• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia qua vở bi kịch Hamlet

Cua Ta

New member

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

So với Italia và một số nước Tây Âu khác, nước Anh bước vào thời đại Phục hưng muộn màng hơn. Cũng như các nước Tây Âu khác, nước Anh cũng đi theo xu thế tiến lên chủ nghĩa tư bản. Phong trào Phục hưng ngay từ khi ra đời đã gặt hái được những mùa hoa trái tốt đẹp, phong phú vô cùng. Nó làm cho Tây Âu nói chung và nước Anh nói riêng như bừng dậy sau một “đêm trường trung cổ”, tiến nhanh và mạnh vào thời kì lịch sử cận đại. Trong bối cảnh lịch sử ấy, đã tạo một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của văn học phục hưng Anh. Với một diện mạo và một dáng vẻ riêng, văn học phục hưng Anh đã có những thành tựu hết sức đáng kể. Đặc điểm nổi bậc nhất của văn học này là sự phát triển rầm rộ và rực rỡ của thể loại Kịch với nhiều tác gia tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể loại này.

Nổi bật lên là Sêcxpia,nhà soạn kịch thiên tài, người đại diện tiêu biểu nhất cho văn đàn nước Anh thời Phục hưng. Bi kịch được đánh giá là tầm cao của thiên tài Sêcxpia. Sêcxpia được coi là một trong những đại văn hào vĩ đại nhất của nhân loại, một “linh hồn của thời đại, kì tài của sân khấu”, một “thiên tài lớn nhất trong những người sáng tạo, là nhà thơ tuyệt diệu nhất, là con người kì diệu, là con người vĩ đại, con người không ai có thể sánh nổi” (Bêlinxki).

Từ lâu, các sáng tác của Sêcxpia đã vượt ra ngoài phạm vi của một nước và đã trở thành tài sản chung của toàn nhân loại. Nó đã trở thành một gia tài quý báu nhất mà “nghệ thuật bi kịch” trong quá khứ để lại cho chúng ta tiếp thu và học tập. “Sêcxpia không chỉ thuộc về thời đại của mình mà còn thuộc về tất cả mọi thời đại”. Với tài năng thiên bẩm, cùng với sự tiếp nhận tinh thần của chủ nghĩa nhân văn cao cả của thời Phục hưng, Sêcxpia đã sáng tạo nên những kiệt tác bi kịch nổi tiếng. Một trong số đó, tiêu biểu là vở “Hamlet” – một tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp kịch Sêxpia. Một kiệt tác trường tồn với thời gian, suốt mấy trăm năm qua nó vẫn sống động trên sân khấu.

Đây là một tác phẩm kì tài của Sêcxpia, với tác phẩm này nó đã đưa Sêcxpia lên tầng cao mới. Với nội dung, tư tưởng đầy tính nhân văn, vở kịch này đã thu hút biết bao thế hệ độc giả trên những trang viết, cũng như trên sân khấu. Điều làm nên thành công ấy, chính ở tài năng của tác giả với một phong cách viết rất nghệ thuật, rất riêng. Đó chính là nghệ thuật – nghệ thuật bi kịch rất Sêcxpia.
Với ước muốn và vì những lẽ trên, chúng tôi tìm đến đề tài: Nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia qua bi kịch Hamlet làm đề tài nghiên cứu của mình. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho người viết có những nhìn nhận thật đúng đắn và hiểu rõ hơn nghệ thuật bi kịch của tác gia tầm vóc này. Và đồng thời, đây cũng là cơ sở cho công tác nghiên cứu giảng dạy và học tập về sau này của người viết.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:

Lịch sử của việc nghiên cứu về Sêcxpia nói chung, và về “nghệ thuật bi kịch” của Sêcxpia nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu cơ bản trên nhiều phương diện như: sưu tầm, dịch thuật, biên soạn… cho đến các công trình nghiên cứu, các bài viết, các bài lý luận, phê bình nó cũng xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều hết sức công phu và có một giá trị không nhỏ, giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về “nghệ thuật bi kịch” của Sêcxpia.

Ở Anh, Pháp, Đức, Nga và nhiều nước khác. Sêcxpia được những nhà tiến bộ nhiệt liệt ca ngợi và học tập nghiên cứu. Mac, Ăngghen, những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản toàn thế giới, đánh giá rất cao thiên tài Sêcxpia. Nhiều nhà văn thế giới đã thừa nhận uy tín và ảnh hưởng lớn lao của ông. Ben Jônxơn, nhà viết kịch nổi tiếng đã khẳng định: “Sêcxpia không chỉ thuộc về nước Anh, mà ông thuộc mọi thời đại”. Gớt, Sile, Huygô, Banzăc, Gorki, Bêlinxki…và bao nhiêu nhà văn lớn khác nữa đều thừa nhận thiên tài của Sêcxpia. Nhiều đạo diễn và diễn viên ưu tú trong gần bốn trăm năm qua đã nổi tiếng nhờ dàn dựng và diễn xuất các vở kịch của Sêcxpia. Thế kỷ XX với sự phát triển mạnh mẽ của màn ảnh lớn và nhỏ đã đưa Sêcxpia đến với mọi nơi trên hành tinh này. Giới nghiên cứu, lí luận, phê bình cũng dành nhiều giấy bút để tìm hiểu, để phân tích, để lí giải về con người, về tác phẩm của nhà soạn kịch ưu tú đó.

