Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Nguồn gốc chữ viết của người Việt.
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 177347" data-attributes="member: 288054"><p style="text-align: center"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000"><strong>Nguồn gốc chữ viết của người Việt.</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trước giờ ta thường nghe rằng người Việt chưa từng có chữ viết, về sau người phương bắc sang đô hộ rồi dạy cho ta, sau nhiều ngàn năm bị tuyên truyền, tư tưởng này hầu như trở thành cố hữu. Tuy nhiên gần đây các nhà nghiên cứu cho rằng nước ta đã từng có chữ viết, loại chữ ấy gọi là Khoa đẩu tức là Nòng nọc, suy nghĩ đó bắt đầu từ câu chuyện được ghi lại trong Hậu Hán Thư và được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau “Đời Đào Đường (陶唐), phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch (龜歴, lịch rùa), từ đó người ta tập trung việc nghiên cứu, tìm kiếm chữ viết của người Việt căn cứ vào khái niệm này. Khái niệm khoa đẩu ngoài một số người căn cứ vào sách vở của phương bắc cho rằng đó chỉ là truyền thuyết mà thôi, còn một số khác tin rằng chữ khoa đẩu có thật, nhưng khổ nỗi họ lại nghĩ chữ ấy hay tự dạng ấy giống con nòng nọc, từ đó căn cứ vào hình dạng của con nòng nọc để tìm kiếm. Dĩ nhiên, ở buổi ban đầu quả thật hình ảnh của con nòng nọc có ảnh hưởng tới cách thể hiện con chữ, như bia Vũ Vương là một minh chứng, tuy nhiên theo đà phát triển, với hai hình thể tròn, dài thì làm sao mà đáp ứng được cho hàng ngàn sự vật được, nhất là để diễn tả những khái niệm trừu tường thì biết làm sao, trước nhu cầu đó, khái niệm nòng nọc đã thoát ra ngoài hình tượng của nó, chỉ còn lại hai khái niệm âm dương mà thôi. Tuy nhiên ngày nay ở nước Việt có người cứ căn cứ vào hình thể của con nòng nọc để đi tìm con chữ, kết quả đi vào bế tắc hay nhận nhầm loại chữ khác là của mình, cho dù bản thân con chữ đó cũng chẳng có hình dáng gì có thể hình dung đến con nòng nọc, nhưng họ vẫn tuyên bố đấy là chữ khoa đẩu hay Hỏa tự. Có thể lý do cho việc cố gán cho loại chữ này nọ tại nước Việt là vì sau nhiều năm tìm kiếm chữ khoa đẩu theo hình ảnh mà nhiều người suy nghĩ, họ thấy rằng chẳng có loại chữ nào giống nòng nọc cả, may ra có loại chữ của người Thái mà Vương Duy Trinh đã công bố trong sách Thanh Hóa Quan Phong có gì đó cổ sơ nên người ta nghĩ rằng có thể nó chính là chữ khoa đẩu; bên cạnh đó người ta nghĩ rằng văn hóa người Việt là văn hóa bản địa cho nên việc tìm kiếm chữ Khoa đẩu ở phương Bắc là không khả thi, cho dù cái tên khoa đẩu được biết ngày nay lại được viết bằng chữ Hán. Với cách nghĩ như vậy thì xem ra rất khó tìm ra nguồn gốc của chữ khoa đẩu và nó có thực sự tồn tại ở nước Việt hay không?</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">Dấu tích Nòng nọc mà người Lạc Việt dùng để tượng trưng cho Âm Dương.</span></span></p><p></p><p><span style="font-size: 18px">Gần đây, năm 2011 Hội Lạc Việt ở Quảng Tây, Trung Quốc công bố các hình ảnh về dỉ chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, bức ảnh bên dưới cho thấy rằng hai con nòng nọc đen trắng đã được người Lạc Việt khắc trên đá ở tế đàn Cảm Tang, đây là bằng chứng chắc thật cho thấy rằng chuyện sử dụng hình ảnh của Nòng nọc để tượng trưng cho hai khái niệm âm dương trong dịch học là hiển nhiên; đồng thời qua đây cũng nói lên rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ liên quan đến dịch học; đồng thời qua bức ảnh này, ta thấy hình ảnh con nòng nọc đen ở trên, nòng nọc trắng ở dưới, tức là Âm Dương hay quẻ Thái tượng trưng cho Lạc thư, có nghĩa là Lạc thư – Hậu thiên bát quái đã được thành lập từ khi người Lạc Việt còn sống trên sông Dương Tử, có thể vì vậy mà trong bia Vũ Vương mới có câu “Cửu tộc vong gia” cách dùng từ “cửu tộc” cho thấy khái niệm này đến từ khái niệm cửu cung của Lạc thư – Hậu thiên bát quái; cũng trong bức ảnh này, với hai con nòng nọc đen trắng, người xưa đã cách điệu nó thành hình ảnh con chim Cốc, một loài diệc, tượng trưng cho Thái cực mà tiền nhân nước Việt đã viết trong Hồng Bàng Thị, một câu chuyện lấy vùng đất nơi có tế đàn Cảm Tang làm trung tâm. Hồng là con chim Hồng hộc hay chính là chim cốc, tức con Còng cộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">[ATTACH=full]1545[/ATTACH] </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo dân gian Việt Nam.</span></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Dịch học là đỉnh cao của triết lý âm dương, đại diện cho nó là nòng nọc, chính vì vậy mà ở nước Việt, từ sau khi mất đi tác quyền về dịch học và chữ vuông, người Việt xưa đã làm ra bức tranh với truyện ngụ ngôn Cóc kiện Trê, nội dụng chủ yếu là Trê đã bắt con của Cóc, tức nòng nọc, vì trê cho rằng đó là con của mình, do Trê và Cóc sống chung khu vực, cuối cùng Trê, với tố chất ranh mãnh, đã thắng kiện một cách phi pháp, điều này diễn ra như thực tế. Trong bức tranh người xưa ghi rõ trên lưng Trê hai chữ Dịch lý役里, chữ Dịch 役 này vừa là đồng âm với chữ 易và 亦; đồng thời bên trong chữ 役này còn chứa một ẩn ngữ khác mà theo tôi đó chính là điều người xưa muốn nói, đó là bộ Xích 彳 trong chữ này vốn có âm Diệc hay Dịch, 彳,步也。