Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 80413" data-attributes="member: 17223"><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">III</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐÁNH CHO MỸ CÚT</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">(1965 – 1973)</span></span></strong><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ”</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM</span></span></strong></p> </p><p><strong><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p><p><strong><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p><p><strong><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Những trận mở đầu đánh Mỹ</span></span></strong><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau thắng lợi lớn của chiến thắng Bình Giã (12-1964) đợt tiến công vào khu An Lão ở Khu 5, và một số nơi khác vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, mặc dù còn trên 50 vạn tên, nhưng quân ngụy Sài Gòn đã tỏ ra bất lực. Qua nhiều cuộc đảo chính thay đổi chính phủ, nhưng ngụy quyền tay sai vẫn không đứng vững trước sức tiến công và nổi dậy của cách mạng miền Nam. Quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy căn bản bị phá sản. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” của địch đã căn bản thất bại. Đế quốc Mỹ đứng trước một sự lựa chọn gay cấn: hoặc rút khỏi Việt Nam, hoặc thay đổi chiến lược leo thang chiến tranh lên một bước mới.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Giôn-xơn sau khi trúng cử, đã dần từng bước thay đổi chủ trương chiến lược đối với Việt Nam. Tháng 2-1965, chúng quyết định mở cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, hòng cứu nguy cho ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn. Tháng 3-1965 chúng bắt đầu đưa 2 tiểu đoàn chiến đấu của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ vào Đà Nẵng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">1-4-1965, hội đồng an ninh quốc gia Mỹ quyết định “chấp nhận quan điểm Mỹ bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở Việt Nam”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Như vậy, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu. Đến ngày 17 tháng 7 năm 1965, Tổng thống Giôn-xơn chuẩn y đề nghị của Oét-moô-len cho triển khai 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và thực hành chiến lược “an ninh căn cứ” với các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ đó trở đi, đế quốc Mỹ và chư hầu ngày càng gia tăng việc đưa quân xâm lược vào miền Nam Việt Nam; cho đến cuối 1965 Mỹ đã nâng tổng số quân ở miền Nam lên 4 sư và 1 trung đoàn với tổng số 184.314 tên - Nam Triều Tiên 10 tiểu đoàn (28.500 tên) và đưa tổng số quân ngụy Sài Gòn đến cuối năm 1965 lên tới 630.000 tên (trong đó có 311.000 quân chủ lực).</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ đó, cả nước ta, từ Nam chí Bắc, thống nhất một ý chí sắt đá: Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ngay sau khi Mỹ đưa những tiểu đoàn chiến đấu của chúng vào Đà Nẵng, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, Trung ương đã nhìn thấy có những yếu tố của một cuộc “chiến tranh cục bộ”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ 25 đến 27, Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Hội nghị đã nhận định: “từ nửa nước có chiến tranh, nửa nước có hòa bình đã biến thành cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền...”. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của ta là, tích cực kìm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, nếu địch gây ra, và kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch...”. Ngày 8-4-1965 Chính phủ ra tuyên bố về lập trường 4 điểm, khẳng định rằng “Mỹ là kẻ thù xâm lược thì Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ phải tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam, công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Mặt trận dân tộc giải phóng là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam, việc thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở hai miền tự giải quyết”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tháng 8-1965, Mặt trận dân tộc giải phóng tuyên bố lập trường sắt đá của nhân dân miền Nam: “thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tuyên bố của Chính phủ và Mặt trận, nhân dân cả hai miền Nam Bắc quyết tâm bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với đế quốc Mỹ. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 5-1965, các lực lượng vũ trang Nam Bộ mở chiến dịch Đồng Xoài. Lần đầu tiên, ta tập trung lực lượng chủ lực tương đối lớn trên chiến trường Nam Bộ (4 trung đoàn và 2 tiểu đoàn chủ lực + đặc công và hỏa lực) phối hợp với lực lượng địa phương tiến hành tác chiến trên một khu vực rộng. Hướng chính, gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long; hướng phối hợp, gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ 11-5 đến 22-7-1965 ta đã đánh vào một khu vực phòng thủ khá kiên cố của địch. Kết quả chiến dịch ta đã diệt 4 chi khu quân sự của địch, diệt gọn 4 tiểu đoàn, 25 đại đội, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội pháo binh, công binh, tiêu diệt trên 4.000 tên có 73 tên Mỹ, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 3 máy bay lên thẳng, thu 1.652 súng các loại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bộ đội chủ lực đã trưởng thành thêm một bước trong đánh công sự vững chắc, trình độ chỉ huy tác chiến được nâng cao.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng Đồng Xoài đẩy quân ngụy lâm vào nguy cơ tan rã sụp đổ, và chứng tỏ, trên chiến trường rừng núi ta có khả năng hạn chế được chỗ mạnh, khoét sâu nhược điểm của địch, để thực hành đánh tiêu diệt lớn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cùng trong thời gian tháng 5-1965, tại Khu 5, sau khi đưa quân Mỹ vào Đà Nẵng, một tiểu đoàn lính thủy đính bộ Mỹ đã chiếm vùng An Tân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Đêm 27 rạng 28 tháng 5, 2 tiểu đoàn chủ lực phối hợp với đặc công của quân khu tiến công tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở núi Thành, 180 tên Mỹ chết và bị thương.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lần đầu tiên, lực lượng vũ trang ta diệt gọn đại đội Mỹ trên chiến trường miền Nam. Quân khu 5 vinh dự được Đảng và Chính phủ tuyên dương 8 chữ vàng: “Anh dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phấn khởi trước thắng lợi núi Thành, quân dân Quân khu 5 lại tiếp tục tiến công địch ở Ba Gia, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ 1 giờ sáng 29-5 đến 4 giờ ngày 31-5-1965, ta dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội lựu pháo 75, 1 đại đội phòng không, tiến công 1 chiến đoàn ngụy bằng 1 loạt trận phục kích, tập kích, diệt viện, đánh cả ban ngày và ban đêm và đã giành thắng lợi giòn giã, diệt gọn 4 tiểu đoàn địch (có 6 tên Mỹ) thu 307 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay, phá 14 xe vận tải, 2 pháo 105 ly.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trận Ba Gia lại chứng minh một bước trưởng thành lớn của trình độ tác chiến vận động của bộ đội ta. Trong điều kiện địa hình không thuận lợi, địch chiếm ưu thế binh hỏa lực so với ta mà ta đã đánh thắng, diệt gọn nhiều tiểu đoàn, bắt tù binh thu vũ khí và thương vong ít. Chiến thắng Ba Gia mở đầu khả năng bộ đội ta có thể tiêu diệt từng chiến đoàn quân ngay cả ban ngày và ban đêm, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của “chiến tranh đặc biệt”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước tình hình rối loạn về chính trị, ngụy quyền yếu kém, cùng với sự thất bại liên tiếp của ngụy quân ngụy quyền trên các chiến trường, nguy cơ sụp đổ của chế độ ngụy ở miền Nam đang bầy ra trước mắt chính quyền Giôn-xơn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngay Oét-mo-len, đã phải nhận xét: Mùa xuân 1965 quân đội Việt Nam cộng hòa trung bình mỗi tuần mất 1 tiểu đoàn, và ít nhất cứ một tuần, đối phương kiểm soát thêm 1 quận lỵ Trước tình hình đó, chắc chắn chính quyền Việt Nam cộng hòa không thể tồn tại được trong vòng quá 6 tháng, nếu không có sự tăng cường lực lượng Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến nhắng Vạn Tường 18-8-1965, đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ trong thu đông 1965, mở đầu thắng lợi chống “chiến tranh cục bộ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 17-7-1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của Oét-mo-len, quyết định “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á” Và từ đó cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi chiếm đóng vùng Chu Lai ở Quảng Nam, mờ sáng 18-8-1965, sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân mang tên “ánh sáng sao” nhằm vào thôn Vạn Tường, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, ở sát bờ biển bắc Quảng Ngãi, cách Chu Lai 17 km, nhằm mục đích diệt đơn vị chủ lực ta, tìm kiếm một thắng lợi quân sự để phô trương thanh thế cho quân viễn chinh Mỹ, mở đầu chiến lược tìm diệt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Địch huy động 9.000 tên (4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ; 2 tiểu đoàn ngụy), 1 tiểu đoàn tăng và xe lội nước (105 chiếc) cùng một số lực lượng pháo binh, công binh, 100 máy bay lên thẳng, 70 máy bay chiến đấu và 6 tàu đổ bộ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ta có 1 E đón quân tại Vạn Tường, đang huấn luyện. Sau 1 ngày chiến đấu, bộ đội và dân quân du kích đã đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” của địch. Địch tìm thấy ta nhưng không diệt được ta mà còn bị diệt 919 tên, bắn cháy 22 xe tăng, xe bọc thép, hạ 13 máy bay.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lần đầu quân viễn chinh Mỹ sử dụng một lực lượng áp đảo cả hải, lục, không quân để càn quét một thôn nhỏ vùng ven biển nhưng đã bị đòn phủ đầu nặng nề, chịu thất bại thảm hại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vạn Tường được coi như Ấp Bắc đối với quân Mỹ, mở đầu cao trào diệt Mỹ. Tướng Oét-mo-len trong sách “Tường trình của người quân nhân” lại cho là, trong cuộc hành quân này Mỹ diệt được 700 cộng quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng Vạn Tường chứng tỏ, mặc dù quân Mỹ đông, có trang bị hiện đại ưu thế hơn ta nhiều lần, nhưng nếu chúng ta dám đánh và biết đánh, có cách đánh phù hợp, thì dù tác chiến ngay ở đồng bằng ven biển, sát ngay với căn cứ địch, ta vẫn có thể chiến thắng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng Plây-me nối tiếp Vạn Tường càng củng cố lòng tin vào đánh thắng chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 9-1965, đế quốc Mỹ đưa sư đoàn 1 “kỵ binh không vận” lên An Khê. Đó là đơn vị đầu tiên lên chiến trường Tây Nguyên. Lực lượng ta có 3e bộ binh chủ lực, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn súng máy 12,7.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ 19-10 đến 26-11-1965 ta bao vây cứ điểm của ngụy quân, buộc quân Mỹ phải vào ứng cứu để ta diệt Mỹ. Kết quả chiến dịch ta đã giáng một đòn chí tử vào sư đoàn 1 kỵ binh Mỹ, đánh thiệt hại nặng lữ đoàn 3 kỵ binh, diệt gọn 1 tiểu đoàn Mỹ (1.700 tên) bắn rơi 59 máy bay, diệt 1 chiến đoàn thiết giáp ngụy, phá 5 pháo… Quân Mỹ bị thất bại, lần đầu tiên phải tháo chạy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đây là chiến công to lớn của quân dân Tây Nguyên, làm cho quân và dân ta càng thêm nức lòng tin tưởng còn kẻ địch thì bàng hoàng kinh ngạc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhưng Oét-mo-len nhận định về trận sư đoàn 1 kỵ binh không vận này ở thung lũng Ia Đrăng như sau; “tháng 10-1965 sau khi địch tấn công Ple-me tôi quyết định dùng sư kỵ binh không vận bước vào trận chiến đấu đầu tiên không phải là không lo ngại, “thất bại trong cuộc thử thách đầu tiên, sẽ làm mất lòng tin, mất tinh thần của chúng ta và nhân dân Mỹ, của Nam Việt Nam. Tấn công đẫm máu ở thung lũng Ia Đrăng đã làm giảm mối lo ấy của tôi và chứng minh giá trị của quân đội chúng ta và quan niệm sử dụng kỵ binh không vận”. Oét-mo-len đã nhận định kết quả của chiến lược tìm diệt của Mỹ thất bại ngay hai trận đầu tiên, rằng quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam, mới giải quyết được một phần lòng tin, không sợ thua trận của một đội quân mạnh nhất của đế quốc chứ không phải một thắng lợi quân sự vì thực tế không diệt được đối phương mà còn bị tiêu diệt một lực lượng quan trọng mà kinh nghiệm trong chiến tranh ở Triều Tiên, giải phóng quân Trung Quốc đã xác nhận diệt một tiểu đoàn Mỹ trong một trận là hiếm có, chứ không phải như kết quả ghi ở trên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên đà chiến thắng, ngày 8-11-1965, tại Đất Cuốc, cách Biên Hòa 30 km về phía Bắc, thuộc phạm vi Chiến khu Đ, miền Đông Nam Bộ, quân Mỹ dùng một lữ đoàn dù mở một cuộc hành quân “tìm diệt”. Sau 2 ngày “tìm diệt” không có kết quả, bất ngờ bị sa vào trận địa phục kích của ta, một tiểu đoàn Mỹ bị diệt gọn. Đây là trận tiêu diệt lớn đầu tiên ở Nam Bộ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 12-11, tại Bầu Bàng (Thủ Dầu Một) bằng một trận tập kích, trong vòng 30 phút, ta diệt 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 chi đoàn xe cơ giới, diệt và làm bị thương hơn 2.000 tên Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” tức sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ, bị giáng một đòn sét đánh. Đây là trận đánh tập kích diệt Mỹ lớn nhất từ khi chúng đưa quân vào miền Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đến 27-11, ta lại nổ súng tiến công địch ở Dầu Tiếng tiêu diệt hơn 4.000 tên thuộc sư đoàn bộ binh 1 Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” lại một lần nữa bị giáng đòn nặng nề.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ 8 đến 12-12-1965 tại Hiệp Đức, Quảng Nam, ta đánh điểm; buộc quân Mỹ phải đến ứug cứu. Mới đầu, ta đánh quân ngụy là chủ yếu, sau diệt Mỹ là chủ yếu. Bằng phục kích, tập kích, vận động ta tiêu diệt 1.800 tên có 600 tên Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn Mỹ, 3 tiểu đoàn ngụy, bắn rơi, phá hủy 21 máy bay.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đêm 4-12-1965, ta dùng đặc công tiến công khách sạn Mê-tơ-rô-pôn ở Sài Gòn, diệt 200 tên Mỹ, gây chấn động lớn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy ngay từ khi bắt đầu đưa quân vào tham chiến đã bị quân ta liên tiếp tiến công từ nhỏ đến lớn: Vạn Tường, Plây-me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Dầu Tiếng, Hiệp Đức... và các trận tập kích táo bạo vào tận hang ổ sào huyệt của chúng ở các căn cứ và ở ngay trong Sài Gòn, cùng các hoạt động liên tục, bền bỉ và mạnh mẽ của các vành đai diệt Mỹ ở Củ Chi, Lái Thiêu, Chu Lai, Đà Nẵng, An Khê... chúng ta đã liên tiếp làm cho quân Mỹ phải chịu nhiều thất bại nặng nề.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Qua thực tiễn đọ sức trên nửa năm giữa quân dân ta với quân Mỹ, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1965) đã phân tích sâu sắc tình hình và có những kết luận quan trọng: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi”. Trung ương đã dự kiến cuộc chiến tranh sẽ càng trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường. Cách mạng miền Nam, “phải giữ vững và phát triển thể chiến lược tiến công”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trung ương Đảng đề ra “Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước lúc đó là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc”.</span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ XUÂN HÈ 1966</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đầu năm 1966, sau khi đã chuẩn bị kỹ càng, Mỹ bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược mùa khô đầu tiên trên chiến trường miền Nam. Sử dụng một đội quân đông gần 75 vạn tên (có 18 vạn tên Mỹ, 2 vạn tên Nam Triều Tiên) gồm 14 sư đoàn bộ binh (có 4 sư đoàn Mỹ, 1 sư đoàn Nam Triều Tiên) với lực lượng yểm hộ trên dưới 1.000 khẩu pháo, 2.000 máy bay, 1.300 xe bọc thép các loại, Mỹ tin rằng sẽ giành được thắng lợi chắc chắn.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đợt phản công chiến lược lần thứ nhất của địch diễn ra trên 2 hướng: Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5 nhằm mấy mục tiêu chủ yếu: diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của ta, giành lại thế chủ động trên toàn bộ chiến trường ở miền Nam; bình định có trọng điểm và giành dân; khai thông các tuyến giao thông chiến lược; giải tỏa và bảo vệ vững chắc các đô thị và căn cứ của Mỹ; ổn định tình hình chính trị, củng cố ngụy quân, ngụy quyền.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt trên toàn miền Nam, bắt đầu từ tháng 1 đến cuối tháng 4 năm 1966.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Với một đội quân đông, trang bị mạnh, Mỹ - ngụy mở liên tiếp 450 cuộc hành quân lớn, nhỏ từ 3 tiểu đoàn đến 21 tiểu đoàn, có sự chi viện của hàng nghìn lần chiếc máy bay B52.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Với mục tiêu chủ yếu đề ra là “tìm diệt chủ lực” ta để giành lại thế chủ động, nhưng cuối cùng địch đã liên tiếp bị ta giáng cho những đòn tổn thất thật nặng nề và buộc phải phân tán, bị động đối phó, phải quay về tiếp tục phòng ngự.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Bằng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và linh hoạt, với sự kết hợp chặt chẽ của những “quả đấm” chủ lực với những trận đánh liên tục của bộ đội địa phương và dân quân du kích, ta đã gây cho Mỹ ngụy những thất bại nặng nề.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở Củ Chi, ta đã giành thắng lợi lớn trong hai cuộc chống càn, trong tháng 1 và tháng 2 tiêu diệt trên 2.000 tên Mỹ, bắn rơi, phá hủy gần 100 máy bay.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở Phú Yên, Bình Định ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10.000 tên địch, có trên 5.000 quân Mỹ, và 1.000 quân Nam Triều Tiên, bắn rơi 374 máy bay.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở Nhà Đỏ Bông Trang (Thủ Dầu Một), bằng một trận tập kích, trong vài giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn cơ giới Mỹ, phá hủy 40 xe tăng và xe M113.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở Quảng Ngãi, liên tục trong 40 giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn và 4 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn rơi 25 máy bay.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ngoài những trận chống càn, tác chiến vận động, giành thắng lợi lớn, chúng ta còn tập kích hỏa lực dùng đặc công đánh vào các căn cứ sân bay Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi, ở khách sạn Vic-to-ri-a, ta diệt 200 sĩ quan Mỹ ngày 1-4-1966 làm cho địch bị thiệt hại nặng về máy bay, xăng dầu, kho tàng và sinh lực cấp cao.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đến cuối tháng 4 năm 1966, do bị tổn thất nặng nề trên cả 2 hướng ở Nam Bộ và Khu 5, quân Mỹ buộc phải kết thúc cuộc ra quân quy mô lớn đầu tiên, sớm hơn dự định hai tháng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đạo quân viễn chinh Mỹ trang bị hiện đại, ra quân hùng hổ để “tìm diệt” quân chủ lực ta, đã bị thất bại ngay trong keo thử sức đầu tiên. Trên 100 nghìn tên (có 42.500 tên Mỹ, 3.500 tên Nam Triều Tiên) bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, trên 1.000 máy bay bị bắn rơi và bị phá hủy, 600 xe tăng, xe bọc thép bị bắn cháy, hỏng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược đầu tiên của địch có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta đã đánh thắng “chiến tranh cực bộ” của Mỹ ngay từ hiệp đầu.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Song song với những đòn tiến công quân sự, trên mặt trận chống phá bình định, cũng thu được những thắng lợi lớn. Tính đến tháng 6 năm 1966, ở Nam Bộ, nhân dân ta đã phá được 2.668 ấp chiến lược; ở cực Nam Trung Bộ phá được 238 trong tổng số 560 ấp chiến lược của địch, ở Khu 5 và Bình Trị Thiên, vùng giải phóng được củng cố, nhiều căn cứ du kích hình thành thế liên hoàn, trên 2 triệu dân giành quyền làm chủ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Thắng lợi Xuân Hè 1966 có ý nghĩa rất to lớn cả về chính trị và quân sự, đặc biệt là về quân sự. Đường lối quân sự chiến lược chiến thuật của ta đã thắng chiến lược, chiến thuật “chiến tranh cục bộ” của Mỹ; chiến tranh nhân dân đã tỏ rõ sức mạnh vô địch và có khả năng đánh bại chiến tranh cục bộ của địch. </span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">THÀNH LẬP QUÂN KHU TRỊ THIÊN</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">VÀ MỞ MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 9, BẮC QUẢNG TRỊ</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐỂ PHÂN TÁN LỰC LƯỢNG MỸ</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tháng 4-1966, sau thắng lợi mùa xuân 1966, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên; Khu ủy Trị Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Đây là một quyết định có ý nghĩa chiến lược quan trọng với ý đồ tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi, cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi lớn về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị Thiên phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống (kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền tiến ra Trung Hạ Lào)1.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đến tháng 6-1966, Quân ủy lại quyết định mở Mặt trận Đường số 9 Bắc Quảng Trị. Mặt trận này được mở ra buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng để đối chọi với chủ lực mạnh của miền Bắc, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoạt động, trước tiên là đồng bằng Trị Thiên, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh mặt đất ra miền Bắc, trước hết là Quân khu 4.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Việc mở Mặt trận đường 9 Bắc Quảng Trị đã gây cho địch một bất ngờ và chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến lược. Chúng phải điều 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, lẽ ra được dùng để tìm diệt “bình định” ở đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung, lên rừng núi Trị Thiên. Địch không thể tập trung lực lượng để tiến công ta ở Nam Bộ và buộc phải phân tán để phòng ngự và đối phó với lực lượng chủ lực của miền Bắc. Sau khi Mặt trận đường số 9, Trị Thiên được mở ra, địch liên tiếp bị tiến công. Ta đã đánh bại cuộc càn quét lớn của địch, mang tên HAT LINH vào Cam Lộ và cuộc hành quân Pô-re-ri vào Tây Do Linh. Trên 8.000 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 3.000 tên Mỹ). Ta giải phóng hàng trăm thôn ấp, với 40 vạn dân, uy hiếp vùng đồng bằng Thừa Thiên và Quảng Trị.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trong khi địch bị đảo lộn về thế chiến lược, bị động đối phó với ta ở Trị Thiên, thì ta chủ động tiến công địch trong suốt mùa mưa ở các chiến trường, Mỹ Lộc, Đức Vinh, Chư Pông... gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.</span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG LẦN THỨ 2</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">MÙA KHÔ 1966 - 1967</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Để cứu vãn tình hình ngày càng xấu đi, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ném bom, bắn phá Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do…”. Lời kêu gọi của Người được coi như lời thề dân tộc, thể hiện ý chí sắt đá của toàn dân Việt Nam kiên quyết dốc toàn lực, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà, vì độc lập tự do của Tổ quốc.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuối tháng 10-1966, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng họp, phân tích tình hình và nhận định: năm 1967 sắp đến sẽ có tầm quan trọng lớn đối với cả ta và địch; địch sẽ cố gắng cao nhất để giành thắng lợi, tạo uy tín cho Giôn-xơn chuẩn bị bước vào cuộc tranh cử tổng thống; ta cũng phải nỗ lực vượt bậc, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch chắc chắn sắp nổ ra, tạo thời cơ, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Bộ Chính trị yêu cầu phải đánh thiệt hại nặng, cả Mỹ lẫn ngụy làm cho Mỹ không đóng được vai trò cơ động chiến lược và làm cho ngụy không làm nổi chức năng “bình định”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau đó, tháng 11-1966 Bộ Chính trị và Quân ủy đã đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược, trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm rút ra từ nhiều chiến trường. Những quan điểm tư tưởng và nội dung chủ yếu của 6 phương thức tác chiến chiến lược:</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">1. Mở các chiến dịch vừa và lớn dưới hình thức tiến công hoặc phản công tiêu diệt lớn quân địch (cả Mỹ và ngụy).