Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 80408" data-attributes="member: 17223"><p></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">III</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">CHIẾN TRANH BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÓNG TỔ QUỐC,</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">CHỐNG XÂM LUỢC CỦA NHÀ MINH</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">1406-1427</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau ba lần đánh thắng oanh liệt quân xâm lược nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, nước Đại Việt đã giành được những điều kiện có lợi để thực hiện một chính sách ngoại giao hòa hảo với các nước láng giềng, để dân ta khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, dựng lại làng xã, thị thành mà quân xâm lược đã tàn phá. Trong khoảng hơn một trăm năm nước ta không bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm đến từ phương Bắc.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cũng trong khoảng thời gian trên, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ thứ XIV, cả nước ta và đế quốc phương Bắc đã diễn ra những quá trình xã hội phức tạp, dẫn đến những kết quả rất khác nhau, tác động mạnh đến quan hệ giữa hai nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong></strong></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong>Tình hình nước Đại Việt và nước Đại Minh trong nửa đầu thế kỷ thứ XIV.</strong></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Bước sang thế kỷ thứ XIV, những mâu thuẫn vốn có trong chế độ xã hội, kinh tế Đại Việt ngày càng trở nên trầm trọng. Tập đoàn phong kiến cầm quyền nhà Trần đại diện của giai cấp quý tộc thống trị mà cơ sở kinh tế là chế độ đang rơi vào trạng thái tan rã tất yếu, chẳng những hoàn toàn bất lực trong việc đề ra những cải cách xã hội, kinh tế tiến bộ mà còn lao sâu vào việc thực hiện những chính sách đối nội, đối ngoại mang tính chất “chỉ vì ích kỷ phì gia”, “chẳng nghĩ khổ dân hại nước” (như sau này Nguyễn Trãi đã phê phán), làm cho những mâu thuẫn nói trên trở nên hết sức gay gắt. Ngay từ cuối những năm 20 thế kỷ XIV, những biến động xã hội đã nổ ra, dưới hình thức những cuộc nổi dậy liên tiếp của nông dân, nô lệ các điền trang và các tầng lớp dân nghèo khác chống giai cấp quý tộc. Bộc lộ bản chất phản động của mình, nhà Trần đã dùng vũ lực đàn áp mạnh mẽ những cuộc nổi dậy đó.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV cuộc đấu tranh vũ trang của các tầng lớp bình dân diễn ra liên tục và ngày càng mở rộng, mặc dù bị quân đội nhà nước phong kiến đàn áp dữ dội. Những đòn giáng mạnh mẽ đó đã làm cho toàn bộ chế độ xã hội - kinh tế phong kiến quý tộc suy yếu đến tận gốc và đặt chế độ nhà Trần trước nguy cơ bị sụp đổ. Trong tình hình đó, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra triều đại mới, vào năm 1400. Một chế độ tập quyền càng quan liêu, quân phiệt hơn nữa ra đời. Nếu như về cơ bản, triều đình mới tiếp tục theo đuổi đường lối chính trị của triều đại trước, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương đã cho thực hiện biện pháp mang hai tính chất, vừa trắng trợn tàn bạo, vừa khéo léo mị dân. Nhà Hồ đã tự ham mình vào một thế cô lập rất nguy hiểm, đồng thời phải chống lại tập đoàn quý tộc đã bị đánh đổ của nhà Trần.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trong bài chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện sảnh, cục tham lam lười biếng do Nguyễn Trãi thảo tháng 7 năm thứ 3, năm Canh Tuất (1430) thảo chỉ thị của Lê Lợi sau khi giành được độc lập đã nói lên tình hình trên: “trước kia họ Trình (tức họ Trần) cậy mình mạnh giầu, mặc dân khốn khổ, chỉ ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc. Những việc vô ích bầy ra hàng ngày, nào là đánh bạc, vây cờ, chọi gà, thả chim, nào là cá vàng nuôi chậu, chim rừng nhốt lồng khoe tốt, tài năng nhỏ mọn, giành lấy hơn thua, quên hẳn thiên hạ lớn lao, chẳng hề nghĩ kẻ oan uổng bị khổ ở chỗ kìm giam, hai ba năm không được xét hỏi, người thân sơ phải khuất ở tay nội giám, hai ba tháng mà việc chưa xong, khanh tướng lập đảng riêng tây: triều đình thiếu người can giám, cho đến nỗi con vua, cháu chúa bị hại bởi kẻ gian thần, quyền lớn việc to đều lọt vào tay xiểm nịnh. Nhân dân oán ghét mà không biết, lòng trời khiển trách mà chẳng kinh. Chính giao do đó mà suy đồi, kỷ cương do đó mà rối loạn. Họ Hồ đã dùng gian trí để cướp lấy nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh bảo sao (tiền giấy Hồ Quý Ly ban hành năm 1395) ban bố và mọi người oán nỗi thường sinh; việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề thất sở. Giả dĩ thuế má phiền hà, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vì ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vì tình riêng, họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện phải ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo, tự tôn, không sợ mệnh trời gieo họa”1.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cũng vào giữa thế kỷ XIV, tại phương Bắc, xã hội phong kiến Trung Quốc đã diễn ra những biến động lớn, với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân chống giai cấp phong kiến liên tiếp nổ ra. Cầm đầu phong trào này, Chu Nguyên Chương đã lợi dụng được tình cảm Đại hán Tộc trong nhân dân để lật đổ triều đại nhà Nguyên, lập nên một triều đại mới, nhà Minh, năm 1368. Cũng như mọi hoàng đế Trung Hoa trước đó, ở buổi đầu cầm quyền, vua Minh đã lập tức cho chuẩn bị các mặt để thực hiện giấc mộng “bình thiên hạ” cổ truyền, trước nhất là bành trướng trên hướng Đông Nam Á và Nam Á. Theo rõi chặt chẽ tình hình bên trong Đại Việt, ngay từ năm 1377, trong triều đình nhà Minh đã có chủ trương “muốn nhân kẽ hở, tính chuyện xâm chiếm” nước ta. Song giới chóp bu cho rằng thời cơ chưa đến.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">________________________________</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969, tr. 135 – 136. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhằm thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đại Việt, mở đường tràn vào các nước Đông Nam Á, tiểu lục địa Nam Á, đến tận các nước ven vịnh Pec-xích, triều đình Minh đã bắt tay xây dựng một quân đội thường trực chuyên nghiệp mạnh và một hạm đội trên biển với những thuyền chiến và thuyền vận tải cỡ lớn. Đến đời Minh Thành Tổ (1402-1424), nhà Minh đạt tới giai đoạn cường thịnh nhất, cũng là giai đoạn trực tiếp thực hiện kế hoạch bành trướng nói trên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ở nước ta, cả hai tập đoàn Trần - Hồ đều đã biết những gì đã diễn ra trên đất đai của đế chế phương Bắc từ cuối thế kỷ XIV, đều nhận thấy hiểm họa ngoại xâm đè nặng lên vận mệnh của Đại Việt. Thế nhưng, do bản chất phản dân hại nước của một giai cấp thống trị đã bị lịch sử lên án, cả hai tập đoàn ấy đều tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc thay đổi đường lối chính trị, trong việc đề ra những chính sách, biện pháp có thể động viên lòng yêu nước của toàn dân, thực hiện đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tình hình Đại Việt sau sự kiện nhà Hồ cướp ngôi Trần được nhà Minh xem là một điều kiện rất có lợi để họ chuyển sang hành động xâm lược vũ trang. Với việc Minh Thành Tổ lên nằm quyền, triều Minh đã đẩy quan hệ giữa hai nước lao nhanh đến chỗ kết cục theo ý của họ: chiến tranh. Về phía họ, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngọn cờ mà nhà Minh giương lên, “phù Trần diệt Hồ”, “đánh kẻ có tội, để dựng lại nước đã bị diệt, cứu vớt dòng họ đã bị tuyệt” cố nhiên chỉ là một thủ đoạn nham hiểm hòng tạo điều kiện chính trị có lợi để đạt tới mục đích của chiến tranh là thủ tiêu nền độc lập của dân tộc Việt, biến Đại Việt thành quận, huyện trong đế quốc phương Bắc, làm bàn đạp để tràn xuống Đông Nam Á.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến tranh xâm lược của nhà Minh đã diễn ra trên đất nước Đại Việt suốt 20 năm trường, đưa nhân dân Việt vào một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, đầy hy sinh, như trong Bình Ngô Đại Cáo đã viết:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Thui dân đen trên lò bạo ngược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hãm con đỏ dưới hố tai ương</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cậy binh gây hận, ác chứa gần hai chục năm</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bại nghĩa thương dân trời đất tưởng chừng muốn đứt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vét vơ thuế má trăm núi chẳng còn tí gì...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tát cạn nước Đông Hải không thể rửa hết nhơ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân ta bắt đầu với sự thất bại nhanh chóng của Hồ Quý Ly trong điều kiện lòng dân ly tán “quân trăm vạn người trăm vạn lòng”. Nhưng quân Minh xâm lược đã phải liên tiếp đối phó với các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt suốt 20 năm trường với 7 năm kháng chiến liên tục thời hậu Trần, từ 1407 đến 1414 và cuối cùng nhân dân Việt đã giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống hàng mấy chục vạn quân tướng nhà Minh, giải phóng đất nước sau cuộc chiến tranh 10 năm từ 1417 đến 1427 dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cho nên,</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Xã tắc do đó được yên</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Non sông do đó đổi mới</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Càn khôn đã bí mà lại thái</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhật Nguyệt đã mờ mà lại trong</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu”. </span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">I. CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA NHÀ HỒ</span></span></strong></p> </p><p><strong></strong></p><p><strong><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ý đồ chiến lược và chuẩn bị chiến tranh của hai bên.</span></span></span></strong></p><p></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước tình hình nguy cơ xâm lược của nhà Minh đã rõ ràng, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương một mặt mở rộng địa giới về phía Nam, đánh Chiêm Thành, Chiêm Thăng Hoa (Quảng Ngãi) đến tận Phan Rang, một mặt tích cực chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hồ Nguyên Trừng thú nhận “không sợ đánh giặc, mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Triều Hồ đã đánh giá cực kỳ sai lầm tinh thần yêu nước của dân ta, mặc dù họ thừa nhận “lòng dân là một sức mạnh cực lớn”. Trước và trong chiến tranh, mục đích chính trị tổng quát mà họ theo đuổi vẫn là bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tập đoàn đại quý tộc cầm quyền, củng cố chế độ chuyên chính quan liêu, quân phiệt của dòng họ Hồ. Do không có sự ủng hộ của nhân dân nên trong chiến lược của triều Hồ, chiến tranh không mang hình thức chiến tranh toàn dân, mà thuần túy chỉ là cuộc chiến tranh của triều đình và của quân đội. Ngay trước chiến tranh, triều Hồ đã ra lệnh thủ tiêu tổ chức dân binh ở các làng xã, cấm nhân dân mang vũ khí, tiếp tục đàn áp bằng vũ lực những cuộc đấu tranh của nhân dân, giáng vào quyền lợi kinh tế của tầng lớp địa chủ bình dân, thủ tiêu nốt độc quyền kinh tế của phe phái chống đối (thế lực dòng họ Trần). Để làm kế thanh dã, họ ra lệnh cho dân sống trên dải đất mầu mỡ giữa sông Thương, sông Cầu và sông Hồng, vùng trung du đang ở thời kỳ phát triển về kinh tế, bỏ ruộng đất phá nhà cửa, mang của cải về sống ở hữu ngạn sông Hồng...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho toàn bộ kế hoạch chiến tranh của triều Hồ là: “Có trăm vạn quân để đối địch với giặc phương Bắc”. Triều Hồ nhận rõ ý định xâm lược của đối phương, nhận định đúng đắn rằng sức mạnh kinh tế và quân sự thời đó cho phép nhà Minh theo đuổi một cuộc chiến tranh với những nỗ lực cần thiết để đạt mục đích của họ. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng tính toán rằng để đối địch” với quân xâm lược trong một cuộc chiến tranh có thể lâu dài, cần có một tiềm lực kinh tế và nhân lực lớn, biểu hiện một cách cụ thể ở con số một triệu người cầm vũ khí, được huy động vào quân đội trong nhiều đợt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Do vậy, trong kế hoạch chiến tranh, triều Hồ xác định mục tiêu chính trị, quân sự hàng đầu mà quân đội phải thực hiện là bảo vệ vững chắc những khu vực kinh tế và nhân lực có tầm quan trọng sống còn đối với nhà nước, giữ vững được quyền làm chủ vùng đất đai rộng lớn từ châu thổ sông Hồng về phía Nam kéo dài đến Thăng Hoa (Quảng Ngãi). Không để cho quân xâm lược đánh chiếm được những khu vục cốt yếu đó cũng có nghĩa là bảo đảm có một triệu người nhập ngũ, có đủ lương thực, thực phẩm, có đủ vũ khí, phương tiện để “đối địch” với quân xâm lược, đồng thời gây cho nhà Minh những khó khăn lớn trong việc cung cấp, tiếp tế cho một quân đội đông người, cô độc trên một vùng núi cao thưa dân, ít của trong một cuộc chiến tranh kéo dài. Triều Hồ cho rời quốc đô từ Thăng Long bên sông Hồng đến Vĩnh Lộc bên sông Mã, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, đặt tên Tây Đô cho Vĩnh Lộc. Triều đình cho tiến hành kiểm tra số dân trên cả nước, quy định chế độ quân dịch bắt buộc cho người dân từ tuổi 15 đến tuổi 60 để có đủ một triệu người có thể nhập ngũ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở nước ta khoa học và kỹ thuật đã đạt được tiến bộ quan trọng trên nhiều lĩnh vực: toán học, hình học, cơ học, luyện kim, đúc súng, sử dụng năng lượng tự nhiên (sức gió, sức nước), năng lượng hóa học (thuốc súng), sử dụng vật liệu mới v.v... Mọi thành tựu khoa học và kũ thuật đó đã được nhà Hồ sử dụng vào mục đích quân sự như: đóng “cổ lâu thuyền”, chế tạo thần cơ sang, thần cơ pháo, dùng đá xây dựng các quân thành... Hỏa khí bắt đầu chiếm một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu của quân đội. Các nhà quân sự Đại Việt đã có nhiều suy tư, tìm tòi những hình thức và cách thức sử dụng hỏa lực trong lục quân và thủy quân để đánh địch, kết hợp hỏa lực với bạch binh, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích v.v...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Về chiến lược quân sự, toàn bộ kế hoạch hành động của triều Hồ đều dựa trên tư tưởng: “Cầm cự với quân Minh, cố thủ nơi hiểm trở, không ra đánh để làm cho quân Minh mòn mỏi”. Trong đường lối đó, mục đích chiến lược thật rõ ràng: đánh cho quân Minh mòn mỏi. Ở đây, không có vấn đề đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng không đặt cho quân đội mình mục tiêu giành những chiến thắng quân sự quyết định, bằng việc thực hiện những đòn đánh tiêu diệt những tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhằm đạt mục đích đánh cho quân xâm lược mòn mỏi, làm cho triều Minh nản chí phải rút quân, phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang lấy chiến lược phòng ngự làm quyết định.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến lược phòng ngự của triều Hồ chống lại chiến lược tiến công của quân địch là có chủ đích, có chuẩn bị sẵn, nó dựa trên một hệ thống quân thành lớn rải ra từ biên giới đến trung tâm đất nước lấy tuyến sông Hồng làm tuyến chiến lược chủ yếu, tập trung chủ yếu lực lượng chủ yếu trên đoạn từ Bạch Hạc đến Đông Đô. Việc xây dựng tuyến phòng ngự chủ yếu này, bằng cách mở rộng, tôn cao, đóng cọc tre trên những đoạn hiểm yếu tuyến đê nam sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, đến tận cửa sông Bạch Đằng, đã phải dùng đến rất nhiều tiền của nhân lực. Trên hai đầu của tuyến phòng thủ quốc gia dài 800 dặm đó (450 km), ở đoạn sông Lô đổ vào sông Hồng, sông Bạch Đằng đổ ra biển, những xích sắt được giăng qua sông “khóa” các cửa sông đó, nhằm không cho thuyền chiến và thuyền vận tải địch vượt qua để vào sông Hồng và sông Bạch Đằng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên hai đường chiến lược từ Pha Lũy (ở biên giới giữa Lạng Sơn và Quảng Tây) đến Đông Đô và từ Phú Lệnh (ở biên giới giữa Tuyên Quang nay thuộc Hà Giang và Vân Nam) đến Bạch Hạc, đã xây dựng những quân thành quan trọng: Pha Lũy, Kê Lăng (Chi Lăng và Phú Lệnh) và nhiều đồn binh nhỏ. Trên hai sườn của tuyến phòng ngự chủ yếu, có hai quân thành lớn Bình Than và Bạch Hạc. Trên đoạn trung tâm có quân thành Đông Đô và Đa Bang. Trên sông Mã có quân thành Tây Đô. Bộ ba Đông Đô - Đa Bang - Tây Đô là những quân thành rất lớn, trong đó lớn nhất là Đa Bang, được Hán Thương xem là “địa điểm xung yếu nhất” của toàn bộ hệ thống quân thành, là “then chốt” của toàn bộ hệ thống phòng ngự. Mọi vật liệu, phương tiện kỹ thuật mới đều được dùng xây dựng thành Đa Bang (xã Cổ Pháp, huyện Quốc Oai, Sơn Tây).</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lục quân đảm nhiệm vai trò chủ yếu của phòng ngự. Các đội quân địa phương (quân các lộ) được tập hợp lại, tổ chức thành những cụm quân chủ yếu là bộ binh, kể cả bộ binh giáo gươm và bộ binh cung nỏ, và một số “thần cơ sang”, mỗi cụm từ ba đến năm vạn người, làm nhiệm vụ đồn trú các quân thành trên dải biên giới ở Bình Than, Bạch Hạc. Những vệ quân thường trực tinh nhuệ, du quân (tức quân chủ lực cơ động) được hợp nhất lại thành cụm tập đoàn quân như tập đoàn ở Đa Bang có tới 10 vạn quân. Mỗi cụm như vậy có đủ bộ binh, thần cơ pháo, các đội kỹ thuật, quân vận tải… Tượng binh tập trung trong thành Đa Bang. Những cụm quân thường trực đóng trong 3 thành Đông Đô, Đa Bang, Tây Đô. Thủy quân làm nhiệm vụ hỗ trợ lục quân, cơ động trên các dòng sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Các nhà quân sự triều Hồ cho rằng mỗi quân thành, với khả năng kỹ thuật của nó, với một cụm quân mạnh, có kho dự trữ lương thực, thực phẩrn, khí giới, đạn dược, là một cơ sở có tính độc lập cao về chiến thuật, đủ khả năng đối địch với cuộc bao vây công kích lâu dài của quân Minh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến lược phòng ngự sẽ được thực hiện bằng cách:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Làm thanh dã triệt để trên vùng thượng du và trung du trong một khu vực rộng lớn từ biên giới đến tả ngạn sông Lô, tả ngạn sông Hồng, tả ngạn sông Kinh Thầy. Trong khu vực đó quân xâm lược không còn có khả năng lợi dụng một cách đáng kể tài nguyên kinh tế và nhân lực của nước ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Cột chặt các cụm quân địch dưới quân thành trong thời gian dài, trên khu vực rừng núi sát biên giới cũng như trước tuyến sông Hồng, trong những trận chiến đấu kiên trì giữ thành, gây cho địch thật nhiều tổn thất.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Giành lấy thời gian để tích lũy lực lượng, phương tiện, lương thực, thực phẩm, đủ sức đối địch lâu dài với quân Minh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bằng những cách đó các nhà chính trị và quân sự chiến lược triều Hồ mong đạt tới mục đích đánh mòn mỏi quân xâm lược cả về thể chất lẫn tinh thần, làm cho tướng lĩnh và binh sĩ Minh không tin vào thắng lợi, làm cho triều đình Yên Kinh phải tìm phương pháp khác để chấm dứt chiến tranh mà vẫn giữ được “thể diệt”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đầu năm 1405, vua Minh ra lệnh tiến hành cuộc viễn chinh thứ nhất vào Đông Nam Á. Trong khi hạm đội Trịnh Hòa bắt đầu vượt biển đi đến các đảo Gia-va, Su-ma-tơ-ra và bán đảo Ma-la-ca và một bộ phận nhỏ của hạm đội này đã men theo bờ biển nước ta đến Chăm Pa, thì triều đình Yên Kinh đưa yêu sách đất đai với triều Hồ, một triều đình mà họ không hề công nhận. Hồ Quý Ly đã cắt 59 thôn thuộc khu Cổ Lâu để thỏa mãn một phần yêu sách bành trướng của nhà Minh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giữa năm 1406, đồng thời với việc triều Minh ra lệnh cho đội quân xâm lược bắt đầu triển khai trên các khu vực xuất phát tiến công, một đạo quân Minh gồm 5.000 người hộ tống “An Nam Quốc vương” Thiên Bình từ đất Quảng Tây vượt biên giới vào nước ta, định tiến về Thăng Long. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho quân đội ở vùng biên giới chặn đánh chúng. Quân Minh bị tiêu diệt, Thiên Bình bị bắt rồi bị giết vì tội phản quốc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc chiến tranh xâm lược của nước Đại Minh đối với nước Đại Việt đang đến gần.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Còn nhà Minh, để đạt mục đích bành trướng, thống trị một miền đất mênh mông từ Đông Nam Á qua Nam Á đến Tây Nam Á, dự tính sử dụng một tiềm lực kinh tế và nhân lực rất lớn kể cả quân đội, hạm đội và dân di cư, thực hiện xâm lược bằng nhiều phương thức, theo từng giai đoạn nối tiếp nhau, rải ra trong nhiều chục năm. Đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu quan trọng nhất trong kế hoạch quy mô lớn đó, đòi hỏi có lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Đi đôi với việc tiến công quân sự từ bên ngoài, các nhà chính trị và quân sự Minh còn đặt hy vọng vào những cuộc nổi dậy từ bên trong nước ta của các thế lực trung thành với nhà Trần, kể cả trong quân đội triều Hồ, thực hiện “ngoại công nội kích”, nhằm đạt mục đích chính trị của chiến tranh trong một thời gian không dài, trong khi vẫn chuẩn bị sẵn những lực lượng và phương tiện tăng viện đề phòng trong trường hợp chiến tranh kéo dài. Trong thực tế, sau khi đánh thắng quân đội triều Hồ, nhà Minh đã phải kéo dài cuộc xâm lược vũ trang gần hai mươi năm cho đến khi kiệt sức mất ý chí xâm lược.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong đợt đầu, nhà Minh quyết định sử dụng tám mươi vạn quân, kể cả quân thường trực chuyên nghiệp và quân bổ trợ (chủ yếu làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân sự), thuộc lục quân là chính, và một số thuyền chiến có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền vận lương. Ngoài ra, nhà Minh còn tập hợp một số tên quý tộc họ Trần làm tay sai, như phong “An Nam Quốc vương” cho Trần Thiên Bình.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Về quân sự, mục đích chiến lược của quân xâm lược là đánh bại hoàn toàn quân đội triều Hồ, buộc nhà Hồ đầu hàng vô điều kiện. Họ cho rằng chỉ cần đạt được mục tiêu tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương, nhất là quân đội thường trực tinh nhuệ: thì sẽ đạt được các mục tiêu khác như chiếm các trung tâm chính trị, các khu vực kinh tế.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Biết rằng nhà Hồ đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống quân thành lớn, khá kiên cố, khó có thể vòng qua, các tướng Minh lựa chọn chiến thuật bao vây - công kích là chính. Đối với từng quân thành, họ sử dụng cụm quân bộ binh có các phương tiện công thành (như súng bắn đạn đồng đặc, máy phóng đá, máy phóng tên lửa, phóng chất cháy, thang vượt hào, thang leo thành cỡ lớn... ) và kỵ binh để hoàn thành nhiệm vụ vây - kích. Mọi kinh nghiệm tích lũy được từ những cuộc công phá các quân thành cỡ lớn của quân Nguyên ở Trung Quốc, mọi phương tiện kỹ thuật công thành có hiệu quả ở thời này, đều được quân Minh dùng trong cuộc chiến tranh xâm lược này.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến tranh chủ yếu sẽ diễn ra theo cách tiến công đồng thời trên các hướng chiến lược, bằng những cuộc vận động tiếp cận và bao vây công kích từng quân thành một, cho đến khi đạt tới mục tiêu đánh bại hoàn toàn đối phương. Đó là một cách tiến hành chiến tranh rất tốn kém, tiêu phí nhiều lực lượng và phương tiện.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span><strong></strong></p><p><strong><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Diễn biến của cuộc chiến tranh.</span></span></span></strong></p><p></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh bắt đầu vượt biên giới. Ngay hôm đó, hai lộ quân Minh gồm 80 vạn quân xuất phát từ đất Quảng Tây, Vân Nam đồng thời tiến quân vào Đại Việt. Lộ quân chủ yếu, do tổng binh Trương Phụ trực tiếp chỉ huy, bắt đầu bao vây thành Pha Lũy. Lộ quân Vân Nam, do tổng binh Mộc Thạch chỉ huy, cũng bắt đầu bao vây thành Phú Lệnh. Đó không phải là một công việc dễ dàng, có thể làm xong trong một vào ngày, vì phải đưa những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, trên một địa hình hiểm trở. Nhưng các tướng lĩnh Minh không còn khả năng lựa chọn phương pháp nào khác hơn là “nhổ” từng thành một của đối phương để mở đường tiến vào sâu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến đấu Pha Lũy: Trong quân thành Pha Lũy có 3 vạn quân nhà Hồ trú phòng. Số lượng thì lớn, nhưng vốn là quân địa phương từ nhiều lộ tập hợp lại, chưa được huấn luyện để chiến đấu giữ một thành quan trọng trên hướng tiến quân chủ yếu của địch. Thêm vào đó cụm quân ở vị trí chiến lược này lại kém về tinh thần chiến đấu, sau những tháng năm đóng quân sát địch mà thiếu sự cổ vũ, động viên về chính trị, ít được quan tâm tới đời sống vật chất. Do vậy, trong suốt thời kỳ quân địch tiến hành chiếm lĩnh các vị trí bao vây cụm quân ta “án binh bất động”, không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi đưa được những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, những đội xung kích đến sát các hào thành, bắt đầu công kích vào cuối tháng 11. Sau vài ngày chiến đấu, mặc dù quân ta đã đẩy lùi những mưu toan vượt hào và leo thành của các đội xung kích địch, sự hoang mang dao động đã nảy sinh trong số các tướng lĩnh và binh sĩ ta trước sự công phá của các phương tiện phóng đạn đá, đạn đồng của địch. Mới thương vong vài trăm người mà đã hoang mang, dao động chỉ huy thành đã hạ lệnh bỏ thành rút chạy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến đấu Kê Lăng: So với Pha Lũy, thành Kê Lăng lớn hơn và kiên cố hơn nhiều. Cụm quân Hồ trú phòng tại đây có hơn 3 vạn người nhưng tinh thần chiến đấu chẳng hơn gì quân ở Pha Lũy. Tin mất thành Pha Lũy đã làm cho tướng lĩnh và binh sĩ giữ thành mất tinh thần.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân Minh tiến đến bao vây thành Kê Lăng chuẩn bị công kích vào thượng tuần tháng 12. Cũng như ở Pha Lũy, quân ta đã không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch, mặc dù ở đây với kỹ thuật cấu trúc thành tiên tiến, quân ta chiếm được những vị trí rất có lợi, có thể từ đó gây cho địch rất nhiều khó khăn trong việc chiếm lĩnh những vị trí bao vây, nhất là trong việc đưa các phương tiện công thành vào cự ly có hiệu quả.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong vài ngày đầu quân ta đẩy lùi được các cuộc công kích của địch. Nhưng cũng như ở Pha Lũy, những thiệt hại đầu tiên về người do các phương tiện công thành của địch gây ra đã nhanh chóng gây hoang mang cho các tướng lĩnh toàn thành. Khi tổn thất vài trăm người thì tướng chỉ huy thành lại ra lệnh bỏ thành rút chạy. Chính trong quá trình thoát vây theo kiểu “mạnh ai nấy chạy”, quân ta bị thiệt hại nặng nề.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến đấu Phú Lệnh: Trên hướng Tuyên Quang - Bạch Hạc, thường là hướng tiến quân quan trọng nhưng là hướng thứ yếu so với hướng Lạng Sơn - Bắc Giang mà quân phương Bắc xâm lược quen dùng, nhà Hồ chỉ cho xây dựng một quân thành lớn, trên một địa hình rất hiểm trở, ở sát biên giới hai nước. Tại đây cũng có một cụm quân gồm trên dưới 3 vạn người, với chất tinh thần, chiến đấu còn kém hơn nhiều so với các cụm quân Pha Lũy, Kế Lăng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong tình hình đó mặc dù lộ quân Mộc Thạnh là một lộ quân có ít kinh nghiệm và phương tiện công thành hơn, cuộc chiến đấu đã diễn ra và kết thúc nhanh chóng hơn. Ở đây, một phần quan trọng tướng binh quân Hồ là quân địa phương miền núi lân cận. Họ đã bỏ thành chạy về quê hương mình, số còn lại đã tan vỡ trên hướng rút chạy về phía sau.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy, trong vòng không đầy một tháng, trái với ý đồ và mong muốn của triều đình Hồ, là ghìm chân lâu dài đại quân Minh trên khu vực rừng núi cao biên giới, gần mười vạn quân địa phương ta đã bị loại khỏi vòng chiến và mất đi những quân thành lớn, những vị trí chiến lược quan trọng, gây thiệt hại không đáng kể cho địch. Tuyến chiến lược sông Hồng và những vùng trung tâm chính trị và kinh tế của đất nước đã bị trực tiếp đe dọa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên hướng tiến quân chủ yếu, đại quân Trương Phụ từ Chi Lăng bắt đầu tiếp cận tuyến sông Hồng. Đến Bắc Giang, lộ quân này chuyển sang hướng Tây Nam, đến sông Phú Lương, để giữ an toàn bên sườn. Để đánh lạc hướng đối phương, Trương Phụ, phái một đội kỵ binh tiếp tục tiến theo hướng Nam, nhằm vào Đông Đô. Đội kỵ binh này đã tiến tới Gia Lâm, cơ động “lởn vởn” trong khu vực này, một khu vực vườn không nhà trống.