彳亦聲, ý nói là dịch học ấy của người Việt, trường hợp này cũng như trường hợp chữ Hà 河trong Hà đồ 河圖. Tất nhiên chẳng có Cóc, Trê hay nòng nọc nào cả mà chỉ có người Nam và Bắc và văn hóa dịch và chữ khoa đẩu mà thôi. Như vậy Trê đã chiếm đoạt dịch học và chữ khoa đẩu, tức cái văn hóa mà hàng ngàn năm qua họ tuyên bố với thế giới đó là văn hóa đặc sắc của họ</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><img src="https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2018/04/khoa-dau-5.jpg?w=551" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài ra người Việt còn minh định rõ về chữ Khoa đẩu trong bức tranh Thầy đồ Cóc hay Lão Oa giảng đọc. Thầy Cóc, học trò là Ếch, Nhái, Chão chàng thì chữ tất nhiên là Nòng nọc chứ còn loại chữ nào nữa. Nếu nhìn từ góc độ lịch sử thì đây là những kiệt tác của người Việt, bởi vì trong thầm lặng người Việt đã tìm mọi cách để gởi lại nguồn gốc văn hóa của dân tộc mình, khổ nỗi tiền nhân thì đau đáu nhưng hậu thế xem đây là những bức tranh trào phúng chủ yếu để mua vui mà thôi, đó là chưa kể nhiều người bình phẩm một cách tiêu cực.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><img src="https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2018/04/khoa-dau-6.jpg?w=551" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cũng theo truyền thuyết, bên cạnh chữ Khoa đẩu còn có Hỏa tự火字, tức là chữ có hình ảnh như những ngọn lửa đang cháy. Theo tôi chữ Hỏa trong Hỏa tự là chỉ định người hay dân tộc làm ra con chữ đó chứ không phải là loại chữ được sáng tác ra lấy căn bản từ hình ảnh của ngọn lửa, bởi vì lửa thì chỉ bốc lên mà thôi, trong khi đó con chữ trên thực tế không phản ảnh một cách rõ ràng về điều này, nói khác hơn Hỏa tự cũng chính là chữ Khoa đẩu đấy thôi nhưng là chữ Khoa đẩu của thời kỳ đầu với cách viết như các chữ trên bia Vũ Vương; đồng thời với cái tên Hỏa tự, cho ta biết đó là chữ của người phương Nam hay Lạc Việt, vì theo dịch học, phương Nam thuộc hành Hỏa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Với những gì trình bày trên, từ những gì lưu truyền con ghi lại trong sách sử cùng những bằng chứng trên thực tế cho thấy rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ có thật. Tuy nhiên, có nhiều người ở Việt Nam cho rằng chuyện chữ Khoa đẩu là chuyện mộng mị, tào lao, cho đó là chữ thời tiên Tần tới đời Đường đã không còn, nên nhớ trước Tần là một triều đại nhà Chu kéo dài 800 năm, có thể nói hầu hết các quy tắc ứng xử trong triều đình đều của nhà Chu, tế xuân thu nhị kỳ cũng từ thời đó, còn viết cả Chu Dịch, chẳng lẽ ngần ấy năm nhà Chu không có chữ viết, không có chữ viết thì Chu Dịch viết bằng chữ gì, cả ngần ấy năm sao nhà Chu không đặt tên cho loại chữ đó, chỉ đến thời nhà Hán mới có chữ rồi đặt là chữ Hán chăng! với 800 năm trị vì trên khu vực Trong Nguồn và núi Thái, thế mà ngày nay sử Trung Hoa viết về thời kỳ này hết sức giới hạn, tại sao vậy? Theo tôi vì họ học của nhà Chu nhưng không muốn mình là học trò nên mới bịa ra cái chuyện chữ thần tiên. Thật ra phương Bắc muốn triệt tiêu khái niệm Khoa đẩu, nên mới bịa ra những chuyện hoang đường như thế, họ muốn xóa đi khái niệm Khoa đẩu hay Nòng nọc không gì hơn là vì nguồn gốc của loại chữ này, có nghĩa là nguồn gốc chữ Khoa đẩu hay chữ vuông không phải của họ, vì vậy sau khi đoạt được chữ Khoa đẩu rồi, một mặt họ phát huy giá trị của con chữ, mặt khác họ ra sức tiêu hủy bằng chứng về nguồn gốc của nó, đây là chuyện thường làm của kẻ chiếm đoạt tài sản người khác làm của mình, có lẽ họ tin rằng như thế là đủ để những người về sau không thể nhận ra nguồn gốc loại chữ ấy nữa. Tuy nhiên, họ quên rằng, ngoài khái niệm Nòng nọc, bản thân con chữ cũng đã mang thông điệp đó, nên chi dù cố gắng cách mấy, họ cũng khó mà che dấu được nguồn gốc của loại chữ Nòng nọc mỗi khi chủ nhân của nó đã tìm ra manh mối. Nếu người Việt học chữ của họ tại sao chữ Giác 覺, bính âm là [jiào] người Việt đọc là [Cóc] hoàn toàn tương đồng với âm Thuyết văn giải tự cho 古樂切cổ nhạc thiết – Cạc. Sao có sự sai biệt 100% như vậy, hay vì sao con heo- Hợi亥 nằm bên cây – Mộc木 mà lại cho cái Hột – Hạch核, chính họ xác nhận chữ ấy là của người Man di đấy thôi. Đơn giản là bởi vì chữ ấy của người Lạc Việt, nên chính họ đã gọi đúng cái tên mà họ đã đặt cho loại chữ mà dân tộc họ sáng tạo ra, đó là chữ Khoa đẩu – Nòng Nọc. Nòng nọc là con của Cóc, Cóc là Thái cực, thuộc Dương – Phương Nam, vì vậy chữ Nòng nọc hay Khoa đẩu là chữ của người Phương Nam hay Lạc Việt. </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p style="text-align: center"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000"><strong>Về hai chữ Khoa đẩu.