</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích lên trình độ cao, tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định của chúng, uy hiếp các đô thị.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">3. Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, bến cảng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">4. Triệt phá các đường giao thông thủy, bộ quan trọng của địch, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">5. Đẩy mạnh hoạt động ở đô thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">6. Tác chiến kết hợp với binh vận, làm tan rã, ly khai, gây binh biến trong hàng ngũ địch.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Có thể nói, 6 phương thức tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy đề ra có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thể hiện rõ tư tưởng quân sự, quan điểm chiến lược tiến công, tinh thần tích cực, chủ động, kiên quyết và liên tục tiến công tiêu diệt địch, giữ vững và mở rộng thế làm chủ. Các phương thức đó luôn được phối hợp trong quy mô chiến lược trên toàn miền và từng chiến trường, trong từng chiến dịch, nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra. Nó là cơ sở cho những thắng lợi to lớn sau này.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">____________________________________</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">1. Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ của chiến trường Trị Thiên tháng 4-1966. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau thất bại của đợt phản công lần thứ nhất năm 1966 và thất bại liên tiếp trong mùa hè 1966, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng thêm quân viễn chinh, chuẩn bị tích cực và nuôi hy vọng sẽ giành thắng lợi trên chiến trường bằng đợt phản công chiến lược lần thứ 2, trong mùa khô 1966-1967. Lực lương tham gia đợt phản công chiến lược lần thứ 2 lớn hơn lần 1 nhiều, gồm 983 ngàn quân (có 389 ngàn tên Mỹ và 52 ngàn tên ngụy và chư hầu), gồm 19 sư đoàn, 9 trung đoàn và 20 tiểu đoàn (có 6 sư đoàn và 3 trung đoàn Mỹ, 2 sư đoàn chư hầu); sử dụng 3.702 máy bay, 2.676 xe tăng, thiết giáp, 1.805 pháo.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch bắt đầu bằng cuộc hành quân lớn, mang tên At-ten-bô-rô. Mỹ sử dụng 22.000 quân đánh chiếm khu Dương Minh Châu, nhằm mục đích “tìm diệt” lực lượng chủ lực của ta và tiến hành “bình định”. Cuộc hành quân này được bắt đầu từ đầu tháng 11-1966 đến 14-11-1966. Cuộc hành quân lớn thứ hai mang tên Xê-đa-phôn, đánh vào khu tam giác Trảng Bàng-Bến Súc-Củ Chi từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967, với kết quả như nêu trong báo cáo của Oét-mo-len, Mỹ đã thu được nhiều lương thực, phá được nhiều địa đạo, diệt được 730 địch, bắt sống được 213 Cộng quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc hành quân thứ ba, lớn nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti đánh chiếm khu Dương Minh Châu từ 22-2-1967 đến 19-4-1967, huy động 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy, gồm 26 tiểu đoàn nhằm diệt cơ quan đầu não của ta, diệt chủ lực, phá kho tàng dự trữ, lấn chiếm, chia cắt căn cứ của ta, phong tỏa biên giới.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cả 3 cuộc hành quân lớn và nhiều cuộc hành quân liên tiếp khác đều bị ta lần lượt bẻ gẫy, kể cả cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti lớn nhất cũng sa vào thế trận của ta đã được chuẩn bị tốt đánh bại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong báo cáo của Oét-mo-len có nói, trong cuộc hành quân này Mỹ đã tiêu diệt được 2.738 địch, mà không nói lên sự thất bại về mục đích của cuộc hành quân, về số quân và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy bị ta diệt và phá hủy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Càng tiến sâu vào vùng căn cứ kháng chiến, địch càng sa vào thế bị động, phải đối phó cả trước mặt, bên sườn và phía sau, vừa đối phó với đòn tiến công của chủ lực ta, vừa bị dân quân du kích liên tục tiêu hao, tổn thất của địch ngày càng lớn. Riêng cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti địch bị loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 tên, phần lớn là Mỹ, 160 máy bay bị bắn rơi và phá huỷ, 992 xe quân sự trong đó phần lớn là xe tăng, xe bọc thép, 112 pháo cối bị phá hủy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cùng với việc bẻ gẫy ba cuộc hành quân lớn, chúng ta còn liên tiếp tiến công tiêu diệt các hậu cứ, sở chỉ huy, cơ quan đầu não của địch, như đánh vào khu vực Long Bình, bắn pháo vào cuộc diễu binh nhân ngày quốc khánh của ngụy (1-11-1967) giữa Sài Gòn, tiến công căn căn cứ, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, tập kích các sân bay Tân Sơn Nhất, Plây Cu, Đà Nẵng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ở Trị Thiên ta tập kích hỏa lực vào hệ thống căn cứ Mỹ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Kết quả trong năm 1967, chúng ta giành thắng lợi lớn, trên 100 ngàn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 67 ngàn quân Mỹ) phá hủy hàng ngàn máy bay, bắn chìm và cháy 42 tàu, xuồng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cả 2 mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” đề ra cho cuộc phản công chiến lược lần 2 đều không đạt. Thất bại của Mỹ - ngụy trong Đông Xuân 1966-1967 là một thất bại toàn diện cả quân sự và chính trị.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thắng lợi của ta trong năm 1967 có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nó không chỉ nói lên sự đúng đắn về đường lối cách mạng, đường lối quân sự, quyết tâm và ý chí của quân và dân ta, mà còn chứng tỏ khả năng to lớn của quân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng chống đế quốc mạnh nhất của thế kỷ XX mà không một nước nào không kiêng nể.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thắng lợi năm 1967 mở ra triển vọng to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Song song với thất bại về quân sự, chính trị, cả trên lĩnh vực ngoại giao, đế quốc Mỹ cũng bị thất bại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tòa án Giê-béc-tờ-răng-rút-xen đã họp 2 phiên, tại thủ đô Thụy Điển và thủ đô Đan Mạch để xét xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và kết luận: “Chính phủ Mỹ là kẻ phạm tội ác xâm lược Việt Nam; các chính phủ Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên là đồng lõa”. Về phá ta, đến cuối năm 1967, đã có 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức khu vực, ủng hộ cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Những thất bại về quân sự, chính trị, ngoại giao của Mỹ ảnh hưởng rất xấu đến tình hình nội bộ của nước Mỹ. Làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ, các cuộc biểu tình, bãi công, đốt thẻ quân dịch, từ chối nhập ngũ, sẵn sàng ngồi tù bỏ trốn sang Ca-na-đa ngày càng nhiều.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Do số quân Mỹ thương vong cao, nên từ mùa hè 1967, chính quyền Giôn-xơn phải động viên quân trù bị và nâng mức tuyển lính hàng tháng, để bù đắp tổn thất và thay phiên quân ở Việt Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nội bộ chính quyền Mỹ phân hóa ra làm 3 phái: phái hiếu chiến, đề nghị tăng quân và tiến hành chiến tranh tổng lực; phái dao động hoài nghi, đề nghị ngừng ném bom, thay chính sách và thương lượng, phái lừng chừng lưỡng lự. Giôn-xơn bối rối buộc Mác-na-ma-ra, bộ trưởng quốc phòng từ chức, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục đưa thêm quân viễn chinh và phương tiện chiến đấu vào miền Nam, nâng tổng số quân viễn chinh ở Việt Nam lên 48 vạn tên vào cuối 1967 và cùng với quân chư hầu và quân ngụy thành một đội quân đông xấp xỉ 1,1 triệu tên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mỹ đã huy động tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ tiến hành đã phát triển đến đỉnh cao, vượt xa dự kiến lúc ban đầu. </span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">TỔNG CÔNG KÍCH VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA XUÂN 1968</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Sau khi đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, lợi dụng thời cơ kẻ địch đang lúng túng bị động về chiến lược, ta liên tiếp mở nhiều đợt hoạt động tiến công địch trên các chiến trường, không để cho chúng có thời gian củng cố, chuẩn bị cho đợt phản công chiến lược thứ 3.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở Nam Bộ, ta tiến công địch ở Phước Long, Lộc Ninh, đẩy mạnh đánh phá cắt giao thông, tiêu diệt địch ở Mỹ Tho, Long An, Cần Thơ, Rạch Giá, Châu Đốc.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tháng 11-1967, ta mở chiến dịch Đắc Tô (Tây Nguyên). Ở chiến trường Trị Thiên, ta tập kích vào các căn cứ địch.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Một đạo quân đông 1,1 triệu tên với trang bị hiện đại mà buộc phải ở vào thế phân tán trên khắp các chiến trường.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Quân Mỹ, sau gần 3 năm trực tiếp tham chiến, với một đội quân lớn gồm các quân chủng Mỹ, song song với việc đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân, hải quân, đã mở hàng trăm cuộc hành quân tìm diệt, càn quét, bình định mà vẫn không tìm thấy lối thoát khỏi đường hầm.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cả 2 mục tiêu chiến lược tìm diệt chủ lực đối phương, bình định, đều không có một kết quả nào cụ thể để chứng minh sức mạnh Hoa Kỳ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Mỹ đã sa vào một thế trận chiến tranh nhân dân mà chính Oét-mo-len đã phải thốt lên, trong báo cáo của mình, là khác với một cuộc chiến tranh thông thường, không thể chỉ ghi lại một cách đơn giản phát triển từ chiến tuyến này đến chiến tuyến khác cho đến khi tiến đến mục tiêu cuối cùng, không đơn thuần là một cuộc chiến tranh quân sự.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trước tình hình Mỹ đã đưa lực lượng trực tiếp tham chiến đến đỉnh cao và với sự đánh giá chủ quan của tổng tư lệnh quân đội Mỹ Oét-mo-len, một bất ngờ to lớn đã xảy ra với ông ta, như ông đã viết: “mặc dù vào giữa tháng 1-1968, chúng tôi chắc địch sẽ tiến công lớn vào dịp tết, nhưng chúng tôi không đoán được có một cuộc tiến công quy mô toàn miền Nam”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trên cơ sở thế trận đã hình thành, phát huy những thuận lợi về quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới, tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã họp và ra nghị quyết quan trọng. Bộ Chính trị đã đánh giá tình hình: “chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Rõ ràng, so với mục đích chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới đỉnh cao...” Bộ Chính trị đã quyết định “chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Bộ Chính trị đã kết luận: “Điểm cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy và giành thắng lợi quyết định”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Bộ Chính trị đề ra: “nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả 2 miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm mục tiêu chiến lược là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ không thực hiện được nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng, trên cơ sở đó đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút quân viễn chinh về nước. Trước mắt, ta phải giành được mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam, và tiến tới thống nhất đất nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tuy nhiên, trong điều kiện địch còn hơn 1 triệu quân, tiềm lực chiến tranh lớn, có một bộ máy chính quyền phản động từ Trung ương đến địa phương, do đó, việc tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn ác liệt. Bộ Chính trị dự kiến, có 3 khả năng:</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Một là tổng công kích, tổng khởi nghĩa thành công, ta giành được thắng lợi lớn, địch bị thua, phải thương lượng với ta, dần dần kết thúc chiến tranh theo điều kiện ta đặt ra.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Hai là, ta giành thắng lợi có mức độ, địch vẫn còn giữ được những vị trí quan trọng, nhất là các đô thị lớn, liên tiếp chống lại ta.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ba là, Mỹ tăng thêm lực lượng mở rộng chiến tranh ra cả phần lãnh thổ miền Bắc, Lào, Cam-pu-chia, hòng xoay chuyển cục diện chiến trường, gỡ thế thất bại, khả năng này có ít, nhưng phải đề phòng. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Một vấn đề quan trọng mà Bộ Chính trị vạch ra là: tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình ta tiến công và nổi dậy liên tục để đè bẹp sức kháng cự của địch, đồng thời cũng là quá trình địch phản công ác liệt để giành lại vị trí đã mất.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh xây dựng phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Nội dung chính của phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đề ra là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở chiến trường chính là đường số 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt, thu hút ghìm chân lực lượng chiến lược của Mỹ, mỗi đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã, quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở nông thôn và đô thị mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đế quốc Mỹ đang ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục đích chính trị, kinh tế xã hội của nước Mỹ, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam hiện nay đã lên đến đỉnh cao nhất... Tình hình trên đây cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa... giáng cho chúng những đòn tiến công sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh...”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Để phân tán lực lượng định và hỗ trợ cho nhau, Đảng ta và Đảng nhân dân cách mạng Lào thống nhất chủ trương mở chiến dịch Nậm Bạc. Từ 12-1 đến 27-1-1968 ta tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 11 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 3000 tên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thực hiện chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trong lúc ta và bạn đang mở chiến dịch Nậm Bạc thì ngày 21-1-1968, chủ lực ta bất ngờ nổ súng tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 của địch, trọng điểm là Khe Sanh, Hương Hóa, tiêu diệt quận lỵ Hương Hóa và làng Vây, uy hiếp Tà Cơn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đòn tiến công này đã làm cho bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn bất ngờ, lúng túng. Chúng vội vàng điều ngay ra Trị Thiên sư đoàn 1 kỵ binh bay và 2 lữ đoàn dù, thuộc sư đoàn 101 vừa từ Mỹ sang.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cùng thời gian này, các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên đẩy mạnh hoạt động, thu hút, phân tán lực lượng địch, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong lúc địch đang lúng túng, bị động, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 tức là đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân dân miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, đánh vào 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tại Sài Gòn, từ đêm 30- 1 - 1 968, ta phối hợp lực lượng trong và ngoài thành phố tiến công Tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh hải quân v.v... Lực lượng tự vệ và nhân dân ta đã tiến công các cơ quan ngụy quyền.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tại Huế, ta tiến công và làm chủ phần lớn thành phố, cắm cờ mặt trận lên cột cờ thành Huế. Trên 30 thành phố, thị xã đồng loạt bị tiến công. Trong vài ngày đầu năm hầu hết các thị trấn, thị xã ở miền Nam đều có tiến công và nổi dậy của quân dân ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Địch bị một đòn bất ngờ, choáng váng trước quy mô tiến công và nổi dậy của ta. Nhiều tuyến giao thông bị cắt đứt, tê liệt. Khí thế cách mạng dâng cao. Nhân dân nô nức, hết lòng giúp lực lượng vũ trang, tiếp tế, cứu chữa thương binh, tiêu diệt ác ôn...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Địch phải điệu đồng quân dù, lính thủy đánh bộ, máy bay, xe tăng, cảnh sát dã chiến để phản kích. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong những khu phố, căn nhà kéo dài cả tháng 1 và tháng 2.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Kết thúc đợt 1 cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 ngàn tên địch (có 43 ngàn tên Mỹ) gần 20 vạn ngụy quân đào, rã ngũ, một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh bị phá huỷ (2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn ô tô, trên 1 triệu tấn vật tư chiến tranh).</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quần chúng ở nhiều vùng nông thôn nổi dậy giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng. Hơn 1,2 triệu dân được giải phóng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thắng lợi quan trọng của đòn tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tập đoàn cầm quyền ở Mỹ bị phân hóa và dao động cao độ. Ngày 22 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn ra lệnh cách chức tướng Oét-mo-len, từ bỏ chiến lược “tìm diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 31-3 Giôn-xơn ra lệnh ngừng nén bom miền Bắc, từ vĩ tuyến 20 trở lên, đồng thời thông cáo quyết định không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2, và cứ đại diện đàm phán với đại diện chính phủ ta tại Pa-ri.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuối tháng 4-1968, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và kết quả đợt hoạt động Tết Mậu Thân và ra nghị quyết, tiếp tục mở đợt tổng tiến công đợt 2 (bắt đấu từ 4-5-1968).</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đến tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp và quyết định đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện quân sự, chính trị, bằng 3 mũi giáp công, nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết định, làm cho địch thất bại ở chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đợt tổng tiến công thứ 3 bắt đầu tù 17-8 đến 30-9-1968.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mặc dù đã co cụm về phòng giữ hết sức cẩn mật các thành phố, thị xã, các đường giao thông chiến lược quan trọng và tổ chức nhiều cuộc hành quân giải tỏa các vùng, quân địch vẫn bị ta tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và chi khu, các căn cứ, kho tàng, sân bay...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đường 9 và Khe Sanh là một trong những mục tiêu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mà theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, địch đã tập trung một lực lượng lớn để phòng giữ bằng bất cứ giá nào, không để xảy ra một “Điện Biên Phủ” thứ 2 ở đây.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong quá trình bị bao vây, địch đã sử dụng hàng chục tiểu đoàn pháo để chi viện, đã sử dụng 100 nghìn tấn bom của máy bay B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, tiếp tế đường không khoảng 15 ngàn tấn hàng, dùng 9.100 lượt máy bay lên thẳng để chuyên chở quân và thương binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến dịch Khe Sanh đã thu hút và giam chân một lực lượng quan trọng của Mỹ. tạo điều kiện cho các hướng khác tổng tiến công và nổi dậy từ Tết Mậu Thân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước sức ép nặng nề về quân sự, để tránh một Điện Biên Phủ, ngày 26-6-1968 quân Mỹ đã rút chạy khỏi Khe Sanh. Sau 170 ngày vây hãm và đánh địch rút chạy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và bị thương 4.800 máy bay, phá hủy 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối, thu hàng ngàn tấn vũ khí và đạn dược, giải phóng hoàn toàn quận Hương Hóa, với hơn 1 vạn dân. Một tuyến phòng thủ chiến lược quan trọng, kéo dài gần 40 km, trên đường 9, từ Lao Bảo đến Ca Lu bị bỏ ngỏ. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Kết thúc năm 1968, miền Nam giành thắng lợi lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 630 ngàn tên (có 230 ngàn tên Mỹ và chư hầu), bắn rơi và phá hủy 600 máy bay các loại, diệt 13.500 xe quân sự các loại, san bằng, bức rút 1500 đồn bốt, giành chính quyền cách mạng ở 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mặc dù đế quốc Mỹ đã đưa số quân viễn chinh lên đến gần 53 vạn tên cuối năm 1968, nhưng vẫn không xoay chuyển nổi tình hình chung trên chiến trường. Việc đánh phá và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc không thu được kết quả đáng kể, nội bộ tập đoàn cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ lên cao, vấn đề Việt Nam đã trở thành hàng đầu trong cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm 1968 của Đảng dân chủ đang cầm quyền ở Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước tình hình đó, ngày 1-11-1968, chính quyền Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân, hải quân và pháo binh, chấp nhận họp hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Pa-ri, có đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng, để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam.</span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐÁNH GIÁ THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">TRONG GIAI ĐOẠN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1968)</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ 1965 đến 1968, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc vô cùng khốc liệt, hòng khuất phục nhân dân ta.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Bằng cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, nhân dân ta đã từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của chúng trên cả 2 miền, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chịu ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pa-ri và tìm cách rút dần ra khỏi Việt Nam.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sức mạnh khổng lồ của đế quốc Mỹ, cả về kinh tế và quân sự đã không thắng nổi cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, không cứu được chúng khỏi thất bại thảm hại ở Việt Nam.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước tiên, nó chứng minh cho nhân dân thế giới thấy rõ sức mạnh và khả năng to lớn của cách mạng và của chiến tranh cách mạng có thể thắng được các thế lực đế quốc xâm lược hao người tốn của ghê gớm như cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, chúng ta đã tạo được thế và lực mới để tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong những năm tiếp theo và giành thắng lợi cuối cùng trong năm 1975.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Thắng lợi của nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc, đánh bại chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đã tạo cơ sở quan trọng và vững chắc cho việc hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Không đánh thắng “chiến tranh cục bộ” trong những năm 1965 và 1968, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thì không có điều kiện và tiền đề để giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc kháng chiến.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ những thắng lợi chiến lược đã giành được và cả những khuyết điểm, hạn chế trong chỉ đạo chiến lược, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến tranh.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trước nhất là phải có tinh thần dám đánh và quyết đánh Mỹ, từ đó sẽ dần tìm ra cách đánh tốt nhất để thắng chúng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân ở miền Bắc, không phải không có những bạn bè lo lắng cho chúng ta, liệu chúng ta có đủ sức đương đầu nổi với tên đế quốc đầu sỏ không? lấy gì để chống Mỹ?</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước đã được thử thách và tôi luyện, sẵn sàng chấp nhận, bước vào cuộc đọ sức mới. Đế quốc Mỹ đã gặp phải một đối tượng là dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn giữ vững lời thề “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, chúng đã khơi dậy sức mạnh yêu nước tiềm tàng của dân tộc và càng làm cho dân tộc Việt Nam đoàn kết lại.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 Người chỉ rõ “Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằngchúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do...”