Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
I. CUỘC ĐỜI
Sinh năm 1491 mất năm 1585, tên húy là Văn Ðạt, tự là Hanh Phủ, đạo hiệu Bạch Vân cư sĩ. NBK vốn người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Cha ông là Văn Ðịnh (Cù Xuyên tiên sinh), mẹ là con gái quan thượng thư Nhữ Văn Lan
Lúc nhỏ, ông theo học bảng nhãn Lương Ðắc Bằng, nổi tiếng thông minh khác thường, được thầy yêu mến.
Học giỏi nhưng lúc còn trẻ,ông không chịu ra thi làm quan, thích sống đời ẩn dật. Mãi đến năm 45 tuổi, ông đột ngột ra thi và đỗ ngay Trạng nguyên khoa Ất Mùi, niên hiệu Ðại Chính thứ 6 (1535) đời Mạc Ðăng Doanh.
Ở triều được 8 năm, ông lại xin về ở ẩn nhưng vẫn theo giúp nhà Mạc khi có yêu cầu.
Về Trung Am, ông cho xây dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân bên dòng sông Tuyết để dạy học trò nên người đời sau còn gọi ông là Tuyết giang phu tử. Học trò ông có nhiều người lỗi lạc như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan,..
Khi mất, ông được nhà Mạc truy phong Lại bộ thượng thư Trình quốc công, cho xây dựng miếu thờ
II. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Chữ Hán: Bạch Vân am tập, một bài tựa, tác phẩm Trung Tân bi quán ký, Thạch Khánh ký.
Chữ Nôm: Bạch Vân quốc ngữ thi (khoảng 170 bài thơ)
III. NỘI DUNG THƠ VĂN
1. Tố cáo hiện thực xã hội đương thời
Sống gần trọn thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng kiến toàn vẹn sự suy sụp từng bước của chế độ phong kiến. Thơ văn ông phản ánh rõ nét thực chất phi nghĩa, tàn khốc của nội chiến phong kiến và những mặt trái của xã hội đương thời. Ở đó, từ vua, quan đến tầng lớp kẻ sĩ xu nịnh đều xem đồng tiền là trên hết. Lễ giáo phong kiến ngày một suy vi:
Cương thường nhật điệu thi
Lễ nghĩa thán quải trượng (Cảm hứng).
Bọn vua chúa gian dâm vô độ, thích gây chiến tranh khiến đồng ruộng biến thành bãi chiến trường, khắp nơi đều là lũy giặc:
Nguyên dã tác chiến trường
Tỉnh ấp biến tặc lũy.
Bọn quan lại được tác giả so sánh với bọn chuột lớn bất nhân chuyên dựa vào thế lực vua chúa để đục khoét của cải của nhân dân khiến mọi người oán đầy bụng
Thành xã ỷ vi gian
Thần dân oán mãn phúc (Tăng Thử)
Lý tưởng trọng nghĩa khinh tài của kẻ sĩ bị bôi nhọ bởi đồng tiền:
Còn bạc còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết rượu hết ông tôi (Thói đời)
Xã hội phong kiến chỉ đầy dẫy nhựng cảnh cá lớn ăn thịt cá nhỏ. Tinh thần nhân nghĩa giờ bị mờ nhạt bởi sức nặng của đồng tiền:
Ðời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thì hơn hết mọi lời
2. Triết lý chữ Nhàn trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
Ðể chỉ tư tưởng nhàn tản, có nhiều thuật ngữ: an nhàn, nhàn tản, nhàn dật, nhàn phóng, ản dật, nhàn,.. Nói chung đều có nghĩa là làm rất ít hoặc không làm gì cả. Thể xác an nhàn, tâm hồn thanh thản, những kẻ sĩ ẩn dật thường không còn lo nghĩ việc đời, thích ngao sơn ngoạn thủy, xem danh lợi như một áng phù vân.
Tư tưởng Nhàn của kẻ tu hành chịu ảnh hưởng của thuyết xuất thế của nhà Phật. Tư tưởng nhàn của những kẻ trốn tránh nhiệm vụ, hưởng lạc, vinh thân phì da là những tư tưởng có tính chất tiêu cực. Nhàn đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, một kẻ sĩ có khát vọng cứu dân giúp đời nhưng bất lực trong hoàn cảnh rối ren, là sự phản kháng, không cộng tác với nhà nước phong kiến để giữ tròn phẩm giá của kẻ sĩ chân chính trong thời buổi loạn lạc:
Lúc nhàn ngẫm việc xưa nay
Không gì hiểm bằng đường đời (Trung Tân ngụ hứng)
Lòng vô sự, trăng in nước
Cửa thảng lai, gió thổi hoa (Thơ Nôm 34)
Rượu đến cội cây ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Cũng có lúc tác giả nhắc đến sự chọn lựa vụng dại của mình mà thật ra là để chê trách sự gian xảo của người đời:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Người xảo thì ta vụng
Âúy vụng thế mà hay
Ta vụng thì người xảo
Ấy xảo thế mà gay (Trung Tân ngụ hứng)
Qua việc ca ngợi chữ Nhàn, có thể thấy rõ tấm lòng yêu nước thương dân chân thành của nhà thơ.
