Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 8
Lịch sử 8
Nhật bản từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 180273" data-attributes="member: 288054"><p><em><strong>Minh Trị – Hoàng đế đưa Nhật thành cường quốc thế giới</strong></em></p><p></p><p><em></em></p><p><em>Triều đại Hoàng đế Mutsuhito – thời kỳ Minh Trị (tức nền hòa bình được khai sáng) – chứng kiến Nhật Bản từ một đất nước bị đe dọa bởi sự thống trị của Phương Tây trở thành một trong những cường quốc đứng đầu về kinh tế và quân sự trên thế giới. Để đạt được điều này, ông đã phải đưa ra quyết định khó khăn khi áp dụng nhiều đường lối và phong tục của phương Tây ở một đất nước vốn dĩ rất tự hào về nền văn hóa bản địa của mình. Rất nhiều thủ lĩnh Phiên bang căm hận sự pha trộn những tư tưởng ngoại bang. Tuy nhiên bằng cách thi hành những thay đổi này, Nhật Hoàng đã sử dụng chính các phương thức của người phương Tây để bảo tồn ý chí và độc lập của Nhật trong bối cảnh ngoại xâm, bảo vệ đất nước thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của Châu Âu và đưa Nhật trở thành một thế lực trên toàn cầu.</em></p><p></p><p>Sau một thập kỷ nỗ lực chống ngoại xâm, Chinh Di đại tướng quân (shogun) từ quan vào năm 1867. Với mục tiêu hiện đại hóa và hy vọng bảo tồn Nhật Bản, các nhà cải cách đưa hoàng tử Mutsuhito lên ngôi với hiệu là Thiên hoàng Minh Trị. Vị hoàng đế mới đã khép lại hai thế kỷ biệt lập của Nhật Bản, thay vào đó lựa chọn con đường tiếp nhận một số tư tưởng của phương Tây.</p><p></p><p>Dưới sự dẫn dắt của Thiên hoàng Minh Trị, người Nhật tiến hành những cải cách đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp. Ông xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội Nhật Bản tập trung và có tổ chức đầu tiên sau nhiều thế kỷ. Hơn nữa, nước Nhật thúc đẩy công nghiệp hóa, nhanh chóng hiện đại hóa trong nửa sau thế kỷ 19.</p><p></p><p>Nhật Bản cũng được các cường quốc quân sự hàng đầu khi đó hỗ trợ. Các cố vấn nước Phổ giúp Nhật xây dựng quân đội, người Anh cho mượn tàu thuyền cùng với các chuyên gia đóng tàu, khiến Nhật có được sự trợ giúp từ những quốc gia có nền quân sự hùng mạnh nhất thời đó.</p><p></p><p>Minh Trị nhận ra rằng cần phải hy sinh một số thứ để Nhật trở thành một nước hiện đại. Giáo dục giảm sự tập trung vào khía cạnh văn hóa và thiên nhiều hơn về toán và khoa học. Triều đình giảm sự quan tâm tới Phật giáo, chú trọng hơn vào thần đạo Shinto của người Nhật – theo đó thần đạo mang một thông điệp mạnh mẽ về việc phục vụ đất nước và hoàng đế. Chính phủ cấm samurai (chiến binh của các phiên bang cũ) mặc trang phục cũ và đem theo thanh kiếm truyền thống, đồng thời cũng cắt bỏ bổng lộc triều đình.</p><p></p><p>Mặc dù những nỗ lực này đều nhắm tới mục đích thay đổi bộ mặt xã hội Nhật Bản theo nhiều hướng, nhưng triều đại Minh Trị cũng đảm bảo rằng nước Nhật không bao giờ để mất độc lập trong thời đại nhiều nước Châu Á cũng như Châu Phi nằm dưới sự cai trị của Châu Âu.