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam tháng 3-1965, đến 27-5-1965 bộ đội Quân khu 5 đã tiến công tiêu diệt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Núi Thành. Tiếp theo là trận Vạn Tường, giữa ban ngày, 1 trung đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích xã đánh bại cuộc hành quân tìm diệt của hơn 8.000 quân Mỹ, có máy bay, xe tăng, hải quân chi viện.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Những trận thắng Mỹ đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó vạch ra một đáp án để đánh thắng Mỹ, đó là phải dám đánh Mỹ. Và khi đã dám đánh Mỹ thì sẽ dần tìm ra cách đánh hay nhất, tốt nhất để đánh thắng chúng. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau Núi Thành, Vạn Tường, tiến đến Plây-me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Đồng Dương, khách sạn Mê-tơ-rơ-pôn, chúng ta đã thắng Mỹ liên tiếp, trận sau lớn hơn trận trước và tiếp theo là bẻ gãy 2 đợt phản công chiến lược của địch trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 để đến Xuân 1968, bằng các đợt tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta đánh thắng chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và quyết định rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ hai đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Khi đế quốc Mỹ đưa 20 vạn quân vào trực tiếp chiến đấu, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam thì hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 12-1965) đã xem xét, đánh giá và rút ra kết luận vô cùng quan trọng:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Rút ra kết luận trên đây là xuất phát từ các căn cứ:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua để cứu cho ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, nên bị động về chiến lược trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Vừa leo thang chiến tranh từng bước, vừa phải thăm dò dư luận trên thế giới và trong nước Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân vào trong hoàn cảnh cách mạng miền Nam đang trưởng thành, đang phát triển, đã đủ sức đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, có khả năng tiêu diệt chế độ ngụy quyền ở miền Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Về lực lượng quân sự, đã hình thành thế trận chiến tranh nhân dân với 3 thứ quân, đứng vững trên tất cả các địa bàn quan trọng cả 3 vùng, đã xây dựng được thế trận xen kẽ, có lực lượng cắm sâu tận sào huyệt địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Địch vào tuy đông, nhưng không thể điều động lực lượng theo ý muốn ban đầu. Do phải đối phó với thế trận chiến tranh nhân dân không chiến tuyến phát triển nên chỗ nào cũng thấy hở, địch phải dàn mỏng lực lượng và dốc toàn lực để tiến công chiến lược, tiến từ tuyến này đến tuyến khác.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Việc hội nghị Trung ương lần thứ 14 đánh giá so sánh tương quan lực lượng địch, ta đúng đắn, chính xác và rất khoa học, có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, vì nó là cơ sở để định hướng cho quyết tâm chiến lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ ba: quyết tâm giữ vững và phát triển chiến lược tiền công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ đánh giá so sánh tương quan lực lượng, mặc dù để quốc Mỹ đưa vào hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh tương quan thế, lực ta và địch vẫn không thay đổi lớn, ta đã hạ quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công mà không quay về phòng ngự chiến lược, là một chủ trương sáng suốt, dũng cảm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhờ tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công, nên ta đã đẩy quân địch vào thế bị động chiến lược. Đặc biệt việc lập quân khu Trị Thiên và mở mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị để đẩy địch vào thế lúng túng, bị động đối phó, giam chân một lực lượng chủ lực lớn của Mỹ vào chiến trường rừng núi, trực tiếp đương đầu với chủ lực miền Bắc của ta, tạo điều kiện cho các chiến trường khác giành quyền chủ động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên cả 3 vùng, ta đều căng địch ra mà đánh, nơi nào chúng cũng bị đánh, bị tiêu hao, tiêu diệt bằng những trận tập kích, phục kích, vận động, tiến công bất ngờ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Khi địch mở các cuộc phản công chiến lược hy vọng giành lại thế chủ động thì đã bị ta đánh bại. Chiến thắng đợt phản công chiến lược lần 1 của địch, tạo điều kiện, tiền đề để tập tan đợt phản công chiến lược lần 2, giành thắng lợi lớn hơn, đặc biệt việc đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti có ý nghĩa quan trọng cả về chiến lược và chiến thuật.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược, không để cho địch có thời gian củng cố, ta tiếp tục phát triển tiến công địch trên tất cả các chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch Đắc Tô, tập kích một loạt căn cứ của địch ở Trị - Thiên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Địch đã bị động càng thêm bị động, vội vã điều quân về giữ các khu trọng điểm then chốt ở Trị Thiên, Tây Nguyên và quanh Sài Gòn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Một đạo quân 1,1 triệu tên phải sa vào thế phân tán, bị động để đối phó với thế tiến công rộng khắp của chiến tranh nhân dân ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Toàn bộ âm mưu chiến lược “tìm diệt” và “bình định” đều bị thất bại - thất bại cả quân sự và chính trị, ngoại giao.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định phát triển chiến lược tiến công lên một đỉnh cao mới; tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đưa cuộc chiến tranh cách mạng sang thời cơ mới. Và cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968 lại giáng thêm một đòn chí tử vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của chúng, làm đảo lộn thế chiến lược của địch, buộc chúng từ bỏ chiến lược “tìm diệt” quay sang chiến lược “quét và giữ”, xuống thang chiến tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ tư: nghệ thuật chọn hướng tổng tiến công bất ngờ Xuân 1968.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong khi địch có trên 1,1 triệu quân, trang bị hiện đại, bố trí thành 1 hệ thống phòng thủ chiến lược với nhiều căn cứ, nhiều tập đoàn phòng ngự ở khắp nơi, ta đã phát hiện đúng nơi hiểm yếu và sơ hở của địch. Đó là các đô thị, thành phố, các sở chỉ huy, căn cứ hậu cần, sân bay của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phát hiện chính xác nơi sơ hở và hiểm yếu về chiến lược của địch, tập trung cao nhất mọi nỗ lực cố gắng của ta, tiến hành tổng công kích và nổi dậy một cách mạnh mẽ, bất ngờ, đồng loạt giáng cho địch một đòn hiểm hóc, giành thắng lợi chiến lược to lớn. Thắng lợi trong cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân là một thành công to lớn về vận dụng, quán triệt chiến lược tiến công, trong điều kiện lực lượng địch mạnh hơn ta nhằm đánh bại ý chí xâm lược của chúng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ năm: nghệ thuật tổ chức thực tiễn tài giỏi của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bác Hồ thường dạy: quyết tâm 10, biện pháp 20. Nghĩa là muốn biến quyết tâm thành thắng lợi hiện thực, đòi hỏi phải có công tác tổ chức thực tiễn tài giỏi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong hoàn cảnh địch tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, gây cho ta muôn vàn khó khăn tưởng chừng như không vượt nổi, nhưng với sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, chúng ta đã khắc phục hết khó khăn này đến khó khăn khác, để giành thắng lợi từng bước, từ thấp đến cao cho đến đợt tổng tiến công Mậu Thân, là một quá trình nỗ lực phấn đấu hy sinh vô bờ bến của nhân dân cả hai miền và đặc biệt của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Miền Bắc vừa phải đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, vừa phải tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn ngày càng phát triển và không ngừng được củng cố chi viện chiến lược theo đường biển cũng được tổ chức thực hiện.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ở miền Nam, việc phát triển và củng cố 3 thứ quân cả vế số lượng và chất lượng, nhất là quân chủ lực, bộ đội đặc công và pháo binh được phát triển và củng cố nhanh chóng đã bảo đảm sức mạnh tổng hợp của 3 thứ quân được nâng lên rõ rệt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Việc tổ chức mạng lưới tình báo chiến lược, chiến thuật thành công vững chắc đã góp phần quan trọng cho việc chỉ huy lãnh đạo, hạ quyết tâm có cơ sở chắc chắn đánh bại được các cuộc phản công chiến lược của địch và tổ chức thắng lợi các đợt tiến công của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ sáu: có một chiến lược tổng hợp để phát huy sức mạnh của dân tộc, của cả nước và sức mạnh của thời đại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phải phát huy được sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao của chiến tranh cách mạng, toàn dân, toàn diện.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến lược tổng hợp trong giai đoạn đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ từ 1965 đến 1968, khi Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, không những đã phát huy được sức mạnh của dân tộc ta, của lòng yêu nước, chống đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc và yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, làm chủ của nhân dân lao động, mà còn phát huy sức mạnh của thế giới tiến bộ, của ba dòng thác cách mạng. Tác động của nó vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động quân sự, ngoài không gian của chiến trường Việt Nam, đi vào toàn thế giới, trong đó có cả nước Mỹ và các nước chư hầu, có quân đội trực tiếp tham chiến ở Việt Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến lược tổng hợp của Đảng ta, đã xác định mục tiêu phù hợp và đề ra phương hướng, phương châm, nguyên tắc cơ bản để xây dựng tổ chức lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, và có phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chính xác, khoa học.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đề ra mục tiêu chiến lược được Bác Hồ khái quát ngắn gọn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Mục tiêu này xác định mức độ, yêu cầu đạt được với từng kẻ thù mà đặc biệt là cần có với kẻ thù chủ yếu, là đội quân viễn chinh của Mỹ và chư hầu, Đảng ta không đặt yêu cầu quá cao là diệt hết quân Mỹ đang tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam, mà phải đánh làm sao cho Mỹ cút.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đứng về chiến lược trong chiến tranh, muốn buộc quân Mỹ phải cút, qua kinh nghiệm chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam, thì quan trọng nhất là phải làm cho chúng một ý chí xâm lược, trên cơ sở các biện pháp chiến lược của chúng bị thất bại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Còn quân đông mà phải rút khỏi nước ta, đó là kinh nghiệm của Việt Nam chống xâm lược có tính chất truyền thống dân tộc chống kẻ thù mạnh hơn. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trải qua lịch sử chiến tranh Việt Nam, quân Tống đã phải rút chạy sau thất bại trước phòng tuyến sông Như Nguyệt; quân Mông Nguyên 3 lần bị tiêu diệt trong quá trình xâm lược, phải rút chạy về nước. Quân Pháp đã phải rút khỏi Điện Biên Phủ 1954. Đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ và mạnh nhất phe đế quốc tư bản, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh, có quyết tâm chống cộng sản, hết sức ngoan cố, sẵn sàng đi bất cứ đâu để bảo vệ chế độ tự do tư sản, như tổng thống Ken-nơ-đi đã từng tuyên bố, khi can thiệp vào Việt Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đánh cho Mỹ mất ý chí xâm lược, phải xuống thang chiến tranh và rút quân viễn chinh trên 50 vạn tên khỏi nước ta, không phải dễ dàng có thể xác định được ngay, khi Giôn-xơn tuyên bố đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến vào năm 1965.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận từ bỏ chiến lược “chiến tranh cục bộ”, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến với lực lượng cao nhất, là một nghệ thuật. Ngay tướng Oét~mo-len, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam cũng phải nhận rằng Mỹ đã thua và ta đã giành được thắng lợi tâm lý ở Mỹ, ảnh hưởng đến tổng thống Giôn-xơn và các cố vấn dân sự của ông ta, buộc Giôn-xơn phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 2 và cách chức Oét-mo-len.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mất ý chí đem quân trực tiếp tham chiến, thất bại trong “chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải quyết định “phi Mỹ hóa chiến tranh” để đến năm 1975, toàn bộ chính quyền ngụy với trên 1 triệu quân đổ nhào, chỉ là một diễn biến tất yếu của sự thất bại của chiến tranh cục bộ năm 1968.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mỹ phải cút, mất ý chí xâm lược, phải chịu xuống thang vì các biện pháp chiến lược tìm diệt và bình định của Mỹ đều thất bại trên 2 năm tham chiến trực tiếp. Mỹ đã không thắng nổi chiến tranh toàn dân của Việt Nam, Mỹ đã phải chấp nhận những trận chiến đấu theo ý đồ của đối phương, trong khi họ định đi tìm đối phương để diệt. Quân Mỹ trên chiến trường đã không phát huy được sở trường, sức mạnh của hỏa lực phi pháo, sức đột kích của xe tăng thiết giáp. Trái lại, cái sở đoản của đội quân cơ giới hợp đồng binh chủng khi bị đánh bất ngờ, mặt đối mặt với bộ binh tinh nhuệ của đối phương đã lúng túng giống như quân kỵ binh Mông Cổ giáp dầy giáo dài bị tập kích ban đêm, quân không kịp lên ngựa, bị các chiến binh ta dùng đoản binh chém giết, không chống đỡ nổi. Các chiến dịch tiến công, phản công vận động với các trận phục kích, tập kích, vận động tiến công đưa địch vào thế trận đã chuẩn bị của ta, buộc địch đánh trong thế bị động. Lấy phát huy tinh thần và cách đánh bám thắt lưng địch mà đánh, đã làm cho quân đội chính quy hiện đại của Mỹ khó trở tay kịp và cũng không biết cách đối phó ra sao. Đúng như Mo-sơ-đai - Jăng nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Ixraen khi đi thăm quân Mỹ ở miền Nam, đã phát biểu: “Chỉ nằm mơ mới thấy lực lượng của Hoa Kỳ triển khai tác chiến ở Việt Nam, nhưng lực lượng Mỹ đi tìm diệt thì đi đến đâu đối phương cũng biết. Trái lại, Việt Cộng chỉ chấp nhận chiến đấu khi họ muốn; Mỹ như một võ sĩ hạng nặng nhưng bị bịt cả hai mặt, trái lại, Việt Cộng như võ sĩ hạng nhẹ nhưng có cả hai mắt ở sau gáy”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hai đợt phản công trong năm 1966 và trong năm 1967 đều thất bại, không tìm - diệt được đối phương mà lại còn bị thiệt hại nặng. Trên 200.000 quân (có 100.000 Mỹ và Nam Triều Tiên) bị loại khỏi vòng chiến đấu; trên 1.000 máy bay, trên 1.000 xe bọc thép bị phá hủy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Năm 1968, với đòn tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, đã làm cho địch thiệt hại lớn chưa từng có:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Trên 600.000 địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có trên 200.000 lính Mỹ, 6000 máy bay bị phá hỏng, 13.500 xe quân sự các loại bị phá hoại, 15.000 đồn bốt phải rút bỏ, trên 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân được giải phóng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Biện pháp “tìm diệt” không có kết quả cộng với sự thất bại của “bình định”, mà một đòn sét đánh vào dịp Tết Mậu Thân, 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ kho tàng, sở chỉ huy nằm sâu trong hậu phương địch đồng loạt bị tiến công, ngay đến tổng hành dinh của Mỹ, ngụy cũng đều bị đánh. Chỉ trong 1 tháng mà trên 100.000 tên địch, trong đó có trên 40.000 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 20 vạn ngụy quân rã ngũ, 2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép trên 1.200.000 dân được giải phóng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 có ý nghĩa to lớn, vì nó nổ ra sau hơn 2 năm quân Mỹ trực tiếp tham chiến và nó diễn ra ngay sau khi tổng tư lệnh Mỹ Oét-mo-len báo cáo cho tổng thống Mỹ, là chủ lực Việt Cộng đã bị đẩy ra xa gần biên giới và nông thôn, đô thị miền Nam cơ bản đã được bình định.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nó thể hiện phương hướng tác chiến chiến lược của Đảng đề ra đã có hiệu lực lớn, chiến tranh du kích đã được phát triển lên đỉnh cao, đã tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định, uy hiếp các đô thị của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên cơ sở 2 biện pháp chiến lược “tìm diệt” và “bình định” của địch bị đánh bại, chiến tranh nhân dân của ta ngày càng vững vàng, các phương thức tác chiến chiến lược được đề ra đã phát huy hiệu quả đánh địch trên toàn bộ chiến trường miền Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Các căn cứ hậu cần, sân bay, hải cảng bị đánh phá.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Các đường giao thông thủy bộ quan trọng của địch đều bị đánh, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong các đô thị, việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang phát triển.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tác chiến kết hợp với binh vận, làm địch tan vỡ, ly khai, phát huy hiệu lực cao, đặc biệt trong tổng công kích và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sáu phương thức tác chiến chiến lược là bài học kinh nghiệm quan trọng, đã trở thành những tư tưởng quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thứ bảy là theo tôi trong giai đoạn này, trong lãnh đạo chiến tranh ta cũng có khuyết điểm ảnh hưởng đến kết quả của chiến thắng, gây thiệt hại và kéo dài thời gian chiến tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Ý định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định mà Nghị quyết hội nghị Trung ương 14 đề ra, tháng 12-1967 vượt khả năng thực tế của ta lúc đó, vì kẻ địch còn hơn 1,1 triệu quân, được trang bị hiện đại, được bố trí thành hệ thống phòng thủ chặt chẽ trên khắp miền Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân mang tính chất và hình thức là một cuộc tổng tiến công chiến lược, hay tập kích chiến lược nhiều hơn là tổng tiến công, tổng khởi nghĩa. Trên thực tế, lực lượng sử dụng tổng tiến công không nhiều, sức mạnh tổng khởi nghĩa chưa thật rõ nét và đồng loạt mà mới biểu hiện ở một số nơi, còn chủ yếu là sự tham gia giúp đỡ của nhân dân trong việc đưa đường, tiếp tế nuôi giấu thương binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân giành thắng lợi to lớn và có ý nghĩa chiến lược chủ yếu và tập trung là ở đợt một.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau đợt 1, yếu tố bất ngờ đã mất, địch đã chuẩn bị đối phó quyết liệt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nếu sau đợt 1, ta rút về củng cố các khu căn cứ và vùng giải phóng, đẩy mạnh chống phá “bình định”, củng cố lực lượng, thì thắng lợi sẽ lớn hơn, ít bị tổn thất. Việc đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình, và tổ chức liên tiếp hết đợt 1, sang đợt 2 và đợt 3, là một sai lầm, đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn lớn. Thực tiễn chứng minh, với tương quan lực lượng thực tế lúc đó việc đặt ra mục đích đánh đổ ngụy quyền, cô lập và buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận chính quyền liên hiệp là không phù hợp.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Dù sao thắng lợi của tổng tiến công Tết Mậu Thân, kết thúc giai đoạn đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, đã có ý nghĩa chiến lược to lớn. Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, kết hợp chặt chẽ hai phương thức tiến hành chiến tranh, bằng sức mạnh của cả lực lượng chính trị và vũ trang, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược, nắm đúng thời cơ và tạo thời cơ, phá chiến lược, “tìm diệt” và “bình định” của đế quốc Mỹ, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của chúng, buộc chúng phải xuống thang, phải ngồi vào bàn thương lượng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thắng lợi của giai đoạn 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lên một bước mới, giành thắng lợi to lớn hơn trong cuộc chiến tranh giải phóng.</span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT CỦA CẢ NƯỚC,</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">KIÊN QUYẾT ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">(1969 - 1973)</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuối những năm 60, tương quan lực lượng trên thế giới biến đổi bất lợi cho Mỹ. Sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa được nâng lên rõ rệt, trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục nâng cao, một số nước đồng minh của Mỹ cũng bước vào cạnh tranh mạnh với Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị, kinh tế xã hội và tinh thần nước Mỹ và là một trong những nhân tố chủ yếu làm thay đổi các mối liên hệ chiến lược nói trên.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Lợi dụng thất bại của chính quyền Giôn-xơn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ních-xơn đã trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969 - 1973. Trước di sản nặng nề mà chính quyền cũ để lại, chính quyền mới ở Mỹ cho ra đời học thuyết “Ních-xơn” và chiến lược quân sự toàn cầu “ngăn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản. Học thuyết Ních-xơn vẫn nhằm chống phá xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, duy trì vị trí của Mỹ trên thế giới, nhưng bằng cách cố gắng cải thiện nội tình chính trị, kinh tế - xã hội nước Mỹ, tăng cường lợi dụng mâu thuẫn giữa một số nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh việc sử dụng các đòn bẩy ngoại giao, nhất là với các nước lớn, sử dụng tối đa các đạo quân tay sai ở các khu vực để có thể giảm bớt gánh nặng quân sự cho Mỹ và “thay đổi màu da xác chết”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đối với miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt” với vũ khí trang bị và chỉ huy của Mỹ. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bao gồm 3 giai đoạn:</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Giai đoạn 1: Làm cho ta suy yếu, nâng cao sức mạnh quân ngụy Sài Gòn, chuyển giao dần nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân ngụy, rút từng phần quân chiến đấu Mỹ về nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Giai đoạn 2: Làm cho ta suy yếu thêm 1 bước nghiêm trọng, buộc ta phải lui vào phòng thủ và hoạt động nhỏ, rút phần lớn quân Mỹ về nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Giai đoạn 3: Hoàn thành việc rút quân Mỹ, củng cố sự kiểm soát của ngụy quân, ngụy quyền ở Nam Việt Nam.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Mỹ đã ráo riết thi hành nhiều biện pháp kết hợp để thực hiện kế hoạch chiến lược này.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Chúng ra sức tăng cường ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Tới cuối năm 1971, quân ngụy đã có tới 1,04 triệu tên, được trang bị thêm nhiều máy bay, tàu chiến, xe tăng, pháo. Chúng quan tâm củng cố bọn tay sai chóp bu, chấn chỉnh chính quyền các cấp ở tỉnh, quận, gắng phục hồi kinh tế Nam Việt Nam vừa để lừa bịp, vừa để giảm gánh nặng cho Mỹ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Lợi dụng sự thiệt hại của ta qua 2 năm liên tiếp tiến công bộc lộ lực lượng chúng chủ trương tiến hành đồng thời ba loại chiến tranh: chiến tranh giành dân, chiến tranh ngăn chặn và bóp nghẹt, chiến tranh hủy diệt. Lực lượng Mỹ, ngụy kết hợp đã liên tiếp mở các cuộc hành quân phản kích, dùng B52 và các máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt để đẩy lùi các đơn vị bộ đội chủ lực của ta ra xa các vùng xung yếu. Địch tiến hành “chiến dịch bình định”, lấy các vùng ven thành phố, thị xã làm trọng điểm rồi loang rộng dần với mục đích gom dân, phá các cơ sở cách mạng và du kích.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Không dừng ở đó, địch còn đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào, giật dây bọn Lon Non tay sai, làm đảo chính lật Xi-ha-núc (3-1970), mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia. Từ tháng 4-1970 đến hết năm 1971, địch đã liên tiếp mở các chiến dịch tiến công sang Cam-pu-chia và Lào. Mục đích của Mỹ là lập một liên minh phản động khu vực, cô lập, bóp nghẹt cách mạng miền Nam Việt Nam và áp đặt sự thống trị lên cả ba nước Đông Dương.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đối với miền Bắc Việt Nam, Mỹ vi phạm điều cam kết ngừng ném bom, bắn phá và các hành động chiến tranh khác, chúng dùng máy bay trinh sát và đánh phá án liệt tuyến vận chuyển chiến lược.