MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Quê hương là tiếng gọi tha thiết nhất cất lên từ trái tim của mỗi con người. Có thể nói rằng quê hương với những cảnh vật quen thuộc luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc nhất đối với các nhà văn, nhà thơ mọi thời đại. Cuộc sống và cảnh vật nơi thôn dã ấy đã đi vào thơ ca và trở thành nguồn cảm hứng dào dạt sáng tạo nên những hình ảnh, những tâm hồn mang đậm bản sắc Việt Nam. Tất cả những cảnh trí thiên nhiên, cuộc sống con người, những tình cảm gắn bó sâu đậm qua những trang thơ càng trở nên sâu sắc, tha thiết và gợi cho ta biết bao cảm xúc đáng trân trọng.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ quê cảnh Việt Nam. Tất cả những cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống của những người dân thôn quê đã cuốn hút ông. Gần cả cuộc đời gắn bó với nông thôn, được tắm mình trong dòng chảy quê hương. Cuộc sống nơi đây đã in đậm vào tâm hồn ông. Điều này đã được Nguyễn Khuyến thể hiện một cách sâu sắc và hết sức thành công trong những trang thơ của ông.
Là một danh nhân văn hoá, một thi hào dân tộc, làm nên giá trị thơ văn Nguyễn Khuyến là toàn bộ sáng tác của nhà thơ nhưng cái làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết về cảnh và người chốn quê. Những bài thơ bộc lộ rõ nhất tấm lòng của tác giả. Bỏ lại sau lưng những tầm chương, tầm cú, những vay mượn ồn ào, những vần thơ quý phái, tẻ nhạt. Nguyễn Khuyến là người đã có công đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, làng quê, với đời sống thường nhật của người dân đói nghèo, lam lũ…, tạo nên những sáng tác giàu tính cách tân và có giá trị lâu bền trong đời sống văn hoá dân tộc.
Đề tài viết về Làng cảnh quê hương Việt Nam từ xưa đến nay có rất nhiều song chưa có ai đề lại ấn tượng sâu đậm cho người đọc như Nguyễn Khuyến. Đến với thơ của ông ta thật sự tìm về không gian của chốn quê – những cảnh sắc, cuộc sống, tình cảm đầy ân tình. Tìm hiểu đề tài “Nguyễn Khuyễn – Nhà thơ quê cảnh” sẽ giúp chúng ta có những cảm nhận sâu sắc hơn về nhà thơ, về những vần thơ sâu sắc, chứa chang bao nhiêu ân tình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Khuyến được đánh giá là một đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học Việt Nam trung đại. Là một nhà thơ lớn, ông viết ở nhiều đề tài khác nhau và ở cả hai thể loại chữ Nôm và chữ Hán. Ở đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu những nét quê cảnh trong thơ ông chủ yếu ở mảng thơ Nôm.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX, tài năng nghệ thuật cũng như những đóng góp to lớn của ông cho nền văn học dân tộc là rất lớn và có ý nghĩa sâu sắc. Làm nên giá trị thơ văn của ông là toàn bộ những sáng tác chữ Hán và chư Nôm, trữ tình cũng như trào phúng. Những làm nên cái độc đáo của nhà thơ thì chủ yếu là những vần thơ viết về nông thôn, bao gồm những vần thơ viết về con người, cảnh vật thiên nhiên, những phong tục tập quán. Về phương diện này không có nhà thơ đương đại nào viết được bằng ông, và trước đó trong lịch sử cũng không ai viết được như thế. Nguyễn Khuyến xứng đáng trở thành nhà thơ số một về nông thôn Việt Nam. Quả thực Nguyễn khuyến là nhà thơ quê cảnh kiệt xuất nhất của văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Mảng thơ về cảnh sắc, con người và văn hóa thôn quê Việt Nam của ông có những nét độc đáo, đặc sắc mà không ai có thể vươn tới được.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu Nguyễn Khuyến nói chung và vấn đề thơ Quê cảnh của Nguyễn Khuyến nói riêng cho đến nay vẫn được xem là một dòng nước chưa vơi cạn. Nguyễn Khuyến luôn nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, lí luận,…
Mã Giang Lân đã đánh giá: “làm nên giá trị thơ văn của Nguyễn Khuyến là toàn bộ những sáng tác của nhà thơ, những làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết về cảnh và người ở chốn quê, những bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, trước đó cũng có những nhà thơ viết về làng cảnh Việt Nam những chưa có ai để lại ấn tượng sâu đậm bằng Nguyễn Khuyến” [8;74]. Như vậy, theo Mã Giang Lân thì mảng thơ viết về quê cảnh đã tạo nên nét đặc sắc riêng trong thơ Nguyễn Khuyến. Còn theo Nguyễn Lộc thì “gọi Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn, trước hết không phải vì ông viết về chủ đề nông thôn mà ông viết với tình cảm, với sự trăn trở lo âu của con người ở nông thôn thực sự, mà chủ yếu là người nông dân” [8;71].
Vũ Thanh cũng có lời: “Nguyễn Khuyễn sống đời sống của người nông dân quê ông và ông viết về cuộc đời họ, cảnh đời họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần nghìn ngàn năm của văn học dân tộc Việt Nam đời sống nghèo khó của người nông dân với những cảnh sinh hoạt bình thường ở thôn quê trờ thành đối tượng phản ánh của thơ ca”, và “Nguyễn Khuyễn chính là nhà thơ viết về nông thôn số một của văn học dân tộc (…). Chỉ đến Nguyễn Khuyến mới làm được những điều mà thơ ca truyền thống chưa làm được (và ngay cả trong thơ hiện đại có lẽ cũng chưa có được một nhà thơ nông thôn nào tầm cỡ như Nguyễn Khuyến). Một nông thôn thật sự đã hiện ra trong thơ Yên Đỗ. Đó là một nông thôn từng gắn bó máu thịt với nhà thơ ngay từ thưở lọt lòng” [10;18-19] .
Lê Trí Viễn viết: “Cho đến khí vị thanh đạm (…),đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm của ông đối với đời sống lao động của người nông dân” [8;189]. Nguyễn Khuyễn cả đời gắn bó máu thịt với làng quê, am hiểu về quê hương.
Nguyễn Đức Quyền viết: “Làng cảnh Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng, thanh đạm, hồn hậu. Mỗi màu sắc, mỗi đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng là nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc của mùa thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân” [14;635] .
Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam” [13;24].
Xuân Diệu cũng đã viết: “Thơ Yên Đỗ vẫn phảng phất bay lượn giữa quê hương đồng chiêm trũng Hà Nam, trên quê hương làng mạc Việt Nam tất cả; bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên một tình yêu quê hương làng mạc trong văn học, tình yêu đồng bào, bà con dân quê trong xóm mình” [8;48]. Cũng chính Xuân Diệu gọi Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
PGS.TS Nguyễn Phong Nam cũng có lời nhận định: Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là “nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam”.
Như vậy việc tìm hiểu những nhận định, những nhận xét về Nguyễn Khuyến – nhà thơ quê cảnh giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ và thấy được phần nào những đóng góp của thế hệ người đi trước. Trên cơ sở kế thừa kết hợp nguồn tư liệu, chúng tôi đi vào việc nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu này sẽ khẳng định thêm một lần nữa vị trí của nhà thơ cũng như bức tranh làng cảnh Việt Nam qua trang thơ của ông.
5. Cấu trúc đề tài
Đề tài của chúng tôi gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Nguyễn Khuyến – Danh nhân văn hoá
Chương 2: Quê cảnh nông thôn Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến
Cuối cùng là tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
Chương 1: NGUYẾN KHUYẾN – DANH NHÂN VĂN HOÁ
1.1. Cuộc đời Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh ngày 15- 2- 1385. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vùng Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đỗ cho đến đời nhà thơ đã được năm trăm năm. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi Nho học, đỗ ba khoá tú tài, chuyên nghệ dạy học.
Mẹ là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khuê, tục gọi làng Ngói, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên (nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Ông ngoại là nhà thơ Trần Công Lạc đỗ sinh thời Lê. Cụ gả con gái thứ tư cho ông Liễn và tạo điều kiện cho dạy học ở đây. Nguyễn Khuyến chào đời từ đây.
Năm 1852 ông lấy vợ và thi hương lần thứ nhất nhưng không đỗ. Năm sau dịch thương hàn đã cướp đi rất nhiều người thân của ông. Khoa Giáp Tí (1864), ông đỗ giải nguyên nhưng năm sau thi hội lại trượt, ở lại Huế theo học. Đến khoa Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kì thi: Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình, được vua ban cờ biển kèm theo hai chữ “Tam Nguyên”. Sau đó ông được bổ làm quan ở Huế, Thanh Hoá, Nghệ An. Tháng 7 năm 1883, ông được cử làm phó sứ đi sứ sang triều đình Mãn Thanh, nhưng chưa qua biên giới thì có lệnh ngừng lại. Năm 1884 buồn vì không làm gì được để cứu vãng tình thế và không cam tâm làm tay sai cho kẻ thù ông đã cáo quan về ở ẩn.
