho giáo muốn độc tôn về chính trị, văn hóa, học thuật, giáo dục và cả văn nghệ nữa, trên cơ sở sự phát triển tột độ của chế độ quân chủ tập trung, nhưng cũng chính từ đó lại bắt đầu thời kỳ xuống dốc của chế độ phong kiến và của cả Nho học. Cả hai như hình với bóng này, đều bộc lộ tính chất bảo thủ, giáo điều hình thức và tàn nhẫn của nó.</p><p></p><p> Cuộc đấu tranh của nhân dân bằng vũ khí và vũ khí phê bình bằng văn hóa dân gian và văn học nôm bình dân suốt trong ba thế kỉ liền đã đưa đến một cuộc phê phán toàn diện các tôn giáo trong đó có Nho học. Nho giáo đã bị đánh từ những nguyên lí đạo đức cơ bản của nó: <em>- Phép vua thua lệ làng</em></p><p><em>- Được làm vua, thua làm giặc</em></p><p><em>-Con hơn cha nhà có phúc</em></p><p><em>-Tre già măng mọc</em></p><p><em>-Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn</em></p><p><em>- Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.</em></p><p>Mục tiêu đánh vào triều đình, đánh vào quan lại, địa chủ cường hào, đả kích chế độ phụ quyền, phê phán lễ giáo phong kiến ở trong đời sống thực tiễn cũng như ở trong văn hóa, văn học nghệ thuật, ca, hò, vè, truyện cười, truyện thơ nôm, họa và điêu khắc gỗ dân gian và đặc biệt là sân khấu dân gian ở khắp mọi vùng, ở kinh kì Thăng Long... là mục tiêu của một phong trào bình dân rộng rãi bao gồm chủ yếu là nông dân rồi đến thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, dân nghèo kẻ chợ và cả những trí thức bình dân thết thế... mà cao điểm nhất là vào thế kỉ XVIII với cuộc cách mạng Tây Sơn, phong trào này nhằm bảo vệ những tình cảm cộng đồng tự nhiên, chủ nghĩa nhân đạo bình dân và triết lý thực tiễn lao động... Các yếu tố văn hóa dân gian này bị hủy hoại ở ngay trong làng xóm, tức là ở công xã nông thôn. Công xã này cũng đã bị phân hóa bởi chính sách ruộng đất và chế độ địa chủ mới của bọn phong kiến Lê - Trịnh ở ngoài Bắc và Nguyễn ở trong Nam; công xã đó không còn tương đối thanh bình như dưới thời Lí - Trần nữa. Đó là cốt lõi của tư tưởng dân chủ và nhân đạo Việt Nam cận đại, đã từng vượt qua được một cách lạc quan và dũng cảm những bước tấn công bằng vũ khí (“dẹp loạn”, “dẹp giặc”) hay bằng văn hóa (“bài trừ tà đạo, dâm từ, ngụy văn, xướng ca vô loài...”) và đang có cơ hội trở thành chủ đạo trong thực tiễn với sự thắng lợi của cách mạng Tây Sơn, đóng góp rất lớn vào việc kết thúc chế độ phong kiến phản động và thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc.</p><p></p><p> Nhưng vì không có một giai cấp tiên tiến đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến, nên cuộc đấu tranh văn hóa đã không triệt để như chính cuộc cách mạng Tây Sơn vậy. Người bình dân Việt Nam, chủ yếu là nông dân cuối cùng vẫn bất lực trong việc xây dựng cho mình một hệ ý thức mới, một lí luận mới, một nền văn hóa mới. Rút cuộc họ vẫn không thoát ra khỏi được cái khung phong kiến; và cái đỉnh cao nhất của họ cũng chỉ là lý tưởng người hiền, vua hiền (Thiền nhân và minh quân), ở trong một nước “an cư lạc nghiệp”. Thì chính ở đây họ lại quay về với tôn giáo, điều hòa tất cả Nho, Phật, Đạo trong cái khung hỗn hợp chủ nghĩa