MỞ BÀI
Môlie là nhà hài kịch vĩ đại của nước Pháp và của nhân loại. Sáng tác của ông đa dạng, đầy sức sống, đầy màu sắc, là bức tranh rộng lớn của nước Pháp thế kỷ XVIII và mang tính nhân loại sâu sắc, với những biến động dữ dội, đầy sức trẻ, đầy chất thơ.
Hài kịch Môlie thấm thía một chủ nghĩa nhân văn tươi sáng yêu đời, nó thức tỉnh con người, nó khuấy đảo những ai thờ ơ với cuộc sống, con người và cái đẹp. Môlie là một tài năng sáng tạo phi thường. Ông sáng tạo một cái cười mới, một cái hài kịch mới. Môlie đem đến cho văn đàn Pháp những cống hiến rất lớn với tư cách là người sáng lập ra hài kịch cổ điển và đưa nó đến đỉnh cao sán lạn, với tư cách là nhà văn – chiến sĩ đã đấu tranh đến cùng cho những lý tưởng xã hội tiến bộ, với tư cách là người nghệ sĩ ưu tú đã kết tinh được những truyền thống tốt đẹp của nhân dân, dân tộc Pháp.
Các sáng tác của ông để lại đều hàm chứa trong nó những tiếng cười nhiều cung bậc, tiếng cười có giá trị, phê phán tố cáo xã hội lớn lao, có giá trị giáo dục thẩm mỹ sâu sắc. Các sáng tác của ông là phòng tranh giàu tính hiện thực và nhân đạo triển lãm xã hội Pháp thế kỷ XVIII. Đặc biệt là với vở kịch “Lão hà tiện” Môlie đã dẫn người đọc đến một tiếng cười nhiều cung bậc, từ cái cười vui, nhẹ nhàng, dí dỏm, vô thưởng vô phạt, đến cái cười mỉa mai, chua chát, dẫn đến cái cười thâm trầm, sâu sắc nặng tính chất châm biếm, đến cái cười đau đớn xót xa cười nước mắt. tiếng cười bao hàm một tư tưởng sâu sắc, một sự tìm tòi xem xét nghiêm túc, một thái độ biểu hiện tích cực và có giá trị chiến đấu cao. Với tiếng cười nhiều cung bậc Môlie đã đưa vở kịch “Lão hà tiện” đến đỉnh cao của sự thành công.
Để đạt được điều đó ông đã sử dụng và phối hợp tài tình nhiều nghệ thuật gây cười khác nhau. Biết vận dụng và kết hợp tài tình các kinh nghiệm gây cười của nghệ thuật hài kịch truyền thống. Môlie đã sáng tạo nên thủ pháp gây cười độc đáo.
Việc đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie” giúp chúng ta thấy được tài năng hài kịch đặc biệt, một “người hề vĩ đại” Môlie, và một xã hội Pháp thế kỷ XVIII đầp bi kịch, hiểu sâu hơn về thời đại lịch sử mà ông sống, hiểu đúng bản chất tiếng cười trong vỡ hài kịch “Lão hà tiện”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Môlie được đánh giá là “người hề vĩ đại” trong nền văn học Pháp. Ông là niềm tự hào không chỉ của nhân dân Pháp mà còn là niềm kiêu hãnh của cả lịch sử sân khấu thế giới. Nhà thiên tài hài kịch ấy xuất hiện đã đưa hài kịch lên chỗ đứng cao hơn và khẳng định vị thế của nó đối với bi kịch thời bấy giờ. Những kiệt tác nghệ thuật Môlie để lại là những gì còn lại của một nền nghệ thuật chân chính của một người lao động nghệ thuật chân chính.
Ba trăm năm đã qua nhưng tiếng cười của Môlie không lúc nào vắng trên sân khấu tiến bộ Pháp và thế giới. Môlie đã đi vào Việt Nam từ những năm hai mươi của thế kỷ này và cho đến nay ngày càng thu hút lôi cuốn được sự say mê của độc giả và khán giả Việt Nam với những sáng tác hài kịch của mình.
Những sáng tạo nghệ thuật Môlie để lại cho đời từ lâu đã trở thành đối tượng quan tâm của giới phê bình nghiên cứu. Đã có biết bao công trình, chuyên luận, bài viết nghiên cứu về Môlie ở khắp mọi nơi.
Môrixơ Đônay trong cuốn Môlie (1911) viết: “Tất cả những gì liên quan đến tính hà tiện trong vở “Lão hà tiện” đều nằm gọn trọng ba hồi, để lấp đầy năm hồi của vở hài kịch này, cần phải có một câu chuyện yêu đương mà nó không giúp đỡ gì hơn cho tính cách của Acpagông, mà nó dẫn đến những cái trái ngược và lạc điệu… Tình yêu của một lão già sảy ra trong một số lớp kịch tự nó đã làm cho lão ta không còn hà tiện nữa”.
Êmin Phaghê trong cuốn En líant Môlie đã viết: “Môlie đã thể hiện một phong cách riêng ở chỗ xung quanh nhân vật chính là toàn bộ gia đình và chỉ ra rằng cái gia đình vô tổ chức ấy có nguyên nhân từ tội lỗi của nhân vật chính. Loại thể hài kịch này đồng thời vừa là hài kịch tính cách và vừa là hài kịch xã hội. Đối với nhân vật chính ông khắc hoạ bằng phương pháp tăng tiến, nói cách khác theo nguyên tắc phát triển Môlie, vừa là khả ố vừa là lố bịch không ngừng phát triển”.
Pie Clarac trong cuốn L Age Classique viết: “Tất cả mọi hiệu quả gây cười xảy ra xung quanh các tình tiết thường được khai thác đúng lúc và đặt đúng chỗ, trên sân khấu, trước mắt mọi người gắn liền với số phận các nhân vật và làm vui cho tất cả, đó là nhờ nhịp điệu thúc bách được bắt nguồn từ tính cách của Acpagông. Có thể cái điều bí ẩn của hình ảnh này nằm trong sự mâu thuẫn của chính nó. Cái hà tiện tự nó không thể đưa đến cho Môlie một đề tài hài kịch. Nó là một khát vọng trần thế do đó sân khấu trở nên sinh động bởi các xung đột”.
Là một tác gia cổ điển xuất sắc Môlie không những là một nguồn đề tài được giới nghiên cứu nước ngoài nghiên cứu đến mà đây còn là niềm đam mê, hứng thú của các nhà nghiên cứu phê bình ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Chính trong Văn học phương Tây, đã dành khá nhiều trang viết để giới thiệu về Môlie, và ông đã nhấn mạnh đến vai trò của Môlie trong lịch sử phát triển của hài kịch và đã đề cập ít nhiều đến vấn đề tiếng cười trong hài kịch Môlie. Điều này được thể hiện qua bài viết “Môlie. Một tài năng nảy sinh trong rèn luyện và đấu tranh gian khổ”.
Đỗ Đức Hiểu trong lời giới thiệu tác phẩm “Lão hà tiện” tác giả đã phân tích và làm rõ nội dung và ý nghĩa xã hội của vở kịch này. Đặc biệt tác giả có nhấn mạnh đến “nghệ thuật xây dựng vở “Lão hà tiện”. Ông nhấn mạnh vở “Lão hà tiện” thể hiện khá đầy đủ nghệ thuật hài kịch của Môlie. Ở đây có đủ cung bậc của những tiếng cười. Môlie sử dụng nhiều phương pháp nghệ thuật khác nhau để gây những tiếng cười hồn nhiên, khi thẳng thắn, khi thâm thuý”.
Vũ Tiến Quỳnh trong cuốn phê bình – bình luận văn học, Lafontaine, A.Dandet, G.Maupassant, Môlie “bên việc tái hiện lại gương mặt Môlie và những đóng góp của ông cho hài kịch dân tộc Pháp, ông còn chỉ ra những sáng tạo nghệ thuật trong hài kịch Môlie: nghệ thuật xây dựng tính cách, nghệ thuật gây cười, nghệ thuật kịch”. Ông rất đề cao tài năng Môlie và coi “đó là một tấm gương sáng của một nhà văn thiết tha và tận tuỵ với nghề, trước sau cho đến lúc chết không xa rời cái lí tưởng cười cợt để sửa chữa phong tục, cải tạo xã hội”.
Trong lịch sử sân khấu thế giới, NXB Văn hoá Hà Nội, các tác giả cũng đã trình bày khá đầy đủ về tình hình phát triển chung của sân khấu Pháp trong thế kỷ XVIII và cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Môlie.
Đặc biệt tiêu biểu là công trình của Lê Nguyên Cẩn. Ông đã nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Môlie. Theo tác giả, cuộc đời của nhà hài kịch này gắn liền giữa vinh quang và sóng gió, ông đã đi sâu phân tích những giá trị nội dung và nghệ thuật của vở hài kịch “Lão hà tiện”. Ông đặc biệt chú ý đến nghệ thuật gây cười trong hài kịch Môlie.
Như vậy việc nghiên cứu Môlie và nghệ thuật gây cười được tiến hành dười nhiều dạng tổng quát chung, các nhận xét đánh giá về “Lão hà tiện” và “nghệ thuật gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie” đều rút ra từ các mặt khác nhau. Các tác giả trên đây đều chưa đi sâu vào khảo sát và phân tích các nghệ thuật gây cười một cách cụ thể.
