Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Người kỵ mã cầm cờ vào Thăng Long
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 81623" data-attributes="member: 17223"><p><strong>Người kỵ mã cầm cờ vào Thăng Long </strong></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue"><strong><em>Trong mỗi trận giao tranh lớn giữa các thế lực chính tà, giữa bè lũ xâm lược và quân giải phóng, giữa bọn phản động và người yêu nước, để chứng tỏ cho dấu mốc cuối cùng của chính nghĩa, người ta thường nhắc đến người cắm cờ chiến thắng. Ngày 9-5-1945, chiến sỹ Hồng Quân Liên Xô đã tháo lá cờ thập ngoặc trên đỉnh tòa nhà Quốc hội Berlin mà thay vào đó là lá cờ đỏ búa liềm. Hay hình ảnh chiến thắng với lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hàm Đờ-cát-tơ-ri ngày 7/5 1954 lịch sử. Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ mặt trân giải phóng dân tộc vào lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30/4 năm 1975.</em></strong></span></span></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Vậy thì chẳng có lý do gì để chúng ta quên đi Lê Hân, người kỵ mã cắm cờ vào Thăng Long.</span></span></strong></em></p><p></p><p></p><p><em> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue"><strong>Lê Hân là lính kỵ mã trong tiền quân của Ngô Văn Sở, từng cầm đại kỳ, hộ giá Quang Trung vào Thăng Long sau chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa.</strong></span></span></em></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Thuở thiếu thời, Lê Hân, một cậu bé con nhà nghèo ở huyện Bình Khê, được một nhà sư ở Thiên Thai tự dạy võ nghệ cho. Khi tập đánh bộ, khi tập đánh trên ngựa, Hân trở thành một chàng trai dũng mãnh, những muốn đem tài sức ra cứu dân giúp đời. Gặp Ngô Văn Sở trên đường đi mộ binh, Hân ứng nghĩa ngay. Buổi đầu, chưa ai biết đến, Hân chỉ là một giản binh giữa hàng quân. Về sau, nhờ tài đức hơn người, Hân được cất nhắc làm đội trưởng, cầm cờ đi đầu khi hành quân hay phất cao trên trận địa để cổ vũ binh sĩ xông lên.</span></span></strong></em></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Đại kỳ của tướng Tây Sơn hình vuông, mỗi bề hai mét, giữa có màu đào, thêu tên chủ tướng, quanh viền tua xanh đính chặt các móc câu sắt, khi cần, có thể làm vũ khí phất ngang, làm sát thương quân địch. Người lính cầm cờ phải rất khỏe, can đảm, giỏi võ nghệ, để giữ chắc lá cờ khi xông trận. Vì giữ được cờ là giữ vững tinh thần quân sĩ, bị địch chém gãy cờ là báo điềm vỡ trận. Vì thế Ngô Văn Sở mới giao cho Lê Hân giữ Đại kỳ. Mỗi lần ra trận, ông ngồi trên một chiến mã, tay cầm chắc cán cờ bằng gỗ trắc, sườn đeo trường kiếm, lưng mang hỏa hổ để ứng phó khi cần. Tay cờ, tay kiếm, Hân không ngại khi đánh giáp mặt với kẻ thù. Cuộc đời chiến đấu của Lê Hân đã gắn với ngọn cờ đào của nghĩa quân Tây Sơn như vậy.</span></span></strong></em></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Mùa đông năm 1773, sau khi lấy được phủ Quy Nhơn, Tây Sơn Vương cử Ngô Văn Sở làm Chinh Nam Đại Tướng quân, đem binh vào đánh chiếm ba phủ: Phú Yên, Diên Khánh và Bình THuận. Các tướng giữ thành của chúa Nguyễn kẻ đầu hàng, kẻ tử trận. Lê Hân ngồi trên mình ngựa, giương cao cờ dẫn đoàn quân chiến thắng làm chủ hết thành này đến thành khác, trong tiếng reo hò vang dội của nhân dân.</span></span></strong></em></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Vinh quang nhất là giữa trưa ngày Mồng 5 tết Kỷ Dậu, Lê Hân hiên ngang giơ cao lá cờ đào, đi đầu đội tiền quân, hộ giá vua Quang Trung vào thành Thăng Long sau chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. Đi sau đoàn kỵ binh của ông là hàng trăm thớt voi mang súng cự thuần trên lưng. Đầu các quản tượng và nòng súng đều quấn dải lụa điều mừng chiến thắng. Vua Quang Trung ngồi trên bành voi, áo bào đỏ và khăn vàng xạm đen khói súng, vẫy tay chào trăm họ đang hân hoan ra đón bên vệ đường.</span></span></strong></em></p><p></p><p><em><strong> <span style="font-size: 15px"><span style="color: royalblue">Sau chiến thắng, vua trở về Phú Xuân, Lê Hân ở lại Bắc Thành cùng chủ soái. Từ một người lính kỹ mã cầm cờ tiền quân, ông trở thành một tỳ tướng thân cận của Ngô Văn Sở. Tới triều Cảnh Thịnh, chủ soái bị hại, ông chán ngán, lấy lý do đau yếu và xin về quê, nhưng không được chấp thuận. Triều Tây Sơn sụp đổ, ông trốn thoát khỏi vùng truy lùng của nhà Nguyễn, băng rừng núi trở về vùng Tây Sơn Thượng, mai danh ẩn tích, sống cùng đồng bào Ba Na quen biết từ hồi dấy nghĩa. Tới thời Minh Mệnh, lúc đã gần 80 tuổi, lệnh truy lùng quan quân nhà Tây Sơn đã lắng dịu, ông mới lặng lẽ về quê, sống trong đùm bọc, chở che của họ hàng, làng xóm.