</p><p></p><p>Và những nỗ lực đó cũng đem lại thành quả. Dưới thời Minh Trị, Nhật Bản lấn át kẻ thù truyền kiếp của mình là Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật vào thập niên 1890. Tuy nhiên một thập kỷ sau mới là thành tựu đỉnh cao của Nhật: họ đánh bại đế chế Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật. Chiến thắng quan trọng này củng cố vị thế cường quốc thế giới của Nhật và chứng tỏ được tính đúng đắn của những cải cách thời Mutsuhito.</p><p></p><p><strong>Nửa đầu thế kỷ XIX về trước, Nhật Bản là một quốc gia phong kiến lạc hậu, bên trong thì chia cắt, bên ngoài thì bị các quốc gia khác chèn ép, sỉ nhục. Vậy mà tất cả đã thay đổi kể từ năm 1868-năm đầu tiên của kỷ nguyên Minh Trị duy tân. Đây chính là thời điểm mà người Nhật tự mở cửa hội nhập với thế giới, sau hàng chục thế kỷ tự cô lập với bên ngoài. Chỉ trong vòng hai thập kỷ, công cuộc cải cách toàn diện, cơ bản về mọi mặt do Minh Trị khởi xướng và lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc đưa nước Nhật sang một thời đại mới. Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành một trong những cường quốc trên thế giới.</strong></p><p></p><p><strong>Thực hành cải cách đồng bộ</strong></p><p></p><p></p><p>Đánh giá và lý giải về sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, chúng ta không thể không nhắc đến sự lãnh đạo tài tình sáng suốt và tầm nhìn xa, trông rộng của Minh Trị Thiên Hoàng, người đã tiến hành những cải cách chính trị, xã hội phi thường, đem lại sự thịnh vượng cho Nhật Bản thông qua chính sách tự cường bằng con đường tích cực. Sinh năm 1852, lên ngôi năm 1868 khi mới 15 tuổi, hoàng tử Mutsohito đã sớm nhận thấy thực trạng suy kiệt, bi đát của đất nước cũng như nhận thấy nguy cơ của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ngày càng hiển hiện, đe dọa nền độc lập dân tộc. Trước tình hình đó , ông cùng với những người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến quyết tâm đưa đất Nhật trở nên hùng mạnh. Biểu hiện đầu tiên của quyết tâm này là ngay sau khi lên ngôi, Mutsohito đã lấy niên hiệu là Minh Trị (Meiji - tức nền chính trị sáng suốt).</p><p></p><p></p><p></p><p>Để có thể tiến hành công cuộc duy tân, cải biến xã hội, thì việc đầu tiên phải xóa bỏ nền chính trị cổ truyền với chính sách phân quyền mà chế độ Mạc phủ do tướng quân (Shogun) dòng họ Tokugawa điều khiển. Nước Nhật vào thời kỳ này có tới hàng trăm công quốc với thể chế chính trị , pháp chế, tiền tệ, quan thuế và cả đo lường riêng. Các lãnh chúa phong kiến với bộ máy thống trị quản lý lãnh địa, tự cô lập mình bằng thanh gươm võ sĩ, trong khi cả xã hội Nhật là một nền nông nghiệp lạc hậu, nền giáo dục bị khép kín, chính trị thì bảo thủ, văn hóa chậm phát triển…</p><p></p><p></p><p>Đòi hỏi bức thiết trước nhu cầu phát triển lúc này là phải thay đổi cơ cấu chính trị, mở cửa ra bên ngoài, học tập phương Tây là con đường tối ưu mà Minh Trị đã lựa chọn. Tuy nhiên, những biện pháp mới của ông gặp phải sự chống đối gay gắt từ lực lượng bảo thủ, đứng đầu là tướng quân Tokugawa Keiki.</p><p></p><p></p><p>Ngày 07/01/1868, phái bảo thủ tập hợp lực lượng chống lại triều đình, Minh Trị liền cử các lãnh chúa cấp tiến là Satsuma và Choshu đem quân tiến đánh và giành thắng lợi lớn. Đến năm 1869, khi đô đốc Enomoto đầu hàng triều đình thì sự chống đối cuối cùng của lực lượng ủng hộ Shogun mới chấm dứt hoàn toàn.