Việc nghiên cứu đề tài “nghệ thuật gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie” là một vấn đề mới mẻ lí thú và hấp dẫn. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ở đề tài này chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu nghệ thuật gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là nghệ thuật gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie. Nằm trong cuốn Lão hà tiện, tác giả Đỗ Đức Hiểu (dịch) (1978), NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Giới thuyết thuật ngữ
Khái niệm kịch: Kịch tức là những trò diễn trên sân khấu mang tính chất dữ dội, nghiêm trọng.
Khái niệm hài kịch: hài kịch là hình thức gây cười để chế giễu hoặc đã kích những thói xấu, những biểu hiện tiêu cực trong xã hội.
Hài kịch là thể loại kịch, trong đó tích cách, tình huống và hành động được thể hiện dưới dạng buồn cười hoặc ẩn chứa cái hài, nhằm giễu cợt, phê phán cái xấu, cái lố bịch, cái lỗi thời để tống tiển nó một cách vui vẻ ra khỏi đời sống xã hội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này để làm rõ vấn đề chúng tôi đã dùng một số phương pháp nghiên cứu sau: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở bài, kết luận, tài liệu tham khảo. trong phần nội dung còn có hai chương.
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Nghệ thuật gây cười trong vở kịch Lão hà tiện của Môlie.
NỘI DUNG
1.1.[FONT="] [/FONT]Môlie người hề vĩ đại trên sân khấu hài kịch
1.1.1.[FONT="] [/FONT]Số phận vinh quang và cay đắng – Môlie
Môlie là một nhà hài kịch vĩ đại, người đã có những đóng góp vô giá trong lĩnh vực xây dựng nghệ thuật hài kịch Pháp. Ông là người thừa kế truyền thống kịch hề dân gian Pháp và có công sáng lập ra hài kịch cổ điển Pháp.
Môlie tên thật là Giăng Bap-ti-xơ đơ Pô-cơ-lanh, sinh ra tại Pari, trong một gia đình tư sản hầu cận nhà vua. Ông nội Môlie vừa làm thảm vừa buôn bán, cha ông cũng làm nghề đó và nhanh chóng trở thành một người thợ bậc thầy sau đó trở thành hậu cận nhà vua vào năm 1631. Mẹ Môlie và gần gũi với ông ngoại. Một người rất yêu thích nghệ thuật sân khấu. Ngay từ nhỏ Môlie đã được ông dẫn đi xem rất nhiều buổi biểu diễn kịch của các nghệ nhân nổi tiếng thời bấy giờ. Niềm đam mê sân khấu đã thấm sâu vào con người tài năng ấy từ khi nào không hay biết. Môlie đã tiếp thu và ảnh hưởng rất nhiều từ những buổi đi xem biểu diển đó. Những kỉ niệm của tuổi thơ Môlie chính là những nền móng ban đầu cho sự nảy nở một nhân tài của sân khấu kịch sau này. Khoãng 1636 – 1639, ông được dạy dỗ chu đáo ở trường trung học nổi tiếng Clecmông. Trong thời gian này, ông tỏ ra đặc biệt yêu thích văn chương, nhiệt tình với triết học và chịu ảnh hưởng của Gaxăngđi. Năm 1643, ông làm quen với nữ diễn viên Mađơlen Bêja, và cùng với anh em nhà Bêja xây dựng nên “Đoàn kịch Trứ danh”. Đoàn kịch diễn nhiều buổi nhưng thất bại và tồn tại trong khoãng hai mươi năm thì tan vỡ. Do mắc nhiều món nợ không trả được và người chủ trì là Môlie đã bị tống giam ít ngày. Đó chính là những biến cố trong cuộc đời Môlie.
Đầu năm 1646, Môlie và những người bạn của mình đã lên đường đi về các tỉnh lẽ biểu diễn. Trãi qua mười ba năm đi lưu lạc (1645 – 1658) phải tự kiếm sống và nếm trải đủ mọi gian khổ của cuộc đời người diễn viên, Môlie đã rút ra cho mình được biết bao kinh nghiệm sống. Khó khăn chồng chất khó khăn, Môlie phải cùng với mọi người chống lại những hậu quả nặng nề của cuộc nội chiến, sự cạnh tranh của các đoàn kịch khác và cả sự thù địch của chính quyền đại phương với nghệ thuật sân khấu. Con đường đến vinh quang của ông diễn ra với biết bao sóng gió, thăng trầm. Nhưng cũng chính trong hoàn cảnh khó khăn, vất vả ấy tài năng Môlie đã được tôi luyện và ngày càng nảy nở.
Cuộc sống lưu vong với biết bao mùi vị đã giúp Môlie nhìn rõ hơn về thực tế nước Pháp và nỗi thống khổ của nhân dân Pháp. Chặng thời gian này cũng là dịp ông có thêm hiểu biết về phong tục, tập quán của nhiều vùng quê, tiếp xúc với nhiều người thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đó cũng là thời gian Môlie được học hỏi và tích luỹ thêm kiến thức về kịch hề dân gian mà sau này ông đã nâng nó lên một tầm cao mới. Đây chính là thời kì ủ mầm cho tài năng hài kịch Môlie nảy nở. Những kinh nghiệm sống đã thu lượm được đó chính là nguồn tư liệu quý, là nguồn khơi gợi cảm hứng cho những sáng tác bất hủ của ông sau này.
1.1.2.[FONT="] [/FONT]Sự nghiệp sáng tác
Đời hoạt động nghệ thuật của Môlie là cuộc đời, một mặt thì kiên trì rèn luyện trong thực tế vĩ đại của nhân dân, một mặt thì đấu tranh không khoan nhượng với những lực lượng xã hội đen tối, cống hiến trọn vẹn cho nghệ thuật chân chính. Chỉ riêng cuộc đời ấy cũng khiến Môlie trở nên bất hũ.
Trong 30 năm hoạt động sân khấu, quá trình sáng tác của Môlie đã hình thành qua bốn giai đoạn chính.
Từ năm (1645 – 1658) giai đoạn lang thang, phiêu bạt. sáng tác chủ yếu là kịch hề. Phần lớn kịch bản đã thất lạc. Một vở còn giữ lại được: Thằng ngốc (1655). Đây là vở kịch năm màn, sáng tác theo nguyên tắc kịch hề, cốt truyện mượn của văn học Italia. Kịch đã chắp vá vụn vặt các sự kiện. Tính cách nhân vật chưa hình thành rõ. Nhiều trò hề được đưa lên sân khấu.
Năm (1659 – 1663) giai đoạn trưởng thành. Đáng để ý là vỡ Những ả kiểu cách rởm (1659). Đến vỡ này, tính cách hề vẫn còn nhiều, nhưng ý nghĩa xã hội đã sâu sắc, đã kích bọn quý tộc ăn bám, nghèo nàn về đạo đức và tâm hồn. Những vở Trường học làm chồng (1661), Trường học làm vợ (1662) có cùng một đề tài, nhưng vỡ trên sơ lược, ý nghĩa xã hội hẹp. Nó có màu sắc rõ rệt qua sự vạch trần nguyên nhân xã hội của chủ nghĩa ngu dân, thói chuyên quyền, độc đoán qua sự lên án suốt lượt, từ nhà thờ đến chế độ chuyên chế, đến bọn tư sản nhiễm thói gia trưởng phong kiến . Môlie viết hai vở bút chiến: Phê bình trường học làm vợ và kịch ứng tác ở Vecxay (1663).
Giai đoạn (1664 – 1666) đánh dấu đỉnh cao phát triển của hài kịch Môlie với những kiệt tác: TacTuyp (1664), ĐôngJuăng (1665), Anh ghét đời (1666)… Những tác phẩm này là những đòn tấn công liên tiếp, dữ dội vào hiện thực đen tối của thời đại. Với tiếng cười nhạo báng sâu cay, TacTuyp là lời tuyên chiến công khai với toàn bộ tôn giáo, từ thầy tu đến nhà thờ, đến giáo lí. ĐôngJuăng là lời kết án đanh thép đối với bọn quý tộc phóng đãng, sa đoạ, hư vô chủ nghĩa. Anh ghét đời là sự phủ nhận quyết liệt đối với hết thảy xã hội đạo đức giả cuối thế kỷ XVII. Thái độ phê phán gay gắt của Môlie khiến hài kịch của ông giai đoạn này mang một số yếu tố không Phù hợp với những quy tắc quen thuộc của sân khấu chủ nghĩa cổ điển nhưng lại có sức biểu hiện lớn.
Giai đoạn (1667 – 1673) chuyển hướng chĩa mũi nhọn vào giai cấp tư sản và những quan hệ xã hội của giai cấp này. Môlie phát hiện sự ra đời của bọn tư sản mới làm giàu bằng con đường cho vay nặng lãi ở Pháp qua vỡ Lão hà tiện (1668). Ông giễu cợt xu hướng ngoi lên quý tộc của những kẻ lắm tiền ở Trường giả học làm sang (1670) và Người bệnh tưởng (1673).