</span></span></strong></em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 81623, member: 17223"] [B]Người kỵ mã cầm cờ vào Thăng Long [/B] [SIZE=4][COLOR=royalblue][B][I]Trong mỗi trận giao tranh lớn giữa các thế lực chính tà, giữa bè lũ xâm lược và quân giải phóng, giữa bọn phản động và người yêu nước, để chứng tỏ cho dấu mốc cuối cùng của chính nghĩa, người ta thường nhắc đến người cắm cờ chiến thắng. Ngày 9-5-1945, chiến sỹ Hồng Quân Liên Xô đã tháo lá cờ thập ngoặc trên đỉnh tòa nhà Quốc hội Berlin mà thay vào đó là lá cờ đỏ búa liềm. Hay hình ảnh chiến thắng với lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hàm Đờ-cát-tơ-ri ngày 7/5 1954 lịch sử. Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ mặt trân giải phóng dân tộc vào lúc 11 giờ 30 phút sáng ngày 30/4 năm 1975.[/I][/B][/COLOR][/SIZE] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Vậy thì chẳng có lý do gì để chúng ta quên đi Lê Hân, người kỵ mã cắm cờ vào Thăng Long.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [I] [SIZE=4][COLOR=royalblue][B]Lê Hân là lính kỵ mã trong tiền quân của Ngô Văn Sở, từng cầm đại kỳ, hộ giá Quang Trung vào Thăng Long sau chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa.[/B][/COLOR][/SIZE][/I] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Thuở thiếu thời, Lê Hân, một cậu bé con nhà nghèo ở huyện Bình Khê, được một nhà sư ở Thiên Thai tự dạy võ nghệ cho. Khi tập đánh bộ, khi tập đánh trên ngựa, Hân trở thành một chàng trai dũng mãnh, những muốn đem tài sức ra cứu dân giúp đời. Gặp Ngô Văn Sở trên đường đi mộ binh, Hân ứng nghĩa ngay. Buổi đầu, chưa ai biết đến, Hân chỉ là một giản binh giữa hàng quân. Về sau, nhờ tài đức hơn người, Hân được cất nhắc làm đội trưởng, cầm cờ đi đầu khi hành quân hay phất cao trên trận địa để cổ vũ binh sĩ xông lên.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Đại kỳ của tướng Tây Sơn hình vuông, mỗi bề hai mét, giữa có màu đào, thêu tên chủ tướng, quanh viền tua xanh đính chặt các móc câu sắt, khi cần, có thể làm vũ khí phất ngang, làm sát thương quân địch. Người lính cầm cờ phải rất khỏe, can đảm, giỏi võ nghệ, để giữ chắc lá cờ khi xông trận. Vì giữ được cờ là giữ vững tinh thần quân sĩ, bị địch chém gãy cờ là báo điềm vỡ trận. Vì thế Ngô Văn Sở mới giao cho Lê Hân giữ Đại kỳ. Mỗi lần ra trận, ông ngồi trên một chiến mã, tay cầm chắc cán cờ bằng gỗ trắc, sườn đeo trường kiếm, lưng mang hỏa hổ để ứng phó khi cần. Tay cờ, tay kiếm, Hân không ngại khi đánh giáp mặt với kẻ thù. Cuộc đời chiến đấu của Lê Hân đã gắn với ngọn cờ đào của nghĩa quân Tây Sơn như vậy.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Mùa đông năm 1773, sau khi lấy được phủ Quy Nhơn, Tây Sơn Vương cử Ngô Văn Sở làm Chinh Nam Đại Tướng quân, đem binh vào đánh chiếm ba phủ: Phú Yên, Diên Khánh và Bình THuận. Các tướng giữ thành của chúa Nguyễn kẻ đầu hàng, kẻ tử trận. Lê Hân ngồi trên mình ngựa, giương cao cờ dẫn đoàn quân chiến thắng làm chủ hết thành này đến thành khác, trong tiếng reo hò vang dội của nhân dân.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Vinh quang nhất là giữa trưa ngày Mồng 5 tết Kỷ Dậu, Lê Hân hiên ngang giơ cao lá cờ đào, đi đầu đội tiền quân, hộ giá vua Quang Trung vào thành Thăng Long sau chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. Đi sau đoàn kỵ binh của ông là hàng trăm thớt voi mang súng cự thuần trên lưng. Đầu các quản tượng và nòng súng đều quấn dải lụa điều mừng chiến thắng. Vua Quang Trung ngồi trên bành voi, áo bào đỏ và khăn vàng xạm đen khói súng, vẫy tay chào trăm họ đang hân hoan ra đón bên vệ đường.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [I][B] [SIZE=4][COLOR=royalblue]Sau chiến thắng, vua trở về Phú Xuân, Lê Hân ở lại Bắc Thành cùng chủ soái. Từ một người lính kỹ mã cầm cờ tiền quân, ông trở thành một tỳ tướng thân cận của Ngô Văn Sở. Tới triều Cảnh Thịnh, chủ soái bị hại, ông chán ngán, lấy lý do đau yếu và xin về quê, nhưng không được chấp thuận. Triều Tây Sơn sụp đổ, ông trốn thoát khỏi vùng truy lùng của nhà Nguyễn, băng rừng núi trở về vùng Tây Sơn Thượng, mai danh ẩn tích, sống cùng đồng bào Ba Na quen biết từ hồi dấy nghĩa. Tới thời Minh Mệnh, lúc đã gần 80 tuổi, lệnh truy lùng quan quân nhà Tây Sơn đã lắng dịu, ông mới lặng lẽ về quê, sống trong đùm bọc, chở che của họ hàng, làng xóm.[/COLOR][/SIZE][/B][/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Người kỵ mã cầm cờ vào Thăng Long
Top