3. Những quan niệm triết lý sâu sắc về cuộc sống
Cuộc đời nhàn tản giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể chiêm nghiệm được thời thế hưng vong. Ông được xem là một nhà thơ triết học nhờ những nhận xét mang tính khái quát, hàm súc cao độ về bản chất của đời sống, lẽ hưng vong, đắc thất, sang hèn:
Hoa càng khoe nở hoa nên rữa
Nước chứa cho đầy nước ắt vơi (Trung Tân ngụ hứng)
Ðối với NBK, sự biến đổi có tính chất tuần hoàn của tạo hóa (theo quan niệm triết học của người trung đại) được đồng nhất với sự biến đổi, hưng vong, đắc thất của chế độ phong kiến. Sự biến đổi này, theo ông, là rất ghê gớm:
Thế gian biến cải vũng nên đồi
Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
Dựa vào lẽ tương sinh tương khắc, ông đã thể hiện rõ những xung đột gay gắt trong xã hội đương thời: chiến tranh phong kiến, sự phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn trong xã hội, mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh trong đời người,..Chính những xung đột đó đã dẫn đến một quá trình suy thoái mà những kẻ sĩ chân chính thời đó luôn đau lòng khi chứng kiến. Dựa vào lẽ tuần hoàn, ông cố gắng lý giải sự biến đổi, sự suy thoái của chế độ phong kiến như là một giai đoạn tất yếu trong chu kỳ hết hưng thịnh đến suy vong. Ðiều này cũng có nghĩa là ông rất tin tưởng vào tương lai, lúc mà chế độ phong kiến tìm lại được sự ổn định, cân bằng :
Tái nhất âm hề phục nhất dương
Tuần hoàn vãn phục lý chi thường (Khiển hứng)
Tuy nhiên, sự vận động của lịch sử dân tộc không đồng nhất với sự vận động của chế độ phong kiến. Vì vậy, bản thân những tư tưởng của ông cũng chứa đựng những mâu thuẫn giữa ý muốn giải quyết những khó khăn của phong kiến trong hoàn cảnh suy thoái và sự bất lực trước hoàn cảnh nan giải đó
4. Khát vọng cứu nước giúp đời trong hoàn cảnh nhàn tản.
Nói đến tính chất tích cực trong tư tưởng nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là nói đến một tấm lòng tiên ưu đến già vẫn chưa thôi:
Lão lai vị ngãi tiên ưu chí
Ðắc táng cùng thông khởi ngã ưu (Tự thuật)
Sống trong hoàn cảnh loạn lạc, tâm sự lo âu khiến tóc ông bạc trắng (Nguy thời ưu quốc mấn thành ti- Thu tứ). Tóc bạc trắng, bởi tấm lòng ưu ái vẫn đêm đêm day dứt:
Ưu thời thốn niệm bằng thùy tả
Duy hữu hàn sơn bán dạ chung (Trung Tân quán ngụ hứng)
Tóm lại, NBK thân nhàn nhưng tâm không nhàn, suốt đời lo nước thương dân
5. Tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời sâu nặng.
Tác phẩm của ông phần lớn viết trong bối cảnh cuộc sống nhàn tản ở nông thôn và ông tỏ ra rất tâm đắc với đời sống ẩn cư đó:
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Thơ ông thể hiện một sự gắn bó chân thành giữa con người với cảnh vật:
Non nước có mùi lòng khách chứa
Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ Nôm bài 33)
Ba gian am quán lòng hằng mến
Ðòi chốn sơn hà mặt đã quen (bài 8)
Ông dành trọn tình cảm chân thành của mình cho nhân dân lao động:
Vũ Dương khoái đỗ thời thời nhược
Thượng thụy ưng tri đại hữu niên (Hạ nhật vũ tình)
(Mừng thấy mưa nắng đúng kỳ- Biết điềm lành được mùa lớn)
( Sưu tầm )