Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Mở đầu
Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, chứng tỏ những đóng góp của bà đối với thơ Nôm dân tộc chiếm một trí không nhỏ. Trong “gia tài” thơ Nôm của mình, Hồ Xuân Hương đặc biệt thành công với mảng thơ trào phúng, đả kích. Hồ Xuân Hương đã góp phần đưa nghệ thuật trào phúng thơ Nôm lên đến đỉnh cao.
Nội dung
1.1 Hồ Xuân Hương – cuộc đời và giai thoại
1.2 Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương – thành công xuất sắc
2. Nét đặc sắc nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
2.1 Đề tài phong phú, đa dạng
2.1.1 Niềm đồng cảm với phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ chịu sự áp bức về mặt giai cấp cũng làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo cũng trăm nghìn thứ trà đạp mà còn chịu áp bức về mặt giới tính, tinh thần mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt, đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất. Họ giống như những “tội nhân chung thân” suốt đời gánh trên vai bao nhiêu ràng buộc của luật “tam tòng”, bởi những hủ tục giết chết tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc. Đã có rất nhiều nhà văn nhân đạo thể hiện niềm cảm thông xót xa với thân phận người phụ nữ như người cung nữ (Cung oán ngâm khúc), người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc)… Đến Hồ Xuân Hương, người phụ nữ trong thơ bà không phải người phụ nữ lầu son, gác tía chinh phụ hay cung tần mà là những người phụ nữ hết sức bình thường, những người phụ nữ lao động chịu nhiều bất hạnh trong đời sống.
Trong thơ mình Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của người phụ nữ, bà dường như hướng đến nỗi khổ có tính chất giới tính của mình. Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch khong kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo.
Xuân Hương nêu lên một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến đó là “Cảnh chồng chung”. Nhà thơ vạch ra cảnh làm lẽ chẳng qua chỉ như một thứ làm mướn, thậm chí là làm mướn không công. Người đàn ông có quyền có năm thê bảy thiếp nhưng người phụ nữ chính chuyên một chồng. Người phụ nữ chịu cảnh làm lẽ ngoài thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ còn trở thành thứ nhân công mà không mất tiền thuê. Những câu thơ của bà cất lên đầy niềm đồng cảm xót thương:
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công!
Thân này ví biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tội tày đình. Họ coi người phụ nữ mà đã thông gian thì đã mất hết cả liêm sỉ nên khi hành hình thì bắt cới áo cánh, để cho mặc váy gia hình còn những tội khác khi phạt cũng được mặc áo. Với Hồ Xuân Hương, bà quan niệm đó không phải là tội lỗi mà đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với người tình, bởi vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy “Cả nể cho nên hóa dở dang”. Phụ nữ luôn giàu đức hi sinh, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng vậy, dám sẵn sàng chấp nhận, đương đầu với tất cả “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng lời lẽ hùng hồn đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà, có mới ngoan
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti
Nín đi kẻo thẹn với non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em bé!...
Không có, nhưng mà có, mới ngoan
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếc cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bông đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
(Thiếu nữ)
Thông qua những hình ảnh chiếc bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó xù sì”... nữ sĩ đã chú trọng phát hiện và khẳng định vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ. Dù hình thù xấu xí, dù bị “rắn nát” bởi “tay kẻ nặn” nhưng bản chất tốt đẹp, thánh thiện của người phụ nữ không bao giờ bị mất đi “mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
2.1.2 Phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
Giai cấp phong kiến, mà đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Đó là những “quân tử”, những người mang trong mình bao nhiêu tốt đẹp, trong sạch, thanh cao. Nhưng Hồ Xuân Hương đã vạch trần bộ mặt thật, lột chiếc áo đạo đức giả thùng thình, phơi bày cái xác thân phàm tục của họ. Với vũ khí tiếng cười, bà đã đánh rất trúng rất đau từ ông vua ngất ngưởng trên ngai vàng đến anh thư sinh nghiên bút đến cửa Khổng sân Trình để học đạo thánh hiền. Có thể thấy, đối tượng đả kích trong thơ bà rất rộng. Với vua chúa, bà chỉ mắng nhè nhẹ mà đau vô kể, và chỉ có thế cũng đủ làm cho vua chúa tối mặt, bà hạ bệ vua chúa ngang hàng với những kẻ vẫn bị người “quân tử” cho là “phàm phu tục tử”:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Nếu đối với vua chúa, nữ sĩ châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bạn quan thị, nữ sĩ giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng:
Đố ai biết đó vông hay chóc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở ở không xong
Nhắc đến cửa chùa, Hồ Xuân Hương cũng vạch trần những hành vi dâm đãng diễn ra ngay trước cửa đền chùa:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
2.1.3 Bộc lộ tiếng lòng của chính mình
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào chế độ và lễ giáo phong kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là sự thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng. Hồ Xuân Hương có ba bài thơ trữ tình bộc lộ về mình của tác giả. Đó là những bài thơ viết về duyên phận chìm nổi, lênh đênh của nhà thơ. Lê Trí Viễn đã viết: “Đau đớn ê chề là như vậy, nhưng Xuân Hương vẫn trở về với bản ngã yêu đời. Lời thơ vẫn trào lộng, hóm hỉnh. Cái luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước mắt.”
