Văn Tự Thời Nay
Kết luận là Việt tộc có hai ngôn ngữ . Cái mà người Việt gọi là Nho ngữ và người Hoa gọi là Hán ngữ là của Việt tộc ít nhất cũng bằng ngang với Hoa tộc vì ba lý do . Một là Việt tộc sáng chế văn tự của nó, thứ văn tự biểu ý (ideog raph) làm nền tảng để người Hoa và người Việt phát huy cải tiến qua nhiều đợt . Hai là nội dung của Nho Hán ngữ gồm vô số những từ gốc Việt . Ba là người Việt đã dùng Nho ngữ suốt mấy ngàn năm, dùng như của mình, để lập văn kiện quan thức; ghi chép lịch sử, sáng tác mọi thể văn chương, thi phú .
Ngôn ngữ kia tên gọi thông thường là Việt ngữ, là tiếng mẹ của Việt tộc, không có văn tự cho đến thời Hàn Thuyên chế ra chữ Nôm, dùng các thành tố của văn tự Nho để kết thành âm biểu của chữ Nôm . Từ đó nhiều áng văn được ghi bằng chữ Nôm . Nhưng chữ Nôm không thể phổ biến trong dân gian vì người ta phải biết chữ Nho mới đọc được chữ Nôm . Đến một giai đoạn Việt Nam bỏ rơi chữ Nôm là loại văn tự diễn ý (hình chữ chỉ ý nghĩa) để tiếp nhận văn tự diễn âm (hình chữ chỉ cách đọc) do các vị thừa sai đem đến . Kết quả là một hiện tượng bùng nổ kiến thức trong quần chúng . Trước đó, số lượng sách chữ Nôm và chữ Nho rất ít và không mấy người có thể đọc . Với văn tự mới gọi là “Quốc Ngữ” việc học đọc và viết coi như không thành vấn đề . Bởi vậy, kiến thức không còn bị chôn trong các sách Nôm và Nho, mà bỗng nhiên lan toả khắp nơi trong quần chúng .
Trách Nhiệm Về Ngôn Ngữ
Ngôn ngữ của một dân tộc phản ảnh trung thực và đầy đủ, văn hoá, truyền thống và ý hệ của dân tộc ấy .( Bỏ 1 câu .) Họ thường bẻ cong ý nghĩa của các từ để gieo mầm ý thức hệ của họ vào ngôn ngữ và tư tưởng của quần chúng. Vậy người Việt thời nay có nhiều trách nhiệm đối với ngôn ngữ. Đó là một phần chính yếu trong công cuộc bảo trì và phát huy văn hoá. Nói cụ thể đó là những công tác dạy Việt ngữ cho trẻ em, bảo tồn các thổ từ, thích nạp các tên riêng ngoại ngữ, chỉnh đốn văn tự, duy trì nhạc tính của Việt ngữ .
Ngôn Ngữ Và Thiếu Niên
Người Việt lưu vong lo âu về nạn thanh thiếu niên mất văn hoá. Khi rời Việt Nam năm 1975 một lớp thiếu niên mới 4,5 tuổi, tức là chưa biết gì về quê hương . Lớp ấy bây giờ đã 30 tuổi, có lẽ đã tốt nghiệp đại học, đã lập gia đình. Còn lớp sinh ra ở nước ngoài thì tất nhiên không có ý niệm gì về Việt Nam . Nếu cứ để vậy, thì việc mất văn hoá và tinh thần yêu nước là điều chắc, vì sống trong một môi trường xã hội, văn hoá, giáo dục do ĐÂM chi phối, như đã nói trên đậy Hãy thêm vào đó nạn hiếu kỳ, nghinh tân tống cựu. Trẻ em mới nói được tiếng Anh qua loa đã bắt đầu khinh chê tiếng của bố mẹ, lười học Việt ngữ, coi tiếng Anh là tiếng của mình; nhưng cũng như giới trẻ người ngoài, mãn trung học mà viết tiếng Anh chưa đúng câu vặn Thêm lên mấy tuổi nữa thì có thể Mỹ hoá hoàn toàn, từ ngôn ngư,ờ nếp sống cho đến tinh thần trọng tài khinh nghĩa.
