Nguồn gốc chữ nôm
Có rất nhiều bằng chứng hiển nhiên là chữ Nôm có trước chữ Hán.
2800 năm trước có bài hát của người Việt khi chèo ghe, là bài “Việt nhân ca” được truyền đến ngày nay, là chữ Nôm.
2500 trước có “Duy giáp lệnh” của Việt Vương Câu-Tiễn nằm trong sách Việt Chép, là chữ Nôm.
Các truyền thuyết, cổ sử, cổ thư và cổ thi từ dân gian cho đến sách của Khổng Tử biên soạn, và “từ điển” thời xưa v v... đều sẽ chứng minh được là “hiển nhiên” rằng: chữ Nôm có trước!
Tôi xin trình bài khảo cứu nguồn gốc chữ Nôm và Chữ Nôm có trước chữ Hoa và Hán-Việt với nhiều bằng chứng rỏ ràng được xét từ giáp cốt văn, cổ thư-cổ sử.
Xin lần lượt xem qua từng bằng chứng:
Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn.
- Phần Thuyết văn gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ chữ.
- Phần Trọng Văn gồm 1,163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng mà cách viết khác nhau.
Sách Thuyết Văn gồm 14 chương chính và 1 chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm 100), sách Thuyết-văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ nhất (Công nguyên, năm 121 ), Hứa Thận mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên triều đình Hán .
Nguyên bản của Thuyết văn đã thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác thời Hán và các đời sau đã dùng Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau nầy người ta có tài liệu biên soạn lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống , rồi đến thời Mãn Thanh đều có người nghiên cứu và hiệu đính.
Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn.
-“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前.
-“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前.
Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm.
Nhờ cách phiên âm phản-thiết của Hứa Thận, cho nên người ta có thể căn cứ vào cách đọc của Thuyết văn để phục nguyên âm đọc Hán ngữ cổ. Cách giải tự trong Thuyết văn có nhiều đóng góp cho việc khảo cứu ngôn ngữ học. Qua đó, người ta có thể phục nguyên cách đọc của thời cổ xưa. Đời nhà Thanh có bốn học giả nổi tiếng đã nghiên cứu và hiệu đính Thuyết văn.
Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng.
Chính vì tiếng “Hoa” không đọc nổi “Thuyết văn giải tự”, cho nên các đời sau nầy khi biên soạn lại sách Thuyết văn, người ta thêm vào cách phiên âm “mới” hơn so với thời Cổ đại. Dù là như vậy nhưng, những âm Trung Cổ đại lại một lần nữa cũng gần với âm Việt hơn là tiếng Hoa ngày nay. Chúng ta có thể nhận ra những phần phiên âm theo cách “phản-thiết” mà người đời sau thêm vào. Khi đọc sách Thuyết văn thấy đã có hướng dẫn cách đọc chữ của Hứa Thận rồi mà lại có thêm 3 chữ “X X thiết” nữa mà lại khác với cách “hướng dẫn các đọc” của câu có trước thì đó là bản được “soạn” lại! Bản nào được biên soạn vào đời nhà Thanh thì có thêm phần “XX thiết” đọc theo tiếng quan thoại-phổ thông được hơn.
Liệu có còn bản chính của Thuyết văn do Hứa Thận thời nhà Hán viết ra không? Không! bản Thuyết văn xưa nhất hiện thời, cho dù được gọi là “nguyên bản”, được chụp hình đăng lên Internet hay in thành sách để bán thì cũng là bản được biên soạn vào thời nhà Tống ! Những bản khác còn được làm muộn hơn nữa.
Nhưng dù sao đi nữa, sách Thuyết văn có giá trị là nhờ nó giữ được nhiều nguyên văn cổ xưa của Hứa Thận và có nhiều điển tích trong những lời giải thích. Đồng thời sách cũng đưa ra quy tắc chữ viết cùng một bộ thì có phát âm giống nhau v v... Tôi nhận thấy, đọc Thuyết văn theo tiếng Hoa-quan thoại thì không phiên âm được chữ như chú dẫn của Hứa Thận, còn khi đọc theo các tiếng Việt thì đọc đúng! Ví dụ:
- Chữ 夏, tiếng Hoa ngày nay đọc là “Xia”. Thuyết văn ghi: 夏 : 中國之人也. 從夊從頁從��. ��,兩手. 夊,兩足也. 胡雅切. (Hạ: Trung Quốc chi nhân dã.Tùng xuôi tùng hiệt tùng cúc. Cúc, lưỡng thủ. Xuôi, lưỡng túc dã. Hồ nhã thiết.)
Giải thích chi tiết nghĩa là: Hạ夏: người Trung Quốc vậy. Viết theo 夊xuôi theo 頁hiệt theo cúc��. Cúc , hai tay (cúc: khép, chấp 2 tay). Xuôi, hai chân vậy. Hồ nhã thiết.
-Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ”
-Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”.
Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đọc theo tiếng Hoa-quan thoại thì “胡雅 (Hủa + Dã)” không thể nào đánh vần ra “Xia” theo cách “phản và thiết”. Cũng nhờ phần chú thích giải tự thì biết được ngày xưa khép tay, khoanh tay, hay chấp tay gọi là Cúc��và hai chân xuôi thì viết là xuôi夊.
*Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam.