Ngày 5 tháng 2 năm 1909 Nguyễn Khuyến mất tại quê nhà, hưởng thọ 75 tuổi.
Nguyễn Khuyễn là người học trò xuất sắc của nhà trường phong kiến, một nhà nho ưu tú về phẩm hạnh cũng như học vấn, nhưng ông cũng là nạn nhân của tư tưởng nho giáo khi nó đã lâm vào trình trạng phá sản. Nguyễn Khuyến - một trong những đại biểu lớp cuối của một kiểu nhà nho: kiểu nhà nho quân tử (mà hồi quang sau chót của nó là những gương mặt nghĩa sĩ Cần vương). Cuộc đời ông là một bi kịch. Trong ông luôn diễn ra nỗi mặc cảm về sự bất lực trước trách nhiệm đối với đất nước dân tình của một trí thức chân chính, luôn trăn trở về sự lỗi thời của vai trò mình đang sắm trước lịch sử… Suy ngẫm về cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến tự đánh giá một cách xót xa:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời
Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam.
1.2. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến sáng tác nhiều và liên tục suốt cuộc đời ngay từ khi là một anh Khoá nghèo đến khi mất. Đương thời ông nổi tiếng là một thi nhân tài hoa. Tác phẩm của ông được tập hợp riêng trong những cuốn sách in hoặc chép tay cả mảng thơ Nôm và chữ Hán. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến bao gồm nhiều thể loại: Thơ đường luật, cổ phong, ca từ, lục bát, hát nói, câu đối, văn sách…nội dung thơ chữ Hán và chữ Nôm hoàn toàn thống nhất, rất phong phú về đề tài, về phương pháp biểu hiện cảm xúc.
Tác phẩm của Nguyễn Khuyến cho đến nay vẫn chưa được sưu tầm và công bố đầy đủ. Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến được cắm mốc lớn từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Đây là bước ngoặc trong sự nghiệp thơ văn của ông. Bởi cáo quan không có nghĩa là ông đi ở ẩn dật chỉ là phản ứng tự nhiên của một nhà nho chân chính, không đủ dũng khí để đánh thực dân.
Nói đến Tam Nguyên Yên Đỗ là nói đến một nhà thơ nổi tiếng. Một cụ Tam Nguyên đã từng đỗ đầu cả ba kì thi, điều đó chứng tỏ văn chương cử tử của ông đã đạt đến mẫu mực. Nguyễn Khuyến sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, nhưng số lượng chữ Nôm không nhiều mà phần lớn viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên Tam nguyên Yên Đỗ chỉ nổi tiếng bằng thơ Nôm. Bởi chữ Nôm là chữ dân tộc, dễ hiểu và độc giả lại dễ nắm bắt lại có thể diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người. Quả thật thơ Nôm Nguyễn Khuyến có thể sánh với bất cứ nhà thơ nào trong làng văn học dân tộc. Những vần thơ Nôm ông viết về làng cảnh Việt Nam là những vần thơ kiệt xuất. Có điều dường như trong thơ Nôm chỉ thấp thoáng cảnh đó. Phần còn lại ông luôn hướng tới cảnh ruộng đồng, ao hồ làng mạc và bà con hàng xóm, bởi tinh thần cởi mở hoà đồng. Còn thơ chữ Hán chỉ dành riêng cho nỗi niềm của mình thôi.
Thông qua cuộc đời, sự nghiệp thơ văn cộng với tài năng nhiều mặt… đã chứng tỏ một phần nào đó vị trí của Nguyễn Khuyến là danh nhân văn hoá.
2.1. Bức tranh thiên nhiên - cảnh sắc của làng quê Việt Nam
Quê hương Việt Nam từ bao đời nay vốn bình dị, thân quen trong kí ức của bao thế hệ với những cảnh thiên nhiên gắn liền với cuộc sống lao động của người nông dân “chân lấm tay bùn”. Thơ ca chính là sự cảm nhận hồn nhiên và thuần khiết của con người về cái đẹp, cái chuẩn, thước đo của cái đẹp đó thường bắt đầu từ thiên nhiên. Đến với thơ Nguyễn Khuyến cái đẹp đó không phải là những cảnh vật cao sang, xa lạ mà đó là những bức tranh quen mộc mạc nơi làng quê yên ả:
Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa.
Lời thơ mang một chút hóm hỉnh, vui nhộn thể hiện sự sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ “thập thò hoa” đã cho chúng ta thấy được cái trăn trở cựa mình của thiên nhiên, của cuộc sống.
Nguyễn Khuyến có những vần thơ viết về mùa rất hay và đặc sắc. Điều đó đã góp phần làm nên giá trị thơ văn của ông trong mảng thơ trữ tình trào phúng. Nhiều bài thơ thật sự là những bức tranh thiên nhiên kiệt tác. Chúng ta hãy hình dung cảnh sắc của bốn mùa:
Đông:
Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn,
Nón che tới phủ khách thưa lời.
Hạ:
Bờ dậu mưa rào tung lá thắm,
Non xa sấm động toát mây vàng.
Xuân:
Tựa của gió reo man mác mặt,
Ngẩng đầu trời nắng hấp hây mi.
Thoáng thơm cánh mũi hoa đâu nhỉ,
Rí rít bờ tre có tiếng chi.
Cái tài của tác giả là không trực tiếp tả cảnh, chỉ nói cái ấn tượng mà mình cảm nhận được, ấy thế mà cảnh vật lại hiện lên như vẽ. Cái sống động náo nức rực rỡ như một vũ hội âm thanh và ánh sáng; màu sắc và hương vị trên đây rất gần với giọng điệu, phong cách của một nhà thơ mới nào đó.
Tuy nhiên cái làm nên vẻ vang nhất cho Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm về cảnh sắc thu. Với chùm thơ thu tiêu biểu là ba bài: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh đã đánh dấu tuyệt đỉnh cho mảng đề tài thơ Nôm nước Việt. Cảnh trong ba bài là cảnh thu điển hình nhất của mùa thu Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, không thể nhầm lẫn với nước nào khác. Cảnh thực ở nông thôn Việt Nam. Nhưng con mắt của nhà thơ đã chiều theo rung động của tâm hồn lựa chọn những cảnh vật những hình sắc nhẹ nhàng, thanh lịch, đạm bạc nhưng gợi cảm, trong ba bài thơ thu thì bài Thu điếu là đặc sắc hơn cả :
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biết theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ đã đưa ta về cảnh sắc mùa thu đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện lên trước mặt cảnh ao chuôm, cảnh thật, cảnh sống, chứ không ước lệ theo sách vở. Ai cũng đã từng đọc ba bài thơ thu hầu hết đều thuộc, mà nhiều bài thơ thu khác lại không thuộc. Trước đó có nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam nhưng chưa ai bắt được cái hồn của nó. Họ còn quá phụ thuộc vào sách vở.
Trong bài Thu ẩm không có ước lệ văn hoa sang trọng rèm trâu, lầu ngọc, chén vàng,… mà rất đỗi bình dân :
Năm gian nhỏ cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Những hình ảnh rất thật, rất gần gũi với cuộc sống người dân. Hình ảnh đơn sơ nhưng khêu gợi. Mùa thu thôn quê lại lồng trong hình ảnh vòm trời với mấy cành trúc phất phơ :
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Trong bài Thu vịnh mang cái hồn của cảnh vật mùa thu, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Trời cao xanh ngắt toả xuống cảnh vật. Cây tre Việt Nam xanh non cong vút in trên nền trời, song thưa để mặc ánh trăng vào. Có gắn bó với vùng quê Nguyễn Khuyến mới cảm nhận được sự chuyển mình nhẹ nhàng của cây cỏ hoa lá :
Hạ quất ngoài vườn chờ nứt vỏ,
Giò tiên trong chậu chửa bung hoa.
Nguyễn Khuyễn có lòng yêu thiên nhiên cảnh vật thiết tha. Những cuộc du ngọn đều để lại trong ông những ấn tượng khó phai. Ông đặc biêt yêu dấu cảnh sắc nông thôn: Thửa vườn quanh nhà, hàng giậu trước sân, con đường quanh co, tiếng ngỗng lưng trời,.. rất gần gũi với nông thôn Việt Nam. Nó trái ngược với cảnh sắc hoa lệ giả tạo của tầng lớp quý tộc. Là làng cảnh Việt Nam mộc mạc đơn sơ, nhưng qua tâm hồn dào dạt tình yêu đất nước nó lại chan chứa thi vị. Lên núi an lão nhìn xuống đồng bằng:
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn làng trông xuống bé con con.