rõ nhất là ở trong truyện thơ nôm và kịch bản chèo mà tác giả của nó là không ai khác ngoài những nho sĩ hay tu sĩ, đạo sĩ bình dân đã cải biến văn hóa dân gian thành văn học thành văn theo lập trường chiết trung thỏa hiệp ấy:</p><p></p><p> Văn hóa dân gian Tính trời (hay tình cảm tự nhiên) Triết lý dân gian Tống nho Trung - hiếu - tiết – nghĩa (Nho) Đại thừa (A-di- đà) Từ bi - bác ái - hành thiện (Phật) Đạo nội Đồng bóng và bói toán Đạo và theo thần tượng tín ngưỡng đã được tô vẽ lại Thị Kính và Liễu Hạnh. Hai nhân vật này lại càng tiêu biểu cho sự phản ứng rất sâu sắc nhưng cũng rất tiêu cực của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và của các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung từ cuối thế kỉ XVIII sang thế kỉ XIX. Họ đang khao khát sự giải phóng mà chưa tìm được hướng đi đúng đắn.</p><p></p><p> Như vậy là chủ nghĩa kinh nghiệm và tính chất thực tiễn là đặc trưng của văn hóa dân gian chỉ có thể lồng vào hệ thống ý niệm và thuật ngữ tôn giáo phong kiến mới tồn tại được. Đó là sự chuyển biến không triệt để của phương thức sản xuất nông nghiệp và chế độ phong kiến Việt Nam khôi hỗn hợp đồng nguyên lại trở lại ở trong cơ cấu xã hội và ở trong cơ cấu tư tưởng Việt Nam, ở trong văn hóa dân gian lẫn văn hóa thành văn.</p><p></p><p> Đành rằng nhân dân và văn hóa dân gian vẫn luôn luôn là hạt nhân và không bao giờ ngừng đấu tranh để tự giải phóng cả. Cho nên mới có những Hồ Xuân Hương, những Cao Bá Quát, đã ráng sức đưa văn hóa Việt Nam đến những cá tính chiến sĩ của thời cận đại: Nhưng cuối cùng thì Nho giáo lại vẫn thống trị và trở nên phản động với nhà Nguyễn bao gồm những ông vua sùng bái Nho giáo ngoại lai một cách mù quáng nhất. Và cũng chính vì vậy mà cái thước đo giá trị của những nho sĩ lúc bấy giờ lại không phải ở chỗ nho sĩ nhất của họ, mà ở chỗ họ đã dứt khoát từ giã được bao nhiêu phần nho sĩ của họ để xông vào công cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và truyền thống dân chủ, tập thể chủ nghĩa do nhân dân hằng tích lũy được. Sự phân hóa đó càng ngày càng rõ rệt trước cuộc đụng độ của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt nam với chủ nghĩa tư bản thực dân xâm lược và văn hóa tư sản nô dịch phương Tây. Có những nho sĩ phản động, có những nho sĩ yêu nước đã thấy cần xét lại nội dung của trung quân ái quốc. Một cuộc tự phê phán của nho học bắt đầu từ Nguyễn Trường Tộ rồi Nguyễn Đình Chiểu và đến Phan Bội Châu cuối đời thì mới triệt để được.</p><p></p><p><strong>III. Vài điều rút ra từ lịch sử</strong></p><p> <em>1). Xét ra thì tính cách nho sĩ ở trong lịch sử Việt Nam thật là phức tạp:</em> </p><p> </p><ol> <li data-xf-list-type="ol"> Có lòng yêu nước nhưng trùng hợp với chủ nghĩa chủng tộc và chủ nghĩa chí sĩ (hay anh hùng cá nhân).</li> <li data-xf-list-type="ol"> Trọng giáo dục và học vấn, nhưng nệ cổ, giáo điều, siêu hình phiến diện, không những không khuyến khích mà còn thù địch với tính năng động sáng tạo.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Trọng gia đình nhưng theo chủ nghĩa gia trưởng tàn bạo - với phụ nữ và tuổi trẻ .