Riêng trong mười năm đầu thế kỷ XX, người ta đã viết về ông nhiều hơn là cả ba thế kỷ trước cộng lại. "Sêcxpia cần thiết cho thời đại chúng ta, tác phẩm của ông làm những con người thế kỷ XX vui sướng, say sưa, cảm động và thúc đẩy họ suy nghĩ... Nó đã vào trong đời sống chúng ta làm thành một yếu tố quan trọng của đời sống văn hoá hiện đại" (Anixt).

Riêng ở Việt Nam, ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 giới trí thức, sinh viên, học sinh cũng đã từng say mê thưởng thức Sêcxpia qua tiếng Anh hoặc qua các bản dịch tiếng Pháp. Vài vở kịch của ông cũng đã được dịch ra tiếng Việt. Tuy nhiên phải đợi đến sau ngày hoà bình lập lại, ở miền Bắc mới xuất hiện một số công trình giới thiệu, nghiên cứu, dịch thuật đáng kể; các trường phổ thông trung học và Đại học (văn) mới bắt đầu giảng dạy một vài tác phẩm của Sêcxpia; các trường nghệ thuật sân khấu cũng bắt tay vào việc học tập Sêcxpia, dàn dựng một vài vở của ông. Ngày nay ở nước ta việc giới thiệu, nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy Sêcxpia ngày càng phong phú và đã có không ít những công trình. Tiêu biểu:

Trong cuốn Lịch sử sân khấu thế giới (1977) do Đức Nam, Hoàng Oanh, Hải Dương (dịch), Nxb Văn hóa, Hà Nội, khi nhận định về các sáng tác của Sêcxpia cho rằng : “Kịch của ông là cái hồi quang nghệ thuật đầy đủ nhất của đời sống xã hội thời Phục hưng. Sêcxpia đã nhìn thấu vào tận bản chất của các quan hệ xã hội. với cái nhạy bén của một thiên tài chân chính, trước đó người khác không nhìn ra, phát hiện ra mâu thuẫn ngay trong mầm mống của những sự kiện này, sự kiện khác thuộc đời sống xã hội”.

Các tác giả cũng thấy rằng : “Trong những tác phẩm của mình, Sêcxpia đã phản ánh những mâu thuẫn của xã hội này, lúc bấy giờ mới nảy sinh và chỉ lộ ra một cách trọn vẹn trong thời kì sau. Ông không chỉ nhìn thấy quá khứ và hiện tại mà còn nhìn thấu tương lai bằng con mắt tiên tri”.

Khi đánh giá về giá trị nghệ thuật trong các sáng tác của Sêcxpia, họ nhận thấy : “Nghệ thuật của ông không những phản ánh hiện thực, mà còn thể hiện một thái độ nhất định đối với hiện thực. Sêcxpia là một nhà nhân bản và bằng những tác phẩm của mình tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa phong kiến với tất cả những hậu quả của nó trong đời sống tinh thần và xã hội”.

Minh Chính trong cuốn Văn học phương Tây giản yếu, Nxb ĐHQG TP.HCM, năm 2002 cũng cho ra mắt bạn đọc công trình nghiên cứu công phu về nền văn học của phương Tây nói chung và văn học Anh nói riêng. Sức mạnh tinh thần ở đây có chứa đựng trong nó biết bao ước mơ, khát vọng của con người, mà chính yếu tố “nghệ thuật bi kịch” đã góp phần không nhỏ để thể hiện thành công nhất về nó.

Trong cuốn Văn học phương Tây do tập thể các tác giả: Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính biên soạn, Nxb Giáo dục, năm 2004, cho ra mắt bạn đọc. Công trình này là nguồn tư liệu hết sức quý giá cho các nhà nghiên cứu khi đưa ra nhận định về nội dung, tư tưởng nghệ thuật cũng như những đóng góp to lớn của Sêcxpia với văn học thời Phục hưng ở Anh nói riêng và với kho tàng văn học phong phú của toàn thế giới nói chung.

Về nghệ thuật xây dựng các bi kịch kiệt tác của Sêcxpia, các tác giả nhận xét : “Sêcxpia có biệt tài trong việc chuyển một câu chuyện cũ thành kịch. Muốn làm công việc đó thì trước hết phải quan tâm đến việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Ở kịch lịch sử hoặc hài kịch, ông cũng đã làm tốt việc ấy. Tuy nhiên đến bi kịch thì tài năng này cành phát huy hết sức mạnh ngòi bút của ông”.