Qua chùm ba bài thơ Tự tình I, Tự tình II, Tự tình III đã thể hiện trong sâu thẳm tâm hồn Hồ Xuân Hương những bi kịch của cuộc đời mà thường ngày cái bản lĩnh cứng cỏi làm lu mờ. Bà là một người phụ nữ tài hoa nhưng lại vấp phải cuộc đời nhân duyên dở dang, số phận long đong. Trong đêm khuay khi đối diện với chính mình thì nỗi đau ùa về. Dường như Xuân Hương đã “ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Nhưng những vần thơ của bà không phải vì thế mà trở nên mềm yếu, trong cái mềm yếu ấy vẫn chứa đựng một bản lĩnh thách thức, hóm hỉnh :
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!
(Tự tình III)
2.1.4 Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, điều này không ai có thể phủ nhận nhưng yếu tố trào phúng và trữ tình không hề đối lập nhau mà trái lại thống nhất chặt chẽ với nhau. Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào phúng thêm thâm thúy, chua xót. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương góp phần không nhỏ vào việc thể hiện nghệ thuật của mình. Đó là những cảnh thiên nhiên hết sức quen thuộc: chùa Hương, Đèo Ngang, hang Thánh Hóa... thậm chí hướng đến những không gian nhỏ bé, bình dị ở nơi thôn quê: cái giếng, ngôi chùa, đám hội xuân, ... những cảnh đẹp hết sức êm đềm.
Thiên nhiên cũng làm nền tạo nên những liên tưởng bất ngờ và thú vị:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông,
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
(Giếng thơi)
Chính vì thể hiện khát khao muốn khẳng định nên thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ yên ắng mà nó luôn cựa quậy hết sức sinh động.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Trai đu gối hạc khom lưng cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
(Đánh đu)
2.2 Ngôn ngữ và giọng điệu thơ
2.2.1 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương – phong phú về mặt từ vựng
Trong kho tàng thơ Nôm trào phúng của Hồ Xuân Hương chúng ta thấy từ vựng trong sáng tác của bà như những bông hoa muôn sắc màu, màu hoa nào cũng đầy sức sống. Nó như một cơ thể sống luôn luôn vận động. Đầu tiên là phải kể đến hệ thống những động tự mạnh thể hiện sức sống mãnh liệt không gì có thể ngăn cản được:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn
Những động từ này góp phần vạch mặt, chửi thẳng vào bọn sư mô đạo đức giả, bọn học trò dốt nát với những động từ như “đấm, khua, móc” hay “châm húc” (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa / Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa).
Bên cạnh động từ, hệ thống từ vựng tính từ cũng chiếm vị trí không nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương và tạo được những rung cảm thẩm mĩ hết sức hiệu quả. Thế giới của Hồ Xuân Hương không bao giờ chịu an phận tĩnh lặng mà luôn luôn phải bứt phá, sinh động. Những tính từ đã diễn tả màu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó là những màu sắc thường đậm và nóng. Đỏ thì “đỏ loét”, đỏ “lòm lom”, đỏ “như son”, xanh thì “xanh rì”, trắng thì “trắng phau”, trong thì phải “trong leo lẻo”, tối thì “tối om om”, sáng thì “sáng banh”, trưa là “trưa trật”. Xuân Hương không chỉ nhìn “những màu sắc thường “những màu sắc đó phải kêu lên, phải xé ra, phải cao độ” mà cái nhìn của bà còn như nhát dao, nhát đục, đẽo gọt sự vật, tạo nên những hình khối, những đường nét sắc nhọn như đập vào mắt người xem:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hõm hòm hom
(Hang Cắc Cớ)
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
(Quán Khánh)
Bên cạnh đó còn ngôn ngữ phong phua của kho tàng dân gian cũng được Hồ Xuân Hương vận dụng rất thành công.