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lộ quân Mộc Thạnh tiến thẳng đến Bạch Hạc, đóng trên bờ Bắc sông Hồng, bắt đầu chuẩn bị tiến công vào cánh trái của tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ. Đó là một nhiệm vụ rất nặng nề, đầy khó khăn, như chính Mộc Thạnh thú nhận: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được”. Tác chiến của quân Minh khi bắt đầu vượt sông có thể bị thủy quân đối phương đánh vào hai sườn. Để chiếm được một đầu cầu khi đã leo qua hàng rào gỗ đó, lại phải tiếp cận rồi công phá một quân thành cỡ lớn như Bạch Hạc, thì biết bao nhiêu vấn đề về chiến thuật được đặt ra mà tướng lĩnh Minh phải giải quyết.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tổng binh Trương Phụ không có ý định vây kích thành Bạch.Hạc, cũng như thành Đông Đô, vì cho rằng để nhanh chóng phá vỡ tuyển phòng ngự chủ yếu của đối phương, phải công kích vào điểm then chốt của tuyến chiến lược đó, vào đoạn mạnh nhất của nó là quân thành Đa Bang. Mộc Thạnh được lệnh di chuyển lộ quân Minh đến khu vực phía Tây Bắc thành Đa Bang thuộc tả ngạn sông Hồng. Lộ quân Quảng Tây chiếm lĩnh vị trí Đông Nam trong khu vực phía nam Đa Bang. Vào đầu tháng 1 năm 1407, hơn 20 vạn quân Minh đã hoàn thành việc tập hợp tập đoàn chiến lược vây kích Đa Bang. So sánh Đa Bang với Bạch Hạc, Mộc Thạnh nhận định như sau: “Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân; nơi ấy tuy thành đất khá cao, bên sườn có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh chiếm có phần dễ”. Trương Phụ chỉ thị cho Mộc Thạnh và các tướng lĩnh Minh dưới quyền: “Quân giặc (chỉ quân nhà Hồ) chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng có một trận này. Tướng sĩ nào trèo lên thành được trước sẽ được đặc cách hậu thưởng, không câu nệ theo thứ bậc thông thường”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hội chiến Đa Bang: Như đã nói ở phần trên, trên tuyến phòng ngự chiến lược sông Hồng dài 900 dặm, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã chọn đoạn Đa Bang. Hai quân thành lớn Đa Bang và Đông Đô được nối liền với nhau bằng đoạn đê có hàng rào gỗ liên tục trên 30 km; trên đoạn đê đó ở những địa điểm có ý nghĩa chiến thuật, những đồn binh được xây dựng, ngoài ra, ở những đoạn trống có quân tuần tiễu thường xuyên đi lại, cả ngày và đêm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trên đoạn đó, Nguyên Trừng đã sử dụng 3/4 tổng số quân thường trực tinh nhuệ (khoảng 15 vạn người) phòng ngự. Trong đó riêng thành Đa Bang đã chiếm trên 10 vạn quân gồm đủ mọi binh chủng của lục quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thủy quân đóng căn cứ chủ yếu ở cửa sông Luộc và vùng Bạch Hạc, có nhiệm vụ chi viện chiến đấu và hậu cần cho tập đoàn chiến lược trên đoạn phòng ngự chủ yếu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy tại Đa Bang đã diễn ra cuộc hội chiến quyết định về chiến lược giữa các tập đoàn chủ lực hai bên. Sau khi chuẩn bị chu đáo, vào giữa tháng 1, quân Minh chuyển sang tiến công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong nhiều ngày liên tiếp, do thiếu thuyền, quân Minh chỉ có thể dùng những đội quân nhỏ vượt sông để đặt chân lên những bãi cát trên hướng Đông Nam và Tây Bắc Đa Bang. Pháo binh ta đã dùng thần cơ pháo bắn 300 bộ (khoảng 600 - 700 mét); bộ binh dùng thần cơ sang và nỏ, các đội dùng các loại máy phóng đá đánh tan những đội quân vượt sông định đánh chiếm đầu cầu của địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau nhiều thất bại liên tiếp như vậy trên các hướng Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang, viên tướng Minh phát hiện ra rằng trên chính diện của thành (ở hướng Đông) có những bãi cát dài nhô ra, mà nếu chiếm được sẽ tạo những bàn đạp rất tốt, vì ở ngoài tầm bắn có hiệu quả của mọi phương tiện hỏa lực. Y quyết định cho kỵ binh bất ngờ vượt sông trên đoạn đó.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 20 tháng 1, đã xảy ra một sự kiện mà mới thoạt nhìn thì hình như không quan trọng lắm, song lại có một ý nghĩa quyết định tạo ra bước ngoặt của cuộc hội chiến.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Theo thường lệ, nhưng với một cường độ lớn hơn nhiều so với trước quân Minh tiếp tục vượt sông đánh chiếm đầu cầu ở mặt Đông Nam và Tây Bắc, gắng sức mang cả súng, pháo và “vân thê” (loại thang leo thành cao) sang bờ Nam sông. Và cũng theo thường lệ, quân Hồ ra sức đẩy lùi mọi mưu toan đó, gây cho địch những thiệt hại nhất định. Các tướng lĩnh ta vẫn dồn sự quan tâm của mình trên hai hướng đó.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lợi dụng tình hình đó, kỵ binh đã thực hiện vượt sông ngay trên chính diện thành Đa Bang, từ mặt Đông. Người và ngựa địch đã bơi qua sông, kéo theo những tấm da ngựa khô bọc gươm kiếm, cung tên. Đến xế chiều, vài nghìn kỵ binh địch đã chiếm được dải bãi cát dài sát mép nước, một bàn đạp trước sự đối phó không có hiệu quả của quân thủ thành, vì mọi vũ khí phóng đều không “với” được tới chúng. Quân Minh vội vã chuẩn bị đưa qua sông những phương tiện công thành.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thấy rõ nguy cơ, Hồ Nguyên Trừng quyết định tung đoàn voi chiến hòng tiêu diệt kỵ binh địch, chiếm lại những bãi cát trước khi bộ binh và phương tiện công thành địch vượt sông. Các cửa thành được mở ra cho tượng binh tiến công. Tượng binh ta đã đè bẹp kỵ binh địch và đẩy chúng về phía bờ sông.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hiệu quả của đòn đột kích của tượng binh ta đã gây hốt hoảng cho kỵ binh địch. Chỉ huy kỵ binh địch lập tức tập hợp các đội kỵ binh còn ở ngoài khu vực đột kích của đàn voi, dàn đội hình và bắt đầu cơ động nhằm tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Hành động của đối phương làm cho viên chỉ huy tượng binh ta hoảng sợ. Thấy lính cưỡi ngựa địch đông hơn gấp mấy lần lính cưỡi voi, thấy địch có thể bao vây mình, viên chỉ huy đó ra lệnh cho tượng binh chấm dứt đột kích, quay lại lao về các cửa thành. Kỵ binh địch cũng tức khắc chuyển sang “truy kích” tượng binh ta đến tầng hào đầu tiên ở ngoài thành. Địch đã phát triển được đầu cầu cửa chúng, đến tận gần chân thành.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lợi dụng tình thế có lợi đó, Trương Phụ lệnh cho bộ binh cùng các đội kỹ thuật công thành dưới sự che chở của kỵ binh vượt sông ồ ạt sang bàn đạp đã chiếm và mở rộng về phía Đông Nam và Tây Bắc. Trong mấy ngày tiếp sau, địch đã đưa được đại quân qua sông chiếm lĩnh các vị trí bao vây trên cả 3 mặt, Đông, Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang. Thất bại của cuộc xuất kích của tượng binh, đã gây nên một tâm trạng hoang mang trong tướng sĩ giữ thành Đa Bang và cũng ảnh hưởng không lợi đối với tinh thần chiến đấu của những cụm quân Đông Đô, Bạch Hạc...</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong những ngày cuối tháng giêng, địch công thành từ nhiều hướng. Những trận chiến đấu giữ thành đã diễn ra rất ác liệt. Trên mặt Đông và Đông Nam, quân ta đã làm thất bại các mưu toan vượt hào hoặc leo thành của địch. Nhưng ở mặt Tây Bắc, trước sự công kích tập trung của địch, với những thất bại đáng kể, quân ta không ngăn chặn được địch vượt hào và leo thành đã dùng hàng loạt thang cao, địch ồ ạt leo lên mặt thành, chiếm được một mảng thành. Thế lợi chiến thuật này của chúng hoàn toàn chưa phải đã quyết định đối với việc giữ thành. Tiếc thay, nó tác động khá mạnh đến tinh thần chiến đấu của tướng sĩ toàn thành. Lẻ tẻ có những tốp nhỏ quân Hồ đã mở trộm các cửa thành ở mặt Tây để chạy trốn. Trong những ngày tiếp sau, địch công kích mạnh mẽ hơn. Trước tình hình đó, Nguyên Trừng ra lệnh rút bỏ thành Đa Bang. Từ ba phía quân Minh ồ ạt leo lên thành và đánh chiếm thành.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi rút khỏi Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng đã ra lệnh cho các cụm quân Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than cũng bỏ thành rút về phía sau. Hội quân trong vùng từ cửa sông Luộc qua Mỹ Lộc (Nam Định) đến cửa Muộn Hải (nay thuộc Xuân Thủy - Hải Hậu, cửa sông Hồng) với ý định lập phòng tuyến mới để chặn cuộc tiến quân của Trương Phụ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vốn thận trọng, Trương Phụ không cho quân thực hành truy kích, mà trước hết, chiếm đóng tuyến sông Hồng. Theo tuyến đê, các cụm quân Minh đã chiếm đóng Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than. Mộc Thạnh được lệnh tiến xuống cửa sông Luộc để “đối lũy”, quan sát đối phương.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trận cửa sông Luộc: Việc quân Minh tạm dừng tiến công để hoàn thành việc chiếm đóng những vị trí chiến lược xung yếu là một cơ hội có lợi cho quân ta. Hồ Nguyên Trừng đã lựa chọn cụm quân Mộc Thạnh làm mục tiêu cho cuộc tiến công đầu tiên của quân ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đây là cuộc tiến công do lục quân và thủy quân cùng phối hợp tiến hành. Một bộ phận quan trọng bộ binh tập hợp từ các cụm quân rút về phía Nam sông Luộc đến sông Ninh Giang cùng 300 thuyền chiến lớn được sử dụng cho cuộc tiến công. Tiếc thay, sự chuẩn bị khá rầm rộ đó đã giúp cho Mộc Thạnh đoán được ý định của Nguyên Trừng và những chỗ yếu của cuộc tiến công của quân ta. Trong khi đó các tướng lĩnh nhà Hồ lại không nắm được những chuẩn bị của đối phương nhằm đánh bại cuộc tiến công của mình.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đầu tháng 3, cuộc tiến công bắt đầu. Hai cánh lục quân và thủy quân ta tiến dọc theo hai bờ sông đã lọt vào một thế trận mà Mộc Thạnh đã khéo léo dàn sẵn và được ngụy trang khá chu đáo. Chờ cho phần lớn hai cánh quân ta lọt vào thế trận, quân Minh chuyển sang công kích. Bị đánh bất ngờ cả hai cánh quân lục - thủy nhanh chóng rơi vào tình trạng rối loạn, không còn khả năng chống trả có hiệu quả. Quân ta chịu những tổn thất nặng. Trong tình thế đó, Nguyên Trừng không còn cách nào khác là cho bộ phận còn lại rút lui về Muộn Hải. Quân Minh tiến đến phía Bắc sông Ninh Giang thì dừng lại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trận Hàm Tử: Sau thất bại của trận tiến công đầu tiên, Nguyên Trừng ra lệnh cho tập đoàn chủ yếu của quân ta, lúc đó đóng trong khu vực từ sông Ninh Giang đến cửa Muộn Hải khoảng mười vạn người, “hết sức đắp đồn lũy, để tính kế cầm cự lâu dài”, vì cho rằng đại quân Trương Phụ sẽ tiếp tục tiến công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhưng Trương Phụ vẫn còn bận rộn vào việc củng cố những thắng lợi chiến lược đã giành được và chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tiến công chiến lược từ tuyến sông Hồng đến tuyến sông Mã. Trong thế chờ đợi đó, biết rõ nguyện vọng của Nguyên Trừng muốn chuyển sang tiến công để có được một chiến thắng. Y ra lệnh cho Mộc Thạnh lui quân đến cửa Hàm Tử, chờ đối phương tiến quân mà tiêu diệt. Vào giữa tháng 3, cụm quân đi đầu của địch bắt đầu rời khỏi bờ bắc sông Ninh Giang và rút lên phía Bắc. Quân ta bám sát quân địch cho đến trước cửa sông Luộc thì dừng lại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thấy Mộc Thạnh tiếp tục lui quân, Nguyên Trừng một lần nữa cho rằng đã có cơ hội thực hiện ý muốn tiến công của mình, nên quyết định đánh thẳng vào cụm quân địch ở Hàm Tử, cách Đông Đô không xa. Bảy vạn quân tinh nhuệ cùng một số lượng thuyền chiến quan trọng tham gia vào cuộc tiến công quy mô khá lớn này. Một lần nữa sự chuẩn bị chiến đấu của quân ta được tiến hành một cách rầm rộ, lộ liễu. Để làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân Minh, Nguyên Trừng dùng biện pháp phao tin, khuếch đại số lượng tập đoàn tiến công của mình lên gấp hai, ba lần.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sự chuẩn bị diễn ra như vậy, một lần nữa, đã có thể thấy trước kết cục không tránh khỏi của cuộc tiến công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuối tháng 3, từ vùng cửa sông Luộc, tập đoàn tiến công bắt đầu cơ động đến Hàm Tử. Một lần nữa, quân ta đã lọt vào thế trận mai phục của địch, và bị địch đánh bất ngờ. Cuộc rút lui khỏi Hàm Tử biến thành một cuộc rút chạy hỗn loạn, một cuộc tan vỡ lớn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ Muộn Hải, bộ phận còn lại của quân đội triều Hồ rút về Thanh Hóa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trận Lỗi Giang: Trong vòng 4 tháng chiến tranh, quân đội triều Hồ đã không giữ được khu vực phòng ngự biên giới, đã để mất tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu sông Hồng, đã mất những tập đoàn quan trọng nhất trong hội chiến phòng ngự Đa Bang và các trận chiến đấu cửa sông Luộc và Hàm Tử. Tương quan thế và lực đã chuyển biến một cách căn bản, rất có lợi cho quân Minh và rất bất lợi cho quân Hồ. Rút về Thanh Hóa để tổ chức phòng ngự trên tuyến sông Mã trong những điều kiện trên, triều Hồ chỉ còn trong tay những lực lượng quân sự yếu kém, một quân thành tuy lớn (Tây Đô) nhưng cô lập.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trương Phụ quyết định giành lấy thời gian, mở tiếp cuộc tiến công chiến lược, quyết định chĩa thẳng vào thành Tây Đô.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giữa tháng 4, vượt qua dãy núi Tam Điệp trên nhiều hướng, đại quân Minh nhanh chóng tiến đến bờ Bắc sông Mã, bắt đầu cuộc vây kích thành Tây Đô. Cuối tháng đó, những trận chiến đấu phòng ngự của quân Hồ dọc theo sông Lỗi Giang tại Tây Đô đã kết thúc bằng sự tan vỡ của những đội quân thường trực cuối cùng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đầu tháng 6, trên đường truy kích đến Hà Tĩnh, đánh tan những đội quân địa phương yếu kém, quân Minh đã bắt được Hồ Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng và toàn bộ triều đình của họ tại Kỳ La.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngay trong tháng 4, khi hành động quân sự vừa kết thúc trên sông Lỗi Giang, vua Minh đã ra chiếu tuyên bố thủ tiêu “vĩnh viễn” nền độc lập của Đại Việt, biến nước ta thành một quận của Trung Quốc, “giáo hóa” dân ta theo “phong hóa Trung Hoa”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Triều đình Minh không lường nổi trước rằng, nếu như cuộc chiến tranh giữa họ với triều đình và quân đội nhà Hồ đã kết thúc bằng thắng lợi của họ, thì họ đã đứng trước một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thực sự của nhân dân Đại Việt, một cuộc chiến tranh mà kết cục sẽ là sự quét sạch quân xâm lược và bộ máy thống trị của nhà nước Minh ra khỏi Đại Việt, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.</span></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong>Bài học về nghệ thuật quân sự.</strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh do nhà Hồ lãnh dạo có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, sâu xa và trực tiếp. Trong những nhân tố chủ quan và trực tiếp quyết định thất bại của quân đội nhà Hồ có nhân tố hết sức quan trọng về nghệ thuật quân sự. Chỉ sau hơn một thế kỷ, nghệ thuật quân sự ưu việt của Đại Việt, với chiến thắng vẻ vang của nhà Trần chống Nguyên - Mông mạnh nhất trong thời đại đó, hầu như mai một, không còn có một biểu hiện nhỏ nào được vận dụng trong cuộc chiến tranh này.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Những quan điểm “phải nới sức dân, làm kế rễ sâu, gốc vững”, “quốc gia tính lực, bỉ tự, tự cầm”, và “dĩ đoản chế trường” của Trận Hưng Đạo hầu như không còn dấu vết trong chiến lược quân sự của nhà Hồ. Nghệ thuật lập thế trận hiểm buộc địch phân tán, đưa địch vào thế buổi chiều, không lợi dụng được thế ban mai, khoét sâu sở đoản của một đội quân xâm lược từ xa tới, đánh vào hậu cần tiếp tế, chặn trước đánh sau, đưa địch vào hiểm địa, đánh những trận bất ngờ với tư tưởng tiến công kiên quyết của Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng hầu như không còn trong nghệ thuật quân sự của cuộc chiến tranh chống xâm lược này.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Truyền thống toàn dân đánh giặc không còn bóng dáng, mà được thay thế bằng một đội quân đánh giặc cô độc dựa vào thành quách với phương tiện vũ khí mạnh so với đương thời. Những ưu thế về số lượng, về lực lượng và phương tiện, tính chất chính nghĩa cùng với sự chuẩn bị từ trước, những kho tàng lương thực, khí giới, thành quách kiên cố đều không giúp ích gì cho quân đội triều đình Hồ. Đúng như Nguyên Trừng đã nghĩ “Chỉ sợ lòng dân không theo”.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Mục đích chiến lược mà Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng xác định là đánh mòn mỏi quân xâm lược, đã thiếu hẳn tính chất kiên quyết của một cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa. Mục đích đó không phù hợp với những khả năng của nhà nước Đại Việt và tiềm lực của nhà nước Đại Minh, không phù hợp với tương quan lực lượng đã hình thành khi chiến tranh bắt đầu.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Để đạt tới mục đích đó, triều đình Hồ đã xác định chiến lược là phòng ngự đơn thuần, một đường lối có ảnh hưởng quyết định đến tính chất của đấu tranh vũ trang trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trên từng hướng tiến công của đối phương, trên từng điểm tiến công của chúng. Việc lựa chọn phòng ngự chiến lược làm hình thức cơ bản của đấu tranh vũ trang đã biểu hiện ở việc thực hiện nhiệm vụ tiêu hao địch, cố thủ các quân thành bằng gần toàn bộ lục quân và thủy quân, từ khu vực biên giới đến các khu vực trung tâm của đất nước trong cuộc chiến tranh kéo dài là biểu hiện nổi bật của ý định, phòng ngự thụ động, tiêu cực.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Phòng ngự bị động, chờ địch đến đánh thì đỡ, địch đánh ở đâu thì ở đó chịu đỡ đòn, mất đất thì lùi về phá sau, cũng là phương thức hành động của toàn bộ các cụm quân các tập đoàn tác chiến chiến lược của quân đội và hạm đội triều đình. Phương thức hành động này làm cho các cụm quân, các tập đoàn tác chiến của ta luôn luôn rơi vào một tình thế hiểm nghèo. Trong điều kiện về tương quan lực lượng tổng quát, nếu như quân đội triều Hồ có ưu thế số lượng so với quân xâm lược, thì trên mỗi địa điểm và ở từng thời điểm, quân Hồ luôn luôn rơi vào thế lực yếu hơn nhiều so với quân Minh đối diện. Thật vậy, ở bất cứ nơi nào, từ thời kỳ đầu cũng như các thời kỳ tiếp sau, trước từng quân thành như Pha Lũy, Kê Lăng, Phú Lệnh, cả Đa Bang nữa, bao giờ quân Minh cũng tập hợp đủ lực lượng và phương thức hành động đó của quân Hồ là một điều kiện khách quan giúp cho quân Minh lần lượt hủy diệt hết quân thành này đến quân thành khác, hết cụm quân, tập đoàn này đến cụm quân, tập đoàn khác của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Cũng cần nêu lên rằng từ thế kỷ XIV trở về trước các nhà chiến lược Đại Việt đã từng lựa chọn phòng ngự chiến lược là hình thức và phương thức quan trọng của hành động quân sự. Nhưng đó là phòng ngự tích cực, kể cả trong phòng ngự bị bắt buộc hay phòng ngự có ý định trước, phòng ngự kết hợp với tiến công, phòng ngự có phản công và chuyển sang tiến công cho đến khi hoàn toàn đánh bại quân xâm lược. Đó là phòng ngự tạo những điều kiện có lợi để chuyển sang đánh những đòn tiêu diệt lớn đối với quân địch như Lý Thường Kiệt đã phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt. Hệ thống các quân thành tự nó không phải là vô dụng. Trong điều kiện kỹ thuật của thế kỷ XV, để công phá một quân thành kiên cố (như các quân thành nhà Hồ) phải mất vài ba tháng, thậm chí hàng năm, với những tổn thất đáng kể. Cố nhiên, với điều kiện quân thủ thành có chiến thuật chiến đấu tốt và tinh thần chiến đấu cao. Một mạng lưới quân thành chỉ có tác dụng chiến lược khi giữa những quân thành đó có những cụm và tập đoàn cơ động mạnh tiến công cả tập đoàn địch, vây kích để phối hợp với lực lượng giữ thành. Nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức những cụm cơ động như vậy.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Chỉ sau khi tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu bị chọc thủng và bị tan vỡ, Hồ Nguyên Trừng mới chuyển sang hình thái tác chiến cơ động phương thức hành động có tính chất tiến công, làm cho chiến lược mang một tính tích cực nào đó. Những trận phản kích cửa sông Luộc và Hàm Tử nói lên điều đó. Song cuộc phản kích do những đội quân vừa bị đánh thua từ nhiều quân thành vội vã tập hợp lại, chưa quen tiến hành những cuộc cơ động tiến công, công tác chuẩn bị không giữ được bí mật nên đã bị thất bại hết sức nặng nề.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Tính thụ động, tiêu cực cửa phòng ngự chiến lược cũng có biểu hiện nổi bật trong việc quân đội nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức và tiến hành bất cứ hoạt động nào để đánh chặn, tiêu hao địch trong quá trình chúng vận động tiếp cận từ quân thành này đến quân thành khác, từ khu vực biên giới đến tuyến chủ yếu của phòng ngự, cũng như trong quá trình chúng thực hiện bố trí bao vây công kích các quân thành.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Chiến thuật giữ thành, nổi rõ trong những trận chiến đấu và hội chiến nối tiếp nhau, cũng mang một tính chất thụ động tương tự. Trước khi địch tiến hành công kích, toàn cụm quân giữ thành đều tự trói mình trong thế chờ đợi tiêu cực. Khi địch công kích, trong lúc các đội súng “thần cơ”, các đội máy phóng đá hoạt động thì bộ binh ngồi không; khi địch bắc thang vượt hào và leo lên mặt thành, thì một bộ phận bộ binh hoạt động, còn đại bộ phận bộ binh và các binh chủng khác không có hoạt động gì. Đó là những trận chiến đấu và hội chiến không có xuất kích, không có phản kích, chẳng những “không ra đánh”, mà cũng không thực hiện được “cố thủ nơi hiểm trở”. Trận xuất kích duy nhất của tượng binh trước thành Đa Bang do tượng binh đơn độc tiến hành không có sự hỗ trợ của bộ binh và các binh chủng khác, nên bị thất bại.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sự thiển cận và tính mạo hiểm của họ đã thể hiện trong việc tiến hành chiến tranh theo ý đồ “cầm cự lâu dài” mà không có lực lượng dự bị chiến lược, không có lực lượng cơ động chiến lược. Trong quá trình chiến tranh, khả năng lập ra và sử dụng những cụm dự bị cơ động như vậy không phải không có. Hai cụm quân Bình Than và Bạch Hạc đã trở thành vô dụng gìn giữ mãi những thành mà quân địch không đánh, thậm chí không kìm chế, vẫn “án binh bất động” trong khi cả hai lộ quân Trương Phụ và Mộc Thạnh phơi bày cạnh sườn, không có gì bảo đảm an toàn khi chúng vận động qua trước mặt hai cụm quân trên để đến bờ bắc sông Hồng đối diện với Đa Bang. Hai cụm quân đó cũng còn “án binh bất động” khi địch vây kích quân thành Đa Bang, để rồi cuối cùng rút lui về phía sau.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Và nói chung, trong từng thời kỳ, từng trận chiến đấu và hội chiến, cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh, họ đã không hề giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp của chỉ huy quân đội là vấn đề tổ chức sự phối hợp hành động giữa lục quân và thủy quân, giữa các tập đoàn và cụm quân.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc lãnh đạo đấu tranh vũ trang và chỉ huy quân đội.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Nghệ thuật lãnh đạo chính trị - quân sự của họ trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trong từng thời kỳ đều dừng lại ở một trình độ thấp, trước nhất thể hiện nổi bật ở sự bất lực của họ trong việc sử dụng ưu thế vốn có của tính chất chính nghĩa của một cuộc chiến tranh tự vệ, ưu thế đã được tạo ra về số lượng của quân đội, cả về chất lượng của một số binh khí kỹ thuật, thể hiện cả ở việc họ để mất quyền chủ động chiến lược vào tay quân xâm lược và không hề có quyết tâm giành lại quyền chủ động đó.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Nghệ thuật quân sự của quân đội Đại Việt thời nhà Hồ đều mang những hình thức và phương thức hành động cứng đờ máy móc, nghèo nàn. Đó là những hình thức và phương thức không phù hợp với tình hình. Những quyết định chiến lược chiến thuật của họ không gây được một bất ngờ đáng kể nào cho địch, không gây được khó khăn nào cho địch, không buộc Trương Phụ, Mộc Thạnh phải thay đổi ý định của chúng.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Trình độ nghệ thuật quân sự thấp đặc biệt thể hiện trong việc phân tán lực lượng và phương tiện của mình, trong việc sử dụng lãng phí những lực lượng và phương tiện đó, trong việc họ không biết cách phân tán lực lượng của địch, để cho Trương Phụ và Mộc Thạnh tự do tập trung lực lượng và phương tiện của chúng trên hướng chủ yếu, trên từng địa điểm và thời điểm, nhất là trên điểm then chốt như Đa Bang.</span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">II - CUỘC KHÁNG CHIẾN THỜI HẬU TRẦN</span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">(1407 - 1414).</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ đã đưa lịch sử dân tộc ta đến trước một thảm họa. Âm mưu của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc, mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân Đại Việt, những cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Mùa thu năm 1407, ngay sau khi đánh bại nhà Hồ, nền đô hộ của nhà Minh vừa được thiết lập thì nhân dân các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã nổi lên đốt phá nhà ngục, giết chết bọn quan huyện của địch. Nhân dân thiểu số vùng Châu Quảng Nguyên, Thất Nguyên (Cao Bằng) cũng nổi dậy chống quân Minh. Tổ chức nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở vùng rừng núi chống cự với giặc, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ngay ở các vùng như Tây Đô (Thanh Hóa), Từ Liêm (Hà Nội), Thạch Thất (Hà Tây), Đông Triều (Quảng Ninh), v.v... cũng có những nhóm nghĩa quân hoạt động. Đến mức nhà Minh coi những nơi đó là những “ổ quân ác nghịch” như lời Hiếu Thanh nội quan của nhà Minh tâu về triều rằng: “Tại các phủ Tân An (Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh), Kiến Bình (Hà - Nam - Ninh), Lạng Giang (Bắc Giang), các châu Đông Hồ (Đông Triều, Quảng Ninh), Thái Nguyên và vùng sông Sinh Quyết (sông Đáy) dân Nam không phục, họp nhau làm loạn”.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trong số những cuộc khởi nghĩa này có các cuộc khởi nghĩa tương đối lớn như:</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn, một thổ hào ở Đông Triều nổi dậy ở Bình Than vào cuối năm 1407. Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua và nghĩa quân tự xưng là quân Trung nghĩa. Nhưng nghĩa quân vừa mới nhóm lên đã bị quân Minh kéo đến đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị bắt, còn Phạm Chấn trốn thoát và về sau vẫn tiếp tục đấu tranh chống quân Minh.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Cuộc khởi nghĩa của Phạm Tất Đại ở Lục Nam (huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nổi dậy chiếm cứ các hang động miền lục Nam (vào cuối năm 1407).</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">- Cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Thôi ở huyện Nguyên Lang (Vĩnh Phú) và Trần Nguyên Kháng, Nguyễn Đa Bí ở châu Thái Nguyên, nổ ra vào đầu năm 1408.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Những cuộc khởi nghĩa trên đây nổ ra trong từng địa phương nhỏ hẹp, lại không liên kết được với nhau, nên lực lượng phân tán và dễ bị quân địch đàn áp, lần lượt bị thất bại. Nhưng đó cũng là những cuộc đấu tranh đầu tiên sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, mở màn cho cả một phong trào kháng Minh rộng rãi về sau này.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Tiêu biểu cho các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ này, thể hiện tinh thần dân tộc quyết không chịu khuất phục ách nô lệ của nhà Minh là cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), đời Trần đã được phong làm Giản Định vương. Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh ra lệnh tìm bắt con cháu và quan lại nhà Trần đem giải về nước. Trần Ngỗi phải lẩn tránh vào bến Yên Mô (Ninh Bình).</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Có một người yêu nước ở Thiên Trường (Hà - Nam - Ninh) là Trần Triệu Cơ lúc bấy giờ đang chuẩn bị khởi nghĩa liền đem quân đón Trần Ngỗi lên lập thành minh chủ. Ngày 1 tháng 11 năm 1407, Trần Ngỗi tự xưng làm Giản Định hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, lập hành cung ở Yên Mô phát động cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh nhằm khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Tham gia khởi nghĩa có Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai thủ lĩnh chủ chốt của nghĩa quân.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ thất bại, Phạm Chấn cũng theo Trần Ngỗi. Một số thủ lĩnh khác ở miền Bắc như Trần Nguyên Tôn, Trần Lương Đình, Trần Nghiên Chiêu cũng dần dần tập hợp lực lượng xung quanh Trần Ngỗi.