Có yêu quê hương, có đắm mình trong cảnh quê mới có thể cảm nhận hết được cảnh sắc của quê hương. Mộc mạc, giản dị nhưng ánh qua ngoài bút của tác giả trở nên thi vị hơn. Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh việt Nam, tình yêu quê hương đất nước của ông ngấm vào từng câu thơ. Đọc thơ ông ta thấy yêu quê hương đất nước mình hơn, thấy những hình ảnh của nông thôn Việt Nam hiện lên trước mặt, không lẫn vào đâu. Đó là đặc trưng của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam. Điều này trước đó chưa có nhà thơ nào đặt tới vấn đề khêu gợi tình yêu quê hương làng mạc đến thế.
2.2. Bức tranh sinh hoạt hàng ngày của chốn làng quê
Nhà thơ Nguyễn Khuyến không chỉ có một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết mà ở ông còn toát lên một tấm lòng yêu mếm, đồng cảm với đời sống của người dân lao động. Có khi là sự miêu tả trực tiếp song ông cũng thường gửi gắm tâm trạng hay miêu tả cuộc sống của con người dưới những bài thơ tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Khuyến càng rời xa chốn quan trường, căm thù giặc Pháp bao nhiêu càng thể hiện thái độ chân thành với nhân dân bấy nhiêu. Bởi không ai hết ông thấu hiểu nỗi gian khổ của nông dân, là người rất mực gần gũi với người nông dân, là nhà thơ nông thôn. Ông viết bằng tất cả những tình cảm chân tình và sâu lắng nhất của mình. Đúng như lời nhận xét của Xuân Diệu cho rằng Nguyễn Khuyến là nhà thơ “dân tình làng cảnh Việt Nam”.
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta mới thực sự thấy cái hay. Ta cảm nhận thấy thật sự ông bước xuống đồng ruộng, đến với người dân thôn dã và từ cuộc sống đầy lam lũ, gian lao vất vả nhưng không kém phần thơ mộng của làng cảnh Việt Nam:
Năm nay cày cấy vẫn chân chua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chưa khá !
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
Có gần gũi với người dân mới có thể hiểu hết mọi khó khăn của họ, mới hiểu được cái nhọc nhằn của nhà nông phải gánh! Nguyễn Khuyến đã phản ánh cuộc sống của người dân với một sắc thái đậm đà đằm thắm. Cũng trăn trở, lo toan không khác một lão nông chi điền. Ông trải lòng mình với nỗi buồn vui của quê hương lam lũ. Ăn uống cũng kham khổ, cũng tằn tiện như dân quê. “Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”, kinh tế sao eo hẹp đến thế? Không khác gì những người nông dân cũng biết đất đai cũng chi li cụ thể sát sườn như họ.
Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt,
Đấu lương đo đắn tuổi non già.
Câu thơ rất đỗi bình thường, không có gì đặc sắc nhưng cái hay ở đây tác giả thấu hiểu công việc đồng áng của người nông dân. Đối với người nông dân một hạt thóc cũng quý. Nguyễn Khuyến đã thấu hiểu điều đó. Ông đứng trong cuộc chứ không đứng trên cao, không dựng ngoài để nói. Có như vậy mới hiểu được sự cơ cực, sự lo lắng của người nông dân khi bị lụt:
Quai mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
Tác giả còn nhìn thấy cảnh lụt tràn đồng, đầy đau thương:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong lượn trước nhà.
Nguyễn Khuyến còn có con mắt quan sát tinh tế, khéo thu được những nét điển hình vào những câu thơ ngắn gọn:
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.
Đọc hai câu thơ này ta thấy cảnh làng xóm thật quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh chú trâu già, hình ảnh chú chó – những con vật thường gắn với cuộc sống của người nông dân. Và cả những cảnh lo toan, cảnh đi vay nợ lãi, bán lúa non, rồi phải đem bán vợ đợ con, mất nhà mất ruộng, cái thong long lúc nào cũng chực thắt cổ người dân:
Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi,
Chục ba chục bảy tính làm sao?
Bức tranh nông thôn Việt Nam hiện lên trong thơ Yên Đỗ với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kì. Ngoài những bộn bề của lo toan và làm lụng của cuộc sống ta còn thấy có cái vui - hạnh phúc của những ngày tết. Người dân Việt Nam rất coi trọng ba ngày tết, dù đói kém thế nào chi nữa cũng chuẩn bị chu tất cho tất cả, rượu thịt, bánh chưng, mâm cổ đầy đủ…
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
Ông còn hoà mình vào cuộc sống dân quê để nghe thấy tất cả:
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai mà chẳng trước xuân sang.
Nguyễn Khuyến tâm hồn còn trẻ trung như con trẻ, còn yêu đời và luôn hoà mình vào cuộc sống. Không chỉ những lo toan sinh hoạt hằng ngày mà ngay cả những cái tầm thường, nhỏ mọn nhất cũng được ông đón nhận thật nhân ái. Đây là cảnh bà chửi tục và kia là nỗi lòng của bác trai goá vợ:
Lưng trời gió vút điều ngân vắng,
Khắp chốn cành cao chim ríu ran.
Ầm xóm, gái già văng cãi tục,
Rộn ràng, trai goá ngủ không an.
Qua ngòi bút sắc sảo sinh động và rất đỗi gần gũi với người nông dân Nguyễn Khuyến. Ta thấy cuộc sống của người nông dân gắn bó với ruộng đồng thôn xóm như hiện hữu trước mặt với đầy đủ khía cạnh, kể cả những cái vụn vặt nhỏ nhặt nhất. Trước và sau Yên Đỗ không có nhà thơ nào viết về cuộc sống hàng ngày sắc cạn, gần gũi và đầy đủ như ông.
2.2. Tình cảm gia đình, bạn bè, làng xóm sâu đậm
Nguyễn Khuyễn cáo quan về quê những không hề thoát ly cuộc sống. Ngoài tình cảm yêu nước ra, Nguyễn Khuyến còn gắn bó cuộc đời, bằng nhiều tình cảm khác: đó là tình thương vợ con, thương bạn bè, thương láng giềng, tình mến yêu đối với cảnh vật nông thôn…. Đó là những tình cảm rất bình thường, đó là cuộc sống hàng ngày. Nhưng trong Nguyễn Khuyến, những cái bình thường ấy đi vào thơ văn với một giá trị đặc biệt. Từ những tình cảm rất đỗi thường ấy ta thấy ông là một con người tình cảm và tế nhị.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng nhờ có người vợ đảm đang chu đáo nên sinh hoạt gia đình cũng đỡ hơn. Khi vợ ông mất ông thực sự đau xót, lời ông khóc vợ đã thể hiện tình cảm và tấm lòng thuỷ chung:
“Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể chuyện trăm năm!...”.
Một tình cảm chân thành, xúc động, một tiếng khóc thầm kín lắng đọng trong tâm hồn tác giả!
Tình yêu thương đối với con của ông cũng vô bờ bến. Ông luôn quan tâm lo lắng đối với các con mình. Khi con đi vào Huế đi thi, ông lo lắng:
Bấm đốt, con ta đường vào Huế,
Hôm nay chắc sẽ qua Đèo Ngang.
Không chỉ có tình cảm sâu đậm với vợ con, mà ngay với bạn bè ông cũng rất đỗi gần gũi. Khi nghe tin có lụt ở quê của bạn (Bùi Văn Quê) ông viết thơ hỏi thăm như một bà quê mùa thật thà. Trong bài Nước lụt thăm bạn.
Ai lên nhắn hỏi bác Châu - cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con mua đắt rẻ,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
Phận thua suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả chơi bời hoạ sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu!
Nghe tin Dương Khuê mất Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc Dương Khuê nói lên tình cảm đau xót của mình đối với bạn. Tuy không cùng đường thơ văn nhưng đã là bạn đồng môn thì dù sau “vật đổi sao dời”, họ vẫn giữ tình bạn thuỷ chung.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tin tôi bong chân tay rụng rời!
Nguyễn Khuyến cũng là con người, cũng biết đau xót trước những mất mát gia đình, bạn bè, tình cảm riêng tư. Trước đó đã có nhiều nhà thơ nói đến vấn đề này nhưng mỗi người đều có một sắc thái riêng. Trong văn học tình cảm riêng tư thường mang sắc thái chung, có tình cảm đạo đức cộng đồng. Đặc sắc của Nguyễn Khuyến là tình cảm của ông giữ được nguyên vẹn tính cá thể, cụ thể của nó, mà không tan biến vào cái chung, và cái cụ thể ấy lại có tính chất nông thôn rõ rệt. Như đã phân tích ở trên, ông không chỉ làm thơ, làm câu đối về vợ con, mà ông còn làm thơ, làm câu đối tặng người láng giềng, một bà thông gia, một anh chàng hàng thịt, một chị thợ rèn, thợ nhuộm,… câu nào bài cũng chân tình thiết tha.
Cho tới cảnh bạn chơi nhà, cảnh nhà nghèo không có gì thiết đãi bạn.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
… … … … … ..
Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Cái gì cũng có nhưng lại không có gì hết. Bài thơ bóc dần sự khách sao màu mè của xã hội, để cuối cùng, lớp vỏ hình thức không còn nữa ta thấy một tình bạn trong sang cao quý.