</li> <li data-xf-list-type="ol"> Trọng nghĩa vụ chung mà không trọng quyền lợi chính đáng của cá nhân; đức trị, lễ trị mà không có pháp trị.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Trọng lịch sử nhưng sùng bái quá khứ và văn hóa phong kiến nước ngoài (phương Bắc), phong kiến hóa quá khứ và do đó không có một sử quan đúng đắn.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Yêu dân nhưng không hề có ý thức công dân và một tư tưởng dân chủ đúng nghĩa.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Đòi cách vật trí tri mà lại xa lánh lao động và khoa học kĩ thuật.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Chấp kinh tòng quyền mà lại phủ định lẽ tiến hóa và biện chứng.</li> <li data-xf-list-type="ol"> Hoạt động cải thế mà lại lúc thì phóng đãng huê tình lúc thì ẩn dật cầu an, v.v...</li> </ol><p>2) Không có một Nho giáo đồng nhất, thuần túy trong lịch sử Trung Quốc (cũng như không có một tôn giáo đồng nhất trong không gian và thời gian). Lại càng không có một Nho giáo thuần túy “Nho giáo” ở Việt Nam, trong một nước mà dân tộc đó phải đấu tranh vô cùng mềm dẻo để bảo vệ và phát huy bản lĩnh của mình trước nhiều luồng giao lưu văn hóa mạnh mẽ và kiên quyết anh dũng chiến đấu chống lại hàng loạt cuộc xâm lược nguy hiểm nhất trong lịch sử để bảo vệ thắng lợi nền độc lập dân tộc.</p><p></p><p> Những gì tích cực của Nho giáo đáng phát huy thì cũng mang trong mình nó cái tiêu cực đáng loại trừ - không có những đóng góp của tư tưởng nhân dân và tình cảm dân tộc của người Việt Nam chân chính và không có sự bổ sung của triết lý tôn giáo phương Đông khác vào trong bản thân Nho giáo thì nó không tồn tại nổi ở Việt Nam - và khi chính quyền phản động nhà Nguyễn và sau này bọn thực dân xâm lược cũng như bọn Mỹ nguy ngày nay muốn thổi hơi sống cho nó thì cũng là lúc Nho giáo đã suy tàn với chế độ phong kiến.</p><p></p><p> 3) “Bình cũ, rượu mới” là một quá trình thử thách, một kinh nghiệm tồn tại của Nho giáo trong thời cận đại, hiện đại từ Nguyễn Đình Chiểu đến Phan Bội Châu - giữ bình mà không đổi rượu làm sao được, khi dân tộc đang muốn trút cái gánh nặng “truyền thống lạc hậu” để vượt qua được những thử thách vô cùng lớn như cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc hàng trăm năm với một bọn thù địch tự mệnh danh là chủ nhân của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại...</p><p></p><p> Vì vậy giai cấp vô sản Việt Nam đặt vấn đề kế thừa và tiếp thu có phê phán truyền thống dân tộc như Hồ Chủ tịch đã đặt, thì những khái niệm như trung, hiếu mới nghe ra tưởng có vẻ như Nho giáo, nhưng nội dung đã là nội dung cách mạng rồi. “Trung với nước, hiếu với dân” là một phương châm đạo đức cách mạng của người Việt Nam ngày nay.