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Khi nghĩa quân của Trần Ngỗi vừa mới tập hợp lại ở Yên Mô, bị quân Minh đến đánh. Trần Ngỗi phải rút lui vào Nghệ An. Đến cuối năm 1407, Trần Ngỗi đã tập hợp được một lực lượng khá lớn ở Nghệ An. Đầu năm 1408, nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn quí tộc đầu hàng, chiếm giữ miền Nghệ An, Diễn Châu. Ngay sau đó Trương Phụ điều quân vào đàn áp. Trước sức tiến công mạnh của địch, nghĩa quân phải rút vào Hóa Châu. Trương Phụ củng cố ngụy quyền xong, liền rút quân về Đông Quan. Coi như cuộc xâm lược nước ta đã hoàn thành, nhà Minh ra lệnh cho Trương Phụ rút quân viễn chinh về nước, giao việc cai trị cho chính quyền đô hộ vừa được thành lập. Tháng 4 năm 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Lợi dụng thời cơ đó, nghĩa quân Trần Ngỗi tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tiến đánh từ Hoa Châu chiếm lại Nghệ An, tiến vào Tân Bình chiếm Quảng Bình. Sau đó nghĩa quân tiến ra chiếm lấy cả Diễn Châu, Thanh Hóa, giải phóng một vùng rộng lớn. Đó là một thắng lợi to lớn của nghĩa quân, đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ở miền Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi cũng lên cao, làm cho quân Minh phải đối phó nhiều mặt. Nhân đó, tháng 11 Trần Ngỗi mở cuộc tiến công lớn ra Bắc. Nghĩa quân đã tiến qua các miền Trường Yên (Ninh Bình), Phúc Thành (Hồng Lạc), rồi tiến đánh các căn cứ quân Minh. Nghĩa quân đã mở nhiều cuộc tiến công vào các căn cứ quan trọng của địch như đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại ở Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang) và đánh phá ngoại vi thành Đông Quan. Thanh thế của nghĩa quân vang dậy khắp nơi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước sự hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân, như lời tâu của bọn quan lại đô hộ nhà Minh về triều rằng: “Thế lực của giặc ngày một mạnh, quan quân nhiều lần không đánh nổi...”1, vua Minh phải phái Mộc Thạnh, điều động 4 vạn quân ở Vân Nam, Quế Châu, Thành Đô, Tứ Xuyên theo đường Vân Nam tiến sang nước ta tiếp viện cho bọn quan đô hộ Lư Nghi và ra lệnh cho bọn này chuẩn bị sẵn sàng 2 vạn thủy quân cùng với thuyền bè khí giới để phối hợp với viện binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuối năm 1408, 10 vạn viện binh của Mộc Thạnh tiến vào thành Đông Quan hợp lực với quân của Lư Nghi chuẩn bị tiến đánh nghĩa quân. Quân địch tập trung ở bến Bô Cô (Ý Yên, Hà Nam Ninh). Nghĩa quân đóng cọc ở lòng sông và đắp lũy ở hai bên bờ để phòng ngự. Sau khi đánh bại cuộc tiến công của địch, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Đặng Tất đã tiến công Bô Cô và đánh giặc giỏi, phá tan đại quân của giặc, 10 vạn quân giặc bị giết, Mộc Thạnh cùng với tàn quân giặc chạy thoát vào thành Cổ Động ở gần đó.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng Bô Cô là một chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Trần Ngỗi. Sau chiến thắng Bô Cô, Trần Ngỗi chủ trương: “Bây giờ nhân thế chẻ tre, đánh quét một trận ruỗi dài, khiến cho chúng không kịp bịt tai khi bị sét đánh, rồi tiến công thành Đông Quan thì tất phá được”2. Nhưng tướng Đặng Tất lại cho rằng: “Hãy bắt hết bọn giặc còn sống sót để trừ mối lo về sau”3. Giữa lúc vua tôi đang bàn cãi chưa ngã ngũ thì viện binh của địch đã kịp đến đón Mộc Thạnh từ thành Cổ Động về thành Đông Quan cố thủ. Thời cơ truy kích tiêu diệt hiếm có đã bị bỏ lỡ, nên mặc dù Đặng Tất có cố gắng chia quân bao vây các thành và truyền lệnh đi các lộ để hội binh chuẩn bị tiến công thành Đông Quan, nhưng không thành. Từ đó trong nội bộ nghĩa quân lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vì địa vị và quyền lợi ích kỷ của mình, Trần Ngỗi đã nghe lời dèm pha, lừa giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng trụ cột của phong trào.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi đang trên đà phát triển thắng lợi, từ đó bị hao mòn và suy yếu nhanh chóng. Nguyên nhân thất bại chính là vì những người cầm đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí với nhau và thiếu khả năng huy động tập hợp lực lượng kháng chiến của toàn dân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 4 năm 1408, tức một tháng sau khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị giết, con của các ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã đem một bộ phận nghĩa quân ở Thuận Hóa đón Trần Quý Kháng, cháu nội của Trần Nghệ Tông lập làm vua, xưng là Trung Quang Đế. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn mạnh hơn cả và tồn tại trong thời gian hơn 6 năm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trần Quý Kháng đã hợp nhất được với lực lượng nghĩa quân Trần Ngỗi, khi làm chủ được khu vực từ Thanh Hóa trở vào, lại tiếp tục tiến ra Bắc hoạt động. Trần Ngỗi tiến đánh miền Hạ Hồng (Hải Hưng). Trần Quý Kháng đóng ở Bình Than. Nhân dân và hào kiệt các nơi nổi dậy hưởng ứng phong trào lại được hồi phục nhanh chóng. Quân Minh phải đóng chặt cửa thành để cố thủ chờ viện binh. Thanh thế của nghĩa quân khá mạnh, lại liên kết được với các nước láng giềng phía Tây và được những nước này giúp đỡ về lương thực.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Khi nhận được tin Mộc Thạnh bị bại trận, nhà Minh gấp rút điều thêm quân tiếp viện và cử Trương Phụ làm tổng binh, Vương Hữu làm phó tổng binh đem 47.000 quân sang phối hợp với Mộc Thạnh đàn áp nghĩa quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trương Phụ là một viên tướng khét tiếng gian ác và rất am hiểu tình hình, địa thế nước ta. Tháng 6-1409 đạo quân của Trương Phụ từ Nam Ninh (Quảng Tây) qua cửa Pha Lũy hành quân theo con đường lưu vực sông Thương là con đường mà ba năm trước đã tiến đánh nhà Hồ. Trương Phụ đóng quân vào thành Đông Quan phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành trấn áp những hoạt động của nghĩa quân ở vùng ngoại vi và vùng Đông Bắc thành Đông Quan.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước sực tiến công của quân Minh, nghĩa quân vẫn hoạt động mạnh ở lưu vực sông Nhị và sông Thái Bình. Những trận đánh lớn đã diễn ra. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Cảnh Dị, đã bao vây căn cứ Bình Than và giết chết Từ Chính, làm chủ vùng lưu vực sông Thái Bình. Trương Phụ đã huy động một lực lượng khá lớn mở cuộc tiến công vào cửa Hàm Tử nhằm chiếm lại vùng đồng bằng. Nghĩa quân lập doanh trại trên bờ sông, bố trí hơn 600 chiến thuyền ở giữa lòng sông và đóng cọc ở bờ Nam để chống cự. Quân Minh do Trương Phụ chỉ huy theo sông Nhị đánh vào căn cứ của nghĩa quân. Theo chính sử của nhà Minh thì trận đánh ở cửa Hàm Tử rất quyết liệt. Lực lượng nghĩa quân ở đây có khoảng 2 vạn. Bấy giờ vào khoảng hạ tuần tháng 8 âm lịch, gió tây bắc thổi mạnh, rất lợi cho cuộc tiến công của địch. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng thế yếu, nên thất bại, phải rút lui.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">_____________________________________</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">1 - 3. Hoàng Minh thực lực. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau đó Trương Phụ tiến quân sang vùng lưu vực sông Thái Bình. Trước thế mạnh của quân địch. Trần Quý Kháng và Nguyễn Cảnh Dị liệu sức không chống cự nổi, phải rút lui vào miền Nghệ An.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi căn bản đã đàn áp xong phong trào phản kháng ở miền Bắc, Trương Phụ tiến quân vào Thanh Hóa nhằm đánh vào căn cứ của Trần Quý Kháng. Trương Phụ sai đô đốc Chu Vinh, Thái Phúc thống lãnh bộ binh và kỵ binh tiến trước, còn tự mình chỉ huy thủy binh tiến sau theo sông Nhị vào cửa biển Thần Phù rồi vào Thanh Hóa. Trên những đoạn sông và cửa sông này, nghĩa quân đã đóng cọc, lấp đá để ngăn cản bước tiến của quân địch, Trương Phụ vừa hành quân, vừa phải phá những vật chướng ngại, hơn mười ngày sau mới đến Thanh Hóa rồi cánh quân thủy, bộ của Trương Phụ vừa hội binh ở Thanh Hóa rồi bắt đầu càn quét vùng này. Trần Ngỗi từ Diễn Châu tiến ra Cự Lạc, định theo đường núi tiến ra trấn Thiên Quan (Nho Quan - Ninh Bình) để tập hợp thêm lực lượng kháng chiến ở vùng này. Trương Phụ biết tin chia làm ba đạo quân đuổi theo. Trần Ngỗi chạy đến cách Cát Lợi (huyện Chương Mỹ, Hà Tây) thì bị quân Minh đuổi kịp, phải trốn vào núi và bị bắt ở đó.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ đó quân địch được tăng viện, nghĩa quân bị thất bại nhiều trận, phải rút lui, nhưng cho đến cuối năm 1409, vẫn làm chủ được khu vực từ Diễn Châu trở vào. Cuối năm 1409, Trương Phụ được triệu hồi về nước để tham gia cuộc Bắc chinh. Mộc Thạnh lên làm tổng binh, tiếp tục đàn áp phong trào giải phóng của nhân dân ta. Lực lượng quân địch còn lại ở nước ta bị giảm sút, đó là thời cơ thuận lợi cho nghĩa binh Trần Quý Kháng mở rộng hoạt động và nhân dân ở khắp nơi vùng dậy đấu tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong năm 1410, phong trào đấu tranh của nhân dân đã sôi sục khắp nơi và gây cho quân Minh nhiều tổn thất. Nhưng phong trào có một nhược điểm lớn là thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Những cuộc khởi nghĩa lúc bấy giờ thường chỉ giới hạn trong từng địa phương nhỏ hẹp, dễ bị cô lập và bị đàn áp. Cuộc khởi nghĩa Trần Quý Kháng tỏ ra không có đủ khả năng liên kết được toàn bộ phong trào thành một lực lượng thống nhất.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giữa năm 1411, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc Bắc chinh, nhà Minh lại phái Trương Phụ làm tổng binh phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Cùng với việc đem thêm 24.000 quân sang tăng viện, nhà Minh còn tăng cường những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trương Phụ hành quân theo đường Lạng Sơn đến Đông Quan. Sau khi hội quân với Mộc Thạnh, Trương Phụ quyết định tập trung lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào căn cứ của Trần Quý Kháng ở Thanh Hóa. Được tin viện binh của địch đã sang, nghĩa quân Trần Quý Kháng chuẩn bị sẵn sàng chống cự. Nghĩa quân đã xây dựng một phòng tuyến ở sông Nguyệt Thương (hạ lưu sông Mã) bằng cách cắm cọc giữa lòng sông dài hơn 40 trượng, dựng hàng rào hai bên bờ sông dài hơn 2, 3 dặm. Trên 300 chiến thuyền của nghĩa quân chờ sẵn trên sông, cùng với một bộ phận bộ binh mai phục trong núi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vào khoảng cuối tháng 8, quân thủy, quân bộ của địch hội quân ở sông Nguyệt Thương và bắt đầu mở cuộc tiến công. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của các tướng Nguyễn Quý, Hồ Cú, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, đã chiến đấu rất anh dũng. Trương Phụ một mặt sai đô đốc Chu Quảng đem chiến thuyền theo dòng sông vừa nhổ cọc vừa tiến, mặt khác, đích thân chỉ huy bộ binh vòng phía sau bất ngờ phá phục binh ở bên núi rồi tiến ra bờ sông phá rào gỗ, phối hợp với thủy binh cùng tiến công. Bị quân địch từ hai mặt thủy bộ đánh dồn lại, phòng tuyến của nghĩa quân bị tan vỡ. Trương Phụ thừa thắng tiến quân vào đến Diễn Châu, (Nghệ An). Trần Quý Kháng phải tạm thời rút lui vào miền Thuận Hóa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong lúc đó nghĩa quân ở miền Bắc lại nổi lên rất mạnh, nên cuối năm 1411, Trương Phụ phải tạm ngừng cuộc truy kích Trần Quý Kháng, rút quân về Đông Quan đàn áp những cuộc khởi nghĩa của Lê Nhị, Phạm Kháng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân lan rộng khắp nơi mà lực lượng của địch thì có hạn, không thể rải ra mọi nơi được. Nghĩa binh của Trần Quý Kháng ở vùng Thuận Hóa lại lợi dụng thời cơ, mở rộng hoạt động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phong trào đấu tranh của nhân dân từ giữa năm 1410 thực sự đã lan rộng khắp nước, nhưng vì thiếu tổ chức và lãnh đạo, nên lực lượng bị phân tán. Do đó trước sự đàn áp khốc liệt của địch, các cuộc khởi nghĩa lần lượt bị thất bại và đến giữa năm 1412 thì phong trào nói chung đã có dấu hiệu đi xuống. Sau khi tương đối ổn định được tình hình ở Đông Quan, Trương Phụ lại chuẩn bị lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào vùng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa nhằm tiêu diệt khởi nghĩa Trần Quý Kháng là cuộc khởi nghĩa lớn nhất lúc bấy giờ và từ lâu vẫn làm chủ vùng này.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 10 năm 1412, Trương Phụ dùng chiến thuyền tiến quân vào cửa biển Hà Hòa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh). Nhưng vừa lúc ấy có gió bão to, Trương Phụ phải lui quân về Diễn Châu. Tháng 11 Trương Phụ tiếp tục tiến quân vào đến miền lưu vực Ác Giang (sông Ngàn Sâu - Hà Tĩnh). Trước sức mạnh của địch, nhiều phần tử hèn nhát đã đầu hàng. Đến cuối năm 1412, Trương Phụ đã chiếm được vùng Thanh Hóa, Diễn Châu, Nghệ An. Trần Quý Kháng phải lui vào giữ miền Tân Bình, Thuận Hóa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phong đào đấu tranh ở miền Bắc lúc bấy giờ nói chung có phần lắng xuống, nhưng một số cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp diễn và bùng nổ ở nhiều nơi như ở châu Quảng Oai (Hà Tây), phủ Thái Nguyên (Bắc Thái), phủ Lạng Sơn, huyện Lục Nam(Hà Bắc),v.v... buộc Trương Phụ một lần nữa phải tạm ngừng cuộc tiến công, trở về Đông Quan lo ổn định tình hình mặt Bắc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trần Quý Kháng tuy giữ được miền Tân Bình, Thuận Hóa, nhưng sau nhiều lần thất bại liên tiếp, lực lượng bị tiêu hao nhiều và lương thực gặp khó khăn. Khi Trương Phụ rút ra Bắc, nghĩa quân có chiếm lại được Nghệ An, nhưng lực lượng lúc bấy giờ cũng chỉ còn độ ba, bốn phần mười.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giữa năm 1413, sau khi đã ổn định xong tình hình mặt Bắc và chuẩn bị thêm về lương thực, Trương Phụ, Mộc Thạnh huy động quân thủy bộ, mở cuộc tiến công quy mô lớn vào căn cứ cuối cùng của Trần Quý Kháng. Trương Phụ chiếm lại Nghệ An, Trần Quý Kháng phải rút lui vào Hóa Châu, nhưng vẫn nuôi hy vọng cố thủ thương lượng, cầu phong để cứu vãn tinh thế. Trương Phụ đã bắt và giết sứ giả Nguyễn Biểu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 8-1413, Trương Phụ đem chiến thuyền từ cửa biển Kỳ La (Nghệ Tĩnh) vượt biển qua cửa biển Hà Hòa, đánh thẳng vào đồn lũy của nghĩa quân ở cửa Nhật Lệ. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân tan vỡ, phải đốt doanh trại rút vào sông Trà Kê (Thừa Thiên) để giữ Hóa Châu. Trương Phụ đuổi theo, chiếm được thành Hóa Châu. Trần Quý Kháng phải rút ra Bắc, định giữ miền Tân Bình. Trương Phụ và Mộc Thạnh hội quân ở Thuận Châu (Quảng Trị), rồi tiếp tục đuổi theo nghĩa quân. Nghĩa quân phải đem toàn bộ lực lượng giữ sông Ái Tử để quyết chiến với địch. Trận đánh trên sông Ái Tử diễn ra trong một tương quan lực lượng rất chênh lệch và bất lợi cho nghĩa quân, nhưng vẫn rất quyết liệt. Trong trận này Đặng Dung đã có lần, nhân ban đêm, đánh úp vào dinh Trương Phụ. Đặng Dung đã nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống, nhưng Trương Phụ kịp trốn xuống một chiếc thuyền thỏ, chạy thoát. Lực lượng nghĩa quân tuy ít hơn nhiều so với địch, nhưng chiến đấu rất anh dũng và gây cho địch nhiều tổn thất.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhiều thuyền bè, khí giới địch bị đốt cháy và phá hủy, một nửa số quân địch bị tan rã. Cuối cùng, do lực lượng quá ít nghĩa quân phải rút lui ra Bắc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ sau trận sông Ái Tử, lực lượng nghĩa quân tan rã, không tập hợp lại được. Trần Quý Kháng và các tướng lĩnh nghĩa quân mỗi người chạy mỗi ngả và đến cuối năm 1413 sang đầu năm 1414, đều lần lượt bị sa vào tay giặc. Bài thơ nổi tiếng của Đặng Dung đã nói lên tâm sự uất hận của sĩ phu yêu nước thời hậu Trần.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><strong>Cảm hoài:</strong></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thế sự du du nại lão hà,</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thời lai đồ điếu thành công dị,</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trì chúa hữu hoài phù địa trục</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tấy binh vô lộ vãn thiên hà</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quốc thù vi báo đầu tiên bạch</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><strong>Tạm địch:</strong></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Việc đời dằng dặc khốn đã già,</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trời đất mênh mông chỉ hát ca.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Gặp thời đồ tể, câu cá thành công lạ,</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lỡ vận, anh hùng nuốt hận đa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Muốn xây trục đất phò Minh chúa</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giải binh không thể kéo ngân hà.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nợ nước chưa trả đầu sớm bạc</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bao phen mài kiếm dưới trăng ngà.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngọn lửa đấu tranh của nhân dân ta trong thời gian này tạm thời lắng xuống nhưng không hề bị dập tắt, và chỉ ba năm sau ở Lam Sơn đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, đi tới thắng lợi giải phóng đất nước sau 10 năm khởi nghĩa (1417 - 1427).</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy là từ khi quân Minh xâm lược và đặt nền đô hộ ở nước ta cho đến trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã bùng lên phong trào đấu tranh rộng khắp và liên tục của nhân dân ta. Phong trào đó lan rộng từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng lên miền núi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc kháng chiến 7 năm của hậu Trần đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước và truyền thống toàn dân đánh giặc của nhân dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng là hai cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong giai đoạn này, có lúc đã làm chủ suốt từ Thanh Hóa vào phía Nam và mở rộng hoạt động trên địa bàn rộng lớn cả nước. Có lúc đã bao vây cả Đông Quan, nếu nhà Minh không kịp thời tăng viện thì đã có thể giải phóng được đất nước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cuộc kháng chiến lâu dài này không thành công do nhiều nguyên nhân, cả về chính trị lẫn quân sự có thể nêu mấy điểm chủ yếu sau:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhân dân có quyết tâm cao chống quân xâm lược, nổi dậy liên tục rộng khắp, nhưng thiếu người lãnh đạo đủ đức tài để tập hợp các phong trào trong toàn quốc, đồng thời trong nội bộ những người lãnh đạo, vua quan lại không làm được những điều mà Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận”, đã nghe lời xiểm nịnh, giết người phù trợ có công, có đức, có tài như Trần Ngỗi đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong nghệ thuật đánh giặc còn thiên về tác chiến của quân tập trung, chưa chú ý đúng mức đến phát động toàn dân tham gia chiến đấu, chưa nắm chắc nguyên tắc của nghệ thuật truyền thống, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, không phát triển cách đánh mai phục, bất ngờ như các chiến thuật du kích, cách đánh tập kích, phục kích để chống lại những cuộc tiến công càn quét của địch, mà còn nặng về dàn trận công khai chống địch khi tương quan lực lượng không phù hợp.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chưa quan tâm đầy đủ đến việc vừa kháng chiến vừa lo bồi dưỡng sức dân ở trong vùng mình kiểm soát và mở rộng lực lượng ra khắp nơi, đánh nơi địch không phòng giữ, tranh thủ nhân dân phát động du kích chiến ở phía sau lưng địch.</span></span></span></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: sienna"><span style="font-family: 'Verdana'">III - KHỞI NGHĨA LAM SƠN</span></span></strong></p> </p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Kháng, đến khoảng giữa năm 1414, hầu hết các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ khác cũng đều bị thất bại. Đất nước ta lúc này mới thực sự bị chính quyền nhân Minh đô hộ như một quận huyện của chúng. Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước, giao việc trấn thủ Giao Chỉ cho Chu Huy và Liên Xuân. Tuy ngọn lửa đấu tranh bị dẹp xuống, nhưng không hề bị dập tắt, có lúc vẫn bùng lên với những cuộc bạo động lẻ tẻ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuộc đấu tranh của nghĩa binh “áo đỏ” ở miền núi tỏ ra rất ngoan cường, địch không thể nào tiêu diệt nổi.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đầu năm 1415 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ ở vùng Thanh Hóa, buộc nhà Minh một lần nữa phải phái Trương Phụ đem quân sang đàn áp và ở lại trấn thủ Giao Chỉ.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ năm 1417, nhiều cuộc đấu tranh mới lại bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi, báo hiệu trước một cao trào đấu tranh quyết liệt sắp bùng nổ. Cao trào đó thực sự bắt đầu từ năm 1418 với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn làm trung tâm.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã gắn liền với tên tuổi của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người anh hùng đất Lam Sơn.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuộc khởi nghĩa chia làm 3 thời kỳ:</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong>1. Sáu năm chiến đấu du kích ở vùng Lam Sơn.</strong></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">“Năm Mậu Tuất dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mui nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”1.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Đất Lam Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lam Sơn nằm ở tả ngạn sông Chu. Địa hình Lam Sơn và các khu vực này có nhiều rừng thưa và đồi sát nhau, xen kẽ ở giữa là những cánh đồng nhỏ hẹp và lạch núi chạy quanh. Phía Tây tiếp giáp với miền thượng du Thanh Hóa có núi rừng trùng điệp. Nghĩa quân đóng ở đây có thể tỏa xuống miền đồng bằng, có thể di chuyển lên miền thượng lưu sông Mã, và khi cần có thể rút lên miền tây, dựa vào thế núi Pù Kinh (Chí Linh) để bao toàn lực lượng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ngày 2-1 năm Mậu Tuất (7-2-1418), Lê Lợi và toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, kêu gọi nhân dân cùng nổi dậy giết giặc cứu nước.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Theo Lam Sơn thực lục, lực lượng đó chỉ gồm có 35 quan võ, một số quan văn, 200 thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi, số người tham gia tất cả khoảng 2.000 người.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Cuộc khởi nghĩa vừa mới phát động thì quân Minh lập tức tập trung lực lượng lên đàn áp. Tổng binh Lý Bân phái đô đốc Chu Quảng điều quân từ thành Tây Đô lên vây quét vùng Lam Sơn. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu, sau một cuộc cầm cự ngắn, Lê Lợi rút lên miền núi phía Tây. Quân Minh đuổi theo ráo riết. Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ở núi Chí Linh nghĩa quân định dựa vào thế cực kỳ hiểm trở của vùng này để cố thủ, tạm tránh cuộc truy đuổi của địch. Trước tình thế nghiêm trọng, Lê Lai xin tình nguyện hy sinh để cứu Lê Lợi và giải vây cho nghĩa quân.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Nhưng chỉ 5 ngày sau, quân Minh lại kéo đại quân lên đàn áp, Lê Lợi rút quân lên Lạc Thủy. Dự đoán quân địch đuổi theo, Lê Lợi đã chọn địa hình hiểm trở, bố trí quân mai phục chờ địch. Nghĩa quân đã đánh bại được cuộc truy kích, tiêu diệt được hàng ngàn tên địch và thu nhiều vũ khí, quân nhu.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Ba ngày sau trận thất bại, quân Minh lại mở cuộc vây quét lớn. Do có mấy tên phản bội đưa đường, quân Minh đánh úp vào phía sau nghĩa quân. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân không kịp đối phó và bị tổn thất nặng. Trước tình hình đó, Lê Lợi và nghĩa quân phải rút lên vùng núi Chí Linh lần thứ hai, ẩn náu trong 3 tháng.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi quân Minh chấm dứt cuộc bao vây càn quét và rút về Tây Đô, nghĩa quân còn lại hơn 100 người. Lê Lợi sai đắp lũy ở Lam Sơn và ra sức chiêu nạp nghĩa quân, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực để củng cố căn cứ, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới. Lũy Lam Sơn đắp bằng đất hình vòng cung, bên tả ngạn sông Chu, qua Dao Xá. Hào Lương, kéo dài đến Yên Trường (Thọ Xuân, Thanh Hóa), có nơi chân rộng 10m, cao trên 1,8m, mặt luỹ rộng gần 5m, mặt ngoài phía Nam còn có hào.</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">___________________________________</span></span></p><p><span style="color: black"><span style="font-family: 'Verdana'">1. Văn bia Vĩnh Lăng. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Khi quân Minh điều thêm quân từ Đông Quan, mở cuộc vây quét lớn vùng Lam Sơn, Lê Lợi và bộ tham mưu chủ trương rút khỏi căn cứ, nhử địch tiến sâu lên miền rừng núi hiểm trở. Bằng một trận bố trí mai phục ở Mường Lọt, khiêu chiến nhử địch vào bẫy, nghĩa quân đã làm nên một chiến thắng lớn thứ hai.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Căn cứ Lam Sơn từ đó đã trở thành nơi xuất phát tiến công quân địch. Nghĩa quân đã mở trận tiến công đầu tiên vào đồn Nga Lạc, bắt được tướng giặc và diệt được trên 300 tên địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa và những thắng lợi liên tục của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh lại tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân phải rút lui vào vùng rừng núi, thực hiện lối đánh du kích, mai phục, quấy rối tiêu hao quân địch. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân di chuyển dần về miền lưu vực sông Mã, sau đó đóng ở Lô Sơn. Ở đây Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã ngoại giao với nước Ai Lao nhờ giúp đỡ vũ khí và voi, ngựa. Nhân khi quân Minh còn phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi, Lê Lợi tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đến cuối năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn từ căn cứ Mường Thôi ở phía Tây Bắc Thanh Hóa theo lối lưu vực sông Mã tỏa xuống hoạt động ở miền Lỗi Giang. Bằng lối đánh mai phục, nhử dịch vào thế hiểm để tiêu diệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trước sự phát triển mạnh mẽ và sự hoạt động ráo riết của nghĩa quân, quân Minh phải lui về cố thủ các đồn để bảo vệ cho thành Tây Đô. Mặc dù vậy, các đồn của chúng như Khả Lam (Lam Sơn), Nga Lạc, Quan Du (Quan Hóa) đều lần lượt bị nghĩa quân bao vây, tập kích. Những chiến thắng liên tiếp ở Bờ Mộng, Thi Lang và nhất là ở Quan Du, đã làm cho thanh thế của nghĩa quân vang dậy và kích động mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi. Sau thất bại ở Quan Du, quân Minh phải rút về cố thủ thành Tây Đô và các đồn lũy xung quanh để chờ viện binh. Nhân đó nghĩa quân mở rộng hoạt động ra khắp vùng Tây Bắc và thượng du Thanh Hóa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau ba năm chiến đấu liên tục, nghĩa quân Lam Sơn đã tỏ rõ một tinh thần chiến đấu dẻo dai, một sức sống mãnh liệt.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi chuẩn bị chu đáo, quân Minh tiến lên đóng ở ải Kình Lọng để chuẩn bị tiến công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Với tư tưởng chủ động tiến công theo lối “dĩ dật đãi lao”, Lê Lợi quyết định bất ngờ tập kích ngay vào doanh trại quân Minh nhằm tiêu hao sinh lực địch và phá chuẩn bị tiến công của chúng. Quân Minh hành quân từ xa đến mệt mỏi, ban đêm bị tập kích bất ngờ nên hoảng hốt và bị tổn thất khá nặng. Với chiến thuật tập kích và phục kích lợi hại, với tinh thần chiến đấu anh dũng, nghĩa quân đã đánh lui nhiều cuộc tiến công của giặc. Lê Lợi sau đó phải chuyển quân đến Quan Du, rồi lên Sách Khôi, được 7 ngày thì quân Minh phối hợp với quân Ai Lao (do sự ép buộc của nhà Minh) kéo đến bao vây với một lực lượng rất đông. Cuộc vây quét này của địch đã dồn nghĩa quân vào một tình thế rất hiểm nghèo.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhờ tinh thần ngoan cường, anh dũng hy sinh, nghĩa quân đã phá được thế bao vây, chuyển bại thành thắng trong trận Sách Khôi. Sau trận này nghĩa quân lại rút lui về núi Chí Linh để tạm thời tránh những cuộc tiến công lớn của địch, đồng thời để củng cố lực lượng sau những tổn thất trong một số trận chiến đấu liên tiếp. Nghĩa quân phải sống qua những ngày thử thách vô cùng khó khăn, gian khổ, do thiếu thốn lương thực. Căn cứ vào hoàn cảnh và tương quan lực lượng giữa ta và địch, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định thương lượng đình chiến với địch dưới hình thức trá hàng, tạm thời hòa hoãn với địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong hơn một năm đình chiến, lực lượng nghĩa quân không những được phục hồi nhanh chóng, mà còn được tăng cường về mọi mặt. </span></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong>2. Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An.</strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An theo hiến kế của Nguyễn Chích: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông... Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đất đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”. Đây cũng là chiến lược có tính quyết định của cuộc khởi nghĩa.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Đúng như nhận định của Nguyễn Chích, Nghệ An là “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông”. Núi rừng của Nghệ An cũng hiểm yếu không kém gì núi rừng của Thanh Hóa. Nhưng lực lượng của địch ở Nghệ An tương đối yếu. Thành Nghệ An và hệ thống đồn lũy cũng kém vững chắc hơn Thanh Hóa, mặt khác chính quyền đô hộ ở đây cũng mới thực sự được thiết lập từ năm 1414 và chưa được củng cố chặt chẽ. Hơn nữa, Nghệ An, về mặt bắc lại xa các căn cứ trung tâm của địch như Tây Đô và Đông Quan, còn về mặt Nam là miền Tân Bình, Thuận Hóa thì lực lượng của địch rất yếu. Nếu chiếm được Nghệ An thì có khả năng cắt địch ra làm hai, khiến quân địch ở phía Nam hoàn toàn bị cô lập và lực lượng của địch sẽ suy yếu.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Chiếm được Nghệ An, nghĩa quân sẽ chiếm được một khu vực “đất rộng, người đông”, có thể cung cấp một nguồn nhân lực, vật lực rất phong phú, tạo ra những chuyển biến căn bản trong sự phát triển lực lượng, làm thay đổi về chất cho cuộc khởi nghĩa.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Lê Lợi quyết định hành quân tiến vào Nghệ An.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tập kích thắng lợi đồn Đa Căng (Thọ Xuân - Thanh Hóa), thổ quan Lương Như Hốt bỏ chạy, hơn 1.000 quân địch bị tiêu diệt.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau thất bại ở Đa Căng, quân Minh biết tin Lê Lợi tiến quân vào Nghệ An, nên một mặt chúng huy động quân ở Tây Đô đuổi theo phía sau, mặt khác chúng ra lệnh cho quân lính ở thành Trà Long chặn đánh phía trước. Toán quân chặn phía trước đã bị Lê Lợi bố trí quân và voi mai phục, nhử địch đến, giết trên 2.000 quân, thu hơn 100 ngựa.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Trên đường hành quân về phía thành Trà Long nghĩa quân đã liên tiếp đánh tan các cánh quân ngăn chặn ở Bồ Lạp và Trịnh Sơn, làm thất bại hoàn toàn âm mưu truy đuổi và ngăn chặn của quân Minh. Quân Minh rút về thành Nghệ An. Tri phủ Cầm Bành với hơn 1.000 thổ quân rút về Trà Long cố thủ chờ viện binh.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Trong tháng 10-1424 nghĩa quân bao vây thành Trà Long và tìm cách chiêu dụ Cầm Bành. Cầm Bành ngoan cố liều chết cố thủ.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi nhận được lệnh, bọn Trần Trí, Phương Chính liền huy động quân thủy bộ ở Nghệ An theo dọc sông Lam mở cuộc phản công lớn đánh lên Trà Long.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Theo chủ trương của Lê Lợi: giặc đông, ta ít, lấy ít đánh đông, chỉ ở nơi đất hiểm mới lập được công. Vả lại binh pháp nói: nhử người đến, chứ không để người nhử đến”1.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Tướng Đinh Liệt được lệnh chỉ huy hơn 1.000 nghĩa quân từ Trà Long theo đường tắt chiếm giữ huyện Đỗ Gia để “cướp đất giành chỗ tiện lợi”, còn Lê Lợi thì đem đại quân xuôi sông Lam, về đóng ở ải Khả Lưu nhằm “giữ chỗ hiểm yếu để đợi giặc”, khống chế con đường hành quân và chặn đầu quân thủy bộ từ thành Nghệ An lên Trà Long.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Mấy ngày sau, quân Minh do Trần Trí và Phương Chính chỉ huy, từ thành Nghệ An theo đường thủy bộ dọc sông Lam tiến đến ải Khả Lưu. Bất ngờ thấy nghĩa quân đã lập trại án ngữ mặt Bắc sông Lam, chúng đành phải hạ trại đóng quân ở bờ Nam sông Lam trên bãi Phá Lữ nằm đối diện với ải Khả Lưu qua dòng sông Lam để chuẩn bị tiến công.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Lê Lợi dùng kế nghi binh để lừa địch “ban ngày thì dựng cờ đánh trống, ban đêm thi đốt lửa”. Trong lúc đó Lê Lợi phái một lực lượng tinh nhuệ bí mật vượt sông Lam, giấu quân ở bãi Sở nhằm “phục sẵn ở nơi hiểm yếu”.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Mờ sáng hôm sau, quân địch từ Phá Lữ vượt sông đánh thẳng vào doanh trại của nghĩa quân. Quân ta vừa cầm cự vừa rút lui nhử địch vào trận địa mai phục.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Quân địch tiến sâu vào trận địa mai phục, bị quân ta bất thần xông ra đánh. Đồng thời, cánh quân tinh nhuệ ở bãi Sở cùng đánh úp vào trại giặc ở Phá Lữ. Quân địch bị thiệt hại nặng, “bị chém đầu và chết đuối kể đến hàng vạn người”2.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau đó với trận phục kích Bố Ai: “Quân giặc bị giết không biết bao nhiêu mà kể, thuyền giặc trôi ngổn ngang, thây chết đuối tắc cả sông, khí giới bỏ chồng chất khắp núi”3.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau các chiến thắng Bồ Lạp, Trà Long, Khả Lưu, Bố Ai, thanh thế của nghĩa quân được mở rộng khắp vùng Nghệ An. Quân chủ lực của địch co về thành Nghệ An cố thủ. Nghĩa quân thừa thắng tỏa về các châu huyện, mở rộng khu giải phóng.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">______________________________________</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">1. Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969, tr. 15.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">2-3. Sách dẫn trên, tr. 45-46. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nghĩa quân Lam Sơn tiến đến đâu, nhân dân nổi dậy đến đó và tích cực ủng hộ nghĩa quân. Chỉ trong vòng một tháng đã giải phóng tất cả các thôn, huyện thuộc phủ Nghệ An khỏi ách đô hộ của quân Minh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Riêng thành Nghệ An là thành lũy kiên cố nhất của quân Minh ở vùng này, Lê Lợi quyết định áp sát, quây hãm, buộc chúng phải ở vào thế bị cô lập.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nghĩa quân vừa vây hãm thành Nghệ An, vừa chuẩn bị mọi chiến cụ, phương tiện để đánh thành.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân Minh trong thành Nghệ An do tổng binh Trần Trí chỉ huy, quân số vẫn còn đông, nên cố thủ, chờ quân tiếp viện từ Đông Quan vào.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lý An, tham tướng trấn thủ thành Đông Quan vội đem quân vượt biển cứu viện cho thành Nghệ An. Được tăng viện, địch quyết định mở cuộc phản kích lớn nhằm vào Đỗ Gia để tiêu diệt chỉ huy sở của nghĩa quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nghĩa quân đã bố trí trận địa mai phục lớn ở cửa sông Khuất, rồi nhử địch vào để tiêu diệt, đập tan cuộc phản kích của chúng. Hơn 1.000 tên địch bị giết tại trận. Từ đó “giặc đóng chặt cửa thành, không dám ra. Thế là đất Nghệ An đều về ta hết”1. Nghĩa quân lúc này có điều kiện xây dựng căn cứ địa ở Đỗ Gia, sau đến thành Lục Niêm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau một thời gian củng cố, đến tháng 6-1425 Lê Lợi phái tướng Đinh Lễ tiến ra giải phóng Diễn Châu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Do biết đô ty Trương Hùng được lệnh đem 300 thuyền lương thực từ Đông Quan tiếp tế cho thành Diễn Châu và phán đoán rằng thuyền lương đến, quân địch sẽ mở cửa thành ra đón, nên Đinh Lễ đã bố trí sẵn quân mai phục ở phía ngoài thành. Đúng như dự đoán, ở trận này nghĩa quân đã tiêu diệt trên 300 tên địch, chiếm được nhiều lương thực và thuyền bè của chúng. Sau khi đánh tan quân địch, cả phủ Diễn Châu nhanh chóng được giải phóng. Đinh Lễ để một bộ phận nghĩa quân ở lại vây hãm thành Diễn Châu, rồi thừa thắng cướp thuyền địch vượt biển đuổi theo chúng đến tận Tây Đô.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Được tin thắng trận, Lê Lợi liền phái ngay các tướng Lý Triệu, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị đem hơn 2.000 quân tinh nhuệ và 3 voi chiến theo đường tắt đi suốt ngày đêm ra Thanh Hóa tiếp ứng cho Đinh Lễ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Hai cánh quân của Đinh Lễ và Lý Triệu tiến rất nhanh ra Thanh Hóa. Nghĩa quân đã đánh úp thành Tây Đô, giết 500 tên địch và bắt sống được rất nhiều.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nghĩa quân một mặt vây hãm thành Tây Đô, làm tê liệt mọi hoạt động quân sự của địch, mặt khác tỏa về các châu huyện, cùng với nhân dân nhanh chóng giải phóng phủ Thanh Hóa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Việc giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa có ý nghĩa rất lớn. Với những thắng lợi này, nghĩa quân đã mở rộng căn cứ địa từ Nghệ Tĩnh ra đến Thanh Hóa. Cùng với những thắng lợi đó, lực lượng nghĩa quân đã trưởng thành vượt bậc và ngày càng giành thế chủ động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân Minh ở vùng Tân Bình (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị), Thuận Hóa (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên) trước đây vốn đã yếu, mỏng, nay lại càng bị suy yếu hơn nữa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi chủ trương: “Các bậc tướng giỏi đời xưa bỏ chỗ vững, đánh chỗ hở, lánh chỗ chắc, đánh chỗ trống: như thế thì dùng sức chỉ một nửa mà thành công gấp đôi”2.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tháng 8 năm 1425, Lê Lợi phái các tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Bồ đem 1.000 quân và 1 thớt voi tiến vào theo đường núi đánh các thành Tân Bình, Thuận Hóa. Dùng chiến thuật dựa vào địa hình hiểm yếu, mai phục nhử địch vào trận địa đã chuẩn bị, nghĩa quân đã làm cho quân Minh bị tan vỡ và tổn thất nặng. Quân địch khiếp sợ phải rút lui vào thành cố thủ. Chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ đất Tân Bình, Thuận Hóa đều được giải phóng (trừ hai thành bị bao vây), làm cho vùng giải phóng của nghĩa quân mở rộng vào đến Hải Vân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trong gần 8 năm chiến đấu đã qua, thì chỉ trong khoảng 1 năm từ 10-1424 đến 10-1425, nghĩa quân đã có những bước tiến nhảy vọt. Bước tiến này đã tạo ra những chuyển biến căn bản về tương quan lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thế và lực mới, đưa cuộc khởi nghĩa vào giai đoạn tiến công, trên phạm vi toàn quốc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">____________________________________</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">1. Sách dẫn trên, tr. 47.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">2. Sách dẫn trên, tr. 48. </span></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"><strong>3. Tiến quân ra Bắc.</strong></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Sau khi giải phóng được khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa vào đến Thuận Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã có một hậu phương vững chắc và lực lượng đã trưởng thành về mọi mặt, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những chuyển biến căn bản có lợi cho nghĩa quân.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ cuối năm 1425 đến tháng 9-1426, Lê Lợi đã quyết định mở cuộc tiến công ra các lộ miền Đông Đô.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">a) Một mặt nghĩa quân vẫn tiếp tục vây hãm các thành từ Thanh Hóa trở vào để giam chân quân địch, mặt khác chia ba đạo quân tiến ra Bắc..</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">+ Đạo quân thứ nhất gồm hơn 3.000 quân do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Trịnh Khả chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Quan (Nho Quan), Quảng Oai, nhằm uy hiếp mặt Tây Nam thành Đông Quan và chặn viện binh của địch từ Vân Nam sang.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">+ Đạo quân thứ hai gồm hon 2.000 quân và 1 voi chiến do các tướng Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Lê Trương, Lê Ninh chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Trường, nhằm giải phóng miền hạ lưu sông Nhị và ngăn chặn đường rút lui của quân Minh từ thành Nghệ An về Đông Quan. Sau đó Lê Lợi lại bổ xung hơn 2.000 quân và 1 voi chiến giao thêm nhiệm vụ tiến ra vùng Lạng Giang để ngăn chặn viện binh của địch từ Lưỡng Quảng đến.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">+ Đạo quân thứ ba gồm 2.000 quân tinh nhuệ do các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy tiến thẳng ra phía Nam Đông Quan để “phô trương thanh thế”.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Được tin nghĩa quân tiến về Đông Quan, Phương Chính và Mã Kỳ đem quân ra vây đánh.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Tiến quân vào một khu vực đóng quân của địch có thành lũy làm chỗ dựa, là điều khó khăn và bất lợi cho quân ta, nhất là khi quân ta ít hơn địch. Phạm Văn Xảo và Lý Triệu tìm cách điều quân địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt bằng chiến thuật phục kích vận động sở trường của nghĩa quân Lam Sơn. Ở Cổ Lãm, quân Minh bị đánh bất ngờ hơn 1.000 tên bị diệt, “Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn về Đông Quan”. Quân ta thừa thắng truy kích tiêu diệt địch và tiến sâu vào phía sau cầu Sa Đôi với ý định “muốn chặn đánh dinh sau của Phương Chính”. Nghe tin quân của Sơn Thọ, Mã Kỳ bị thất bại thảm hại ở Cổ Lãm, Phương Chính vội vã ra lệnh bỏ vị trí cầu Sa Đôi, rút quân về Đông Quan cố thủ để tránh đòn tiến công của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">b) Trước sự phát triển như vũ bão của nghĩa quân, vua Minh phái Vương Thông đem 70.000 quân sang tiếp viện. Sau khi tới Đông Quan, Vương Thông đã nhanh chóng hội quân ở bến Cô Sở. Hai cánh quân vừa rút chạy về Đông Quan, được lệnh gấp rút kéo lên Cô Sở. Với lực lượng tập trung trên 9 vạn quân, Vương Thông tiến đánh Ninh Kiều, khu vực nghĩa quân chiếm đóng.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Bằng một số trận đánh thăm dò để nắm tình hình địch và nghi binh, nghĩa quân đã chủ động bí mật rút khỏi Ninh Kiều về lập thế trên ở Cao Bộ (Chương Mỹ - Hà Tây) cách Ninh Kiều 8 km.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Từ Cô Sở tiến xuống Ninh Kiều, Vương Thông “vồ hụt” quân ta, phải thay đổi kế hoạch. Sau khi phát hiện ra căn cứ mới của quân ta ở Cao Bộ, hắn dự định chia làm hai cánh quân tiến đánh Cao Bộ: Cánh “chính binh” do Vương Thông chỉ huy đánh chính diện; cánh “kỳ binh” theo đường tắt, đến phía sau quân ta. Hai đạo quân Lam Sơn đã kịp tập trung về Cao Bộ với lực lượng ước khoảng trên 1 vạn.</span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'"></span></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"><span style="font-family: 'Verdana'">Nằm giữa hai cánh quân địch, quân ta quyết định đánh đòn chủ yếu vào cánh chính binh của Vương Thông, bằng cách tập trung lực lượng để đánh đòn phủ đầu vào bộ phận tiền quân địch. Trận địa mai phục chủ yếu được bố trí ở Tốt Động, một vùng đồng chiêm trũng, lau lách bên cạnh đường “Lai Kinh”, nhằm đánh vào bộ phận trung quân và hậu quân cánh “chính binh” và cả cánh kỳ binh. Để phối hợp với hướng chủ yếu, bộ chỉ huy đã bố trí một trận địa mai phục thứ hai ở Chúc Động. Đây cũng là một cánh đồng, tuy không rộng và sâu như cánh đồng Tốt Động, nhưng lầy lội và nằm sát từ Ninh Kiều đến Cao Bộ, đường “Lai Kinh” và đường tắt đều phải đi qua vùng Chúc Động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Rạng sáng 7-11-1426, Vương Thông ra lệnh cho quân lính xuất phát tiến công Cao Bộ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cánh chính do Vương Thông trực tiếp chỉ huy, theo đường “Lai Kinh” tiến thẳng đến phía trước Cao Bộ, với đội hình kéo dài, tiến dần về phía Tốt Động. Khi tiền quân của cánh chính binh đã lọt vào trận địa mai phục chủ yếu ở Tốt Động thì hậu quân của chúng cũng đã qua hết Ninh Giang, đã lọt vào trận địa mai phục ở Chúc Động. Theo hiệu lệnh đã quy định trước, quân mai phục của ta ở Tốt Động nhất tề nổi dậy xông vào tiêu diệt địch với khí thế vô cùng mãnh liệt. Vương Thông bị bất ngờ, hàng ngũ quân địch hoàn toàn rối loạn, tinh thần hết sức kinh hoàng, khiếp sợ. Cả một cánh đồng bùn lầy ngập nước đã chôn thây hàng vạn quân địch. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị quân ta chém chết. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong khoảng 4-5 giờ. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Cánh kỳ binh đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ, khi nhận được tin Vương Thông đã bị đại bại ở Tốt Động, vội rút chạy về hướng Chúc Động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân mai phục của ta ở trận địa Chúc Động lại bồi tiếp những đòn quyết liệt vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh đang tháo chạy hỗn loạn. Nghĩa quân đã phá hủy cầu Ninh Kiều chặn đường rút lui của địch về Đông Quan.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Một trận quyết chiến thứ hai đã diễn ra ác liệt trên vùng Chúc Động, Ninh Kiều, hàng vạn quân địch bị giết chết và bị bắt sống. Số quân địch liều lĩnh vượt sông bị chết đuối rất nhiều. Một bộ phận theo Vương Thông, Mã Kỳ, cố vượt được qua Ninh Kiều, chạy thoát về Đông Quan. Một bộ phận khác theo Phương Chính chạy theo hữu ngạn sông Đáy, qua bến đò Cô Sở trốn về Đông Quan.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Với hai trận Tốt Động, Chúc Động, quân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân, trong đó bắt sống trên 1 vạn tên. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị chém tại trận. Quân ta còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi; trận Tốt Động như gió rung cây gãy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">c) Sau trận thất bại ở Tốt Động, Chúc Động, Vương Thông thu thập tàn quân, rút chạy về Đông Quan. Từ đó tên bại tướng này phải chuyển sang thế phòng ngự, cố thủ thành Đông Quan.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Được tin thắng trận, Lê Lợi đưa đại quân gồm quân thủy, quân bộ và 20 voi chiến chia làm 2 đường thủy, bộ đi suốt ngày đêm tiến gấp ra Bắc.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 21-11-1426, Lê Lợi tiến ra tây Phù Liệt (huyện Thanh Trì - Hà Nội) đóng quân tại đây và quyết định tiến công vây hãm thành Đông Quan.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Với cuộc tiến công ngoại vi thành Đông Quan, quân ta đã tiêu diệt hầu hết các doanh trại địch ở phía ngoài, buộc quân địch từ đó phải rút hẳn vào trong thành cố thủ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thế giặc ngày càng cùng quẫn, nên phải đắp thêm thành lũy để liều chết giữ thành, chờ viện binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi dời bản doanh sang Đông Phù Liệt, chủ trương tiếp tục vây hãm thành Đông Quan và mở rộng vùng giải phóng, bổ sung thêm lực lượng. Những thắng lợi dồn dập của nghĩa quân đã làm cho quân địch từ thành Đông Quan cho đến các đồn lũy khác đều rất hoang mang. Để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt trước khi viện binh sang, Vương Thông một mặt ra sức tăng cường khả năng cố thủ các thành, mặt khác đưa ra việc thương lượng giảng hòa với nghĩa quân để làm kế hoãn binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi đã xây dựng một chính quyền độc lớp, quản lý khu vực giải phóng, củng cố hậu phương, tăng cường lực lượng, tích trữ lương thực chuẩn bị chiến thuyền và vũ khí.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Với tầm mắt chiến lược, Nguyễn Trãi đã gửi thư cho Vương Thông:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">“Nay tính hộ các ông, xét có sáu điều phải thua:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến thì tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Ở nước các ông, quân mạnh, ngựa tốt, nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rõi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Luôn động can qua, hàng năm đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">- Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi, tự chuốc lấy bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu”1.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">________________________________</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vòng vây xiết chặt của nghĩa quân kết hợp với công tác địch vận của Nguyễn Trãi làm cho quân Minh ở thành Đông Quan ngày càng hoang mang, dao động.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi chủ trương bao vây các thành còn lại, nghiêm cấm mọi hành động giao dịch mua bán nhằm triệt đường tiếp tế lương thực, đồng thời tìm cách thuyết phục dụ hàng. Nhờ đó nghĩa quân thu phục được thành Nghệ An mà không tốn một mũi tên viên đạn nào. Các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh... tuy địch ngoan cố chống cự, nhưng sự bao vây và dụ hàng của nghĩa quân đã làm cho chúng suy yếu và kiệt quệ. Do đó, khi có viện binh nhà Minh kéo sang, quân địch trong những thành nay không dám hành động gì.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thành Điêu Diên, Thị Cầu, Tam Giang lần lượt phải đầu hàng. Thành Khâu Ôn cuối cùng bị quân ta tiêu diệt. Riêng thành Xương Giang là một cứ điểm trọng yếu nhất của địch trên con đường từ Quảng Tây sang Đông Quan, ở đây quân địch tỏ ra rất ngoan cố, chúng liều chết cố thủ đến cùng, chờ viện binh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau hơn 9 tháng bị vây hãm, quân địch bị chết quá nửa, lương thực cạn, quân lính mệt mỏi. Thành Xương Giang bị hạ trước khi viện binh của địch kéo vào biên giới 10 ngày.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Như vậy cho đến trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang, toàn bộ kế hoạch chuẩn bị diệt viện của nghĩa quân đã được thực hiện đầy đủ. Quân địch chỉ còn cố thủ trong bốn thành cô lập là Đông Đô, Chí Linh, Cổ Lộng và Tây Đô.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">d) Đến tháng 1-1427, triều đình nhà Minh quyết định điều 2 đạo quân viện binh sang cứu nguy cho Vương Thông.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đạo thứ nhất gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, do thái tử thái phó an viên hầu Liễu Thăng chỉ huy với chức tổng binh, tiến theo đường Quảng Tây sang.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đạo thứ hai gồm 5 vạn quân, 1 vạn ngựa do thái phó kiêm quốc công Mộc Thạnh với chức tổng binh chỉ huy tiến theo đường Vân Nam sang.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Từ tháng 10-1426 đến tháng 7-1497, nhà Minh đã điều động đến 3 lần viện binh do các tướng Vương An Lão, Vương Thông, Cố Hưng Tổ chỉ huy, tổng cộng đến 10 vạn, liên tiếp kéo sang đều đã bị đánh bại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lực lượng nghĩa quân lúc đó có khoảng 35 vạn, nhưng còn phải vây hãm khoảng 10 vạn quân địch trong bốn thành và bảo vệ cả một hậu phương rộng lớn. Số quân cơ động có thể tập trung vào nhiệm vụ diệt viện không nhiều lắm. Trong tình hình như vậy, nếu cùng một lúc tiến đánh cả hai đạo viện binh địch thì rõ ràng binh lực của ta bị phân tán.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Do đó, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định chọn đạo quân Liễu Thăng làm đối tượng quyết chiến chủ yếu, tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân này trước và kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh ở cửa Lê Hoa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi đã xét đoán: “Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đã nhiều, vốn nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại chứ không dám khinh động”1. Và đánh giá: “Binh pháp nói: đi 50 dặm để tranh lợi thì thượng tướng phải què. Nay Liễu Thăng đến, đường xá xa xôi, người ngựa mệt mỏi. Ta đem quân nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi, lẽ nào không thắng”2.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Vì vậy bộ chỉ huy nghĩa quân đã bố trí một loạt trận đánh liên tiếp trên đường tiến quân của địch từ ải Pha lũy cho đến Xương Giang nhằm tiêu diệt từng bộ phận, rồi tiến lên tiêu diệt toàn bộ quân địch còn lại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tận dụng địa hình núi rừng hiểm yếu, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí thế trận và lực lượng khoảng 5 vạn quân vào hướng tiến công chủ yếu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mười ngày sau chiến thắng hạ thành Xương Giang của nghĩa quân, tức ngày 8-10-1427, đạo quân của Liễu Thăng đột nhập vào biên giới nước ta. Quân ta do tướng Trần Lựu chỉ huy giữ cửa ải Pha Lũy, thực hiện đúng kế hoạch vừa đánh vừa nhử địch vào trận địa quyết chiến. Từ Pha Luỹ quân ta lui về Khâu Ôn. Liễu Thăng tiến xuống chiếm Khâu Ôn, quân ta lại lui về giữ Ải Lưu, sau đó rút về Chi Lăng mai phục.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Kết hợp với kế hoạch lui quân nhử địch, Lê Lợi, Nguyễn Trải đã viết thư xin Liễu Thăng rút quân, càng làm tăng sự kiêu căng, chủ quan khinh thường của hắn. Nhất là khi Liễu Thăng tiến vào Ải Lưu dễ dàng như vào chỗ không người, hắn càng ngạo mạn, không nghe những lời can ngăn của các tướng, ra lệnh tiếp tục tiến thẳng về phía ải Chi Lăng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">_________________________________</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">1, 2. Sách dẫn trên, tr. 153. </span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Dãy núi Cai Khinh dốc đứng và dãy núi Thái Hòa trùng điệp là những bức thành cao chắn hai ngả Đông - Tây, khép lấy thung lũng Chi Lăng cùng với những ngọn núi nhỏ bên trong. Địch lọt vào trận địa Chi Lăng tự nhiên như bị ép chặt vào một túi sâu khó thoát, bị dồn vào “đất chết”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng oanh liệt đã được ghi trong “Cáo Bình Ngô”. Ta trước hết phục binh giữ hiểm, đập nát tiên phong. Đưa kỵ binh đánh chặn, cắt đường lương thực. Sang ngày 18 Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng trúng kế. Ngày 20 Liễu Thăng bị bại, Mã Yên phơi thây. Ngày 25, Lương Minh trận hãm bỏ mình. Ngày 28, binh thượng thư Lý Khánh kế cùng thắt cổ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 10-10-1427, Liễu Thăng chủ quan, kiêu ngạo, dẫn hơn 100 quân kỵ, hung hăng mở đường tiến vào cửa ải. Tướng Trần Lựu lại đem quân khiêu chiến rồi “giả vờ thua chạy”. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu và tiến vào ải Chi Lăng. Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía Bắc, tiến đến chân núi Mã Yên thì hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục của ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngay lúc đó, phục binh ta bốn mặt nhất tề xông ra quyết chiến. Đội quân khiêu chiến lập tức quật trở lại phối hợp. Cuộc chiến đấu diễn ra thật bất ngờ, mau lẹ. Tượng binh của ta xông thẳng vào đội hình địch, chia cắt và dồn chúng vào cánh đồng lầy lội. Kỵ binh và bộ binh của ta xông ra bao vây cùng với những mũi tên tẩm thuốc độc, các loại đạn đá, mũi lao, phi tiêu từ bốn phía lao vào quân giặc. Liễu Thăng cố chạy thoát ra khỏi cánh đồng lầy lội, nhưng hắn đã bị quân ta phóng lao đâm chết ở sườn núi Mã Yên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chủ tướng bị giết, cả đội kỵ binh tiên phong của giặc hoảng loạn và đã bị tiêu diệt gọn.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Thừa thắng, quân ta chia cắt đội hình của địch và “đập gãy khoảng tiên phong”. Số địch bị diệt đến 1 vạn tên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân ta lại bố trí trận địa mai phục thứ hai ở Cần Trạm, đồng thời lại viết thư khích tướng địch.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Phó tổng binh Lương Minh lên nắm quyền chỉ huy đạo quân vẫn ngoan cố hung hăng tiến về Cần Trạm.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 15-10-1427, quân địch lại lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân. Trận đánh đã diễn ra trên một chiều dài gần 5km, suốt từ cánh đồng phía Đông Bắc Cần Trạm đến tận nam thị trấn Kép. Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng lại bị những mũi lao của quân ta đâm chết tại trận cùng với khoảng 2 vạn quân bị tiêu diệt. Quân ta chủ động thu quân và nhanh chóng vận động theo đường tắt về phía Nam để tiếp tục tổ chức trận địa mai phục.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau thất bại Cần Trạm, đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền chỉ huy, cùng với Lý Khánh, Hoàng Phúc, cố sức tập hợp quân lính, gắng gượng thúc quân tiến về Xương Giang.