</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 18px"></span></p> <ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-size: 18px">Về ngữ âm của hai chữ Khoa đẩu.</span></li> </ol><p><span style="font-size: 18px">Như đã nêu trước, có thể người Lạc Việt lấy Cóc tượng trưng cho Thái cực, nên các quái bị ảnh hưởng bởi âm /C/ như: Càn – Chấn – Khảm – Cấn – Khôn, trong suy nghĩ như vậy, tôi cho rằng có thể trước đây chữ Khoa – Đẩu vốn đọc là Khoa Chẩu. Cụ thể ở đây ta có Kh –OA – Ch – ẨU. Oa là con Ếch, Chẩu là con Chẩu chàng, đồng loại với Cóc; đồng thời, vì Cóc đại diện cho Thái cực, nên cả hai chữ Khoa chẩu đều có âm /k/. Điều này cũng tương tự như hai chữ Âm Dương hay Ễnh Ương mà tôi đã trình bày tại phần hai.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">2.Vấn đề tự dạng hai chữ Khoa đẩu – 蝌 蚪.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như đã nói trên, người phương Bắc nhận thức rằng nếu còn cho phổ biến khái niệm Khoa đẩu, thì rồi ra người Việt sẽ nhận ra rằng đây là loại chữ của dân tộc họ, vấn đề còn nghiêm trọng hơn là hóa ra phương Bắc chỉ là học trò của người phương Nam mà thôi; đồng thời cho thấy rằng, cả một nền văn hóa mà họ đang hãnh diện, thực ra chỉ là sự tước đoạt của kẻ khác. Tuy nhiên, một mặt họ tìm cách thủ tiêu khái niệm Khoa đẩu, mặt khác, họ lại ra sức phát huy loại chữ đó, chính vì vậy, ngay tự dạng và ý nghĩa của hai từ Khoa đẩu 蝌 蚪 đã nói lên điều ấy, có nghĩa là hai chữ Khoa đẩu 蝌蚪 ngày nay của Trung Hoa và tự điển đang sử dụng, theo tôi, không phải là con chữ ban đầu của nó. Chúng ta hãy tìm hiểu về vấn đề này.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Trước tiên ta hãy tìm hiểu xem người Trung Hoa lấy khái niệm “Khoa đẩu” ấy từ đâu? Cách ghi lại khái niệm ấy bằng con chữ biểu ý như thế nào?</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">2.1. Phân tích hai chữ 蝌蚪:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">– Chữ Khoa 蝌 gồm: Trùng 虫+ Khoa 科<em>1. khoa, bộ môn. 2. xử tội, kết án. 3. khoa cử, khoa thi. 4. để đầu trần. 5. phần trong một vở tuồng</em> .</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">– Chữ Đẩu 蚪 gồm: Trùng 虫+ Đẩu 斗. <em>Bé nhỏ.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cả hai chữ này đều là chữ hình thanh, thuộc bộ Trùng 虫, như thế có nghĩa là chữ Khoa 科 và Đẩu 斗 đã có trước và có nghĩa riêng, hai chữ Khoa đẩu蝌蚪còn viết là 蝌斗 chứng minh cho điều ấy. Nếu căn cứ vào giải thích trên “Đầu to đuôi nhỏ -头粗尾细” thì chữ Khoa 科 này không đáp ứng được nghĩa “To, lớn”, vì nó không có nghĩa này. Nếu phương Bắc là chủ nhân của loại chữ này sao không biết điều này!?</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">2.2. Như đã trình bày trước, với tinh thần áp dụng triết lý Dịch vào việc sáng tạo ra những con chữ, trong đó có chữ cóc覺, những con chữ này được sáng tác ra từ thuở ban đầu, nên chưa có khái niệm部 bộ, vốn dùng để hệ thống hóa chữ viết sau này. Như vậy nếu người xưa đã tạo ra được chữ Cóc覺, lẽ nào hình ảnh con Nòng Nọc lại không được người Việt ghi lại bằng con chữ độc lập. Nói như thế có nghĩa là tôi cho rằng sự thật người Lạc Việt đã thể hiện khái niệm Nòng Nọc bằng con chữ cụ thể, cũng có âm là Khoa đẩu. Hai chữ đó là: 夸斗.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-size: 18px">Về dịch lý trong tự dạng 夸 斗:</span></li> </ol><p><span style="font-size: 18px">3.1. Chữ Khoa 夸. Trên chữ Đại 大to lớn, gồm: Chữ Nhất 一Dương + nhân 人Trung gian. (Thiên –Nhân -Địa), dưới chữ Khuy 亏- Âm. Dương Âm hay Càn Khôn, tức bản thể thuộc Âm – NÒNG. Đặc biệt trong chữ này, người Việt đã gởi vào đây một thông điệp, rằng chữ này là của người Việt, bằng cách ghi vào đây chữ Việt 亏, tức chữ Việt 粤 . 粤. 亏也. Việt: Khuy dã. <em>Việt: (Chữ)Khuy vậy.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p> <span style="font-size: 18px">3.2. Chữ Đẩu 斗. Trên là hai chấm – (Nhị nghi) – Âm, có nghĩa là bé nhỏ, dưới chữ Thập十 – Dương. Trên Âm, dưới Dương hay trái Âm phải Dương, tức Thái cực thuộc Dương – NỌC.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">3.3. Vì hai chữ Khoa đẩu là để chỉ một con vật, nhưng chứa đựng được cả Âm lẫn Dương, nên người xưa đã viết trong chữ Khoa đã có chữ Đẩu, cụ thể là . Có thể ban đầu nó chỉ được thể hiện bằng một âm và một chữ thôi, chữ đó là đọc là Khoa, gồm: Trên chữ Đại 大 là lớn – Âm – Nòng, dưới chữ Đẩu 斗 – Nhỏ – Dương – Nọc. Âm Dương, tức Thái cực. Theo tôi, người Việt sáng tác chữ này theo tư tưởng dịch học, nhưng rồi có lẽ họ thấy cần phải đóng dấu người Việt vào đó, nên đã đưa chữ Việt 亏 vào chữ Khoa, thành chữ Khoa 夸; đồng thời tách ra làm hai, thành Khoa đẩu 夸斗, nhằm mục đích vẫn giữ được khái niệm Âm Dương hay Thái cực, như chữ Khoa , vì vậy hai chữ Khoa đẩu 夸斗 cũng mang lý tính đó, Khoa 夸 là Lớn – Âm – Nòng, Đẩu 斗- Nhỏ – Nọc – Dương, Âm Dương tức Thái cực. Chữ của người Lạc Việt tất phải là chữ mang tính tích cực hay động, nói theo dịch là Thái cực, như đã trình bày trong phần chữ Việt 越.