</p><p></p><p><strong>Cao Huy Đỉnh</strong></p><p>"Tuyển tập tác phẩm" - NXB Lao Động - TT VH NN Đông Tây</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 33222, member: 7"] 3. Lịch sử từ thế kỉ XV càng nói lên điều đó: một con người Việt Nam nhất trong những con người Việt Nam là Nguyễn Trãi đã từng nếm mật nằm gai trong cuộc chiến đấu vĩ đại của nhân dân, của dân tộc, đã áo vải hài gai, chân đất, sống làm đứa lê dân, nói tiếng nói mộc mạc của nhân dân, con người Việt Nam ấy cũng chính là con người đầu tiên thất vọng với chế độ phong kiến và Nho giáo mà mình đã từng tin tưởng dấn thân vào xây dựng nền móng cho nó. “Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng” vì quyền sống của dân tộc, của con người Việt Nam chân chính mà miệng vẫn nói: [I]Bụi có một lòng trung với hiện Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen![/I] Ôi! Lí tính và nghĩa vụ cơ hồ như chỉ còn lại ở ngôn từ Nho giáo nữa mà thôi. Còn tình cảm thì cơ hồ như đã là tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa của nhân dân rồi. Bi kịch Nguyễn Trãi mở đầu cho một cuộc đấu tranh có tính chất dân chủ và nhân đạo chống lại chế độ phong kiến nếu không toàn bộ thì cũng là trên những mặt tinh thần chủ yếu nhất của nó. Như mọi người đều biết, từ thế kỉ XV, Nho giáo muốn độc tôn về chính trị, văn hóa, học thuật, giáo dục và cả văn nghệ nữa, trên cơ sở sự phát triển tột độ của chế độ quân chủ tập trung, nhưng cũng chính từ đó lại bắt đầu thời kỳ xuống dốc của chế độ phong kiến và của cả Nho học. Cả hai như hình với bóng này, đều bộc lộ tính chất bảo thủ, giáo điều hình thức và tàn nhẫn của nó. Cuộc đấu tranh của nhân dân bằng vũ khí và vũ khí phê bình bằng văn hóa dân gian và văn học nôm bình dân suốt trong ba thế kỉ liền đã đưa đến một cuộc phê phán toàn diện các tôn giáo trong đó có Nho học. Nho giáo đã bị đánh từ những nguyên lí đạo đức cơ bản của nó: [I]- Phép vua thua lệ làng - Được làm vua, thua làm giặc -Con hơn cha nhà có phúc -Tre già măng mọc -Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn - Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.[/I] Mục tiêu đánh vào triều đình, đánh vào quan lại, địa chủ cường hào, đả kích chế độ phụ quyền, phê phán lễ giáo phong kiến ở trong đời sống thực tiễn cũng như ở trong văn hóa, văn học nghệ thuật, ca, hò, vè, truyện cười, truyện thơ nôm, họa và điêu khắc gỗ dân gian và đặc biệt là sân khấu dân gian ở khắp mọi vùng, ở kinh kì Thăng Long... là mục tiêu của một phong trào bình dân rộng rãi bao gồm chủ yếu là nông dân rồi đến thợ thủ công, người buôn bán nhỏ, dân nghèo kẻ chợ và cả những trí thức bình dân thết thế... mà cao điểm nhất là vào thế kỉ XVIII với cuộc cách mạng Tây Sơn, phong trào này nhằm bảo vệ những tình cảm cộng đồng tự nhiên, chủ nghĩa nhân đạo bình dân và triết lý thực tiễn lao động... Các yếu tố văn hóa dân gian này bị hủy hoại ở ngay trong làng xóm, tức là ở công xã nông thôn. Công xã này cũng đã bị phân hóa bởi chính sách ruộng đất và chế độ địa chủ mới của bọn phong kiến Lê - Trịnh ở ngoài Bắc và Nguyễn ở trong Nam; công xã đó không còn tương đối thanh bình như dưới thời Lí - Trần nữa. Đó là cốt lõi của tư tưởng dân chủ và nhân đạo Việt Nam cận đại, đã từng vượt qua được một cách lạc quan và dũng cảm những bước tấn công bằng vũ khí (“dẹp loạn”, “dẹp giặc”) hay bằng văn hóa (“bài trừ tà đạo, dâm từ, ngụy văn, xướng ca vô loài...”) và đang có cơ hội trở thành chủ đạo trong thực tiễn với sự thắng lợi của cách mạng Tây Sơn, đóng