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 18-10, quân địch tiến đến phố Cát, cách Xương Giang 8 km về phía Bắc lại bị quân ta đón đánh. Địch bị thiệt hại nặng, hơn 3 vạn quân bị diệt, Lý Khánh uất ức, “kế cùng thắt cổ tự tử”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng Thôi Tụ và Hoàng Phúc vẫn cố liều chết tiến về Xương Giang. Khi đến gần Xương Giang chúng mới biết thành đã bị hạ. Hết đường ứng cứu, hy vọng liên hệ với Đông Quan bị tiêu tan. Mệt mỏi, hoang mang, lại bị cô lập, trước mặt sau lưng đều bị đánh, cuối cùng chúng phải “đắp lũy ngoài đồng để tự vệ”.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân địch phải đóng quân cô lập giữa một vùng đồng ruộng và một vài xóm trơ trọi thuộc xã Tân Dĩnh (Lạng Giang - Hà Bắc), cách Xương Giang 3km.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bộ chỉ huy nghĩa quân đã dự kiến trước và chuẩn bị sẵn một thế trận bao vây tiêu diệt chúng ở vùng này. Quân ta đã “lập hàng rào ở bên bờ tả sông Xương Giang”. Quân thủy bộ của ta lợi dụng đoạn sông Thương này để bố trí bao vây mặt tây và làm chủ các dòng sông Thương và sông Lục Nam ở phía Đông Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mặt Bắc, hai đạo quân của ta sau trận Phố Cát cùng tiến xuống, hình thành thế trận bao vây ép chặt quân địch. Thành Xương Giang nằm trong tay nghĩa quân là một pháo đài vững chắc, chặn đứng đường về Đông Quan của chúng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau khi quân địch đã hoàn toàn lọt vào vòng vây khép kín, dày đặc, nhiều tầng nhiều lớp của quân thuỷ bộ ta, bộ chỉ huy nghĩa quân lo tiêu diệt đạo quân Mộc Thạnh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đúng như kế hoạch đã vạch sẵn, bộ chỉ huy đã ra lệnh cho các tướng giữ ải Lê Hoa là “Chỉ nên đặt quân phục để chờ, chưa nên đánh nhau vội”, chỉ đánh kiềm chế, ngăn chặn không cho địch tiến sâu, đồng thời chuẩn bị lực lượng, chiếm lĩnh sẵn những nơi hiểm yếu để chờ thời cơ phản công.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Khi đạo quân viện binh của Liễu Thăng đã bị thất bại nặng nề và bị giam chân ở Xương Giang, Lê Lợi cho một số tù binh mang thư và bằng sắc ấn tín của Liễu Thăng và những tên tướng tử trận đến trại quân của Mộc Thạnh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mộc Thạnh thất kinh, vội vàng đang đêm đem quân gấp rút tháo chạy về nước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nghĩa quân đã chuẩn bị trước, lập tức tung quân đánh đuổi. Quân ta thắng lớn ở Lãnh Câu và Đan Xá diệt trên 1 vạn địch, bắt sống 1 nghìn tên và 1 nghìn ngựa, thu nhiều chiến lợi phẩm. Mộc Thạnh chỉ một mình một ngựa chạy thoát về Vân Nam.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Chiến thắng ở Lãnh Câu và Đan Xá càng cổ vũ tinh thần quân dân ta ở chiến trường Xương Giang. Vừa xiết chặt vòng vây, Lê lợi, Nguyễn Trãi kiên trì dụ hàng quân địch ở cánh đồng Xương Giang.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Quân Minh tỏ ra ngoan cố, không chịu hàng, lại có âm mưu giảng hòa để kéo vào thành Chí Linh, lợi dụng thành lũy này để cố thủ và tiếp tục chiến tranh.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Lê Lợi ra lệnh gấp rút hạ thành Chí Linh và gửi tới Thôi Tụ, Hoàng Phúc một bức tối hậu thư.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đúng ngày 3-11-1427, nghĩa quân được lệnh tổng công kích cụm viện binh cuối cùng này. Quân địch đại bại, các tướng chỉ huy lớn nhỏ từ Thôi Tụ, Hoàng Phúc đến Sử An, Trần Duy, v.v... đều bị bắt cùng với hơn 5 vạn quân địch bị giết, một số chạy trốn được, sau cùng đều bị dân ta bắt giữ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Đến đây, hai đạo viện binh của nhà Minh đều bị tiêu diệt và đánh bại.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Toàn bộ chiến cục từ Chi Lăng đến Xương Giang, với các trận đánh liên tiếp đã được bố trí và thực hiện đúng kế hoạch dự định. Quân ta hoàn toàn đẩy địch vào thế bị động. Nghĩa quân đã sử dụng tài tình địa hình hiểm trở và chọn quyết chiến điểm một cách chính xác.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Sau trận phản kích tuyệt vọng cùng với sự kiên trì thuyết phục của Nguyễn Trãi, cuối cùng Vương Thông đã phải chịu đầu hàng bằng một cuộc đàm phán gọi là “Hội Thề Đông Quan” cam kết rút toàn bộ quân lính ra khỏi nước ta.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Ngày 29-12-1427, quân Minh bắt đầu rút lui và đến ngày 3-1-1428 thì đội bộ binh cuối cùng của Vương Thông lên đường về nước.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bình Ngô Đại Cáo đã nêu:</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ trước cấp hơn năm trăm thuyền, đã vượt biển, vẫn hồn kinh phách lạc. Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cho trên mấy nghìn ngựa, đã về nước, còn ngực đập chân run. Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hàng. Ta để cho giặc toàn quân, mà quân ta được nghỉ và đất nước ta sau 20 năm bị mất, nay lại được giải phóng một cách oai hùng.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Xã tắc từ đây vững yên.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Giang sơn từ nay đổi mới</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Càn khôn hết bĩ lại thái.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Nhật nguyệt hết mờ lại trong</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Mở rộng nền thái bình muôn thuở</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Rửa sạch điều hổ thẹn nghìn thu.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d"></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Verdana'"><span style="font-size: 15px"><span style="color: #a0522d">Bài học lớn trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng tổ quốc, chống xâm lược của nhà Minh trong 20 năm trường là chống kẻ thù lớn mạnh hơn phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, phải có nghệ thuật của chiến tranh nhân dân và luôn quán triệt tư tưởng lấy yếu chống mạnh, phải biết tạo thời lập thế để thắng kẻ định có lực lượng mạnh hơn. Phải có cách đánh phù hợp lừa địch, đưa địch vào những thế trận bất ngờ, bằng phục kích, tập kích - Sai lầm về chiến lược thì quân trăm vạn, thành quách kiên cố cũng chỉ vài tháng là thua, đổ mất nước. Nhưng kẻ thù xâm lược phải luôn nhớ rằng nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước sâu đậm, có ý chí quật cường không chịu cam tâm làm nô lệ. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp trong gần 20 năm bị đô hộ của nhân dân đã chứng minh nhân dân Việt Nam không thể bị đồng hóa. Trong 20 năm chống Minh xâm lược, nghệ thuật giải phóng dân tộc đã được xây dựng hoàn chỉnh từ khởi nghĩa ở rừng núi nông thôn tiến hành chiến tranh du kích, đến vây thành diệt viện binh tiến tới chiếm khoanh trì - kết hợp tiến công với nổi dậy của quần chúng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị binh địch vận và ngoại giao - Trong tác chiến thì luôn quán triệt tư tưởng lấy “yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai phục” lấy đánh vận động là chính - Dùng chiến lược đánh lâu dài, từng bước xây dựng và phát triển lực lượng và thế trận, xây dựng căn cứ địa ở nơi hiểm trở của núi rừng và trong lòng dân ở những nơi địch yếu trước và khi đã có thời cơ thì không bỏ lỡ mà tranh thủ đánh nhanh mở rộng địa bàn.</span></span></span></p><p> </p><p> </p><p>lichsu.vn</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 80408, member: 17223"] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d] [/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]III CHIẾN TRANH BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÓNG TỔ QUỐC, CHỐNG XÂM LUỢC CỦA NHÀ MINH 1406-1427[/FONT][/COLOR][/B][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana][/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Sau ba lần đánh thắng oanh liệt quân xâm lược nhà Nguyên, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, nước Đại Việt đã giành được những điều kiện có lợi để thực hiện một chính sách ngoại giao hòa hảo với các nước láng giềng, để dân ta khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, dựng lại làng xã, thị thành mà quân xâm lược đã tàn phá. Trong khoảng hơn một trăm năm nước ta không bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm đến từ phương Bắc. Cũng trong khoảng thời gian trên, đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ thứ XIV, cả nước ta và đế quốc phương Bắc đã diễn ra những quá trình xã hội phức tạp, dẫn đến những kết quả rất khác nhau, tác động mạnh đến quan hệ giữa hai nước. [B] Tình hình nước Đại Việt và nước Đại Minh trong nửa đầu thế kỷ thứ XIV.[/B] Bước sang thế kỷ thứ XIV, những mâu thuẫn vốn có trong chế độ xã hội, kinh tế Đại Việt ngày càng trở nên trầm trọng. Tập đoàn phong kiến cầm quyền nhà Trần đại diện của giai cấp quý tộc thống trị mà cơ sở kinh tế là chế độ đang rơi vào trạng thái tan rã tất yếu, chẳng những hoàn toàn bất lực trong việc đề ra những cải cách xã hội, kinh tế tiến bộ mà còn lao sâu vào việc thực hiện những chính sách đối nội, đối ngoại mang tính chất “chỉ vì ích kỷ phì gia”, “chẳng nghĩ khổ dân hại nước” (như sau này Nguyễn Trãi đã phê phán), làm cho những mâu thuẫn nói trên trở nên hết sức gay gắt. Ngay từ cuối những năm 20 thế kỷ XIV, những biến động xã hội đã nổ ra, dưới hình thức những cuộc nổi dậy liên tiếp của nông dân, nô lệ các điền trang và các tầng lớp dân nghèo khác chống giai cấp quý tộc. Bộc lộ bản chất phản động của mình, nhà Trần đã dùng vũ lực đàn áp mạnh mẽ những cuộc nổi dậy đó. Từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV cuộc đấu tranh vũ trang của các tầng lớp bình dân diễn ra liên tục và ngày càng mở rộng, mặc dù bị quân đội nhà nước phong kiến đàn áp dữ dội. Những đòn giáng mạnh mẽ đó đã làm cho toàn bộ chế độ xã hội - kinh tế phong kiến quý tộc suy yếu đến tận gốc và đặt chế độ nhà Trần trước nguy cơ bị sụp đổ. Trong tình hình đó, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra triều đại mới, vào năm 1400. Một chế độ tập quyền càng quan liêu, quân phiệt hơn nữa ra đời. Nếu như về cơ bản, triều đình mới tiếp tục theo đuổi đường lối chính trị của triều đại trước, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương đã cho thực hiện biện pháp mang hai tính chất, vừa trắng trợn tàn bạo, vừa khéo léo mị dân. Nhà Hồ đã tự ham mình vào một thế cô lập rất nguy hiểm, đồng thời phải chống lại tập đoàn quý tộc đã bị đánh đổ của nhà Trần. Trong bài chiếu cấm các đại thần, tổng quản cùng các quan ở viện sảnh, cục tham lam lười biếng do Nguyễn Trãi thảo tháng 7 năm thứ 3, năm Canh Tuất (1430) thảo chỉ thị của Lê Lợi sau khi giành được độc lập đã nói lên tình hình trên: “trước kia họ Trình (tức họ Trần) cậy mình mạnh giầu, mặc dân khốn khổ, chỉ ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc. Những việc vô ích bầy ra hàng ngày, nào là đánh bạc, vây cờ, chọi gà, thả chim, nào là cá vàng nuôi chậu, chim rừng nhốt lồng khoe tốt, tài năng nhỏ mọn, giành lấy hơn thua, quên hẳn thiên hạ lớn lao, chẳng hề nghĩ kẻ oan uổng bị khổ ở chỗ kìm giam, hai ba năm không được xét hỏi, người thân sơ phải khuất ở tay nội giám, hai ba tháng mà việc chưa xong, khanh tướng lập đảng riêng tây: triều đình thiếu người can giám, cho đến nỗi con vua, cháu chúa bị hại bởi kẻ gian thần, quyền lớn việc to đều lọt vào tay xiểm nịnh. Nhân dân oán ghét mà không biết, lòng trời khiển trách mà chẳng kinh. Chính giao do đó mà suy đồi, kỷ cương do đó mà rối loạn. Họ Hồ đã dùng gian trí để cướp lấy nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh bảo sao (tiền giấy Hồ Quý Ly ban hành năm 1395) ban bố và mọi người oán nỗi thường sinh; việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề thất sở. Giả dĩ thuế má phiền hà, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vì ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vì tình riêng, họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà khen thưởng, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện phải ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo, tự tôn, không sợ mệnh trời gieo họa”1. Cũng vào giữa thế kỷ XIV, tại phương Bắc, xã hội phong kiến Trung Quốc đã diễn ra những biến động lớn, với những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh nông dân chống giai cấp phong kiến liên tiếp nổ ra. Cầm đầu phong trào này, Chu Nguyên Chương đã lợi dụng được tình cảm Đại hán Tộc trong nhân dân để lật đổ triều đại nhà Nguyên, lập nên một triều đại mới, nhà Minh, năm 1368. Cũng như mọi hoàng đế Trung Hoa trước đó, ở buổi đầu cầm quyền, vua Minh đã lập tức cho chuẩn bị các mặt để thực hiện giấc mộng “bình thiên hạ” cổ truyền, trước nhất là bành trướng trên hướng Đông Nam Á và Nam Á. Theo rõi chặt chẽ tình hình bên trong Đại Việt, ngay từ năm 1377, trong triều đình nhà Minh đã có chủ trương “muốn nhân kẽ hở, tính chuyện xâm chiếm” nước ta. Song giới chóp bu cho rằng thời cơ chưa đến. ________________________________ 1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969, tr. 135 – 136. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Nhằm thực hiện kế hoạch đánh chiếm Đại Việt, mở đường tràn vào các nước Đông Nam Á, tiểu lục địa Nam Á, đến tận các nước ven vịnh Pec-xích, triều đình Minh đã bắt tay xây dựng một quân đội thường trực chuyên nghiệp mạnh và một hạm đội trên biển với những thuyền chiến và thuyền vận tải cỡ lớn. Đến đời Minh Thành Tổ (1402-1424), nhà Minh đạt tới giai đoạn cường thịnh nhất, cũng là giai đoạn trực tiếp thực hiện kế hoạch bành trướng nói trên. Ở nước ta, cả hai tập đoàn Trần - Hồ đều đã biết những gì đã diễn ra trên đất đai của đế chế phương Bắc từ cuối thế kỷ XIV, đều nhận thấy hiểm họa ngoại xâm đè nặng lên vận mệnh của Đại Việt. Thế nhưng, do bản chất phản dân hại nước của một giai cấp thống trị đã bị lịch sử lên án, cả hai tập đoàn ấy đều tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc thay đổi đường lối chính trị, trong việc đề ra những chính sách, biện pháp có thể động viên lòng yêu nước của toàn dân, thực hiện đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm. Tình hình Đại Việt sau sự kiện nhà Hồ cướp ngôi Trần được nhà Minh xem là một điều kiện rất có lợi để họ chuyển sang hành động xâm lược vũ trang. Với việc Minh Thành Tổ lên nằm quyền, triều Minh đã đẩy quan hệ giữa hai nước lao nhanh đến chỗ kết cục theo ý của họ: chiến tranh. Về phía họ, đó là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngọn cờ mà nhà Minh giương lên, “phù Trần diệt Hồ”, “đánh kẻ có tội, để dựng lại nước đã bị diệt, cứu vớt dòng họ đã bị tuyệt” cố nhiên chỉ là một thủ đoạn nham hiểm hòng tạo điều kiện chính trị có lợi để đạt tới mục đích của chiến tranh là thủ tiêu nền độc lập của dân tộc Việt, biến Đại Việt thành quận, huyện trong đế quốc phương Bắc, làm bàn đạp để tràn xuống Đông Nam Á. Chiến tranh xâm lược của nhà Minh đã diễn ra trên đất nước Đại Việt suốt 20 năm trường, đưa nhân dân Việt vào một cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, đầy hy sinh, như trong Bình Ngô Đại Cáo đã viết: “Thui dân đen trên lò bạo ngược. Hãm con đỏ dưới hố tai ương Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe. Cậy binh gây hận, ác chứa gần hai chục năm Bại nghĩa thương dân trời đất tưởng chừng muốn đứt. Vét vơ thuế má trăm núi chẳng còn tí gì... Tát cạn nước Đông Hải không thể rửa hết nhơ. Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác”. Cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân ta bắt đầu với sự thất bại nhanh chóng của Hồ Quý Ly trong điều kiện lòng dân ly tán “quân trăm vạn người trăm vạn lòng”. Nhưng quân Minh xâm lược đã phải liên tiếp đối phó với các cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt suốt 20 năm trường với 7 năm kháng chiến liên tục thời hậu Trần, từ 1407 đến 1414 và cuối cùng nhân dân Việt đã giành thắng lợi, tiêu diệt và bắt sống hàng mấy chục vạn quân tướng nhà Minh, giải phóng đất nước sau cuộc chiến tranh 10 năm từ 1417 đến 1427 dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, cho nên, “Xã tắc do đó được yên Non sông do đó đổi mới Càn khôn đã bí mà lại thái Nhật Nguyệt đã mờ mà lại trong Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu”. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]I. CUỘC CHIẾN TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC CỦA NHÀ HỒ[/FONT][/COLOR][/B][COLOR=sienna][FONT=Verdana][/FONT][/COLOR][/CENTER][/CENTER] [B] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Ý đồ chiến lược và chuẩn bị chiến tranh của hai bên.[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Trước tình hình nguy cơ xâm lược của nhà Minh đã rõ ràng, Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương một mặt mở rộng địa giới về phía Nam, đánh Chiêm Thành, Chiêm Thăng Hoa (Quảng Ngãi) đến tận Phan Rang, một mặt tích cực chuẩn bị kế hoạch và lực lượng để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc. Hồ Nguyên Trừng thú nhận “không sợ đánh giặc, mà chỉ sợ lòng dân không theo”. Triều Hồ đã đánh giá cực kỳ sai lầm tinh thần yêu nước của dân ta, mặc dù họ thừa nhận “lòng dân là một sức mạnh cực lớn”. Trước và trong chiến tranh, mục đích chính trị tổng quát mà họ theo đuổi vẫn là bảo vệ đặc quyền đặc lợi của tập đoàn đại quý tộc cầm quyền, củng cố chế độ chuyên chính quan liêu, quân phiệt của dòng họ Hồ. Do không có sự ủng hộ của nhân dân nên trong chiến lược của triều Hồ, chiến tranh không mang hình thức chiến tranh toàn dân, mà thuần túy chỉ là cuộc chiến tranh của triều đình và của quân đội. Ngay trước chiến tranh, triều Hồ đã ra lệnh thủ tiêu tổ chức dân binh ở các làng xã, cấm nhân dân mang vũ khí, tiếp tục đàn áp bằng vũ lực những cuộc đấu tranh của nhân dân, giáng vào quyền lợi kinh tế của tầng lớp địa chủ bình dân, thủ tiêu nốt độc quyền kinh tế của phe phái chống đối (thế lực dòng họ Trần). Để làm kế thanh dã, họ ra lệnh cho dân sống trên dải đất mầu mỡ giữa sông Thương, sông Cầu và sông Hồng, vùng trung du đang ở thời kỳ phát triển về kinh tế, bỏ ruộng đất phá nhà cửa, mang của cải về sống ở hữu ngạn sông Hồng... Tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho toàn bộ kế hoạch chiến tranh của triều Hồ là: “Có trăm vạn quân để đối địch với giặc phương Bắc”. Triều Hồ nhận rõ ý định xâm lược của đối phương, nhận định đúng đắn rằng sức mạnh kinh tế và quân sự thời đó cho phép nhà Minh theo đuổi một cuộc chiến tranh với những nỗ lực cần thiết để đạt mục đích của họ. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng tính toán rằng để đối địch” với quân xâm lược trong một cuộc chiến tranh có thể lâu dài, cần có một tiềm lực kinh tế và nhân lực lớn, biểu hiện một cách cụ thể ở con số một triệu người cầm vũ khí, được huy động vào quân đội trong nhiều đợt. Do vậy, trong kế hoạch chiến tranh, triều Hồ xác định mục tiêu chính trị, quân sự hàng đầu mà quân đội phải thực hiện là bảo vệ vững chắc những khu vực kinh tế và nhân lực có tầm quan trọng sống còn đối với nhà nước, giữ vững được quyền làm chủ vùng đất đai rộng lớn từ châu thổ sông Hồng về phía Nam kéo dài đến Thăng Hoa (Quảng Ngãi). Không để cho quân xâm lược đánh chiếm được những khu vục cốt yếu đó cũng có nghĩa là bảo đảm có một triệu người nhập ngũ, có đủ lương thực, thực phẩm, có đủ vũ khí, phương tiện để “đối địch” với quân xâm lược, đồng thời gây cho nhà Minh những khó khăn lớn trong việc cung cấp, tiếp tế cho một quân đội đông người, cô độc trên một vùng núi cao thưa dân, ít của trong một cuộc chiến tranh kéo dài. Triều Hồ cho rời quốc đô từ Thăng Long bên sông Hồng đến Vĩnh Lộc bên sông Mã, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, đặt tên Tây Đô cho Vĩnh Lộc. Triều đình cho tiến hành kiểm tra số dân trên cả nước, quy định chế độ quân dịch bắt buộc cho người dân từ tuổi 15 đến tuổi 60 để có đủ một triệu người có thể nhập ngũ. Vào cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, ở nước ta khoa học và kỹ thuật đã đạt được tiến bộ quan trọng trên nhiều lĩnh vực: toán học, hình học, cơ học, luyện kim, đúc súng, sử dụng năng lượng tự nhiên (sức gió, sức nước), năng lượng hóa học (thuốc súng), sử dụng vật liệu mới v.v... Mọi thành tựu khoa học và kũ thuật đó đã được nhà Hồ sử dụng vào mục đích quân sự như: đóng “cổ lâu thuyền”, chế tạo thần cơ sang, thần cơ pháo, dùng đá xây dựng các quân thành... Hỏa khí bắt đầu chiếm một thành phần quan trọng trong việc trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu của quân đội. Các nhà quân sự Đại Việt đã có nhiều suy tư, tìm tòi những hình thức và cách thức sử dụng hỏa lực trong lục quân và thủy quân để đánh địch, kết hợp hỏa lực với bạch binh, kết hợp hỏa lực với vận động, đột kích v.v... Về chiến lược quân sự, toàn bộ kế hoạch hành động của triều Hồ đều dựa trên tư tưởng: “Cầm cự với quân Minh, cố thủ nơi hiểm trở, không ra đánh để làm cho quân Minh mòn mỏi”. Trong đường lối đó, mục đích chiến lược thật rõ ràng: đánh cho quân Minh mòn mỏi. Ở đây, không có vấn đề đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng không đặt cho quân đội mình mục tiêu giành những chiến thắng quân sự quyết định, bằng việc thực hiện những đòn đánh tiêu diệt những tập đoàn chiến lược chủ yếu của quân xâm lược. Nhằm đạt mục đích đánh cho quân xâm lược mòn mỏi, làm cho triều Minh nản chí phải rút quân, phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang lấy chiến lược phòng ngự làm quyết định. Chiến lược phòng ngự của triều Hồ chống lại chiến lược tiến công của quân địch là có chủ đích, có chuẩn bị sẵn, nó dựa trên một hệ thống quân thành lớn rải ra từ biên giới đến trung tâm đất nước lấy tuyến sông Hồng làm tuyến chiến lược chủ yếu, tập trung chủ yếu lực lượng chủ yếu trên đoạn từ Bạch Hạc đến Đông Đô. Việc xây dựng tuyến phòng ngự chủ yếu này, bằng cách mở rộng, tôn cao, đóng cọc tre trên những đoạn hiểm yếu tuyến đê nam sông Hồng, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy, đến tận cửa sông Bạch Đằng, đã phải dùng đến rất nhiều tiền của nhân lực. Trên hai đầu của tuyến phòng thủ quốc gia dài 800 dặm đó (450 km), ở đoạn sông Lô đổ vào sông Hồng, sông Bạch Đằng đổ ra biển, những xích sắt được giăng qua sông “khóa” các cửa sông đó, nhằm không cho thuyền chiến và thuyền vận tải địch vượt qua để vào sông Hồng và sông Bạch Đằng.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Trên hai đường chiến lược từ Pha Lũy (ở biên giới giữa Lạng Sơn và Quảng Tây) đến Đông Đô và từ Phú Lệnh (ở biên giới giữa Tuyên Quang nay thuộc Hà Giang và Vân Nam) đến Bạch Hạc, đã xây dựng những quân thành quan trọng: Pha Lũy, Kê Lăng (Chi Lăng và Phú Lệnh) và nhiều đồn binh nhỏ. Trên hai sườn của tuyến phòng ngự chủ yếu, có hai quân thành lớn Bình Than và Bạch Hạc. Trên đoạn trung tâm có quân thành Đông Đô và Đa Bang. Trên sông Mã có quân thành Tây Đô. Bộ ba Đông Đô - Đa Bang - Tây Đô là những quân thành rất lớn, trong đó lớn nhất là Đa Bang, được Hán Thương xem là “địa điểm xung yếu nhất” của toàn bộ hệ thống quân thành, là “then chốt” của toàn bộ hệ thống phòng ngự. Mọi vật liệu, phương tiện kỹ thuật mới đều được dùng xây dựng thành Đa Bang (xã Cổ Pháp, huyện Quốc Oai, Sơn Tây). Lục quân đảm nhiệm vai trò chủ yếu của phòng ngự. Các đội quân địa phương (quân các lộ) được tập hợp lại, tổ chức thành những cụm quân chủ yếu là bộ binh, kể cả bộ binh giáo gươm và bộ binh cung nỏ, và một số “thần cơ sang”, mỗi cụm từ ba đến năm vạn người, làm nhiệm vụ đồn trú các quân thành trên dải biên giới ở Bình Than, Bạch Hạc. Những vệ quân thường trực tinh nhuệ, du quân (tức quân chủ lực cơ động) được hợp nhất lại thành cụm tập đoàn quân như tập đoàn ở Đa Bang có tới 10 vạn quân. Mỗi cụm như vậy có đủ bộ binh, thần cơ pháo, các đội kỹ thuật, quân vận tải… Tượng binh tập trung trong thành Đa Bang. Những cụm quân thường trực đóng trong 3 thành Đông Đô, Đa Bang, Tây Đô. Thủy quân làm nhiệm vụ hỗ trợ lục quân, cơ động trên các dòng sông thuộc hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và sông Mã. Các nhà quân sự triều Hồ cho rằng mỗi quân thành, với khả năng kỹ thuật của nó, với một cụm quân mạnh, có kho dự trữ lương thực, thực phẩrn, khí giới, đạn dược, là một cơ sở có tính độc lập cao về chiến thuật, đủ khả năng đối địch với cuộc bao vây công kích lâu dài của quân Minh. Chiến lược phòng ngự sẽ được thực hiện bằng cách: - Làm thanh dã triệt để trên vùng thượng du và trung du trong một khu vực rộng lớn từ biên giới đến tả ngạn sông Lô, tả ngạn sông Hồng, tả ngạn sông Kinh Thầy. Trong khu vực đó quân xâm lược không còn có khả năng lợi dụng một cách đáng kể tài nguyên kinh tế và nhân lực của nước ta. - Cột chặt các cụm quân địch dưới quân thành trong thời gian dài, trên khu vực rừng núi sát biên giới cũng như trước tuyến sông Hồng, trong những trận chiến đấu kiên trì giữ thành, gây cho địch thật nhiều tổn thất. - Giành lấy thời gian để tích lũy lực lượng, phương tiện, lương thực, thực phẩm, đủ sức đối địch lâu dài với quân Minh. Bằng những cách đó các nhà chính trị và quân sự chiến lược triều Hồ mong đạt tới mục đích đánh mòn mỏi quân xâm lược cả về thể chất lẫn tinh thần, làm cho tướng lĩnh và binh sĩ Minh không tin vào thắng lợi, làm cho triều đình Yên Kinh phải tìm phương pháp khác để chấm dứt chiến tranh mà vẫn giữ được “thể diệt”. Đầu năm 1405, vua Minh ra lệnh tiến hành cuộc viễn chinh thứ nhất vào Đông Nam Á. Trong khi hạm đội Trịnh Hòa bắt đầu vượt biển đi đến các đảo Gia-va, Su-ma-tơ-ra và bán đảo Ma-la-ca và một bộ phận nhỏ của hạm đội này đã men theo bờ biển nước ta đến Chăm Pa, thì triều đình Yên Kinh đưa yêu sách đất đai với triều Hồ, một triều đình mà họ không hề công nhận. Hồ Quý Ly đã cắt 59 thôn thuộc khu Cổ Lâu để thỏa mãn một phần yêu sách bành trướng của nhà Minh. Giữa năm 1406, đồng thời với việc triều Minh ra lệnh cho đội quân xâm lược bắt đầu triển khai trên các khu vực xuất phát tiến công, một đạo quân Minh gồm 5.000 người hộ tống “An Nam Quốc vương” Thiên Bình từ đất Quảng Tây vượt biên giới vào nước ta, định tiến về Thăng Long. Hồ Quý Ly đã ra lệnh cho quân đội ở vùng biên giới chặn đánh chúng. Quân Minh bị tiêu diệt, Thiên Bình bị bắt rồi bị giết vì tội phản quốc. Cuộc chiến tranh xâm lược của nước Đại Minh đối với nước Đại Việt đang đến gần. Còn nhà Minh, để đạt mục đích bành trướng, thống trị một miền đất mênh mông từ Đông Nam Á qua Nam Á đến Tây Nam Á, dự tính sử dụng một tiềm lực kinh tế và nhân lực rất lớn kể cả quân đội, hạm đội và dân di cư, thực hiện xâm lược bằng nhiều phương thức, theo từng giai đoạn nối tiếp nhau, rải ra trong nhiều chục năm. Đánh chiếm Đại Việt là mục tiêu quan trọng nhất trong kế hoạch quy mô lớn đó, đòi hỏi có lực lượng đông đảo và tinh nhuệ. Đi đôi với việc tiến công quân sự từ bên ngoài, các nhà chính trị và quân sự Minh còn đặt hy vọng vào những cuộc nổi dậy từ bên trong nước ta của các thế lực trung thành với nhà Trần, kể cả trong quân đội triều Hồ, thực hiện “ngoại công nội kích”, nhằm đạt mục đích chính trị của chiến tranh trong một thời gian không dài, trong khi vẫn chuẩn bị sẵn những lực lượng và phương tiện tăng viện đề phòng trong trường hợp chiến tranh kéo dài. Trong thực tế, sau khi đánh thắng quân đội triều Hồ, nhà Minh đã phải kéo dài cuộc xâm lược vũ trang gần hai mươi năm cho đến khi kiệt sức mất ý chí xâm lược.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Trong đợt đầu, nhà Minh quyết định sử dụng tám mươi vạn quân, kể cả quân thường trực chuyên nghiệp và quân bổ trợ (chủ yếu làm nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân sự), thuộc lục quân là chính, và một số thuyền chiến có nhiệm vụ hộ tống đoàn thuyền vận lương. Ngoài ra, nhà Minh còn tập hợp một số tên quý tộc họ Trần làm tay sai, như phong “An Nam Quốc vương” cho Trần Thiên Bình. Về quân sự, mục đích chiến lược của quân xâm lược là đánh bại hoàn toàn quân đội triều Hồ, buộc nhà Hồ đầu hàng vô điều kiện. Họ cho rằng chỉ cần đạt được mục tiêu tiêu diệt lực lượng quân sự đối phương, nhất là quân đội thường trực tinh nhuệ: thì sẽ đạt được các mục tiêu khác như chiếm các trung tâm chính trị, các khu vực kinh tế. Biết rằng nhà Hồ đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống quân thành lớn, khá kiên cố, khó có thể vòng qua, các tướng Minh lựa chọn chiến thuật bao vây - công kích là chính. Đối với từng quân thành, họ sử dụng cụm quân bộ binh có các phương tiện công thành (như súng bắn đạn đồng đặc, máy phóng đá, máy phóng tên lửa, phóng chất cháy, thang vượt hào, thang leo thành cỡ lớn... ) và kỵ binh để hoàn thành nhiệm vụ vây - kích. Mọi kinh nghiệm tích lũy được từ những cuộc công phá các quân thành cỡ lớn của quân Nguyên ở Trung Quốc, mọi phương tiện kỹ thuật công thành có hiệu quả ở thời này, đều được quân Minh dùng trong cuộc chiến tranh xâm lược này. Chiến tranh chủ yếu sẽ diễn ra theo cách tiến công đồng thời trên các hướng chiến lược, bằng những cuộc vận động tiếp cận và bao vây công kích từng quân thành một, cho đến khi đạt tới mục tiêu đánh bại hoàn toàn đối phương. Đó là một cách tiến hành chiến tranh rất tốn kém, tiêu phí nhiều lực lượng và phương tiện. [/COLOR][/SIZE][/FONT][B] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Diễn biến của cuộc chiến tranh.