Bây giờ ta thử xét một vài chữ có cách đọc khó và lạ xưa nay:
譒 ��也。从言番聲。《商書》曰:“王譒告之.” 補過切
chữ Bôn譒 Boa- dã. Tùng ngôn bàn thanh. (Thương thư) viết: “Vương bôn cáo chi”. Bổ qua thiết, là “ Bổ-ua=bua-boa”.
Bua (Bổ qua thiết) là phiên âm của đời sau. Nguyên văn của “Thuyết văn” là “ngôn-bàn thanh言番聲.”=Bôn.
Bây giờ người ta đọc chữ Bôn (bua-boa)-譒là “Phiên” hay là “Phồn”. Đọc là “phồn” thì còn hợp với Thuyết văn đã ghi là “ngôn, bàn thanh”. Bôn hay Phôn hay Phồn giống nhau, chỉ là đọc giọng nặng nhẹ khác nhau theo từng miền “đông, tây, nam, bắc”. Người ta còn đọc là 譒phiên theo âm chữ ghép bên phải là “phiên番”; và cách đọc “phồn譒” là vì ghép vần 番phiên và 言ngôn. Nhưng thời xưa lại đọc chữ 番phiên là “bàn番”.
Xin giải thích thêm: 譒 vết tích của âm “Boa” còn được dùng trong tiếng Triều Châu- Mân Việt ngày nay. Hiện giờ tiếng Triều Châu vẫn gọi “bàn chân” là “kha-bóa” (Kha là kẳng/cẳng, Boa là bôn/bàn…Bàn là bàn tay, bàn chân). Từ nguyên văn “tùng ngôn bàn thanh” của “Thuyết văn” thì chúng ta biết được ở thời Cổ đại đọc là “Bôn, Bồn, Bàn”, đến thời Trung Cổ người ta “biên soạn” lại Thuyết văn thì thêm vào “Bổ qua thiết = Bua = Boa” phù hợp với “kha-boa (bàn chân)”. Bên tiếng Triều Châu còn dùng cho đến ngày nay. Âm của các “Nho gia (?)” từ từ biến thành “Phiên”- như tên gọi nước “Thố phiên” hay “Phồn- tức là nước “Thổ phồn”.
“Phiên” hay “Phồn” có sau và được dùng cho đến ngày nay. Người ta lại đặt tên gọi đó là “từ Hán-Việt”! Tên gọi là gì cũng được! điều rõ ràng là “Hán-Việt” của “phiên” hay “phồn” có sau, còn chữ Nom “bóa” “boa” “bàn” mới là có trước và đã được ghi trong sách “Thuyết văn” cũng như tồn tại trong dân gian Việt cho đến ngày nay. Cho nên nếu nói rằng “bàn” là “Nôm” thì rõ ràng là Nôm có trước.
(Dưới đây sẽ xét đến âm chữ Bàn trong Thuyết văn...)
番: 獸足謂之番。从釆;田,象其掌。 附袁切
Phiên: Thú túc vị chi phiên. Tùng 釆thể; 田điền, tượng kỳ chưởng掌. Phù viên thiết. Phiên: Chân thú gọi là phiên, viết theo 釆thể; theo 田điền, như là chưởng (chưởng: bàn, bàn tay).
Phần trên là tôi phiên dịch theo “đa số” hiện giờ! chứ thật ra thì đoạn văn trên phải phiên dịch là “ Bàn: thú túc vị chi bàn, tùng thể;điền, tượng kỳ chưởng.”
Đây là vết tích của chữ Phiên番 trước và ngay thời Hán, vào lúc ông Hứa Thận còn sống thì đọc là Bàn. Cho nên còn cách giải nghĩa phần nầy như sau: { Bàn番: Thú túc gọi là Bàn. Theo (thể)釆bẻ ; (Điền)田đàn, tựa như cái chưởng. Bàn: chân thú gọi là bàn (bàn chân), viết theo bẻ釆(thể) và đàn田(điền), tựa cái bàn (tay, chân)...} Vì sao lại “diễn nôm” như vậy ? Vì thuyết văn đã viết đây là “ngôn- bàn thanh” {Chữ bẻ釆(thể) quá đặc biệt! “thể” là “hái” là “bẻ”/ví dụ: “Thể 釆Trà茶” là “hái” là “bẽ” “chè-trà”: [Chữ Bẻ釆(thể) gồm chử mể米 và 1 dấu “ngắt” hay “cắt” ở phía trên mà tiếng Triều Châu đọc Mể米 là “Bía米” và có thêm cái dấu dấu cắt phía trên thì có giọng đọc thành “bẽ釆” là rất phù hợp]. Tiếng Triều Châu còn đọc là “bboi” hay “bbé” hay “tiaé”, (tiếng Triều châu : “hái lá” là “tiáe Huêét” hay “Bbé Huêét” Huêét âm chử Hiệt頁 nhưng mang nghĩa là “Lá” ), tiếng Quảng Đông là “chsổi釆”, tiếng Bắc Kinh là “chsài釆”. Chsổi hay chsài như là đọc “thể” không chuẩn mà thành “chsể, chsề”, còn “thể” đọc không chuẩn qua vần “T” sẽ thành “tể” hay “Tiae” ; còn âm “bbé” hay “bẻ” là giống nhau}. Xin hỏi ai là chuyên gia về “Hán-Nom” thì những âm của một chữ “đặc biệt” như vậy thì là âm nào là “Hán” và âm nào là “Nôm” và chữ Hán có trước hay là Nôm có trước? Điều thú vị khi nghiên cứu Thuyết văn giải tự của Hứa Thận để phục chế cổ Hán ngữ thì thấy rõ phát âm thời Tần và Hán giống như các tiếng