Lưu Đức Trung (chủ biên) trong cuốn “Chân dung các nhà văn thế giới”, Nxb Giáo dục, năm 2004, đã giới thiệu đến đông đảo độc giả một nguồn tư liệu hết sức có giá trị. Các tác giả đã trình bày khá đầy đủ và công phu về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác cũng như những đóng góp của những tác giả nổi tiếng trên thế giới, đặc biệt không thể không nhắc đến Sêcxpia và những kiệt tác của thiên tài này, trong đó có các vở bi kịch Rômêô và Juliet, Hamlet và Ôtelô...

Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác, do khuôn khổ của tiểu luận nên chúng tôi chỉ đưa ra một số công trình cụ thể, chớ không đi sâu hết được. Trên cơ sở kế thừa và cộng với sự kết hợp một số nguồn tham khảo khác chúng tôi mạnh dạn đi vào việc nghiên cứu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia

Phạm vi nghiên cứu: Ở đề tài chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia qua vở: Hamlet. Và văn bản chúng tôi khảo xác là: Hamlet do Bùi Anh Kha, Bùi Ý, Bùi Phụng dịch của Nxb Văn học, 1986.

4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi sử dụng một số cách tiếp cận sau:
- Phương pháp tiếp cận hệ thống:
- Phương pháp so sánh - đối chiếu:
- Phương pháp phân tích - chứng minh:
- Phương pháp tổng hợp

5. Cấu trúc đề tài:
Cấu trúc đề tài nghiên cứu này gồm ba phần: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận. Trong phần nội dung được chia làm hai chương chính:

Chương một: Những vấn đề chung

Chương hai : Hamlet – đỉnh cao của nghệ thuật bi kịch Sêcxpia

Cuối cùng là tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG

Chương một: Những vấn đề chung

1.1. Giới thuyết thuật ngữ.
1.1.1. Khái niệm nghệ thuật.

Hình thái đặc thù của ý thức xã hội và của các hoạt động con người, một phương thức quan trọng để con người chiếm lĩnh các giá trị tinh thần của hiện thực, nhằm mục đích tạo thành mà phát triển các năng lực chiếm lĩnh và cải tạo bản thân và thế giới xung quanh theo quy luật của cái đẹp.
Khác với các hình thái ý thức và hoạt động xã hội khác như (hoá học, chính trị, đạo đức). Nghệ thuật thoả mãn nhu cầu có tính vạn năng của con người là cảm thụ thế giới xung quanh dưới các hình thái đã phát triển của năng lực cảm nhận mang tính người. Đó là năng lực cảm nhận thẫm mỹ đặc trưng, chỉ có ở con người đối với các hiện tượng, sự vật, biến cố của thế giới khách quan với tư cách là “chỉnh thể cụ thể sống động” ( Max).

Nghệ thuật phát sinh và hình thành trên cơ sở lao động, nhưng một khi ra đời, nghệ thuật hình thành ở con người một năng lực cảm nhận vạn năng mà có thể vận dụng vào mọi lĩnh vực hoạt động đời sống xã hội, khoa học, chính trị, sinh hoạt…Vì vậy, tác phẩm nghệ thuật có thể hình thành một công chúng biết hiểu nghệ thuật và có năng lực hưởng thụ cái đẹp.( Max).

Nghệ thuật thống nhất trrong bản thân nó, tất cả mọi lĩnh vực hoạt động và nhận thức thể hiện mối quan hệ của cá nhân đối với thế giới và đối với bản thân mình. Nghệ thuật giúp cho con người có năng lực tự cảm thấy mình trong sự hài hoà của thế giới và cảm nhận được ý nghĩa của thế giới trong sự phát triển nhân cách toàn vẹn của mình. Chính cái chức năng hình thành và hoàn thiện năng lực cảm nhận vạn năng này đã quy định các đặc trưng khác của nghệ thuật: hướng tới đối tượng trong tính toàn vẹn, sinh động, chủ thể, cá thể với toàn bộ năng lực nhân cách và tâm hồn, hình thức hình tượng, tính chất truyền cảm, giao tiếp, các phương diện chức năng cụ thể như nhận thức, thoả mãn mĩ cảm gắn bó với nhau trong bản chất của nghệ thuật.

Đời sống xã hội là cội nguồn nội dung của nghệ thuật, quy định mối liên hệ qua lại giữa nghệ thuật với các ý thức xã hội khác như: chính trị, khoa học, triết học, đạo đức…Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật có tính chất giai cấp, tính Đảng.

Trong tiến trình lịch sử phát triển khách quan của nghệ thuật, do tính đa dạng của các quá trình và các hình tượng trong thực tại, do sự khác biệt của những phương thức, phương tiện cũng như nhiệm vụ phương án thẫm mỹ và cải tạo hiện thực, do nhu cầu nhiều mặt của con người đã hình thành các loại hình nghệ thuật khác nhau.