Bác đến chơi đây, ta với ta !
Bài thơ có thể chịu ảnh hưởng của thi tứ bài Khách chí của Đỗ Phủ, nhưng sáng tác của Nguyễn Khuyến có những đặc sắc, độc đáo diễn tả thiên nhiên, gần gũi, tình cảm và rất Việt Nam.
Anh em làng xóm xin mới cả,
Giò bánh, trâu heo cùng.
Chu đáo bên làng lêm với tớ,
Ông từ ngõ chợ lại cùng ta.
Người nông thôn luôn sống trong tình nghĩa, quây quần trong những ngày tết, đêm giao thừa và cả những ngày mừng thọ,… Những bài thơ có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh của cuộc sống văn hoá độc đáo của nông thôn Việt Nam, rõ nét và tưởng như chính xác lạ lùng.
Người dân quê sống “tối lửa tắt đèn có nhau”, tình cảm chia sẻ ngọt bùi. Họ không kín cổng cao tường như người dân thành phố. Nguyễn Khuyến hiểu rõ điều đó, ông sống trong hoà mình vào cuộc sống nơi đây. Ông thấu hiểu tình cảm của họ. Một nhà thơ của nông thôn Việt Nam đã nói lên tình cảm tốt đẹp của người dân quê Việt Nam.
2.4. Nghệ thuật miêu tả dân tình làng cảnh Việt Nam
Nguyễn Khuyến là nhà Nho - một ông quan Tổng đốc nhưng lại vô cùng gần gũi với cuộc sống nông thôn. Ông am hiểu về con người cũng như cảnh sắc nơi đây. Chính vì điều này là nền tảng trong sáng tác của ông. Ông sáng tác theo quan niệm Văn dĩ tải đạo, Thi ngôn chí và ông thấy hoàn toàn thoải mái trong quan niệm này. Đôi lúc ông cũng vượt rào. Thơ văn ông miêu tả hiện thực khách quan một cách trung thực.
Trong sáng tác của ông đề tài dân tình làng cảnh luôn chiếm vị trí cao. Ông là nhà thơ nông thôn xuất sắc nhất. Nguyễn Khuyến viết về tất cả những vấn đề của nông thôn kể cả những vấn đề nhỏ nhặt nhất.
Không chỉ ở đề tài, nội dung mà cả trong ngôn ngữ. Ông đã kế tục và phát huy thêm truyền thống của các nhà văn đời trước. Sử dụng ngôn ngữ có tính chất dân tộc và đại chúng rõ rệt. Không quá lệ thuộc vào chữ Hán và hầu như không lấy điển tích Trung Quốc. Tiếng Việt ông dùng đều thuộc ngôn ngữ phổ thông, lắm khi là những danh từ, những cách nói, những tục ngữ thành ngữ thường dùng ở nông thôn. Không phải chỉ có “búi tóc củ hành, buông quần lá toạ”, “thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng”, mấy ổ lợn con, vài gian nếp cái, xôi, bánh, trâu, heo, hay cây cải, cây cà, cây bầu, cây mướp mới là nông thôn mà phải có lối nói: “Thửa ruộng rạch ròi chân xấu tốt”, “Nhờ được bà hay lam hay làm”, “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa”,… mới là nông thôn máu thịt. Cách sử dụng ca dao, tục ngữ một cách lưu loát và thành thục.
Ngôn ngữ nông thôn trải qua hàng nghìn đời nên vô cùng phong phú và đa dạng với những cách nói khác nhau. Bên cạnh đó Nguyễn Khuyến còn có tài sử dụng diễn tả của các từ ghép: Thấp le te, đóm lập loè, bé tẻo teo,… cách dùng tiếng cũng hết sức chính xác: Bóng trăng trên mặt ao rung động được ghi lại một cách thân tình “Làn ao long lanh bóng trăng loe”, một tiếng “làng nhàng”,… Từ ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ thơ đi sát vào đời sống, gần gũi thân quen với người nông dân.
Thiên nhiên được khắc hoạ với những đường nét, màu sắc đẹp gợi lên những rung động trong sáng. Con người với đời sống sinh hoạt, với những chi tiết chọn lọc đã nói lên được cái thần thái ở nông thôn. Bên cạnh đó cùng với sự kết hợp thể thơ truyền thống dân tộc như lục bát, song thất lục bát, ca trù…. Nhiều lúc ông phá vỡ tính quy phạm của văn chương trung đại, nhờ vậy hồn thơ ý thơ phúng túng, tinh tế và sâu lắng.
Gần gũi gắn bó với cuộc sống nông thôn. Từ cách cảm, cách nghĩ cho tới cách viết đều rất gần gũi với người dân Việt Nam. Ngôn ngữ không trau chuốt, gọt giũa, không xa hoa, tráng lệ mà vô cùng bình dị. Ông sử dụng những ngôn ngữ bình dân hàng ngày kết hợp với thể thơ truyền thống của dân tộc tạo nên những bức tranh nông thôn đặc sắc, chỉ có ở Việt Nam không lẫn đâu được.
KẾT LUẬN
Nguyễn Khuyến là nhà thơ dân tình làng cảnh Việt Nam đúng như nhận xét của Xuân Diệu. Là một nhà thơ nông thôn xuất sắc. Ông am hiểu về nông thôn Việt Nam đến tận chân tơ kẽ tóc. Thiên nhiên cho tới con người với cuộc sống hàng ngày đi vào thơ ông một cách tự nhiên, giản dị mà rất tinh tế, sâu lắng.
Viết về nông thôn với một tấm lòng luôn hướng về những người dân nghèo khổ. Điều đó thể hiện một tấm lòng giàu lòng yêu thương tình nghĩa sâu nặng kín đáo. Cuộc đời phần lớn sống ở nông thôn, cuộc sống lại nghèo đói, thiếu túng quanh năm. Tuy là một nho sĩ nhưng ông cũng phải làm lụng vất vả như một người nông dân thực thụ. Chính điều này đã giúp ông hiểu hơn về người nông dân. Sau khi từ quan về ở ẩn. Xa vua quan và bọn thực dân Pháp bao nhiêu thì ông lại càng gần dân bấy nhiêu. Ông thấu hiểu nỗi khổ cực của người nông dân. Tất cả sự am hiểu đó đã được đưa vào trong thơ với ngôn ngữ không cầu kì, gọt giũa, trau chuốt mà ông sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày kết hợp với ca dao, tục ngữ tạo nên sự giản dị gần gũi. Thơ văn Nguyễn Khuyến đã đóng góp vào kho tàng thơ ca nước nhà và đặc biệt là thơ dân tình làng cảnh, một nét đặc sắc mà chưa nhà thơ nào làm được.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ cuối thế kỉ XIX đồng thời cũng là một trong những sĩ phu lựa chọn con đường bất hợp tác để bộc lộ thái độ bất bình trước triều đình và giữ trọn danh tiết. Tâm hồn nghệ sĩ của ông yêu cái đẹp thiên nhiên, có mối đồng cảm sâu sắc với con người và cuộc sống thôn dã. Ông là một trong những đại diện lớn nhất của văn học Việt Nam trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh vũ, Tuấn Thành (2005), Nguyễn Khuyến tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học.
2. Toàn Ánh (2005), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, Nxb Trẻ.
3. Xuân Diệu (1971), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Khoa học xã hội, H.
4. Tủ sách đại học sư phạm (1971), Lịch sử văn học Việt Nam (tập IV A), Nxb Giáo dục, H.
5. Hoàng Hữu Yên (1984), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Giáo dục.
6. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nguyễn Khuyến phê bình bình luận văn học, Nxb Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh.
7. Lê Bảo (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường (Nguyễn Khuyến), Nxb Giáo dục.
8. Mai Hương (Tuyển chọn và biên soạn) (2000), Nguyễn Khuyến - Thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hóa thông tin, H.
9. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn) (1992), Phê bình, bình luận văn học Nguyễn Khuyến, Nxb Khánh Hòa.
10. Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Nguyễn Khuyến - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,.
11. Nguyễn Lộc (1971), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp.
12. Nhiều tác giả (1976), Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, Nxb Văn Học, H.
13. Nguyễn Huệ Chi (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ, Nxb Giáo dục, H.
14. Ngô Viết Dinh (Chọn và biên tập) (2001), Đến với thơ Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh niên.
15. Nguyễn Phong Nam (2003), Giáo trình văn học Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng.
16. Nguyễn Phong Nam (2008), Bài giảng tác gia văn học trung đại.
1.Lý do chọn đề tài
Quê hương là tiếng gọi tha thiết nhất cất lên từ trái tim của mỗi con người. Có thể nói rằng quê hương với những cảnh vật quen thuộc luôn là đề tài gợi nhiều cảm xúc nhất đối với các nhà văn, nhà thơ mọi thời đại. Cuộc sống và cảnh vật nơi thôn dã ấy đã đi vào thơ ca và trở thành nguồn cảm hứng dào dạt sáng tạo nên những hình ảnh, những tâm hồn mang đậm bản sắc Việt Nam. Tất cả những cảnh trí thiên nhiên, cuộc sống con người, những tình cảm gắn bó sâu đậm qua những trang thơ càng trở nên sâu sắc, tha thiết và gợi cho ta biết bao cảm xúc đáng trân trọng.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ quê cảnh Việt Nam. Tất cả những cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống của những người dân thôn quê đã cuốn hút ông. Gần cả cuộc đời gắn bó với nông thôn, được tắm mình trong dòng chảy quê hương. Cuộc sống nơi đây đã in đậm vào tâm hồn ông. Điều này đã được Nguyễn Khuyến thể hiện một cách sâu sắc và hết sức thành công trong những trang thơ của ông.