1.2.[FONT="] [/FONT]Đề tài hà tiện
1.2.1.[FONT="] [/FONT]Đề tài hà tiện – một đề tài mang tính chất hài kịch
Một đề tài có thể trở thành đề tài hài kịch thì bản thân nó phải mang tính chất đáng cười, nghĩa là bản thân đề tài ấy phải mang được, phải có sự mâu thuẫn giữa nội dung phản ánh và hình thức phản ánh. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn trái với tự nhiên, mâu thuẫn giữa cái giả và cái thật, giữa bản chất và hiện tượng. Mặt khác, bản thân cái mâu thuẫn ấy phải có ý nghĩa sâu sa: “Cái đáng cười là cái xấu”. Hà tiện mang trong nó tính chất mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức. Hà tiện phải đi đôi và gắn bó với sự giàu có, với của cải, tức là nguyên nhân để gây ra kết quả trên. Bản thân nó là một thói hư tật xấu, nó gắn liền với cái sai trái và tự thân cái xấu là nguồn gốc của cái hài. Đặc biệt là khi xấu mà không biết mình xấu, lại muốn tô vẽ thành đẹp, muốn khoác vào mình một bộ áo thật sang thì cái xấu càng trở nên lố bịch, càng trở thành đối tượng của cái cười. Thói hà tiện gắn chặt với bản chất của giai cấp bốc lột. Và khi dùng tiếng cuời để chế giễu châm biếm thói xấu đó, cũng chính là bốc trần bộ mặt thật của giai cấp thống trị.
Như vậy, hà tiện phải là đề tài của hài kịch và là đối tượng của tiếng cười. Nói đến hà tiện, tất phải nói đến sự đối lập giữa cái giàu có và cái căn cơ, bủn xỉn, sự đối lập giữa sự thừa thải về của cải vật chất và sự chặt chẽ chi li trong cách thức sử dụng của cải vật chất ấy.
Khác với các đề tài văn học khác và các hình tượng văn học khác, đề tài hà tiện và hình tượng con người hà tiện đều đi vào con đường văn học bằng tiếng cười.
Tóm lại, đề tài hà tiện là một đề tài khai thác từ lâu trong các nền văn học và là một đề tài mang tính chất hài kịch. Nói cách khác, hà tiện là đề tài muôn thủa của cái cười. Đề tài hà tiện đi vào nghệ thuật hài kịch không phải là ngẫu nhiên , không phải là do tình cờ mà là tất yếu. Do bản thân nó chứa yếu tố hài hước, chứa đựng tính chất đáng cười. Nó đi liền với tiếng cười. Tiếng cười là người đỡ đầu cho nó đi vào văn học và tồn tại trong văn học. Thậm chí khi đề tài này xuất hiện trong các thể loại khác nhau của văn học như: ngụ ngôn, trào phúng hay cả trong tiểu thuyết thì nó vẫn là đối tượng của tiếng cười, bản thân nó vẫn mang tính hài kịch, vẫn chứa đựng yếu tố hài hước. Hà tiện trở thành đề tài không thể thiếu được của nghệ thuật sử dụng tiếng cười và con người hà tiện tất yếu là nhân vật chính của nghệ thuật hài kịch.
1.2.2.[FONT="] [/FONT] Môlie và đề tài hà tiện
Đánh dấu sự thành công của Môlie là khi đến với tác phẩm Lão hà tiện, đặc biệt là trong xây dựng tính cách hài kịch. Môlie từ chỗ là một người đi vay mượn, đi bắt chước đề tài, ông đã góp phần sáng tạo ra một tính cách hà tiện bất hủ, để lại cho nhân loại một chuỗi cười vô giá qua đề tài này. Và Lão hà tiện đã trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học thế giới luôn luôn được chiêm ngưỡng và hâm mộ.
Môlie thực hiện sự vay mượn đầu tiên của mình từ vở kịch Cái nồi của Plôtơ. Có thể nói rằng Môlie chịu ảnh hưởg rất sâu sắc của nhà viết kịch này. Vỡ kịch lão hà tiện có 5 hồi với 32 màn mà trong đó có 17 màn có sự vay mượn chi tiết, sự việc hoặc tình tiết kịch. Sự vay mượn này không làm giảm đi giá trị lớn lao của hình tượng Acpagông mà Môlie đã sáng tạo ra. “Ông thu nhặt của cải ở bất cứ nơi đâu ông tìm thấy. Ông mượn ở người này, người khác, các từ ngữ, các cảnh khác hoàn toàn mang bản sắc của ông, cấu trúc tác phẩm và ý nghĩa của tác phẩm thuộc về sự sáng tạo của riêng ông”.
Khi sử dụng đề tài hà tiện làm đối tượng phê phán của tiếng cười, Môlie đã có nhiều sáng tạo mới. Đề tài hà tiện được thể hiện trọn vẹn trong một tác phẩm dài 5 hồi và được tác giả tập trung xây dựng thành một tính cách điển hình, có sức khái quát cao. Đề tài hà tiện được Môlie tập trung xử lí qua tác phẩm Lão hà tiện là chủ yếu, còn trong tác phẩm Tư sản quý tộc và Người bệnh tưởng chỉ xuất hiện một vài nét của hà tiện như bóp hầu, bóp cổ con nợ và chi li trong ăn tiêu, trong tính toán. Các đề tài khác cũng có hiện tượng trên, chẳng hạn đề tài chống đạo đức giả được biểu hiện tập trung cao độ trong Táctuyphơ và ĐôngJuăng và biểu hiện ở mức độ khác thấp hơn trong Anh chàng ghét đời. Thông qua đề tài này, Môlie đã thực hiện các dự đồ chủ quan của mình: hướng mũi dùi phê phán chống lại giai cấp tư sản vốn là giai cấp xuất thân của mình.
Cống hiến lớn lao của Môlie là ông đã xây dựng một nhân vật hà tiện điển hình và sinh động, trước hết thể hiện ở cách lựa chọn nhân vật: Môlie đã chọn một nhân vật tư sản giàu có, goá vợ và đã ngoài 60 tuổi nhưng đang rắp tâm cưới một cô vợ trẻ ngang tuổi con cái lão. Tất cả các nét này sẽ phải đối mặt với bản chất hà tiện của lão ta. Môlie đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống thực sự hài kịch: bản thân lão muốn cưới một cô vợ trẻ, còn ép con gái mình lấy một ông già, hỏi một bà goá cho con trai. Đây là cái mới, cái sáng tạo của Môlie. Khi xây dựng nhân vật hà tiện Acpagông, Môlie không chỉ nhằm đưa lên sân khấu một cách hà tiện trừu tượng, chung chung. Tiếng cười mà Môlie sử dụng ở đây là một tiếng cười châm biếm mạnh mẽ, đã kích gay gắt, quyết liệt, phê phán kịch liệt cái bản chất tàn ác của giai cấp tư sản Pháp.
Nhờ tiếp thu được ánh sáng lương tri của thời đại, ông đã có một thế giới quan đúng đắn, tiến bộ và tiếp nhận được một nhân sinh quan lành mạnh, khoẻ khoắn của nhân dân lao động. Đối với các hiện tượng xấu của thời đại, ông đều có thái độ đúng đắn, rõ rằng và dứt khoắt. Ông vạch trần cái bản chất xấu sa của các hiện tượng đó cũng như chỉ ra bản chất thối nát, mục rỗng của giai cấp quý tộc và sự tàn nhẫn, độ đoán ích kỉ của giai cấp tư sản.
1.3.[FONT="] [/FONT]Tác phẩm Lão hà tiện
1.3.1.[FONT="] [/FONT]Tóm tắt tác phẩm
Môlie (1622-1673) là một trong những tên tuổi vinh quang nhất của chủ nghĩa cổ điển Pháp. Tên tuổi của ông gắn liền với các tác phẩm hài kịch đã trở thành kinh điển: Tactuyp, Dông Juan, Kẻ ghét đời…
Hài kịch của Môlie luôn là sự công kích kịch liệt những thế lực phong kiến bóp nghẹt đời sống con người và chế giễu bọn quý tộc dở hơi ăn bám cùng tất cả nền văn minh rởm đời giả tạo của chúng.
Lão hà tiện là một trong những vở kịch được công diễn nhiều nhất và được các nhà phê bình văn học trên toàn thế giới coi là một trong những tác phẩm lớn nhất của Môlie.
Nhân vật chính trong Lão hà tiện là Acpagông - một tay tư sản giàu sụ luôn tìm mọi phương kế để kiếm thật nhiều tiền. Và cho vay nợ lãi là một trong số phương thức mà lão đã dùng. Acpagông có 2 người con là Clêăng và Êlydơ. Cả hai đều có những mối tình thắm thiết. Clêăng yêu nàng Marian xinh đẹp, người mà cha chàng cũng đang ngấp nghé để cưới làm vợ. Chính điều này đã gây ra cuộc cãi vã gay gắt giữa hai người, làm sứt mẻ tình cha con bấy lâu. Êlydơ yêu Vale nhưng bố nàng lại buộc nàng phải kết hôn với Anxem - một người đã có tuổi nhưng giàu có và không đòi của hồi môn. Quyết định này cũng làm cho mối quan hệ giữa hai cha con ngày càng trở nên căng thẳng. Le-flet, gã đầy tớ của Clêăng trở thành vị cứu tinh kịp thời cho chủ khi đánh cắp tráp vàng của Acpagông. Acpagông bị rơi vào tình huống nan giải buộc phải lựa chọn hoặc là tráp vàng hoặc là để Clêan kết hôn cùng Marian.
Câu chuyện kết thúc khi Acpagông tìm lại được tráp vàng chôn trong vườn, lão vô cùng sung sướng, đã bằng lòng gả Êlidơ cho Vale, nhường Marian cho Clêăng khi Ăngxenmơ chịu mọi phí tổn cưới xin của Clêăng và không đòi của hồi môn của Êlidơ. Nghệ thuật gây cười của Môlie làm cho vở "Lão hà tiện" trở thành một tác phẩm lớn. Tác giả đặt ra nhiều tình huống gây cười xung quanh những vấn đề xã hội, xây dựng được một tính cách nổi bật: tính keo kiệt. Tất cả đều do tính keo kiệt mà ra, và mọi việc đều được giải quyết khi Acpagông tìm lại được tráp vàng và gả con gái không mất của hồi môn
1.3.2.[FONT="] [/FONT]Vài nét nghệ thuật trong tác phẩm Lão hà tiện.