1.1.2. Khái niệm kịch, bi kịch.
1.1.2.1. Khái niệm kịch.
Thuật ngữ này được dùng hai cấp độ:
- Ở cấp độ loại hình. Kịch là một trong ba phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch.

Phần lớn kịch được xây dựng trên hành động bên ngoài với những diễn biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh, chống lại của các nhân vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng.

Về mặt kết cấu: Vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, đồng thời làm cho cái được trình diễn mang màu sắc sát thực của đời sống.

Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: Bi kịch, hài kịch, chính trị cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.

- Ở cấp độ thể loại: Thuật ngữ kịch (Dram) được dùng để chỉ một thể loại văn học. Sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch vfa hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng còn gọi là chính kịch. Cũng giống hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười nhạo chế giễu cái thói hư tật xấu mà là mô tả các cá nhân trông quan hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về mọi nguyên tắc có thể giải quyết được ẩn thoã. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường.

1.1.2.2. Khái niệm bi kịch.
Bi kịch là một thể loại kịch thường được coi như là độc lập với hài kịch, bi kịch phản ánh không phải bằng tự sự mà bằng hành động của nhân vật chính. Mối xung đột không thể điều hoà được giữa cái thiện và cái thấp hèn…diễn ra trong tình huống cực kì căng thẳng mà nhân vật thường chỉ thoát ra khỏi ánh sáng bằng cái chết bi thảm gây nên. Những suy tư và xúc động mạnh mẽ đối với công chúng.

Bi kịch có nội dung bi thương, thường kết thúc bằng sự thất bại, hoặc sự hy sinh của nhân vật chính diện. Nội dung phản ánh là sự xung đột giữa cái mới và cái cũ, giữa tiến bộ vfa lạc hậu, giữa cái thiện và cái được trong xã hội, số phận các nhân vật chính diện đều kết thúc bi thảm, thường là bằng cái chết tạo nên cảm xúc ấn tượng, xót thương cho khán giả. Cùng với sự phát triền của xã hội, tính chất của bi kịch cũng có nhiều biến đổi. Từ những bi kịch có tình chất là bi kịch gia đình, huyết thống đã mở rộng phạm vi tới những vấn đề có ý nghĩa xã hội, đề cập đến số phận của con người trong bi kịch chung của đất nước, dân tộc và nhân loại. Ở Việt Nam các tác phẩm bi kịch nổi tiếng của thế giới được giới thiệu và dàn dựng trên sân khấu như: Ôtenlô, Rômeo và Juliét, Vualia, Hămlét, Âm mưu và tình yêu, Những tên cướp, Lôi Vũ, Giông Tố…Rồi sân khấu tuồng, chèo, cải lương truyền thống cũng có các tác phẩm mang tính chất bi kịch: Quan âm thị kính, Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt.
Bi kịch thường viết bằng thể thơ mười hai chân, đề tài thường được vay mượn từ thần thoại, truyền thuyết hoặc xoay quanh cuộc sống cung đình thành thị

1.2. Sêcxpia – Nhà soạn kịch tài ba.
1.2.1. Sêcxpia – Cuộc đời của nhà soạn kịch tài ba.
Uyliam Sêcxpia chào đời vào ngày 23 – 4 – 1564 tại Xtratfơt on Êvơn, một thị trấn nằm ở trung tâm nước Anh. Ngày sinh của Sêcxpia trùng với ngày lễ Thánh Gioóc, vị thánh yêu quý của người Anh. Cha Sêcxpia là ông Giôn Sêcxpia, vốn theo nghề nông nhưng rồi rời bỏ đồng ruộng ra thị trấn theo đuổi nghề làm bao tay. Nhờ cần cù, làm ăn phát đạt, Giôn Sêcxpia được bầu làm thị trưởng. Thuở nhỏ Sêcxpia theo học trường Grammar School và được tiếp xúc với các các môn phổ thong, cùng với tiếng Hi Lạp, Latinh và một vài tác phẩm cổ đại của Hi Lạp, La Mã.

Năm 14 tuổi, chưa học hết chương trình nhưng vì gia đình sa sút, bố không còn giữ chức Thị trưởng nên Sêcxpia bỏ học, đi làm phụ giúp gia đình. Thoạt tiên ông đến giúp việc tại lò mổ, về sau nhờ có ít chữ nghĩa ông chuyển sang nghề dạy học. Năm 18 tuổi, Sêcxpia kết hôn với An Hathauê, người hơn Sêcxpia tám tuổi. Ba năm sau, hai vợ chồng sinh được ba con. Hai con gái và con trai có tên là Hamnet. Năm 11 tuổi Hamnet chết.