[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Ngày 19 tháng 11 năm 1406, quân Minh bắt đầu vượt biên giới. Ngay hôm đó, hai lộ quân Minh gồm 80 vạn quân xuất phát từ đất Quảng Tây, Vân Nam đồng thời tiến quân vào Đại Việt. Lộ quân chủ yếu, do tổng binh Trương Phụ trực tiếp chỉ huy, bắt đầu bao vây thành Pha Lũy. Lộ quân Vân Nam, do tổng binh Mộc Thạch chỉ huy, cũng bắt đầu bao vây thành Phú Lệnh. Đó không phải là một công việc dễ dàng, có thể làm xong trong một vào ngày, vì phải đưa những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, trên một địa hình hiểm trở. Nhưng các tướng lĩnh Minh không còn khả năng lựa chọn phương pháp nào khác hơn là “nhổ” từng thành một của đối phương để mở đường tiến vào sâu. Chiến đấu Pha Lũy: Trong quân thành Pha Lũy có 3 vạn quân nhà Hồ trú phòng. Số lượng thì lớn, nhưng vốn là quân địa phương từ nhiều lộ tập hợp lại, chưa được huấn luyện để chiến đấu giữ một thành quan trọng trên hướng tiến quân chủ yếu của địch. Thêm vào đó cụm quân ở vị trí chiến lược này lại kém về tinh thần chiến đấu, sau những tháng năm đóng quân sát địch mà thiếu sự cổ vũ, động viên về chính trị, ít được quan tâm tới đời sống vật chất. Do vậy, trong suốt thời kỳ quân địch tiến hành chiếm lĩnh các vị trí bao vây cụm quân ta “án binh bất động”, không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch. Sau khi đưa được những phương tiện công thành đến những vị trí có lợi, những đội xung kích đến sát các hào thành, bắt đầu công kích vào cuối tháng 11. Sau vài ngày chiến đấu, mặc dù quân ta đã đẩy lùi những mưu toan vượt hào và leo thành của các đội xung kích địch, sự hoang mang dao động đã nảy sinh trong số các tướng lĩnh và binh sĩ ta trước sự công phá của các phương tiện phóng đạn đá, đạn đồng của địch. Mới thương vong vài trăm người mà đã hoang mang, dao động chỉ huy thành đã hạ lệnh bỏ thành rút chạy. Chiến đấu Kê Lăng: So với Pha Lũy, thành Kê Lăng lớn hơn và kiên cố hơn nhiều. Cụm quân Hồ trú phòng tại đây có hơn 3 vạn người nhưng tinh thần chiến đấu chẳng hơn gì quân ở Pha Lũy. Tin mất thành Pha Lũy đã làm cho tướng lĩnh và binh sĩ giữ thành mất tinh thần. Quân Minh tiến đến bao vây thành Kê Lăng chuẩn bị công kích vào thượng tuần tháng 12. Cũng như ở Pha Lũy, quân ta đã không có hành động tích cực nào để phá sự chuẩn bị của địch, mặc dù ở đây với kỹ thuật cấu trúc thành tiên tiến, quân ta chiếm được những vị trí rất có lợi, có thể từ đó gây cho địch rất nhiều khó khăn trong việc chiếm lĩnh những vị trí bao vây, nhất là trong việc đưa các phương tiện công thành vào cự ly có hiệu quả. Trong vài ngày đầu quân ta đẩy lùi được các cuộc công kích của địch. Nhưng cũng như ở Pha Lũy, những thiệt hại đầu tiên về người do các phương tiện công thành của địch gây ra đã nhanh chóng gây hoang mang cho các tướng lĩnh toàn thành. Khi tổn thất vài trăm người thì tướng chỉ huy thành lại ra lệnh bỏ thành rút chạy. Chính trong quá trình thoát vây theo kiểu “mạnh ai nấy chạy”, quân ta bị thiệt hại nặng nề.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Chiến đấu Phú Lệnh: Trên hướng Tuyên Quang - Bạch Hạc, thường là hướng tiến quân quan trọng nhưng là hướng thứ yếu so với hướng Lạng Sơn - Bắc Giang mà quân phương Bắc xâm lược quen dùng, nhà Hồ chỉ cho xây dựng một quân thành lớn, trên một địa hình rất hiểm trở, ở sát biên giới hai nước. Tại đây cũng có một cụm quân gồm trên dưới 3 vạn người, với chất tinh thần, chiến đấu còn kém hơn nhiều so với các cụm quân Pha Lũy, Kế Lăng. Trong tình hình đó mặc dù lộ quân Mộc Thạnh là một lộ quân có ít kinh nghiệm và phương tiện công thành hơn, cuộc chiến đấu đã diễn ra và kết thúc nhanh chóng hơn. Ở đây, một phần quan trọng tướng binh quân Hồ là quân địa phương miền núi lân cận. Họ đã bỏ thành chạy về quê hương mình, số còn lại đã tan vỡ trên hướng rút chạy về phía sau. Như vậy, trong vòng không đầy một tháng, trái với ý đồ và mong muốn của triều đình Hồ, là ghìm chân lâu dài đại quân Minh trên khu vực rừng núi cao biên giới, gần mười vạn quân địa phương ta đã bị loại khỏi vòng chiến và mất đi những quân thành lớn, những vị trí chiến lược quan trọng, gây thiệt hại không đáng kể cho địch. Tuyến chiến lược sông Hồng và những vùng trung tâm chính trị và kinh tế của đất nước đã bị trực tiếp đe dọa. Trên hướng tiến quân chủ yếu, đại quân Trương Phụ từ Chi Lăng bắt đầu tiếp cận tuyến sông Hồng. Đến Bắc Giang, lộ quân này chuyển sang hướng Tây Nam, đến sông Phú Lương, để giữ an toàn bên sườn. Để đánh lạc hướng đối phương, Trương Phụ, phái một đội kỵ binh tiếp tục tiến theo hướng Nam, nhằm vào Đông Đô. Đội kỵ binh này đã tiến tới Gia Lâm, cơ động “lởn vởn” trong khu vực này, một khu vực vườn không nhà trống. Lộ quân Mộc Thạnh tiến thẳng đến Bạch Hạc, đóng trên bờ Bắc sông Hồng, bắt đầu chuẩn bị tiến công vào cánh trái của tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ. Đó là một nhiệm vụ rất nặng nề, đầy khó khăn, như chính Mộc Thạnh thú nhận: “Những hàng rào gỗ mà bên địch dựng lên đều sát liền sông, quân ta không thể tiến lên được”. Tác chiến của quân Minh khi bắt đầu vượt sông có thể bị thủy quân đối phương đánh vào hai sườn. Để chiếm được một đầu cầu khi đã leo qua hàng rào gỗ đó, lại phải tiếp cận rồi công phá một quân thành cỡ lớn như Bạch Hạc, thì biết bao nhiêu vấn đề về chiến thuật được đặt ra mà tướng lĩnh Minh phải giải quyết. Tổng binh Trương Phụ không có ý định vây kích thành Bạch.Hạc, cũng như thành Đông Đô, vì cho rằng để nhanh chóng phá vỡ tuyển phòng ngự chủ yếu của đối phương, phải công kích vào điểm then chốt của tuyến chiến lược đó, vào đoạn mạnh nhất của nó là quân thành Đa Bang. Mộc Thạnh được lệnh di chuyển lộ quân Minh đến khu vực phía Tây Bắc thành Đa Bang thuộc tả ngạn sông Hồng. Lộ quân Quảng Tây chiếm lĩnh vị trí Đông Nam trong khu vực phía nam Đa Bang. Vào đầu tháng 1 năm 1407, hơn 20 vạn quân Minh đã hoàn thành việc tập hợp tập đoàn chiến lược vây kích Đa Bang. So sánh Đa Bang với Bạch Hạc, Mộc Thạnh nhận định như sau: “Đa Bang là nơi đất cát bằng phẳng có thể đóng quân; nơi ấy tuy thành đất khá cao, bên sườn có mấy tầng hào, nhưng khí giới đánh thành của ta đều đầy đủ, đánh chiếm có phần dễ”. Trương Phụ chỉ thị cho Mộc Thạnh và các tướng lĩnh Minh dưới quyền: “Quân giặc (chỉ quân nhà Hồ) chỉ cậy có thành này, mà chúng ta lập công cũng có một trận này. Tướng sĩ nào trèo lên thành được trước sẽ được đặc cách hậu thưởng, không câu nệ theo thứ bậc thông thường”. Hội chiến Đa Bang: Như đã nói ở phần trên, trên tuyến phòng ngự chiến lược sông Hồng dài 900 dặm, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã chọn đoạn Đa Bang. Hai quân thành lớn Đa Bang và Đông Đô được nối liền với nhau bằng đoạn đê có hàng rào gỗ liên tục trên 30 km; trên đoạn đê đó ở những địa điểm có ý nghĩa chiến thuật, những đồn binh được xây dựng, ngoài ra, ở những đoạn trống có quân tuần tiễu thường xuyên đi lại, cả ngày và đêm. Trên đoạn đó, Nguyên Trừng đã sử dụng 3/4 tổng số quân thường trực tinh nhuệ (khoảng 15 vạn người) phòng ngự. Trong đó riêng thành Đa Bang đã chiếm trên 10 vạn quân gồm đủ mọi binh chủng của lục quân. Thủy quân đóng căn cứ chủ yếu ở cửa sông Luộc và vùng Bạch Hạc, có nhiệm vụ chi viện chiến đấu và hậu cần cho tập đoàn chiến lược trên đoạn phòng ngự chủ yếu. Như vậy tại Đa Bang đã diễn ra cuộc hội chiến quyết định về chiến lược giữa các tập đoàn chủ lực hai bên. Sau khi chuẩn bị chu đáo, vào giữa tháng 1, quân Minh chuyển sang tiến công. Trong nhiều ngày liên tiếp, do thiếu thuyền, quân Minh chỉ có thể dùng những đội quân nhỏ vượt sông để đặt chân lên những bãi cát trên hướng Đông Nam và Tây Bắc Đa Bang. Pháo binh ta đã dùng thần cơ pháo bắn 300 bộ (khoảng 600 - 700 mét); bộ binh dùng thần cơ sang và nỏ, các đội dùng các loại máy phóng đá đánh tan những đội quân vượt sông định đánh chiếm đầu cầu của địch.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Sau nhiều thất bại liên tiếp như vậy trên các hướng Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang, viên tướng Minh phát hiện ra rằng trên chính diện của thành (ở hướng Đông) có những bãi cát dài nhô ra, mà nếu chiếm được sẽ tạo những bàn đạp rất tốt, vì ở ngoài tầm bắn có hiệu quả của mọi phương tiện hỏa lực. Y quyết định cho kỵ binh bất ngờ vượt sông trên đoạn đó. Ngày 20 tháng 1, đã xảy ra một sự kiện mà mới thoạt nhìn thì hình như không quan trọng lắm, song lại có một ý nghĩa quyết định tạo ra bước ngoặt của cuộc hội chiến. Theo thường lệ, nhưng với một cường độ lớn hơn nhiều so với trước quân Minh tiếp tục vượt sông đánh chiếm đầu cầu ở mặt Đông Nam và Tây Bắc, gắng sức mang cả súng, pháo và “vân thê” (loại thang leo thành cao) sang bờ Nam sông. Và cũng theo thường lệ, quân Hồ ra sức đẩy lùi mọi mưu toan đó, gây cho địch những thiệt hại nhất định. Các tướng lĩnh ta vẫn dồn sự quan tâm của mình trên hai hướng đó. Lợi dụng tình hình đó, kỵ binh đã thực hiện vượt sông ngay trên chính diện thành Đa Bang, từ mặt Đông. Người và ngựa địch đã bơi qua sông, kéo theo những tấm da ngựa khô bọc gươm kiếm, cung tên. Đến xế chiều, vài nghìn kỵ binh địch đã chiếm được dải bãi cát dài sát mép nước, một bàn đạp trước sự đối phó không có hiệu quả của quân thủ thành, vì mọi vũ khí phóng đều không “với” được tới chúng. Quân Minh vội vã chuẩn bị đưa qua sông những phương tiện công thành. Thấy rõ nguy cơ, Hồ Nguyên Trừng quyết định tung đoàn voi chiến hòng tiêu diệt kỵ binh địch, chiếm lại những bãi cát trước khi bộ binh và phương tiện công thành địch vượt sông. Các cửa thành được mở ra cho tượng binh tiến công. Tượng binh ta đã đè bẹp kỵ binh địch và đẩy chúng về phía bờ sông. Hiệu quả của đòn đột kích của tượng binh ta đã gây hốt hoảng cho kỵ binh địch. Chỉ huy kỵ binh địch lập tức tập hợp các đội kỵ binh còn ở ngoài khu vực đột kích của đàn voi, dàn đội hình và bắt đầu cơ động nhằm tăng viện cho nơi bị uy hiếp. Hành động của đối phương làm cho viên chỉ huy tượng binh ta hoảng sợ. Thấy lính cưỡi ngựa địch đông hơn gấp mấy lần lính cưỡi voi, thấy địch có thể bao vây mình, viên chỉ huy đó ra lệnh cho tượng binh chấm dứt đột kích, quay lại lao về các cửa thành. Kỵ binh địch cũng tức khắc chuyển sang “truy kích” tượng binh ta đến tầng hào đầu tiên ở ngoài thành. Địch đã phát triển được đầu cầu cửa chúng, đến tận gần chân thành. Lợi dụng tình thế có lợi đó, Trương Phụ lệnh cho bộ binh cùng các đội kỹ thuật công thành dưới sự che chở của kỵ binh vượt sông ồ ạt sang bàn đạp đã chiếm và mở rộng về phía Đông Nam và Tây Bắc. Trong mấy ngày tiếp sau, địch đã đưa được đại quân qua sông chiếm lĩnh các vị trí bao vây trên cả 3 mặt, Đông, Đông Nam và Tây Bắc thành Đa Bang. Thất bại của cuộc xuất kích của tượng binh, đã gây nên một tâm trạng hoang mang trong tướng sĩ giữ thành Đa Bang và cũng ảnh hưởng không lợi đối với tinh thần chiến đấu của những cụm quân Đông Đô, Bạch Hạc... Trong những ngày cuối tháng giêng, địch công thành từ nhiều hướng. Những trận chiến đấu giữ thành đã diễn ra rất ác liệt. Trên mặt Đông và Đông Nam, quân ta đã làm thất bại các mưu toan vượt hào hoặc leo thành của địch. Nhưng ở mặt Tây Bắc, trước sự công kích tập trung của địch, với những thất bại đáng kể, quân ta không ngăn chặn được địch vượt hào và leo thành đã dùng hàng loạt thang cao, địch ồ ạt leo lên mặt thành, chiếm được một mảng thành. Thế lợi chiến thuật này của chúng hoàn toàn chưa phải đã quyết định đối với việc giữ thành. Tiếc thay, nó tác động khá mạnh đến tinh thần chiến đấu của tướng sĩ toàn thành. Lẻ tẻ có những tốp nhỏ quân Hồ đã mở trộm các cửa thành ở mặt Tây để chạy trốn. Trong những ngày tiếp sau, địch công kích mạnh mẽ hơn. Trước tình hình đó, Nguyên Trừng ra lệnh rút bỏ thành Đa Bang. Từ ba phía quân Minh ồ ạt leo lên thành và đánh chiếm thành. Sau khi rút khỏi Đa Bang, Hồ Nguyên Trừng đã ra lệnh cho các cụm quân Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than cũng bỏ thành rút về phía sau. Hội quân trong vùng từ cửa sông Luộc qua Mỹ Lộc (Nam Định) đến cửa Muộn Hải (nay thuộc Xuân Thủy - Hải Hậu, cửa sông Hồng) với ý định lập phòng tuyến mới để chặn cuộc tiến quân của Trương Phụ. Vốn thận trọng, Trương Phụ không cho quân thực hành truy kích, mà trước hết, chiếm đóng tuyến sông Hồng. Theo tuyến đê, các cụm quân Minh đã chiếm đóng Bạch Hạc, Đông Đô, Bình Than. Mộc Thạnh được lệnh tiến xuống cửa sông Luộc để “đối lũy”, quan sát đối phương. Trận cửa sông Luộc: Việc quân Minh tạm dừng tiến công để hoàn thành việc chiếm đóng những vị trí chiến lược xung yếu là một cơ hội có lợi cho quân ta. Hồ Nguyên Trừng đã lựa chọn cụm quân Mộc Thạnh làm mục tiêu cho cuộc tiến công đầu tiên của quân ta. Đây là cuộc tiến công do lục quân và thủy quân cùng phối hợp tiến hành. Một bộ phận quan trọng bộ binh tập hợp từ các cụm quân rút về phía Nam sông Luộc đến sông Ninh Giang cùng 300 thuyền chiến lớn được sử dụng cho cuộc tiến công. Tiếc thay, sự chuẩn bị khá rầm rộ đó đã giúp cho Mộc Thạnh đoán được ý định của Nguyên Trừng và những chỗ yếu của cuộc tiến công của quân ta. Trong khi đó các tướng lĩnh nhà Hồ lại không nắm được những chuẩn bị của đối phương nhằm đánh bại cuộc tiến công của mình.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Đầu tháng 3, cuộc tiến công bắt đầu. Hai cánh lục quân và thủy quân ta tiến dọc theo hai bờ sông đã lọt vào một thế trận mà Mộc Thạnh đã khéo léo dàn sẵn và được ngụy trang khá chu đáo. Chờ cho phần lớn hai cánh quân ta lọt vào thế trận, quân Minh chuyển sang công kích. Bị đánh bất ngờ cả hai cánh quân lục - thủy nhanh chóng rơi vào tình trạng rối loạn, không còn khả năng chống trả có hiệu quả. Quân ta chịu những tổn thất nặng. Trong tình thế đó, Nguyên Trừng không còn cách nào khác là cho bộ phận còn lại rút lui về Muộn Hải. Quân Minh tiến đến phía Bắc sông Ninh Giang thì dừng lại. Trận Hàm Tử: Sau thất bại của trận tiến công đầu tiên, Nguyên Trừng ra lệnh cho tập đoàn chủ yếu của quân ta, lúc đó đóng trong khu vực từ sông Ninh Giang đến cửa Muộn Hải khoảng mười vạn người, “hết sức đắp đồn lũy, để tính kế cầm cự lâu dài”, vì cho rằng đại quân Trương Phụ sẽ tiếp tục tiến công. Nhưng Trương Phụ vẫn còn bận rộn vào việc củng cố những thắng lợi chiến lược đã giành được và chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tiến công chiến lược từ tuyến sông Hồng đến tuyến sông Mã. Trong thế chờ đợi đó, biết rõ nguyện vọng của Nguyên Trừng muốn chuyển sang tiến công để có được một chiến thắng. Y ra lệnh cho Mộc Thạnh lui quân đến cửa Hàm Tử, chờ đối phương tiến quân mà tiêu diệt. Vào giữa tháng 3, cụm quân đi đầu của địch bắt đầu rời khỏi bờ bắc sông Ninh Giang và rút lên phía Bắc. Quân ta bám sát quân địch cho đến trước cửa sông Luộc thì dừng lại. Thấy Mộc Thạnh tiếp tục lui quân, Nguyên Trừng một lần nữa cho rằng đã có cơ hội thực hiện ý muốn tiến công của mình, nên quyết định đánh thẳng vào cụm quân địch ở Hàm Tử, cách Đông Đô không xa. Bảy vạn quân tinh nhuệ cùng một số lượng thuyền chiến quan trọng tham gia vào cuộc tiến công quy mô khá lớn này. Một lần nữa sự chuẩn bị chiến đấu của quân ta được tiến hành một cách rầm rộ, lộ liễu. Để làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân Minh, Nguyên Trừng dùng biện pháp phao tin, khuếch đại số lượng tập đoàn tiến công của mình lên gấp hai, ba lần. Sự chuẩn bị diễn ra như vậy, một lần nữa, đã có thể thấy trước kết cục không tránh khỏi của cuộc tiến công. Cuối tháng 3, từ vùng cửa sông Luộc, tập đoàn tiến công bắt đầu cơ động đến Hàm Tử. Một lần nữa, quân ta đã lọt vào thế trận mai phục của địch, và bị địch đánh bất ngờ. Cuộc rút lui khỏi Hàm Tử biến thành một cuộc rút chạy hỗn loạn, một cuộc tan vỡ lớn. Từ Muộn Hải, bộ phận còn lại của quân đội triều Hồ rút về Thanh Hóa. Trận Lỗi Giang: Trong vòng 4 tháng chiến tranh, quân đội triều Hồ đã không giữ được khu vực phòng ngự biên giới, đã để mất tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu sông Hồng, đã mất những tập đoàn quan trọng nhất trong hội chiến phòng ngự Đa Bang và các trận chiến đấu cửa sông Luộc và Hàm Tử. Tương quan thế và lực đã chuyển biến một cách căn bản, rất có lợi cho quân Minh và rất bất lợi cho quân Hồ. Rút về Thanh Hóa để tổ chức phòng ngự trên tuyến sông Mã trong những điều kiện trên, triều Hồ chỉ còn trong tay những lực lượng quân sự yếu kém, một quân thành tuy lớn (Tây Đô) nhưng cô lập. Trương Phụ quyết định giành lấy thời gian, mở tiếp cuộc tiến công chiến lược, quyết định chĩa thẳng vào thành Tây Đô. Giữa tháng 4, vượt qua dãy núi Tam Điệp trên nhiều hướng, đại quân Minh nhanh chóng tiến đến bờ Bắc sông Mã, bắt đầu cuộc vây kích thành Tây Đô. Cuối tháng đó, những trận chiến đấu phòng ngự của quân Hồ dọc theo sông Lỗi Giang tại Tây Đô đã kết thúc bằng sự tan vỡ của những đội quân thường trực cuối cùng. Đầu tháng 6, trên đường truy kích đến Hà Tĩnh, đánh tan những đội quân địa phương yếu kém, quân Minh đã bắt được Hồ Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng và toàn bộ triều đình của họ tại Kỳ La. Ngay trong tháng 4, khi hành động quân sự vừa kết thúc trên sông Lỗi Giang, vua Minh đã ra chiếu tuyên bố thủ tiêu “vĩnh viễn” nền độc lập của Đại Việt, biến nước ta thành một quận của Trung Quốc, “giáo hóa” dân ta theo “phong hóa Trung Hoa”. Triều đình Minh không lường nổi trước rằng, nếu như cuộc chiến tranh giữa họ với triều đình và quân đội nhà Hồ đã kết thúc bằng thắng lợi của họ, thì họ đã đứng trước một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến tranh thực sự của nhân dân Đại Việt, một cuộc chiến tranh mà kết cục sẽ là sự quét sạch quân xâm lược và bộ máy thống trị của nhà nước Minh ra khỏi Đại Việt, giành lại độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [SIZE=4][COLOR=#a0522d][FONT=Verdana][B]Bài học về nghệ thuật quân sự.[/B] Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh do nhà Hồ lãnh dạo có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, sâu xa và trực tiếp. Trong những nhân tố chủ quan và trực tiếp quyết định thất bại của quân đội nhà Hồ có nhân tố hết sức quan trọng về nghệ thuật quân sự. Chỉ sau hơn một thế kỷ, nghệ thuật quân sự ưu việt của Đại Việt, với chiến thắng vẻ vang của nhà Trần chống Nguyên - Mông mạnh nhất trong thời đại đó, hầu như mai một, không còn có một biểu hiện nhỏ nào được vận dụng trong cuộc chiến tranh này. Những quan điểm “phải nới sức dân, làm kế rễ sâu, gốc vững”, “quốc gia tính lực, bỉ tự, tự cầm”, và “dĩ đoản chế trường” của Trận Hưng Đạo hầu như không còn dấu vết trong chiến lược quân sự của nhà Hồ. Nghệ thuật lập thế trận hiểm buộc địch phân tán, đưa địch vào thế buổi chiều, không lợi dụng được thế ban mai, khoét sâu sở đoản của một đội quân xâm lược từ xa tới, đánh vào hậu cần tiếp tế, chặn trước đánh sau, đưa địch vào hiểm địa, đánh những trận bất ngờ với tư tưởng tiến công kiên quyết của Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng hầu như không còn trong nghệ thuật quân sự của cuộc chiến tranh chống xâm lược này. Truyền thống toàn dân đánh giặc không còn bóng dáng, mà được thay thế bằng một đội quân đánh giặc cô độc dựa vào thành quách với phương tiện vũ khí mạnh so với đương thời. Những ưu thế về số lượng, về lực lượng và phương tiện, tính chất chính nghĩa cùng với sự chuẩn bị từ trước, những kho tàng lương thực, khí giới, thành quách kiên cố đều không giúp ích gì cho quân đội triều đình Hồ. Đúng như Nguyên Trừng đã nghĩ “Chỉ sợ lòng dân không theo”. Mục đích chiến lược mà Quý Ly, Hán Thương, Nguyên Trừng xác định là đánh mòn mỏi quân xâm lược, đã thiếu hẳn tính chất kiên quyết của một cuộc chiến tranh tự vệ, chính nghĩa. Mục đích đó không phù hợp với những khả năng của nhà nước Đại Việt và tiềm lực của nhà nước Đại Minh, không phù hợp với tương quan lực lượng đã hình thành khi chiến tranh bắt đầu. Để đạt tới mục đích đó, triều đình Hồ đã xác định chiến lược là phòng ngự đơn thuần, một đường lối có ảnh hưởng quyết định đến tính chất của đấu tranh vũ trang trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trên từng hướng tiến công của đối phương, trên từng điểm tiến công của chúng. Việc lựa chọn phòng ngự chiến lược làm hình thức cơ bản của đấu tranh vũ trang đã biểu hiện ở việc thực hiện nhiệm vụ tiêu hao địch, cố thủ các quân thành bằng gần toàn bộ lục quân và thủy quân, từ khu vực biên giới đến các khu vực trung tâm của đất nước trong cuộc chiến tranh kéo dài là biểu hiện nổi bật của ý định, phòng ngự thụ động, tiêu cực. Phòng ngự bị động, chờ địch đến đánh thì đỡ, địch đánh ở đâu thì ở đó chịu đỡ đòn, mất đất thì lùi về phá sau, cũng là phương thức hành động của toàn bộ các cụm quân các tập đoàn tác chiến chiến lược của quân đội và hạm đội triều đình. Phương thức hành động này làm cho các cụm quân, các tập đoàn tác chiến của ta luôn luôn rơi vào một tình thế hiểm nghèo. Trong điều kiện về tương quan lực lượng tổng quát, nếu như quân đội triều Hồ có ưu thế số lượng so với quân xâm lược, thì trên mỗi địa điểm và ở từng thời điểm, quân Hồ luôn luôn rơi vào thế lực yếu hơn nhiều so với quân Minh đối diện. Thật vậy, ở bất cứ nơi nào, từ thời kỳ đầu cũng như các thời kỳ tiếp sau, trước từng quân thành như Pha Lũy, Kê Lăng, Phú Lệnh, cả Đa Bang nữa, bao giờ quân Minh cũng tập hợp đủ lực lượng và phương thức hành động đó của quân Hồ là một điều kiện khách quan giúp cho quân Minh lần lượt hủy diệt hết quân thành này đến quân thành khác, hết cụm quân, tập đoàn này đến cụm quân, tập đoàn khác của ta. Cũng cần nêu lên rằng từ thế kỷ XIV trở về trước các nhà chiến lược Đại Việt đã từng lựa chọn phòng ngự chiến lược là hình thức và phương thức quan trọng của hành động quân sự. Nhưng đó là phòng ngự tích cực, kể cả trong phòng ngự bị bắt buộc hay phòng ngự có ý định trước, phòng ngự kết hợp với tiến công, phòng ngự có phản công và chuyển sang tiến công cho đến khi hoàn toàn đánh bại quân xâm lược. Đó là phòng ngự tạo những điều kiện có lợi để chuyển sang đánh những đòn tiêu diệt lớn đối với quân địch như Lý Thường Kiệt đã phòng ngự trên tuyến sông Như Nguyệt. Hệ thống các quân thành tự nó không phải là vô dụng. Trong điều kiện kỹ thuật của thế kỷ XV, để công phá một quân thành kiên cố (như các quân thành nhà Hồ) phải mất vài ba tháng, thậm chí hàng năm, với những tổn thất đáng kể. Cố nhiên, với điều kiện quân thủ thành có chiến thuật chiến đấu tốt và tinh thần chiến đấu cao. Một mạng lưới quân thành chỉ có tác dụng chiến lược khi giữa những quân thành đó có những cụm và tập đoàn cơ động mạnh tiến công cả tập đoàn địch, vây kích để phối hợp với lực lượng giữ thành. Nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức những cụm cơ động như vậy. Chỉ sau khi tuyến phòng ngự chiến lược chủ yếu bị chọc thủng và bị tan vỡ, Hồ Nguyên Trừng mới chuyển sang hình thái tác chiến cơ động phương thức hành động có tính chất tiến công, làm cho chiến lược mang một tính tích cực nào đó. Những trận phản kích cửa sông Luộc và Hàm Tử nói lên điều đó. Song cuộc phản kích do những đội quân vừa bị đánh thua từ nhiều quân thành vội vã tập hợp lại, chưa quen tiến hành những cuộc cơ động tiến công, công tác chuẩn bị không giữ được bí mật nên đã bị thất bại hết sức nặng nề. Tính thụ động, tiêu cực cửa phòng ngự chiến lược cũng có biểu hiện nổi bật trong việc quân đội nhà Hồ hoàn toàn không tổ chức và tiến hành bất cứ hoạt động nào để đánh chặn, tiêu hao địch trong quá trình chúng vận động tiếp cận từ quân thành này đến quân thành khác, từ khu vực biên giới đến tuyến chủ yếu của phòng ngự, cũng như trong quá trình chúng thực hiện bố trí bao vây công kích các quân thành. Chiến thuật giữ thành, nổi rõ trong những trận chiến đấu và hội chiến nối tiếp nhau, cũng mang một tính chất thụ động tương tự. Trước khi địch tiến hành công kích, toàn cụm quân giữ thành đều tự trói mình trong thế chờ đợi tiêu cực. Khi địch công kích, trong lúc các đội súng “thần cơ”, các đội máy phóng đá hoạt động thì bộ binh ngồi không; khi địch bắc thang vượt hào và leo lên mặt thành, thì một bộ phận bộ binh hoạt động, còn đại bộ phận bộ binh và các binh chủng khác không có hoạt động gì. Đó là những trận chiến đấu và hội chiến không có xuất kích, không có phản kích, chẳng những “không ra đánh”, mà cũng không thực hiện được “cố thủ nơi hiểm trở”. Trận xuất kích duy nhất của tượng binh trước thành Đa Bang do tượng binh đơn độc tiến hành không có sự hỗ trợ của bộ binh và các binh chủng khác, nên bị thất bại. Sự thiển cận và tính mạo hiểm của họ đã thể hiện trong việc tiến hành chiến tranh theo ý đồ “cầm cự lâu dài” mà không có lực lượng dự bị chiến lược, không có lực lượng cơ động chiến lược. Trong quá trình chiến tranh, khả năng lập ra và sử dụng những cụm dự bị cơ động như vậy không phải không có. Hai cụm quân Bình Than và Bạch Hạc đã trở thành vô dụng gìn giữ mãi những thành mà quân địch không đánh, thậm chí không kìm chế, vẫn “án binh bất động” trong khi cả hai lộ quân Trương Phụ và Mộc Thạnh phơi bày cạnh sườn, không có gì bảo đảm an toàn khi chúng vận động qua trước mặt hai cụm quân trên để đến bờ bắc sông Hồng đối diện với Đa Bang. Hai cụm quân đó cũng còn “án binh bất động” khi địch vây kích quân thành Đa Bang, để rồi cuối cùng rút lui về phía sau. Và nói chung, trong từng thời kỳ, từng trận chiến đấu và hội chiến, cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh, họ đã không hề giải quyết được một trong những vấn đề phức tạp của chỉ huy quân đội là vấn đề tổ chức sự phối hợp hành động giữa lục quân và thủy quân, giữa các tập đoàn và cụm quân. Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trong việc lãnh đạo đấu tranh vũ trang và chỉ huy quân đội. Nghệ thuật lãnh đạo chính trị - quân sự của họ trong toàn bộ cuộc chiến tranh cũng như trong từng thời kỳ đều dừng lại ở một trình độ thấp, trước nhất thể hiện nổi bật ở sự bất lực của họ trong việc sử dụng ưu thế vốn có của tính chất chính nghĩa của một cuộc chiến tranh tự vệ, ưu thế đã được tạo ra về số lượng của quân đội, cả về chất lượng của một số binh khí kỹ thuật, thể hiện cả ở việc họ để mất quyền chủ động chiến lược vào tay quân xâm lược và không hề có quyết tâm giành lại quyền chủ động đó. Nghệ thuật quân sự của quân đội Đại Việt thời nhà Hồ đều mang những hình thức và phương thức hành động cứng đờ máy móc, nghèo nàn. Đó là những hình thức và phương thức không phù hợp với tình hình. Những quyết định chiến lược chiến thuật của họ không gây được một bất ngờ đáng kể nào cho địch, không gây được khó khăn nào cho địch, không buộc Trương Phụ, Mộc Thạnh phải thay đổi ý định của chúng. Trình độ nghệ thuật quân sự thấp đặc biệt thể hiện trong việc phân tán lực lượng và phương tiện của mình, trong việc sử dụng lãng phí những lực lượng và phương tiện đó, trong việc họ không biết cách phân tán lực lượng của địch, để cho Trương Phụ và Mộc Thạnh tự do tập trung lực lượng và phương tiện của chúng trên hướng chủ yếu, trên từng địa điểm và thời điểm, nhất là trên điểm then chốt như Đa Bang.[/FONT][/COLOR][/SIZE] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]II - CUỘC KHÁNG CHIẾN THỜI HẬU TRẦN (1407 - 1414).