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cùng với hành động đẩy mạnh chiến tranh, chính quyền Ních-xơn đã tích cực xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt. Chúng cố tình dây dưa ở Hội nghị Pa-ri, lợi dụng hội nghị để tuyên truyền lừa bịp. Chúng chơi trò ngoại giao giữa “các trung tâm sức mạnh”, gây sức ép trong việc ép nhân dân Việt Nam phải nhân nhượng Mỹ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Mỹ đã có tham vọng rất lớn khi đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cùng với những biện pháp thực hiện thâm độc, xảo quyệt được tính toán kỹ lưỡng. Song ngay bản thân chiến lược này đã chứa đựng những mâu thuẫn không khắc phục được. Việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn bán đảo Đông Dương và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo, quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam (tháng4-1972 - 12-1972) không chỉ buộc Mỹ lại phải dính sâu vào cuộc chiến tranh, mà còn chứng tỏ “học thuyết Ních-xơn” áp dụng vào Việt Nam đã tỏ ra bất lực. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuối năm 1968, sau các đợt tổng tiến công đợt 2, đợt 3 của ta không dứt điểm, không đạt được mục tiêu đề ra, địch đã tập trung sức phản kích quyết liệt. Ta bị tổn thất lớn. Nửa đầu năm 1969, ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Vùng giải phóng bị thu hẹp, mất đất, mất dân. Địch đã bình định cấp tốc trên 9.200 ấp với số dân gần 16 triệu, trong tổng số 12.395 ấp với 17,5 triệu dân. Nhiều cơ sở bị vỡ, thế chiến tranh nhân dân suy giảm. Lực lượng chủ lực tuy còn đủ số lượng sư đoàn, nhưng không đủ sức thực hiện các chiến dịch tiến công quy mô vừa và lớn; một số sư đoàn chủ lực ở Khu 5 và Nam Bộ phải ra đứng chân ngoài biên giới Cam-pu-chia và Hạ Lào. Các căn cứ hậu cần, kho tàng bị địch đánh thiệt hại, khả năng bổ sung tại chỗ rất hạn chế.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong điều kiện có những khó khăn to lớn trước mắt như vậy, đầu năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi cả nước và vạch rõ phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Tháng 4-1969, Bộ Chính trị họp và nhận định rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” là một chủ trương đề ra trong thế thất bại, chứa dựng đầy những mâu thuẫn không thể khắc phục được nó rất xảo quyệt, thâm độc và tàn bạo, nhưng là sự phản ánh thế đi xuống, thế thua của Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 1-1970 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18 để xem xét nghiêm túc các khuyết điểm, điểm yếu của ta, phân tích kỹ lưỡng tình hình, lực lượng địch và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong bước chuyển biến mới của tình hình. Hội nghị nhấn mạnh phải “... tiếp tục phát triển chiến lược tấn công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và kinh tế, kết hợp tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh... Đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước”. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị nêu rõ, công tác hậu cần có tầm quan trọng chiến lược, đề ra yêu cầu phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, chủ động trước tình hình diễn biến phức tạp ở Cam-pu-chia và Lào có thể làm cho việc vận chuyển chi viện cho Nam Bộ và Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nắm vững tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Bộ Chính trị, ta đã từng bước khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, chuyển hướng đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược, kiên cường chống phá “bình định” nông thôn của địch và củng cố vùng giải phóng. Một số đơn vị chủ lực được phân công xuống các địa phương để củng cố cơ sở, phục hồi và phát triển chiến tranh du kích, xây dựng và củng cố bộ đội địa phương, dân quân du kích. Các Đảng bộ, đảng viên ở các cơ sở còn lại, quyết tâm bám trụ, vượt qua những thử thách ác liệt nhất để lãnh đạo phong trào. Ở các vùng giải phóng, bộ đội và nhân dân vừa đánh giặc vừa ra sức tăng gia sản xuất, cố gắng tự túc một phần lương thực.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Kết quả là, quá trình “bình định” của địch từng bước bị chặn đứng, đẩy lùi. Từ cuối quý ba 1969, lực lượng vũ trang của ta lại bắt đầu mở các hoạt động quân sự có hiệu quả.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 2-9-1969 Bác Hồ qua đời. Trong di chúc, Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trước tổn thất vô cùng lớn lao đó, một phong trào “biến đau thương thành hành động cách mạng” đã được phát động trong cả nước. Ở miền Nam, ta đã mở hàng loạt các cuộc tiến công vừa và nhỏ ở Phước Long, Quảng Đức, Đà Lạt, Rạch Giá, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Tây Nguyên, Thừa Thiên. Đặc biệt tháng 11-1969 lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh bại cuộc hành quân của địch ở Chư Pa và Tây Bắc Kon Tum, đồng thời phá vỡ tuyến phòng thủ Tây Nam Đắc Lắc của địch, uy hiếp Buôn Ma Thuộc. Ta còn tiến hành tập kích vào các thành phố Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Cần Thơ, Sài Gòn, gây cho địch nhiều thiệt hại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phối hợp với chiến trường miền Nam, quân và dân bạn cùng lực lượng vũ trang ta đã thu được những thắng lợi quân sự quan trọng trên các chiến trường Lào và Cam-pu-chia. Quân dân Lào, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, đã đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của địch ra Cánh Đồng Chum (9-1969 đến tháng 1-1970). Cuối tháng 4-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng thị xã A-tô-pơ (Hạ Lào), rồi thừa thắng tiến công thị xã Sa-ra-van (9-6-1970), giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Lào. Tháng 4-1970 Mỹ ngụy sử dụng tới 5 vạn quân Mỹ và 5 vạn quân ngụy tiến sang Đông Bắc Cam-pu-chia, hy vọng đập tan căn cứ đầu não và hậu cần của ta. Song cuộc hành quân lớn này của địch đã bị chặn đánh quyết liệt. Tính đến tháng 6-1970 lực lượng vũ trang ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 17 nghìn quân Mỹ ngụy, phá hỏng 15.000 xe quân sự có 750 xe tăng và xe bọc thép, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh ở Đông Bắc Cam-pu-chia, và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, hình thành một vùng giải phóng rộng lớn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy là vào nửa đầu năm 1970, một vùng căn cứ giải phóng liên hoàn đã hình thành, kéo dài từ Thượng Lào xuống Trung, Hạ Lào, nối liền với Đông Bắc Cam-pu-chia, liên kết với Tây Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước tình hình nghiêm trọng mới do Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, cũng như thế trận thuận lợi cho bước phát triển mới của cách mạng ba nước, ngày 19-6-1970 Bộ Chính trị ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ mới của chúng ta, là “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả hai miền Nam - Bắc nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương thành một khối thống nhất, có chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”. Bộ Chính trị chỉ rõ: Miền Nam là “chiến trường quan trọng nhất” trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chiến trường Cam-pu-chia là khâu yếu nhất của địch; chiến trường Lào có vị trí hiểm yếu, nhất là Trung và Hạ Lào, vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam và Cam-pu-chia; còn miền Bắc là hậu phương chung của tiền tuyến lớn miền Nam, cũng như của cách mạng Lào và Cam-pu-chia.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bước vào năm 1971, mặc dù đã thua đau trên chiến trường ba nước Đông Dương, đế quốc Mỹ vẫn không cam chịu thất bại, tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu mới. Ngày 8-2-1971 Mỹ ngụy bắt đầu mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 - Nam Lào, đưa đại bộ phận lực lượng dự bị chiến lược quân chủ lực ngụy, có sự chi viện tối đa của hỏa lực không quân, pháo binh Mỹ vào tham chiến. Âm mưu của địch là cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, lập tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương. Cuộc hành quân này cũng nhằm vào thử thách công thức bộ binh ngụy cộng hỏa lực Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Phối hợp với hướng Đường 9 - Nam Lào và để phân tán lực lượng của ta, địch còn mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1971” đánh sang Công Pông Chàm, Kra Chiê (Cam-pu-chia) và cuộc hành quân “Quang Trung” đánh ra vùng Ba biên giới tại Tây Nguyên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 9-2-1971, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị “tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân Lào và Cam-pu-chia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến dịch phản công của ta ở Đường 9 - Nam Lào kéo dài từ ngày 8-2-1971 đến 23-3-1971 đã kết thúc thắng lợi, làm phá sản hoàn toàn âm mưu và tham vọng của địch. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 23 nghìn tên địch, phá hủy và bắn rơi gần 500 máy bay, phá hủy và thu gần 600 xe quân sự, 150 khẩu pháo. Cùng với thắng lợi vang dội trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào, ta đã cùng với bạn Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 171” của quân ngụy Sài Gòn (4-2 - 31-5-1971), tiêu diệt gần 20 nghìn tên địch, chủ yếu là quân ngụy Sài Gòn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuối năm 1971, bộ đội ta cùng với quân dân Cam-pu-chia và Lào giành tiếp những thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc hành quân Chen-la II của quân ngụy Lon Non (có sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân Mỹ và ngụy Sài Gòn), cuộc hành quân của một lực lượng lớn quân Thái Lan và Vâng Pao lấn chiếm Cánh Đồng Chum và cuộc hành quân của quân ngụy Lào và Thái Lan lấn ra vùng giải phóng A-tô-pơ Xa-ra-van.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Những thắng lợi quân sự trong 2 năm 1970 - 1971, đặc biệt là thắng lợi của các chiến dịch phản công trong năm 1971 có một ý nghĩa thắng lợi sâu sắc. Trên phạm vi toàn chiến trường Đông Dương, ta đã giành lại thế chủ động chiến lược, phá một bước quan trọng âm mưu thực hiện “cuộc chiến tranh bóp nghẹt”. Cục diện chiến trường mở ra triển vọng hiện thực đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” và “học thuyết Ních-xơn” của Mỹ ở Đông Dương nhằm lấy quân ngụy Sài Gòn làm lực lượng xung kích ở Nam Việt Nam và cả trên bán đảo Đông Dương. Âm mưu “Khơ-me hóa chiến tranh” và biện pháp chiến lược mới của Mỹ ở Lào (dùng quân Thái Lan làm nòng cốt cùng quân phỉ Vàng Pao và quân ngụy Lào được Mỹ chi viện hỏa lực và hậu cần lấn chiếm vùng giải phóng) đã bị giáng một đòn nặng. Những thắng lợi quân sự còn hỗ trợ mạnh mẽ cho thế tiến công về ngoại giao của ta trên chiến trường quốc tế, cũng như tại hội nghị Pa-ri.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tuy nhiên, vấn đề tồn tại và nổi lên cơ bản trong năm 1971 là, tại chiến trường chính miền Nam Việt Nam ta chưa tạo được chuyển biến lớn về chiến lược có lợi cho ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngay vào tháng 5-1971, Bộ Chính trị đã họp và đề ra nhiệm vụ “kịp thời nằm lấy thời cơ, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao..., phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ..., giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 6-1971, Quân ủy Trung ương họp bàn biện pháp thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị. Quân ủy xác định quyết tâm chiến lược trong năm 1971 - 1972 là tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả 3 vùng ở miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tiếp đó tháng 2-1972, Quân ủy chỉ đạo tích cực đánh thắng bằng 3 đòn chiến lược: bộ đội chủ lực phải tiêu diệt một bộ phận lực lượng ngụy quân miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của chúng, mở rộng vùng giải phóng; coi quân ngụy là đối tượng tác chiến chủ yếu nhưng vẫn tiến công tiêu diệt quân Mỹ, đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở vùng đồng bằng nông thôn quan trọng, kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích; đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở các đô thị.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Để thực hiện những tư tưởng chỉ đạo trên, ngày 11-3-1972 thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, lấy hướng chủ yếu là Trị Thiên, nhằm “tiêu diệt lớn quân địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Quân ủy còn chỉ rõ: “Chiến dịch Trị Thiên là 1 chiến dịch quy mô lớn, là một trong những hướng chiến lược rất quan trọng, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đối với ta, thời điểm mở cuộc tổng tiến công có nhiều thuận lợi. Địch bị đánh đau trong năm 1971, chưa hồi phục về tinh thần, công tác “bình định” bị chậm lại do ta chống phá quyết liệt. Quân Mỹ và chư hầu rút theo kế hoạch, tạo nên một lỗ hổng lớn khả năng cơ động và hỏa lực quân ngụy không bù đắp nổi. Đặc biệt là địch đã có sai lầm trong đánh giá khả năng của ta. Chúng cho rằng mức độ hoạt động của ta năm 1972 cũng chỉ như 6 tháng cuối năm 1971 và nhiều khả năng là ta sẽ tập trung đánh vào dịp Mỹ bầu cử tổng thống, tháng 11-1972. Từ nhận định đó, địch đã sử dụng 1 bộ phận chủ lực quan trọng đánh lên biên giới Đông Bắc Cam-pu-chia, củng cố tuyến phòng thủ Đông Bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên và các tuyến phòng thủ vòng ngoài. Đồng thời cũng phải thấy rằng, lực lượng địch còn mạnh. Đến 30-3-1972, chúng có khoảng 140 máy bay, 120 tàu chiến, khoảng 1.600 khẩu pháo; quân Mỹ vẫn còn 90.000 tên, hải quân Mỹ vẫn chi viện đắc lực cho các cuộc hành quân ven biển. Địch lại tăng cường đánh phá ác liệt đường mòn Hồ Chí Minh và các khu vực cơ sở phía sau của ta ở Lào và Cam-pu-chia. Và tuy mắc vào cuộc vận động tranh cử tổng thống, nhưng việc Mỹ móc được với các nước lớn thực hiện đòn bẩy ngoại giao cũng là một yếu tố để chúng có thể tăng cường gây sức ép đối với ta bằng sức mạnh quân sự.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam mở đầu bằng chiến dịch tiến công Trị Thiên ngày 30-3 kéo dài đến ngày 24-6. Đây là một chiến dịch hợp đồng binh chủng, tiến công liên tục dài ngày, đột phá một hệ thống trận địa phòng ngự kiên cố của dịch. Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, tỉnh Quảng Trị. Tuy vậy, ta chưa thực hiện được mục tiêu giải phóng Thừa Thiên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến dịch tiến công Tây Nguyên (ngày 31-3 đến ngày 3-5) là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào các thị xã ở vùng rừng núi Tây Nguyên. Chiến dịch đã đột phá vào hệ thống phòng thủ kiên cố của địch trên chiều sâu hơn 100 km, cả 1 vùng rộng lớn phía Bắc Kon Tum được giải phóng. Tuy nhiên, ta chưa giải phóng được thị xã Kon Tum.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cùng với 2 chiến dịch trên, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ (1-4-1972 - 19-1-1973), một chiến dịch có quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở Nam Bộ. Chiến dịch kéo dài tới 10 tháng, ta làm chủ và giải phóng nhiều khu vực, nhưng ta chưa dứt điểm khi đánh vào thị xã Bình Long.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngoài ra, ta đây mở chiến dịch tổng hợp đánh phá kế hoạch “bình định” của địch ở Khu 5. Chiến dịch đã kết hợp chặt chẽ hoạt động của cả ba thứ quân với quá trình nổi dậy của quần chúng. Kết quả là ta đã giải phóng 1 vùng rộng lớn, 1 số quận, thị trấn và cắt đứt đường số 1.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong năm 1972, cùng với các chiến dịch tiến công chiến lược, ta cùng với bạn còn tiến hành những chiến dịch phòng ngự lớn. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum phối hợp với cuộc tiến công trên mặt trận Quảng Trị, mùa hè năm1972 đã giành thắng lợi lớn, thể hiện rõ tính chủ động, sáng tạo sự chu đáo trong công tác tổ chức và chỉ huy chiến dịch. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Riêng việc ngăn chặn địch giữ Quảng Trị (28-6-1972 - 31-1-1973) đã phải tổ chức gấp rút trong quá trình phát triển chiến dịch tiến công, nên không thành công. Bên cạnh đó quan điểm tư tưởng và lý luận nghệ thuật chiến dịch phòng ngự còn chưa thông suốt, nhất quán từ trên xuống dưới, nên ta đã gặp nhiều khó khăn. Do khắc phục được những khuyết điểm ban đầu, ta đã phòng ngự có kết quả và giành thắng lợi trong việc tổ chức những đòn phản đột kích.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ý nghĩa chiến lược của đòn tổng tiến công và các hoạt động quân sự, chính trị khác của ta trên chiến trường năm 1972 là ở chỗ: ta đã đẩy Mỹ - ngụy vào thế hết sức bị động và lúng túng, phá vỡ và làm tê liệt công cuộc “bình định” của chúng ở nhiều nơi, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản hoàn toàn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sẽ không đầy đủ nếu như không nói đến sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến và thắng lợi của quân dân ta trong cuộc đánh trả chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngay sau khi Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc (1-1-1968), nhân dân miền Bắc đã tranh thủ thời gian, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế ổn định đời sống và tiếp tục chi viện cho tiền tuyến.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước việc thỏa hiệp của các nước lớn với Mỹ nhằm gây sức ép với ta, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kiên quyết và nêu rõ lập trường, nguyên tắc của chúng ta là: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không ai có quyền bàn với Mỹ trong vấn đề này; dù trong tình huống nào nhân dân Việt Nam cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ta chủ trương vừa đánh vừa đàm, vừa giữ vững tính độc lập tự chủ, vừa phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Trong tình hình mới, miền Bắc càng phải dốc sức làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam và Cam-pu-chia, Lào, chuẩn bị sẵn sàng cho đòn tiến công chiến lược. Hàng chục vạn thanh niên được gọi nhập ngũ, lên đường vào Nam và tham gia quân tình nguyện ở Lào, Cam-pu-chia. Khối lượng vũ khí trang bị đưa vào các chiến trường trong 3 năm 1969 - 1971 tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước nguy cơ “Việt Nam hóa chiến tranh” bị thất bại, ngày 6 tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ gây lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với mức độ ác liệt gấp bội. Đồng thời, với việc dùng lực lượng không quân, hải quân (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52) tàn phá miền Bắc, Mỹ còn tiến hành phong tỏa gắt gao vùng biển và các hải cảng của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong khói lửa đạn bom, chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc phát triển ngày càng hoàn thiện. Các thứ quân, các quân chủng đều lập thành tích rực rỡ. Chỉ trong vòng 7 tháng (4-1972 - 10-1972) ta đã bắn rơi 651 máy bay Mỹ, bắn bị thương 80 tàu chiến địch, bắt sống hàng trăm giặc lái. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã tỏ rõ sức mạnh chính trị, kinh tế, quân sự, và cả tri thức kỹ thuật của mình trong cuộc đọ sức với tên đế quốc đầu sỏ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vừa ném bom, phong tỏa miền Bắc, gây nhiều tổn thất cho ta vừa móc ngoặc với các nước lớn gây sức ép nhưng chúng vẫn không lung lay nổi ý chí của dân tộc ta, không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Miền Bắc động viên 220 nghìn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường. Năm 1972, khối lượng vật chất vận chuyển cho các chiến trường vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971. Hàng triệu lượt người đi dân công phục vụ chiến đấu và tham gia “dân công hỏa tuyến” tại các khu vực trọng điểm ác liệt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Để lừa bịp dư luận thế giới và dư luận Mỹ, tìm kiếm lá phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống, ngày 20-10-1972 Ních-xơn tuyên bố Mỹ chỉ ném bom hạn chế ở miền Bắc - (Nam vĩ tuyến 20) và “hòa bình đã ở trong tầm tay”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hiểu rõ dã tâm kẻ thù, đánh giá chính xác âm mưu của chúng, Trung ương Đảng đã động viên toàn dân, toàn quân, đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đọ sức mới, quyết đánh cho chúng một đòn thật đau hơn nữa, buộc chúng phải thương lượng trong thế yếu, thế thua.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đúng như Trung ương Đảng đã dự kiến, sau khi trúng cử tổng thống, Ních-xơn lật lọng, đòi ta nhân nhượng. Ngày 18-12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược, dùng 729 lần chiếc máy bay B52 cùng với gần 2.000 lần chiếc máy bay chiến thuật liên tục 12 ngày đêm đánh phá ác liệt thủ đô Hà Nội, thành phố Hải phòng và một số điểm khác ở Bắc vĩ tuyến 20. Lần đầu tiên ta đã tiến hành một chiến dịch phòng không hiện đại quy mô lớn. Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng và tổ chức, sáng tạo trong nghệ thuật quân sự, biết phát huy vai trò của các lực lượng phòng không, đặc biệt là của lực lượng tên lửa phòng không với tư cách là binh chủng chủ yếu đánh bại các đòn tập kích của B52, ta đã giành thắng lợi vẻ vang, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 31 máy bay B52. Hành động man rợ ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng của Mỹ còn bị cả thế giới lên án mạnh mẽ. Chính quyền Ních-xơn hết sức bị cô lập về chính trị và ngoại giao.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ đã thất bại thảm hại; 728 máy bay, trong đó 59 máy bay B52 bị bắn rơi, hàng trăm giặc lái bị bắt sống, hàng trăm tên khác bỏ mạng, 137 tàu chiến các loại bị bắn cháy và bắn hỏng. Thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ cũng như những nỗ lực của quân dân ta phối hợp với bạn Lào và Cam-pu-chia trên khắp các chiến trường trong năm 1972 đã đẩy địch vào thế bị động, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản, đã buộc Mỹ phải trở lại cuộc đàm phán ở Pa-ri trong thế yếu. Ngày 15-1-1973, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và ngày 27-1-1973 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau 4 năm chiến đấu kiên cường (1969 - 1973), bằng cách đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên cả 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đánh địch ở cả miền Nam và miền Bắc, phối hợp chặt chẽ với bạn Lào, Cam-pu-chia, đánh địch trên toàn chiến trường Đông Dương, bằng cách đẩy mạnh 3 đòn chiến lược, tiến công quân sự, chống phá “bình định”, đấu tranh ở đô thị, đặc biệt là nâng cao và hoàn thiện từng bước các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, quân và dân ta đã làm phá sản về căn bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Quân Mỹ và nước ngoài phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, còn quân chủ lực của ta vẫn ở tại chỗ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Một số bài học về chiến lược quân sự trong chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bị thất bại trong “cuộc chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam, sau gần 4 năm chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố xuống thang, “phi Mỹ hóa chiến tranh”, rút quân Mỹ về nước sau khi đã huy động một đội quân khổng lồ mạnh nhất của đế quốc trong thời đại. Mỹ phải chịu rút quân sau khi chúng huy động trên 50 vạn quân với lực lượng không quân và hải quân mạnh trên 30% phi cơ chiến đấu, trên 50% phi cơ chiến lược của không quân và đại bộ phận hạm đội Thái Bình Dương từ cuối năm 1968.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhưng do sai lầm về chiến lược của ta, là đã kéo dài tổng công kích và nổi dậy đến hết năm 1969, khi bất ngờ chiến lược đã hết, không kịp thời chuyển hướng chiến lược, phát triển thắng lợi sau năm 1968 về làm chủ nông thôn ở miền Nam. Do phải liên tiếp huy động toàn lực cả về quân sự, chính trị toàn miền vào tổng công kích và khởi nghĩa liên tiếp ở thành phố, thị xã, nơi địch đã củng cố lại, trong khi ta có nhiều khó khăn về mọi mặt, xa căn cứ, bàn đạp, nên địch đã lợi dụng được chỗ yếu này mà phản ứng quyết liệt, gây cho ta tổn thất to lớn, như mất đất, mất dân, cơ sở chính trị bị bộc lộ, bị tiêu hao lớn, lực lượng vũ trang bị tổn thất, đại bộ phận chủ lực bị bật ra khỏi chiến trường miền Nam. Thế và lực của chiến tranh nhân dân bị suy yếu nghiêm trọng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và biết lợi dụng triệt để sai lầm của Mỹ khi chúng mở rộng chiến tranh ra cả 3 nước Đông Dương, vừa muốn rút quân Mỹ về nước vừa muốn tiếp tục thực hiện ý đồ giành thắng lợi trong chiến tranh, một mơ tưởng thiếu thực tế, khi mà cả lực lượng của Mỹ trực tiếp tham chiến còn chịu thất bại, huống hồ lại mong chỉ có hỏa lực Mỹ cộng với quân ngụy mà có thể thắng được một cuộc chiến tranh nhân dân vô địch của dân tộc Việt Nam và của cả 3 nước Việt, Lào, Cam-pu-chia.