Càng ngày cuộc sống gia đình ông càng túng quẫn hơn. Năm 23 tuổi, Sêcxpia rời Xtratfơt ra kinh thành Luân Đôn với hai bàn tay trắng và niềm đam mê sân khấu. Ông tìm đến rạp The Theatre xin làm chân giữ ngựa rồi soát vé. Về sau, do chứng tỏ được khả năng, Sêcxpia được giao làm chân nhắc vở và đóng những vai phụ. Trong thời gian này, Sêcxpia không ngừng học hỏi để nâng cao tri thức. Ngoài tiếng Pháp, tiếng Italia…Sêcxpia còn nghiền ngẫm cuốn Sử biên niên của Anh, Ailen và Xcôtlen của Hôlinset để hiểu thêm quá trình phát triển của nước Anh. Từ năm 1590, Sêcxpia bắt tay vào sự nghiệp sáng tác. Ông sáng tác hài kịch, kịch lịch sử, bi – hài kịch, bi kịch. Những vở hài kịch tiêu biểu của Sêcxpia là: Ầm ĩ vì chuyện không đâu, Đêm thứ mười hai, Giấc mộng đêm hè, Người lái buôn thành Vơnidơ…Rômêô và Juliet được xếp vào loại bi kịch lãng mạn. Hamlet là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của Sêcxpia. Ngoài ra, Ôtelô, Vua Lia, Macbet… cũng được đánh giá là những bi kịch kiệt xuất của ông. Trong khoảng hai mươi năm cầm bút, Sêcxpia để lại gần 40 vở kịch, hai trường ca và 154 bài thơ Xonnê.

Uyliam Sêcxpia là nhà soạn kịch thiên tài, người đại diện tiêu biểu nhất cho văn đàn nước Anh thời Phục hưng, là kịch gia số một của nhân loại. Trước ông không có ai sánh bằng và hơn bốn thế kỉ sau cũng chẳng có ai theo kịp. Thiên tài của Sêcxpia là độc nhất vô nhị. Chỉ mình ông thôi cũng đủ thâu tóm hết cả nền kịch nghệ thế giới.

Uyliam Sêcxpia mất ngày 23 – 4 – 1616. Thi hài của ông được an táng tại nhà thờ Hôli Tơriniti ở quê nhà. Năm 1623, toàn tập Sêcxpia mới được ra mắt bạn đọc.

1.2.2. Sêcxpia – Sự nghiệp của nhà soạn kịch thiên tài.
Shakespeare nổi lên nhanh chóng như một ngôi sao rực rỡ chiếu sáng văn đàn. Chỉ sau 5 năm có mặt ở kinh thành, tên tuổi của ông đã vang dội. Hai mươi năm cầm bút ông đã để lại gần 40 vở kịch, 2 bản trường ca, một tập 154 bài xonnê. Ông được thừa nhận là nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất thời đại mình, đất nước mình.

Các nhà nghiên cứu thường chia cuộc đời sáng tác của Shakespeare làm 4 giai đoạn:

Giai đoạn đầu từ 1590 – 1594: Đây là thời kỳ ông viết các vở Hài kịch của những hiểu lầm, Hai chàng công tử ở Vêrôna, Công cốc vất vả với tình. Người ta thường coi đây là thời kỳ tập sự, thử sức của Shakespeare, thời kỳ ông sửa chữa, cải biên các vở cũ và hợp tác với soạn giả khác khi viết vở mới. Nói rằng tập viết bằng cách sửa chữa, cải biên vở cũ e rằng không đúng. Sửa khó, người sửa hay viết lại phải có tay nghề già dặn hơn người viết trước. Thường là vậy. Có lẽ coi đây là thời kỳ mà Shakespeare mới vào nghề, còn đang tìm đường cho ngòi bút, chưa tạo được bản sắc, phong cách riêng vì còn bị ràng buộc với quá khứ của văn đàn, của nghệ thuật kịch.

Đây cũng là thời kỳ Shakespeare cho ra đời hai bản trường ca Vinơx và Âyđônix (1593), Liucrit (1594) cùng một số bài nonnet làm say mê lòng người. Đặc biệt vở Romeo và Juliet cũng được viết vào cuối thời kỳ này.

Giai đoạn thứ hai từ 1594 – 1600: Là thời kỳ ông trình diễn các vở kịch lịch sử nổi tiếng như Henri IV (2 phần), Henri V… cùng một số vở kịch khác Giấc mộng đêm hè, Chàng thương gia thành Vơnizơ…Đây là thời kỳ mà tài năng của Shakespeare bùng nổ như hoa mùa xuân, mà cảm hứng chủ đạo vẫn là lạc quan yêu đời, yêu đất nước.