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><ol> <li data-xf-list-type="ol"><span style="font-size: 18px">So sánh hai chữ Khoa đẩu hiện nay 蝌蚪 và 夸斗.</span></li> </ol><p><span style="font-size: 18px"> Với những gì phân tích trên, so sánh với hai chữ Khoa đẩu 夸斗 và 蝌蚪 người Trung Hoa đang sử dụng:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">4.1. Hoặc người Trung Hoa biết hai chữ 夸斗 này có nghĩa là Nòng Nọc, nhưng vì nguồn gốc của nó mà phải viết khác đi chăng?</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">4.2. Hoặc người Trung Hoa lúc đó, không biết hai chữ này 夸斗 có nghĩa là Khoa đẩu, nhưng chỉ nghe người ta nói rằng loại chữ mà họ chiếm được là chữ Khoa đẩu, từ đó ghi lại thành 蝌 蚪.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Rõ ràng chữ Vuông, trong đó có hai chữ 夸斗, đã hình thành rất lâu trước khi người Hoa hạ chiếm hữu nó từ người Việt, nên mới có chuyện ký âm hai tiếng Khoa đẩu theo lối bộ trùng như trên. Ta có thể thấy điều này trong Thuyết văn giải của Hứa Thận “亦作“ 蝌斗 ”có nghĩa là chữ đẩu 斗 vốn không có bộ trùng虫, như thế ta thấy chữ Khoa ban đầu vốn cũng không có bộ trùng虫. Tất nhiên nếu như thế thì cũng có nghĩa là chữ Khoa vốn không phải chữ Khoa 科 này, vì nó vốn là một chữ có nghĩa riêng biệt.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo tôi điều 4.2 là hợp lý, vì nếu biết rằng hai chữ 夸斗 chỉ con Nòng Nọc, thì họ chỉ cần thêm bộ Trùng虫vào thế là xong, mất dấu vết ban đầu. Sao họ không làm? Chứng tỏ rằng họ không biết khái niệm Khoa đẩu đã cụ thể bằng hai chữ夸斗 nhưng chắc chắn họ biết rằng loại chữ họ đang kế thừa trước đây gọi là chữ Vuông hay Khoa đẩu. Điều này cho thấy rằng, vì họ không phải là chủ nhân của loại chữ Vuông, nên đã làm mọi cách để khái niệm này đi vào quên lãng; đồng thời sáng tác ra hai chữ Khoa đẩu khác, nhằm tránh dấu vết của người Việt. Tuy nhiên với những gì được giải thích về chữ Khoa đẩu trong Thuyết văn giải tự và Khang Hy và những gì đã chứng minh trên cho thấy rằng chữ Khoa đẩu chính là chữ Vuông, hay ngày nay ta gọi là chữ Hán.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Chính vì 夸斗 Khoa đẩu liên quan đến vấn đề con chữ của người Việt, nên trong câu chuyện Chữ Đồng Tử mới đề cập đến cái khố, cái khố này theo tôi, được viết bằng chữ 袴, chứ không phải chữ 褲, như câu chuyện đã thể hiện. Đây là bằng chứng cho thấy sự tam sao thất bổn, điều này xảy ra không phải chỉ với chữ này, mà ngay trong tranh “Lão Oa giảng đọc” người ta đã nhầm lẫn giữa chữ Oa 蛙 là Cóc đực và Oa là 蜗 Cóc cái. Tất nhiên điều ấy có thể thông cảm được, vì trải qua biết bao thăng trầm, vậy mà người xưa đã gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay, thì với những chi tiết nhỏ như vậy, nhầm lẫn là chuyện khó tránh khỏi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">3.Tại sao lại đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như vậy là tôi đã trình bày về nguồn gốc của chữ Khoa đẩu, một vấn đề cuối cùng nữa, đó là tại sao người xưa lại đặt tên loại chữ đó là Khoa đẩu?</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Như đã trình bày trước, người Việt cổ lấy con cóc tượng trưng cho dương, nhái tượng trưng cho âm, vậy tại sao họ không lấy tên hai con này đặt tên cho loại chữ mà họ sáng tạo ra mà lại đặt tên là chữ Nòng nọc. Đây là một câu hỏi cần có câu trả lời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Người xưa nói “văn dĩ tải đạo 文以載道” chữ nghĩa chuyên chở đạo lý của con người, trong dịch học thì đạo chính là âm dương nhất thể vậy, khái niệm này được thể hiện qua câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Với mục đích như vậy, nếu lấy con cóc đặt tên thì chỉ có phần dương, còn nếu lấy nhái đặt tên thì chỉ có phần âm, như vậy không phù hợp với mục đích của Văn 文. Ngược lại con nòng nọc thì hình thể của nó thể hiện được cả hai khái niệm, đầu tròn – âm, đuôi dài – dương. Đầu không nhúc nhích được – tĩnh, đuôi dùng để bơi – động, cả hai không thể tách rời nhau được; đồng thời nó là nguồn gốc sinh ra cóc, nhái, nói cách khác nòng nọc có tiêu chí của bản thể – Hà đồ và cóc nhái có tiêu chí của Lạc thư. Với các tiêu chí này, con nòng nọc đáp ứng được tiêu chí câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, chính vì vậy mà người xưa mới đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tóm lại chữ Khoa đẩu là một loại chữ của người Lạc Việt, không phải là chữ thần tiên, nó là một loại chữ có thật, nó được hình thành từ khái niệm Âm – Nòng và Dương – Nọc, hai khái niệm này không những thể hiện một cách trừu tượng, mà còn được biểu thị bằng hình ảnh cụ thể, đó là con nòng nọc, hình ảnh tại di chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, Quảng