</p><p></p><p></p><p>Sau thắng lợi, Minh Trị Thiên Hoàng tuyên bố xóa bỏ chế độ Mạc phủ tồn tại gần 3 thế kỷ và thiết lập một chính quyền mới thống nhất với quyền lực tập trung về tay Thiên Hoàng. Ngày 06/04/1868, đường lối duy tân cải cách của Minh Trị chính thức được công bố khi ông cùng triều đình long trọng tuyên thệ đưa nước Nhật theo con đường duy tân.</p><p></p><p></p><p>Để đoạn tuyệt với quá khứ và xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa công cuộc duy tân vĩ đại, năm 1869, Minh Trị dời đô từ Kyoto về Edo và đặt tên cho kinh đô mới là Tokyo. Trong những năm tiếp theo đó, Minh Trị thi hành hàng loạt cải cách về quân đội, kinh tế, văn hóa, giáo dục; cho tự do nội thương, ngoại thương; thừa nhận quyền tư hữu đất đai… Về chính quyền, năm 1871, Minh Trị cử một phái đoàn đi 12 nước trên thế giới để học tập mô hình tổ chức, sau đó chính quyền được chia thành 3 ngành phân lập: Lập pháp gồm Viện quý tộc (hoàng thân, lãnh chúa, võ sĩ) và Viện dân chúng (gồm những người có uy tín, năng lực được tuyển chọn ở các địa phương) với chức năng là cơ quan cố vấn cho chính phủ về chính trị. Hành pháp do một tổng lý đại thần và 7 cục, mỗi cục do một đại thần điều khiển. Về tư pháp do Bộ Hình đảm trách nhiệm vụ kiểm sát và xét xử; năm 1871 thành lập Tòa án đầu tiên, đến năm 1875 lập Viện kiểm sát, Tòa thượng thẩm và tòa án ở các địa phương. Ngày 13/09/1871, Minh Trị cho lập thêm một Trung viện (Seiin) để điều hành hai ngành lập pháp và hành pháp. Ngày 11/02/1889, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nhật được công bổ trong đó quy định việc thành lập 2 viện lập pháp: Hạ viện và Thượng viện, đánh dấu mốc Nhật Bản trở thành quốc gia quân chủ lập hiến.</p><p></p><p></p><p><strong>Giáo dục, yếu tố chiến lược hàng đầu</strong></p><p></p><p></p><p>Đặc biệt, trong lĩnh vực cải cách giáo dục, Minh Trị rất quan tâm. Theo ông, công cuộc duy tân muốn thành công thì trước hết phải nâng cao trình độ hiểu biết của người dân để họ hiểu và tham gia tích cực vào sự phát triển của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình mới. Bên cạnh những yếu tố tích cực của nền giáo dục truyền thống, Minh Trị kiên quyết loại bỏ những hạn chế và những sai lầm không đem lại lợi ích cho sự tiến bộ của nước Nhật.</p><p></p><p></p><p>Năm 1889, sắc lệnh giáo dục được ban hành, đề ra mục đích và phương hướng của nền giáo dục mới là đem lại những giá trị tinh thần tiến bộ; khuyến khích người dân thực hiện nền tảng Nho giáo, đề cao tinh thần thượng võ truyền thống và kết hợp với học tập văn hóa phương Tây. Hoạt động giáo dục được mở rộng cho mọi tầng lớp nhân dân, kể cả phụ nữ. Bên cạnh giáo dục lý luận còn quan tâm đến giáo dục kỹ thuật thực nghiệm, vừa giáo dục dân sự vừa giáo dục quân sự.</p><p></p><p></p><p>Năm 1871, Bộ giáo dục được thành lập nhằm phụ trách, quản lý các hoạt động giáo dục, đồng thời quyết định chương trình giáo dục. Đến năm 1872, Bộ Giáo dục ban hành học chế đưa nền giáo dục Nhật Bản phát triển sang một giai đoạn mới; chế độ giáo dục được áp dụng trong toàn quốc, các trường học, cơ sở đào tạo được mở khắp lãnh thổ gồm nhiều cấp (từ mẫu giáo, tiểu học đến trung học, đại học). Chính sách cưỡng bức giáo dục được thực hiện mạnh mẽ, đặc biệt là giáo dục sơ cấp dành cho trẻ em từ 6-14 tuổi. Mọi chi phí cho cấp học này đều được chính quyền đài thọ.