Giai đoạn thứ ba từ 1601 – 1608 là giai đoạn của các vở bi kịch lớn như Ôtelô, Hamlet, Vua Lia, Macbet, Entony và Cleopat. Xen kẽ các vở bi kịch là một số các vở “hài kịch chua chát, đắng cay”: Tất cả đều kết thúc tốt đẹp, Ăn miếng trả miếng…Chiều sâu tâm lí, tầm cao nghệ thuật ở các vở thuộc giai đoạn này đã nâng cao hơn nữa vị trí của Shakespeare trong lịch sử văn học Anh cũng như trong lịch sử văn học thế giới.

Giai đoạn cuối cùng từ 1609 – 1613 là giai đoạn của các vở kịch viết về những cuộc tình duyên thơ mộng, đầy gian nan trắc trở nhưng cuối cùng tốt đẹp: Periklex, Ximbơlainơ, Câu chuyện mùa đông, Bão táp…Điều dễ cảm nhận là các sáng tác thời kỳ này có phần dịu xuống. Mâu thuẫn ở đây không gay gắt, quyết liệt, không gây ra đổ vỡ, tan nát, chết chóc như giai đoạn trước, vì vậy kết thúc vui vẻ, mới có sum họp đoàn viên. Từ 1613, Shakespeare không viết nữa, ông trở về lại thị trấn quê hương và rất ít khi ra Luân Đôn.

1.3. Bi kịch – Đỉnh cao về sáng tạo nghệ thuật của Sêcxpia.
1.3.1. Đôi nét về bi kịch của Sêcxpia.
Trong các sáng tác của Sêcxpia, bi kịch có một vai trò hết sức lớn đối với sự nghiệp của ông. Tác giả đã để lại cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng như Rômêô và Giuliet, Hămlet, Ôtenlô, Mácbét, Vua Lia, …
Bi kịch được đánh dấu là tầm cao của thiên tài Sêcxpia. Các vở bi kịch lớn trong sáng tác của Sêcxpia, đã nâng cao vị trí của Sêcxpia trong lịch sử văn học Anh và thế giới. Đây là thể loại có ý nghĩa nhất trong sự nghiệp sáng tác của Sêcxpia. Ông sáng tạo nên thể bi kịch này nhằm phê phán những mặt đen tối, xấu xa và tàn bạo của một xã hội, một thời đại khủng hoảng, bế tắc. Quá trình sáng tác của Sêcxpia âu cũng là một sự phản ánh sinh động bước quá độ từ phong kiến lên tư bản chủ nghĩa của nước Anh. Đó là một thời kì đầy biến động. Có điều khi thì xoáy lên thành giông tố, phong ba như muốn nhấn chìm, muốn hất tung đi tất cả. Khi thì nó âm thầm, lặng lẽ như mạch nước ngầm xuyên chảy dưới đất sâu. Điều này chứng tỏ tài năng của nhà văn. Nó cũng chứng tỏ rằng ngay giữa lúc đang muốn công chúng vui cười thoả thích, ông vẫn cảm nhận được những mối nguy cơ đe doạ con người, mưu toan bóp nghẹt tiếng cười của nó, gây nên bao cảnh tan tóc đau thương, khiến nước mắt và cả máu còn phải đổ ra không ít. Năm tháng và cuộc đời sẽ ngày càng giúp ông thấy rõ hơn những gì trước đó mới chỉ là cảm nhận. Các vở bi kịch của ông càng chứng tỏ điều đó.

Thành công của ông ở thể loại bi kịch ở cả mặt nội dung và nghệ thuật đã phá vỡ những giới hạn ngặt nghèo của cái cũ sáng tạo những cái mới để mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật nói chung, chuyển những câu chuyện cũ thành kịch nhưng đầy sáng tạo, dẫn dắt hành động kịch một cách tài tình…Điều này sẽ thấy rõ hơn ở phần khảo sát của chúng tôi ở chương sau.

1.3.2. Hamlet – Một kiệt tác đỉnh cao của thể loại bi kịch.
Hamlet là vở bi kịch của nhà văn, nhà soạn kịch vĩ đại người Anh William Shakespeare (1564-1616), có lẽ được sáng tác vào năm 1601. Vở kịch gồm 5 hồi , cốt truyện của tác phẩm có nguồn gốc từ thể loại Saga (truyện dân gian) thời đại Trung cổ.

Hamlet mở đầu giai đoạn sáng tác bi kịch của Sêcxpia, là vở kịch có ý nghĩa tâm lý xã hội sâu sắc nhất trong các vở kịch của ông. Ông xây dựng tác phẩm này vào thời kỳ đã từng trải nhiều về cuộc sống, sau hai mươi lăm năm bôn ba chìm nổi trong xã hội nước Âu thời bấy giờ. Đó cũng là thời kỳ mà tích luỹ sơ khai của tư bản Anh đang đẻ ra những mâu thuẫn xã hội gay gắt chưa từng thấy, sự cướp đoạt làm giàu của giai cấp tư sản cấu kết với phong kiến đang bần cùng hóa quảng đại nhân dân, đồng tiền vạn năng và cường quyền chà đạp lên công lý, bao nhiêu quan niệm nhân đạo làm giá trị tinh thần của thời đại Phục hưng đổ vỡ trên nền móng thối nát của xã hội tư bản đang thành hình… Con người lý tưởng của thời đại Phục hưng, mà trước đây Sêcxpia đã biểu hiện trong các vở hài kịch của ông, cũng đã bị tan vỡ theo.