Tây, Trung quốc, là một minh chứng. Chữ Nòng nọc ấy chẳng biến mất đi đâu cả, nó chỉ thay tên đổi họ mà thôi, nó chính là chữ Hán hiện nay. Câu chuyện chữ Khoa đẩu là chữ thần tiên, chỉ là thủ thuật của kẻ cưỡng đoạt, nhằm che dấu nguồn gốc loại chữ vốn không phải của mình mà thôi, chính vì vậy mà cho đến nay, ngoài khái niệm phương tự ra, họ không có một tài liệu nào phân tích, cho thấy một cách cụ thể về cách sáng tạo tự dạng trong chữ Hán theo triết lý dịch học, trong khi đó, họ lại cho rằng dịch học là sản phẩm văn hóa tuyệt vời của dân tộc họ. Cũng chính vì vậy, ngay cả hai chữ Khoa đẩu hiện nay họ đang sử dụng, cũng không phải là hai chữ được sáng tác từ thời kỳ đầu của Dịch học (không có bộ) mà do họ tự ghi lại, có thể thông qua những kẻ thuật lại, nên các con chữ ấy chỉ là chữ hài thanh, một phương pháp sáng tạo chữ, hình thành sau khi chữ tượng hình, biểu ý đã đạt đến số lượng bão hòa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nguồn : Nghiên cứu lịch sử</span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 177347, member: 288054"] [CENTER][SIZE=5][COLOR=#ff0000][B]Nguồn gốc chữ viết của người Việt.[/B][/COLOR] [/SIZE][/CENTER] [SIZE=5]Trước giờ ta thường nghe rằng người Việt chưa từng có chữ viết, về sau người phương bắc sang đô hộ rồi dạy cho ta, sau nhiều ngàn năm bị tuyên truyền, tư tưởng này hầu như trở thành cố hữu. Tuy nhiên gần đây các nhà nghiên cứu cho rằng nước ta đã từng có chữ viết, loại chữ ấy gọi là Khoa đẩu tức là Nòng nọc, suy nghĩ đó bắt đầu từ câu chuyện được ghi lại trong Hậu Hán Thư và được các nhà sử học Việt Nam ghi lại trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục như sau “Đời Đào Đường (陶唐), phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch (龜歴, lịch rùa), từ đó người ta tập trung việc nghiên cứu, tìm kiếm chữ viết của người Việt căn cứ vào khái niệm này. Khái niệm khoa đẩu ngoài một số người căn cứ vào sách vở của phương bắc cho rằng đó chỉ là truyền thuyết mà thôi, còn một số khác tin rằng chữ khoa đẩu có thật, nhưng khổ nỗi họ lại nghĩ chữ ấy hay tự dạng ấy giống con nòng nọc, từ đó căn cứ vào hình dạng của con nòng nọc để tìm kiếm. Dĩ nhiên, ở buổi ban đầu quả thật hình ảnh của con nòng nọc có ảnh hưởng tới cách thể hiện con chữ, như bia Vũ Vương là một minh chứng, tuy nhiên theo đà phát triển, với hai hình thể tròn, dài thì làm sao mà đáp ứng được cho hàng ngàn sự vật được, nhất là để diễn tả những khái niệm trừu tường thì biết làm sao, trước nhu cầu đó, khái niệm nòng nọc đã thoát ra ngoài hình tượng của nó, chỉ còn lại hai khái niệm âm dương mà thôi. Tuy nhiên ngày nay ở nước Việt có người cứ căn cứ vào hình thể của con nòng nọc để đi tìm con chữ, kết quả đi vào bế tắc hay nhận nhầm loại chữ khác là của mình, cho dù bản thân con chữ đó cũng chẳng có hình dáng gì có thể hình dung đến con nòng nọc, nhưng họ vẫn tuyên bố đấy là chữ khoa đẩu hay Hỏa tự. Có thể lý do cho việc cố gán cho loại chữ này nọ tại nước Việt là vì sau nhiều năm tìm kiếm chữ khoa đẩu theo hình ảnh mà nhiều người suy nghĩ, họ thấy rằng chẳng có loại chữ nào giống nòng nọc cả, may ra có loại chữ của người Thái mà Vương Duy Trinh đã công bố trong sách Thanh Hóa Quan Phong có gì đó cổ sơ nên người ta nghĩ rằng có thể nó chính là chữ khoa đẩu; bên cạnh đó người ta nghĩ rằng văn hóa người Việt là văn hóa bản địa cho nên việc tìm kiếm chữ Khoa đẩu ở phương Bắc là không khả thi, cho dù cái tên khoa đẩu được biết ngày nay lại được viết bằng chữ Hán. Với cách nghĩ như vậy thì xem ra rất khó tìm ra nguồn gốc của chữ khoa đẩu và nó có thực sự tồn tại ở nước Việt hay không? [COLOR=#ff0000]Dấu tích Nòng nọc mà người Lạc Việt dùng để tượng trưng cho Âm Dương.[/COLOR][/SIZE] [SIZE=5]Gần đây, năm 2011 Hội Lạc Việt ở Quảng Tây, Trung Quốc công bố các hình ảnh về dỉ chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, bức ảnh bên dưới cho thấy rằng hai con nòng nọc đen trắng đã được người Lạc Việt khắc trên đá ở tế đàn Cảm Tang, đây là bằng chứng chắc thật cho thấy rằng chuyện sử dụng hình ảnh của Nòng nọc để tượng trưng cho hai khái niệm âm dương trong dịch học là hiển nhiên; đồng thời qua đây cũng nói lên rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ liên quan đến dịch học; đồng thời qua bức ảnh này, ta thấy hình ảnh con nòng nọc đen ở trên, nòng nọc trắng ở dưới, tức là Âm Dương hay quẻ Thái tượng trưng cho Lạc thư, có nghĩa là Lạc thư – Hậu thiên bát quái đã được thành lập từ khi người Lạc Việt còn sống trên sông Dương Tử, có thể vì vậy mà trong bia Vũ Vương mới có câu “Cửu tộc vong gia” cách dùng từ “cửu tộc” cho thấy khái niệm này đến từ khái niệm cửu cung của Lạc thư – Hậu thiên bát quái; cũng trong bức ảnh này, với hai con nòng nọc đen trắng, người xưa đã cách điệu nó thành hình ảnh con chim Cốc, một loài diệc, tượng trưng cho Thái cực mà tiền nhân nước Việt đã viết trong Hồng Bàng Thị, một câu chuyện lấy vùng đất nơi có tế đàn Cảm Tang làm trung tâm. Hồng là con chim Hồng hộc hay chính là chim cốc, tức con Còng cộc. [ATTACH=full]1545._xfImport[/ATTACH] [COLOR=#ff0000]Nguồn gốc chữ Khoa đẩu theo dân gian Việt Nam.