</p><p></p><p></p><p>Các giai đoạn học cũng được phân chia thành những khoảng thời gian và mức độ giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi; các ngành học, môn học được sắp xếp phù hợp, khoa học. Ngoài ra, Chính phủ Nhật còn cử một lượng lớn học sinh đi du học ở nước ngoài để khi trở về, những người ưu tú nhất sẽ là lực lượng quan trọng đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Đội ngũ giáo viên cũng được quan tâm đặc biệt, được nhiều sự ưu đãi tốt; ngoài số giáo viên nước ngoài được thuê thì Nhật Bản tăng cường công tác đào tạo để nâng cao cả về số lượng và chất lượng giáo viên bản địa…</p><p></p><p></p><p>Chính những chính sách đúng đắn đó đã biến cả nước Nhật thành một xã hội học tập với quyết tâm cao độ, “học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt phương Tây”. Chương trình cải cách trong lĩnh vực giáo dục thời Minh Trị đã đem lại những hiệu quả rất tốt đẹp, mang tính toàn diện rộng lớn đối với toàn thể nhân dân. Nó vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, đáp ứng được sự đòi hỏi của sự phát triển của nước Nhật trong giai đoạn chuyển biến. Có thể nói, nền giáo dục mà Minh Trị đã xây dựng và phát triển đã trở thành nền tảng tinh thần và vật chất cho sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Nhờ có giáo dục mà công cuộc duy tân đã thành công. Nhật Bản nhanh chóng phát triển đuổi kịp các nước Âu - Mỹ, nêu tấm gương sáng kích thích tự cường vì độc lập và tiến bộ. Giáo dục chính là chìa khóa để nước Nhật bước vào thế giới phát triển, trở thành một cường quốc trong sự kinh ngạc của thế giới và sự ngưỡng mộ của nhiều dân tộc Á châu</p><p></p><p></p><p></p><p>Tác giả bài viết: Lê Thái Dũng</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 180273, member: 288054"] [I][B]Minh Trị – Hoàng đế đưa Nhật thành cường quốc thế giới[/B][/I] [I] Triều đại Hoàng đế Mutsuhito – thời kỳ Minh Trị (tức nền hòa bình được khai sáng) – chứng kiến Nhật Bản từ một đất nước bị đe dọa bởi sự thống trị của Phương Tây trở thành một trong những cường quốc đứng đầu về kinh tế và quân sự trên thế giới. Để đạt được điều này, ông đã phải đưa ra quyết định khó khăn khi áp dụng nhiều đường lối và phong tục của phương Tây ở một đất nước vốn dĩ rất tự hào về nền văn hóa bản địa của mình. Rất nhiều thủ lĩnh Phiên bang căm hận sự pha trộn những tư tưởng ngoại bang. Tuy nhiên bằng cách thi hành những thay đổi này, Nhật Hoàng đã sử dụng chính các phương thức của người phương Tây để bảo tồn ý chí và độc lập của Nhật trong bối cảnh ngoại xâm, bảo vệ đất nước thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa của Châu Âu và đưa Nhật trở thành một thế lực trên toàn cầu.