Hamlet là một trong những bi kịch nổi tiếng nhất của lịch sử sân khấu thế giới. Trong một hình thức nghệ thuật kịch – thơ trữ tình tuyệt vời, tác phẩm phản ánh được tinh thần của thời đại với sự khủng hoảng, bế tắc của lý tưởng nhân văn chủ nghĩa. Tác phẩm đã được nhiều nhà thơ, văn… đánh giá rất cao và không ngớt lời ca ngợi. Suốt mấy trăm năm qua Hamlet vẫn sống động trên sân khấu với nhiều cách dàn dựng khác nhau. Nhiều đạo diễn, diễn viên nhờ vậy mà nổi tiếng. nhiều bộ phim cho màn ảnh lớn cũng như màn ảnh nhỏ đã được quay và phổ biến rộng khắp thế giới. Các nhà nghiên cứu, lí luận phê bình, giáo sư, đại học… không ngừng đào sâu vào vở kịch để khám phá, phát hiện những gì ẩn dấu trong đó.

Cốt truyện Hamlet xoay quanh nhân vật trung tâm là Hamlet, hoàng tử nước Đan Mạch, sinh viên trường Đại học Wittenberg (Đức). Chàng gặp một cảnh ngộ éo le trong gia đình: vua cha vừa chết được hai tháng thì mẹ chàng, Hoàng hậu Gertrude tái giá lấy Claudius, chú ruột của chàng. Hồn ma của vua cha hiện về báo cho chàng biết Claudius là kẻ đã giết mình để chiếm đoạt ngai vàng và Hoàng hậu, và đòi Hamlet phải trả thù. Hamlet từ đó lòng tràn đầy căm phẫn, ghê tởm và chán ghét cuộc đời. Chàng giả điên để che mắt kẻ thù, thực hiện nghĩa vụ. Còn kẻ thù của Hamlet cũng ra sức theo dõi, dò xét chàng. Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi Hamlet cho mời một đoàn kịch vào hoàng cung diễn một vở kịch. Xem đến kịch cảnh một đôi gian phu dâm phụ mưu sát nhà vua, Claudius hoảng hốt bỏ về rồi vào phòng riêng cầu nguyện. Hamlet theo sát và đứng ngay sau y. Thời cơ rất thuận lợi để chàng trả thù, nhưng chàng lại không hành động. Chàng cho rằng giết hắn trong lúc hắn đang cầu nguyện để linh hồn hắn sạch tội ác, lên thiên đàng thì không thể gọi là trả thù được và như thế không tương xứng với cái chết mà cha chàng đã chịu. Claudius lập mưu trừ khử Hamlet, hắn cho hai tên tay sai Rosencrantz và Guildenstern hộ tống Hamlet sang Anh, thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt. Trước khi Hamlet lên đường, mẹ chàng cho gọi chàng vào để nói chuyện, với ý đồ lợi dụng tình cảm mẹ con để khêu gợi Hamlet nói thật tâm trạng của mình. Quan đại thần Polonius, thân phụ của Ophelia, người yêu của Hamlet nấp sẵn sau bức rèm, có nhiệm vụ theo dõi cuộc nói chuyện đó. Nhưng Hamlet luôn đề phòng và khi phát hiện bức rèm động đậy, chàng rút gươm đâm. Tiếc thay không phải là nhà vua Claudius như chàng tưởng mà là bố người yêu của mình. Trên đường sang Anh, lợi dụng lúc hai tên tay sai của nhà vua sơ ý, Hamlet xem trộm tờ chiếu chỉ, đó là mật lệnh giao cho vua Anh phải giết ngay Hamlet. Hamlet bèn viết thay một chiếu chỉ khác, đề nghị vua Anh giết Rosencrantz và Guildenstern. Chàng trở về Đan Mạch tâu với vua là chàng bị bọn cướp biển bắt, rồi được chúng tha. Ophelia phần vì thất vọng với sự điên loạn của người yêu là Hamlet, phần quá đỗi đau thương trước cái chết bí ẩn của cha nên bị mất trí, lang thang và cuối cùng chết đuối. Laertes phẫn nộ trước cái chết của cha (Polonius) và được nhà vua nói cho biết Hamlet là thủ phạm, đồng thời bày ra kế hoạch để Laertes có thể trả thù được một cách êm thấm khiến Hoàng hậu không biết mà thần dân cũng không hay: tổ chức một cuộc đấu kiếm giữa Laertes và Hamlet, mũi kiếm của Laertes tẩm thuốc độc và không bịt đầu. Cẩn thận hơn, nhà vua còn chuẩn bị sẵn một cốc rượu độc để mời Hamlet uống. Hamlet không lường trước được âm mưu thâm độc của kẻ thù. Song, ngoài ý muốn của Claudius, khi Hamlet thắng điểm, Hoàng hậu lại là người uống cốc rượu để mừng con. Đến hiệp ba, Laertes đâm Hamlet bị thương. Đổi kiếm, Laertes lại bị Hamlet đâm trúng. Hoàng hậu ngấm rượu độc chết khiến cả triều đình sửng sốt. Laertes biết mình cũng sắp chết nên hối hận nói rõ sự thật: nhà vua Claudius là thủ phạm của âm mưu và Hamlet sẽ không thể thoát chết do đã bị trúng độc. Căm phẫn tột độ, Hamlet đã dùng mũi kiếm tẩm độc kết liễu nhà vua. Vở bi kịch kết thúc với việc Fortinbras, sau khi chinh phục được Ba Lan trở về, lên ngôi vua trị vì vương quốc Đan Mạch trong tiếng đại bác, tiếng quân nhạc tiễn đưa linh hồn Hamlet về nơi yên nghỉ.