nói Việt Nam và Quảng Đông (Việt), Phước Kiến-Triều Châu (Mân-Việt) ngày nay; và cũng phát giác những biến âm đã khác tiếng Việt thời cổ đại mà các phương ngôn Việt Nam, Quảng Đông, Triều Châu còn giữ được. Ví dụ tiếng Việt Nam còn giữ được tiếng “bàn” tay, “bàn” chân, và Triều Châu giữ được “boa-boá” hay là “póa” Trung cổ đại mà thời Hán đã được ghi lại trong “Thuyết Văn”. Biến âm của Bàn-bồn-bôn/ tùng “ngôn” “bàn” thanh trở thành bua-boa-bóa-poá, trở thành “biên” rồi thành “phiên” và “phồn”...! Thực ra thì từ “bàn-bèn” biến thành “biên, bua, phàn, phền, phồn, phiên v v...” đó là quy luật biến âm thường tình của ngôn ngữ theo miền và theo thời đại với nhiều tiếp xúc văn hóa và phát triễn khác. Cổ âm xưa là Bàn, giáp cốt-Kim văn đã vẽ rõ chữ nầy bằng hình bàn chân thú. Ngày nay chỉ có tiếng Việt Nam còn dùng “bàn” là “bàn tay- bàn chân” thì rõ ràng là tiếng Việt Nam còn giữ được âm cổ xưa nhất, và cũng là một minh chứng giọng “Nôm” của chữ “Nôm” là có trước: có thể nói giáp cốt văn-chữ tượng hình đầu tiên là “chữ Nôm”.
Cổ văn vẽ chữ tượng hình: 番phiên là “bàn -番” , chữ xưa là tượng hình, vẽ “chữ phiên” là bàn chân thú có móng vuốt, ngay cả chú thích “附袁切phù viên thiết”. Ngày nay đọc như vậy thì làm sao đúng với ngày xưa? Nếu đọc là “bùa vang- 附袁” là “bàn (vua)” thì hoàn toàn đúng là “bàn” như chú thích trong Thuyết văn vậy! Bởi vì chính chữ “bùa符(Phù)” của bùa chú là đồng bộ thì đồng âm với chữ bùa附(Hay “Phù”, hay “Phụ”) đó thôi.
- Xét thêm: Thảo bộ 艸部 蘻kỹ-(hệ) 狗毒也 cẩu độc dã 从艸繫聲 tùng thảo kỷ (Hệ) thanh。古詣切 Cổ chỉ thiết.
Cổ chỉ (nghĩ)= kỷ, ngày nay dùng chữ nầy cho ý nghĩa “liên kết”, mà khi có 2 chữ “liên kết” lại đọc là “liên hệ蘻”. Thật ra thì xưa Trung Cổ ghi là “古詣cổ ngĩ =kỷ” và biến âm “kỷ” thành ra “kết” nhưng sau nầy thành ra “hệ” như ngày nay. (Ngày xưa đọc chữ “詣chỉ” là “Nghĩ詣”: Ngôn言 chỉ旨 = nghĩ và phiên âm là 五計 / Ngũ kế). Phân tích kỷ lưỡng lời trong Thuyết văn sẽ thấy rõ là “nọc độc của chó gọi là “Cẩu Kỷ (nọc độc)” và “Tùng thảo kỷ thanh” lại là viết theo bộ thảo艸 với là âm “Kỷ- hay kỳ”. Vì tiếng xưa không cố định thanh sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nên âm “kỳ” gần với “kề” và hoàn toàn phù hợp với “liền kề” cũng có nghĩa tương tự như “liên hệ”. Qua khảo cứu kỷ lưỡng, sẽ có đủ lý do để phục nguyên chữ Nôm cổ đại “kề蘻” đã có trước âm “hệ” quá mới, và âm “kỷ” với “kết” cổ đại vẫn có sau âm “kề”. Vậy: “liền kì” hay “liền kề” là có trước “liên hệ”
Ngôn bộ 言部 詣nghĩ(chỉ) 至也 chí dã。从言旨聲 tùng ngôn, kỷ thanh。 五計ngũ kế = ngễ(切thiết) . Từ khảo cứu nầy thấy “thánh chỉ” thời Cổ đại gọi là “thánh nghĩ”, và đến thời Trung cổ là “thánh nghễ” cho nên phiên âm là “Ngũ Kế五計” = Nghễ, ngày nay là “chỉ.”
Chỉ bộ 旨部 旨kỷ 美也mỹ dã。从甘匕聲tùng cam tỉ thanh; âm cam theo tỉ thanh là “kỷ”。凡旨之屬皆从旨phàm chỉ chi thuộc giai tùng chỉ。職雉切 chức thị thiết =chỉ (biến âm thành chỉ): xưa đọc là “kỷ” vì là “cam” với “tỉ thanh”. Nay đọc là “chỉ”
Tỷ Bộ 匕部 匕tỷ 相與比敘也 tương dĩ tỉ tự dã。从反人 Tùng phản nhân {cách viết như chữ nhân人 bị lộn ngược (匕)} 。亦所以用比取飯. Tỷ, diệc sở dỉ dụng tỉ thủ phạn - “tỷ”có thể dùng để đựng cơm). Tiếng Việt ngày nay còn dùng “kỷ” trà, kỷ đựng trầu cau. 一名柶 (nhất danh mứ/máng) còn gọi là “mứ” (hay là “máng” ngày nay)。Ngày nay tiếng Triều Châu vẫn dùng chữ “tỷ-đọc thànhTeaá” là cái “chảo” để chiên cơm, còn tiếng Việt Nam thì lại còn dùng “máng” là “máng” đựng thức ăn cho gia súc như cái “máng” dùng cho heo ăn. 凡匕之屬皆从匕phàm tỷ chi thuộc giai tùng tỷ. 卑履切 ty lý thiết (ty lý = âm “tí-tỉ”) => “匕tỷ” có sau, nên được giải thích rõ là còn gọi là “mứ/ máng柶”.