[/I] Sau một thập kỷ nỗ lực chống ngoại xâm, Chinh Di đại tướng quân (shogun) từ quan vào năm 1867. Với mục tiêu hiện đại hóa và hy vọng bảo tồn Nhật Bản, các nhà cải cách đưa hoàng tử Mutsuhito lên ngôi với hiệu là Thiên hoàng Minh Trị. Vị hoàng đế mới đã khép lại hai thế kỷ biệt lập của Nhật Bản, thay vào đó lựa chọn con đường tiếp nhận một số tư tưởng của phương Tây. Dưới sự dẫn dắt của Thiên hoàng Minh Trị, người Nhật tiến hành những cải cách đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp. Ông xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội Nhật Bản tập trung và có tổ chức đầu tiên sau nhiều thế kỷ. Hơn nữa, nước Nhật thúc đẩy công nghiệp hóa, nhanh chóng hiện đại hóa trong nửa sau thế kỷ 19. Nhật Bản cũng được các cường quốc quân sự hàng đầu khi đó hỗ trợ. Các cố vấn nước Phổ giúp Nhật xây dựng quân đội, người Anh cho mượn tàu thuyền cùng với các chuyên gia đóng tàu, khiến Nhật có được sự trợ giúp từ những quốc gia có nền quân sự hùng mạnh nhất thời đó. Minh Trị nhận ra rằng cần phải hy sinh một số thứ để Nhật trở thành một nước hiện đại. Giáo dục giảm sự tập trung vào khía cạnh văn hóa và thiên nhiều hơn về toán và khoa học. Triều đình giảm sự quan tâm tới Phật giáo, chú trọng hơn vào thần đạo Shinto của người Nhật – theo đó thần đạo mang một thông điệp mạnh mẽ về việc phục vụ đất nước và hoàng đế. Chính phủ cấm samurai (chiến binh của các phiên bang cũ) mặc trang phục cũ và đem theo thanh kiếm truyền thống, đồng thời cũng cắt bỏ bổng lộc triều đình. Mặc dù những nỗ lực này đều nhắm tới mục đích thay đổi bộ mặt xã hội Nhật Bản theo nhiều hướng, nhưng triều đại Minh Trị cũng đảm bảo rằng nước Nhật không bao giờ để mất độc lập trong thời đại nhiều nước Châu Á cũng như Châu Phi nằm dưới sự cai trị của Châu Âu. Và những nỗ lực đó cũng đem lại thành quả. Dưới thời Minh Trị, Nhật Bản lấn át kẻ thù truyền kiếp của mình là Trung Quốc trong Chiến tranh Trung-Nhật vào thập niên 1890. Tuy nhiên một thập kỷ sau mới là thành tựu đỉnh cao của Nhật: họ đánh bại đế chế Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật. Chiến thắng quan trọng này củng cố vị thế cường quốc thế giới của Nhật và chứng tỏ được tính đúng đắn của những cải cách thời Mutsuhito. [B]Nửa đầu thế kỷ XIX về trước, Nhật Bản là một quốc gia phong kiến lạc hậu, bên trong thì chia cắt, bên ngoài thì bị các quốc gia khác chèn ép, sỉ nhục. Vậy mà tất cả đã thay đổi kể từ năm 1868-năm đầu tiên của kỷ nguyên Minh Trị duy tân. Đây chính là thời điểm mà người Nhật tự mở cửa hội nhập với thế giới, sau hàng chục thế kỷ tự cô lập với bên ngoài. Chỉ trong vòng hai thập kỷ, công cuộc cải cách toàn diện, cơ bản về mọi mặt do Minh Trị khởi xướng và lãnh đạo đã đặt nền móng vững chắc đưa nước Nhật sang một thời đại mới. Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành một trong những cường quốc trên thế giới.[/B] [B]Thực hành cải cách đồng bộ[/B] Đánh giá và lý giải về sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, chúng ta không thể không nhắc đến sự lãnh đạo tài tình sáng suốt và tầm nhìn xa, trông rộng của Minh Trị Thiên Hoàng, người đã tiến hành những cải cách chính trị, xã hội phi thường, đem lại sự thịnh vượng cho Nhật Bản thông qua chính sách tự cường bằng con đường tích cực. Sinh năm 1852, lên ngôi năm 1868 khi mới 15 tuổi, hoàng tử Mutsohito đã sớm nhận thấy thực trạng suy kiệt, bi đát của đất nước cũng như nhận thấy nguy cơ của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang ngày càng hiển hiện, đe dọa nền độc lập dân tộc. Trước tình hình đó , ông cùng với những người theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến quyết tâm đưa đất Nhật trở nên hùng mạnh. Biểu hiện đầu tiên của quyết tâm này là ngay sau khi lên ngôi, Mutsohito đã lấy niên hiệu là Minh Trị (Meiji - tức nền chính trị sáng suốt). Để có thể tiến hành công cuộc duy tân, cải biến xã hội, thì việc đầu tiên phải xóa bỏ nền chính trị cổ truyền với chính sách phân quyền mà chế độ Mạc phủ do tướng quân (Shogun) dòng họ Tokugawa điều khiển. Nước Nhật vào thời kỳ này có tới hàng trăm công quốc với thể chế chính trị , pháp chế, tiền tệ, quan thuế và cả đo lường riêng. Các lãnh chúa phong kiến với bộ máy thống trị quản lý lãnh địa, tự cô lập mình bằng thanh gươm võ sĩ, trong khi cả xã hội Nhật là một nền nông nghiệp lạc hậu, nền giáo dục bị khép kín, chính trị thì bảo thủ, văn hóa chậm phát triển… Đòi hỏi bức thiết trước nhu cầu phát triển lúc này là phải thay đổi cơ cấu chính trị, mở cửa ra bên ngoài, học tập phương Tây là con đường tối ưu mà Minh Trị đã lựa chọn. Tuy nhiên, những biện pháp mới của ông gặp phải sự chống đối gay gắt từ lực lượng bảo thủ, đứng đầu là tướng quân Tokugawa Keiki. Ngày 07/01/1868, phái bảo thủ tập hợp lực lượng chống lại triều đình, Minh Trị liền cử các lãnh chúa cấp tiến là Satsuma và Choshu đem quân tiến đánh và giành thắng lợi lớn. Đến năm 1869, khi đô đốc Enomoto đầu hàng triều đình thì sự chống đối cuối cùng của lực lượng ủng hộ Shogun mới chấm dứt hoàn toàn. Sau thắng lợi, Minh Trị Thiên Hoàng tuyên bố xóa bỏ chế độ Mạc phủ tồn tại gần 3 thế kỷ và thiết lập một chính quyền mới thống nhất với quyền lực tập trung về tay Thiên Hoàng. Ngày 06/04/1868, đường lối duy tân cải cách của Minh Trị chính thức được công bố khi ông cùng triều đình long trọng tuyên thệ đưa nước Nhật theo con đường duy tân. Để đoạn tuyệt với quá khứ và xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa công cuộc duy tân vĩ đại, năm 1869, Minh Trị dời đô từ Kyoto về Edo và đặt tên cho kinh đô mới là Tokyo. Trong những năm tiếp theo đó, Minh Trị thi hành hàng loạt cải cách về quân đội, kinh tế, văn hóa, giáo dục; cho tự do nội thương, ngoại thương; thừa nhận quyền tư hữu đất đai… Về chính quyền, năm 1871, Minh Trị cử một phái đoàn đi 12 nước trên thế giới để học tập mô hình tổ chức, sau đó chính quyền được chia thành 3 ngành phân lập: Lập pháp gồm Viện quý tộc (hoàng thân, lãnh chúa, võ sĩ) và Viện dân chúng (gồm những người có uy tín, năng lực được tuyển chọn ở các địa phương) với chức năng là cơ quan cố vấn cho chính phủ về chính trị. Hành pháp do một tổng lý đại thần và 7 cục, mỗi cục do một đại thần điều khiển. Về tư pháp do Bộ Hình đảm trách nhiệm vụ kiểm sát và xét xử; năm 1871 thành lập Tòa án đầu tiên, đến năm 1875 lập Viện kiểm sát, Tòa thượng thẩm và tòa án ở các địa phương. Ngày 13/09/1871, Minh Trị cho lập thêm một Trung viện (Seiin) để điều hành hai ngành lập pháp và hành pháp. Ngày 11/02/1889, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Nhật được công bổ trong đó quy định việc thành lập 2 viện lập pháp: Hạ viện và Thượng viện, đánh dấu mốc Nhật Bản trở thành quốc gia quân chủ lập hiến. [B]Giáo dục, yếu tố chiến lược hàng đầu[/B] Đặc biệt, trong lĩnh vực cải cách giáo dục, Minh Trị rất quan