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tư tưởng chủ quan sẵn có của đế quốc Mỹ là luôn luôn ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí và đồng đô la một lần nữa bị thất bại trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của quyết tâm giành độc lập tự do, của một dân tộc bất khuất dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng và một nền khoa học, nghệ thuật quân sự tài giỏi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên cơ sở thực tiễn chiến tranh, qua 4 năm từ 1969 đến 1972 có thể rút ra mấy kết luận có tính quy luật trong giai đoạn chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn như sau:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">1. Trong chiến tranh cách mạng, tiến công và khởi nghĩa là một quy luật, nhưng tổng tiến công không nhất thiết phải đi đôi với tổng khởi nghĩa, lại càng không thể lấy tổng khởi nghĩa làm đòn chủ yếu, còn tổng tiến công chỉ là đòn bổ trợ, kìm giữ quân địch khi lực lượng quân sự của chúng còn mạnh chưa hoảng loạn, tan vỡ. Khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải tuân theo quy luật của chiến tranh. Kinh nghiệm tổng khởi nghĩa ở Pra-ha (Tiệp Khắc) và Vác-xô-vi (Ba Lan) trong chiến tranh thế giới thứ hai lại càng sáng tỏ khi so sánh với cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở miền Nam năm 1968 - 1969 và năm 1975. Tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải có thời cơ và không thể kéo dài. Quan điểm cho rằng, tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình có thể kéo dài tới 2 năm, là một sai lầm chiến lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">2. Đông Dương là một chiến trường. Đây là một quy luật của chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của ba nước, khi có chung một kẻ thù như Pháp, Mỹ, có chung một mục tiêu cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo trên ba nước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến trường Việt Nam, lực lượng vũ trang Việt Nam bao giờ cũng mang tính chất quyết định trong chiến tranh liên minh ba nước, ba dân tộc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ba nước đều có hậu phương riêng đồng thời có hậu phương chung là miền Bắc Việt Nam và không có chiến tuyến ngăn cách giữa ba nước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">3. Chiến lược tiến công trong chiến tranh cách mạng là chiến lược đem lại chiến thắng trong chiến tranh giải phóng, ngay cả khi địch mở rộng chiến tranh trong giai đoạn địch tiến công, phản công chiến lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến dịch phản công, tiến công hiệp đồng binh chủng mang tính vận động trong chống Mỹ đã phát triển có mang tính chất trận địa, khi trên chiến trường phương án tác chiến đã thay đổi, lấy quân ngụy làm chủ yếu, có sự chi viện hỏa lực, phương tiện cơ động của các binh chủng Mỹ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Các loại hình chiến dịch tiến công, phản công, tổng hợp, phòng ngự, phòng không đều xuất hiện trong “Việt Nam hóa chiến tranh”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Các chiến dịch quy mô ngày càng lớn là một quy luật khi chiến tranh phát triển, yêu cầu bảo đảm hậu cần kỹ thuật và bổ sung lực lượng ngày càng lớn trong quá trình mở rộng chiến tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">4. Thế trận và thời cơ là 2 yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh, khi mà lực lượng không chiếm ưu thế.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Có thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, không thời mất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên hóa thành nguy, sự việc như thay đổi trong trở bàn tay” là một quy luật trong chiến tranh Việt Nam đã được Nguyễn Trãi tổng kết, vẫn là một tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">5. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và có tiềm lực rất lớn cả về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, yêu cầu đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải rút khỏi đất nước ta trên cơ sở gây thiệt hại to lớn về người và phương tiện chiến tranh là một kinh nghiệm lớn về chiến lược khác hẳn với các cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế kỷ trước. Trong thời đại văn minh của thế kỷ XX sức mạnh của chiến tranh bao gồm cả sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, tư tưởng xã hội, phương tiện thông tin tác động tâm lý xã hội có giá trị không kém các phương tiện quân sự.</span></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 80413, member: 17223"] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]III ĐÁNH CHO MỸ CÚT (1965 – 1973)[/FONT][/COLOR][/B][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana] ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ Ở MIỀN NAM[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [B][COLOR=black][FONT=Verdana] Những trận mở đầu đánh Mỹ[/FONT][/COLOR][/B][COLOR=black][FONT=Verdana] Sau thắng lợi lớn của chiến thắng Bình Giã (12-1964) đợt tiến công vào khu An Lão ở Khu 5, và một số nơi khác vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, mặc dù còn trên 50 vạn tên, nhưng quân ngụy Sài Gòn đã tỏ ra bất lực. Qua nhiều cuộc đảo chính thay đổi chính phủ, nhưng ngụy quyền tay sai vẫn không đứng vững trước sức tiến công và nổi dậy của cách mạng miền Nam. Quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ - ngụy căn bản bị phá sản. Cuộc “chiến tranh đặc biệt” của địch đã căn bản thất bại. Đế quốc Mỹ đứng trước một sự lựa chọn gay cấn: hoặc rút khỏi Việt Nam, hoặc thay đổi chiến lược leo thang chiến tranh lên một bước mới. Giôn-xơn sau khi trúng cử, đã dần từng bước thay đổi chủ trương chiến lược đối với Việt Nam. Tháng 2-1965, chúng quyết định mở cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân ra miền Bắc, hòng cứu nguy cho ngụy quân ngụy quyền Sài Gòn. Tháng 3-1965 chúng bắt đầu đưa 2 tiểu đoàn chiến đấu của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ vào Đà Nẵng. 1-4-1965, hội đồng an ninh quốc gia Mỹ quyết định “chấp nhận quan điểm Mỹ bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở Việt Nam”. Như vậy, chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu. Đến ngày 17 tháng 7 năm 1965, Tổng thống Giôn-xơn chuẩn y đề nghị của Oét-moô-len cho triển khai 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và thực hành chiến lược “an ninh căn cứ” với các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định”. Từ đó trở đi, đế quốc Mỹ và chư hầu ngày càng gia tăng việc đưa quân xâm lược vào miền Nam Việt Nam; cho đến cuối 1965 Mỹ đã nâng tổng số quân ở miền Nam lên 4 sư và 1 trung đoàn với tổng số 184.314 tên - Nam Triều Tiên 10 tiểu đoàn (28.500 tên) và đưa tổng số quân ngụy Sài Gòn đến cuối năm 1965 lên tới 630.000 tên (trong đó có 311.000 quân chủ lực). Từ đó, cả nước ta, từ Nam chí Bắc, thống nhất một ý chí sắt đá: Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ngay sau khi Mỹ đưa những tiểu đoàn chiến đấu của chúng vào Đà Nẵng, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc, Trung ương đã nhìn thấy có những yếu tố của một cuộc “chiến tranh cục bộ”. Từ 25 đến 27, Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Hội nghị đã nhận định: “từ nửa nước có chiến tranh, nửa nước có hòa bình đã biến thành cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền...”. Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của ta là, tích cực kìm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, nếu địch gây ra, và kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch...”. Ngày 8-4-1965 Chính phủ ra tuyên bố về lập trường 4 điểm, khẳng định rằng “Mỹ là kẻ thù xâm lược thì Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ phải tôn trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam, công việc miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Mặt trận dân tộc giải phóng là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam, việc thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam ở hai miền tự giải quyết”. Tháng 8-1965, Mặt trận dân tộc giải phóng tuyên bố lập trường sắt đá của nhân dân miền Nam: “thà chết chứ không chịu làm nô lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn”. Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Tuyên bố của Chính phủ và Mặt trận, nhân dân cả hai miền Nam Bắc quyết tâm bước vào cuộc đọ sức trực tiếp với đế quốc Mỹ. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Tháng 5-1965, các lực lượng vũ trang Nam Bộ mở chiến dịch Đồng Xoài. Lần đầu tiên, ta tập trung lực lượng chủ lực tương đối lớn trên chiến trường Nam Bộ (4 trung đoàn và 2 tiểu đoàn chủ lực + đặc công và hỏa lực) phối hợp với lực lượng địa phương tiến hành tác chiến trên một khu vực rộng. Hướng chính, gồm 2 tỉnh Bình Long và Phước Long; hướng phối hợp, gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa. Từ 11-5 đến 22-7-1965 ta đã đánh vào một khu vực phòng thủ khá kiên cố của địch. Kết quả chiến dịch ta đã diệt 4 chi khu quân sự của địch, diệt gọn 4 tiểu đoàn, 25 đại đội, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội pháo binh, công binh, tiêu diệt trên 4.000 tên có 73 tên Mỹ, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 3 máy bay lên thẳng, thu 1.652 súng các loại. Bộ đội chủ lực đã trưởng thành thêm một bước trong đánh công sự vững chắc, trình độ chỉ huy tác chiến được nâng cao. Chiến thắng Đồng Xoài đẩy quân ngụy lâm vào nguy cơ tan rã sụp đổ, và chứng tỏ, trên chiến trường rừng núi ta có khả năng hạn chế được chỗ mạnh, khoét sâu nhược điểm của địch, để thực hành đánh tiêu diệt lớn. Cùng trong thời gian tháng 5-1965, tại Khu 5, sau khi đưa quân Mỹ vào Đà Nẵng, một tiểu đoàn lính thủy đính bộ Mỹ đã chiếm vùng An Tân, Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Đêm 27 rạng 28 tháng 5, 2 tiểu đoàn chủ lực phối hợp với đặc công của quân khu tiến công tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, tiêu diệt gọn một đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở núi Thành, 180 tên Mỹ chết và bị thương. Lần đầu tiên, lực lượng vũ trang ta diệt gọn đại đội Mỹ trên chiến trường miền Nam. Quân khu 5 vinh dự được Đảng và Chính phủ tuyên dương 8 chữ vàng: “Anh dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Phấn khởi trước thắng lợi núi Thành, quân dân Quân khu 5 lại tiếp tục tiến công địch ở Ba Gia, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Từ 1 giờ sáng 29-5 đến 4 giờ ngày 31-5-1965, ta dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội lựu pháo 75, 1 đại đội phòng không, tiến công 1 chiến đoàn ngụy bằng 1 loạt trận phục kích, tập kích, diệt viện, đánh cả ban ngày và ban đêm và đã giành thắng lợi giòn giã, diệt gọn 4 tiểu đoàn địch (có 6 tên Mỹ) thu 307 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay, phá 14 xe vận tải, 2 pháo 105 ly. Trận Ba Gia lại chứng minh một bước trưởng thành lớn của trình độ tác chiến vận động của bộ đội ta. Trong điều kiện địa hình không thuận lợi, địch chiếm ưu thế binh hỏa lực so với ta mà ta đã đánh thắng, diệt gọn nhiều tiểu đoàn, bắt tù binh thu vũ khí và thương vong ít. Chiến thắng Ba Gia mở đầu khả năng bộ đội ta có thể tiêu diệt từng chiến đoàn quân ngay cả ban ngày và ban đêm, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của “chiến tranh đặc biệt”. Trước tình hình rối loạn về chính trị, ngụy quyền yếu kém, cùng với sự thất bại liên tiếp của ngụy quân ngụy quyền trên các chiến trường, nguy cơ sụp đổ của chế độ ngụy ở miền Nam đang bầy ra trước mắt chính quyền Giôn-xơn. Ngay Oét-mo-len, đã phải nhận xét: Mùa xuân 1965 quân đội Việt Nam cộng hòa trung bình mỗi tuần mất 1 tiểu đoàn, và ít nhất cứ một tuần, đối phương kiểm soát thêm 1 quận lỵ Trước tình hình đó, chắc chắn chính quyền Việt Nam cộng hòa không thể tồn tại được trong vòng quá 6 tháng, nếu không có sự tăng cường lực lượng Mỹ. Chiến nhắng Vạn Tường 18-8-1965, đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ trong thu đông 1965, mở đầu thắng lợi chống “chiến tranh cục bộ”. Ngày 17-7-1965, tổng thống Mỹ Giôn-xơn thông báo quyết định đưa 44 tiểu đoàn Mỹ vào Nam Việt Nam và chấp nhận chiến lược “tìm diệt” của Oét-mo-len, quyết định “vượt qua ngưỡng cửa bước vào cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á” Và từ đó cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Sau khi chiếm đóng vùng Chu Lai ở Quảng Nam, mờ sáng 18-8-1965, sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân mang tên “ánh sáng sao” nhằm vào thôn Vạn Tường, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, ở sát bờ biển bắc Quảng Ngãi, cách Chu Lai 17 km, nhằm mục đích diệt đơn vị chủ lực ta, tìm kiếm một thắng lợi quân sự để phô trương thanh thế cho quân viễn chinh Mỹ, mở đầu chiến lược tìm diệt. Địch huy động 9.000 tên (4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ; 2 tiểu đoàn ngụy), 1 tiểu đoàn tăng và xe lội nước (105 chiếc) cùng một số lực lượng pháo binh, công binh, 100 máy bay lên thẳng, 70 máy bay chiến đấu và 6 tàu đổ bộ. Ta có 1 E đón quân tại Vạn Tường, đang huấn luyện. Sau 1 ngày chiến đấu, bộ đội và dân quân du kích đã đánh bại cuộc hành quân “tìm diệt” của địch. Địch tìm thấy ta nhưng không diệt được ta mà còn bị diệt 919 tên, bắn cháy 22 xe tăng, xe bọc thép, hạ 13 máy bay. Lần đầu quân viễn chinh Mỹ sử dụng một lực lượng áp đảo cả hải, lục, không quân để càn quét một thôn nhỏ vùng ven biển nhưng đã bị đòn phủ đầu nặng nề, chịu thất bại thảm hại. Vạn Tường được coi như Ấp Bắc đối với quân Mỹ, mở đầu cao trào diệt Mỹ. Tướng Oét-mo-len trong sách “Tường trình của người quân nhân” lại cho là, trong cuộc hành quân này Mỹ diệt được 700 cộng quân. Chiến thắng Vạn Tường chứng tỏ, mặc dù quân Mỹ đông, có trang bị hiện đại ưu thế hơn ta nhiều lần, nhưng nếu chúng ta dám đánh và biết đánh, có cách đánh phù hợp, thì dù tác chiến ngay ở đồng bằng ven biển, sát ngay với căn cứ địch, ta vẫn có thể chiến thắng. Chiến thắng Plây-me nối tiếp Vạn Tường càng củng cố lòng tin vào đánh thắng chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Tháng 9-1965, đế quốc Mỹ đưa sư đoàn 1 “kỵ binh không vận” lên An Khê. Đó là đơn vị đầu tiên lên chiến trường Tây Nguyên. Lực lượng ta có 3e bộ binh chủ lực, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo, 1 tiểu đoàn súng máy 12,7. Từ 19-10 đến 26-11-1965 ta bao vây cứ điểm của ngụy quân, buộc quân Mỹ phải vào ứng cứu để ta diệt Mỹ. Kết quả chiến dịch ta đã giáng một đòn chí tử vào sư đoàn 1 kỵ binh Mỹ, đánh thiệt hại nặng lữ đoàn 3 kỵ binh, diệt gọn 1 tiểu đoàn Mỹ (1.700 tên) bắn rơi 59 máy bay, diệt 1 chiến đoàn thiết giáp ngụy, phá 5 pháo… Quân Mỹ bị thất bại, lần đầu tiên phải tháo chạy. Đây là chiến công to lớn của quân dân Tây Nguyên, làm cho quân và dân ta càng thêm nức lòng tin tưởng còn kẻ địch thì bàng hoàng kinh ngạc. Nhưng Oét-mo-len nhận định về trận sư đoàn 1 kỵ binh không vận này ở thung lũng Ia Đrăng như sau; “tháng 10-1965 sau khi địch tấn công Ple-me tôi quyết định dùng sư kỵ binh không vận bước vào trận chiến đấu đầu tiên không phải là không lo ngại, “thất bại trong cuộc thử thách đầu tiên, sẽ làm mất lòng tin, mất tinh thần của chúng ta và nhân dân Mỹ, của Nam Việt Nam. Tấn công đẫm máu ở thung lũng Ia Đrăng đã làm giảm mối lo ấy của tôi và chứng minh giá trị của quân đội chúng ta và quan niệm sử dụng kỵ binh không vận”. Oét-mo-len đã nhận định kết quả của chiến lược tìm diệt của Mỹ thất bại ngay hai trận đầu tiên, rằng quân Mỹ trực tiếp tham gia chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam, mới giải quyết được một phần lòng tin, không sợ thua trận của một đội quân mạnh nhất của đế quốc chứ không phải một thắng lợi quân sự vì thực tế không diệt được đối phương mà còn bị tiêu diệt một lực lượng quan trọng mà kinh nghiệm trong chiến tranh ở Triều Tiên, giải phóng quân Trung Quốc đã xác nhận diệt một tiểu đoàn Mỹ trong một trận là hiếm có, chứ không phải như kết quả ghi ở trên. Trên đà chiến thắng, ngày 8-11-1965, tại Đất Cuốc, cách Biên Hòa 30 km về phía Bắc, thuộc phạm vi Chiến khu Đ, miền Đông Nam Bộ, quân Mỹ dùng một lữ đoàn dù mở một cuộc hành quân “tìm diệt”. Sau 2 ngày “tìm diệt” không có kết quả, bất ngờ bị sa vào trận địa phục kích của ta, một tiểu đoàn Mỹ bị diệt gọn. Đây là trận tiêu diệt lớn đầu tiên ở Nam Bộ. Ngày 12-11, tại Bầu Bàng (Thủ Dầu Một) bằng một trận tập kích, trong vòng 30 phút, ta diệt 2 tiểu đoàn Mỹ, 1 chi đoàn xe cơ giới, diệt và làm bị thương hơn 2.000 tên Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” tức sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ, bị giáng một đòn sét đánh. Đây là trận đánh tập kích diệt Mỹ lớn nhất từ khi chúng đưa quân vào miền Nam. Đến 27-11, ta lại nổ súng tiến công địch ở Dầu Tiếng tiêu diệt hơn 4.000 tên thuộc sư đoàn bộ binh 1 Mỹ. Sư đoàn “Anh cả đỏ” lại một lần nữa bị giáng đòn nặng nề. Từ 8 đến 12-12-1965 tại Hiệp Đức, Quảng Nam, ta đánh điểm; buộc quân Mỹ phải đến ứug cứu. Mới đầu, ta đánh quân ngụy là chủ yếu, sau diệt Mỹ là chủ yếu. Bằng phục kích, tập kích, vận động ta tiêu diệt 1.800 tên có 600 tên Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu 1 tiểu đoàn Mỹ, 3 tiểu đoàn ngụy, bắn rơi, phá hủy 21 máy bay. Đêm 4-12-1965, ta dùng đặc công tiến công khách sạn Mê-tơ-rô-pôn ở Sài Gòn, diệt 200 tên Mỹ, gây chấn động lớn. Như vậy ngay từ khi bắt đầu đưa quân vào tham chiến đã bị quân ta liên tiếp tiến công từ nhỏ đến lớn: Vạn Tường, Plây-me, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Dầu Tiếng, Hiệp Đức... và các trận tập kích táo bạo vào tận hang ổ sào huyệt của chúng ở các căn cứ và ở ngay trong Sài Gòn, cùng các hoạt động liên tục, bền bỉ và mạnh mẽ của các vành đai diệt Mỹ ở Củ Chi, Lái Thiêu, Chu Lai, Đà Nẵng, An Khê... chúng ta đã liên tiếp làm cho quân Mỹ phải chịu nhiều thất bại nặng nề. Qua thực tiễn đọ sức trên nửa năm giữa quân dân ta với quân Mỹ, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1965) đã phân tích sâu sắc tình hình và có những kết luận quan trọng: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi”. Trung ương đã dự kiến cuộc chiến tranh sẽ càng trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường. Cách mạng miền Nam, “phải giữ vững và phát triển thể chiến lược tiến công”. Trung ương Đảng đề ra “Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước lúc đó là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc”.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG CHIẾN LƯỢC MÙA KHÔ XUÂN HÈ 1966[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Đầu năm 1966, sau khi đã chuẩn bị kỹ càng, Mỹ bắt đầu mở cuộc phản công chiến lược mùa khô đầu tiên trên chiến trường miền Nam. Sử dụng một đội quân đông gần 75 vạn tên (có 18 vạn tên Mỹ, 2 vạn tên Nam Triều Tiên) gồm 14 sư đoàn bộ binh (có 4 sư đoàn Mỹ, 1 sư đoàn Nam Triều Tiên) với lực lượng yểm hộ trên dưới 1.000 khẩu pháo, 2.000 máy bay, 1.300 xe bọc thép các loại, Mỹ tin rằng sẽ giành được thắng lợi chắc chắn. Đợt phản công chiến lược lần thứ nhất của địch diễn ra trên 2 hướng: Đông Nam Bộ và đồng bằng Khu 5 nhằm mấy mục tiêu chủ yếu: diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của ta, giành lại thế chủ động trên toàn bộ chiến trường ở miền Nam; bình định có trọng điểm và giành dân; khai thông các tuyến giao thông chiến lược; giải tỏa và bảo vệ vững chắc các đô thị và căn cứ của Mỹ; ổn định tình hình chính trị, củng cố ngụy quân, ngụy quyền. Chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt trên toàn miền Nam, bắt đầu từ tháng 1 đến cuối tháng 4 năm 1966. Với một đội quân đông, trang bị mạnh, Mỹ - ngụy mở liên tiếp 450 cuộc hành quân lớn, nhỏ từ 3 tiểu đoàn đến 21 tiểu đoàn, có sự chi viện của hàng nghìn lần chiếc máy bay B52. Với mục tiêu chủ yếu đề ra là “tìm diệt chủ lực” ta để giành lại thế chủ động, nhưng cuối cùng địch đã liên tiếp bị ta giáng cho những đòn tổn thất thật nặng nề và buộc phải phân tán, bị động đối phó, phải quay về tiếp tục phòng ngự. Bằng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc và linh hoạt, với sự kết hợp chặt chẽ của những “quả đấm” chủ lực với những trận đánh liên tục của bộ đội địa phương và dân quân du kích, ta đã gây cho Mỹ ngụy những thất bại nặng nề. Ở Củ Chi, ta đã giành thắng lợi lớn trong hai cuộc chống càn, trong tháng 1 và tháng 2 tiêu diệt trên 2.000 tên Mỹ, bắn rơi, phá hủy gần 100 máy bay. Ở Phú Yên, Bình Định ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10.000 tên địch, có trên 5.000 quân Mỹ, và 1.000 quân Nam Triều Tiên, bắn rơi 374 máy bay. Ở Nhà Đỏ Bông Trang (Thủ Dầu Một), bằng một trận tập kích, trong vài giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn cơ giới Mỹ, phá hủy 40 xe tăng và xe M113. Ở Quảng Ngãi, liên tục trong 40 giờ chiến đấu, ta đã diệt 2 tiểu đoàn và 4 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, bắn rơi 25 máy bay. Ngoài những trận chống càn, tác chiến vận động, giành thắng lợi lớn, chúng ta còn tập kích hỏa lực dùng đặc công đánh vào các căn cứ sân bay Chu Lai, Tân Sơn Nhất, Phú Lợi, ở khách sạn Vic-to-ri-a, ta diệt 200 sĩ quan Mỹ ngày 1-4-1966 làm cho địch bị thiệt hại nặng về máy bay, xăng dầu, kho tàng và sinh lực cấp cao. Đến cuối tháng 4 năm 1966, do bị tổn thất nặng nề trên cả 2 hướng ở Nam Bộ và Khu 5, quân Mỹ buộc phải kết thúc cuộc ra quân quy mô lớn đầu tiên, sớm hơn dự định hai tháng. Đạo quân viễn chinh Mỹ trang bị hiện đại, ra quân hùng hổ để “tìm diệt” quân chủ lực ta, đã bị thất bại ngay trong keo thử sức đầu tiên. Trên 100 nghìn tên (có 42.500 tên Mỹ, 3.500 tên Nam Triều Tiên) bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, trên 1.000 máy bay bị bắn rơi và bị phá hủy, 600 xe tăng, xe bọc thép bị bắn cháy, hỏng. Thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược đầu tiên của địch có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta đã đánh thắng “chiến tranh cực bộ” của Mỹ ngay từ hiệp đầu. Song song với những đòn tiến công quân sự, trên mặt trận chống phá bình định, cũng thu được những thắng lợi lớn. Tính đến tháng 6 năm 1966, ở Nam Bộ, nhân dân ta đã phá được 2.668 ấp chiến lược; ở cực Nam Trung Bộ phá được 238 trong tổng số 560 ấp chiến lược của địch, ở Khu 5 và Bình Trị Thiên, vùng giải phóng được củng cố, nhiều căn cứ du kích hình thành thế liên hoàn, trên 2 triệu dân giành quyền làm chủ. Thắng lợi Xuân Hè 1966 có ý nghĩa rất to lớn cả về chính trị và quân sự, đặc biệt là về quân sự. Đường lối quân sự chiến lược chiến thuật của ta đã thắng chiến lược, chiến thuật “chiến tranh cục bộ” của Mỹ; chiến tranh nhân dân đã tỏ rõ sức mạnh vô địch và có khả năng đánh bại chiến tranh cục bộ của địch. [/FONT][/COLOR] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]THÀNH LẬP QUÂN KHU TRỊ THIÊN VÀ MỞ MẶT TRẬN ĐƯỜNG SỐ 9, BẮC QUẢNG TRỊ ĐỂ PHÂN TÁN LỰC LƯỢNG MỸ[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Tháng 4-1966, sau thắng lợi mùa xuân 1966, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên; Khu ủy Trị Thiên đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Đây là một quyết định có ý nghĩa chiến lược quan trọng với ý đồ tiêu diệt và làm tan rã phần lớn quân ngụy, tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, ra sức chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở thành phố để phục vụ kế hoạch tổng công kích, tổng khởi nghĩa khi điều kiện chín muồi, cắt đứt đường giao thông chiến lược của địch, xây dựng đường hành lang của ta, giành thắng lợi lớn về mọi mặt và tạo nên một tình thế mới trên chiến trường Trị Thiên phối hợp tốt với các chiến trường khác trong mọi tình huống (kể cả tình huống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên đất liền tiến ra Trung Hạ Lào)1. Đến tháng 6-1966, Quân ủy lại quyết định mở Mặt trận Đường số 9 Bắc Quảng Trị. Mặt trận này được mở ra buộc địch phải phân tán lực lượng lên rừng để đối chọi với chủ lực mạnh của miền Bắc, tạo điều kiện cho các chiến trường khác hoạt động, trước tiên là đồng bằng Trị Thiên, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh mặt đất ra miền Bắc, trước hết là Quân khu 4. Việc mở Mặt trận đường 9 Bắc Quảng Trị đã gây cho địch một bất ngờ và chúng phải đảo lộn thế bố trí chiến lược. Chúng phải điều 2 sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, lẽ ra được dùng để tìm diệt “bình định” ở đồng bằng sông Cửu Long và ven biển miền Trung, lên rừng núi Trị Thiên. Địch không thể tập trung lực lượng để tiến công ta ở Nam Bộ và buộc phải phân tán để phòng ngự và đối phó với lực lượng chủ lực của miền Bắc. Sau khi Mặt trận đường số 9, Trị Thiên được mở ra, địch liên tiếp bị tiến công. Ta đã đánh bại cuộc càn quét lớn của địch, mang tên HAT LINH vào Cam Lộ và cuộc hành quân Pô-re-ri vào Tây Do Linh. Trên 8.000 tên địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 3.000 tên Mỹ). Ta giải phóng hàng trăm thôn ấp, với 40 vạn dân, uy hiếp vùng đồng bằng Thừa Thiên và Quảng Trị. Trong khi địch bị đảo lộn về thế chiến lược, bị động đối phó với ta ở Trị Thiên, thì ta chủ động tiến công địch trong suốt mùa mưa ở các chiến trường, Mỹ Lộc, Đức Vinh, Chư Pông... gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.