Môlie đã phản ánh một cách sinh động vào trong hài kịch của mình bức tranh hiện thực xã hội Pháp thế kỷ XVII. Ông đã dùng mọi hình thức hài hước để gây cười mang tính xã hội và triết lý sâu sắc. Cái cười không tồn tại bên trong xã hội loài người. Bản thân của cái cười được sinh ra từ sự mâu thuẫn giữa nội dung được phản ánh và hình thức phản ánh, nảy sinh khi cái ti tiện tự làm ra vẻ vĩ đại, cái ngu ngốc tự làm ra vẻ thông thái, cái trì trệ ngưng động tự làm ra vẻ tràn đấy sức sống và phát triển. Cái cười đánh gục sự trống rỗng bên trong và sự hèn mạt của những kẻ nuôi ảo vọng có nội dung phong phú và có ý nghĩa hiện thực. Nói cách khác cái cười là phản ứng cảm xúc của con người trong ý thức thẩm mỹ của nó khi nhìn nhận thực tại mang các xung đột hài kịch. “Mội hiện tượng xã hội được coi là lỗi thời theo quan điểm triết học, là phản động theo quan điểm chính trị thì quan điểm mỹ học nó được coi là có tính hài”. Cái hài là giá trị khách quan là cái cười cao, cái cười có ý nghĩa giá trị xã hội . Phù hợp vớí những phẩm chất đa dạng của hiện thực là cái sắc thái khác nhau của tiếng cười.
Trong vở kịch Lão hà tiện Môlie đã dùng tiếng cười để làm một phương tiện nghệ thuật nhằm làm nỗi bậc lên những giá trị nhân văn và thẩm mỹ sâu sắc. Là một nghệ sĩ hài kịch vĩ đại, Môlie đã tạo ra tiếng cười có nhiều cung bậc mang đậm ý nghĩa xã hội. Tiếng cười toát lên từ các vở kịch của ông bao hàm một tư tưởng sâu sắc, một sự tìm tòi xem xét nghiêm túc, một thái độ biểu hiện tích cực của nghệ sĩ trước cuộc sống. Xuất phát từ quan điểm cho rằng “quy tắc cao nhất của mọi quy tắc là mua vui cho khán giả” và “dùng tiếng cười để sửa chữa phong hoá”, Môlie đã xây dựng tiếng cười bất hủ mang ý nghĩa giáo dục tích cực và có giá trị chiến đấu cao.
Tiếng cười nhiều cung bậc được Môlie xây dựng và thể hiện rất thành công. Tiếng cười đó là thái độ phản ứng của con người trước những hiện tượng chứa mâu thuẫn, khôi hài, đáng cười. Môlie đã phát hiện ra những khía cạnh bi đát của cuộc sống rồi thể hiện nó dưới hình thức hài kịch rất đặc sắc. Đó là những tiếng cười mang âm hưởng xót xa thể hiện ý nghĩa xã hội. Nó là lời tố cáo gay gắt con người trước sự tha hoá của đồng tiền.
Trước tiên phải nói đến là tiếng cười “phácxơ”, tiếng cười này thường đem lại cho khán giả một cái cười ồn ào, náo nhiệt, nó mang tính chất giải trí, mua vui, làm giảm trạng thái thần kinh căng thẳng qua những điệu bộ đơn giản, máy móc, dễ bắt chước. Tuy nhiên nó không chỉ đem lại cho người xem những tiếng cười thoải mái mà đằng sao tiếng cười tưởng như thô thiển ấy có khi có những vấn đề có ý nghĩa xã hội và giá trị thẩm mỹ sâu sắc, tiếng cười này chiếm một vị trí quan trọng trong vở Lão hà tiện, Môlie đã dùng nó để khắc hoạ thành công tính cách của nhân vật Acpagông. Tiếp đến là tiếng cười khôi hài, bản thân cái cười khôi hài mang tính cách nhân đạo sâu sắc, nó đặt cơ sở vào niềm tin ở bản chất con người, hướng con người đến cái tốt đẹp. Ông đặt tiếng cười này vào trong các trường hợp ghen tuông do hiểu làm nhau trong quan hệ tình cảm yêu đương. Cái cười khôi hài bật ra trong cảnh than thở giữa Valer và Elidơ, bật ra từ những lời bộc bạch tình cảm, chân thật vụng về của Clêăng khi nói với với em gái Elidơ về cô gái Marian mà anh ta yêu dấu. Tiếng cười khôi hài xuất hiện trong vở “Lão hà tiện” không nằm trên bình diện hiểu lầm này. Ở đây các cặp tình nhân vẫn yêu nhau, chung thuỷ, thề nguyền với nhau nhưng các mối tình ấy đang bị một thế lực hắc ám đe doạ, đó là tính keo kiệt của ab. Tiếng cười khôi hài lại mang một ý nghĩa rất sâu sắc. Sau đó là tiếng cười mỉa mai, Môlie đã nắm bắt được cung bậc mỉa mai của cái cười và sử dụng nó đan xen với những cung bậc khác tạo nên âm thanh của tiếng cười mang đậm ý nghĩa xã hội. Tiếng cười nhiều cung bậc còn là tiếng cười châm biếm, cười ra nước mắt, tiếng cười nhiều cung bậc trong độc thoại của Acpagông.
Một bộ phận quan trọng trong gia tài hài kịch Môlie là những hài kịch tính cách. Những hài kịch này phản ánh xu hướng đi vào lòng người, mô tả tâm lý, nghiên cứu tự nhiên của chủ nghĩa cổ điển nói chung. Xây dựng Acpagông, Môlie tập trung mô tả nét tính cách cơ bản của nhân vật, làm cho Acpagông trở thành một điển hình độc đáo tiêu biểu cho thói hà tiện. Mọi nét tính cách đều xoay quanh thói hà tiện, do hà tiện sinh ra, và có tác dụng nêu bậc tính xấu này. Đó là một thành công xuất sắc của Môlie gắn liền với phương pháp điển hình hoá của chủ nghĩa cổ điển. Tính cách của Acpagông có một ý nghĩa lịch sử không thể chối cãi. Nó cũng không cứng nhắc, khô khan, đơn điệu.
Là một nhà hài kịch vĩ đại không chỉ ở nghệ thuật xây dựng tính cách mà còn ở nghệ thuật gây cười bậc thầy. Những cảnh lầm lẫn, đánh lộn huyên náo, những điệu bộ và những lời nói nhại tức cười xuất hiện trong vỡ “Lão hà tiện làm cho sân khấu vở kịch thêm sinh động. Hình ảnh này mang ý nghĩa phê phán rất sâu sắc đối với các tính cách hài kịch mà vẫn làm cho sân khấu ml thêm tre trung tươi tắn.
Môlie xây dựng rất thành công đề tài hà tiện. Đề tài hà tiện là đề tài nóng hổi mang tính mang tính thời sự của xã hội Pháp lúc bấy giờ lên sân khấu và giải quyết nó theo quan điểm tiến bộ của xã hội. Hài kịch của Môlie do đó nghiễm nhiên là một bộ phận của cuộc sống, đã tham gia vào việc thúc đẩy tiến trình của cuộc sống, và trở thành lợi khí đấu tranh xã hội.
CHƯƠNGII: NGHỆ THUẬT GÂY CƯỜI TRONG VỞ LÃO HÀ TIỆN CỦA MÔLIE
2.1. Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật
2.1.1. Acpagông – nhân vật hà tiện điển hình và sinh động
Sau ba mươi năm cầm bút với biết bao vinh quang và sóng gió, Môlie để lại một số lượng sáng tác phong phú trên dưới bốn mươi ba vở hài kịch lớn nhỏ. Hài kịch của ông gồm nhiều loại khác nhau như: hài kịch phong tục, hài kịch tính cách, hài kịch tình tiết và hài kịch hề kịch. Được nhắc đến nhiều trong hài kịch Môlie phải kể đến hài kịch tính cách. “Tính cách trong nghệ thuật là một phạm trù cơ bản, phức tạp và luôn luôn phát triển, nội dung của nó thay đổi tùy theo những điều kiện cụ thể, tùy theo phương pháp sáng tác mà người nghệ sĩ sử dụng và trình độ hiểu thấu bản chất con người và nghệ thuật”. Trong các vở kịch nổi tiếng của Môlie nghệ thuật xây dựng tính cách được vận dụng khá mềm dẻo. Ông đã tập trung vào những nét cơ bản, nổi bật nhất trong tính cách nhân vật và chỉ loại bỏ những tình tiết phụ rắc rối. Nhân vật trong hài kịch Môlie thường hiện lên với tính cách nhất quán, dễ phân biệt. Mỗi nhân vật gắn một tính cách cụ thể như tính cách hà tiện trong Lão hà tiện.