Là một danh nhân văn hoá, một thi hào dân tộc, làm nên giá trị thơ văn Nguyễn Khuyến là toàn bộ sáng tác của nhà thơ nhưng cái làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết về cảnh và người chốn quê. Những bài thơ bộc lộ rõ nhất tấm lòng của tác giả. Bỏ lại sau lưng những tầm chương, tầm cú, những vay mượn ồn ào, những vần thơ quý phái, tẻ nhạt. Nguyễn Khuyến là người đã có công đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, làng quê, với đời sống thường nhật của người dân đói nghèo, lam lũ…, tạo nên những sáng tác giàu tính cách tân và có giá trị lâu bền trong đời sống văn hoá dân tộc.
Đề tài viết về Làng cảnh quê hương Việt Nam từ xưa đến nay có rất nhiều song chưa có ai đề lại ấn tượng sâu đậm cho người đọc như Nguyễn Khuyến. Đến với thơ của ông ta thật sự tìm về không gian của chốn quê – những cảnh sắc, cuộc sống, tình cảm đầy ân tình. Tìm hiểu đề tài “Nguyễn Khuyễn – Nhà thơ quê cảnh” sẽ giúp chúng ta có những cảm nhận sâu sắc hơn về nhà thơ, về những vần thơ sâu sắc, chứa chang bao nhiêu ân tình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Khuyến được đánh giá là một đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học Việt Nam trung đại. Là một nhà thơ lớn, ông viết ở nhiều đề tài khác nhau và ở cả hai thể loại chữ Nôm và chữ Hán. Ở đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu những nét quê cảnh trong thơ ông chủ yếu ở mảng thơ Nôm.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX, tài năng nghệ thuật cũng như những đóng góp to lớn của ông cho nền văn học dân tộc là rất lớn và có ý nghĩa sâu sắc. Làm nên giá trị thơ văn của ông là toàn bộ những sáng tác chữ Hán và chư Nôm, trữ tình cũng như trào phúng. Những làm nên cái độc đáo của nhà thơ thì chủ yếu là những vần thơ viết về nông thôn, bao gồm những vần thơ viết về con người, cảnh vật thiên nhiên, những phong tục tập quán. Về phương diện này không có nhà thơ đương đại nào viết được bằng ông, và trước đó trong lịch sử cũng không ai viết được như thế. Nguyễn Khuyến xứng đáng trở thành nhà thơ số một về nông thôn Việt Nam. Quả thực Nguyễn khuyến là nhà thơ quê cảnh kiệt xuất nhất của văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Mảng thơ về cảnh sắc, con người và văn hóa thôn quê Việt Nam của ông có những nét độc đáo, đặc sắc mà không ai có thể vươn tới được.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu Nguyễn Khuyến nói chung và vấn đề thơ Quê cảnh của Nguyễn Khuyến nói riêng cho đến nay vẫn được xem là một dòng nước chưa vơi cạn. Nguyễn Khuyến luôn nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, lí luận,…
Mã Giang Lân đã đánh giá: “làm nên giá trị thơ văn của Nguyễn Khuyến là toàn bộ những sáng tác của nhà thơ, những làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết về cảnh và người ở chốn quê, những bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, trước đó cũng có những nhà thơ viết về làng cảnh Việt Nam những chưa có ai để lại ấn tượng sâu đậm bằng Nguyễn Khuyến” [8;74]. Như vậy, theo Mã Giang Lân thì mảng thơ viết về quê cảnh đã tạo nên nét đặc sắc riêng trong thơ Nguyễn Khuyến. Còn theo Nguyễn Lộc thì “gọi Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn, trước hết không phải vì ông viết về chủ đề nông thôn mà ông viết với tình cảm, với sự trăn trở lo âu của con người ở nông thôn thực sự, mà chủ yếu là người nông dân” [8;71].
Vũ Thanh cũng có lời: “Nguyễn Khuyễn sống đời sống của người nông dân quê ông và ông viết về cuộc đời họ, cảnh đời họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần nghìn ngàn năm của văn học dân tộc Việt Nam đời sống nghèo khó của người nông dân với những cảnh sinh hoạt bình thường ở thôn quê trờ thành đối tượng phản ánh của thơ ca”, và “Nguyễn Khuyễn chính là nhà thơ viết về nông thôn số một của văn học dân tộc (…). Chỉ đến Nguyễn Khuyến mới làm được những điều mà thơ ca truyền thống chưa làm được (và ngay cả trong thơ hiện đại có lẽ cũng chưa có được một nhà thơ nông thôn nào tầm cỡ như Nguyễn Khuyến). Một nông thôn thật sự đã hiện ra trong thơ Yên Đỗ. Đó là một nông thôn từng gắn bó máu thịt với nhà thơ ngay từ thưở lọt lòng” [10;18-19] .
Lê Trí Viễn viết: “Cho đến khí vị thanh đạm (…),đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm của ông đối với đời sống lao động của người nông dân” [8;189]. Nguyễn Khuyễn cả đời gắn bó máu thịt với làng quê, am hiểu về quê hương.
Nguyễn Đức Quyền viết: “Làng cảnh Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng, thanh đạm, hồn hậu. Mỗi màu sắc, mỗi đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng là nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc của mùa thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân” [14;635] .
Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức tranh làng cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của con người, đất nước Việt Nam” [13;24].
Xuân Diệu cũng đã viết: “Thơ Yên Đỗ vẫn phảng phất bay lượn giữa quê hương đồng chiêm trũng Hà Nam, trên quê hương làng mạc Việt Nam tất cả; bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên một tình yêu quê hương làng mạc trong văn học, tình yêu đồng bào, bà con dân quê trong xóm mình” [8;48]. Cũng chính Xuân Diệu gọi Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
PGS.TS Nguyễn Phong Nam cũng có lời nhận định: Cuộc đời và văn chương Nguyễn Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là “nhà thơ quê hương làng cảnh Việt Nam”.
Như vậy việc tìm hiểu những nhận định, những nhận xét về Nguyễn Khuyến – nhà thơ quê cảnh giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ và thấy được phần nào những đóng góp của thế hệ người đi trước. Trên cơ sở kế thừa kết hợp nguồn tư liệu, chúng tôi đi vào việc nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu này sẽ khẳng định thêm một lần nữa vị trí của nhà thơ cũng như bức tranh làng cảnh Việt Nam qua trang thơ của ông.
5. Cấu trúc đề tài
Đề tài của chúng tôi gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương 1: Nguyễn Khuyến – Danh nhân văn hoá
Chương 2: Quê cảnh nông thôn Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến
Cuối cùng là tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
Chương 1: NGUYẾN KHUYẾN – DANH NHÂN VĂN HOÁ
1.1. Cuộc đời Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh ngày 15- 2- 1385. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng. Bên nội quê gốc ở vùng Treo Vọt, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đỗ cho đến đời nhà thơ đã được năm trăm năm. Ông thân sinh nhà thơ là Nguyễn Liễn, vẫn theo đòi Nho học, đỗ ba khoá tú tài, chuyên nghệ dạy học.
Mẹ là Trần Thị Thoan, quê làng Văn Khuê, tục gọi làng Ngói, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên (nay thuộc xã Yên Trung, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Ông ngoại là nhà thơ Trần Công Lạc đỗ sinh thời Lê. Cụ gả con gái thứ tư cho ông Liễn và tạo điều kiện cho dạy học ở đây. Nguyễn Khuyến chào đời từ đây.
Năm 1852 ông lấy vợ và thi hương lần thứ nhất nhưng không đỗ. Năm sau dịch thương hàn đã cướp đi rất nhiều người thân của ông. Khoa Giáp Tí (1864), ông đỗ giải nguyên nhưng năm sau thi hội lại trượt, ở lại Huế theo học. Đến khoa Tân Mùi (1871), Nguyễn Khuyến đỗ đầu cả ba kì thi: Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình, được vua ban cờ biển kèm theo hai chữ “Tam Nguyên”. Sau đó ông được bổ làm quan ở Huế, Thanh Hoá, Nghệ An. Tháng 7 năm 1883, ông được cử làm phó sứ đi sứ sang triều đình Mãn Thanh, nhưng chưa qua biên giới thì có lệnh ngừng lại. Năm 1884 buồn vì không làm gì được để cứu vãng tình thế và không cam tâm làm tay sai cho kẻ thù ông đã cáo quan về ở ẩn.