Muốn bảo tồn văn hoá thì trước tiên phải bảo tồn ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ không phải chỉ là phương tiện để người ta trao đổi ý nghĩ với nhau . Nó còn là một kho tàng chứa đựng các yếu tố văn hoá để lưu truyền qua các thế hệ. Các yếu tố ấy là những nét đặc thù của dân tộc về tư tưởng, tín ngưỡng, cảm xúc, lối diễn đạt bằng văn chương mỹ thuật, lối nhìn đời và nhìn vũ trụ. Bởi vậy, người Việt lưu vong cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề ngôn ngữ cho giới trẻ. Giới trung và cao niên cũng nên tổ chức nhiều chương trình, dự án, nhiều cuộc hội đàm về Việt ngữ, để chứng minh cho giới trẻ sự quan tâm của mình và tạo môi trường tốt cho việc luyện Việt ngữ cho chúng.
Nên Giữ Các Thổ Từ
Tiếng Việt cũng như nhiều sinh ngữ khác có nhiều từ chỉ thông dụng trong từng địa phương . Đặc tính của các từ ấy là cũ và sát với dân gian, mà dân gian là cỗi nguồn phát xuất ngôn ngữ. Đây xin tạm gọi các từ ấy là thổ từ, vì chữ thổ ngữ (dialect) chỉ một ngôn ngữ khá khác biệt với ngôn ngữ chính về cả từ ngữ, kết cấu và văn phạm.
Sau đây là một ít trong hàng trăm thổ từ ở vùng tôI (Nghệ Tĩnh Bình): mần: làm; mô: ở đâu; bổ: ngã, té; chạc: dây, thừng; nghỉ: người ấy; nậu; bọn, tụi. Những vùng khác ở Bắc Trung Nam chắc chắn cũng có nhiều thổ từ.
Thiết tưởng chúng ta nên bảo trì tất cả những thổ từ trong tiếng Việt, cũng như nhiều dân tộc khác đã làm cho ngôn ngữ của họ. Vứt bỏ các từ ấy tất nhiên không làm cho ngôn ngữ thêm giàu. Đàng khác những từ ấy có giá trị lớn trong việc khảo cứu về nguồn gốc và cơ cấu của Việt ngữ. Những thổ từ ấy cũng giúp cho các thế hệ tương lai hiểu kỹ các di phẩm cổ kính trong văn học Việt Nạm
Trường hợp đặc biệt là trong Truyện Kiều có một số thổ từ thuộc vùng sinh quán của cụ Nguyễn Dụ Ví dụ, ít nhất là có hai lần tác giả dùng chữ “nghỉ”, nghĩa là người ầyLan thứ nhất là ở đoạn nhập đề, trong câu:”Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trụng” Kẻ không biết thì cho rằng cụ có ý dùng chữ “nghĩ” (trong chữ nôm chữ nghỉ và nghĩ chắc là viết như nhau). Như vậy, câu thơ có nghĩ là: Gia tư xet ra thì cũng vào hạng thường thường. Lần thứ hai là trong đoạn Kiều mắc lận Sở Khanh, rồi chỉ mặt hắn giữa đám đông người, đem tờ giấy có chữ “Tích Việt” ra làm tang chứng, khiến Sở Khanh hổ thẹn mà rút lụi Nguyễn Du viết:
“Lời ngay đông mặt trong ngoài
Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương
Phụ tình án đã rõ ràng
Dơ tuồng nghỉ mới kiếm đường tháo lui”
Ở đây nêu thay chữ “nghỉ” bằng chữ “nghi” hoặc chữ “nghị” thì câu thơ hoàn toàn không có nghĩa gì cả. Vậy muốn hiểu câu ấy thì bắt buộc phải biết thổ từ “nghỉ”.
Muốn bảo trì thổ từ thì cần ghi ngay vào giấy, vì giữ trong trí càng lâu thì càng quên mất nhiều. Mà nếu không quên chăng nữa thì khi ta chết nó sẽ đi theo tạ Những ai đã trưởng thành ở quê nhà nên cầm bút ghi các thổ từ trong vùng mình, cả ý nghĩa và một vài ví dụ ngắn gọn. Nhiều người làm như thế cho một vùng càng tốt; nếu họ ghi hơi khác nhau cũng không hề gì. Ghi xong chỉ cần giữ trong nhà. Rồi đây, thiếu gì kẻ ước ao thu thập các dữ kiện nầy để soạn một cuốn ngữ vựng thổ từ, gồm mọi vùng trong ba miền Bắc Trung Nam . Trong tương lai cuốn ấy sẽ giúp nhiều cho việc soạn một bổ từ điển hoàn bị, gồm tất cả mọi từ có trong tiếng Việt .