Vẽ nên điển hình của người hà tiện, mô tả tính cách hà tiện trong tất cả vẻ lố bịch đáng chê cười ấy, Acpagông của Môlie không chỉ là con người hà tiện trong văn học cổ, chỉ biết khư khư ôm lấy vàng nữa mà lão trở thành một tay tư sản của thời đại, một người chuyên cho vay nặng lãi. Đồng tiền với con người ấy không chỉ nằm im nữa mà đã biết sản sinh. Lão ham lợi đến quên cả bổn phận làm cha, mất cả tình máu mủ và tình người, trở nên mù quáng lố bịch. Lão khiến con trai mình lâm vào cảnh đi vay nặng lãi mà mình chính là người cho vay. Tính cách keo kiệt đến mức quá thể của Apagông đã gây ra cảnh cha con gặp nhau trong cảnh kẻ đi vay người cho mượn thật đáng chê cười. Môie đã chọn những tình tiết rất đắt làm cho tính cách hà tiện của Acpagông càng thêm điển hình.
Ngay từ đầu tác giả dùng phương pháp khai triển để giới thiệu tính cách Acpagông: Quản gia Valer nhận xét:
“Tính hà tiện quá đáng của ông cụ trong cuộc sống với các con còn có thể cho phép người ta có những hành vi kì lạ hơn nữa”.
Con cái lão ta xũng nhận xét về lão.
“Em ơi, em tưởng tượng xem, sung sướng biết bao, nếu làm cho cuộc sống người mình yêu được sung túc hơn đôi chút, khéo léo giúp đỡ chút ít trong những nhu cầu đơn giản của một gia đình nề nếp, rồi em hãy tưởng tượng xem anh sẽ đau khổ thế nào, khi thấy, chỉ vì tính hà tiện của một người cha , mà anh ở tình trạng bất lực, không được hưởng niềm vui sướng ấy và chẳng thể tỏ lộ với người đẹp một mảy may bằng chứng của tình yêu”.
“A, em ơi, nỗi buồn phiền lớn hơn là người ta có thể tưởng. Bởi vì người ta có thể thấy cái gì tàn nhẫn hơn tính tằn tiện khắc nghiệt đối với chúng ta, tính chi li kì lạ làm cho chúng ta mỏi mòn? Và có tiền để làm gì, nếu tiền của chỉ đến với chúng ta khi chúng ta không còn ở tuổi thanh xuân để hưởng thụ và nếu, ngay trong việc chi dụng hằng ngày, anh phải đi vay cào vay cấu khắp nơi”.
Tất cả những nhận xét đó của các nhân vật được Acpagông minh họa bằng hành động thực tế: chửi mắng om sòm, quát tháo đầy tớ, xua đuổi đầy tớ vì tính hay nghi nghờ của lão. Ngôn ngữ cửa miệng của lão cũng rất phù hợp với tính cách lão: quân ăn cắp, thổ tả, đồ chết treo…, lão đòi khám bàn tay thứ ba, thứ tư vì tính sợ bóng gió và lão vốn không yên tâm, vừa hăm dọa vừa dỗ dành nhưng cũng không ổn thỏa. Do đó lão đuổi không: “Vĩnh biệt! Bước đi đâu thì bước”.
Tính cách hà tiện của Acpagông còn được thể hiện sinh động hơn khi quyết định cưới vợ, gả chồng cho con cái mình. Lão định cưới cho con trai mình một bà góa giàu có và gả con gái cho một ông già không đòi của hồi môn. Tính cách keo kiệt được đẩy lên tới mức cực đoan. Với con người này, chỉ biết đến tiền, tình thân ruột thịt cũng không còn có giá trị.
Môlie còn tô đậm và làm nổi bật hơn tính cách nhân vật bằng màn kịch Acpagông thết khách, đón tiếp người yêu. Là một người đã có tuổi nhưng lão vẫn tranh giành một cô gái trẻ với con trai, hai cha con nhanh chóng trở thành tình địch của nhau. Mối tình tay ba này dẫn đến những cảnh bi hài đan xen vừa đáng cười vừa chua xót. Để làm đẹp lòng người mình yêu và khiến nàng phải cảm động, Acpagông quyết định sẽ mở tiệc thết khách mời nàng đến dự. Thế nhưng tình yêu cũng không làm cho tính cách hà tiện của lão giảm bớt đi. Bữa tiệc lão định tiếp đãi mọi người được tiến hành trong sự tính toán chi li đến nực cười với phương châm: “Ăn ngon nhưng ít tiền thôi và phải có những món mà người ta không đụng đến, làm cho người ta thấy no trước khi ăn” và “phải ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Khi cần dùng đến ngựa đi ra ngoài, Acpagông gặp phải sự phản ứng của đầy tớ là ngựa rất gầy thì lão gắt lên “ngựa ốm khối ra đấy chúng có làm gi đâu”.
Tất cả đều không ngoài mục đích làm nổi bật tính cách hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn và bẩn thỉu của Acpagông. Sự hội tụ này đã làm cho tính hà tiện mang một màu sắc mới khiến cho nhân vật thêm sinh động thêm và sâu sắc.
Có thể nói đến cảnh Acpagông mất tráp bạc thì tính cách hà tiện của lão càng được bộc lộ rõ hơn. Khi biết mình bị mất tráp lão như bị phát điên, tiền đối với Acpagông là tất cả, ngoài nó ra tất cả không có giá trị. Mất tiền lão đã than khóc:
“Không có mày tao không thể nào sống nổi. Tôi chết rồi, tôi bị giết rồi, người ta cắt cổ tôi rồi”.
Tính cách hám vàng đã làm cho lão trở nên mù quáng đến hài hước, lão đã tự nắm lấy tay mình mà đòi tiền. Rồi lão tuyên bố :
“Nếu không tìm thấy tiền của tôi, tôi sẽ treo cổ toàn nhân loại và cả tôi nữa”.
Khi con trai lão được lựa chọn giữa một bên là cái tráp bạc, một bên là cô người yêu thì lão đã nhanh chống chấp nhận từ bỏ người yêu để nhận lại cái tráp. Tính cách hà tiện đã làm cho Acpagông trở nên hài hước lố bịch.
Qua ngòi bút của Môlie, Acpagông hiện lên là một điển hình hội tụ đầy đủ tính cách hà tiện, là hình ảnh đại diện tiêu biểu và sinh động nhất cho giai cấp tư sản đang lên trong xã hội bấy giờ. Môlie đã rất sáng tạo khi xây dựng hình ảnh Acpagông với tính cách hà tiện được phóng đại đến đỉnh cao. Tính cách nhân vật có sự nhất quán từ đầu đến khi kết thúc vở kịch, không có sự suy biến nhưng nó cũng không hề cứng nhắc, khô khan, đơn độc. Đó là một thành công lớn trong nghệ thuật xây dựng tính cách của Môlie.
2.1.2. Nghệ thuật cường điệu hóa tính cách
Nhằm khắc họa tính cách điển hình, Môlie đã sử dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật, nổi bật nhất là thủ pháp cường điệu, phóng đại. Phóng đại tính cách nhân vật làm cho nhân vật có tính cách cứng nhắc, nhất quán từ đầu đến cuối. Đồng thời tính cách được thổi phồng và đưa lên đỉnh cao với ranh giới của sự phi lý, không có thật. Sự phóng đại mà Môlie sử dụng nhằm làm nổi bật những nét chủ yếu của tính cách nhân vật so với các nhân vật khác. Tuy vậy nghệ thuật cường điệu tính cách của Môie không phải sử dụng một cách ngẫu hứng mà nó vẫn có nền móng cơ sở của hiện thực.
Nét chủ yếu được phóng đại đậm nét hơn. Ở nhân vật Acpagông, cái si mê của Marian của lão chỉ là một biểu hiện của tính hà tiện, do đó có thể nói lão si mê một cách thật hà tiện chứ không nói được là lão hà tiện một cách si tình. Với nghệ thuật cường điệu, phóng đại tính cách hà tiện của Acpagông được đẩy lên đỉnh cao, là một điển hình cho những con người hà tiện trong xã hội bấy giờ. Tính cách hà tiện của lão được phóng đại đến mức hám vàng đến quên cả bổn phận làm cha, mất cả tình máu mủ và mất cả tình người. Lão không chỉ keo kiệt chuyện tiền bạc mà còn tính toán trong chuyện tình cảm với con cái, với người yêu.
Việc xây dựng tính cách điển hình cũng gắn liền với việc giới thiệu tính cách nhân vật. Môlie thường sử dụng trong hài kịch của mình cả hai kiểu giới thiệu tính cách: giới thiệu trực tiếp và gián tiếp.
Ở vở kịch Lão hà tiện cũng như một số vở kịch khác như Tactuyphơ, ĐôngJuăng và Tư sản quý tộc, Môlie đã sử dụng cách giới thiệu gián tiếp này. Ngay từ lớp một hồi I, Acpagông được giới thiệu qua cửa miệng quản gia Vale là hà tiện quá đáng, là khắc nghiệt, là kẻ ưa nịnh hót. Các nét đó của tính cách hà tiện lại được nhấn mạnh một lần nữa qua đứa con trai: “tằn tiện một cách tàn nhẫn, chi li kì lạ, keo kiệt không chịu nổi”. cách giới thiệu này ngoài việc giới thiệu tính cách chủ yếu sẽ được xây dựng nó còn cung cấp các nét khác nhau của tính cách đó. Các cách giới thiệu trực tiếp hay gián tiếp đều sử dụng các sắc thái cười khác nhau. Tiếng cười khôi hài pha chút mỉa mai ở Lão hà tiện, các tiếng cười khôi hài, mỉa mai, châm biếm ở Táctuyphơ. Số lớp được dùng để giới thiệu gián tiếp tính cách nhân vật cũng không đều nhau. Môlie cũng còn sử dụng cách giới thiệu trực tiếp nữa, chẳng hạn ở các nhân vật chính với các tính cách điển hình của nó: quàn quạu, cau có ở Anh chàng ghét đời, ích kỉ ốm vờ ở Acgăng trong Người bệnh tưởng. Các tính cách này xuất hiện ngay trong một lần với sự xuất hiện của nhân vật chính. Tiếng cười ở đây cũng gắn liền với tính cách nhân vật và phù hợp với mức độ bộc lộ của tính cách nhân vật.