[/COLOR] Dịch học là đỉnh cao của triết lý âm dương, đại diện cho nó là nòng nọc, chính vì vậy mà ở nước Việt, từ sau khi mất đi tác quyền về dịch học và chữ vuông, người Việt xưa đã làm ra bức tranh với truyện ngụ ngôn Cóc kiện Trê, nội dụng chủ yếu là Trê đã bắt con của Cóc, tức nòng nọc, vì trê cho rằng đó là con của mình, do Trê và Cóc sống chung khu vực, cuối cùng Trê, với tố chất ranh mãnh, đã thắng kiện một cách phi pháp, điều này diễn ra như thực tế. Trong bức tranh người xưa ghi rõ trên lưng Trê hai chữ Dịch lý役里, chữ Dịch 役 này vừa là đồng âm với chữ 易và 亦; đồng thời bên trong chữ 役này còn chứa một ẩn ngữ khác mà theo tôi đó chính là điều người xưa muốn nói, đó là bộ Xích 彳 trong chữ này vốn có âm Diệc hay Dịch, 彳,步也。彳亦聲, ý nói là dịch học ấy của người Việt, trường hợp này cũng như trường hợp chữ Hà 河trong Hà đồ 河圖. Tất nhiên chẳng có Cóc, Trê hay nòng nọc nào cả mà chỉ có người Nam và Bắc và văn hóa dịch và chữ khoa đẩu mà thôi. Như vậy Trê đã chiếm đoạt dịch học và chữ khoa đẩu, tức cái văn hóa mà hàng ngàn năm qua họ tuyên bố với thế giới đó là văn hóa đặc sắc của họ [IMG]https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2018/04/khoa-dau-5.jpg?w=551[/IMG] Ngoài ra người Việt còn minh định rõ về chữ Khoa đẩu trong bức tranh Thầy đồ Cóc hay Lão Oa giảng đọc. Thầy Cóc, học trò là Ếch, Nhái, Chão chàng thì chữ tất nhiên là Nòng nọc chứ còn loại chữ nào nữa. Nếu nhìn từ góc độ lịch sử thì đây là những kiệt tác của người Việt, bởi vì trong thầm lặng người Việt đã tìm mọi cách để gởi lại nguồn gốc văn hóa của dân tộc mình, khổ nỗi tiền nhân thì đau đáu nhưng hậu thế xem đây là những bức tranh trào phúng chủ yếu để mua vui mà thôi, đó là chưa kể nhiều người bình phẩm một cách tiêu cực. [IMG]https://nghiencuulichsudotcom.files.wordpress.com/2018/04/khoa-dau-6.jpg?w=551[/IMG] Cũng theo truyền thuyết, bên cạnh chữ Khoa đẩu còn có Hỏa tự火字, tức là chữ có hình ảnh như những ngọn lửa đang cháy. Theo tôi chữ Hỏa trong Hỏa tự là chỉ định người hay dân tộc làm ra con chữ đó chứ không phải là loại chữ được sáng tác ra lấy căn bản từ hình ảnh của ngọn lửa, bởi vì lửa thì chỉ bốc lên mà thôi, trong khi đó con chữ trên thực tế không phản ảnh một cách rõ ràng về điều này, nói khác hơn Hỏa tự cũng chính là chữ Khoa đẩu đấy thôi nhưng là chữ Khoa đẩu của thời kỳ đầu với cách viết như các chữ trên bia Vũ Vương; đồng thời với cái tên Hỏa tự, cho ta biết đó là chữ của người phương Nam hay Lạc Việt, vì theo dịch học, phương Nam thuộc hành Hỏa. Với những gì trình bày trên, từ những gì lưu truyền con ghi lại trong sách sử cùng những bằng chứng trên thực tế cho thấy rằng chữ Khoa đẩu là một loại chữ có thật. Tuy nhiên, có nhiều người ở Việt Nam cho rằng chuyện chữ Khoa đẩu là chuyện mộng mị, tào lao, cho đó là chữ thời tiên Tần tới đời Đường đã không còn, nên nhớ trước Tần là một triều đại nhà Chu kéo dài 800 năm, có thể nói hầu hết các quy tắc ứng xử trong triều đình đều của nhà Chu, tế xuân thu nhị kỳ cũng từ thời đó, còn viết cả Chu Dịch, chẳng lẽ ngần ấy năm nhà Chu không có chữ viết, không có chữ viết thì Chu Dịch viết bằng chữ gì, cả ngần ấy năm sao nhà Chu không đặt tên cho loại chữ đó, chỉ đến thời nhà Hán mới có chữ rồi đặt là chữ Hán chăng! với 800 năm trị vì trên khu vực Trong Nguồn và núi Thái, thế mà ngày nay sử Trung Hoa viết về thời kỳ này hết sức giới hạn, tại sao vậy? Theo tôi vì họ học của nhà Chu nhưng không muốn mình là học trò nên mới bịa ra cái chuyện chữ thần tiên. Thật ra phương Bắc muốn triệt tiêu khái niệm Khoa đẩu, nên mới bịa ra những chuyện hoang đường như thế, họ muốn xóa đi khái niệm Khoa đẩu hay Nòng nọc không gì hơn là vì nguồn gốc của loại chữ này, có nghĩa là nguồn gốc chữ Khoa đẩu hay chữ vuông không phải của họ, vì vậy sau khi đoạt được chữ Khoa đẩu rồi, một mặt họ phát huy giá trị của con chữ, mặt khác họ ra sức tiêu hủy bằng chứng về nguồn gốc của nó, đây là chuyện thường làm của kẻ chiếm đoạt tài sản người khác làm của mình, có lẽ họ tin rằng như thế là đủ để những người về sau không thể nhận ra nguồn gốc loại chữ ấy nữa. Tuy nhiên, họ quên rằng, ngoài khái niệm Nòng nọc, bản thân con chữ cũng đã mang thông điệp đó, nên chi dù cố gắng cách mấy, họ cũng khó mà che dấu được nguồn gốc của loại chữ Nòng nọc mỗi khi chủ nhân của nó đã tìm ra manh mối. Nếu người Việt học chữ của họ tại sao chữ Giác 覺, bính âm là [jiào] người Việt đọc là [Cóc] hoàn toàn tương đồng với âm Thuyết văn giải tự cho 古樂切cổ nhạc thiết – Cạc. Sao có sự sai biệt 100% như vậy, hay vì sao con heo- Hợi亥 nằm bên cây – Mộc木 mà lại cho cái Hột – Hạch核, chính họ xác nhận chữ ấy là của người Man di đấy thôi. Đơn giản là bởi vì chữ ấy của người Lạc Việt, nên chính họ đã gọi đúng cái tên mà họ đã đặt cho loại chữ mà dân tộc họ sáng tạo ra, đó là chữ Khoa đẩu – Nòng Nọc. Nòng nọc là con của Cóc, Cóc là Thái cực, thuộc Dương – Phương Nam, vì vậy chữ Nòng nọc hay Khoa đẩu là chữ của người Phương Nam hay Lạc Việt. [/SIZE] [CENTER][SIZE=5][COLOR=#ff0000][B]Về hai chữ Khoa đẩu.