Mộc bộ 木部 柶 Tỷ(mứ, máng) 《禮lễ》有柶hữu tỷ. 柶tỷ/tứ(mứ, máng), 匕也tỉ dã。从木四聲 (tùng “mộc” “ tứ” thanh ) âm cổ là theo mộc , với “tứ” thanh, tức là “mứ” hay “máng”, cái “máng” đựng thức ăn, cái “máng” hay cái “mứ” hay cái “tỷ”, cái “kỷ” lại là dùng để đựng thức ăn trong dịp lễ禮。息利切 tức lị thiết = tỷ (ghi chú: lị利 đọc là “lị”, chỉ đến khi có vua tên Lê Lị thì kỵ húy nênlị mới đổi đọc thànhlợi).=> 从木四聲 Tùng mộc tứ thanh: mộc + tứ là “柶mứ”/ máng là “chữ Nôm” có trước, âm “tỷ” có sau và chỉ đọc “tức lị息利” bằng Hán-Việt được mà thôi, còn “xĩa lía息利”= “xĩa”/ tiếng bắc kinh và “xíc lì息利”= “xi”/ Tiếng Quảng Đông và “xech lịa息利”= “xia”/ Tiếng Triều Châu... đều “khó lòng” và “không” “phiên âm” được chữ nầy thành ra chữ nào có âm chính xác theo cách “phản” cũng như là “thiết”! Chính vì vậy mới thấy được cái âm “Mứ柶, Máng柶” là chính xác và có trước, và âm Tỷ柶 là có sau. Các “phương ngôn” khác của chữ nầy thì khỏi bàn luận... vì không dùng nỗi, dùng sai hoặc biến âm khác xa rồi, hoặc không còn dùng chữ nầy nữa. Chữ nầy cũng là một bằng chứng rằng tiếng Nôm, chữ Nôm có trước!
Chữ “gần近” ở Triều Châu đọc là “gìn/ kìn近”, ở Phiên Ngung đọc là “khạnh/ cạnh近”, ở Bắc Kinh đọc là “Jín近”. Thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “cận 近” ; chữ “tiệm店” ở Triều Châu đọc là “tiẹm店”, ở Quảng Châu đọc là “tiêm店”, ở Bắc Kinh đọc là “tién店”, thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “điếm店”. Gần-gìn, khạnh/cạnh với “jín” cũng chính là “gìn”, cùng với “tiệm” “tiêm” “tiẹm” “tiién”... Xin nhấn mạnh là riêng ở bên “tiếng Hoa” thì đã chứng minh và công nhận rằng tiếng Quảng Đông và Triều Châu là có trước tiếng Hoa-Bắc Kinh mấy ngàn năm. Như vậy cũng có nghĩa là chữ “gần/ cạnh” có trước chữ “cận hay jín” và “tiệm/ tiêm” có trước “tién” hay “điếm” của “Hán –Việt” vậy.
Ngày nay, lại có Khương Nhung bên Trung Quốc xuất bản tiểu thuyết “Tô tem Sói”, cho rằng chữ tượng hình chính là do dân du mục sáng tạo ra. Từ lý giải chữ Mỹ美 chính là con dê羊 lớn mập là đại大, thì là đẹp, đẹp lòng khi nuôi được con dê lớn thì là Mỹ美, (美=羊+大) tác giả cho rằng chữ vuông là của dân “du mục”. Vì vậy đẹp, Mỹ美 là “nuôi dê” là “du mục” và “Người Hoa-gốc bắc-du mục” sáng tạo ra chữ vuông! Khương Nhung nói về cái “đẹp” là Mỹ美 mà không dính líu với trồng tỉa và nông nghiệp! Tác giả cố tình không biết hay là thật sự không biết rằng:
Chữ Lệ麗 là cũng làmỹ là đẹp, và chữ lệ còn hay hơn chữ Mỹ美 nhiều! Chữ Lệ麗 là con nai(鹿lộc) vàng ngơ ngác với trên là đôi mắt nai mở to chứ không nhắm lại! Như vậy, xét theo chữ Lệ麗 thì chữ vuông là thợ săn hay “thi sĩ” hay “họa sĩ” sáng tạo ? Xin hãy cười cho vui! Người đời hay dùng chung nói đẹp đẽ là Mỹ Lệ-美麗 hay diễm lệ-艷麗.
Xin dẫn chứng tiếp:
- Chữ Diễm艷 là “đẹp” diễm tuyệt, là sắc đẹp đầy tràn, bên trái của chữ Diễm艷 là chữ Phong豐, bên phải là chữ Sắc色. Chữ Phong gồm chữ Đậu豆(hạt đỗ-h[/F
Có rất nhiều bằng chứng hiển nhiên là chữ Nôm có trước chữ Hán.