Bên cạnh việc dùng nhiều cách để giới thiệu tính cách nhân vật chính, Môlie còn dùng cả nhân vật chính để bộc lộ tính cách của mình. Nhân vật chính trở thành trung tâm của các hoạt động kịch. Quay quanh nó là các nhân vật phụ và sự va chạm giữa các nhân vật chính và nhân vật phụ.Vở kịch Lão hà tiện được xây dựng theo kiểu này. Sự bộc lộ tính cách còn được thể hiện qua sự mâu thuẫn, qua cái tâm trạng lo lắng, nghi ngờ thường xuyên của lão nữa.
“Lão lẩm bẩm một mình về món tiền lão có, lão sợ khi nghe tiếng chó sủa, khi có người hỏi thì lão kêu bận, nhưng khi bảo người ấy mang tiền đến thì lão hộc tốc ra ngay”
Qua nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Môlie, chúng tôi nhận thấy các nhân vật trong hài kịch của ông luôn có sự thống nhất về tính cách nên họ thường bộc lộ sự chủ quan, cố chấp, khó thay đổi. Những con người này luôn luôn nghỉ mình đúng, không chịu chấp nhận sự thật nên thường chuốc lấy thất bại. từ đó làm xuất hiện tiếng cười bi kịch. Có thể nói nghệ thuật xây dựng tính cách là một phương tiện rất quan trọng để thể hiện tiếng cười bi kịch trong hài kịch Môlie.
Nghệ thuật xây dựng tính cách đã tạo cho hài kịch Môlie những tiếng cười vui vẻ, nhiều cung bậc mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Trong đó tiếng cười bi kịch cũng được biện pháp nghệ thuật này thể hiện khá sinh động. Chính điều đó đã làm cho hài kịch Môlie xây dựng được những điển hình đặc sắc, từ đó tạo ra tiếng cười nhiều cung bậc có ý nghĩa cao. Hài kịch Môlie không chỉ đặc sắc với nghệ thuật xây dựng tính cách mà nghệ thuật xây dựng xung đột kịch cũng là một điểm nổi bật để thể hiện biện pháp gây cười trong vở Lão hà tiện của Môlie.
2.2. Nghệ thuật xây dựng xung đột
2.2.1. Hành động kịch
Nói đến thể loại kịch không thể không nhắc đến xung đột. Xung đột được hiểu là “Sự đối lập, sự mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng của tác phẩm nghệ thuật”. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều thường đề cập đến những mâu thuẫn trong cuộc sống. Nhưng mâu thuẫn này mặc dù có những dạng thái, mức độ và tính chất khác nhau, nhưng đều tồn tại trong hiện thực. Nhưng chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định, thì những mâu thuẫn mới trở thành xung đột đối lập.
Môlie là một tài năng hài kịch nhiều mặt. Ngoài khả năng xây dựng tính cách, ông còn biệt tài trong việc xây dựng xung đột kịch.
Xung đột trong hài kịch Môlie luôn gắn liền với các hành động kịch. Thể loại kịch được diễn trên sân khấu phải thông qua hành động, đó là ngôn ngữ, cữ chỉ, điệu bộ. Hành động của Acpagông trong Lão hà tiện góp phần rất quan trọng vào việc thể hiện xung đột kịch. Lão ta mất tiền rồi lẫn tự nắm tay mình mà đòi nợ “giả tiền tao đây, thằng ba que! A tôi đây mà. Trí ốc tôi loạn rồi”, đã gây ra những xung đột ở những hồi sau. Đó là xung đột nảy sinh giữa lão và con cái lão, giữa lão và đầy tớ. Xung đột của Acpagông và Valer là một điển hình. Acpagông nghi ngờ Valer lấy cắp tiền mình vì lão đã quá lú lẫn “ai xui mày hành động như thế”. Còn Valer chìm đắm trong tình yêu với con gái lão nên đã trả lời lấp lửng gây ra xung đột giữa hai người: “Một vị thần mà bất kỳ việc gì vị đó xui làm đều có thể tha thứ được: tình yêu”.
Rõ ràng hành động tự nắm tay đòi tiền của Acpagông là yếu tố rất quan trọng làm nảy sinh xung đột kịch ở những phần sau
2.2.2. Tình huống ở kịch
Nghệ thuật xây dựng xung đột kịch trong hài kịch Môlie còn gắn với các tình huống kịch. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để thể hiện xung đột kịch.
Trong Lão hà tiện xuất hiện rất nhiều các tình huống kịch đặc sắc và hàm chứa trong nó những sắc thái khác nhau của tiếng cười. Đó là tình huống Clêăng nhận ra ý đồ muốn cưới Marian làm vợ của bố. Tình huống Marian phát hiện ra người mình được làm mối cho lại là cha của người mình yêu cũng dẫn đến một cái cười châm biếm, lên án số phận trớ trêu, oái ăm, nghịch cảnh. Đồng thời qua những tình huống tiêu biểu ấy tính cách được khắc họa đậm nét hơn, tâm lý nhân vật hiện ra sâu sắc hơn. Tình huống Clêăng phát hiện ra bố mình có ý định cưới người yêu mình làm vợ đã thúc đẩy anh ta đi vay với lời cam đoan “bố sẽ chết trong vòng tám tháng nữa” do đó sẽ dẫn đến tình huống mới là con đi vay gặp bố là người cho vay. Tại tình huống này, Acpagông tạm thời là người thắng thế và dẫn đến tình huống tiếp theo là màn gặp gỡ mà ở đó Marian phát hiện ra người yêu mình là con của người mà mình được mai mối. Tình huống này dẫn tới tình huống hiểu nhầm trong cảnh hai cha con Acpagông tranh
nhau người yêu và đạt tới đỉnh điểm bằng tình huống Acpagông mất của.
Màn Acpagông mất tráp bạc cũng là một tình huống rất đắt. Có thể nói đến màn kịch này, xung đột kịch có cơ sở để nảy sinh và phát triển cao. Tiền đối với Acpagông là tất cả, mất tiền lão đã than khóc “không có mày tao không thể nào sống nỗi. Tôi chết rồi, tôi bị giết rồi, người ta cắt cổ tôi rồi”. Tính hám tiền đã làm cho lão trở nên mù quáng đến hài hước, lão tự nắm lấy tay mình mà đòi tiền, rồi lão tuyên bố “nếu không tìm thấy tiền của tôi, tôi sẽ treo cổ toàn nhân loại và cả tôi nữa”. Tình huống kịch được xây dựng từ hài hước đến chua xót, cũng từ đó xung đột kịch nảy sinh
Như vậy, mỗi một tình huống đều hàm chứa trong nó một sắc thái nào đó của tiếng cười. Nói cách khác, tình huống kịch cũng là một biện pháp gây cười có hiệu quả, bản thân nó cũng tạo ra được những hiệu ứng hài kịch quý giá.
Bên cạnh các tình huống, các tình tiết cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc gây cười, làm tăng dần sắc thái của tiếng cười hoặc làm giảm tính chất căng thẳng của kịch tính.
Tình tiết câu chuyện hôn nhân giữa ba cha con Acpagông đã làm xuất hiện tình huống là Clêăng biết được bố mình định cưới người mình yêu làm vợ, một tình huống bất ngờ có tính chất bùng nổ. tình tiết con trai rút lui khỏi cuộc nói chuyện đã dẫn sang một tình huống mới với màn “Không của hồi môn” nổi tiếng. Ngoài ra còn rất nhiều tình tiết khác nữa. Những tình tiết như vậy không chỉ đóng vai trò phụ trợ mà còn trực tiếp tạo ấn tượng cho người xem về tính cách nhân vật chính lẫn nhân vật phụ. Ở hồi 5, sau lớp I có tính chất mĩa mai vì sự nôn nóng của Acpagông với viên Cẩm xuất hiện tình tiết bác Giắc nói về con lợn sữa sắp làm thịt mà từ đây sẽ chuyển dần sang một tình huống hiểu nhầm đầy vui vẻ: màn hiểu nhầm giữa Valer và Acpagông trong đó ông nói gà bà nói vịt, nhưng tiếng cười ở đây không phải chỉ là tiếng cười hề kịch mà là một tiếng cười mỉa mai.
Các tình huống, tình tiết là những biện pháp gây cười khá quan trọng, góp phần tạo ra tiếng cười nhiều cung bậc trong vở kịch này. Xung đột kịch ở đây gắn liền với các hành động và tình huống kịch. Môlie đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn, rất tài tình các tình huống, hành động kịch đó để tạo ra vẻ mới mẻ, hấp dẫn cho các vở hài kịch của ông.
2.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
2.3.1. Ngôn ngữ đối thoại
Tiếng cười bi kịch không chỉ được tạo ra từ việc xây dựng tính cách điển hình nghệ thuật xây dựng xung đột kịch mà còn được tô đậm hơn ở việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ kịch vốn là phương tiện quan trọng nhất để bộc lộ tính cách nhân vật.
Trong Lão hà tiện. Môlie đã sử dụng hai dạng ngôn ngữ. Đó là ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Việc sử dụng hai dạng ngôn ngữ này đã góp phần đưa lại thành công cho Môlie trong việc tạo nên tiếng cười hài hước.