2.2.2 Giọng điệu châm biếm đả kích
Giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác trào phúng thơ Nôm của Hồ Xuân Hương thể hiện rất rõ ở giọng điệu châm biếm đả kích. Với giọng điệu này, nữ sĩ hướng tới mọi đối tượng, không bỏ một ai, từ bọn vua chúa, quan lại đến những kẻ “hiền nhân quân tử”, bọn sư mô núp bóng cửa chùa làm việc xấu. Đó là những lời đả phá, chế giễu một cách gay gắt. Thông qua giọng điệu đó bà đã không ngần ngại vạch trần những thói hư tật xấu, những bộ mặt giả nhân giả nghĩa, “ngụy quân tử”. Với mỗi đối tượng, giọng điệu ấy lại biến hóa linh hoạt.
Chẳng hạn như với bọn sư mô, nhà thơ chỉ phác họa vài nét nhưng người đọc vẫn nhận được giọng điệu châm biếm thâm thúy, sâu cay của Hồ Xuân Hương về những cảnh “chướng tai gai mắt” ở nơi thâm nghiêm: sư cụ đang mãi “đáo nơi neo”, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả “chày kinh”. Giọng thơ châm biếm khá chua cay:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vẻ gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trái gió nên cho phải lộn lèo
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy cho làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa
Giọng điệu châm biếm ấy lại trở nên chua xót khi bà thể hiện hoàn cảnh của những người đàn bà không chồng mà chửa. Hay khi nghĩ về chính hoàn cảnh bất hạnh của mình thì giọng điệu ấy lại trở nên mỉa mai gay gắt:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
2.2.3 Kế thừa và sáng tạo lối thơ Nôm thuần túy
Tiếp xúc với thơ Hồ Xuân Hương người đọc được tiếp xúc với tiếng nói thuần túy của dân tộc, không điển tích cao xa, không chữ sách thông thái. Thơ bà gần với ngôn ngữ bình dân. Câu thơ thường chỉ như một lời nói cửa miệng:
- Mười bảy hay là mười tám đây?
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ!
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.
Tuy nhiên không phải vì những lời nói dân giã mà mất đi giá trị thơ của Hồ Xuân Hương, bà vẫn tạo được những thành công đặc sắc dựng nên những bức tranh lạ thường và tràn đầy sức sống:
Bốn cọc khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng…
Quán Sư sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đao nơi neo
(Chùa Quán Sứ)
Đầu sư há phải gì... bà cốt
Bé ngọ con ong bé cái nhầm
(Sư bị ong châm)
Bên cạnh việc vận dụng ngôn ngữ dân gian, lối thơ Nôm thuần túy mà Hồ Xuân Hương còn tạo cho mình một phong cách riêng thể hiện một bản lĩnh sáng tạo. Bà có ý thức nâng những ngôn ngữ đời thường lên những tầm biểu hiện cao. Chẳng hạn việc Hồ Xuân Hương dùng hai chữ “xọc”và “dòm” trong bài “Động Hương Tích” ( so sánh với “bước” và “nhìn”: gợi cảnh đông đúc, gợi liên tưởng đến hoạt động tính giao.). Những con chữ trong thơ bà như nhảy múa rất tài tình. Bà dùng trong một bài thơ 27 chữ mà có đến 5 chữ chỉ những con vật cùng loài cóc: (chẫu) chàng, (nhái) bén, nòng nọc,
(chẫu) chuộc, đây là một sự cố ý nghệ thuật để chế giễu cái chết của Tổng Cóc...
Chính việc vận dụng ngôn ngữ dân gian và nâng lên một tầm cao, Hồ Xuân Hương đã khẳng định được tài năng vượt trội của mình vừa thể hiện thành công ngòi bút trào phúng vừa thể hiện bản lĩnh thơ của mình. Xuân Diệu mệnh danh Hồ Xuân Hương là “bà chúa thơ Nôm” quả là đúng đăn!
KẾT LUẬN
:26::26::26::26:.Hãy để tâm hồn cuốn theo gió....