góp rất lớn vào việc kết thúc chế độ phong kiến phản động và thống nhất đất nước từ Nam chí Bắc. Nhưng vì không có một giai cấp tiên tiến đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến, nên cuộc đấu tranh văn hóa đã không triệt để như chính cuộc cách mạng Tây Sơn vậy. Người bình dân Việt Nam, chủ yếu là nông dân cuối cùng vẫn bất lực trong việc xây dựng cho mình một hệ ý thức mới, một lí luận mới, một nền văn hóa mới. Rút cuộc họ vẫn không thoát ra khỏi được cái khung phong kiến; và cái đỉnh cao nhất của họ cũng chỉ là lý tưởng người hiền, vua hiền (Thiền nhân và minh quân), ở trong một nước “an cư lạc nghiệp”. Thì chính ở đây họ lại quay về với tôn giáo, điều hòa tất cả Nho, Phật, Đạo trong cái khung hỗn hợp chủ nghĩa rõ nhất là ở trong truyện thơ nôm và kịch bản chèo mà tác giả của nó là không ai khác ngoài những nho sĩ hay tu sĩ, đạo sĩ bình dân đã cải biến văn hóa dân gian thành văn học thành văn theo lập trường chiết trung thỏa hiệp ấy: Văn hóa dân gian Tính trời (hay tình cảm tự nhiên) Triết lý dân gian Tống nho Trung - hiếu - tiết – nghĩa (Nho) Đại thừa (A-di- đà) Từ bi - bác ái - hành thiện (Phật) Đạo nội Đồng bóng và bói toán Đạo và theo thần tượng tín ngưỡng đã được tô vẽ lại Thị Kính và Liễu Hạnh. Hai nhân vật này lại càng tiêu biểu cho sự phản ứng rất sâu sắc nhưng cũng rất tiêu cực của người phụ nữ Việt Nam nói riêng và của các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung từ cuối thế kỉ XVIII sang thế kỉ XIX. Họ đang khao khát sự giải phóng mà chưa tìm được hướng đi đúng đắn. Như vậy là chủ nghĩa kinh nghiệm và tính chất thực tiễn là đặc trưng của văn hóa dân gian chỉ có thể lồng vào hệ thống ý niệm và thuật ngữ tôn giáo phong kiến mới tồn tại được. Đó là sự chuyển biến không triệt để của phương thức sản xuất nông nghiệp và chế độ phong kiến Việt Nam khôi hỗn hợp đồng nguyên lại trở lại ở trong cơ cấu xã hội và ở trong cơ cấu tư tưởng Việt Nam, ở trong văn hóa dân gian lẫn văn hóa thành văn. Đành rằng nhân dân và văn hóa dân gian vẫn luôn luôn là hạt nhân và không bao giờ ngừng đấu tranh để tự giải phóng cả. Cho nên mới có những Hồ Xuân Hương, những Cao Bá Quát, đã ráng sức đưa văn hóa Việt Nam đến những cá tính chiến sĩ của thời cận đại: Nhưng cuối cùng thì Nho giáo lại vẫn thống trị và trở nên phản động với nhà Nguyễn bao gồm những ông vua sùng bái Nho giáo ngoại lai một cách mù quáng nhất. Và cũng chính vì vậy mà cái thước đo giá trị của những nho sĩ lúc bấy giờ lại không phải ở chỗ nho sĩ nhất của họ, mà ở chỗ họ đã dứt khoát từ giã được bao nhiêu phần nho sĩ của họ để xông vào công cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và truyền thống dân chủ, tập thể chủ nghĩa do nhân dân hằng tích lũy được. Sự phân hóa đó càng ngày càng rõ rệt trước cuộc đụng độ của dân tộc Việt Nam và văn hóa Việt nam với chủ nghĩa tư bản thực dân xâm lược và văn hóa tư sản nô dịch phương Tây. Có những nho sĩ phản động, có những nho sĩ yêu nước đã thấy cần xét lại nội dung của trung quân ái quốc. Một cuộc tự phê phán của nho học bắt đầu từ Nguyễn Trường Tộ rồi Nguyễn Đình Chiểu và đến Phan Bội Châu