Ngôn ngữ đối thoại trong hài kịch Môlie thường gắn với những tình huống hiểu lầm. Sự hiểu lầm thường gắn với nhiều nhân vật khác nhau với những tính cách khác nhau. Bởi vậy mà ngôn ngữ đối thoại được sử dụng rất thành công và tạo ra một cái cười có nhiều sắc thái khác nhau: lúc thì khôi hài, lúc thì mỉa mai, châm biếm.
Cảnh hiểu lầm sảy ra giữa hai cha con Acpagông bởi sự dàn hòa “ba phải” của bác Giắc, sự hòa giải ngờ nghệch của bác Giắc đã làm cho cuộc xung đột giữa hai cha con tạm thời hòa hoãn được một chốc sau đó lại bùng nổ ra dữ dội hơn, đẩy các nhân vật vào một tình thế bi đát hiếm có và ở đây sự xuất hiện tiếng cười bi kịch. Sự hiểu lầm ở đây còn có tác dụng làm giảm sự căng thẳng của kịch tính, bởi vì nếu cứ để hai cha con cãi chữi nhau thì hài kịch sẽ trở thành bi kịch mất. Mỗi lời của ông bố và người con nói ra để đối đáp với nhau lại được truyền qua lời của một người trung gian. Khi Clêăng muốn nói lại với Acpagông “thế là xong, cậu đồng ý với những gì ông nói”. Bởi vậy mà sự hiểu lầm đã được tạo ra qua ngôn ngữ đối thoại.
Màn hiểu lầm hay nhất của vở kịch diễn ra bằng cuộc đối thoại giữa Acpagông và Valer, giữa một bên cứ khư khư giữ lấy cái của máu thịt còn bên kia quyết tâm lấy lại cho bằng được, cũng được tạo ra bởi ngôn ngữ đối thoại thật đặc sắc. Sự hiểu lầm diễn ra khi một người nói chuyện về tiền còn một người nói chuyện về tình bằng thứ ngôn ngữ đối thoại lấp lửng. Trong khi Acpagông đau đớn vì mất tiền, đang mơ mộng với mối tình bèn trả lời “Một vị thần mà bất kỳ việc gì vị đó xui làm đều có thể tha thứ được: tình yêu”. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ này, Môlie đã tạo ra được sự hiểu lầm thú vị.
Ngôn ngữ đối thoại trong hài kịch Môlie còn gắn liền với việc thể hiện tính cách nhân vật. Ngôn ngữ được sử dụng thường phù hợp với tính cách nhân vật.
Acpagông là một người nổi bật với tính cách hám tiền, keo kiệt, nên ngôn ngữ mà nhân vật này sử dụng cũng sực nức mùi tiền. Với con người này cứ hễ mở miệng ra là nói về tiền, mỗi việc làm, hành động của lão đều gắn chặt với một chữ tiền. Khi đối thoại với con cái hay bạn bè, đầy tớ ngôn ngữ của Acpagông đều có sự thống nhất bộc lộ tính cách hà tiện của mình.
2.3.2. Ngôn ngữ độc thoại
Ngoài ngôn ngữ đối thoại thì ngôn ngữ độc thoại trong tác phẩm Lão hà tiện cũng được thể hiện rất đặc sắc. Độc thoại là tự nói với bản thân mình. Đó là hình thức giúp nhân vật bộc lộ nội tâm. Trong những trường hợp khi mà con người có những tâm sự thầm kín, những xúc động sâu thẳm trong lòng người thì ta thường độc thoại với chính mình.
Ngôn ngữ độc thoại được thể hiện rõ nhất trong màn kịch Acpagông mất tráp bạc. Đây là màn độc thoại hết sức độc đáo. Lớp kịch tạo nên tiếng cười chủ âm của toàn hồi này. Với một vị trí đặc biệt như vậy, tiếng cười được tạo ra ở đây tất có ý nghĩa Môlie sử dụng độc thoại như là một biện pháp nghệ thuật không nhiều.
Độc thoại nhưng có sự tham gia của nhiều nhân vật khác nhau. Khán giả dễ hình dung được những nhân vật tham gia vào màn kịch tuy họ không hề lên tiếng. Thường độc thoại thì nhân vật tự bộc lộ nội tâm, tự nói về mình nhưng ở lớp kịch này độc thoại lại có sự tham gia của nhiều nhân vật. Điều đó chỉ ở tài năng Môlie mới làm được.
Khi Acpagông phát hiện ra mình bị mất tráp bạc giấu đằng sau vườn, lão chạy ra trong tư thế hốt hoảng, đầu không mũ kêu trộm từ ngoài vườn. Mất tiền là nỗi đau quá lớn giằng xé thấm sâu làm cho lão mất hết ý chí. Từ chỗ tỉnh táo kêu lên “ối trộm! ối trộm!”đến khi quá đau đớn lão đâm ra quẫn trí, tự nắm tay mình đòi tiền “giả tiền tao đây thằng ba que”. Nỗi đau mất tiền làm cho Acpagông rơi vào mê sảng mất trí đến hài hước. Tiếng cười ở đây không chỉ là tiếng cười hề kịch gây nên bởi cái ồn ào do hoảng loạn, mà còn mang sắc thái mỉa mai khi lão quẫn trí. Đây là ngôn ngữ độc thoại để nhân vật tự bộc lộ mình.
Vẫn là ngôn ngữ độc thoại nhưng nhân vật đã phân thân làm xuất hiện một nhân vật mới là bạn tiền yêu quý của lão. Đến đây vẫn chỉ là Acpagông nhưng lão đang tâm sự, đối thoại với ngừời bạn đáng quý của mình. Thời điểm thứ hai này biểu hiện rất sinh động nội tâm nhân vật, thể hiện thành công tâm lý của kẻ hà tiện bị mất cắp. Môlie đã sử dụng thành công tâm lý của người keo kiệt bị mất của. Mất tiền lão ta như mất đi lẽ sống, mất đi nơi nương tựa của cuộc đời, mất đi niềm an ủi, nỗi vui sướng. Lão thấy vậy là xong đời rồi, lão chẳng còn gì để làm trên đời nữa. Rồi cứ thế lão thủ thỉ tâm sự với người bạn tâm giao của mình. Tiếng cười bi kịch xen lẫn với tiếng cười mĩa mai làm cho màn kịch có ý nghĩa sâu sắc.
Màn độc thoại tiếp tục đến cảnh Acpagông trong tư thế đối thoại với khán giả. Chỉ có một mình độc thoại nhưng lão lại hình dung mình đang nói chuyện với rất nhiều người. Lão cứ tự nói một mình đến hài hước “ngài bảo gì” rồi lão lại tự lôi mình đi “nào đi, tôi muốn đi tìm công lý để tra khảo tất cả nhà này”. Acpagông nghi ngờ tất cả là thủ phạm ăn trộm tiền của mình. Câu hỏi kỳ quặc của lão “thằng ăn trộm của tôi có đấy không” đã làm nảy sinh tiếng cười châm biếm. Kết thúc màn độc thoại là tiếng cười bi kịch chua sót bởi nhân vật đã tuyên bố “tôi muốn treo cổ tất cả nhân loại và nếu không tìm thấy tiền thì ông cũng sẽ treo cổ cả mình luôn”. Độc thoại không chỉ giúp nhân vật bộc lộ nội tâm mà còn góp phần khắc họa tính cách nhân vật một cách cụ thể. Độc thoại nhưng không trầm lắng, đơn điệu mà vô cùng ồn ào, náo nhiệt. Có thể khẳng định đây là màn độc thoại đặc sắc tiêu biểu cho nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc thoại của môlie.
Môlie đã sử dụng linh hoạt cả ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại vào trong sáng tác của mình. Chính điều này đã tạo nên sự phong phú, đa dạng cho ngôn ngữ kịch của ông. Ngôn ngữ trong hài kịch của ông gắn liền với việc thể hiện các tình huống gây hiểu lầm, với việc thể hiện tính cách nhân vật và xây dựng các màn độc thoại đặc sắc. Ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của Môlie luôn có sự đan xen khéo léo trong các vở hài kịch đã góp phần quan trọng vào việc thể hiện nội dung tác phẩm.
2.4. Giá trị của nghệ thuật gây cuời trong tác phẩm
Lão hà tiện là một trong những vở kịch của Môlie được công diễn nhiều nhất, và được các nhà phê bình văn học trên toàn thế giới coi là một trong những tác phẩm lớn nhất của Môlie. Người ta thường nói đến nguồn gốc của vở kịch này và xác định rằng Môlie đã vay mượn đề tài của nhiều tác giả khác, đặc biệt là vở kịch Cái niêu (1) của Plôt (Plaute), nhà viết kịch lớn của La – mã cổ đại (250 – 184 tr. J.C). Cần phải nói ngay rằng vay mượn cốt chuyện hoặc một vài tình tiết của cổ nhân, hay cả của người đương thời đi nữa, hồi đó là một việc bình thường, không gây thành chuyện xôn xao gì lắm miễn là tác giả có đem lại được phần sáng tạo độc đáo của mình, mà về điểm này thì rõ ràng là Môlie đã đem vào tác phẩm Lão hà tiện phần sáng tạo độc đáo sâu sắc.