[/FONT][/COLOR] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana] ĐÁNH BẠI CUỘC PHẢN CÔNG LẦN THỨ 2 MÙA KHÔ 1966 - 1967[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Để cứu vãn tình hình ngày càng xấu đi, đế quốc Mỹ đã mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ném bom, bắn phá Thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng. Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do…”. Lời kêu gọi của Người được coi như lời thề dân tộc, thể hiện ý chí sắt đá của toàn dân Việt Nam kiên quyết dốc toàn lực, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Cuối tháng 10-1966, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng họp, phân tích tình hình và nhận định: năm 1967 sắp đến sẽ có tầm quan trọng lớn đối với cả ta và địch; địch sẽ cố gắng cao nhất để giành thắng lợi, tạo uy tín cho Giôn-xơn chuẩn bị bước vào cuộc tranh cử tổng thống; ta cũng phải nỗ lực vượt bậc, đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch chắc chắn sắp nổ ra, tạo thời cơ, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới. Bộ Chính trị yêu cầu phải đánh thiệt hại nặng, cả Mỹ lẫn ngụy làm cho Mỹ không đóng được vai trò cơ động chiến lược và làm cho ngụy không làm nổi chức năng “bình định”. Sau đó, tháng 11-1966 Bộ Chính trị và Quân ủy đã đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược, trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm rút ra từ nhiều chiến trường. Những quan điểm tư tưởng và nội dung chủ yếu của 6 phương thức tác chiến chiến lược: 1. Mở các chiến dịch vừa và lớn dưới hình thức tiến công hoặc phản công tiêu diệt lớn quân địch (cả Mỹ và ngụy). 2. Đẩy mạnh chiến tranh du kích lên trình độ cao, tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định của chúng, uy hiếp các đô thị. 3. Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, bến cảng. 4. Triệt phá các đường giao thông thủy, bộ quan trọng của địch, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự. 5. Đẩy mạnh hoạt động ở đô thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. 6. Tác chiến kết hợp với binh vận, làm tan rã, ly khai, gây binh biến trong hàng ngũ địch. Có thể nói, 6 phương thức tác chiến chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy đề ra có ý nghĩa rất quan trọng. Nó thể hiện rõ tư tưởng quân sự, quan điểm chiến lược tiến công, tinh thần tích cực, chủ động, kiên quyết và liên tục tiến công tiêu diệt địch, giữ vững và mở rộng thế làm chủ. Các phương thức đó luôn được phối hợp trong quy mô chiến lược trên toàn miền và từng chiến trường, trong từng chiến dịch, nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra. Nó là cơ sở cho những thắng lợi to lớn sau này. ____________________________________ 1. Nghị quyết của Thường trực Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ của chiến trường Trị Thiên tháng 4-1966. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch. Sau thất bại của đợt phản công lần thứ nhất năm 1966 và thất bại liên tiếp trong mùa hè 1966, đế quốc Mỹ tiếp tục tăng thêm quân viễn chinh, chuẩn bị tích cực và nuôi hy vọng sẽ giành thắng lợi trên chiến trường bằng đợt phản công chiến lược lần thứ 2, trong mùa khô 1966-1967. Lực lương tham gia đợt phản công chiến lược lần thứ 2 lớn hơn lần 1 nhiều, gồm 983 ngàn quân (có 389 ngàn tên Mỹ và 52 ngàn tên ngụy và chư hầu), gồm 19 sư đoàn, 9 trung đoàn và 20 tiểu đoàn (có 6 sư đoàn và 3 trung đoàn Mỹ, 2 sư đoàn chư hầu); sử dụng 3.702 máy bay, 2.676 xe tăng, thiết giáp, 1.805 pháo. Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch bắt đầu bằng cuộc hành quân lớn, mang tên At-ten-bô-rô. Mỹ sử dụng 22.000 quân đánh chiếm khu Dương Minh Châu, nhằm mục đích “tìm diệt” lực lượng chủ lực của ta và tiến hành “bình định”. Cuộc hành quân này được bắt đầu từ đầu tháng 11-1966 đến 14-11-1966. Cuộc hành quân lớn thứ hai mang tên Xê-đa-phôn, đánh vào khu tam giác Trảng Bàng-Bến Súc-Củ Chi từ ngày 8-1 đến ngày 26-1-1967, với kết quả như nêu trong báo cáo của Oét-mo-len, Mỹ đã thu được nhiều lương thực, phá được nhiều địa đạo, diệt được 730 địch, bắt sống được 213 Cộng quân. Cuộc hành quân thứ ba, lớn nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti đánh chiếm khu Dương Minh Châu từ 22-2-1967 đến 19-4-1967, huy động 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy, gồm 26 tiểu đoàn nhằm diệt cơ quan đầu não của ta, diệt chủ lực, phá kho tàng dự trữ, lấn chiếm, chia cắt căn cứ của ta, phong tỏa biên giới. Cả 3 cuộc hành quân lớn và nhiều cuộc hành quân liên tiếp khác đều bị ta lần lượt bẻ gẫy, kể cả cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti lớn nhất cũng sa vào thế trận của ta đã được chuẩn bị tốt đánh bại. Trong báo cáo của Oét-mo-len có nói, trong cuộc hành quân này Mỹ đã tiêu diệt được 2.738 địch, mà không nói lên sự thất bại về mục đích của cuộc hành quân, về số quân và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy bị ta diệt và phá hủy. Càng tiến sâu vào vùng căn cứ kháng chiến, địch càng sa vào thế bị động, phải đối phó cả trước mặt, bên sườn và phía sau, vừa đối phó với đòn tiến công của chủ lực ta, vừa bị dân quân du kích liên tục tiêu hao, tổn thất của địch ngày càng lớn. Riêng cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti địch bị loại khỏi vòng chiến đấu 14.000 tên, phần lớn là Mỹ, 160 máy bay bị bắn rơi và phá huỷ, 992 xe quân sự trong đó phần lớn là xe tăng, xe bọc thép, 112 pháo cối bị phá hủy. Cùng với việc bẻ gẫy ba cuộc hành quân lớn, chúng ta còn liên tiếp tiến công tiêu diệt các hậu cứ, sở chỉ huy, cơ quan đầu não của địch, như đánh vào khu vực Long Bình, bắn pháo vào cuộc diễu binh nhân ngày quốc khánh của ngụy (1-11-1967) giữa Sài Gòn, tiến công căn căn cứ, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, tập kích các sân bay Tân Sơn Nhất, Plây Cu, Đà Nẵng. Ở Trị Thiên ta tập kích hỏa lực vào hệ thống căn cứ Mỹ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu. Kết quả trong năm 1967, chúng ta giành thắng lợi lớn, trên 100 ngàn quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu (có 67 ngàn quân Mỹ) phá hủy hàng ngàn máy bay, bắn chìm và cháy 42 tàu, xuồng. Cả 2 mục tiêu “tìm diệt” và “bình định” đề ra cho cuộc phản công chiến lược lần 2 đều không đạt. Thất bại của Mỹ - ngụy trong Đông Xuân 1966-1967 là một thất bại toàn diện cả quân sự và chính trị. Thắng lợi của ta trong năm 1967 có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nó không chỉ nói lên sự đúng đắn về đường lối cách mạng, đường lối quân sự, quyết tâm và ý chí của quân và dân ta, mà còn chứng tỏ khả năng to lớn của quân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng chống đế quốc mạnh nhất của thế kỷ XX mà không một nước nào không kiêng nể. Thắng lợi năm 1967 mở ra triển vọng to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Song song với thất bại về quân sự, chính trị, cả trên lĩnh vực ngoại giao, đế quốc Mỹ cũng bị thất bại. Tòa án Giê-béc-tờ-răng-rút-xen đã họp 2 phiên, tại thủ đô Thụy Điển và thủ đô Đan Mạch để xét xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ và kết luận: “Chính phủ Mỹ là kẻ phạm tội ác xâm lược Việt Nam; các chính phủ Úc, Tân Tây Lan, Nam Triều Tiên là đồng lõa”. Về phá ta, đến cuối năm 1967, đã có 41 chính phủ, 12 tổ chức quốc tế, 5 tổ chức khu vực, ủng hộ cương lĩnh chính trị của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Những thất bại về quân sự, chính trị, ngoại giao của Mỹ ảnh hưởng rất xấu đến tình hình nội bộ của nước Mỹ. Làn sóng đấu tranh của nhân dân Mỹ, các cuộc biểu tình, bãi công, đốt thẻ quân dịch, từ chối nhập ngũ, sẵn sàng ngồi tù bỏ trốn sang Ca-na-đa ngày càng nhiều. Do số quân Mỹ thương vong cao, nên từ mùa hè 1967, chính quyền Giôn-xơn phải động viên quân trù bị và nâng mức tuyển lính hàng tháng, để bù đắp tổn thất và thay phiên quân ở Việt Nam. Nội bộ chính quyền Mỹ phân hóa ra làm 3 phái: phái hiếu chiến, đề nghị tăng quân và tiến hành chiến tranh tổng lực; phái dao động hoài nghi, đề nghị ngừng ném bom, thay chính sách và thương lượng, phái lừng chừng lưỡng lự. Giôn-xơn bối rối buộc Mác-na-ma-ra, bộ trưởng quốc phòng từ chức, nhưng vẫn ngoan cố tiếp tục đưa thêm quân viễn chinh và phương tiện chiến đấu vào miền Nam, nâng tổng số quân viễn chinh ở Việt Nam lên 48 vạn tên vào cuối 1967 và cùng với quân chư hầu và quân ngụy thành một đội quân đông xấp xỉ 1,1 triệu tên. Mỹ đã huy động tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh. “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ tiến hành đã phát triển đến đỉnh cao, vượt xa dự kiến lúc ban đầu. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]TỔNG CÔNG KÍCH VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA XUÂN 1968[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] - Sau khi đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti, lợi dụng thời cơ kẻ địch đang lúng túng bị động về chiến lược, ta liên tiếp mở nhiều đợt hoạt động tiến công địch trên các chiến trường, không để cho chúng có thời gian củng cố, chuẩn bị cho đợt phản công chiến lược thứ 3. Ở Nam Bộ, ta tiến công địch ở Phước Long, Lộc Ninh, đẩy mạnh đánh phá cắt giao thông, tiêu diệt địch ở Mỹ Tho, Long An, Cần Thơ, Rạch Giá, Châu Đốc. Tháng 11-1967, ta mở chiến dịch Đắc Tô (Tây Nguyên). Ở chiến trường Trị Thiên, ta tập kích vào các căn cứ địch. Một đạo quân đông 1,1 triệu tên với trang bị hiện đại mà buộc phải ở vào thế phân tán trên khắp các chiến trường. Quân Mỹ, sau gần 3 năm trực tiếp tham chiến, với một đội quân lớn gồm các quân chủng Mỹ, song song với việc đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân, hải quân, đã mở hàng trăm cuộc hành quân tìm diệt, càn quét, bình định mà vẫn không tìm thấy lối thoát khỏi đường hầm. Cả 2 mục tiêu chiến lược tìm diệt chủ lực đối phương, bình định, đều không có một kết quả nào cụ thể để chứng minh sức mạnh Hoa Kỳ. Mỹ đã sa vào một thế trận chiến tranh nhân dân mà chính Oét-mo-len đã phải thốt lên, trong báo cáo của mình, là khác với một cuộc chiến tranh thông thường, không thể chỉ ghi lại một cách đơn giản phát triển từ chiến tuyến này đến chiến tuyến khác cho đến khi tiến đến mục tiêu cuối cùng, không đơn thuần là một cuộc chiến tranh quân sự. Trước tình hình Mỹ đã đưa lực lượng trực tiếp tham chiến đến đỉnh cao và với sự đánh giá chủ quan của tổng tư lệnh quân đội Mỹ Oét-mo-len, một bất ngờ to lớn đã xảy ra với ông ta, như ông đã viết: “mặc dù vào giữa tháng 1-1968, chúng tôi chắc địch sẽ tiến công lớn vào dịp tết, nhưng chúng tôi không đoán được có một cuộc tiến công quy mô toàn miền Nam”. Trên cơ sở thế trận đã hình thành, phát huy những thuận lợi về quân sự, chính trị trong nước và trên thế giới, tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã họp và ra nghị quyết quan trọng. Bộ Chính trị đã đánh giá tình hình: “chúng ta đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. Rõ ràng, so với mục đích chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam thì những cố gắng chiến tranh (cùng với những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã tới đỉnh cao...” Bộ Chính trị đã quyết định “chuyển cuộc đấu tranh cách mạng miền Nam của ta sang một thời kỳ mới thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Bộ Chính trị đã kết luận: “Điểm cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy và giành thắng lợi quyết định”. Bộ Chính trị đề ra: “nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả 2 miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa nhằm mục tiêu chiến lược là tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ không thực hiện được nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng, trên cơ sở đó đập tan ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút quân viễn chinh về nước. Trước mắt, ta phải giành được mục tiêu độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập ở miền Nam, và tiến tới thống nhất đất nước. Tuy nhiên, trong điều kiện địch còn hơn 1 triệu quân, tiềm lực chiến tranh lớn, có một bộ máy chính quyền phản động từ Trung ương đến địa phương, do đó, việc tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa sẽ gặp nhiều khó khăn ác liệt. Bộ Chính trị dự kiến, có 3 khả năng: Một là tổng công kích, tổng khởi nghĩa thành công, ta giành được thắng lợi lớn, địch bị thua, phải thương lượng với ta, dần dần kết thúc chiến tranh theo điều kiện ta đặt ra. Hai là, ta giành thắng lợi có mức độ, địch vẫn còn giữ được những vị trí quan trọng, nhất là các đô thị lớn, liên tiếp chống lại ta. Ba là, Mỹ tăng thêm lực lượng mở rộng chiến tranh ra cả phần lãnh thổ miền Bắc, Lào, Cam-pu-chia, hòng xoay chuyển cục diện chiến trường, gỡ thế thất bại, khả năng này có ít, nhưng phải đề phòng. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Một vấn đề quan trọng mà Bộ Chính trị vạch ra là: tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình ta tiến công và nổi dậy liên tục để đè bẹp sức kháng cự của địch, đồng thời cũng là quá trình địch phản công ác liệt để giành lại vị trí đã mất. Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh xây dựng phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Nội dung chính của phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đề ra là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở chiến trường chính là đường số 9 - Khe Sanh nhằm tiêu diệt, thu hút ghìm chân lực lượng chiến lược của Mỹ, mỗi đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã, quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở nông thôn và đô thị mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và các thành phố lớn, trọng điểm là Sài Gòn. Trong thư gửi cho Trung ương Cục và Quân ủy miền Nam ngày 18-1-1968, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đế quốc Mỹ đang ở vào tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược. So với mục đích chính trị, kinh tế xã hội của nước Mỹ, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam hiện nay đã lên đến đỉnh cao nhất... Tình hình trên đây cho phép ta có thể chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa... giáng cho chúng những đòn tiến công sấm sét, làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh...”. Để phân tán lực lượng định và hỗ trợ cho nhau, Đảng ta và Đảng nhân dân cách mạng Lào thống nhất chủ trương mở chiến dịch Nậm Bạc. Từ 12-1 đến 27-1-1968 ta tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 11 tiểu đoàn địch, loại khỏi vòng chiến đấu 3000 tên. Thực hiện chủ trương tổng công kích, tổng khởi nghĩa của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trong lúc ta và bạn đang mở chiến dịch Nậm Bạc thì ngày 21-1-1968, chủ lực ta bất ngờ nổ súng tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ đường 9 của địch, trọng điểm là Khe Sanh, Hương Hóa, tiêu diệt quận lỵ Hương Hóa và làng Vây, uy hiếp Tà Cơn. Đòn tiến công này đã làm cho bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn bất ngờ, lúng túng. Chúng vội vàng điều ngay ra Trị Thiên sư đoàn 1 kỵ binh bay và 2 lữ đoàn dù, thuộc sư đoàn 101 vừa từ Mỹ sang. Cùng thời gian này, các chiến trường Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên đẩy mạnh hoạt động, thu hút, phân tán lực lượng địch, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng. Trong lúc địch đang lúng túng, bị động, thì đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 tức là đêm giao thừa Tết Mậu Thân, quân dân miền Nam đồng loạt tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường, đánh vào 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ, kho tàng, sở chỉ huy của địch. Tại Sài Gòn, từ đêm 30- 1 - 1 968, ta phối hợp lực lượng trong và ngoài thành phố tiến công Tòa đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh hải quân v.v... Lực lượng tự vệ và nhân dân ta đã tiến công các cơ quan ngụy quyền. Tại Huế, ta tiến công và làm chủ phần lớn thành phố, cắm cờ mặt trận lên cột cờ thành Huế. Trên 30 thành phố, thị xã đồng loạt bị tiến công. Trong vài ngày đầu năm hầu hết các thị trấn, thị xã ở miền Nam đều có tiến công và nổi dậy của quân dân ta. Địch bị một đòn bất ngờ, choáng váng trước quy mô tiến công và nổi dậy của ta. Nhiều tuyến giao thông bị cắt đứt, tê liệt. Khí thế cách mạng dâng cao. Nhân dân nô nức, hết lòng giúp lực lượng vũ trang, tiếp tế, cứu chữa thương binh, tiêu diệt ác ôn... Địch phải điệu đồng quân dù, lính thủy đánh bộ, máy bay, xe tăng, cảnh sát dã chiến để phản kích. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong những khu phố, căn nhà kéo dài cả tháng 1 và tháng 2.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]- Kết thúc đợt 1 cuộc tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 100 ngàn tên địch (có 43 ngàn tên Mỹ) gần 20 vạn ngụy quân đào, rã ngũ, một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh bị phá huỷ (2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép, hàng ngàn ô tô, trên 1 triệu tấn vật tư chiến tranh). Quần chúng ở nhiều vùng nông thôn nổi dậy giành quyền làm chủ, thành lập chính quyền cách mạng. Hơn 1,2 triệu dân được giải phóng. Thắng lợi quan trọng của đòn tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn. Tập đoàn cầm quyền ở Mỹ bị phân hóa và dao động cao độ. Ngày 22 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn ra lệnh cách chức tướng Oét-mo-len, từ bỏ chiến lược “tìm diệt”, chuyển sang chiến lược “quét và giữ”. Ngày 31-3 Giôn-xơn ra lệnh ngừng nén bom miền Bắc, từ vĩ tuyến 20 trở lên, đồng thời thông cáo quyết định không ra tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 2, và cứ đại diện đàm phán với đại diện chính phủ ta tại Pa-ri. Cuối tháng 4-1968, Bộ Chính trị họp đánh giá tình hình và kết quả đợt hoạt động Tết Mậu Thân và ra nghị quyết, tiếp tục mở đợt tổng tiến công đợt 2 (bắt đấu từ 4-5-1968). Đến tháng 8-1968, Bộ Chính trị họp và quyết định đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh thế tiến công toàn diện quân sự, chính trị, bằng 3 mũi giáp công, nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra, giành thắng lợi quyết định, làm cho địch thất bại ở chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ. Đợt tổng tiến công thứ 3 bắt đầu tù 17-8 đến 30-9-1968. Mặc dù đã co cụm về phòng giữ hết sức cẩn mật các thành phố, thị xã, các đường giao thông chiến lược quan trọng và tổ chức nhiều cuộc hành quân giải tỏa các vùng, quân địch vẫn bị ta tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và chi khu, các căn cứ, kho tàng, sân bay... Đường 9 và Khe Sanh là một trong những mục tiêu quan trọng, có ý nghĩa chiến lược mà theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, địch đã tập trung một lực lượng lớn để phòng giữ bằng bất cứ giá nào, không để xảy ra một “Điện Biên Phủ” thứ 2 ở đây. Trong quá trình bị bao vây, địch đã sử dụng hàng chục tiểu đoàn pháo để chi viện, đã sử dụng 100 nghìn tấn bom của máy bay B52 và máy bay chiến đấu chiến thuật, tiếp tế đường không khoảng 15 ngàn tấn hàng, dùng 9.100 lượt máy bay lên thẳng để chuyên chở quân và thương binh. Chiến dịch Khe Sanh đã thu hút và giam chân một lực lượng quan trọng của Mỹ. tạo điều kiện cho các hướng khác tổng tiến công và nổi dậy từ Tết Mậu Thân. Trước sức ép nặng nề về quân sự, để tránh một Điện Biên Phủ, ngày 26-6-1968 quân Mỹ đã rút chạy khỏi Khe Sanh. Sau 170 ngày vây hãm và đánh địch rút chạy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch (có 13.000 tên Mỹ), bắn rơi và bị thương 4.800 máy bay, phá hủy 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối, thu hàng ngàn tấn vũ khí và đạn dược, giải phóng hoàn toàn quận Hương Hóa, với hơn 1 vạn dân. Một tuyến phòng thủ chiến lược quan trọng, kéo dài gần 40 km, trên đường 9, từ Lao Bảo đến Ca Lu bị bỏ ngỏ. Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược. Kết thúc năm 1968, miền Nam giành thắng lợi lớn, loại khỏi vòng chiến đấu gần 630 ngàn tên (có 230 ngàn tên Mỹ và chư hầu), bắn rơi và phá hủy 600 máy bay các loại, diệt 13.500 xe quân sự các loại, san bằng, bức rút 1500 đồn bốt, giành chính quyền cách mạng ở 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân. Mặc dù đế quốc Mỹ đã đưa số quân viễn chinh lên đến gần 53 vạn tên cuối năm 1968, nhưng vẫn không xoay chuyển nổi tình hình chung trên chiến trường. Việc đánh phá và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc không thu được kết quả đáng kể, nội bộ tập đoàn cầm quyền Mỹ bị chia rẽ sâu sắc, phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ lên cao, vấn đề Việt Nam đã trở thành hàng đầu trong cuộc tranh cử tổng thống vào tháng 11 năm 1968 của Đảng dân chủ đang cầm quyền ở Mỹ. Trước tình hình đó, ngày 1-11-1968, chính quyền Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bằng không quân, hải quân và pháo binh, chấp nhận họp hội nghị bốn bên về Việt Nam tại Pa-ri, có đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng, để tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]ĐÁNH GIÁ THẮNG LỢI VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TRONG GIAI ĐOẠN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1968)[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Từ 1965 đến 1968, đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc vô cùng khốc liệt, hòng khuất phục nhân dân ta. Bằng cuộc chiến tranh nhân dân thần kỳ, nhân dân ta đã từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của chúng trên cả 2 miền, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chịu ngồi vào đàm phán ở Hội nghị Pa-ri và tìm cách rút dần ra khỏi Việt Nam. Sức mạnh khổng lồ của đế quốc Mỹ, cả về kinh tế và quân sự đã không thắng nổi cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, không cứu được chúng khỏi thất bại thảm hại ở Việt Nam. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Trước tiên, nó chứng minh cho nhân dân thế giới thấy rõ sức mạnh và khả năng to lớn của cách mạng và của chiến tranh cách mạng có thể thắng được các thế lực đế quốc xâm lược hao người tốn của ghê gớm như cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Đánh bại chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, chúng ta đã tạo được thế và lực mới để tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn trong những năm tiếp theo và giành thắng lợi cuối cùng trong năm 1975. Thắng lợi của nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc, đánh bại chiến tranh cục bộ và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đã tạo cơ sở quan trọng và vững chắc cho việc hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”. Không đánh thắng “chiến tranh cục bộ” trong những năm 1965 và 1968, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, thì không có điều kiện và tiền đề để giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để trong cuộc kháng chiến. Từ những thắng lợi chiến lược đã giành được và cả những khuyết điểm, hạn chế trong chỉ đạo chiến lược, rút ra những bài học kinh nghiệm quan trọng về chỉ đạo chiến tranh. Trước nhất là phải có tinh thần dám đánh và quyết đánh Mỹ, từ đó sẽ dần tìm ra cách đánh tốt nhất để thắng chúng. Khi Mỹ đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân ở miền Bắc, không phải không có những bạn bè lo lắng cho chúng ta, liệu chúng ta có đủ sức đương đầu nổi với tên đế quốc đầu sỏ không? lấy gì để chống Mỹ? Nhưng nhân dân Việt Nam với truyền thống yêu nước đã được thử thách và tôi luyện, sẵn sàng chấp nhận, bước vào cuộc đọ sức mới. Đế quốc Mỹ đã gặp phải một đối tượng là dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn giữ vững lời thề “thà hy sinh tất cả chứ không chịu làm nô lệ”. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, chúng đã khơi dậy sức mạnh yêu nước tiềm tàng của dân tộc và càng làm cho dân tộc Việt Nam đoàn kết lại. Trong lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 Người chỉ rõ “Giôn-xơn và bè lũ phải biết rằngchúng có thể đưa 50 vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do...”. Sau khi đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh vào miền Nam Việt Nam tháng 3-1965, đến 27-5-1965 bộ đội Quân khu 5 đã tiến công tiêu diệt gọn 1 đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ ở Núi Thành. Tiếp theo là trận Vạn Tường, giữa ban ngày, 1 trung đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và dân quân du kích xã đánh bại cuộc hành quân tìm diệt của hơn 8.000 quân Mỹ, có máy bay, xe tăng, hải quân chi viện. Những trận thắng Mỹ đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó vạch ra một đáp án để đánh thắng Mỹ, đó là phải dám đánh Mỹ. Và khi đã dám đánh Mỹ thì sẽ dần tìm ra cách đánh hay nhất, tốt nhất để đánh thắng chúng. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Sau Núi Thành, Vạn Tường, tiến đến Plây-me, Đất Cuốc, Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Đồng Dương, khách sạn Mê-tơ-rơ-pôn, chúng ta đã thắng Mỹ liên tiếp, trận sau lớn hơn trận trước và tiếp theo là bẻ gãy 2 đợt phản công chiến lược của địch trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 để đến Xuân 1968, bằng các đợt tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta đánh thắng chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang và quyết định rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Thứ hai đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và địch: Khi đế quốc Mỹ đưa 20 vạn quân vào trực tiếp chiến đấu, tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam thì hội nghị Trung ương lần thứ 14 (tháng 12-1965) đã xem xét, đánh giá và rút ra kết luận vô cùng quan trọng: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”. Rút ra kết luận trên đây là xuất phát từ các căn cứ: - Đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam trong thế thua để cứu cho ngụy quân, ngụy quyền khỏi sụp đổ, nên bị động về chiến lược trong một cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Vừa leo thang chiến tranh từng bước, vừa phải thăm dò dư luận trên thế giới và trong nước Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân vào trong hoàn cảnh cách mạng miền Nam đang trưởng thành, đang phát triển, đã đủ sức đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, có khả năng tiêu diệt chế độ ngụy quyền ở miền Nam. Về lực lượng quân sự, đã hình thành thế trận chiến tranh nhân dân với 3 thứ quân, đứng vững trên tất cả các địa bàn quan trọng cả 3 vùng, đã xây dựng được thế trận xen kẽ, có lực lượng cắm sâu tận sào huyệt địch. - Địch vào tuy đông, nhưng không thể điều động lực lượng theo ý muốn ban đầu. Do phải đối phó với thế trận chiến tranh nhân dân không chiến tuyến phát triển nên chỗ nào cũng thấy hở, địch phải dàn mỏng lực lượng và dốc toàn lực để tiến công chiến lược, tiến từ tuyến này đến tuyến khác. Việc hội nghị Trung ương lần thứ 14 đánh giá so sánh tương quan lực lượng địch, ta đúng đắn, chính xác và rất khoa học, có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, vì nó là cơ sở để định hướng cho quyết tâm chiến lược. Thứ ba: quyết tâm giữ vững và phát triển chiến lược tiền công. Từ đánh giá so sánh tương quan lực lượng, mặc dù để quốc Mỹ đưa vào hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh tương quan thế, lực ta và địch vẫn không thay đổi lớn, ta đã hạ quyết tâm tiếp tục đẩy mạnh chiến lược tiến công mà không quay về phòng ngự chiến lược, là một chủ trương sáng suốt, dũng cảm. Nhờ tiếp tục đẩy mạnh thế tiến công, nên ta đã đẩy quân địch vào thế bị động chiến lược. Đặc biệt việc lập quân khu Trị Thiên và mở mặt trận đường 9 - Bắc Quảng Trị để đẩy địch vào thế lúng túng, bị động đối phó, giam chân một lực lượng chủ lực lớn của Mỹ vào chiến trường rừng núi, trực tiếp đương đầu với chủ lực miền Bắc của ta, tạo điều kiện cho các chiến trường khác giành quyền chủ động. Trên cả 3 vùng, ta đều căng địch ra mà đánh, nơi nào chúng cũng bị đánh, bị tiêu hao, tiêu diệt bằng những trận tập kích, phục kích, vận động, tiến công bất ngờ. Khi địch mở các cuộc phản công chiến lược hy vọng giành lại thế chủ động thì đã bị ta đánh bại. Chiến thắng đợt phản công chiến lược lần 1 của địch, tạo điều kiện, tiền đề để tập tan đợt phản công chiến lược lần 2, giành thắng lợi lớn hơn, đặc biệt việc đập tan cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti có ý nghĩa quan trọng cả về chiến lược và chiến thuật. Sau khi đánh bại 2 cuộc phản công chiến lược, không để cho địch có thời gian củng cố, ta tiếp tục phát triển tiến công địch trên tất cả các chiến trường Tây Nguyên, mở chiến dịch Đắc Tô, tập kích một loạt căn cứ của địch ở Trị - Thiên. Địch đã bị động càng thêm bị động, vội vã điều quân về giữ các khu trọng điểm then chốt ở Trị Thiên, Tây Nguyên và quanh Sài Gòn. Một đạo quân 1,1 triệu tên phải sa vào thế phân tán, bị động để đối phó với thế tiến công rộng khắp của chiến tranh nhân dân ta. Toàn bộ âm mưu chiến lược “tìm diệt” và “bình định” đều bị thất bại - thất bại cả quân sự và chính trị, ngoại giao. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã quyết định phát triển chiến lược tiến công lên một đỉnh cao mới; tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, đưa cuộc chiến tranh cách mạng sang thời cơ mới. Và cuộc tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968 lại giáng thêm một đòn chí tử vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của chúng, làm đảo lộn thế chiến lược của địch, buộc chúng từ bỏ chiến lược “tìm diệt” quay sang chiến lược “quét và giữ”, xuống thang chiến tranh.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Thứ tư: nghệ thuật chọn hướng tổng tiến công bất ngờ Xuân 1968. Trong khi địch có trên 1,1 triệu quân, trang bị hiện đại, bố trí thành 1 hệ thống phòng thủ chiến lược với nhiều căn cứ, nhiều tập đoàn phòng ngự ở khắp nơi, ta đã phát hiện đúng nơi hiểm yếu và sơ hở của địch. Đó là các đô thị, thành phố, các sở chỉ huy, căn cứ hậu cần, sân bay của địch. Phát hiện chính xác nơi sơ hở và hiểm yếu về chiến lược của địch, tập trung cao nhất mọi nỗ lực cố gắng của ta, tiến hành tổng công kích và nổi dậy một cách mạnh mẽ, bất ngờ, đồng loạt giáng cho địch một đòn hiểm hóc, giành thắng lợi chiến lược to lớn. Thắng lợi trong cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân là một thành công to lớn về vận dụng, quán triệt chiến lược tiến công, trong điều kiện lực lượng địch mạnh hơn ta nhằm đánh bại ý chí xâm lược của chúng. Thứ năm: nghệ thuật tổ chức thực tiễn tài giỏi của ta. Bác Hồ thường dạy: quyết tâm 10, biện pháp 20. Nghĩa là muốn biến quyết tâm thành thắng lợi hiện thực, đòi hỏi phải có công tác tổ chức thực tiễn tài giỏi. Trong hoàn cảnh địch tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, gây cho ta muôn vàn khó khăn tưởng chừng như không vượt nổi, nhưng với sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân, chúng ta đã khắc phục hết khó khăn này đến khó khăn khác, để giành thắng lợi từng bước, từ thấp đến cao cho đến đợt tổng tiến công Mậu Thân, là một quá trình nỗ lực phấn đấu hy sinh vô bờ bến của nhân dân cả hai miền và đặc biệt của hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc vừa phải đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, vừa phải tổ chức chi viện sức người, sức của cho miền Nam, hệ thống đường chiến lược Trường Sơn ngày càng phát triển và không ngừng được củng cố chi viện chiến lược theo đường biển cũng được tổ chức thực hiện. Ở miền Nam, việc phát triển và củng cố 3 thứ quân cả vế số lượng và chất lượng, nhất là quân chủ lực, bộ đội đặc công và pháo binh được phát triển và củng cố nhanh chóng đã bảo đảm sức mạnh tổng hợp của 3 thứ quân được nâng lên rõ rệt. Việc tổ chức mạng lưới tình báo chiến lược, chiến thuật thành công vững chắc đã góp phần quan trọng cho việc chỉ huy lãnh đạo, hạ quyết tâm có cơ sở chắc chắn đánh bại được các cuộc phản công chiến lược của địch và tổ chức thắng lợi các đợt tiến công của ta. Thứ sáu: có một chiến lược tổng hợp để phát huy sức mạnh của dân tộc, của cả nước và sức mạnh của thời đại. Phải phát huy được sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao của chiến tranh cách mạng, toàn dân, toàn diện. Chiến lược tổng hợp trong giai đoạn đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ từ 1965 đến 1968, khi Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam, không những đã phát huy được sức mạnh của dân tộc ta, của lòng yêu nước, chống đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc và yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, làm chủ của nhân dân lao động, mà còn phát huy sức mạnh của thế giới tiến bộ, của ba dòng thác cách mạng. Tác động của nó vượt ra ngoài lĩnh vực hoạt động quân sự, ngoài không gian của chiến trường Việt Nam, đi vào toàn thế giới, trong đó có cả nước Mỹ và các nước chư hầu, có quân đội trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Chiến lược tổng hợp của Đảng ta, đã xác định mục tiêu phù hợp và đề ra phương hướng, phương châm, nguyên tắc cơ bản để xây dựng tổ chức lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, và có phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chính xác, khoa học. Trong giai đoạn này, Đảng ta đã đề ra mục tiêu chiến lược được Bác Hồ khái quát ngắn gọn “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Mục tiêu này xác định mức độ, yêu cầu đạt được với từng kẻ thù mà đặc biệt là cần có với kẻ thù chủ yếu, là đội quân viễn chinh của Mỹ và chư hầu, Đảng ta không đặt yêu cầu quá cao là diệt hết quân Mỹ đang tiến hành chiến tranh trên lãnh thổ Việt Nam, mà phải đánh làm sao cho Mỹ cút. Đứng về chiến lược trong chiến tranh, muốn buộc quân Mỹ phải cút, qua kinh nghiệm chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam và miền Bắc Việt Nam, thì quan trọng nhất là phải làm cho chúng một ý chí xâm lược, trên cơ sở các biện pháp chiến lược của chúng bị thất bại. Còn quân đông mà phải rút khỏi nước ta, đó là kinh nghiệm của Việt Nam chống xâm lược có tính chất truyền thống dân tộc chống kẻ thù mạnh hơn. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Trải qua lịch sử chiến tranh Việt Nam, quân Tống đã phải rút chạy sau thất bại trước phòng tuyến sông Như Nguyệt; quân Mông Nguyên 3 lần bị tiêu diệt trong quá trình xâm lược, phải rút chạy về nước. Quân Pháp đã phải rút khỏi Điện Biên Phủ 1954. Đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ và mạnh nhất phe đế quốc tư bản, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh, có quyết tâm chống cộng sản, hết sức ngoan cố, sẵn sàng đi bất cứ đâu để bảo vệ chế độ tự do tư sản, như tổng thống Ken-nơ-đi đã từng tuyên bố, khi can thiệp vào Việt Nam. Đánh cho Mỹ mất ý chí xâm lược, phải xuống thang chiến tranh và rút quân viễn chinh trên 50 vạn tên khỏi nước ta, không phải dễ dàng có thể xác định được ngay, khi Giôn-xơn tuyên bố đưa quân Mỹ trực tiếp tham chiến vào năm 1965. Buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận từ bỏ chiến lược “chiến tranh cục bộ”, thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh” khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến với lực lượng cao nhất, là một nghệ thuật. Ngay tướng Oét~mo-len, tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở miền Nam cũng phải nhận rằng Mỹ đã thua và ta đã giành được thắng lợi tâm lý ở Mỹ, ảnh hưởng đến tổng thống Giôn-xơn và các cố vấn dân sự của ông ta, buộc Giôn-xơn phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 2 và cách chức Oét-mo-len. Mất ý chí đem quân trực tiếp tham chiến, thất bại trong “chiến tranh cục bộ”, Mỹ phải quyết định “phi Mỹ hóa chiến tranh” để đến năm 1975, toàn bộ chính quyền ngụy với trên 1 triệu quân đổ nhào, chỉ là một diễn biến tất yếu của sự thất bại của chiến tranh cục bộ năm 1968. Mỹ phải cút, mất ý chí xâm lược, phải chịu xuống thang vì các biện pháp chiến lược tìm diệt và bình định của Mỹ đều thất bại trên 2 năm tham chiến trực tiếp. Mỹ đã không thắng nổi chiến tranh toàn dân của Việt Nam, Mỹ đã phải chấp nhận những trận chiến đấu theo ý đồ của đối phương, trong khi họ định đi tìm đối phương để diệt. Quân Mỹ trên chiến trường đã không phát huy được sở trường, sức mạnh của hỏa lực phi pháo, sức đột kích của xe tăng thiết giáp. Trái lại, cái sở đoản của đội quân cơ giới hợp đồng binh chủng khi bị đánh bất ngờ, mặt đối mặt với bộ binh tinh nhuệ của đối phương đã lúng túng giống như quân kỵ binh Mông Cổ giáp dầy giáo dài bị tập kích ban đêm, quân không kịp lên ngựa, bị các chiến binh ta dùng đoản binh chém giết, không chống đỡ nổi. Các chiến dịch tiến công, phản công vận động với các trận phục kích, tập kích, vận động tiến công đưa địch vào thế trận đã chuẩn bị của ta, buộc địch đánh trong thế bị động. Lấy phát huy tinh thần và cách đánh bám thắt lưng địch mà đánh, đã làm cho quân đội chính quy hiện đại của Mỹ khó trở tay kịp và cũng không biết cách đối phó ra sao. Đúng như Mo-sơ-đai - Jăng nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Ixraen khi đi thăm quân Mỹ ở miền Nam, đã phát biểu: “Chỉ nằm mơ mới thấy lực lượng của Hoa Kỳ triển khai tác chiến ở Việt Nam, nhưng lực lượng Mỹ đi tìm diệt thì đi đến đâu đối phương cũng biết. Trái lại, Việt Cộng chỉ chấp nhận chiến đấu khi họ muốn; Mỹ như một võ sĩ hạng nặng nhưng bị bịt cả hai mặt, trái lại, Việt Cộng như võ sĩ hạng nhẹ nhưng có cả hai mắt ở sau gáy”. Hai đợt phản công trong năm 1966 và trong năm 1967 đều thất bại, không tìm - diệt được đối phương mà lại còn bị thiệt hại nặng. Trên 200.000 quân (có 100.000 Mỹ và Nam Triều Tiên) bị loại khỏi vòng chiến đấu; trên 1.000 máy bay, trên 1.000 xe bọc thép bị phá hủy. Năm 1968, với đòn tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, đã làm cho địch thiệt hại lớn chưa từng có: - Trên 600.000 địch bị loại khỏi vòng chiến đấu, trong đó có trên 200.000 lính Mỹ, 6000 máy bay bị phá hỏng, 13.500 xe quân sự các loại bị phá hoại, 15.000 đồn bốt phải rút bỏ, trên 1.000 thôn ấp với trên 2 triệu dân được giải phóng. Biện pháp “tìm diệt” không có kết quả cộng với sự thất bại của “bình định”, mà một đòn sét đánh vào dịp Tết Mậu Thân, 5 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ, căn cứ kho tàng, sở chỉ huy nằm sâu trong hậu phương địch đồng loạt bị tiến công, ngay đến tổng hành dinh của Mỹ, ngụy cũng đều bị đánh. Chỉ trong 1 tháng mà trên 100.000 tên địch, trong đó có trên 40.000 tên Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 20 vạn ngụy quân rã ngũ, 2.370 máy bay, 1.700 xe tăng, xe bọc thép trên 1.200.000 dân được giải phóng. Cuộc tiến công Tết Mậu Thân 1968 có ý nghĩa to lớn, vì nó nổ ra sau hơn 2 năm quân Mỹ trực tiếp tham chiến và nó diễn ra ngay sau khi tổng tư lệnh Mỹ Oét-mo-len báo cáo cho tổng thống Mỹ, là chủ lực Việt Cộng đã bị đẩy ra xa gần biên giới và nông thôn, đô thị miền Nam cơ bản đã được bình định. Nó thể hiện phương hướng tác chiến chiến lược của Đảng đề ra đã có hiệu lực lớn, chiến tranh du kích đã được phát triển lên đỉnh cao, đã tiêu hao, phân tán, ghìm chân địch, đập tan các cuộc càn quét, đánh bại âm mưu bình định, uy hiếp các đô thị của địch. Trên cơ sở 2 biện pháp chiến lược “tìm diệt” và “bình định” của địch bị đánh bại, chiến tranh nhân dân của ta ngày càng vững vàng, các phương thức tác chiến chiến lược được đề ra đã phát huy hiệu quả đánh địch trên toàn bộ chiến trường miền Nam. Các căn cứ hậu cần, sân bay, hải cảng bị đánh phá. Các đường giao thông thủy bộ quan trọng của địch đều bị đánh, tạo ra thế chia cắt, bao vây địch, buộc chúng phải đi vào phòng ngự. Trong các đô thị, việc kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang phát triển. Tác chiến kết hợp với binh vận, làm địch tan vỡ, ly khai, phát huy hiệu lực cao, đặc biệt trong tổng công kích và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân. Sáu phương thức tác chiến chiến lược là bài học kinh nghiệm quan trọng, đã trở thành những tư tưởng quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thứ bảy là theo tôi trong giai đoạn này, trong lãnh đạo chiến tranh ta cũng có khuyết điểm ảnh hưởng đến kết quả của chiến thắng, gây thiệt hại và kéo dài thời gian chiến tranh. - Ý định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định mà Nghị quyết hội nghị Trung ương 14 đề ra, tháng 12-1967 vượt khả năng thực tế của ta lúc đó, vì kẻ địch còn hơn 1,1 triệu quân, được trang bị hiện đại, được bố trí thành hệ thống phòng thủ chặt chẽ trên khắp miền Nam. - Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân mang tính chất và hình thức là một cuộc tổng tiến công chiến lược, hay tập kích chiến lược nhiều hơn là tổng tiến công, tổng khởi nghĩa. Trên thực tế, lực lượng sử dụng tổng tiến công không nhiều, sức mạnh tổng khởi nghĩa chưa thật rõ nét và đồng loạt mà mới biểu hiện ở một số nơi, còn chủ yếu là sự tham gia giúp đỡ của nhân dân trong việc đưa đường, tiếp tế nuôi giấu thương binh. - Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân giành thắng lợi to lớn và có ý nghĩa chiến lược chủ yếu và tập trung là ở đợt một. Sau đợt 1, yếu tố bất ngờ đã mất, địch đã chuẩn bị đối phó quyết liệt. Nếu sau đợt 1, ta rút về củng cố các khu căn cứ và vùng giải phóng, đẩy mạnh chống phá “bình định”, củng cố lực lượng, thì thắng lợi sẽ lớn hơn, ít bị tổn thất. Việc đặt vấn đề tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình, và tổ chức liên tiếp hết đợt 1, sang đợt 2 và đợt 3, là một sai lầm, đã gây cho ta nhiều thiệt hại và khó khăn lớn. Thực tiễn chứng minh, với tương quan lực lượng thực tế lúc đó việc đặt ra mục đích đánh đổ ngụy quyền, cô lập và buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận chính quyền liên hiệp là không phù hợp. Dù sao thắng lợi của tổng tiến công Tết Mậu Thân, kết thúc giai đoạn đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ, đã có ý nghĩa chiến lược to lớn. Bằng sức mạnh của chiến tranh nhân dân phát triển cao, kết hợp chặt chẽ hai phương thức tiến hành chiến tranh, bằng sức mạnh của cả lực lượng chính trị và vũ trang, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược, nắm đúng thời cơ và tạo thời cơ, phá chiến lược, “tìm diệt” và “bình định” của đế quốc Mỹ, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của chúng, buộc chúng phải xuống thang, phải ngồi vào bàn thương lượng. Thắng lợi của giai đoạn 1965 - 1968 đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lên một bước mới, giành thắng lợi to lớn hơn trong cuộc chiến tranh giải phóng.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]ĐỘNG VIÊN NỖ LỰC CAO NHẤT CỦA CẢ NƯỚC, KIÊN QUYẾT ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 - 1973)[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Cuối những năm 60, tương quan lực lượng trên thế giới biến đổi bất lợi cho Mỹ. Sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa được nâng lên rõ rệt, trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục nâng cao, một số nước đồng minh của Mỹ cũng bước vào cạnh tranh mạnh với Mỹ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị, kinh tế xã hội và tinh thần nước Mỹ và là một trong những nhân tố chủ yếu làm thay đổi các mối liên hệ chiến lược nói trên. Lợi dụng thất bại của chính quyền Giôn-xơn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Ních-xơn đã trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1969 - 1973. Trước di sản nặng nề mà chính quyền cũ để lại, chính quyền mới ở Mỹ cho ra đời học thuyết “Ních-xơn” và chiến lược quân sự toàn cầu “ngăn đe thực tế” thay thế cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã bị phá sản. Học thuyết Ních-xơn vẫn nhằm chống phá xã hội chủ nghĩa, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, duy trì vị trí của Mỹ trên thế giới, nhưng bằng cách cố gắng cải thiện nội tình chính trị, kinh tế - xã hội nước Mỹ, tăng cường lợi dụng mâu thuẫn giữa một số nước xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh việc sử dụng các đòn bẩy ngoại giao, nhất là với các nước lớn, sử dụng tối đa các đạo quân tay sai ở các khu vực để có thể giảm bớt gánh nặng quân sự cho Mỹ và “thay đổi màu da xác chết”. Đối với miền Nam Việt Nam, chính quyền Mỹ tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Dùng người Việt đánh người Việt” với vũ khí trang bị và chỉ huy của Mỹ. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bao gồm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Làm cho ta suy yếu, nâng cao sức mạnh quân ngụy Sài Gòn, chuyển giao dần nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân ngụy, rút từng phần quân chiến đấu Mỹ về nước. - Giai đoạn 2: Làm cho ta suy yếu thêm 1 bước nghiêm trọng, buộc ta phải lui vào phòng thủ và hoạt động nhỏ, rút phần lớn quân Mỹ về nước. - Giai đoạn 3: Hoàn thành việc rút quân Mỹ, củng cố sự kiểm soát của ngụy quân, ngụy quyền ở Nam Việt Nam. Mỹ đã ráo riết thi hành nhiều biện pháp kết hợp để thực hiện kế hoạch chiến lược này. Chúng ra sức tăng cường ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Tới cuối năm 1971, quân ngụy đã có tới 1,04 triệu tên, được trang bị thêm nhiều máy bay, tàu chiến, xe tăng, pháo. Chúng quan tâm củng cố bọn tay sai chóp bu, chấn chỉnh chính quyền các cấp ở tỉnh, quận, gắng phục hồi kinh tế Nam Việt Nam vừa để lừa bịp, vừa để giảm gánh nặng cho Mỹ. Lợi dụng sự thiệt hại của ta qua 2 năm liên tiếp tiến công bộc lộ lực lượng chúng chủ trương tiến hành đồng thời ba loại chiến tranh: chiến tranh giành dân, chiến tranh ngăn chặn và bóp nghẹt, chiến tranh hủy diệt. Lực lượng Mỹ, ngụy kết hợp đã liên tiếp mở các cuộc hành quân phản kích, dùng B52 và các máy bay chiến thuật đánh phá ác liệt để đẩy lùi các đơn vị bộ đội chủ lực của ta ra xa các vùng xung yếu. Địch tiến hành “chiến dịch bình định”, lấy các vùng ven thành phố, thị xã làm trọng điểm rồi loang rộng dần với mục đích gom dân, phá các cơ sở cách mạng và du kích. Không dừng ở đó, địch còn đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào, giật dây bọn Lon Non tay sai, làm đảo chính lật Xi-ha-núc (3-1970), mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia. Từ tháng 4-1970 đến hết năm 1971, địch đã liên tiếp mở các chiến dịch tiến công sang Cam-pu-chia và Lào. Mục đích của Mỹ là lập một liên minh phản động khu vực, cô lập, bóp nghẹt cách mạng miền Nam Việt Nam và áp đặt sự thống trị lên cả ba nước Đông Dương. Đối với miền Bắc Việt Nam, Mỹ vi phạm điều cam kết ngừng ném bom, bắn phá và các hành động chiến tranh khác, chúng dùng máy bay trinh sát và đánh phá án liệt tuyến vận chuyển chiến lược. Cùng với hành động đẩy mạnh chiến tranh, chính quyền Ních-xơn đã tích cực xúc tiến các hoạt động ngoại giao xảo quyệt. Chúng cố tình dây dưa ở Hội nghị Pa-ri, lợi dụng hội nghị để tuyên truyền lừa bịp. Chúng chơi trò ngoại giao giữa “các trung tâm sức mạnh”, gây sức ép trong việc ép nhân dân Việt Nam phải nhân nhượng Mỹ. Mỹ đã có tham vọng rất lớn khi đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” cùng với những biện pháp thực hiện thâm độc, xảo quyệt được tính toán kỹ lưỡng. Song ngay bản thân chiến lược này đã chứa đựng những mâu thuẫn không khắc phục được. Việc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra toàn bán đảo Đông Dương và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo, quy mô lớn đối với miền Bắc Việt Nam (tháng4-1972 - 12-1972) không chỉ buộc Mỹ lại phải dính sâu vào cuộc chiến tranh, mà còn chứng tỏ “học thuyết Ních-xơn” áp dụng vào Việt Nam đã tỏ ra bất lực. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Cuối năm 1968, sau các đợt tổng tiến công đợt 2, đợt 3 của ta không dứt điểm, không đạt được mục tiêu đề ra, địch đã tập trung sức phản kích quyết liệt. Ta bị tổn thất lớn. Nửa đầu năm 1969, ta vẫn gặp nhiều khó khăn. Vùng giải phóng bị thu hẹp, mất đất, mất dân. Địch đã bình định cấp tốc trên 9.200 ấp với số dân gần 16 triệu, trong tổng số 12.395 ấp với 17,5 triệu dân. Nhiều cơ sở bị vỡ, thế chiến tranh nhân dân suy giảm. Lực lượng chủ lực tuy còn đủ số lượng sư đoàn, nhưng không đủ sức thực hiện các chiến dịch tiến công quy mô vừa và lớn; một số sư đoàn chủ lực ở Khu 5 và Nam Bộ phải ra đứng chân ngoài biên giới Cam-pu-chia và Hạ Lào. Các căn cứ hậu cần, kho tàng bị địch đánh thiệt hại, khả năng bổ sung tại chỗ rất hạn chế. Trong điều kiện có những khó khăn to lớn trước mắt như vậy, đầu năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi cả nước và vạch rõ phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Tháng 4-1969, Bộ Chính trị họp và nhận định rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” là một chủ trương đề ra trong thế thất bại, chứa dựng đầy những mâu thuẫn không thể khắc phục được nó rất xảo quyệt, thâm độc và tàn bạo, nhưng là sự phản ánh thế đi xuống, thế thua của Mỹ. Tháng 1-1970 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 18 để xem xét nghiêm túc các khuyết điểm, điểm yếu của ta, phân tích kỹ lưỡng tình hình, lực lượng địch và đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong bước chuyển biến mới của tình hình. Hội nghị nhấn mạnh phải “... tiếp tục phát triển chiến lược tấn công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và kinh tế, kết hợp tiến công ngoại giao, vừa tiến công địch, vừa ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị của ta ngày càng lớn mạnh... Đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất đất nước”. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị nêu rõ, công tác hậu cần có tầm quan trọng chiến lược, đề ra yêu cầu phải chuẩn bị tốt về mọi mặt, chủ động trước tình hình diễn biến phức tạp ở Cam-pu-chia và Lào có thể làm cho việc vận chuyển chi viện cho Nam Bộ và Tây Nguyên gặp nhiều khó khăn. Nắm vững tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Bộ Chính trị, ta đã từng bước khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, chuyển hướng đấu tranh trên cả 3 vùng chiến lược, kiên cường chống phá “bình định” nông thôn của địch và củng cố vùng giải phóng. Một số đơn vị chủ lực được phân công xuống các địa phương để củng cố cơ sở, phục hồi và phát triển chiến tranh du kích, xây dựng và củng cố bộ đội địa phương, dân quân du kích. Các Đảng bộ, đảng viên ở các cơ sở còn lại, quyết tâm bám trụ, vượt qua những thử thách ác liệt nhất để lãnh đạo phong trào. Ở các vùng giải phóng, bộ đội và nhân dân vừa đánh giặc vừa ra sức tăng gia sản xuất, cố gắng tự túc một phần lương thực. Kết quả là, quá trình “bình định” của địch từng bước bị chặn đứng, đẩy lùi. Từ cuối quý ba 1969, lực lượng vũ trang của ta lại bắt đầu mở các hoạt động quân sự có hiệu quả. Ngày 2-9-1969 Bác Hồ qua đời. Trong di chúc, Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Trước tổn thất vô cùng lớn lao đó, một phong trào “biến đau thương thành hành động cách mạng” đã được phát động trong cả nước. Ở miền Nam, ta đã mở hàng loạt các cuộc tiến công vừa và nhỏ ở Phước Long, Quảng Đức, Đà Lạt, Rạch Giá, Mỹ Tho, Bến Tre, Kiến Tường, An Giang, Tây Nguyên, Thừa Thiên. Đặc biệt tháng 11-1969 lực lượng vũ trang Tây Nguyên đã đánh bại cuộc hành quân của địch ở Chư Pa và Tây Bắc Kon Tum, đồng thời phá vỡ tuyến phòng thủ Tây Nam Đắc Lắc của địch, uy hiếp Buôn Ma Thuộc. Ta còn tiến hành tập kích vào các thành phố Đà Nẵng, Huế, Quy Nhơn, Cần Thơ, Sài Gòn, gây cho địch nhiều thiệt hại. Phối hợp với chiến trường miền Nam, quân và dân bạn cùng lực lượng vũ trang ta đã thu được những thắng lợi quân sự quan trọng trên các chiến trường Lào và Cam-pu-chia. Quân dân Lào, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, đã đánh bại cuộc hành quân lớn nhất của địch ra Cánh Đồng Chum (9-1969 đến tháng 1-1970). Cuối tháng 4-1970, liên quân Lào - Việt tiến công giải phóng thị xã A-tô-pơ (Hạ Lào), rồi thừa thắng tiến công thị xã Sa-ra-van (9-6-1970), giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Lào. Tháng 4-1970 Mỹ ngụy sử dụng tới 5 vạn quân Mỹ và 5 vạn quân ngụy tiến sang Đông Bắc Cam-pu-chia, hy vọng đập tan căn cứ đầu não và hậu cần của ta. Song cuộc hành quân lớn này của địch đã bị chặn đánh quyết liệt. Tính đến tháng 6-1970 lực lượng vũ trang ta và bạn đã loại khỏi vòng chiến đấu 17 nghìn quân Mỹ ngụy, phá hỏng 15.000 xe quân sự có 750 xe tăng và xe bọc thép, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh ở Đông Bắc Cam-pu-chia, và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, hình thành một vùng giải phóng rộng lớn. Như vậy là vào nửa đầu năm 1970, một vùng căn cứ giải phóng liên hoàn đã hình thành, kéo dài từ Thượng Lào xuống Trung, Hạ Lào, nối liền với Đông Bắc Cam-pu-chia, liên kết với Tây Trị Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Trước tình hình nghiêm trọng mới do Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương, cũng như thế trận thuận lợi cho bước phát triển mới của cách mạng ba nước, ngày 19-6-1970 Bộ Chính trị ra nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ mới của chúng ta, là “động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cả hai miền Nam - Bắc nước ta, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương thành một khối thống nhất, có chiến lược chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai”. Bộ Chính trị chỉ rõ: Miền Nam là “chiến trường quan trọng nhất” trong cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chiến trường Cam-pu-chia là khâu yếu nhất của địch; chiến trường Lào có vị trí hiểm yếu, nhất là Trung và Hạ Lào, vì đó là hành lang nối liền hậu phương miền Bắc với chiến trường miền Nam và Cam-pu-chia; còn miền Bắc là hậu phương chung của tiền tuyến lớn miền Nam, cũng như của cách mạng Lào và Cam-pu-chia. Bước vào năm 1971, mặc dù đã thua đau trên chiến trường ba nước Đông Dương, đế quốc Mỹ vẫn không cam chịu thất bại, tiếp tục lao vào cuộc phiêu lưu mới. Ngày 8-2-1971 Mỹ ngụy bắt đầu mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh lên khu vực biên giới Đường 9 - Nam Lào, đưa đại bộ phận lực lượng dự bị chiến lược quân chủ lực ngụy, có sự chi viện tối đa của hỏa lực không quân, pháo binh Mỹ vào tham chiến. Âm mưu của địch là cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, lập tuyến ngăn chặn cắt đôi Đông Dương. Cuộc hành quân này cũng nhằm vào thử thách công thức bộ binh ngụy cộng hỏa lực Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Phối hợp với hướng Đường 9 - Nam Lào và để phân tán lực lượng của ta, địch còn mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1971” đánh sang Công Pông Chàm, Kra Chiê (Cam-pu-chia) và cuộc hành quân “Quang Trung” đánh ra vùng Ba biên giới tại Tây Nguyên. Ngày 9-2-1971, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị “tập trung lực lượng, kiên quyết tiêu diệt nhiều sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ - ngụy, bảo vệ bằng được con đường chi viện cho tiền tuyến, phối hợp với các chiến trường, với nhân dân Lào và Cam-pu-chia anh em, đập tan hành động phiêu lưu quân sự của đế quốc Mỹ và tay sai”. Chiến dịch phản công của ta ở Đường 9 - Nam Lào kéo dài từ ngày 8-2-1971 đến 23-3-1971 đã kết thúc thắng lợi, làm phá sản hoàn toàn âm mưu và tham vọng của địch. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 23 nghìn tên địch, phá hủy và bắn rơi gần 500 máy bay, phá hủy và thu gần 600 xe quân sự, 150 khẩu pháo. Cùng với thắng lợi vang dội trên mặt trận Đường 9 - Nam Lào, ta đã cùng với bạn Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 171” của quân ngụy Sài Gòn (4-2 - 31-5-1971), tiêu diệt gần 20 nghìn tên địch, chủ yếu là quân ngụy Sài Gòn. Cuối năm 1971, bộ đội ta cùng với quân dân Cam-pu-chia và Lào giành tiếp những thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc hành quân Chen-la II của quân ngụy Lon Non (có sự yểm trợ mạnh mẽ của không quân Mỹ và ngụy Sài Gòn), cuộc hành quân của một lực lượng lớn quân Thái Lan và Vâng Pao lấn chiếm Cánh Đồng Chum và cuộc hành quân của quân ngụy Lào và Thái Lan lấn ra vùng giải phóng A-tô-pơ Xa-ra-van. Những thắng lợi quân sự trong 2 năm 1970 - 1971, đặc biệt là thắng lợi của các chiến dịch phản công trong năm 1971 có một ý nghĩa thắng lợi sâu sắc. Trên phạm vi toàn chiến trường Đông Dương, ta đã giành lại thế chủ động chiến lược, phá một bước quan trọng âm mưu thực hiện “cuộc chiến tranh bóp nghẹt”. Cục diện chiến trường mở ra triển vọng hiện thực đánh bại “Việt Nam hóa chiến tranh” và “học thuyết Ních-xơn” của Mỹ ở Đông Dương nhằm lấy quân ngụy Sài Gòn làm lực lượng xung kích ở Nam Việt Nam và cả trên bán đảo Đông Dương. Âm mưu “Khơ-me hóa chiến tranh” và biện pháp chiến lược mới của Mỹ ở Lào (dùng quân Thái Lan làm nòng cốt cùng quân phỉ Vàng Pao và quân ngụy Lào được Mỹ chi viện hỏa lực và hậu cần lấn chiếm vùng giải phóng) đã bị giáng một đòn nặng. Những thắng lợi quân sự còn hỗ trợ mạnh mẽ cho thế tiến công về ngoại giao của ta trên chiến trường quốc tế, cũng như tại hội nghị Pa-ri. Tuy nhiên, vấn đề tồn tại và nổi lên cơ bản trong năm 1971 là, tại chiến trường chính miền Nam Việt Nam ta chưa tạo được chuyển biến lớn về chiến lược có lợi cho ta.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Ngay vào tháng 5-1971, Bộ Chính trị đã họp và đề ra nhiệm vụ “kịp thời nằm lấy thời cơ, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao..., phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ..., giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”. Tháng 6-1971, Quân ủy Trung ương họp bàn biện pháp thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị. Quân ủy xác định quyết tâm chiến lược trong năm 1971 - 1972 là tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả 3 vùng ở miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương. Tiếp đó tháng 2-1972, Quân ủy chỉ đạo tích cực đánh thắng bằng 3 đòn chiến lược: bộ đội chủ lực phải tiêu diệt một bộ phận lực lượng ngụy quân miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của chúng, mở rộng vùng giải phóng; coi quân ngụy là đối tượng tác chiến chủ yếu nhưng vẫn tiến công tiêu diệt quân Mỹ, đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở vùng đồng bằng nông thôn quan trọng, kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích; đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở các đô thị. Để thực hiện những tư tưởng chỉ đạo trên, ngày 11-3-1972 thường vụ Quân ủy Trung ương ra nghị quyết mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, lấy hướng chủ yếu là Trị Thiên, nhằm “tiêu diệt lớn quân địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”. Quân ủy còn chỉ rõ: “Chiến dịch Trị Thiên là 1 chiến dịch quy mô lớn, là một trong những hướng chiến lược rất quan trọng, một chiến dịch hợp đồng binh chủng, một chiến dịch tổng hợp cả về quân sự và chính trị”. Đối với ta, thời điểm mở cuộc tổng tiến công có nhiều thuận lợi. Địch bị đánh đau trong năm 1971, chưa hồi phục về tinh thần, công tác “bình định” bị chậm lại do ta chống phá quyết liệt. Quân Mỹ và chư hầu rút theo kế hoạch, tạo nên một lỗ hổng lớn khả năng cơ động và hỏa lực quân ngụy không bù đắp nổi. Đặc biệt là địch đã có sai lầm trong đánh giá khả năng của ta. Chúng cho rằng mức độ hoạt động của ta năm 1972 cũng chỉ như 6 tháng cuối năm 1971 và nhiều khả năng là ta sẽ tập trung đánh vào dịp Mỹ bầu cử tổng thống, tháng 11-1972. Từ nhận định đó, địch đã sử dụng 1 bộ phận chủ lực quan trọng đánh lên biên giới Đông Bắc Cam-pu-chia, củng cố tuyến phòng thủ Đông Bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên và các tuyến phòng thủ vòng ngoài. Đồng thời cũng phải thấy rằng, lực lượng địch còn mạnh. Đến 30-3-1972, chúng có khoảng 140 máy bay, 120 tàu chiến, khoảng 1.600 khẩu pháo; quân Mỹ vẫn còn 90.000 tên, hải quân Mỹ vẫn chi viện đắc lực cho các cuộc hành quân ven biển. Địch lại tăng cường đánh phá ác liệt đường mòn Hồ Chí Minh và các khu vực cơ sở phía sau của ta ở Lào và Cam-pu-chia. Và tuy mắc vào cuộc vận động tranh cử tổng thống, nhưng việc Mỹ móc được với các nước lớn thực hiện đòn bẩy ngoại giao cũng là một yếu tố để chúng có thể tăng cường gây sức ép đối với ta bằng sức mạnh quân sự. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam mở đầu bằng chiến dịch tiến công Trị Thiên ngày 30-3 kéo dài đến ngày 24-6. Đây là một chiến dịch hợp đồng binh chủng, tiến công liên tục dài ngày, đột phá một hệ thống trận địa phòng ngự kiên cố của dịch. Thắng lợi của chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ, ta giải phóng hoàn toàn một tỉnh, tỉnh Quảng Trị. Tuy vậy, ta chưa thực hiện được mục tiêu giải phóng Thừa Thiên. Chiến dịch tiến công Tây Nguyên (ngày 31-3 đến ngày 3-5) là chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào các thị xã ở vùng rừng núi Tây Nguyên. Chiến dịch đã đột phá vào hệ thống phòng thủ kiên cố của địch trên chiều sâu hơn 100 km, cả 1 vùng rộng lớn phía Bắc Kon Tum được giải phóng. Tuy nhiên, ta chưa giải phóng được thị xã Kon Tum. Cùng với 2 chiến dịch trên, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ (1-4-1972 - 19-1-1973), một chiến dịch có quy mô lớn nhất từ trước tới nay ở Nam Bộ. Chiến dịch kéo dài tới 10 tháng, ta làm chủ và giải phóng nhiều khu vực, nhưng ta chưa dứt điểm khi đánh vào thị xã Bình Long. Ngoài ra, ta đây mở chiến dịch tổng hợp đánh phá kế hoạch “bình định” của địch ở Khu 5. Chiến dịch đã kết hợp chặt chẽ hoạt động của cả ba thứ quân với quá trình nổi dậy của quần chúng. Kết quả là ta đã giải phóng 1 vùng rộng lớn, 1 số quận, thị trấn và cắt đứt đường số 1. Trong năm 1972, cùng với các chiến dịch tiến công chiến lược, ta cùng với bạn còn tiến hành những chiến dịch phòng ngự lớn. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum phối hợp với cuộc tiến công trên mặt trận Quảng Trị, mùa hè năm1972 đã giành thắng lợi lớn, thể hiện rõ tính chủ động, sáng tạo sự chu đáo trong công tác tổ chức và chỉ huy chiến dịch. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Riêng việc ngăn chặn địch giữ Quảng Trị (28-6-1972 - 31-1-1973) đã phải tổ chức gấp rút trong quá trình phát triển chiến dịch tiến công, nên không thành công. Bên cạnh đó quan điểm tư tưởng và lý luận nghệ thuật chiến dịch phòng ngự còn chưa thông suốt, nhất quán từ trên xuống dưới, nên ta đã gặp nhiều khó khăn. Do khắc phục được những khuyết điểm ban đầu, ta đã phòng ngự có kết quả và giành thắng lợi trong việc tổ chức những đòn phản đột kích. Ý nghĩa chiến lược của đòn tổng tiến công và các hoạt động quân sự, chính trị khác của ta trên chiến trường năm 1972 là ở chỗ: ta đã đẩy Mỹ - ngụy vào thế hết sức bị động và lúng túng, phá vỡ và làm tê liệt công cuộc “bình định” của chúng ở nhiều nơi, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản hoàn toàn. Sẽ không đầy đủ nếu như không nói đến sự chi viện to lớn của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến và thắng lợi của quân dân ta trong cuộc đánh trả chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Ngay sau khi Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc (1-1-1968), nhân dân miền Bắc đã tranh thủ thời gian, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế ổn định đời sống và tiếp tục chi viện cho tiền tuyến. Trước việc thỏa hiệp của các nước lớn với Mỹ nhằm gây sức ép với ta, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn kiên quyết và nêu rõ lập trường, nguyên tắc của chúng ta là: vấn đề Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không ai có quyền bàn với Mỹ trong vấn đề này; dù trong tình huống nào nhân dân Việt Nam cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ta chủ trương vừa đánh vừa đàm, vừa giữ vững tính độc lập tự chủ, vừa phối hợp chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ toàn thế giới, kể cả nhân dân Mỹ. Trong tình hình mới, miền Bắc càng phải dốc sức làm tròn nghĩa vụ đối với miền Nam và Cam-pu-chia, Lào, chuẩn bị sẵn sàng cho đòn tiến công chiến lược. Hàng chục vạn thanh niên được gọi nhập ngũ, lên đường vào Nam và tham gia quân tình nguyện ở Lào, Cam-pu-chia. Khối lượng vũ khí trang bị đưa vào các chiến trường trong 3 năm 1969 - 1971 tăng gấp 1,6 lần so với 3 năm trước. Trước nguy cơ “Việt Nam hóa chiến tranh” bị thất bại, ngày 6 tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ gây lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc với mức độ ác liệt gấp bội. Đồng thời, với việc dùng lực lượng không quân, hải quân (kể cả máy bay ném bom chiến lược B52) tàn phá miền Bắc, Mỹ còn tiến hành phong tỏa gắt gao vùng biển và các hải cảng của ta. Trong khói lửa đạn bom, chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc phát triển ngày càng hoàn thiện. Các thứ quân, các quân chủng đều lập thành tích rực rỡ. Chỉ trong vòng 7 tháng (4-1972 - 10-1972) ta đã bắn rơi 651 máy bay Mỹ, bắn bị thương 80 tàu chiến địch, bắt sống hàng trăm giặc lái. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã tỏ rõ sức mạnh chính trị, kinh tế, quân sự, và cả tri thức kỹ thuật của mình trong cuộc đọ sức với tên đế quốc đầu sỏ. Vừa ném bom, phong tỏa miền Bắc, gây nhiều tổn thất cho ta vừa móc ngoặc với các nước lớn gây sức ép nhưng chúng vẫn không lung lay nổi ý chí của dân tộc ta, không ngăn chặn được sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Miền Bắc động viên 220 nghìn thanh niên bổ sung cho lực lượng vũ trang và đưa vào chiến trường. Năm 1972, khối lượng vật chất vận chuyển cho các chiến trường vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971. Hàng triệu lượt người đi dân công phục vụ chiến đấu và tham gia “dân công hỏa tuyến” tại các khu vực trọng điểm ác liệt. Để lừa bịp dư luận thế giới và dư luận Mỹ, tìm kiếm lá phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống, ngày 20-10-1972 Ních-xơn tuyên bố Mỹ chỉ ném bom hạn chế ở miền Bắc - (Nam vĩ tuyến 20) và “hòa bình đã ở trong tầm tay”. Hiểu rõ dã tâm kẻ thù, đánh giá chính xác âm mưu của chúng, Trung ương Đảng đã động viên toàn dân, toàn quân, đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đọ sức mới, quyết đánh cho chúng một đòn thật đau hơn nữa, buộc chúng phải thương lượng trong thế yếu, thế thua. Đúng như Trung ương Đảng đã dự kiến, sau khi trúng cử tổng thống, Ních-xơn lật lọng, đòi ta nhân nhượng. Ngày 18-12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược, dùng 729 lần chiếc máy bay B52 cùng với gần 2.000 lần chiếc máy bay chiến thuật liên tục 12 ngày đêm đánh phá ác liệt thủ đô Hà Nội, thành phố Hải phòng và một số điểm khác ở Bắc vĩ tuyến 20. Lần đầu tiên ta đã tiến hành một chiến dịch phòng không hiện đại quy mô lớn. Nhờ chuẩn bị tốt về tư tưởng và tổ chức, sáng tạo trong nghệ thuật quân sự, biết phát huy vai trò của các lực lượng phòng không, đặc biệt là của lực lượng tên lửa phòng không với tư cách là binh chủng chủ yếu đánh bại các đòn tập kích của B52, ta đã giành thắng lợi vẻ vang, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 31 máy bay B52. Hành động man rợ ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng của Mỹ còn bị cả thế giới lên án mạnh mẽ. Chính quyền Ních-xơn hết sức bị cô lập về chính trị và ngoại giao.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai của đế quốc Mỹ đã thất bại thảm hại; 728 máy bay, trong đó 59 máy bay B52 bị bắn rơi, hàng trăm giặc lái bị bắt sống, hàng trăm tên khác bỏ mạng, 137 tàu chiến các loại bị bắn cháy và bắn hỏng. Thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ cũng như những nỗ lực của quân dân ta phối hợp với bạn Lào và Cam-pu-chia trên khắp các chiến trường trong năm 1972 đã đẩy địch vào thế bị động, đặt “Việt Nam hóa chiến tranh” trước nguy cơ phá sản, đã buộc Mỹ phải trở lại cuộc đàm phán ở Pa-ri trong thế yếu. Ngày 15-1-1973, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc và ngày 27-1-1973 “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết, Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau 4 năm chiến đấu kiên cường (1969 - 1973), bằng cách đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên cả 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đánh địch ở cả miền Nam và miền Bắc, phối hợp chặt chẽ với bạn Lào, Cam-pu-chia, đánh địch trên toàn chiến trường Đông Dương, bằng cách đẩy mạnh 3 đòn chiến lược, tiến công quân sự, chống phá “bình định”, đấu tranh ở đô thị, đặc biệt là nâng cao và hoàn thiện từng bước các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, quân và dân ta đã làm phá sản về căn bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn. Quân Mỹ và nước ngoài phải rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, còn quân chủ lực của ta vẫn ở tại chỗ. Một số bài học về chiến lược quân sự trong chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Bị thất bại trong “cuộc chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam, sau gần 4 năm chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, chính quyền Mỹ buộc phải tuyên bố xuống thang, “phi Mỹ hóa chiến tranh”, rút quân Mỹ về nước sau khi đã huy động một đội quân khổng lồ mạnh nhất của đế quốc trong thời đại. Mỹ phải chịu rút quân sau khi chúng huy động trên 50 vạn quân với lực lượng không quân và hải quân mạnh trên 30% phi cơ chiến đấu, trên 50% phi cơ chiến lược của không quân và đại bộ phận hạm đội Thái Bình Dương từ cuối năm 1968. Nhưng do sai lầm về chiến lược của ta, là đã kéo dài tổng công kích và nổi dậy đến hết năm 1969, khi bất ngờ chiến lược đã hết, không kịp thời chuyển hướng chiến lược, phát triển thắng lợi sau năm 1968 về làm chủ nông thôn ở miền Nam. Do phải liên tiếp huy động toàn lực cả về quân sự, chính trị toàn miền vào tổng công kích và khởi nghĩa liên tiếp ở thành phố, thị xã, nơi địch đã củng cố lại, trong khi ta có nhiều khó khăn về mọi mặt, xa căn cứ, bàn đạp, nên địch đã lợi dụng được chỗ yếu này mà phản ứng quyết liệt, gây cho ta tổn thất to lớn, như mất đất, mất dân, cơ sở chính trị bị bộc lộ, bị tiêu hao lớn, lực lượng vũ trang bị tổn thất, đại bộ phận chủ lực bị bật ra khỏi chiến trường miền Nam. Thế và lực của chiến tranh nhân dân bị suy yếu nghiêm trọng. Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm và biết lợi dụng triệt để sai lầm của Mỹ khi chúng mở rộng chiến tranh ra cả 3 nước Đông Dương, vừa muốn rút quân Mỹ về nước vừa muốn tiếp tục thực hiện ý đồ giành thắng lợi trong chiến tranh, một mơ tưởng thiếu thực tế, khi mà cả lực lượng của Mỹ trực tiếp tham chiến còn chịu thất bại, huống hồ lại mong chỉ có hỏa lực Mỹ cộng với quân ngụy mà có thể thắng được một cuộc chiến tranh nhân dân vô địch của dân tộc Việt Nam và của cả 3 nước Việt, Lào, Cam-pu-chia. Tư tưởng chủ quan sẵn có của đế quốc Mỹ là luôn luôn ỷ lại vào sức mạnh của vũ khí và đồng đô la một lần nữa bị thất bại trước sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam, của quyết tâm giành độc lập tự do, của một dân tộc bất khuất dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng tạo của Đảng và một nền khoa học, nghệ thuật quân sự tài giỏi. Trên cơ sở thực tiễn chiến tranh, qua 4 năm từ 1969 đến 1972 có thể rút ra mấy kết luận có tính quy luật trong giai đoạn chiến thắng “Việt Nam hóa chiến tranh” của Ních-xơn như sau: 1. Trong chiến tranh cách mạng, tiến công và khởi nghĩa là một quy luật, nhưng tổng tiến công không nhất thiết phải đi đôi với tổng khởi nghĩa, lại càng không thể lấy tổng khởi nghĩa làm đòn chủ yếu, còn tổng tiến công chỉ là đòn bổ trợ, kìm giữ quân địch khi lực lượng quân sự của chúng còn mạnh chưa hoảng loạn, tan vỡ. Khởi nghĩa, tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải tuân theo quy luật của chiến tranh. Kinh nghiệm tổng khởi nghĩa ở Pra-ha (Tiệp Khắc) và Vác-xô-vi (Ba Lan) trong chiến tranh thế giới thứ hai lại càng sáng tỏ khi so sánh với cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa ở miền Nam năm 1968 - 1969 và năm 1975. Tổng khởi nghĩa trong chiến tranh phải có thời cơ và không thể kéo dài. Quan điểm cho rằng, tổng công kích, tổng khởi nghĩa là một quá trình có thể kéo dài tới 2 năm, là một sai lầm chiến lược. 2. Đông Dương là một chiến trường. Đây là một quy luật của chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc của ba nước, khi có chung một kẻ thù như Pháp, Mỹ, có chung một mục tiêu cách mạng do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo trên ba nước. Chiến trường Việt Nam, lực lượng vũ trang Việt Nam bao giờ cũng mang tính chất quyết định trong chiến tranh liên minh ba nước, ba dân tộc. Ba nước đều có hậu phương riêng đồng thời có hậu phương chung là miền Bắc Việt Nam và không có chiến tuyến ngăn cách giữa ba nước. 3. Chiến lược tiến công trong chiến tranh cách mạng là chiến lược đem lại chiến thắng trong chiến tranh giải phóng, ngay cả khi địch mở rộng chiến tranh trong giai đoạn địch tiến công, phản công chiến lược. Chiến dịch phản công, tiến công hiệp đồng binh chủng mang tính vận động trong chống Mỹ đã phát triển có mang tính chất trận địa, khi trên chiến trường phương án tác chiến đã thay đổi, lấy quân ngụy làm chủ yếu, có sự chi viện hỏa lực, phương tiện cơ động của các binh chủng Mỹ. Các loại hình chiến dịch tiến công, phản công, tổng hợp, phòng ngự, phòng không đều xuất hiện trong “Việt Nam hóa chiến tranh”. Các chiến dịch quy mô ngày càng lớn là một quy luật khi chiến tranh phát triển, yêu cầu bảo đảm hậu cần kỹ thuật và bổ sung lực lượng ngày càng lớn trong quá trình mở rộng chiến tranh. 4. Thế trận và thời cơ là 2 yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh, khi mà lực lượng không chiếm ưu thế. “Có thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn, không thời mất thế thì mạnh hóa ra yếu, yên hóa thành nguy, sự việc như thay đổi trong trở bàn tay” là một quy luật trong chiến tranh Việt Nam đã được Nguyễn Trãi tổng kết, vẫn là một tư tưởng chỉ đạo nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. 5. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và có tiềm lực rất lớn cả về quân sự, kinh tế, khoa học kỹ thuật, yêu cầu đánh bại ý chí xâm lược của chúng, buộc chúng phải rút khỏi đất nước ta trên cơ sở gây thiệt hại to lớn về người và phương tiện chiến tranh là một kinh nghiệm lớn về chiến lược khác hẳn với các cuộc chiến tranh chống xâm lược của các thế kỷ trước. Trong thời đại văn minh của thế kỷ XX sức mạnh của chiến tranh bao gồm cả sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị, ngoại giao, tư tưởng xã hội, phương tiện thông tin tác động tâm lý xã hội có giá trị không kém các phương tiện quân sự.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
Top