cuối đời thì mới triệt để được. [B]III. Vài điều rút ra từ lịch sử[/B] [I]1). Xét ra thì tính cách nho sĩ ở trong lịch sử Việt Nam thật là phức tạp:[/I] [LIST=1] [*] Có lòng yêu nước nhưng trùng hợp với chủ nghĩa chủng tộc và chủ nghĩa chí sĩ (hay anh hùng cá nhân). [*] Trọng giáo dục và học vấn, nhưng nệ cổ, giáo điều, siêu hình phiến diện, không những không khuyến khích mà còn thù địch với tính năng động sáng tạo. [*] Trọng gia đình nhưng theo chủ nghĩa gia trưởng tàn bạo - với phụ nữ và tuổi trẻ . [*] Trọng nghĩa vụ chung mà không trọng quyền lợi chính đáng của cá nhân; đức trị, lễ trị mà không có pháp trị. [*] Trọng lịch sử nhưng sùng bái quá khứ và văn hóa phong kiến nước ngoài (phương Bắc), phong kiến hóa quá khứ và do đó không có một sử quan đúng đắn. [*] Yêu dân nhưng không hề có ý thức công dân và một tư tưởng dân chủ đúng nghĩa. [*] Đòi cách vật trí tri mà lại xa lánh lao động và khoa học kĩ thuật. [*] Chấp kinh tòng quyền mà lại phủ định lẽ tiến hóa và biện chứng. [*] Hoạt động cải thế mà lại lúc thì phóng đãng huê tình lúc thì ẩn dật cầu an, v.v... [/LIST] 2) Không có một Nho giáo đồng nhất, thuần túy trong lịch sử Trung Quốc (cũng như không có một tôn giáo đồng nhất trong không gian và thời gian). Lại càng không có một Nho giáo thuần túy “Nho giáo” ở Việt Nam, trong một nước mà dân tộc đó phải đấu tranh vô cùng mềm dẻo để bảo vệ và phát huy bản lĩnh của mình trước nhiều luồng giao lưu văn hóa mạnh mẽ và kiên quyết anh dũng chiến đấu chống lại hàng loạt cuộc xâm lược nguy hiểm nhất trong lịch sử để bảo vệ thắng lợi nền độc lập dân tộc. Những gì tích cực của Nho giáo đáng phát huy thì cũng mang trong mình nó cái tiêu cực đáng loại trừ - không có những đóng góp của tư tưởng nhân dân và tình cảm dân tộc của người Việt Nam chân chính và không có sự bổ sung của triết lý tôn giáo phương Đông khác vào trong bản thân Nho giáo thì nó không tồn tại nổi ở Việt Nam - và khi chính quyền phản động nhà Nguyễn và sau này bọn thực dân xâm lược cũng như bọn Mỹ nguy ngày nay muốn thổi hơi sống cho nó thì cũng là lúc Nho giáo đã suy tàn với chế độ phong kiến. 3) “Bình cũ, rượu mới” là một quá trình thử thách, một kinh nghiệm tồn tại của Nho giáo trong thời cận đại, hiện đại từ Nguyễn Đình Chiểu đến Phan Bội Châu - giữ bình mà không đổi rượu làm sao được, khi dân tộc đang muốn trút cái gánh nặng “truyền thống lạc hậu” để vượt qua được những thử thách vô cùng lớn như cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc hàng trăm năm với một bọn thù địch tự mệnh danh là chủ nhân của một nền văn hóa công nghiệp hiện đại... Vì vậy giai cấp vô sản Việt Nam đặt vấn đề kế thừa và tiếp thu có phê phán truyền thống dân tộc như Hồ Chủ tịch đã đặt, thì những khái niệm như trung, hiếu mới nghe ra tưởng có vẻ như Nho giáo, nhưng nội dung đã là nội dung cách mạng rồi. “Trung với nước, hiếu với dân” là một phương châm đạo đức cách mạng của người Việt Nam ngày nay. [B]Cao Huy Đỉnh[/B] "Tuyển tập tác phẩm" - NXB Lao Động - TT VH NN Đông Tây [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Nho giáo trong lịch sử tư tưởng văn hóa Việt Nam
Top