Sáng tạo lớn của Môlie biểu hiện tập trung ở ý nghĩa xã hội sâu rộng của tính cách, ở khuynh hướng trào phúng chua cay và ở thể loại bi hài kịch. Trong tác phẩm của Môlie, Acpagông không tình cờ trở nên giàu có, mà vốn là kẻ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lãi. Tiền đối với lão là một thứ của luân chuyển có giá trị sinh sản. Điển hình Acpagông có một ý nghĩa xã hội hiển nhiên: Tiêu biểu cho giai cấp tư sản Pháp phát triển kinh tế bằng con đường cho vay nặng lãi, không còn bó hẹp trong ý nghĩa gia đình chật hẹp như xưa. Acpagông là con người của một thời đại mà vàng có thế lực to lớn và đang thống trị hết thảy. Phương pháp làm giàu của Acpagông thực chất là phương pháp tích lũy sơ khai của tư bản. Môlie còn sáng tạo thêm mối tình của Acpagông. Mối tình này đã dẫn đến những cảnh vừa hài hước, vừa bi thảm: hai cha con xỉa vả nhau vì tiền và vì tình. Sự kết hợp khéo léo hai yếu tố hài và bi trên đã khiến cho vỡ kịch mang tính chất trào phúng chua cay. Hơn nữa tác giả còn cho thấy vì tiền mà con người trở nên ti tiện (Acpagông), vì tiền mà con người từ nhu mì trở nên nhẫn nhục (Marian), từ lanh lợi biến thành điêu trá, gian ngoa. Do nội dung hàm chứa những mâu thuẫn sâu sắc trên, hình thức của vỡ kịch cũng có những biểu hiện mới, khiến cho vở kịch vượt ra khỏi ranh giới thể loại đã được chủ nghĩa cổ điển quy định phân minh, tiến gần sang bi kịch, và hầu như đã chuyển sang một loại bi – hài kịch trong đó cái cười càng thâm thúy, đầy ý nghĩa và mang tính phê phán rất mạnh.
Tác phẩm Môlie đã hướng sang một trọng tâm: vẽ nên điển hình của người hà tiện, mô tả tính hà tiện trong tất cả cái vẻ lố bịch chê cười, cái mặt xấu xa khả ố nhất và ghê gớm nhất của nó. Arpagông không phải chỉ là con người hà tiện trong văn học cổ, chỉ biết khư khư ôm ấp đống vàng, hắn là một tay tư sản giàu sụ của thời đại, đương tích cực tìm mọi phương kế kiếm cho thật nhiều tiền để tích luỹ, một tên cho vay nặng lãi của thời đại mới, đem đồng tiền sinh lợi, và ham lợi đến quên cả bổn phận làm cha, mất cả tình máu mủ và mất cả tính người, trở nên điên rồ và lố bịch. Hắn sống một cách trưởng giả, như những anh tư sản của thời đại, có xe, có ngựa, có kẻ hầu người hạ, có gia nhân mặc chế phục như ở những nhà đại gia, nào mụ hầu phòng, nào anh đánh xe, nào đầu bếp, nào quản gia, rồi cũng “túng tắng yêu đương”, cũng tiệc tùng khách khứa, cho có thể diện, song tất cả những cái đó chỉ có mẽ ngoài, nhìn vào bên trong thì thấy tất cả tính chất đê tiện xấu xa của con người hà tiện, keo bẩn.
Nhân vật Arpagông, với tính cách phức tạp của nó, đã trở thành nhân vật điển hình của người hà tiện, tiêu biểu cho lòng ham vàng của người tư sản tích lũy đương hình thành ở thời đại đó. Qua nhân vật ấy, Môlie đã mô tả được những nét điển hình của con người tư sản của thời đại, bằng một ngòi bút châm biếm sâu sắc, đả kích cay độc, và một thái độ khinh ghét vô cùng quyết liệt, khiến cho vở kịch của ông có một ý nghĩa xã hội rất lớn và một giá trị đạo đức rất cao.
Bên cạnh nhân vật chính ấy, còn có những nhân vật phụ, trong số đó có hai nhân vật mà Môlie đã mô tả với một nét bút khá đậm đà, để hoàn thành bức tranh gia đình Acpagông, với tất cả ý nghĩa chua chát của nó: đó là Clêăng và Êlydơ, hai người con của Acpagông. Hai người đều có một mối tình yêu thắm thiết: Clêăng thì yêu cô Marian, mà bố định lấy, đến nỗi thủ tiêu cả tình nghĩa cha con của cả đôi bên; Elydơ thì yêu Vale, nhưng bị bố ép gả cho một ông già (vì ông này có của và không đòi hồi môn), và đã đương đầu với bố già mồm miếng một miếng hai, chẳng ra thể thống gì cả. Chính sự mô tả hiện thực tính cách những người con của Acpagông, đã tập trung hoàn thành bức tranh gia đình tên hà tiện, đã là lời tố cáo đanh thép, đầy đủ và trung thực, vạch tội lòng ham vàng của giai cấp tư sản, nó đã thủ tiêu cả mối quan hệ thiêng liêng nhất của con người, và làm cho gia đình tư sản trở nên một gia đình mà đồng tiền đã phá hoại cả đến tình nghĩa cha con, một sự thực mà sau này xã hội tư sản không ngừng xác minh. Do đó vở kịch có một ý vị triết lý thâm trầm và thấm thía.
Mặc dầu tính chất hơi giả tạo của tình tiết và nhất là của đoạn kết, Lão hà tiện là một trong những vỡ kịch kiệt tác của Môlie, có một địa vị ưu việt trên văn đàn thế giới, do bức tranh sắc nét và đậm đà của tác giả vẽ nên điển hình của tên hà tiện và gia đình của lão.
KẾT LUẬN
Trải qua sự thẩm định và sáng tạo của lòng người, của thời gian, có nhiều tác phẩm không còn giá trị như lúc nó chào đời mà đã trở thành lạc hậu và bị trả về quá vãng, nhưng cũng có những tác phẩm vượt qua được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Đó là những tác phẩm của Môlie. Môlie và tác phẩm của ông đã làm được điều đó. Ông đã góp phần sáng tạo ra một tính cách hà tiện bất hủ, để lại cho nhân loại một chuỗi cười vô giá qua vở kịch “Lão hà tiện” tác phẩm đã trở thành kiệt tác trong kho tàng văn học thế giới luôn luôn được chiêm ngưỡng và hâm mộ.
Là một người nghệ sĩ hài kịch vĩ đại, Môlie đã tạo ra một tiếng cười nhiều cung bậc mang đậm ý nghĩa xã hội, một thái độ biểu hiện tích cực của nghệ sĩ trước cuộc sống để từ đó ông muốn thức tỉnh con người, khuấy đảo cái trật tự bất công, muốn mọi người nhận thức tự do và thấy được những sự thật tàn bạo, chính sách ngu dân ẩn nấp dưới bao lời hoa mỹ mị dân, ông chế giễu lên án những con người bị mê hoặc và u mê ông không đồng tình với lối sống hời hợt nông cạn. Đồng thời ông cũng hướng con người đi tìm cái đẹp, cái cao quý của tâm hồn.
Với “Lão hà tiện” Môlie đã đem đến cho người đọc sự vui vẻ, thỏa mái, đưa chúng ta vào một thế giới vui tươi, đầy hứng thú bất ngờ và bổ ích. Ông đã sử dụng và phối hợp tài tình nhiều biện pháp gây cười khác nhau để tạo thành hoà âm của tiếng cười trong mỗi tác phẩm của mình.
Bên cạnh những cách gây cười quen thuộc như cường điệu, phóng đại sự vật, vạch mâu thuẫn và tạo sự hiểu lầm, ông còn sử dụng hàng loạt cách gây cười khác như trùng lặp, những cử chỉ hành động máy móc.
Môlie là một nhà hài kịch không chỉ ở phương diện nội dung mà nghệ thuật hài kịch của ông rất đặc sắc. Với những biện pháp gây cười trong “Lão hà tiện” đã đem lại cho hài kịch Môlie mang sắc diện mới, khiến cho hài kịch ông mang chiều sâu.
Bằng tài năng và niềm đam mê nghệ thuật sân khấu của mình, ông đã để lại cho nhân loại những sáng tác bất hủ với thời gian. Tên tuổi Môlie mãi là ngôi sao sáng của nền văn học Pháp và là niềm kiêu hãnh của lịch sử sân khấu kịch thế giới. Môlie góp phần đưa chủ nghĩa cổ điển ở Pháp phát triển lên đến đỉnh cao và đạt được nhiều thành tựu rực rở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.[FONT="] [/FONT]Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Văn học.
3.[FONT="] [/FONT]Đỗ Đức hiểu (dịch) (1978), Môlie – Lão hà tiện, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
4.[FONT="] [/FONT]Lê Nguyên Cẩn (tuyển chọn và giới thiệu) (2002), Hợp tuyển văn học Châu Âu – tập 2, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
5.[FONT="] [/FONT]Nhiều tác giả (2006), Văn học Phương tây, NXB Giáo dục.
6.[FONT="] [/FONT]Phan Quý – Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), Lịch sử văn học Pháp trung cổ từ thế kỷ XVI – Thế kỷ XVII, NXB Quốc gia Hà Nội.
7.[FONT="] [/FONT]Đỗ Đức Hiểu – Lê Hồng Sâm (chủ biên) (1990), Lịch sử văn học Pháp, tập 2, NXB Giáo Dục.
8.[FONT="] [/FONT]Đức Nam – Hoàng Oanh – Hải Dương (dịch) (1977), Lịch sử sân khấu thế giới, tập 2, NXB Văn hoá Hà Nội.