2800 năm trước có bài hát của người Việt khi chèo ghe, là bài “Việt nhân ca” được truyền đến ngày nay, là chữ Nôm.
2500 trước có “Duy giáp lệnh” của Việt Vương Câu-Tiễn nằm trong sách Việt Chép, là chữ Nôm.
Các truyền thuyết, cổ sử, cổ thư và cổ thi từ dân gian cho đến sách của Khổng Tử biên soạn, và “từ điển” thời xưa v v... đều sẽ chứng minh được là “hiển nhiên” rằng: chữ Nôm có trước!
Tôi xin trình bài khảo cứu nguồn gốc chữ Nôm và Chữ Nôm có trước chữ Hoa và Hán-Việt với nhiều bằng chứng rỏ ràng được xét từ giáp cốt văn, cổ thư-cổ sử.
Xin lần lượt xem qua từng bằng chứng:
Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn.
- Phần Thuyết văn gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ chữ.
- Phần Trọng Văn gồm 1,163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng mà cách viết khác nhau.
Sách Thuyết Văn gồm 14 chương chính và 1 chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm 100), sách Thuyết-văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ nhất (Công nguyên, năm 121 ), Hứa Thận mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên triều đình Hán .
Nguyên bản của Thuyết văn đã thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác thời Hán và các đời sau đã dùng Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau nầy người ta có tài liệu biên soạn lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống , rồi đến thời Mãn Thanh đều có người nghiên cứu và hiệu đính.
Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn.
-“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前.
-“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前.
Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm.
Nhờ cách phiên âm phản-thiết của Hứa Thận, cho nên người ta có thể căn cứ vào cách đọc của Thuyết văn để phục nguyên âm đọc Hán ngữ cổ. Cách giải tự trong Thuyết văn có nhiều đóng góp cho việc khảo cứu ngôn ngữ học. Qua đó, người ta có thể phục nguyên cách đọc của thời cổ xưa. Đời nhà Thanh có bốn học giả nổi tiếng đã nghiên cứu và hiệu đính Thuyết văn.
Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng.
Chính vì tiếng “Hoa” không đọc nổi “Thuyết văn giải tự”, cho nên các đời sau nầy khi biên soạn lại sách Thuyết văn, người ta thêm vào cách phiên âm “mới” hơn so với thời Cổ đại. Dù là như vậy nhưng, những âm Trung Cổ đại lại một lần nữa cũng gần với âm Việt hơn là tiếng Hoa ngày nay. Chúng ta có thể nhận ra những phần phiên âm theo cách “phản-thiết” mà người đời sau thêm vào. Khi đọc sách Thuyết văn thấy đã có hướng dẫn cách đọc chữ của Hứa Thận rồi mà lại có thêm 3 chữ “X X thiết” nữa mà lại khác với cách “hướng dẫn các đọc” của câu có trước thì đó là bản được “soạn” lại! Bản nào được biên soạn vào đời nhà Thanh thì có thêm phần “XX thiết” đọc theo tiếng quan thoại-phổ thông được hơn.
Liệu có còn bản chính của Thuyết văn do Hứa Thận thời nhà Hán viết ra không? Không! bản Thuyết văn xưa nhất hiện thời, cho dù được gọi là “nguyên bản”, được chụp hình đăng lên Internet hay in thành sách để bán thì cũng là bản được biên soạn vào thời nhà Tống ! Những bản khác còn được làm muộn hơn nữa.
Nhưng dù sao đi nữa, sách Thuyết văn có giá trị là nhờ nó giữ được nhiều nguyên văn cổ xưa của Hứa Thận và có nhiều điển tích trong những lời giải thích. Đồng thời sách cũng đưa ra quy tắc chữ viết cùng một bộ thì có phát âm giống nhau v v... Tôi nhận thấy, đọc Thuyết văn theo tiếng Hoa-quan thoại thì không phiên âm được chữ như chú dẫn của Hứa Thận, còn khi đọc theo các tiếng Việt thì đọc đúng! Ví dụ:
- Chữ 夏, tiếng Hoa ngày nay đọc là “Xia”. Thuyết văn ghi: 夏 : 中國之人也. 從夊從頁從��. ��,兩手. 夊,兩足也. 胡雅切. (Hạ: Trung Quốc chi nhân dã.Tùng xuôi tùng hiệt tùng cúc. Cúc, lưỡng thủ. Xuôi, lưỡng túc dã. Hồ nhã thiết.)
Giải thích chi tiết nghĩa là: Hạ夏: người Trung Quốc vậy. Viết theo 夊xuôi theo 頁hiệt theo cúc��. Cúc , hai tay (cúc: khép, chấp 2 tay). Xuôi, hai chân vậy. Hồ nhã thiết.
-Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ”
-Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”.
Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đọc theo tiếng Hoa-quan thoại thì “胡雅 (Hủa + Dã)” không thể nào đánh vần ra “Xia” theo cách “phản và thiết”. Cũng nhờ phần chú thích giải tự thì biết được ngày xưa khép tay, khoanh tay, hay chấp tay gọi là Cúc��và hai chân xuôi thì viết là xuôi夊.
*Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam.