[/B][/COLOR] [/SIZE][/CENTER] [LIST=1] [*][SIZE=5]Về ngữ âm của hai chữ Khoa đẩu.[/SIZE] [/LIST] [SIZE=5]Như đã nêu trước, có thể người Lạc Việt lấy Cóc tượng trưng cho Thái cực, nên các quái bị ảnh hưởng bởi âm /C/ như: Càn – Chấn – Khảm – Cấn – Khôn, trong suy nghĩ như vậy, tôi cho rằng có thể trước đây chữ Khoa – Đẩu vốn đọc là Khoa Chẩu. Cụ thể ở đây ta có Kh –OA – Ch – ẨU. Oa là con Ếch, Chẩu là con Chẩu chàng, đồng loại với Cóc; đồng thời, vì Cóc đại diện cho Thái cực, nên cả hai chữ Khoa chẩu đều có âm /k/. Điều này cũng tương tự như hai chữ Âm Dương hay Ễnh Ương mà tôi đã trình bày tại phần hai. 2.Vấn đề tự dạng hai chữ Khoa đẩu – 蝌 蚪. Như đã nói trên, người phương Bắc nhận thức rằng nếu còn cho phổ biến khái niệm Khoa đẩu, thì rồi ra người Việt sẽ nhận ra rằng đây là loại chữ của dân tộc họ, vấn đề còn nghiêm trọng hơn là hóa ra phương Bắc chỉ là học trò của người phương Nam mà thôi; đồng thời cho thấy rằng, cả một nền văn hóa mà họ đang hãnh diện, thực ra chỉ là sự tước đoạt của kẻ khác. Tuy nhiên, một mặt họ tìm cách thủ tiêu khái niệm Khoa đẩu, mặt khác, họ lại ra sức phát huy loại chữ đó, chính vì vậy, ngay tự dạng và ý nghĩa của hai từ Khoa đẩu 蝌 蚪 đã nói lên điều ấy, có nghĩa là hai chữ Khoa đẩu 蝌蚪 ngày nay của Trung Hoa và tự điển đang sử dụng, theo tôi, không phải là con chữ ban đầu của nó. Chúng ta hãy tìm hiểu về vấn đề này. Trước tiên ta hãy tìm hiểu xem người Trung Hoa lấy khái niệm “Khoa đẩu” ấy từ đâu? Cách ghi lại khái niệm ấy bằng con chữ biểu ý như thế nào? 2.1. Phân tích hai chữ 蝌蚪: – Chữ Khoa 蝌 gồm: Trùng 虫+ Khoa 科[I]1. khoa, bộ môn. 2. xử tội, kết án. 3. khoa cử, khoa thi. 4. để đầu trần. 5. phần trong một vở tuồng[/I] . – Chữ Đẩu 蚪 gồm: Trùng 虫+ Đẩu 斗. [I]Bé nhỏ.[/I] Cả hai chữ này đều là chữ hình thanh, thuộc bộ Trùng 虫, như thế có nghĩa là chữ Khoa 科 và Đẩu 斗 đã có trước và có nghĩa riêng, hai chữ Khoa đẩu蝌蚪còn viết là 蝌斗 chứng minh cho điều ấy. Nếu căn cứ vào giải thích trên “Đầu to đuôi nhỏ -头粗尾细” thì chữ Khoa 科 này không đáp ứng được nghĩa “To, lớn”, vì nó không có nghĩa này. Nếu phương Bắc là chủ nhân của loại chữ này sao không biết điều này!? 2.2. Như đã trình bày trước, với tinh thần áp dụng triết lý Dịch vào việc sáng tạo ra những con chữ, trong đó có chữ cóc覺, những con chữ này được sáng tác ra từ thuở ban đầu, nên chưa có khái niệm部 bộ, vốn dùng để hệ thống hóa chữ viết sau này. Như vậy nếu người xưa đã tạo ra được chữ Cóc覺, lẽ nào hình ảnh con Nòng Nọc lại không được người Việt ghi lại bằng con chữ độc lập. Nói như thế có nghĩa là tôi cho rằng sự thật người Lạc Việt đã thể hiện khái niệm Nòng Nọc bằng con chữ cụ thể, cũng có âm là Khoa đẩu. Hai chữ đó là: 夸斗. [/SIZE] [LIST=1] [*][SIZE=5]Về dịch lý trong tự dạng 夸 斗:[/SIZE] [/LIST] [SIZE=5]3.1. Chữ Khoa 夸. Trên chữ Đại 大to lớn, gồm: Chữ Nhất 一Dương + nhân 人Trung gian. (Thiên –Nhân -Địa), dưới chữ Khuy 亏- Âm. Dương Âm hay Càn Khôn, tức bản thể thuộc Âm – NÒNG. Đặc biệt trong chữ này, người Việt đã gởi vào đây một thông điệp, rằng chữ này là của người Việt, bằng cách ghi vào đây chữ Việt 亏, tức chữ Việt 粤 . 粤. 亏也. Việt: Khuy dã. [I]Việt: (Chữ)Khuy vậy.[/I] 3.2. Chữ Đẩu 斗. Trên là hai chấm – (Nhị nghi) – Âm, có nghĩa là bé nhỏ, dưới chữ Thập十 – Dương. Trên Âm, dưới Dương hay trái Âm phải Dương, tức Thái cực thuộc Dương – NỌC. 3.3. Vì hai chữ Khoa đẩu là để chỉ một con vật, nhưng chứa đựng được cả Âm lẫn Dương, nên người xưa đã viết trong chữ Khoa đã có chữ Đẩu, cụ thể là . Có thể ban đầu nó chỉ được thể hiện bằng một âm và một chữ thôi, chữ đó là đọc là Khoa, gồm: Trên chữ Đại 大 là lớn – Âm – Nòng, dưới chữ Đẩu 斗 – Nhỏ – Dương – Nọc. Âm Dương, tức Thái cực. Theo tôi, người Việt sáng tác chữ này theo tư tưởng dịch học, nhưng rồi có lẽ họ thấy cần phải đóng dấu người Việt vào đó, nên đã đưa chữ Việt 亏 vào chữ Khoa, thành chữ Khoa 夸; đồng thời tách ra làm hai, thành Khoa đẩu 夸斗, nhằm mục đích vẫn giữ được khái niệm Âm Dương hay Thái cực, như chữ Khoa , vì vậy hai chữ Khoa đẩu 夸斗 cũng mang lý tính đó, Khoa 夸 là Lớn – Âm – Nòng, Đẩu 斗- Nhỏ – Nọc – Dương, Âm Dương tức Thái cực. Chữ của người Lạc Việt tất phải là chữ mang tính tích cực hay động, nói theo dịch là Thái cực, như đã trình bày trong phần chữ Việt 越. [/SIZE] [LIST=1] [*][SIZE=5]So sánh hai chữ Khoa đẩu hiện nay 蝌蚪 và 夸斗.[/SIZE] [/LIST] [SIZE=5] Với những gì phân tích trên, so sánh với hai chữ Khoa đẩu 夸斗 và 蝌蚪 người Trung Hoa đang sử dụng: 4.1. Hoặc người Trung Hoa biết hai chữ 夸斗 này có nghĩa là Nòng Nọc, nhưng vì nguồn gốc của nó mà phải viết khác đi chăng? 