[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ đã đưa lịch sử dân tộc ta đến trước một thảm họa. Âm mưu của nhà Minh là không những chiếm nước ta làm thuộc quốc, mà còn muốn thực hiện dã tâm đồng hóa, vĩnh viễn xóa bỏ nước ta và sát nhập hẳn vào lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng chúng đã vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của nhân dân Đại Việt, những cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra. Mùa thu năm 1407, ngay sau khi đánh bại nhà Hồ, nền đô hộ của nhà Minh vừa được thiết lập thì nhân dân các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã nổi lên đốt phá nhà ngục, giết chết bọn quan huyện của địch. Nhân dân thiểu số vùng Châu Quảng Nguyên, Thất Nguyên (Cao Bằng) cũng nổi dậy chống quân Minh. Tổ chức nghĩa quân dựa vào địa thế hiểm trở vùng rừng núi chống cự với giặc, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ngay ở các vùng như Tây Đô (Thanh Hóa), Từ Liêm (Hà Nội), Thạch Thất (Hà Tây), Đông Triều (Quảng Ninh), v.v... cũng có những nhóm nghĩa quân hoạt động. Đến mức nhà Minh coi những nơi đó là những “ổ quân ác nghịch” như lời Hiếu Thanh nội quan của nhà Minh tâu về triều rằng: “Tại các phủ Tân An (Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh), Kiến Bình (Hà - Nam - Ninh), Lạng Giang (Bắc Giang), các châu Đông Hồ (Đông Triều, Quảng Ninh), Thái Nguyên và vùng sông Sinh Quyết (sông Đáy) dân Nam không phục, họp nhau làm loạn”. Trong số những cuộc khởi nghĩa này có các cuộc khởi nghĩa tương đối lớn như: - Cuộc khởi nghĩa của Phạm Chấn, một thổ hào ở Đông Triều nổi dậy ở Bình Than vào cuối năm 1407. Phạm Chấn lập Trần Nguyệt Hồ làm vua và nghĩa quân tự xưng là quân Trung nghĩa. Nhưng nghĩa quân vừa mới nhóm lên đã bị quân Minh kéo đến đánh bại. Trần Nguyệt Hồ bị bắt, còn Phạm Chấn trốn thoát và về sau vẫn tiếp tục đấu tranh chống quân Minh. - Cuộc khởi nghĩa của Phạm Tất Đại ở Lục Nam (huyện Lục Ngạn, Bắc Giang), nổi dậy chiếm cứ các hang động miền lục Nam (vào cuối năm 1407). - Cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyên Thôi ở huyện Nguyên Lang (Vĩnh Phú) và Trần Nguyên Kháng, Nguyễn Đa Bí ở châu Thái Nguyên, nổ ra vào đầu năm 1408. Những cuộc khởi nghĩa trên đây nổ ra trong từng địa phương nhỏ hẹp, lại không liên kết được với nhau, nên lực lượng phân tán và dễ bị quân địch đàn áp, lần lượt bị thất bại. Nhưng đó cũng là những cuộc đấu tranh đầu tiên sau khi cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, mở màn cho cả một phong trào kháng Minh rộng rãi về sau này. Tiêu biểu cho các cuộc khởi nghĩa trong thời kỳ này, thể hiện tinh thần dân tộc quyết không chịu khuất phục ách nô lệ của nhà Minh là cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng. Trần Ngỗi là con thứ của vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), đời Trần đã được phong làm Giản Định vương. Sau khi chiếm được nước ta, nhà Minh ra lệnh tìm bắt con cháu và quan lại nhà Trần đem giải về nước. Trần Ngỗi phải lẩn tránh vào bến Yên Mô (Ninh Bình). Có một người yêu nước ở Thiên Trường (Hà - Nam - Ninh) là Trần Triệu Cơ lúc bấy giờ đang chuẩn bị khởi nghĩa liền đem quân đón Trần Ngỗi lên lập thành minh chủ. Ngày 1 tháng 11 năm 1407, Trần Ngỗi tự xưng làm Giản Định hoàng đế, đặt niên hiệu là Hưng Khánh, lập hành cung ở Yên Mô phát động cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh nhằm khôi phục lại cơ nghiệp nhà Trần. Tham gia khởi nghĩa có Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai thủ lĩnh chủ chốt của nghĩa quân. Sau khi cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ thất bại, Phạm Chấn cũng theo Trần Ngỗi. Một số thủ lĩnh khác ở miền Bắc như Trần Nguyên Tôn, Trần Lương Đình, Trần Nghiên Chiêu cũng dần dần tập hợp lực lượng xung quanh Trần Ngỗi. Khi nghĩa quân của Trần Ngỗi vừa mới tập hợp lại ở Yên Mô, bị quân Minh đến đánh. Trần Ngỗi phải rút lui vào Nghệ An. Đến cuối năm 1407, Trần Ngỗi đã tập hợp được một lực lượng khá lớn ở Nghệ An. Đầu năm 1408, nghĩa quân đánh bại và giết chết bọn quí tộc đầu hàng, chiếm giữ miền Nghệ An, Diễn Châu. Ngay sau đó Trương Phụ điều quân vào đàn áp. Trước sức tiến công mạnh của địch, nghĩa quân phải rút vào Hóa Châu. Trương Phụ củng cố ngụy quyền xong, liền rút quân về Đông Quan. Coi như cuộc xâm lược nước ta đã hoàn thành, nhà Minh ra lệnh cho Trương Phụ rút quân viễn chinh về nước, giao việc cai trị cho chính quyền đô hộ vừa được thành lập. Tháng 4 năm 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước. Lợi dụng thời cơ đó, nghĩa quân Trần Ngỗi tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tiến đánh từ Hoa Châu chiếm lại Nghệ An, tiến vào Tân Bình chiếm Quảng Bình. Sau đó nghĩa quân tiến ra chiếm lấy cả Diễn Châu, Thanh Hóa, giải phóng một vùng rộng lớn. Đó là một thắng lợi to lớn của nghĩa quân, đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Ở miền Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi cũng lên cao, làm cho quân Minh phải đối phó nhiều mặt. Nhân đó, tháng 11 Trần Ngỗi mở cuộc tiến công lớn ra Bắc. Nghĩa quân đã tiến qua các miền Trường Yên (Ninh Bình), Phúc Thành (Hồng Lạc), rồi tiến đánh các căn cứ quân Minh. Nghĩa quân đã mở nhiều cuộc tiến công vào các căn cứ quan trọng của địch như đồn Bình Than, cửa Hàm Tử, chặn đường qua lại ở Tam Giang (Phú Thọ, Tuyên Quang) và đánh phá ngoại vi thành Đông Quan. Thanh thế của nghĩa quân vang dậy khắp nơi. Trước sự hoạt động mạnh mẽ của nghĩa quân, như lời tâu của bọn quan lại đô hộ nhà Minh về triều rằng: “Thế lực của giặc ngày một mạnh, quan quân nhiều lần không đánh nổi...”1, vua Minh phải phái Mộc Thạnh, điều động 4 vạn quân ở Vân Nam, Quế Châu, Thành Đô, Tứ Xuyên theo đường Vân Nam tiến sang nước ta tiếp viện cho bọn quan đô hộ Lư Nghi và ra lệnh cho bọn này chuẩn bị sẵn sàng 2 vạn thủy quân cùng với thuyền bè khí giới để phối hợp với viện binh. Cuối năm 1408, 10 vạn viện binh của Mộc Thạnh tiến vào thành Đông Quan hợp lực với quân của Lư Nghi chuẩn bị tiến đánh nghĩa quân. Quân địch tập trung ở bến Bô Cô (Ý Yên, Hà Nam Ninh). Nghĩa quân đóng cọc ở lòng sông và đắp lũy ở hai bên bờ để phòng ngự. Sau khi đánh bại cuộc tiến công của địch, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Đặng Tất đã tiến công Bô Cô và đánh giặc giỏi, phá tan đại quân của giặc, 10 vạn quân giặc bị giết, Mộc Thạnh cùng với tàn quân giặc chạy thoát vào thành Cổ Động ở gần đó. Chiến thắng Bô Cô là một chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Trần Ngỗi. Sau chiến thắng Bô Cô, Trần Ngỗi chủ trương: “Bây giờ nhân thế chẻ tre, đánh quét một trận ruỗi dài, khiến cho chúng không kịp bịt tai khi bị sét đánh, rồi tiến công thành Đông Quan thì tất phá được”2. Nhưng tướng Đặng Tất lại cho rằng: “Hãy bắt hết bọn giặc còn sống sót để trừ mối lo về sau”3. Giữa lúc vua tôi đang bàn cãi chưa ngã ngũ thì viện binh của địch đã kịp đến đón Mộc Thạnh từ thành Cổ Động về thành Đông Quan cố thủ. Thời cơ truy kích tiêu diệt hiếm có đã bị bỏ lỡ, nên mặc dù Đặng Tất có cố gắng chia quân bao vây các thành và truyền lệnh đi các lộ để hội binh chuẩn bị tiến công thành Đông Quan, nhưng không thành. Từ đó trong nội bộ nghĩa quân lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Vì địa vị và quyền lợi ích kỷ của mình, Trần Ngỗi đã nghe lời dèm pha, lừa giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai tướng trụ cột của phong trào. Cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi đang trên đà phát triển thắng lợi, từ đó bị hao mòn và suy yếu nhanh chóng. Nguyên nhân thất bại chính là vì những người cầm đầu thiếu sự đồng tâm nhất trí với nhau và thiếu khả năng huy động tập hợp lực lượng kháng chiến của toàn dân. Tháng 4 năm 1408, tức một tháng sau khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân bị giết, con của các ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã đem một bộ phận nghĩa quân ở Thuận Hóa đón Trần Quý Kháng, cháu nội của Trần Nghệ Tông lập làm vua, xưng là Trung Quang Đế. Đây là cuộc khởi nghĩa lớn mạnh hơn cả và tồn tại trong thời gian hơn 6 năm. Trần Quý Kháng đã hợp nhất được với lực lượng nghĩa quân Trần Ngỗi, khi làm chủ được khu vực từ Thanh Hóa trở vào, lại tiếp tục tiến ra Bắc hoạt động. Trần Ngỗi tiến đánh miền Hạ Hồng (Hải Hưng). Trần Quý Kháng đóng ở Bình Than. Nhân dân và hào kiệt các nơi nổi dậy hưởng ứng phong trào lại được hồi phục nhanh chóng. Quân Minh phải đóng chặt cửa thành để cố thủ chờ viện binh. Thanh thế của nghĩa quân khá mạnh, lại liên kết được với các nước láng giềng phía Tây và được những nước này giúp đỡ về lương thực. Khi nhận được tin Mộc Thạnh bị bại trận, nhà Minh gấp rút điều thêm quân tiếp viện và cử Trương Phụ làm tổng binh, Vương Hữu làm phó tổng binh đem 47.000 quân sang phối hợp với Mộc Thạnh đàn áp nghĩa quân. Trương Phụ là một viên tướng khét tiếng gian ác và rất am hiểu tình hình, địa thế nước ta. Tháng 6-1409 đạo quân của Trương Phụ từ Nam Ninh (Quảng Tây) qua cửa Pha Lũy hành quân theo con đường lưu vực sông Thương là con đường mà ba năm trước đã tiến đánh nhà Hồ. Trương Phụ đóng quân vào thành Đông Quan phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành trấn áp những hoạt động của nghĩa quân ở vùng ngoại vi và vùng Đông Bắc thành Đông Quan. Trước sực tiến công của quân Minh, nghĩa quân vẫn hoạt động mạnh ở lưu vực sông Nhị và sông Thái Bình. Những trận đánh lớn đã diễn ra. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Cảnh Dị, đã bao vây căn cứ Bình Than và giết chết Từ Chính, làm chủ vùng lưu vực sông Thái Bình. Trương Phụ đã huy động một lực lượng khá lớn mở cuộc tiến công vào cửa Hàm Tử nhằm chiếm lại vùng đồng bằng. Nghĩa quân lập doanh trại trên bờ sông, bố trí hơn 600 chiến thuyền ở giữa lòng sông và đóng cọc ở bờ Nam để chống cự. Quân Minh do Trương Phụ chỉ huy theo sông Nhị đánh vào căn cứ của nghĩa quân. Theo chính sử của nhà Minh thì trận đánh ở cửa Hàm Tử rất quyết liệt. Lực lượng nghĩa quân ở đây có khoảng 2 vạn. Bấy giờ vào khoảng hạ tuần tháng 8 âm lịch, gió tây bắc thổi mạnh, rất lợi cho cuộc tiến công của địch. Nghĩa quân chiến đấu rất dũng cảm, nhưng thế yếu, nên thất bại, phải rút lui. _____________________________________ 1 - 3. Hoàng Minh thực lực. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Sau đó Trương Phụ tiến quân sang vùng lưu vực sông Thái Bình. Trước thế mạnh của quân địch. Trần Quý Kháng và Nguyễn Cảnh Dị liệu sức không chống cự nổi, phải rút lui vào miền Nghệ An. Sau khi căn bản đã đàn áp xong phong trào phản kháng ở miền Bắc, Trương Phụ tiến quân vào Thanh Hóa nhằm đánh vào căn cứ của Trần Quý Kháng. Trương Phụ sai đô đốc Chu Vinh, Thái Phúc thống lãnh bộ binh và kỵ binh tiến trước, còn tự mình chỉ huy thủy binh tiến sau theo sông Nhị vào cửa biển Thần Phù rồi vào Thanh Hóa. Trên những đoạn sông và cửa sông này, nghĩa quân đã đóng cọc, lấp đá để ngăn cản bước tiến của quân địch, Trương Phụ vừa hành quân, vừa phải phá những vật chướng ngại, hơn mười ngày sau mới đến Thanh Hóa rồi cánh quân thủy, bộ của Trương Phụ vừa hội binh ở Thanh Hóa rồi bắt đầu càn quét vùng này. Trần Ngỗi từ Diễn Châu tiến ra Cự Lạc, định theo đường núi tiến ra trấn Thiên Quan (Nho Quan - Ninh Bình) để tập hợp thêm lực lượng kháng chiến ở vùng này. Trương Phụ biết tin chia làm ba đạo quân đuổi theo. Trần Ngỗi chạy đến cách Cát Lợi (huyện Chương Mỹ, Hà Tây) thì bị quân Minh đuổi kịp, phải trốn vào núi và bị bắt ở đó. Từ đó quân địch được tăng viện, nghĩa quân bị thất bại nhiều trận, phải rút lui, nhưng cho đến cuối năm 1409, vẫn làm chủ được khu vực từ Diễn Châu trở vào. Cuối năm 1409, Trương Phụ được triệu hồi về nước để tham gia cuộc Bắc chinh. Mộc Thạnh lên làm tổng binh, tiếp tục đàn áp phong trào giải phóng của nhân dân ta. Lực lượng quân địch còn lại ở nước ta bị giảm sút, đó là thời cơ thuận lợi cho nghĩa binh Trần Quý Kháng mở rộng hoạt động và nhân dân ở khắp nơi vùng dậy đấu tranh. Trong năm 1410, phong trào đấu tranh của nhân dân đã sôi sục khắp nơi và gây cho quân Minh nhiều tổn thất. Nhưng phong trào có một nhược điểm lớn là thiếu sự tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Những cuộc khởi nghĩa lúc bấy giờ thường chỉ giới hạn trong từng địa phương nhỏ hẹp, dễ bị cô lập và bị đàn áp. Cuộc khởi nghĩa Trần Quý Kháng tỏ ra không có đủ khả năng liên kết được toàn bộ phong trào thành một lực lượng thống nhất. Giữa năm 1411, sau khi kết thúc thắng lợi cuộc Bắc chinh, nhà Minh lại phái Trương Phụ làm tổng binh phối hợp với Mộc Thạnh tiến hành đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Cùng với việc đem thêm 24.000 quân sang tăng viện, nhà Minh còn tăng cường những thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ. Trương Phụ hành quân theo đường Lạng Sơn đến Đông Quan. Sau khi hội quân với Mộc Thạnh, Trương Phụ quyết định tập trung lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào căn cứ của Trần Quý Kháng ở Thanh Hóa. Được tin viện binh của địch đã sang, nghĩa quân Trần Quý Kháng chuẩn bị sẵn sàng chống cự. Nghĩa quân đã xây dựng một phòng tuyến ở sông Nguyệt Thương (hạ lưu sông Mã) bằng cách cắm cọc giữa lòng sông dài hơn 40 trượng, dựng hàng rào hai bên bờ sông dài hơn 2, 3 dặm. Trên 300 chiến thuyền của nghĩa quân chờ sẵn trên sông, cùng với một bộ phận bộ binh mai phục trong núi. Vào khoảng cuối tháng 8, quân thủy, quân bộ của địch hội quân ở sông Nguyệt Thương và bắt đầu mở cuộc tiến công. Nghĩa quân, dưới sự chỉ huy của các tướng Nguyễn Quý, Hồ Cú, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, đã chiến đấu rất anh dũng. Trương Phụ một mặt sai đô đốc Chu Quảng đem chiến thuyền theo dòng sông vừa nhổ cọc vừa tiến, mặt khác, đích thân chỉ huy bộ binh vòng phía sau bất ngờ phá phục binh ở bên núi rồi tiến ra bờ sông phá rào gỗ, phối hợp với thủy binh cùng tiến công. Bị quân địch từ hai mặt thủy bộ đánh dồn lại, phòng tuyến của nghĩa quân bị tan vỡ. Trương Phụ thừa thắng tiến quân vào đến Diễn Châu, (Nghệ An). Trần Quý Kháng phải tạm thời rút lui vào miền Thuận Hóa. Trong lúc đó nghĩa quân ở miền Bắc lại nổi lên rất mạnh, nên cuối năm 1411, Trương Phụ phải tạm ngừng cuộc truy kích Trần Quý Kháng, rút quân về Đông Quan đàn áp những cuộc khởi nghĩa của Lê Nhị, Phạm Kháng. Nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân lan rộng khắp nơi mà lực lượng của địch thì có hạn, không thể rải ra mọi nơi được. Nghĩa binh của Trần Quý Kháng ở vùng Thuận Hóa lại lợi dụng thời cơ, mở rộng hoạt động. Phong trào đấu tranh của nhân dân từ giữa năm 1410 thực sự đã lan rộng khắp nước, nhưng vì thiếu tổ chức và lãnh đạo, nên lực lượng bị phân tán. Do đó trước sự đàn áp khốc liệt của địch, các cuộc khởi nghĩa lần lượt bị thất bại và đến giữa năm 1412 thì phong trào nói chung đã có dấu hiệu đi xuống. Sau khi tương đối ổn định được tình hình ở Đông Quan, Trương Phụ lại chuẩn bị lực lượng mở cuộc tiến công lớn vào vùng Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa nhằm tiêu diệt khởi nghĩa Trần Quý Kháng là cuộc khởi nghĩa lớn nhất lúc bấy giờ và từ lâu vẫn làm chủ vùng này. Tháng 10 năm 1412, Trương Phụ dùng chiến thuyền tiến quân vào cửa biển Hà Hòa (Kỳ Anh - Hà Tĩnh). Nhưng vừa lúc ấy có gió bão to, Trương Phụ phải lui quân về Diễn Châu. Tháng 11 Trương Phụ tiếp tục tiến quân vào đến miền lưu vực Ác Giang (sông Ngàn Sâu - Hà Tĩnh). Trước sức mạnh của địch, nhiều phần tử hèn nhát đã đầu hàng. Đến cuối năm 1412, Trương Phụ đã chiếm được vùng Thanh Hóa, Diễn Châu, Nghệ An. Trần Quý Kháng phải lui vào giữ miền Tân Bình, Thuận Hóa.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Phong đào đấu tranh ở miền Bắc lúc bấy giờ nói chung có phần lắng xuống, nhưng một số cuộc khởi nghĩa vẫn tiếp diễn và bùng nổ ở nhiều nơi như ở châu Quảng Oai (Hà Tây), phủ Thái Nguyên (Bắc Thái), phủ Lạng Sơn, huyện Lục Nam(Hà Bắc),v.v... buộc Trương Phụ một lần nữa phải tạm ngừng cuộc tiến công, trở về Đông Quan lo ổn định tình hình mặt Bắc. Trần Quý Kháng tuy giữ được miền Tân Bình, Thuận Hóa, nhưng sau nhiều lần thất bại liên tiếp, lực lượng bị tiêu hao nhiều và lương thực gặp khó khăn. Khi Trương Phụ rút ra Bắc, nghĩa quân có chiếm lại được Nghệ An, nhưng lực lượng lúc bấy giờ cũng chỉ còn độ ba, bốn phần mười. Giữa năm 1413, sau khi đã ổn định xong tình hình mặt Bắc và chuẩn bị thêm về lương thực, Trương Phụ, Mộc Thạnh huy động quân thủy bộ, mở cuộc tiến công quy mô lớn vào căn cứ cuối cùng của Trần Quý Kháng. Trương Phụ chiếm lại Nghệ An, Trần Quý Kháng phải rút lui vào Hóa Châu, nhưng vẫn nuôi hy vọng cố thủ thương lượng, cầu phong để cứu vãn tinh thế. Trương Phụ đã bắt và giết sứ giả Nguyễn Biểu. Tháng 8-1413, Trương Phụ đem chiến thuyền từ cửa biển Kỳ La (Nghệ Tĩnh) vượt biển qua cửa biển Hà Hòa, đánh thẳng vào đồn lũy của nghĩa quân ở cửa Nhật Lệ. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân tan vỡ, phải đốt doanh trại rút vào sông Trà Kê (Thừa Thiên) để giữ Hóa Châu. Trương Phụ đuổi theo, chiếm được thành Hóa Châu. Trần Quý Kháng phải rút ra Bắc, định giữ miền Tân Bình. Trương Phụ và Mộc Thạnh hội quân ở Thuận Châu (Quảng Trị), rồi tiếp tục đuổi theo nghĩa quân. Nghĩa quân phải đem toàn bộ lực lượng giữ sông Ái Tử để quyết chiến với địch. Trận đánh trên sông Ái Tử diễn ra trong một tương quan lực lượng rất chênh lệch và bất lợi cho nghĩa quân, nhưng vẫn rất quyết liệt. Trong trận này Đặng Dung đã có lần, nhân ban đêm, đánh úp vào dinh Trương Phụ. Đặng Dung đã nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống, nhưng Trương Phụ kịp trốn xuống một chiếc thuyền thỏ, chạy thoát. Lực lượng nghĩa quân tuy ít hơn nhiều so với địch, nhưng chiến đấu rất anh dũng và gây cho địch nhiều tổn thất. Nhiều thuyền bè, khí giới địch bị đốt cháy và phá hủy, một nửa số quân địch bị tan rã. Cuối cùng, do lực lượng quá ít nghĩa quân phải rút lui ra Bắc. Từ sau trận sông Ái Tử, lực lượng nghĩa quân tan rã, không tập hợp lại được. Trần Quý Kháng và các tướng lĩnh nghĩa quân mỗi người chạy mỗi ngả và đến cuối năm 1413 sang đầu năm 1414, đều lần lượt bị sa vào tay giặc. Bài thơ nổi tiếng của Đặng Dung đã nói lên tâm sự uất hận của sĩ phu yêu nước thời hậu Trần. [B]Cảm hoài:[/B] Thế sự du du nại lão hà, Vô cùng thiên địa nhập hàm ca. Thời lai đồ điếu thành công dị, Vận khứ anh hùng ẩm hận đa. Trì chúa hữu hoài phù địa trục Tấy binh vô lộ vãn thiên hà Quốc thù vi báo đầu tiên bạch Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma. [B]Tạm địch:[/B] Việc đời dằng dặc khốn đã già, Trời đất mênh mông chỉ hát ca. Gặp thời đồ tể, câu cá thành công lạ, Lỡ vận, anh hùng nuốt hận đa. Muốn xây trục đất phò Minh chúa Giải binh không thể kéo ngân hà. Nợ nước chưa trả đầu sớm bạc Bao phen mài kiếm dưới trăng ngà. Ngọn lửa đấu tranh của nhân dân ta trong thời gian này tạm thời lắng xuống nhưng không hề bị dập tắt, và chỉ ba năm sau ở Lam Sơn đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, đi tới thắng lợi giải phóng đất nước sau 10 năm khởi nghĩa (1417 - 1427). Như vậy là từ khi quân Minh xâm lược và đặt nền đô hộ ở nước ta cho đến trước cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã bùng lên phong trào đấu tranh rộng khắp và liên tục của nhân dân ta. Phong trào đó lan rộng từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng lên miền núi. Cuộc kháng chiến 7 năm của hậu Trần đã chứng tỏ tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước và truyền thống toàn dân đánh giặc của nhân dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa Trần Ngỗi và Trần Quý Kháng là hai cuộc khởi nghĩa lớn nhất trong giai đoạn này, có lúc đã làm chủ suốt từ Thanh Hóa vào phía Nam và mở rộng hoạt động trên địa bàn rộng lớn cả nước. Có lúc đã bao vây cả Đông Quan, nếu nhà Minh không kịp thời tăng viện thì đã có thể giải phóng được đất nước. Cuộc kháng chiến lâu dài này không thành công do nhiều nguyên nhân, cả về chính trị lẫn quân sự có thể nêu mấy điểm chủ yếu sau: Nhân dân có quyết tâm cao chống quân xâm lược, nổi dậy liên tục rộng khắp, nhưng thiếu người lãnh đạo đủ đức tài để tập hợp các phong trào trong toàn quốc, đồng thời trong nội bộ những người lãnh đạo, vua quan lại không làm được những điều mà Trần Quốc Tuấn đã từng nói: “Vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận”, đã nghe lời xiểm nịnh, giết người phù trợ có công, có đức, có tài như Trần Ngỗi đã giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Trong nghệ thuật đánh giặc còn thiên về tác chiến của quân tập trung, chưa chú ý đúng mức đến phát động toàn dân tham gia chiến đấu, chưa nắm chắc nguyên tắc của nghệ thuật truyền thống, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, không phát triển cách đánh mai phục, bất ngờ như các chiến thuật du kích, cách đánh tập kích, phục kích để chống lại những cuộc tiến công càn quét của địch, mà còn nặng về dàn trận công khai chống địch khi tương quan lực lượng không phù hợp. Chưa quan tâm đầy đủ đến việc vừa kháng chiến vừa lo bồi dưỡng sức dân ở trong vùng mình kiểm soát và mở rộng lực lượng ra khắp nơi, đánh nơi địch không phòng giữ, tranh thủ nhân dân phát động du kích chiến ở phía sau lưng địch.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [CENTER][CENTER][B][COLOR=sienna][FONT=Verdana]III - KHỞI NGHĨA LAM SƠN[/FONT][/COLOR][/B][/CENTER][/CENTER] [COLOR=black][FONT=Verdana] Sau cuộc khởi nghĩa của Trần Quý Kháng, đến khoảng giữa năm 1414, hầu hết các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ khác cũng đều bị thất bại. Đất nước ta lúc này mới thực sự bị chính quyền nhân Minh đô hộ như một quận huyện của chúng. Trương Phụ và Mộc Thạnh rút quân về nước, giao việc trấn thủ Giao Chỉ cho Chu Huy và Liên Xuân. Tuy ngọn lửa đấu tranh bị dẹp xuống, nhưng không hề bị dập tắt, có lúc vẫn bùng lên với những cuộc bạo động lẻ tẻ. Cuộc đấu tranh của nghĩa binh “áo đỏ” ở miền núi tỏ ra rất ngoan cường, địch không thể nào tiêu diệt nổi. Đầu năm 1415 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Trần Nguyệt Hồ ở vùng Thanh Hóa, buộc nhà Minh một lần nữa phải phái Trương Phụ đem quân sang đàn áp và ở lại trấn thủ Giao Chỉ. Từ năm 1417, nhiều cuộc đấu tranh mới lại bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi, báo hiệu trước một cao trào đấu tranh quyết liệt sắp bùng nổ. Cao trào đó thực sự bắt đầu từ năm 1418 với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn làm trung tâm. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã gắn liền với tên tuổi của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và những người anh hùng đất Lam Sơn. Cuộc khởi nghĩa chia làm 3 thời kỳ: [B]1. Sáu năm chiến đấu du kích ở vùng Lam Sơn.[/B] “Năm Mậu Tuất dấy hưng nghĩa binh đóng trên sông Lạc Thủy, trước sau hơn hai mươi trận, đều đặt mai phục, dùng kỳ binh, tránh mui nhọn, thừa chỗ hư, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”1. Đất Lam Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lam Sơn nằm ở tả ngạn sông Chu. Địa hình Lam Sơn và các khu vực này có nhiều rừng thưa và đồi sát nhau, xen kẽ ở giữa là những cánh đồng nhỏ hẹp và lạch núi chạy quanh. Phía Tây tiếp giáp với miền thượng du Thanh Hóa có núi rừng trùng điệp. Nghĩa quân đóng ở đây có thể tỏa xuống miền đồng bằng, có thể di chuyển lên miền thượng lưu sông Mã, và khi cần có thể rút lên miền tây, dựa vào thế núi Pù Kinh (Chí Linh) để bao toàn lực lượng. Ngày 2-1 năm Mậu Tuất (7-2-1418), Lê Lợi và toàn thể nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, kêu gọi nhân dân cùng nổi dậy giết giặc cứu nước. Theo Lam Sơn thực lục, lực lượng đó chỉ gồm có 35 quan võ, một số quan văn, 200 thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, 14 con voi, số người tham gia tất cả khoảng 2.000 người. Cuộc khởi nghĩa vừa mới phát động thì quân Minh lập tức tập trung lực lượng lên đàn áp. Tổng binh Lý Bân phái đô đốc Chu Quảng điều quân từ thành Tây Đô lên vây quét vùng Lam Sơn. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu, sau một cuộc cầm cự ngắn, Lê Lợi rút lên miền núi phía Tây. Quân Minh đuổi theo ráo riết. Lê Lợi phải rút lên núi Chí Linh. Ở núi Chí Linh nghĩa quân định dựa vào thế cực kỳ hiểm trở của vùng này để cố thủ, tạm tránh cuộc truy đuổi của địch. Trước tình thế nghiêm trọng, Lê Lai xin tình nguyện hy sinh để cứu Lê Lợi và giải vây cho nghĩa quân. Nhưng chỉ 5 ngày sau, quân Minh lại kéo đại quân lên đàn áp, Lê Lợi rút quân lên Lạc Thủy. Dự đoán quân địch đuổi theo, Lê Lợi đã chọn địa hình hiểm trở, bố trí quân mai phục chờ địch. Nghĩa quân đã đánh bại được cuộc truy kích, tiêu diệt được hàng ngàn tên địch và thu nhiều vũ khí, quân nhu. Ba ngày sau trận thất bại, quân Minh lại mở cuộc vây quét lớn. Do có mấy tên phản bội đưa đường, quân Minh đánh úp vào phía sau nghĩa quân. Bị đánh bất ngờ, nghĩa quân không kịp đối phó và bị tổn thất nặng. Trước tình hình đó, Lê Lợi và nghĩa quân phải rút lên vùng núi Chí Linh lần thứ hai, ẩn náu trong 3 tháng. Sau khi quân Minh chấm dứt cuộc bao vây càn quét và rút về Tây Đô, nghĩa quân còn lại hơn 100 người. Lê Lợi sai đắp lũy ở Lam Sơn và ra sức chiêu nạp nghĩa quân, sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực để củng cố căn cứ, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới. Lũy Lam Sơn đắp bằng đất hình vòng cung, bên tả ngạn sông Chu, qua Dao Xá. Hào Lương, kéo dài đến Yên Trường (Thọ Xuân, Thanh Hóa), có nơi chân rộng 10m, cao trên 1,8m, mặt luỹ rộng gần 5m, mặt ngoài phía Nam còn có hào. ___________________________________ 1. Văn bia Vĩnh Lăng. [/FONT][/COLOR] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Khi quân Minh điều thêm quân từ Đông Quan, mở cuộc vây quét lớn vùng Lam Sơn, Lê Lợi và bộ tham mưu chủ trương rút khỏi căn cứ, nhử địch tiến sâu lên miền rừng núi hiểm trở. Bằng một trận bố trí mai phục ở Mường Lọt, khiêu chiến nhử địch vào bẫy, nghĩa quân đã làm nên một chiến thắng lớn thứ hai. Căn cứ Lam Sơn từ đó đã trở thành nơi xuất phát tiến công quân địch. Nghĩa quân đã mở trận tiến công đầu tiên vào đồn Nga Lạc, bắt được tướng giặc và diệt được trên 300 tên địch. Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa và những thắng lợi liên tục của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh lại tập trung lực lượng đánh vào căn cứ Lam Sơn. Nghĩa quân phải rút lui vào vùng rừng núi, thực hiện lối đánh du kích, mai phục, quấy rối tiêu hao quân địch. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân di chuyển dần về miền lưu vực sông Mã, sau đó đóng ở Lô Sơn. Ở đây Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã ngoại giao với nước Ai Lao nhờ giúp đỡ vũ khí và voi, ngựa. Nhân khi quân Minh còn phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi, Lê Lợi tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng. Đến cuối năm 1419, nghĩa quân Lam Sơn từ căn cứ Mường Thôi ở phía Tây Bắc Thanh Hóa theo lối lưu vực sông Mã tỏa xuống hoạt động ở miền Lỗi Giang. Bằng lối đánh mai phục, nhử dịch vào thế hiểm để tiêu diệt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng. Trước sự phát triển mạnh mẽ và sự hoạt động ráo riết của nghĩa quân, quân Minh phải lui về cố thủ các đồn để bảo vệ cho thành Tây Đô. Mặc dù vậy, các đồn của chúng như Khả Lam (Lam Sơn), Nga Lạc, Quan Du (Quan Hóa) đều lần lượt bị nghĩa quân bao vây, tập kích. Những chiến thắng liên tiếp ở Bờ Mộng, Thi Lang và nhất là ở Quan Du, đã làm cho thanh thế của nghĩa quân vang dậy và kích động mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi. Sau thất bại ở Quan Du, quân Minh phải rút về cố thủ thành Tây Đô và các đồn lũy xung quanh để chờ viện binh. Nhân đó nghĩa quân mở rộng hoạt động ra khắp vùng Tây Bắc và thượng du Thanh Hóa. Sau ba năm chiến đấu liên tục, nghĩa quân Lam Sơn đã tỏ rõ một tinh thần chiến đấu dẻo dai, một sức sống mãnh liệt. Sau khi chuẩn bị chu đáo, quân Minh tiến lên đóng ở ải Kình Lọng để chuẩn bị tiến công. Với tư tưởng chủ động tiến công theo lối “dĩ dật đãi lao”, Lê Lợi quyết định bất ngờ tập kích ngay vào doanh trại quân Minh nhằm tiêu hao sinh lực địch và phá chuẩn bị tiến công của chúng. Quân Minh hành quân từ xa đến mệt mỏi, ban đêm bị tập kích bất ngờ nên hoảng hốt và bị tổn thất khá nặng. Với chiến thuật tập kích và phục kích lợi hại, với tinh thần chiến đấu anh dũng, nghĩa quân đã đánh lui nhiều cuộc tiến công của giặc. Lê Lợi sau đó phải chuyển quân đến Quan Du, rồi lên Sách Khôi, được 7 ngày thì quân Minh phối hợp với quân Ai Lao (do sự ép buộc của nhà Minh) kéo đến bao vây với một lực lượng rất đông. Cuộc vây quét này của địch đã dồn nghĩa quân vào một tình thế rất hiểm nghèo. Nhờ tinh thần ngoan cường, anh dũng hy sinh, nghĩa quân đã phá được thế bao vây, chuyển bại thành thắng trong trận Sách Khôi. Sau trận này nghĩa quân lại rút lui về núi Chí Linh để tạm thời tránh những cuộc tiến công lớn của địch, đồng thời để củng cố lực lượng sau những tổn thất trong một số trận chiến đấu liên tiếp. Nghĩa quân phải sống qua những ngày thử thách vô cùng khó khăn, gian khổ, do thiếu thốn lương thực. Căn cứ vào hoàn cảnh và tương quan lực lượng giữa ta và địch, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định thương lượng đình chiến với địch dưới hình thức trá hàng, tạm thời hòa hoãn với địch. Trong hơn một năm đình chiến, lực lượng nghĩa quân không những được phục hồi nhanh chóng, mà còn được tăng cường về mọi mặt. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [SIZE=4][COLOR=#a0522d][FONT=Verdana][B]2. Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An.[/B] Chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An theo hiến kế của Nguyễn Chích: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông... Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đất đứng chân, rồi dựa vào nhân lực tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ”. Đây cũng là chiến lược có tính quyết định của cuộc khởi nghĩa. Đúng như nhận định của Nguyễn Chích, Nghệ An là “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông”. Núi rừng của Nghệ An cũng hiểm yếu không kém gì núi rừng của Thanh Hóa. Nhưng lực lượng của địch ở Nghệ An tương đối yếu. Thành Nghệ An và hệ thống đồn lũy cũng kém vững chắc hơn Thanh Hóa, mặt khác chính quyền đô hộ ở đây cũng mới thực sự được thiết lập từ năm 1414 và chưa được củng cố chặt chẽ. Hơn nữa, Nghệ An, về mặt bắc lại xa các căn cứ trung tâm của địch như Tây Đô và Đông Quan, còn về mặt Nam là miền Tân Bình, Thuận Hóa thì lực lượng của địch rất yếu. Nếu chiếm được Nghệ An thì có khả năng cắt địch ra làm hai, khiến quân địch ở phía Nam hoàn toàn bị cô lập và lực lượng của địch sẽ suy yếu. Chiếm được Nghệ An, nghĩa quân sẽ chiếm được một khu vực “đất rộng, người đông”, có thể cung cấp một nguồn nhân lực, vật lực rất phong phú, tạo ra những chuyển biến căn bản trong sự phát triển lực lượng, làm thay đổi về chất cho cuộc khởi nghĩa. Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Lê Lợi quyết định hành quân tiến vào Nghệ An. Ngày 12-10-1424, nghĩa quân bất ngờ tập kích thắng lợi đồn Đa Căng (Thọ Xuân - Thanh Hóa), thổ quan Lương Như Hốt bỏ chạy, hơn 1.000 quân địch bị tiêu diệt. Sau thất bại ở Đa Căng, quân Minh biết tin Lê Lợi tiến quân vào Nghệ An, nên một mặt chúng huy động quân ở Tây Đô đuổi theo phía sau, mặt khác chúng ra lệnh cho quân lính ở thành Trà Long chặn đánh phía trước. Toán quân chặn phía trước đã bị Lê Lợi bố trí quân và voi mai phục, nhử địch đến, giết trên 2.000 quân, thu hơn 100 ngựa. Trên đường hành quân về phía thành Trà Long nghĩa quân đã liên tiếp đánh tan các cánh quân ngăn chặn ở Bồ Lạp và Trịnh Sơn, làm thất bại hoàn toàn âm mưu truy đuổi và ngăn chặn của quân Minh. Quân Minh rút về thành Nghệ An. Tri phủ Cầm Bành với hơn 1.000 thổ quân rút về Trà Long cố thủ chờ viện binh. Trong tháng 10-1424 nghĩa quân bao vây thành Trà Long và tìm cách chiêu dụ Cầm Bành. Cầm Bành ngoan cố liều chết cố thủ. Sau khi nhận được lệnh, bọn Trần Trí, Phương Chính liền huy động quân thủy bộ ở Nghệ An theo dọc sông Lam mở cuộc phản công lớn đánh lên Trà Long. Theo chủ trương của Lê Lợi: giặc đông, ta ít, lấy ít đánh đông, chỉ ở nơi đất hiểm mới lập được công. Vả lại binh pháp nói: nhử người đến, chứ không để người nhử đến”1. Tướng Đinh Liệt được lệnh chỉ huy hơn 1.000 nghĩa quân từ Trà Long theo đường tắt chiếm giữ huyện Đỗ Gia để “cướp đất giành chỗ tiện lợi”, còn Lê Lợi thì đem đại quân xuôi sông Lam, về đóng ở ải Khả Lưu nhằm “giữ chỗ hiểm yếu để đợi giặc”, khống chế con đường hành quân và chặn đầu quân thủy bộ từ thành Nghệ An lên Trà Long. Mấy ngày sau, quân Minh do Trần Trí và Phương Chính chỉ huy, từ thành Nghệ An theo đường thủy bộ dọc sông Lam tiến đến ải Khả Lưu. Bất ngờ thấy nghĩa quân đã lập trại án ngữ mặt Bắc sông Lam, chúng đành phải hạ trại đóng quân ở bờ Nam sông Lam trên bãi Phá Lữ nằm đối diện với ải Khả Lưu qua dòng sông Lam để chuẩn bị tiến công. Lê Lợi dùng kế nghi binh để lừa địch “ban ngày thì dựng cờ đánh trống, ban đêm thi đốt lửa”. Trong lúc đó Lê Lợi phái một lực lượng tinh nhuệ bí mật vượt sông Lam, giấu quân ở bãi Sở nhằm “phục sẵn ở nơi hiểm yếu”. Mờ sáng hôm sau, quân địch từ Phá Lữ vượt sông đánh thẳng vào doanh trại của nghĩa quân. Quân ta vừa cầm cự vừa rút lui nhử địch vào trận địa mai phục. Quân địch tiến sâu vào trận địa mai phục, bị quân ta bất thần xông ra đánh. Đồng thời, cánh quân tinh nhuệ ở bãi Sở cùng đánh úp vào trại giặc ở Phá Lữ. Quân địch bị thiệt hại nặng, “bị chém đầu và chết đuối kể đến hàng vạn người”2. Sau đó với trận phục kích Bố Ai: “Quân giặc bị giết không biết bao nhiêu mà kể, thuyền giặc trôi ngổn ngang, thây chết đuối tắc cả sông, khí giới bỏ chồng chất khắp núi”3. Sau các chiến thắng Bồ Lạp, Trà Long, Khả Lưu, Bố Ai, thanh thế của nghĩa quân được mở rộng khắp vùng Nghệ An. Quân chủ lực của địch co về thành Nghệ An cố thủ. Nghĩa quân thừa thắng tỏa về các châu huyện, mở rộng khu giải phóng. ______________________________________ 1. Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969, tr. 15. 2-3. Sách dẫn trên, tr. 45-46. [/FONT][/COLOR][/SIZE] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Nghĩa quân Lam Sơn tiến đến đâu, nhân dân nổi dậy đến đó và tích cực ủng hộ nghĩa quân. Chỉ trong vòng một tháng đã giải phóng tất cả các thôn, huyện thuộc phủ Nghệ An khỏi ách đô hộ của quân Minh. Riêng thành Nghệ An là thành lũy kiên cố nhất của quân Minh ở vùng này, Lê Lợi quyết định áp sát, quây hãm, buộc chúng phải ở vào thế bị cô lập. Nghĩa quân vừa vây hãm thành Nghệ An, vừa chuẩn bị mọi chiến cụ, phương tiện để đánh thành. Quân Minh trong thành Nghệ An do tổng binh Trần Trí chỉ huy, quân số vẫn còn đông, nên cố thủ, chờ quân tiếp viện từ Đông Quan vào. Lý An, tham tướng trấn thủ thành Đông Quan vội đem quân vượt biển cứu viện cho thành Nghệ An. Được tăng viện, địch quyết định mở cuộc phản kích lớn nhằm vào Đỗ Gia để tiêu diệt chỉ huy sở của nghĩa quân. Nghĩa quân đã bố trí trận địa mai phục lớn ở cửa sông Khuất, rồi nhử địch vào để tiêu diệt, đập tan cuộc phản kích của chúng. Hơn 1.000 tên địch bị giết tại trận. Từ đó “giặc đóng chặt cửa thành, không dám ra. Thế là đất Nghệ An đều về ta hết”1. Nghĩa quân lúc này có điều kiện xây dựng căn cứ địa ở Đỗ Gia, sau đến thành Lục Niêm. Sau một thời gian củng cố, đến tháng 6-1425 Lê Lợi phái tướng Đinh Lễ tiến ra giải phóng Diễn Châu. Do biết đô ty Trương Hùng được lệnh đem 300 thuyền lương thực từ Đông Quan tiếp tế cho thành Diễn Châu và phán đoán rằng thuyền lương đến, quân địch sẽ mở cửa thành ra đón, nên Đinh Lễ đã bố trí sẵn quân mai phục ở phía ngoài thành. Đúng như dự đoán, ở trận này nghĩa quân đã tiêu diệt trên 300 tên địch, chiếm được nhiều lương thực và thuyền bè của chúng. Sau khi đánh tan quân địch, cả phủ Diễn Châu nhanh chóng được giải phóng. Đinh Lễ để một bộ phận nghĩa quân ở lại vây hãm thành Diễn Châu, rồi thừa thắng cướp thuyền địch vượt biển đuổi theo chúng đến tận Tây Đô. Được tin thắng trận, Lê Lợi liền phái ngay các tướng Lý Triệu, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị đem hơn 2.000 quân tinh nhuệ và 3 voi chiến theo đường tắt đi suốt ngày đêm ra Thanh Hóa tiếp ứng cho Đinh Lễ. Hai cánh quân của Đinh Lễ và Lý Triệu tiến rất nhanh ra Thanh Hóa. Nghĩa quân đã đánh úp thành Tây Đô, giết 500 tên địch và bắt sống được rất nhiều. Nghĩa quân một mặt vây hãm thành Tây Đô, làm tê liệt mọi hoạt động quân sự của địch, mặt khác tỏa về các châu huyện, cùng với nhân dân nhanh chóng giải phóng phủ Thanh Hóa. Việc giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa có ý nghĩa rất lớn. Với những thắng lợi này, nghĩa quân đã mở rộng căn cứ địa từ Nghệ Tĩnh ra đến Thanh Hóa. Cùng với những thắng lợi đó, lực lượng nghĩa quân đã trưởng thành vượt bậc và ngày càng giành thế chủ động. Quân Minh ở vùng Tân Bình (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị), Thuận Hóa (Nam Quảng Trị và Thừa Thiên) trước đây vốn đã yếu, mỏng, nay lại càng bị suy yếu hơn nữa. Lê Lợi chủ trương: “Các bậc tướng giỏi đời xưa bỏ chỗ vững, đánh chỗ hở, lánh chỗ chắc, đánh chỗ trống: như thế thì dùng sức chỉ một nửa mà thành công gấp đôi”2. Tháng 8 năm 1425, Lê Lợi phái các tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Nỗ, Lê Bồ đem 1.000 quân và 1 thớt voi tiến vào theo đường núi đánh các thành Tân Bình, Thuận Hóa. Dùng chiến thuật dựa vào địa hình hiểm yếu, mai phục nhử địch vào trận địa đã chuẩn bị, nghĩa quân đã làm cho quân Minh bị tan vỡ và tổn thất nặng. Quân địch khiếp sợ phải rút lui vào thành cố thủ. Chỉ trong một thời gian ngắn toàn bộ đất Tân Bình, Thuận Hóa đều được giải phóng (trừ hai thành bị bao vây), làm cho vùng giải phóng của nghĩa quân mở rộng vào đến Hải Vân. Trong gần 8 năm chiến đấu đã qua, thì chỉ trong khoảng 1 năm từ 10-1424 đến 10-1425, nghĩa quân đã có những bước tiến nhảy vọt. Bước tiến này đã tạo ra những chuyển biến căn bản về tương quan lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thế và lực mới, đưa cuộc khởi nghĩa vào giai đoạn tiến công, trên phạm vi toàn quốc. ____________________________________ 1. Sách dẫn trên, tr. 47. 2. Sách dẫn trên, tr. 48. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [SIZE=4][COLOR=#a0522d][FONT=Verdana][B]3. Tiến quân ra Bắc.[/B] Sau khi giải phóng được khu vực rộng lớn từ Thanh Hóa vào đến Thuận Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã có một hậu phương vững chắc và lực lượng đã trưởng thành về mọi mặt, tương quan lực lượng giữa ta và địch đã có những chuyển biến căn bản có lợi cho nghĩa quân. Từ cuối năm 1425 đến tháng 9-1426, Lê Lợi đã quyết định mở cuộc tiến công ra các lộ miền Đông Đô. a) Một mặt nghĩa quân vẫn tiếp tục vây hãm các thành từ Thanh Hóa trở vào để giam chân quân địch, mặt khác chia ba đạo quân tiến ra Bắc.. + Đạo quân thứ nhất gồm hơn 3.000 quân do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triệu, Trịnh Khả chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Quan (Nho Quan), Quảng Oai, nhằm uy hiếp mặt Tây Nam thành Đông Quan và chặn viện binh của địch từ Vân Nam sang. + Đạo quân thứ hai gồm hon 2.000 quân và 1 voi chiến do các tướng Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Lê Trương, Lê Ninh chỉ huy, tiến ra vùng Thiên Trường, nhằm giải phóng miền hạ lưu sông Nhị và ngăn chặn đường rút lui của quân Minh từ thành Nghệ An về Đông Quan. Sau đó Lê Lợi lại bổ xung hơn 2.000 quân và 1 voi chiến giao thêm nhiệm vụ tiến ra vùng Lạng Giang để ngăn chặn viện binh của địch từ Lưỡng Quảng đến. + Đạo quân thứ ba gồm 2.000 quân tinh nhuệ do các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy tiến thẳng ra phía Nam Đông Quan để “phô trương thanh thế”. Được tin nghĩa quân tiến về Đông Quan, Phương Chính và Mã Kỳ đem quân ra vây đánh. Tiến quân vào một khu vực đóng quân của địch có thành lũy làm chỗ dựa, là điều khó khăn và bất lợi cho quân ta, nhất là khi quân ta ít hơn địch. Phạm Văn Xảo và Lý Triệu tìm cách điều quân địch ra khỏi căn cứ để tiêu diệt bằng chiến thuật phục kích vận động sở trường của nghĩa quân Lam Sơn. Ở Cổ Lãm, quân Minh bị đánh bất ngờ hơn 1.000 tên bị diệt, “Mã Kỳ chỉ kịp một người một ngựa trốn về Đông Quan”. Quân ta thừa thắng truy kích tiêu diệt địch và tiến sâu vào phía sau cầu Sa Đôi với ý định “muốn chặn đánh dinh sau của Phương Chính”. Nghe tin quân của Sơn Thọ, Mã Kỳ bị thất bại thảm hại ở Cổ Lãm, Phương Chính vội vã ra lệnh bỏ vị trí cầu Sa Đôi, rút quân về Đông Quan cố thủ để tránh đòn tiến công của ta. b) Trước sự phát triển như vũ bão của nghĩa quân, vua Minh phái Vương Thông đem 70.000 quân sang tiếp viện. Sau khi tới Đông Quan, Vương Thông đã nhanh chóng hội quân ở bến Cô Sở. Hai cánh quân vừa rút chạy về Đông Quan, được lệnh gấp rút kéo lên Cô Sở. Với lực lượng tập trung trên 9 vạn quân, Vương Thông tiến đánh Ninh Kiều, khu vực nghĩa quân chiếm đóng. Bằng một số trận đánh thăm dò để nắm tình hình địch và nghi binh, nghĩa quân đã chủ động bí mật rút khỏi Ninh Kiều về lập thế trên ở Cao Bộ (Chương Mỹ - Hà Tây) cách Ninh Kiều 8 km. Từ Cô Sở tiến xuống Ninh Kiều, Vương Thông “vồ hụt” quân ta, phải thay đổi kế hoạch. Sau khi phát hiện ra căn cứ mới của quân ta ở Cao Bộ, hắn dự định chia làm hai cánh quân tiến đánh Cao Bộ: Cánh “chính binh” do Vương Thông chỉ huy đánh chính diện; cánh “kỳ binh” theo đường tắt, đến phía sau quân ta. Hai đạo quân Lam Sơn đã kịp tập trung về Cao Bộ với lực lượng ước khoảng trên 1 vạn. Nằm giữa hai cánh quân địch, quân ta quyết định đánh đòn chủ yếu vào cánh chính binh của Vương Thông, bằng cách tập trung lực lượng để đánh đòn phủ đầu vào bộ phận tiền quân địch. Trận địa mai phục chủ yếu được bố trí ở Tốt Động, một vùng đồng chiêm trũng, lau lách bên cạnh đường “Lai Kinh”, nhằm đánh vào bộ phận trung quân và hậu quân cánh “chính binh” và cả cánh kỳ binh. Để phối hợp với hướng chủ yếu, bộ chỉ huy đã bố trí một trận địa mai phục thứ hai ở Chúc Động. Đây cũng là một cánh đồng, tuy không rộng và sâu như cánh đồng Tốt Động, nhưng lầy lội và nằm sát từ Ninh Kiều đến Cao Bộ, đường “Lai Kinh” và đường tắt đều phải đi qua vùng Chúc Động.[/FONT][/COLOR][/SIZE] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Rạng sáng 7-11-1426, Vương Thông ra lệnh cho quân lính xuất phát tiến công Cao Bộ. Cánh chính do Vương Thông trực tiếp chỉ huy, theo đường “Lai Kinh” tiến thẳng đến phía trước Cao Bộ, với đội hình kéo dài, tiến dần về phía Tốt Động. Khi tiền quân của cánh chính binh đã lọt vào trận địa mai phục chủ yếu ở Tốt Động thì hậu quân của chúng cũng đã qua hết Ninh Giang, đã lọt vào trận địa mai phục ở Chúc Động. Theo hiệu lệnh đã quy định trước, quân mai phục của ta ở Tốt Động nhất tề nổi dậy xông vào tiêu diệt địch với khí thế vô cùng mãnh liệt. Vương Thông bị bất ngờ, hàng ngũ quân địch hoàn toàn rối loạn, tinh thần hết sức kinh hoàng, khiếp sợ. Cả một cánh đồng bùn lầy ngập nước đã chôn thây hàng vạn quân địch. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị quân ta chém chết. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong khoảng 4-5 giờ. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều. Cánh kỳ binh đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ, khi nhận được tin Vương Thông đã bị đại bại ở Tốt Động, vội rút chạy về hướng Chúc Động. Quân mai phục của ta ở trận địa Chúc Động lại bồi tiếp những đòn quyết liệt vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh đang tháo chạy hỗn loạn. Nghĩa quân đã phá hủy cầu Ninh Kiều chặn đường rút lui của địch về Đông Quan. Một trận quyết chiến thứ hai đã diễn ra ác liệt trên vùng Chúc Động, Ninh Kiều, hàng vạn quân địch bị giết chết và bị bắt sống. Số quân địch liều lĩnh vượt sông bị chết đuối rất nhiều. Một bộ phận theo Vương Thông, Mã Kỳ, cố vượt được qua Ninh Kiều, chạy thoát về Đông Quan. Một bộ phận khác theo Phương Chính chạy theo hữu ngạn sông Đáy, qua bến đò Cô Sở trốn về Đông Quan. Với hai trận Tốt Động, Chúc Động, quân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân, trong đó bắt sống trên 1 vạn tên. Vương Thông bị thương, tướng Trần Hiệp bị chém tại trận. Quân ta còn thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Trận Ninh Kiều như đê vỡ kiến trôi; trận Tốt Động như gió rung cây gãy. c) Sau trận thất bại ở Tốt Động, Chúc Động, Vương Thông thu thập tàn quân, rút chạy về Đông Quan. Từ đó tên bại tướng này phải chuyển sang thế phòng ngự, cố thủ thành Đông Quan. Được tin thắng trận, Lê Lợi đưa đại quân gồm quân thủy, quân bộ và 20 voi chiến chia làm 2 đường thủy, bộ đi suốt ngày đêm tiến gấp ra Bắc. Ngày 21-11-1426, Lê Lợi tiến ra tây Phù Liệt (huyện Thanh Trì - Hà Nội) đóng quân tại đây và quyết định tiến công vây hãm thành Đông Quan. Với cuộc tiến công ngoại vi thành Đông Quan, quân ta đã tiêu diệt hầu hết các doanh trại địch ở phía ngoài, buộc quân địch từ đó phải rút hẳn vào trong thành cố thủ. Thế giặc ngày càng cùng quẫn, nên phải đắp thêm thành lũy để liều chết giữ thành, chờ viện binh. Lê Lợi dời bản doanh sang Đông Phù Liệt, chủ trương tiếp tục vây hãm thành Đông Quan và mở rộng vùng giải phóng, bổ sung thêm lực lượng. Những thắng lợi dồn dập của nghĩa quân đã làm cho quân địch từ thành Đông Quan cho đến các đồn lũy khác đều rất hoang mang. Để tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt trước khi viện binh sang, Vương Thông một mặt ra sức tăng cường khả năng cố thủ các thành, mặt khác đưa ra việc thương lượng giảng hòa với nghĩa quân để làm kế hoãn binh. Lê Lợi đã xây dựng một chính quyền độc lớp, quản lý khu vực giải phóng, củng cố hậu phương, tăng cường lực lượng, tích trữ lương thực chuẩn bị chiến thuyền và vũ khí. Với tầm mắt chiến lược, Nguyễn Trãi đã gửi thư cho Vương Thông: “Nay tính hộ các ông, xét có sáu điều phải thua: - Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất. - Xưa Đường Thái Tông bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến thì tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai. - Ở nước các ông, quân mạnh, ngựa tốt, nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rõi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba. - Luôn động can qua, hàng năm đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư. - Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm. - Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mệt mỏi, tự chuốc lấy bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu”1. ________________________________ 1. Nguyễn Trãi, Quân trung từ mệnh tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Vòng vây xiết chặt của nghĩa quân kết hợp với công tác địch vận của Nguyễn Trãi làm cho quân Minh ở thành Đông Quan ngày càng hoang mang, dao động. Lê Lợi chủ trương bao vây các thành còn lại, nghiêm cấm mọi hành động giao dịch mua bán nhằm triệt đường tiếp tế lương thực, đồng thời tìm cách thuyết phục dụ hàng. Nhờ đó nghĩa quân thu phục được thành Nghệ An mà không tốn một mũi tên viên đạn nào. Các thành Tây Đô, Cổ Lộng, Chí Linh... tuy địch ngoan cố chống cự, nhưng sự bao vây và dụ hàng của nghĩa quân đã làm cho chúng suy yếu và kiệt quệ. Do đó, khi có viện binh nhà Minh kéo sang, quân địch trong những thành nay không dám hành động gì. Thành Điêu Diên, Thị Cầu, Tam Giang lần lượt phải đầu hàng. Thành Khâu Ôn cuối cùng bị quân ta tiêu diệt. Riêng thành Xương Giang là một cứ điểm trọng yếu nhất của địch trên con đường từ Quảng Tây sang Đông Quan, ở đây quân địch tỏ ra rất ngoan cố, chúng liều chết cố thủ đến cùng, chờ viện binh. Sau hơn 9 tháng bị vây hãm, quân địch bị chết quá nửa, lương thực cạn, quân lính mệt mỏi. Thành Xương Giang bị hạ trước khi viện binh của địch kéo vào biên giới 10 ngày. Như vậy cho đến trước khi viện binh của nhà Minh kéo sang, toàn bộ kế hoạch chuẩn bị diệt viện của nghĩa quân đã được thực hiện đầy đủ. Quân địch chỉ còn cố thủ trong bốn thành cô lập là Đông Đô, Chí Linh, Cổ Lộng và Tây Đô. d) Đến tháng 1-1427, triều đình nhà Minh quyết định điều 2 đạo quân viện binh sang cứu nguy cho Vương Thông. Đạo thứ nhất gồm 10 vạn quân, 2 vạn ngựa, do thái tử thái phó an viên hầu Liễu Thăng chỉ huy với chức tổng binh, tiến theo đường Quảng Tây sang. Đạo thứ hai gồm 5 vạn quân, 1 vạn ngựa do thái phó kiêm quốc công Mộc Thạnh với chức tổng binh chỉ huy tiến theo đường Vân Nam sang. Từ tháng 10-1426 đến tháng 7-1497, nhà Minh đã điều động đến 3 lần viện binh do các tướng Vương An Lão, Vương Thông, Cố Hưng Tổ chỉ huy, tổng cộng đến 10 vạn, liên tiếp kéo sang đều đã bị đánh bại. Lực lượng nghĩa quân lúc đó có khoảng 35 vạn, nhưng còn phải vây hãm khoảng 10 vạn quân địch trong bốn thành và bảo vệ cả một hậu phương rộng lớn. Số quân cơ động có thể tập trung vào nhiệm vụ diệt viện không nhiều lắm. Trong tình hình như vậy, nếu cùng một lúc tiến đánh cả hai đạo viện binh địch thì rõ ràng binh lực của ta bị phân tán. Do đó, bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định chọn đạo quân Liễu Thăng làm đối tượng quyết chiến chủ yếu, tập trung lực lượng tiêu diệt đạo quân này trước và kiềm chế đạo quân Mộc Thạnh ở cửa Lê Hoa. Lê Lợi đã xét đoán: “Mộc Thạnh tuổi già, trải việc đã nhiều, vốn nghe tiếng ta, tất ngồi xem Liễu Thăng thành bại chứ không dám khinh động”1. Và đánh giá: “Binh pháp nói: đi 50 dặm để tranh lợi thì thượng tướng phải què. Nay Liễu Thăng đến, đường xá xa xôi, người ngựa mệt mỏi. Ta đem quân nhàn rỗi đánh quân mệt mỏi, lẽ nào không thắng”2. Vì vậy bộ chỉ huy nghĩa quân đã bố trí một loạt trận đánh liên tiếp trên đường tiến quân của địch từ ải Pha lũy cho đến Xương Giang nhằm tiêu diệt từng bộ phận, rồi tiến lên tiêu diệt toàn bộ quân địch còn lại. Tận dụng địa hình núi rừng hiểm yếu, bộ chỉ huy nghĩa quân bố trí thế trận và lực lượng khoảng 5 vạn quân vào hướng tiến công chủ yếu. Mười ngày sau chiến thắng hạ thành Xương Giang của nghĩa quân, tức ngày 8-10-1427, đạo quân của Liễu Thăng đột nhập vào biên giới nước ta. Quân ta do tướng Trần Lựu chỉ huy giữ cửa ải Pha Lũy, thực hiện đúng kế hoạch vừa đánh vừa nhử địch vào trận địa quyết chiến. Từ Pha Luỹ quân ta lui về Khâu Ôn. Liễu Thăng tiến xuống chiếm Khâu Ôn, quân ta lại lui về giữ Ải Lưu, sau đó rút về Chi Lăng mai phục. Kết hợp với kế hoạch lui quân nhử địch, Lê Lợi, Nguyễn Trải đã viết thư xin Liễu Thăng rút quân, càng làm tăng sự kiêu căng, chủ quan khinh thường của hắn. Nhất là khi Liễu Thăng tiến vào Ải Lưu dễ dàng như vào chỗ không người, hắn càng ngạo mạn, không nghe những lời can ngăn của các tướng, ra lệnh tiếp tục tiến thẳng về phía ải Chi Lăng. _________________________________ 1, 2. Sách dẫn trên, tr. 153. [/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Dãy núi Cai Khinh dốc đứng và dãy núi Thái Hòa trùng điệp là những bức thành cao chắn hai ngả Đông - Tây, khép lấy thung lũng Chi Lăng cùng với những ngọn núi nhỏ bên trong. Địch lọt vào trận địa Chi Lăng tự nhiên như bị ép chặt vào một túi sâu khó thoát, bị dồn vào “đất chết”. Chiến thắng oanh liệt đã được ghi trong “Cáo Bình Ngô”. Ta trước hết phục binh giữ hiểm, đập nát tiên phong. Đưa kỵ binh đánh chặn, cắt đường lương thực. Sang ngày 18 Liễu Thăng bị đánh, Chi Lăng trúng kế. Ngày 20 Liễu Thăng bị bại, Mã Yên phơi thây. Ngày 25, Lương Minh trận hãm bỏ mình. Ngày 28, binh thượng thư Lý Khánh kế cùng thắt cổ”. Ngày 10-10-1427, Liễu Thăng chủ quan, kiêu ngạo, dẫn hơn 100 quân kỵ, hung hăng mở đường tiến vào cửa ải. Tướng Trần Lựu lại đem quân khiêu chiến rồi “giả vờ thua chạy”. Khinh địch và tức tối, Liễu Thăng thúc quân đuổi theo, bám sát Trần Lựu và tiến vào ải Chi Lăng. Liễu Thăng vượt qua cửa ải phía Bắc, tiến đến chân núi Mã Yên thì hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục của ta. Ngay lúc đó, phục binh ta bốn mặt nhất tề xông ra quyết chiến. Đội quân khiêu chiến lập tức quật trở lại phối hợp. Cuộc chiến đấu diễn ra thật bất ngờ, mau lẹ. Tượng binh của ta xông thẳng vào đội hình địch, chia cắt và dồn chúng vào cánh đồng lầy lội. Kỵ binh và bộ binh của ta xông ra bao vây cùng với những mũi tên tẩm thuốc độc, các loại đạn đá, mũi lao, phi tiêu từ bốn phía lao vào quân giặc. Liễu Thăng cố chạy thoát ra khỏi cánh đồng lầy lội, nhưng hắn đã bị quân ta phóng lao đâm chết ở sườn núi Mã Yên. Chủ tướng bị giết, cả đội kỵ binh tiên phong của giặc hoảng loạn và đã bị tiêu diệt gọn. Thừa thắng, quân ta chia cắt đội hình của địch và “đập gãy khoảng tiên phong”. Số địch bị diệt đến 1 vạn tên. Quân ta lại bố trí trận địa mai phục thứ hai ở Cần Trạm, đồng thời lại viết thư khích tướng địch. Phó tổng binh Lương Minh lên nắm quyền chỉ huy đạo quân vẫn ngoan cố hung hăng tiến về Cần Trạm. Ngày 15-10-1427, quân địch lại lọt vào trận địa mai phục của nghĩa quân. Trận đánh đã diễn ra trên một chiều dài gần 5km, suốt từ cánh đồng phía Đông Bắc Cần Trạm đến tận nam thị trấn Kép. Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng lại bị những mũi lao của quân ta đâm chết tại trận cùng với khoảng 2 vạn quân bị tiêu diệt. Quân ta chủ động thu quân và nhanh chóng vận động theo đường tắt về phía Nam để tiếp tục tổ chức trận địa mai phục. Sau thất bại Cần Trạm, đô đốc Thôi Tụ lên nắm quyền chỉ huy, cùng với Lý Khánh, Hoàng Phúc, cố sức tập hợp quân lính, gắng gượng thúc quân tiến về Xương Giang. Ngày 18-10, quân địch tiến đến phố Cát, cách Xương Giang 8 km về phía Bắc lại bị quân ta đón đánh. Địch bị thiệt hại nặng, hơn 3 vạn quân bị diệt, Lý Khánh uất ức, “kế cùng thắt cổ tự tử”. Tuy bị thất bại nặng nề, nhưng Thôi Tụ và Hoàng Phúc vẫn cố liều chết tiến về Xương Giang. Khi đến gần Xương Giang chúng mới biết thành đã bị hạ. Hết đường ứng cứu, hy vọng liên hệ với Đông Quan bị tiêu tan. Mệt mỏi, hoang mang, lại bị cô lập, trước mặt sau lưng đều bị đánh, cuối cùng chúng phải “đắp lũy ngoài đồng để tự vệ”. Quân địch phải đóng quân cô lập giữa một vùng đồng ruộng và một vài xóm trơ trọi thuộc xã Tân Dĩnh (Lạng Giang - Hà Bắc), cách Xương Giang 3km. Bộ chỉ huy nghĩa quân đã dự kiến trước và chuẩn bị sẵn một thế trận bao vây tiêu diệt chúng ở vùng này. Quân ta đã “lập hàng rào ở bên bờ tả sông Xương Giang”. Quân thủy bộ của ta lợi dụng đoạn sông Thương này để bố trí bao vây mặt tây và làm chủ các dòng sông Thương và sông Lục Nam ở phía Đông Nam. Mặt Bắc, hai đạo quân của ta sau trận Phố Cát cùng tiến xuống, hình thành thế trận bao vây ép chặt quân địch. Thành Xương Giang nằm trong tay nghĩa quân là một pháo đài vững chắc, chặn đứng đường về Đông Quan của chúng. Sau khi quân địch đã hoàn toàn lọt vào vòng vây khép kín, dày đặc, nhiều tầng nhiều lớp của quân thuỷ bộ ta, bộ chỉ huy nghĩa quân lo tiêu diệt đạo quân Mộc Thạnh. Đúng như kế hoạch đã vạch sẵn, bộ chỉ huy đã ra lệnh cho các tướng giữ ải Lê Hoa là “Chỉ nên đặt quân phục để chờ, chưa nên đánh nhau vội”, chỉ đánh kiềm chế, ngăn chặn không cho địch tiến sâu, đồng thời chuẩn bị lực lượng, chiếm lĩnh sẵn những nơi hiểm yếu để chờ thời cơ phản công.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Verdana] [SIZE=4][COLOR=#a0522d]Khi đạo quân viện binh của Liễu Thăng đã bị thất bại nặng nề và bị giam chân ở Xương Giang, Lê Lợi cho một số tù binh mang thư và bằng sắc ấn tín của Liễu Thăng và những tên tướng tử trận đến trại quân của Mộc Thạnh. Mộc Thạnh thất kinh, vội vàng đang đêm đem quân gấp rút tháo chạy về nước. Nghĩa quân đã chuẩn bị trước, lập tức tung quân đánh đuổi. Quân ta thắng lớn ở Lãnh Câu và Đan Xá diệt trên 1 vạn địch, bắt sống 1 nghìn tên và 1 nghìn ngựa, thu nhiều chiến lợi phẩm. Mộc Thạnh chỉ một mình một ngựa chạy thoát về Vân Nam. Chiến thắng ở Lãnh Câu và Đan Xá càng cổ vũ tinh thần quân dân ta ở chiến trường Xương Giang. Vừa xiết chặt vòng vây, Lê lợi, Nguyễn Trãi kiên trì dụ hàng quân địch ở cánh đồng Xương Giang. Quân Minh tỏ ra ngoan cố, không chịu hàng, lại có âm mưu giảng hòa để kéo vào thành Chí Linh, lợi dụng thành lũy này để cố thủ và tiếp tục chiến tranh. Lê Lợi ra lệnh gấp rút hạ thành Chí Linh và gửi tới Thôi Tụ, Hoàng Phúc một bức tối hậu thư. Đúng ngày 3-11-1427, nghĩa quân được lệnh tổng công kích cụm viện binh cuối cùng này. Quân địch đại bại, các tướng chỉ huy lớn nhỏ từ Thôi Tụ, Hoàng Phúc đến Sử An, Trần Duy, v.v... đều bị bắt cùng với hơn 5 vạn quân địch bị giết, một số chạy trốn được, sau cùng đều bị dân ta bắt giữ. Đến đây, hai đạo viện binh của nhà Minh đều bị tiêu diệt và đánh bại. Toàn bộ chiến cục từ Chi Lăng đến Xương Giang, với các trận đánh liên tiếp đã được bố trí và thực hiện đúng kế hoạch dự định. Quân ta hoàn toàn đẩy địch vào thế bị động. Nghĩa quân đã sử dụng tài tình địa hình hiểm trở và chọn quyết chiến điểm một cách chính xác. Sau trận phản kích tuyệt vọng cùng với sự kiên trì thuyết phục của Nguyễn Trãi, cuối cùng Vương Thông đã phải chịu đầu hàng bằng một cuộc đàm phán gọi là “Hội Thề Đông Quan” cam kết rút toàn bộ quân lính ra khỏi nước ta. Ngày 29-12-1427, quân Minh bắt đầu rút lui và đến ngày 3-1-1428 thì đội bộ binh cuối cùng của Vương Thông lên đường về nước. Bình Ngô Đại Cáo đã nêu: Tham tướng Phương Chính, nội quan Mã Kỳ trước cấp hơn năm trăm thuyền, đã vượt biển, vẫn hồn kinh phách lạc. Tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cho trên mấy nghìn ngựa, đã về nước, còn ngực đập chân run. Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hàng. Ta để cho giặc toàn quân, mà quân ta được nghỉ và đất nước ta sau 20 năm bị mất, nay lại được giải phóng một cách oai hùng. Xã tắc từ đây vững yên. Giang sơn từ nay đổi mới Càn khôn hết bĩ lại thái. Nhật nguyệt hết mờ lại trong Mở rộng nền thái bình muôn thuở Rửa sạch điều hổ thẹn nghìn thu. Bài học lớn trong cuộc chiến tranh bảo vệ và giải phóng tổ quốc, chống xâm lược của nhà Minh trong 20 năm trường là chống kẻ thù lớn mạnh hơn phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, phải có nghệ thuật của chiến tranh nhân dân và luôn quán triệt tư tưởng lấy yếu chống mạnh, phải biết tạo thời lập thế để thắng kẻ định có lực lượng mạnh hơn. Phải có cách đánh phù hợp lừa địch, đưa địch vào những thế trận bất ngờ, bằng phục kích, tập kích - Sai lầm về chiến lược thì quân trăm vạn, thành quách kiên cố cũng chỉ vài tháng là thua, đổ mất nước. Nhưng kẻ thù xâm lược phải luôn nhớ rằng nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước sâu đậm, có ý chí quật cường không chịu cam tâm làm nô lệ. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp trong gần 20 năm bị đô hộ của nhân dân đã chứng minh nhân dân Việt Nam không thể bị đồng hóa. Trong 20 năm chống Minh xâm lược, nghệ thuật giải phóng dân tộc đã được xây dựng hoàn chỉnh từ khởi nghĩa ở rừng núi nông thôn tiến hành chiến tranh du kích, đến vây thành diệt viện binh tiến tới chiếm khoanh trì - kết hợp tiến công với nổi dậy của quần chúng, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị binh địch vận và ngoại giao - Trong tác chiến thì luôn quán triệt tư tưởng lấy “yếu chống mạnh hay đánh bất ngờ, ít địch nhiều thường dùng mai phục” lấy đánh vận động là chính - Dùng chiến lược đánh lâu dài, từng bước xây dựng và phát triển lực lượng và thế trận, xây dựng căn cứ địa ở nơi hiểm trở của núi rừng và trong lòng dân ở những nơi địch yếu trước và khi đã có thời cơ thì không bỏ lỡ mà tranh thủ đánh nhanh mở rộng địa bàn.[/COLOR][/SIZE][/FONT] lichsu.vn [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam
Top