Bây giờ ta thử xét một vài chữ có cách đọc khó và lạ xưa nay:
譒 ��也。从言番聲。《商書》曰:“王譒告之.” 補過切
chữ Bôn譒 Boa- dã. Tùng ngôn bàn thanh. (Thương thư) viết: “Vương bôn cáo chi”. Bổ qua thiết, là “ Bổ-ua=bua-boa”.
Bua (Bổ qua thiết) là phiên âm của đời sau. Nguyên văn của “Thuyết văn” là “ngôn-bàn thanh言番聲.”=Bôn.
Bây giờ người ta đọc chữ Bôn (bua-boa)-譒là “Phiên” hay là “Phồn”. Đọc là “phồn” thì còn hợp với Thuyết văn đã ghi là “ngôn, bàn thanh”. Bôn hay Phôn hay Phồn giống nhau, chỉ là đọc giọng nặng nhẹ khác nhau theo từng miền “đông, tây, nam, bắc”. Người ta còn đọc là 譒phiên theo âm chữ ghép bên phải là “phiên番”; và cách đọc “phồn譒” là vì ghép vần 番phiên và 言ngôn. Nhưng thời xưa lại đọc chữ 番phiên là “bàn番”.
Xin giải thích thêm: 譒 vết tích của âm “Boa” còn được dùng trong tiếng Triều Châu- Mân Việt ngày nay. Hiện giờ tiếng Triều Châu vẫn gọi “bàn chân” là “kha-bóa” (Kha là kẳng/cẳng, Boa là bôn/bàn…Bàn là bàn tay, bàn chân). Từ nguyên văn “tùng ngôn bàn thanh” của “Thuyết văn” thì chúng ta biết được ở thời Cổ đại đọc là “Bôn, Bồn, Bàn”, đến thời Trung Cổ người ta “biên soạn” lại Thuyết văn thì thêm vào “Bổ qua thiết = Bua = Boa” phù hợp với “kha-boa (bàn chân)”. Bên tiếng Triều Châu còn dùng cho đến ngày nay. Âm của các “Nho gia (?)” từ từ biến thành “Phiên”- như tên gọi nước “Thố phiên” hay “Phồn- tức là nước “Thổ phồn”.
“Phiên” hay “Phồn” có sau và được dùng cho đến ngày nay. Người ta lại đặt tên gọi đó là “từ Hán-Việt”! Tên gọi là gì cũng được! điều rõ ràng là “Hán-Việt” của “phiên” hay “phồn” có sau, còn chữ Nom “bóa” “boa” “bàn” mới là có trước và đã được ghi trong sách “Thuyết văn” cũng như tồn tại trong dân gian Việt cho đến ngày nay. Cho nên nếu nói rằng “bàn” là “Nôm” thì rõ ràng là Nôm có trước.
(Dưới đây sẽ xét đến âm chữ Bàn trong Thuyết văn...)
番: 獸足謂之番。从釆;田,象其掌。 附袁切
Phiên: Thú túc vị chi phiên. Tùng 釆thể; 田điền, tượng kỳ chưởng掌. Phù viên thiết. Phiên: Chân thú gọi là phiên, viết theo 釆thể; theo 田điền, như là chưởng (chưởng: bàn, bàn tay).
Phần trên là tôi phiên dịch theo “đa số” hiện giờ! chứ thật ra thì đoạn văn trên phải phiên dịch là “ Bàn: thú túc vị chi bàn, tùng thể;điền, tượng kỳ chưởng.”
Đây là vết tích của chữ Phiên番 trước và ngay thời Hán, vào lúc ông Hứa Thận còn sống thì đọc là Bàn. Cho nên còn cách giải nghĩa phần nầy như sau: { Bàn番: Thú túc gọi là Bàn. Theo (thể)釆bẻ ; (Điền)田đàn, tựa như cái chưởng. Bàn: chân thú gọi là bàn (bàn chân), viết theo bẻ釆(thể) và đàn田(điền), tựa cái bàn (tay, chân)...} Vì sao lại “diễn nôm” như vậy ? Vì thuyết văn đã viết đây là “ngôn- bàn thanh” {Chữ bẻ釆(thể) quá đặc biệt! “thể” là “hái” là “bẻ”/ví dụ: “Thể 釆Trà茶” là “hái” là “bẽ” “chè-trà”: [Chữ Bẻ釆(thể) gồm chử mể米 và 1 dấu “ngắt” hay “cắt” ở phía trên mà tiếng Triều Châu đọc Mể米 là “Bía米” và có thêm cái dấu dấu cắt phía trên thì có giọng đọc thành “bẽ釆” là rất phù hợp]. Tiếng Triều Châu còn đọc là “bboi” hay “bbé” hay “tiaé”, (tiếng Triều châu : “hái lá” là “tiáe Huêét” hay “Bbé Huêét” Huêét âm chử Hiệt頁 nhưng mang nghĩa là “Lá” ), tiếng Quảng Đông là “chsổi釆”, tiếng Bắc Kinh là “chsài釆”. Chsổi hay chsài như là đọc “thể” không chuẩn mà thành “chsể, chsề”, còn “thể” đọc không chuẩn qua vần “T” sẽ thành “tể” hay “Tiae” ; còn âm “bbé” hay “bẻ” là giống nhau}. Xin hỏi ai là chuyên gia về “Hán-Nom” thì những âm của một chữ “đặc biệt” như vậy thì là âm nào là “Hán” và âm nào là “Nôm” và chữ Hán có trước hay là Nôm có trước? Điều thú vị khi nghiên cứu Thuyết văn giải tự của Hứa Thận để phục chế cổ Hán ngữ thì thấy rõ phát âm thời Tần và Hán giống như các tiếng