Ngày 5 tháng 2 năm 1909 Nguyễn Khuyến mất tại quê nhà, hưởng thọ 75 tuổi.
Nguyễn Khuyễn là người học trò xuất sắc của nhà trường phong kiến, một nhà nho ưu tú về phẩm hạnh cũng như học vấn, nhưng ông cũng là nạn nhân của tư tưởng nho giáo khi nó đã lâm vào trình trạng phá sản. Nguyễn Khuyến - một trong những đại biểu lớp cuối của một kiểu nhà nho: kiểu nhà nho quân tử (mà hồi quang sau chót của nó là những gương mặt nghĩa sĩ Cần vương). Cuộc đời ông là một bi kịch. Trong ông luôn diễn ra nỗi mặc cảm về sự bất lực trước trách nhiệm đối với đất nước dân tình của một trí thức chân chính, luôn trăn trở về sự lỗi thời của vai trò mình đang sắm trước lịch sử… Suy ngẫm về cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến tự đánh giá một cách xót xa:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời
(Di chúc)
1.2. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến sáng tác nhiều và liên tục suốt cuộc đời ngay từ khi là một anh Khoá nghèo đến khi mất. Đương thời ông nổi tiếng là một thi nhân tài hoa. Tác phẩm của ông được tập hợp riêng trong những cuốn sách in hoặc chép tay cả mảng thơ Nôm và chữ Hán. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Khuyến bao gồm nhiều thể loại: Thơ đường luật, cổ phong, ca từ, lục bát, hát nói, câu đối, văn sách…nội dung thơ chữ Hán và chữ Nôm hoàn toàn thống nhất, rất phong phú về đề tài, về phương pháp biểu hiện cảm xúc.
Tác phẩm của Nguyễn Khuyến cho đến nay vẫn chưa được sưu tầm và công bố đầy đủ. Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Khuyến được cắm mốc lớn từ khi ông cáo quan về ở ẩn. Đây là bước ngoặc trong sự nghiệp thơ văn của ông. Bởi cáo quan không có nghĩa là ông đi ở ẩn dật chỉ là phản ứng tự nhiên của một nhà nho chân chính, không đủ dũng khí để đánh thực dân.
Nói đến Tam Nguyên Yên Đỗ là nói đến một nhà thơ nổi tiếng. Một cụ Tam Nguyên đã từng đỗ đầu cả ba kì thi, điều đó chứng tỏ văn chương cử tử của ông đã đạt đến mẫu mực. Nguyễn Khuyến sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, nhưng số lượng chữ Nôm không nhiều mà phần lớn viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên Tam nguyên Yên Đỗ chỉ nổi tiếng bằng thơ Nôm. Bởi chữ Nôm là chữ dân tộc, dễ hiểu và độc giả lại dễ nắm bắt lại có thể diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người. Quả thật thơ Nôm Nguyễn Khuyến có thể sánh với bất cứ nhà thơ nào trong làng văn học dân tộc. Những vần thơ Nôm ông viết về làng cảnh Việt Nam là những vần thơ kiệt xuất. Có điều dường như trong thơ Nôm chỉ thấp thoáng cảnh đó. Phần còn lại ông luôn hướng tới cảnh ruộng đồng, ao hồ làng mạc và bà con hàng xóm, bởi tinh thần cởi mở hoà đồng. Còn thơ chữ Hán chỉ dành riêng cho nỗi niềm của mình thôi.
Thông qua cuộc đời, sự nghiệp thơ văn cộng với tài năng nhiều mặt… đã chứng tỏ một phần nào đó vị trí của Nguyễn Khuyến là danh nhân văn hoá.
CHƯƠNG 2: QUÊ CẢNH NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
2.1. Bức tranh thiên nhiên - cảnh sắc của làng quê Việt Nam
Quê hương Việt Nam từ bao đời nay vốn bình dị, thân quen trong kí ức của bao thế hệ với những cảnh thiên nhiên gắn liền với cuộc sống lao động của người nông dân “chân lấm tay bùn”. Thơ ca chính là sự cảm nhận hồn nhiên và thuần khiết của con người về cái đẹp, cái chuẩn, thước đo của cái đẹp đó thường bắt đầu từ thiên nhiên. Đến với thơ Nguyễn Khuyến cái đẹp đó không phải là những cảnh vật cao sang, xa lạ mà đó là những bức tranh quen mộc mạc nơi làng quê yên ả:
Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa.
Lời thơ mang một chút hóm hỉnh, vui nhộn thể hiện sự sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ “thập thò hoa” đã cho chúng ta thấy được cái trăn trở cựa mình của thiên nhiên, của cuộc sống.
Nguyễn Khuyến có những vần thơ viết về mùa rất hay và đặc sắc. Điều đó đã góp phần làm nên giá trị thơ văn của ông trong mảng thơ trữ tình trào phúng. Nhiều bài thơ thật sự là những bức tranh thiên nhiên kiệt tác. Chúng ta hãy hình dung cảnh sắc của bốn mùa:
Đông:
Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn,
Nón che tới phủ khách thưa lời.
Hạ:
Bờ dậu mưa rào tung lá thắm,
Non xa sấm động toát mây vàng.
Xuân:
Tựa của gió reo man mác mặt,
Ngẩng đầu trời nắng hấp hây mi.
Thoáng thơm cánh mũi hoa đâu nhỉ,
Rí rít bờ tre có tiếng chi.
Cái tài của tác giả là không trực tiếp tả cảnh, chỉ nói cái ấn tượng mà mình cảm nhận được, ấy thế mà cảnh vật lại hiện lên như vẽ. Cái sống động náo nức rực rỡ như một vũ hội âm thanh và ánh sáng; màu sắc và hương vị trên đây rất gần với giọng điệu, phong cách của một nhà thơ mới nào đó.
Tuy nhiên cái làm nên vẻ vang nhất cho Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm về cảnh sắc thu. Với chùm thơ thu tiêu biểu là ba bài: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh đã đánh dấu tuyệt đỉnh cho mảng đề tài thơ Nôm nước Việt. Cảnh trong ba bài là cảnh thu điển hình nhất của mùa thu Việt Nam, ở miền Bắc nước ta, không thể nhầm lẫn với nước nào khác. Cảnh thực ở nông thôn Việt Nam. Nhưng con mắt của nhà thơ đã chiều theo rung động của tâm hồn lựa chọn những cảnh vật những hình sắc nhẹ nhàng, thanh lịch, đạm bạc nhưng gợi cảm, trong ba bài thơ thu thì bài Thu điếu là đặc sắc hơn cả :
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biết theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ đã đưa ta về cảnh sắc mùa thu đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện lên trước mặt cảnh ao chuôm, cảnh thật, cảnh sống, chứ không ước lệ theo sách vở. Ai cũng đã từng đọc ba bài thơ thu hầu hết đều thuộc, mà nhiều bài thơ thu khác lại không thuộc. Trước đó có nhiều nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam nhưng chưa ai bắt được cái hồn của nó. Họ còn quá phụ thuộc vào sách vở.
Trong bài Thu ẩm không có ước lệ văn hoa sang trọng rèm trâu, lầu ngọc, chén vàng,… mà rất đỗi bình dân :
Năm gian nhỏ cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Những hình ảnh rất thật, rất gần gũi với cuộc sống người dân. Hình ảnh đơn sơ nhưng khêu gợi. Mùa thu thôn quê lại lồng trong hình ảnh vòm trời với mấy cành trúc phất phơ :
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Trong bài Thu vịnh mang cái hồn của cảnh vật mùa thu, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa thu. Trời cao xanh ngắt toả xuống cảnh vật. Cây tre Việt Nam xanh non cong vút in trên nền trời, song thưa để mặc ánh trăng vào. Có gắn bó với vùng quê Nguyễn Khuyến mới cảm nhận được sự chuyển mình nhẹ nhàng của cây cỏ hoa lá :
Hạ quất ngoài vườn chờ nứt vỏ,
Giò tiên trong chậu chửa bung hoa.
Nguyễn Khuyễn có lòng yêu thiên nhiên cảnh vật thiết tha. Những cuộc du ngọn đều để lại trong ông những ấn tượng khó phai. Ông đặc biêt yêu dấu cảnh sắc nông thôn: Thửa vườn quanh nhà, hàng giậu trước sân, con đường quanh co, tiếng ngỗng lưng trời,.. rất gần gũi với nông thôn Việt Nam. Nó trái ngược với cảnh sắc hoa lệ giả tạo của tầng lớp quý tộc. Là làng cảnh Việt Nam mộc mạc đơn sơ, nhưng qua tâm hồn dào dạt tình yêu đất nước nó lại chan chứa thi vị. Lên núi an lão nhìn xuống đồng bằng:
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn làng trông xuống bé con con.