4.2. Hoặc người Trung Hoa lúc đó, không biết hai chữ này 夸斗 có nghĩa là Khoa đẩu, nhưng chỉ nghe người ta nói rằng loại chữ mà họ chiếm được là chữ Khoa đẩu, từ đó ghi lại thành 蝌 蚪. Rõ ràng chữ Vuông, trong đó có hai chữ 夸斗, đã hình thành rất lâu trước khi người Hoa hạ chiếm hữu nó từ người Việt, nên mới có chuyện ký âm hai tiếng Khoa đẩu theo lối bộ trùng như trên. Ta có thể thấy điều này trong Thuyết văn giải của Hứa Thận “亦作“ 蝌斗 ”có nghĩa là chữ đẩu 斗 vốn không có bộ trùng虫, như thế ta thấy chữ Khoa ban đầu vốn cũng không có bộ trùng虫. Tất nhiên nếu như thế thì cũng có nghĩa là chữ Khoa vốn không phải chữ Khoa 科 này, vì nó vốn là một chữ có nghĩa riêng biệt. Theo tôi điều 4.2 là hợp lý, vì nếu biết rằng hai chữ 夸斗 chỉ con Nòng Nọc, thì họ chỉ cần thêm bộ Trùng虫vào thế là xong, mất dấu vết ban đầu. Sao họ không làm? Chứng tỏ rằng họ không biết khái niệm Khoa đẩu đã cụ thể bằng hai chữ夸斗 nhưng chắc chắn họ biết rằng loại chữ họ đang kế thừa trước đây gọi là chữ Vuông hay Khoa đẩu. Điều này cho thấy rằng, vì họ không phải là chủ nhân của loại chữ Vuông, nên đã làm mọi cách để khái niệm này đi vào quên lãng; đồng thời sáng tác ra hai chữ Khoa đẩu khác, nhằm tránh dấu vết của người Việt. Tuy nhiên với những gì được giải thích về chữ Khoa đẩu trong Thuyết văn giải tự và Khang Hy và những gì đã chứng minh trên cho thấy rằng chữ Khoa đẩu chính là chữ Vuông, hay ngày nay ta gọi là chữ Hán. Chính vì 夸斗 Khoa đẩu liên quan đến vấn đề con chữ của người Việt, nên trong câu chuyện Chữ Đồng Tử mới đề cập đến cái khố, cái khố này theo tôi, được viết bằng chữ 袴, chứ không phải chữ 褲, như câu chuyện đã thể hiện. Đây là bằng chứng cho thấy sự tam sao thất bổn, điều này xảy ra không phải chỉ với chữ này, mà ngay trong tranh “Lão Oa giảng đọc” người ta đã nhầm lẫn giữa chữ Oa 蛙 là Cóc đực và Oa là 蜗 Cóc cái. Tất nhiên điều ấy có thể thông cảm được, vì trải qua biết bao thăng trầm, vậy mà người xưa đã gìn giữ và lưu truyền đến ngày nay, thì với những chi tiết nhỏ như vậy, nhầm lẫn là chuyện khó tránh khỏi. 3.Tại sao lại đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc. Như vậy là tôi đã trình bày về nguồn gốc của chữ Khoa đẩu, một vấn đề cuối cùng nữa, đó là tại sao người xưa lại đặt tên loại chữ đó là Khoa đẩu? Như đã trình bày trước, người Việt cổ lấy con cóc tượng trưng cho dương, nhái tượng trưng cho âm, vậy tại sao họ không lấy tên hai con này đặt tên cho loại chữ mà họ sáng tạo ra mà lại đặt tên là chữ Nòng nọc. Đây là một câu hỏi cần có câu trả lời. Người xưa nói “văn dĩ tải đạo 文以載道” chữ nghĩa chuyên chở đạo lý của con người, trong dịch học thì đạo chính là âm dương nhất thể vậy, khái niệm này được thể hiện qua câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”. Với mục đích như vậy, nếu lấy con cóc đặt tên thì chỉ có phần dương, còn nếu lấy nhái đặt tên thì chỉ có phần âm, như vậy không phù hợp với mục đích của Văn 文. Ngược lại con nòng nọc thì hình thể của nó thể hiện được cả hai khái niệm, đầu tròn – âm, đuôi dài – dương. Đầu không nhúc nhích được – tĩnh, đuôi dùng để bơi – động, cả hai không thể tách rời nhau được; đồng thời nó là nguồn gốc sinh ra cóc, nhái, nói cách khác nòng nọc có tiêu chí của bản thể – Hà đồ và cóc nhái có tiêu chí của Lạc thư. Với các tiêu chí này, con nòng nọc đáp ứng được tiêu chí câu “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, chính vì vậy mà người xưa mới đặt tên loại chữ này là Khoa đẩu – Nòng nọc. Tóm lại chữ Khoa đẩu là một loại chữ của người Lạc Việt, không phải là chữ thần tiên, nó là một loại chữ có thật, nó được hình thành từ khái niệm Âm – Nòng và Dương – Nọc, hai khái niệm này không những thể hiện một cách trừu tượng, mà còn được biểu thị bằng hình ảnh cụ thể, đó là con nòng nọc, hình ảnh tại di chỉ khảo cổ ở Cảm Tang, Quảng Tây, Trung quốc, là một minh chứng. Chữ Nòng nọc ấy chẳng biến mất đi đâu cả, nó chỉ thay tên đổi họ mà thôi, nó chính là chữ Hán hiện nay. Câu chuyện chữ Khoa đẩu là chữ thần tiên, chỉ là thủ thuật của kẻ cưỡng đoạt, nhằm che dấu nguồn gốc loại chữ vốn không phải của mình mà thôi, chính vì vậy mà cho đến nay, ngoài khái niệm phương tự ra, họ không có một tài liệu nào phân tích, cho thấy một cách cụ thể về cách sáng tạo tự dạng trong chữ Hán theo triết lý dịch học, trong khi đó, họ lại cho rằng dịch học là sản phẩm văn hóa tuyệt vời của dân tộc họ. Cũng chính vì vậy, ngay cả hai chữ Khoa đẩu hiện nay họ đang sử dụng, cũng không phải là hai chữ được sáng tác từ thời kỳ đầu của Dịch học (không có bộ) mà do họ tự ghi lại, có thể thông qua những kẻ thuật lại, nên các con chữ ấy chỉ là chữ hài thanh, một phương pháp sáng tạo chữ, hình thành sau khi chữ tượng hình, biểu ý đã đạt đến số lượng bão hòa. Nguồn : Nghiên cứu lịch sử[/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Nguồn gốc chữ viết của người Việt.
Top