nói Việt Nam và Quảng Đông (Việt), Phước Kiến-Triều Châu (Mân-Việt) ngày nay; và cũng phát giác những biến âm đã khác tiếng Việt thời cổ đại mà các phương ngôn Việt Nam, Quảng Đông, Triều Châu còn giữ được. Ví dụ tiếng Việt Nam còn giữ được tiếng “bàn” tay, “bàn” chân, và Triều Châu giữ được “boa-boá” hay là “póa” Trung cổ đại mà thời Hán đã được ghi lại trong “Thuyết Văn”. Biến âm của Bàn-bồn-bôn/ tùng “ngôn” “bàn” thanh trở thành bua-boa-bóa-poá, trở thành “biên” rồi thành “phiên” và “phồn”...! Thực ra thì từ “bàn-bèn” biến thành “biên, bua, phàn, phền, phồn, phiên v v...” đó là quy luật biến âm thường tình của ngôn ngữ theo miền và theo thời đại với nhiều tiếp xúc văn hóa và phát triễn khác. Cổ âm xưa là Bàn, giáp cốt-Kim văn đã vẽ rõ chữ nầy bằng hình bàn chân thú. Ngày nay chỉ có tiếng Việt Nam còn dùng “bàn” là “bàn tay- bàn chân” thì rõ ràng là tiếng Việt Nam còn giữ được âm cổ xưa nhất, và cũng là một minh chứng giọng “Nôm” của chữ “Nôm” là có trước: có thể nói giáp cốt văn-chữ tượng hình đầu tiên là “chữ Nôm”.
Cổ văn vẽ chữ tượng hình: 番phiên là “bàn -番” , chữ xưa là tượng hình, vẽ “chữ phiên” là bàn chân thú có móng vuốt, ngay cả chú thích “附袁切phù viên thiết”. Ngày nay đọc như vậy thì làm sao đúng với ngày xưa? Nếu đọc là “bùa vang- 附袁” là “bàn (vua)” thì hoàn toàn đúng là “bàn” như chú thích trong Thuyết văn vậy! Bởi vì chính chữ “bùa符(Phù)” của bùa chú là đồng bộ thì đồng âm với chữ bùa附(Hay “Phù”, hay “Phụ”) đó thôi.
- Xét thêm: Thảo bộ 艸部 蘻kỹ-(hệ) 狗毒也 cẩu độc dã 从艸繫聲 tùng thảo kỷ (Hệ) thanh。古詣切 Cổ chỉ thiết.
Cổ chỉ (nghĩ)= kỷ, ngày nay dùng chữ nầy cho ý nghĩa “liên kết”, mà khi có 2 chữ “liên kết” lại đọc là “liên hệ蘻”. Thật ra thì xưa Trung Cổ ghi là “古詣cổ ngĩ =kỷ” và biến âm “kỷ” thành ra “kết” nhưng sau nầy thành ra “hệ” như ngày nay. (Ngày xưa đọc chữ “詣chỉ” là “Nghĩ詣”: Ngôn言 chỉ旨 = nghĩ và phiên âm là 五計 / Ngũ kế). Phân tích kỷ lưỡng lời trong Thuyết văn sẽ thấy rõ là “nọc độc của chó gọi là “Cẩu Kỷ (nọc độc)” và “Tùng thảo kỷ thanh” lại là viết theo bộ thảo艸 với là âm “Kỷ- hay kỳ”. Vì tiếng xưa không cố định thanh sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nên âm “kỳ” gần với “kề” và hoàn toàn phù hợp với “liền kề” cũng có nghĩa tương tự như “liên hệ”. Qua khảo cứu kỷ lưỡng, sẽ có đủ lý do để phục nguyên chữ Nôm cổ đại “kề蘻” đã có trước âm “hệ” quá mới, và âm “kỷ” với “kết” cổ đại vẫn có sau âm “kề”. Vậy: “liền kì” hay “liền kề” là có trước “liên hệ”
Ngôn bộ 言部 詣nghĩ(chỉ) 至也 chí dã。从言旨聲 tùng ngôn, kỷ thanh。 五計ngũ kế = ngễ(切thiết) . Từ khảo cứu nầy thấy “thánh chỉ” thời Cổ đại gọi là “thánh nghĩ”, và đến thời Trung cổ là “thánh nghễ” cho nên phiên âm là “Ngũ Kế五計” = Nghễ, ngày nay là “chỉ.”
Chỉ bộ 旨部 旨kỷ 美也mỹ dã。从甘匕聲tùng cam tỉ thanh; âm cam theo tỉ thanh là “kỷ”。凡旨之屬皆从旨phàm chỉ chi thuộc giai tùng chỉ。職雉切 chức thị thiết =chỉ (biến âm thành chỉ): xưa đọc là “kỷ” vì là “cam” với “tỉ thanh”. Nay đọc là “chỉ”
Tỷ Bộ 匕部 匕tỷ 相與比敘也 tương dĩ tỉ tự dã。从反人 Tùng phản nhân {cách viết như chữ nhân人 bị lộn ngược (匕)} 。亦所以用比取飯. Tỷ, diệc sở dỉ dụng tỉ thủ phạn - “tỷ”có thể dùng để đựng cơm). Tiếng Việt ngày nay còn dùng “kỷ” trà, kỷ đựng trầu cau. 一名柶 (nhất danh mứ/máng) còn gọi là “mứ” (hay là “máng” ngày nay)。Ngày nay tiếng Triều Châu vẫn dùng chữ “tỷ-đọc thànhTeaá” là cái “chảo” để chiên cơm, còn tiếng Việt Nam thì lại còn dùng “máng” là “máng” đựng thức ăn cho gia súc như cái “máng” dùng cho heo ăn. 凡匕之屬皆从匕phàm tỷ chi thuộc giai tùng tỷ. 卑履切 ty lý thiết (ty lý = âm “tí-tỉ”) => “匕tỷ” có sau, nên được giải thích rõ là còn gọi là “mứ/ máng柶”.