Có yêu quê hương, có đắm mình trong cảnh quê mới có thể cảm nhận hết được cảnh sắc của quê hương. Mộc mạc, giản dị nhưng ánh qua ngoài bút của tác giả trở nên thi vị hơn. Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh việt Nam, tình yêu quê hương đất nước của ông ngấm vào từng câu thơ. Đọc thơ ông ta thấy yêu quê hương đất nước mình hơn, thấy những hình ảnh của nông thôn Việt Nam hiện lên trước mặt, không lẫn vào đâu. Đó là đặc trưng của nông thôn Bắc Bộ Việt Nam. Điều này trước đó chưa có nhà thơ nào đặt tới vấn đề khêu gợi tình yêu quê hương làng mạc đến thế.
2.2. Bức tranh sinh hoạt hàng ngày của chốn làng quê
Nhà thơ Nguyễn Khuyến không chỉ có một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết mà ở ông còn toát lên một tấm lòng yêu mếm, đồng cảm với đời sống của người dân lao động. Có khi là sự miêu tả trực tiếp song ông cũng thường gửi gắm tâm trạng hay miêu tả cuộc sống của con người dưới những bài thơ tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Khuyến càng rời xa chốn quan trường, căm thù giặc Pháp bao nhiêu càng thể hiện thái độ chân thành với nhân dân bấy nhiêu. Bởi không ai hết ông thấu hiểu nỗi gian khổ của nông dân, là người rất mực gần gũi với người nông dân, là nhà thơ nông thôn. Ông viết bằng tất cả những tình cảm chân tình và sâu lắng nhất của mình. Đúng như lời nhận xét của Xuân Diệu cho rằng Nguyễn Khuyến là nhà thơ “dân tình làng cảnh Việt Nam”.
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta mới thực sự thấy cái hay. Ta cảm nhận thấy thật sự ông bước xuống đồng ruộng, đến với người dân thôn dã và từ cuộc sống đầy lam lũ, gian lao vất vả nhưng không kém phần thơ mộng của làng cảnh Việt Nam:
Năm nay cày cấy vẫn chân chua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chưa khá !
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
Có gần gũi với người dân mới có thể hiểu hết mọi khó khăn của họ, mới hiểu được cái nhọc nhằn của nhà nông phải gánh! Nguyễn Khuyến đã phản ánh cuộc sống của người dân với một sắc thái đậm đà đằm thắm. Cũng trăn trở, lo toan không khác một lão nông chi điền. Ông trải lòng mình với nỗi buồn vui của quê hương lam lũ. Ăn uống cũng kham khổ, cũng tằn tiện như dân quê. “Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”, kinh tế sao eo hẹp đến thế? Không khác gì những người nông dân cũng biết đất đai cũng chi li cụ thể sát sườn như họ.
Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt,
Đấu lương đo đắn tuổi non già.
Câu thơ rất đỗi bình thường, không có gì đặc sắc nhưng cái hay ở đây tác giả thấu hiểu công việc đồng áng của người nông dân. Đối với người nông dân một hạt thóc cũng quý. Nguyễn Khuyến đã thấu hiểu điều đó. Ông đứng trong cuộc chứ không đứng trên cao, không dựng ngoài để nói. Có như vậy mới hiểu được sự cơ cực, sự lo lắng của người nông dân khi bị lụt:
Quai mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
Tác giả còn nhìn thấy cảnh lụt tràn đồng, đầy đau thương:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong lượn trước nhà.
Nguyễn Khuyến còn có con mắt quan sát tinh tế, khéo thu được những nét điển hình vào những câu thơ ngắn gọn:
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.
Đọc hai câu thơ này ta thấy cảnh làng xóm thật quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh chú trâu già, hình ảnh chú chó – những con vật thường gắn với cuộc sống của người nông dân. Và cả những cảnh lo toan, cảnh đi vay nợ lãi, bán lúa non, rồi phải đem bán vợ đợ con, mất nhà mất ruộng, cái thong long lúc nào cũng chực thắt cổ người dân:
Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi,
Chục ba chục bảy tính làm sao?
Bức tranh nông thôn Việt Nam hiện lên trong thơ Yên Đỗ với đầy đủ những âm thanh và màu sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kì. Ngoài những bộn bề của lo toan và làm lụng của cuộc sống ta còn thấy có cái vui - hạnh phúc của những ngày tết. Người dân Việt Nam rất coi trọng ba ngày tết, dù đói kém thế nào chi nữa cũng chuẩn bị chu tất cho tất cả, rượu thịt, bánh chưng, mâm cổ đầy đủ…
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
Ông còn hoà mình vào cuộc sống dân quê để nghe thấy tất cả:
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai mà chẳng trước xuân sang.
Nguyễn Khuyến tâm hồn còn trẻ trung như con trẻ, còn yêu đời và luôn hoà mình vào cuộc sống. Không chỉ những lo toan sinh hoạt hằng ngày mà ngay cả những cái tầm thường, nhỏ mọn nhất cũng được ông đón nhận thật nhân ái. Đây là cảnh bà chửi tục và kia là nỗi lòng của bác trai goá vợ:
Lưng trời gió vút điều ngân vắng,
Khắp chốn cành cao chim ríu ran.
Ầm xóm, gái già văng cãi tục,
Rộn ràng, trai goá ngủ không an.
Qua ngòi bút sắc sảo sinh động và rất đỗi gần gũi với người nông dân Nguyễn Khuyến. Ta thấy cuộc sống của người nông dân gắn bó với ruộng đồng thôn xóm như hiện hữu trước mặt với đầy đủ khía cạnh, kể cả những cái vụn vặt nhỏ nhặt nhất. Trước và sau Yên Đỗ không có nhà thơ nào viết về cuộc sống hàng ngày sắc cạn, gần gũi và đầy đủ như ông.
2.2. Tình cảm gia đình, bạn bè, làng xóm sâu đậm
Nguyễn Khuyễn cáo quan về quê những không hề thoát ly cuộc sống. Ngoài tình cảm yêu nước ra, Nguyễn Khuyến còn gắn bó cuộc đời, bằng nhiều tình cảm khác: đó là tình thương vợ con, thương bạn bè, thương láng giềng, tình mến yêu đối với cảnh vật nông thôn…. Đó là những tình cảm rất bình thường, đó là cuộc sống hàng ngày. Nhưng trong Nguyễn Khuyến, những cái bình thường ấy đi vào thơ văn với một giá trị đặc biệt. Từ những tình cảm rất đỗi thường ấy ta thấy ông là một con người tình cảm và tế nhị.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng nhờ có người vợ đảm đang chu đáo nên sinh hoạt gia đình cũng đỡ hơn. Khi vợ ông mất ông thực sự đau xót, lời ông khóc vợ đã thể hiện tình cảm và tấm lòng thuỷ chung:
“Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tưởi chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể chuyện trăm năm!...”.
Một tình cảm chân thành, xúc động, một tiếng khóc thầm kín lắng đọng trong tâm hồn tác giả!
Tình yêu thương đối với con của ông cũng vô bờ bến. Ông luôn quan tâm lo lắng đối với các con mình. Khi con đi vào Huế đi thi, ông lo lắng:
Bấm đốt, con ta đường vào Huế,
Hôm nay chắc sẽ qua Đèo Ngang.
Không chỉ có tình cảm sâu đậm với vợ con, mà ngay với bạn bè ông cũng rất đỗi gần gũi. Khi nghe tin có lụt ở quê của bạn (Bùi Văn Quê) ông viết thơ hỏi thăm như một bà quê mùa thật thà. Trong bài Nước lụt thăm bạn.
Ai lên nhắn hỏi bác Châu - cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con mua đắt rẻ,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
Phận thua suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả chơi bời hoạ sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu!
Nghe tin Dương Khuê mất Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc Dương Khuê nói lên tình cảm đau xót của mình đối với bạn. Tuy không cùng đường thơ văn nhưng đã là bạn đồng môn thì dù sau “vật đổi sao dời”, họ vẫn giữ tình bạn thuỷ chung.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tin tôi bong chân tay rụng rời!
Nguyễn Khuyến cũng là con người, cũng biết đau xót trước những mất mát gia đình, bạn bè, tình cảm riêng tư. Trước đó đã có nhiều nhà thơ nói đến vấn đề này nhưng mỗi người đều có một sắc thái riêng. Trong văn học tình cảm riêng tư thường mang sắc thái chung, có tình cảm đạo đức cộng đồng. Đặc sắc của Nguyễn Khuyến là tình cảm của ông giữ được nguyên vẹn tính cá thể, cụ thể của nó, mà không tan biến vào cái chung, và cái cụ thể ấy lại có tính chất nông thôn rõ rệt. Như đã phân tích ở trên, ông không chỉ làm thơ, làm câu đối về vợ con, mà ông còn làm thơ, làm câu đối tặng người láng giềng, một bà thông gia, một anh chàng hàng thịt, một chị thợ rèn, thợ nhuộm,… câu nào bài cũng chân tình thiết tha.