tâm. Theo ông, công cuộc duy tân muốn thành công thì trước hết phải nâng cao trình độ hiểu biết của người dân để họ hiểu và tham gia tích cực vào sự phát triển của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình mới. Bên cạnh những yếu tố tích cực của nền giáo dục truyền thống, Minh Trị kiên quyết loại bỏ những hạn chế và những sai lầm không đem lại lợi ích cho sự tiến bộ của nước Nhật. Năm 1889, sắc lệnh giáo dục được ban hành, đề ra mục đích và phương hướng của nền giáo dục mới là đem lại những giá trị tinh thần tiến bộ; khuyến khích người dân thực hiện nền tảng Nho giáo, đề cao tinh thần thượng võ truyền thống và kết hợp với học tập văn hóa phương Tây. Hoạt động giáo dục được mở rộng cho mọi tầng lớp nhân dân, kể cả phụ nữ. Bên cạnh giáo dục lý luận còn quan tâm đến giáo dục kỹ thuật thực nghiệm, vừa giáo dục dân sự vừa giáo dục quân sự. Năm 1871, Bộ giáo dục được thành lập nhằm phụ trách, quản lý các hoạt động giáo dục, đồng thời quyết định chương trình giáo dục. Đến năm 1872, Bộ Giáo dục ban hành học chế đưa nền giáo dục Nhật Bản phát triển sang một giai đoạn mới; chế độ giáo dục được áp dụng trong toàn quốc, các trường học, cơ sở đào tạo được mở khắp lãnh thổ gồm nhiều cấp (từ mẫu giáo, tiểu học đến trung học, đại học). Chính sách cưỡng bức giáo dục được thực hiện mạnh mẽ, đặc biệt là giáo dục sơ cấp dành cho trẻ em từ 6-14 tuổi. Mọi chi phí cho cấp học này đều được chính quyền đài thọ. Các giai đoạn học cũng được phân chia thành những khoảng thời gian và mức độ giáo dục phù hợp với từng lứa tuổi; các ngành học, môn học được sắp xếp phù hợp, khoa học. Ngoài ra, Chính phủ Nhật còn cử một lượng lớn học sinh đi du học ở nước ngoài để khi trở về, những người ưu tú nhất sẽ là lực lượng quan trọng đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Đội ngũ giáo viên cũng được quan tâm đặc biệt, được nhiều sự ưu đãi tốt; ngoài số giáo viên nước ngoài được thuê thì Nhật Bản tăng cường công tác đào tạo để nâng cao cả về số lượng và chất lượng giáo viên bản địa… Chính những chính sách đúng đắn đó đã biến cả nước Nhật thành một xã hội học tập với quyết tâm cao độ, “học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, vượt phương Tây”. Chương trình cải cách trong lĩnh vực giáo dục thời Minh Trị đã đem lại những hiệu quả rất tốt đẹp, mang tính toàn diện rộng lớn đối với toàn thể nhân dân. Nó vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại, đáp ứng được sự đòi hỏi của sự phát triển của nước Nhật trong giai đoạn chuyển biến. Có thể nói, nền giáo dục mà Minh Trị đã xây dựng và phát triển đã trở thành nền tảng tinh thần và vật chất cho sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Nhờ có giáo dục mà công cuộc duy tân đã thành công. Nhật Bản nhanh chóng phát triển đuổi kịp các nước Âu - Mỹ, nêu tấm gương sáng kích thích tự cường vì độc lập và tiến bộ. Giáo dục chính là chìa khóa để nước Nhật bước vào thế giới phát triển, trở thành một cường quốc trong sự kinh ngạc của thế giới và sự ngưỡng mộ của nhiều dân tộc Á châu Tác giả bài viết: Lê Thái Dũng [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 8
Lịch sử 8
Nhật bản từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX
Top