Mộc bộ 木部 柶 Tỷ(mứ, máng) 《禮lễ》有柶hữu tỷ. 柶tỷ/tứ(mứ, máng), 匕也tỉ dã。从木四聲 (tùng “mộc” “ tứ” thanh ) âm cổ là theo mộc , với “tứ” thanh, tức là “mứ” hay “máng”, cái “máng” đựng thức ăn, cái “máng” hay cái “mứ” hay cái “tỷ”, cái “kỷ” lại là dùng để đựng thức ăn trong dịp lễ禮。息利切 tức lị thiết = tỷ (ghi chú: lị利 đọc là “lị”, chỉ đến khi có vua tên Lê Lị thì kỵ húy nênlị mới đổi đọc thànhlợi).=> 从木四聲 Tùng mộc tứ thanh: mộc + tứ là “柶mứ”/ máng là “chữ Nôm” có trước, âm “tỷ” có sau và chỉ đọc “tức lị息利” bằng Hán-Việt được mà thôi, còn “xĩa lía息利”= “xĩa”/ tiếng bắc kinh và “xíc lì息利”= “xi”/ Tiếng Quảng Đông và “xech lịa息利”= “xia”/ Tiếng Triều Châu... đều “khó lòng” và “không” “phiên âm” được chữ nầy thành ra chữ nào có âm chính xác theo cách “phản” cũng như là “thiết”! Chính vì vậy mới thấy được cái âm “Mứ柶, Máng柶” là chính xác và có trước, và âm Tỷ柶 là có sau. Các “phương ngôn” khác của chữ nầy thì khỏi bàn luận... vì không dùng nỗi, dùng sai hoặc biến âm khác xa rồi, hoặc không còn dùng chữ nầy nữa. Chữ nầy cũng là một bằng chứng rằng tiếng Nôm, chữ Nôm có trước!
Chữ “gần近” ở Triều Châu đọc là “gìn/ kìn近”, ở Phiên Ngung đọc là “khạnh/ cạnh近”, ở Bắc Kinh đọc là “Jín近”. Thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “cận 近” ; chữ “tiệm店” ở Triều Châu đọc là “tiẹm店”, ở Quảng Châu đọc là “tiêm店”, ở Bắc Kinh đọc là “tién店”, thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “điếm店”. Gần-gìn, khạnh/cạnh với “jín” cũng chính là “gìn”, cùng với “tiệm” “tiêm” “tiẹm” “tiién”... Xin nhấn mạnh là riêng ở bên “tiếng Hoa” thì đã chứng minh và công nhận rằng tiếng Quảng Đông và Triều Châu là có trước tiếng Hoa-Bắc Kinh mấy ngàn năm. Như vậy cũng có nghĩa là chữ “gần/ cạnh” có trước chữ “cận hay jín” và “tiệm/ tiêm” có trước “tién” hay “điếm” của “Hán –Việt” vậy.
Ngày nay, lại có Khương Nhung bên Trung Quốc xuất bản tiểu thuyết “Tô tem Sói”, cho rằng chữ tượng hình chính là do dân du mục sáng tạo ra. Từ lý giải chữ Mỹ美 chính là con dê羊 lớn mập là đại大, thì là đẹp, đẹp lòng khi nuôi được con dê lớn thì là Mỹ美, (美=羊+大) tác giả cho rằng chữ vuông là của dân “du mục”. Vì vậy đẹp, Mỹ美 là “nuôi dê” là “du mục” và “Người Hoa-gốc bắc-du mục” sáng tạo ra chữ vuông! Khương Nhung nói về cái “đẹp” là Mỹ美 mà không dính líu với trồng tỉa và nông nghiệp! Tác giả cố tình không biết hay là thật sự không biết rằng:
Chữ Lệ麗 là cũng làmỹ là đẹp, và chữ lệ còn hay hơn chữ Mỹ美 nhiều! Chữ Lệ麗 là con nai(鹿lộc) vàng ngơ ngác với trên là đôi mắt nai mở to chứ không nhắm lại! Như vậy, xét theo chữ Lệ麗 thì chữ vuông là thợ săn hay “thi sĩ” hay “họa sĩ” sáng tạo ? Xin hãy cười cho vui! Người đời hay dùng chung nói đẹp đẽ là Mỹ Lệ-美麗 hay diễm lệ-艷麗.
Xin dẫn chứng tiếp:
- Chữ Diễm艷 là “đẹp” diễm tuyệt, là sắc đẹp đầy tràn, bên trái của chữ Diễm艷 là chữ Phong豐, bên phải là chữ Sắc色. Chữ Phong gồm chữ Đậu豆(hạt đỗ-h[/F