Cho tới cảnh bạn chơi nhà, cảnh nhà nghèo không có gì thiết đãi bạn.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
… … … … … ..
Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Cái gì cũng có nhưng lại không có gì hết. Bài thơ bóc dần sự khách sao màu mè của xã hội, để cuối cùng, lớp vỏ hình thức không còn nữa ta thấy một tình bạn trong sang cao quý.
Bác đến chơi đây, ta với ta !
Bài thơ có thể chịu ảnh hưởng của thi tứ bài Khách chí của Đỗ Phủ, nhưng sáng tác của Nguyễn Khuyến có những đặc sắc, độc đáo diễn tả thiên nhiên, gần gũi, tình cảm và rất Việt Nam.
Anh em làng xóm xin mới cả,
Giò bánh, trâu heo cùng.
Chu đáo bên làng lêm với tớ,
Ông từ ngõ chợ lại cùng ta.
Người nông thôn luôn sống trong tình nghĩa, quây quần trong những ngày tết, đêm giao thừa và cả những ngày mừng thọ,… Những bài thơ có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh của cuộc sống văn hoá độc đáo của nông thôn Việt Nam, rõ nét và tưởng như chính xác lạ lùng.
Người dân quê sống “tối lửa tắt đèn có nhau”, tình cảm chia sẻ ngọt bùi. Họ không kín cổng cao tường như người dân thành phố. Nguyễn Khuyến hiểu rõ điều đó, ông sống trong hoà mình vào cuộc sống nơi đây. Ông thấu hiểu tình cảm của họ. Một nhà thơ của nông thôn Việt Nam đã nói lên tình cảm tốt đẹp của người dân quê Việt Nam.
2.4. Nghệ thuật miêu tả dân tình làng cảnh Việt Nam
Nguyễn Khuyến là nhà Nho - một ông quan Tổng đốc nhưng lại vô cùng gần gũi với cuộc sống nông thôn. Ông am hiểu về con người cũng như cảnh sắc nơi đây. Chính vì điều này là nền tảng trong sáng tác của ông. Ông sáng tác theo quan niệm Văn dĩ tải đạo, Thi ngôn chí và ông thấy hoàn toàn thoải mái trong quan niệm này. Đôi lúc ông cũng vượt rào. Thơ văn ông miêu tả hiện thực khách quan một cách trung thực.
Trong sáng tác của ông đề tài dân tình làng cảnh luôn chiếm vị trí cao. Ông là nhà thơ nông thôn xuất sắc nhất. Nguyễn Khuyến viết về tất cả những vấn đề của nông thôn kể cả những vấn đề nhỏ nhặt nhất.
Không chỉ ở đề tài, nội dung mà cả trong ngôn ngữ. Ông đã kế tục và phát huy thêm truyền thống của các nhà văn đời trước. Sử dụng ngôn ngữ có tính chất dân tộc và đại chúng rõ rệt. Không quá lệ thuộc vào chữ Hán và hầu như không lấy điển tích Trung Quốc. Tiếng Việt ông dùng đều thuộc ngôn ngữ phổ thông, lắm khi là những danh từ, những cách nói, những tục ngữ thành ngữ thường dùng ở nông thôn. Không phải chỉ có “búi tóc củ hành, buông quần lá toạ”, “thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng”, mấy ổ lợn con, vài gian nếp cái, xôi, bánh, trâu, heo, hay cây cải, cây cà, cây bầu, cây mướp mới là nông thôn mà phải có lối nói: “Thửa ruộng rạch ròi chân xấu tốt”, “Nhờ được bà hay lam hay làm”, “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa”,… mới là nông thôn máu thịt. Cách sử dụng ca dao, tục ngữ một cách lưu loát và thành thục.
Ngôn ngữ nông thôn trải qua hàng nghìn đời nên vô cùng phong phú và đa dạng với những cách nói khác nhau. Bên cạnh đó Nguyễn Khuyến còn có tài sử dụng diễn tả của các từ ghép: Thấp le te, đóm lập loè, bé tẻo teo,… cách dùng tiếng cũng hết sức chính xác: Bóng trăng trên mặt ao rung động được ghi lại một cách thân tình “Làn ao long lanh bóng trăng loe”, một tiếng “làng nhàng”,… Từ ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ thơ đi sát vào đời sống, gần gũi thân quen với người nông dân.
Thiên nhiên được khắc hoạ với những đường nét, màu sắc đẹp gợi lên những rung động trong sáng. Con người với đời sống sinh hoạt, với những chi tiết chọn lọc đã nói lên được cái thần thái ở nông thôn. Bên cạnh đó cùng với sự kết hợp thể thơ truyền thống dân tộc như lục bát, song thất lục bát, ca trù…. Nhiều lúc ông phá vỡ tính quy phạm của văn chương trung đại, nhờ vậy hồn thơ ý thơ phúng túng, tinh tế và sâu lắng.
Gần gũi gắn bó với cuộc sống nông thôn. Từ cách cảm, cách nghĩ cho tới cách viết đều rất gần gũi với người dân Việt Nam. Ngôn ngữ không trau chuốt, gọt giũa, không xa hoa, tráng lệ mà vô cùng bình dị. Ông sử dụng những ngôn ngữ bình dân hàng ngày kết hợp với thể thơ truyền thống của dân tộc tạo nên những bức tranh nông thôn đặc sắc, chỉ có ở Việt Nam không lẫn đâu được.
KẾT LUẬN
Nguyễn Khuyến là nhà thơ dân tình làng cảnh Việt Nam đúng như nhận xét của Xuân Diệu. Là một nhà thơ nông thôn xuất sắc. Ông am hiểu về nông thôn Việt Nam đến tận chân tơ kẽ tóc. Thiên nhiên cho tới con người với cuộc sống hàng ngày đi vào thơ ông một cách tự nhiên, giản dị mà rất tinh tế, sâu lắng.
Viết về nông thôn với một tấm lòng luôn hướng về những người dân nghèo khổ. Điều đó thể hiện một tấm lòng giàu lòng yêu thương tình nghĩa sâu nặng kín đáo. Cuộc đời phần lớn sống ở nông thôn, cuộc sống lại nghèo đói, thiếu túng quanh năm. Tuy là một nho sĩ nhưng ông cũng phải làm lụng vất vả như một người nông dân thực thụ. Chính điều này đã giúp ông hiểu hơn về người nông dân. Sau khi từ quan về ở ẩn. Xa vua quan và bọn thực dân Pháp bao nhiêu thì ông lại càng gần dân bấy nhiêu. Ông thấu hiểu nỗi khổ cực của người nông dân. Tất cả sự am hiểu đó đã được đưa vào trong thơ với ngôn ngữ không cầu kì, gọt giũa, trau chuốt mà ông sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày kết hợp với ca dao, tục ngữ tạo nên sự giản dị gần gũi. Thơ văn Nguyễn Khuyến đã đóng góp vào kho tàng thơ ca nước nhà và đặc biệt là thơ dân tình làng cảnh, một nét đặc sắc mà chưa nhà thơ nào làm được.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ cuối thế kỉ XIX đồng thời cũng là một trong những sĩ phu lựa chọn con đường bất hợp tác để bộc lộ thái độ bất bình trước triều đình và giữ trọn danh tiết. Tâm hồn nghệ sĩ của ông yêu cái đẹp thiên nhiên, có mối đồng cảm sâu sắc với con người và cuộc sống thôn dã. Ông là một trong những đại diện lớn nhất của văn học Việt Nam trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Toàn Ánh (2005), Nếp cũ làng xóm Việt Nam, Nxb Trẻ.
3. Xuân Diệu (1971), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Khoa học xã hội, H.
4. Tủ sách đại học sư phạm (1971), Lịch sử văn học Việt Nam (tập IV A), Nxb Giáo dục, H.
5. Hoàng Hữu Yên (1984), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Giáo dục.
6. Hồ Sĩ Hiệp (1997), Nguyễn Khuyến phê bình bình luận văn học, Nxb Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh.
7. Lê Bảo (1999), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường (Nguyễn Khuyến), Nxb Giáo dục.
8. Mai Hương (Tuyển chọn và biên soạn) (2000), Nguyễn Khuyến - Thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hóa thông tin, H.
9. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn) (1992), Phê bình, bình luận văn học Nguyễn Khuyến, Nxb Khánh Hòa.
10. Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Nguyễn Khuyến - Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,.
11. Nguyễn Lộc (1971), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp.
12. Nhiều tác giả (1976), Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, Nxb Văn Học, H.
13. Nguyễn Huệ Chi (1994), Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ, Nxb Giáo dục, H.
14. Ngô Viết Dinh (Chọn và biên tập) (2001), Đến với thơ Nguyễn Khuyến, Nxb Thanh niên.
15. Nguyễn Phong Nam (2003), Giáo trình văn học Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng.
16. Nguyễn Phong Nam (2008), Bài giảng tác gia văn học trung đại.
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: