sarangheyo
Cộng tác viên
- Xu
- 0
Nguyên Ngọc, Nhà văn
(Bút danh khác: Nguyễn Trung Thành)
Tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Báu, sinh ngày 15-9-1932 tại thành phố Đà Nẵng. Quê gốc: xã Thăng Uyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, hiện ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ, thuở thiếu niên Nguyên Ngọc đang học dở dang trung học thì kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, ông theo gia đình tản cư ra vùng tư do, tiếp tục theo học trường trung học kháng chiến. Tốt nghiệp Thành chung, ông tình nghuyện nhập ngũ hoạt động nhiều năm ở chiến trường Liên khu V, nhất là vùng đất Tây Nguyên. Từng là phóng viên mặt trận của báo Vệ quốc quân Trung Trung bộ. Tập kết ra Bắc trong đội hình Sư đoàn 324, ông được điều về trại viết gương anh hùng của Tổng cục Chính trị, ở đấy ông đã cho ra đời tác phẩm Đất nước đứng lên. Đầu năm 1957, tạp chí Văn nghệ Quân đội thành lập. Nhà văn Nguyên Ngọc là thành viên ban biên tập đầu tiên, có lúc giữ nhiệm vụ Thư ký tòa soạn. Năm 1962, ông là một trong những nhà văn quân đội đầu tiên trở lại chiến trường miền Nam. Hoạt động chiến đấu cùng với quân dân Liên khu 5, đã có lúc ông cắm sâu trực tiếp làm cán bộ lãnh đạo xã trong vùng du kích. Nhà văn Nguyên Ngọc từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ kiêm Trưởng biên tập tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ, Trưởng ban Văn học thuộc Cục Chính trị Quân khu.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông được bổ sung vào Ban chấp hành Hội Nhà văn (khóa 2) nhận nhiệm vụ làm Phó Tổng thư ký, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn. Ông còn tiếp tục là ủy viên Ban chấp hành khóa 3 và khóa 4. Một thời gian, ông giữ chức Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ. Ông đã từng là Đại biểu Quốc hội.
Tác phẩm đã xuất bản: Đất nước đứng lên (tiểu thuyết 1956); Mạch nước ngầm (truyện vừa 1949); Rợo cao (truyện ngắn 1962), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (ký 1969); Rừng Xà Nu (truyện và ký 1969); Đất Quảng (tiểu thuyết 1971).. Ngoài sáng tác văn học, còn tham gia viết nhiều kịch bản phim, trong đó có những bộ phim khá quen thuộc với khán giả như Đất nước đứng lên, Đường mòn trên biển..
Nhà văn đã được nhận giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1954-1955) với tiểu thuyết Đất nước đất lên, giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (1965) với tác phẩm Rừng Xà Nu, Giải thưởng văn học Quốc tế, Giải Lotus, Hội Nhà văn á Phi (193) với những sáng tác về cuộc kháng chiến thần tháng của nhân dân Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
(Bút danh khác: Nguyễn Trung Thành)
Tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Báu, sinh ngày 15-9-1932 tại thành phố Đà Nẵng. Quê gốc: xã Thăng Uyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, hiện ở Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
Sinh trưởng trong một gia đình viên chức nhỏ, thuở thiếu niên Nguyên Ngọc đang học dở dang trung học thì kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, ông theo gia đình tản cư ra vùng tư do, tiếp tục theo học trường trung học kháng chiến. Tốt nghiệp Thành chung, ông tình nghuyện nhập ngũ hoạt động nhiều năm ở chiến trường Liên khu V, nhất là vùng đất Tây Nguyên. Từng là phóng viên mặt trận của báo Vệ quốc quân Trung Trung bộ. Tập kết ra Bắc trong đội hình Sư đoàn 324, ông được điều về trại viết gương anh hùng của Tổng cục Chính trị, ở đấy ông đã cho ra đời tác phẩm Đất nước đứng lên. Đầu năm 1957, tạp chí Văn nghệ Quân đội thành lập. Nhà văn Nguyên Ngọc là thành viên ban biên tập đầu tiên, có lúc giữ nhiệm vụ Thư ký tòa soạn. Năm 1962, ông là một trong những nhà văn quân đội đầu tiên trở lại chiến trường miền Nam. Hoạt động chiến đấu cùng với quân dân Liên khu 5, đã có lúc ông cắm sâu trực tiếp làm cán bộ lãnh đạo xã trong vùng du kích. Nhà văn Nguyên Ngọc từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung bộ kiêm Trưởng biên tập tạp chí Văn nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ, Trưởng ban Văn học thuộc Cục Chính trị Quân khu.
Sau ngày đất nước thống nhất, ông được bổ sung vào Ban chấp hành Hội Nhà văn (khóa 2) nhận nhiệm vụ làm Phó Tổng thư ký, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn. Ông còn tiếp tục là ủy viên Ban chấp hành khóa 3 và khóa 4. Một thời gian, ông giữ chức Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ. Ông đã từng là Đại biểu Quốc hội.
Tác phẩm đã xuất bản: Đất nước đứng lên (tiểu thuyết 1956); Mạch nước ngầm (truyện vừa 1949); Rợo cao (truyện ngắn 1962), Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (ký 1969); Rừng Xà Nu (truyện và ký 1969); Đất Quảng (tiểu thuyết 1971).. Ngoài sáng tác văn học, còn tham gia viết nhiều kịch bản phim, trong đó có những bộ phim khá quen thuộc với khán giả như Đất nước đứng lên, Đường mòn trên biển..
Nhà văn đã được nhận giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1954-1955) với tiểu thuyết Đất nước đất lên, giải thưởng Văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu (1965) với tác phẩm Rừng Xà Nu, Giải thưởng văn học Quốc tế, Giải Lotus, Hội Nhà văn á Phi (193) với những sáng tác về cuộc kháng chiến thần tháng của nhân dân Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.