Chương hai : Hamlet – Đỉnh cao của nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia

2.1. Hamlet – Tác phẩm điển hình của nghệ thuật bi kịch Sêcxpia.
2.1.1. Biệt tài trong việc chuyển những câu chuyện cũ thành kịch sáng tạo.
Cũng như nhiều vở kịch khác, kịch bản Hamlet cũng dựa theo tích cũ và các văn bản kịch được lưu hành trước đó. Trước hết, Hamlet có cốt truyện phỏng theo câu chuyện cổ Đan Mạch. Truyện này được Saxo Grammaticus, một thầy tu Đan Mạch sống vào thế kỉ XII, ghi lại trong cuốc Truyện lịch sử Đan Mạch. Nội dung chính như sau: Horwendil và feng là hai an hem sinh trưởng ở xứ Jơtlan. Horwendil tài hoa, đánh thắng vua Na Uy trong cuộc đấu tay đôi và làm rể vua Đan Mạch. Horwendil lên ngôi vua sau khi vua Đan Mạch qua đời. Vì ghen ghét anh, Feng lập mưu giết anh, lên nối ngôi và lấy chị dâu. Con trai của Horwendil là Amleth giả điên để tìm cách trốn tránh và báo thù. Feng không tin, cho người nấp sau rèm rình nghe cuộc nói chuyện giữa Amleth và Hoàng hậu, Amleth phát hiện và giết chết kẻ đó. Feng phái Amleth sang Anh với bức thư yêu cầu vua Anh giết chết Amleth. Amleth đánh tráo thư, yêu cầu vua Anh chém hai kẻ tháp tùng và gả công chúa cho Amleth. Một năm sau, Amleth từ biệt vợ, trở về giết chết Feng và lên ngôi vua.

Câu chuyện có nội dung gần như giống hệt với Hamlet nhưng chủ đề thì lại không giống. Đây chỉ là sự trả thù đẫm máu mang tính gia đình, chứ không có tính bi kịch.

Năm 1570, nhà văn Pháp Francois De Belleforest đã viết lại câu chuyện này, đưa vào bộ Những truyện bi thảm, tập V. Ông khai thác khía cạnh vô đạo đức của Feng bằng cách Feng yêu chị dâu trước rồi mới giết anh đoạt vợ. Vậy nên về cơ bản, chủ đề câu chuyện vẫn như cũ.

Khoảng cuối thế kỉ XVI, các nhà soạn kịch đã đưa Amleth lên sân khấu. Thomas Kit được xem là soạn giả đầu tiên của Hamlet. Công lao của Kit là sáng tạo nên nhân vật hồn ma vua cha Hamlet và để Hamlet chết chứ không phải giành thắng lợi như trong truyện cỏ. Tuy nhiên chủ đề Hamlet của Kit cũng chỉ giới hạn trong phạm vi của một bi kịch báo thù gia đình chứ chưa đạt đến tầm bi kịch xã hội như Hamlet của Sêcxpia khi ông đưa thêm vào cốt truyện những người phu đào huyệt, Fortinbras và cái chết của Ôphêlia..

Để làm điều đó, Sêcxpia đã mở rộng, khai thác sâu hơn bối cảnh lịch sử và xây dựng Hamlet thành mẫu người lí tưởng của thời đại, Hamlet hội đủ mọi tố chất của một con người phục hưng. Chàng là một hoàng tử thông tuệ, Ôphêlia ca ngợi “một tâm hồn cao quý (…) đôi mắt của nhà thông thái, thanh gươm của trang hiệp sĩ; miện lưỡi của người hào hoa, niềm hi vọng, đóa hồng tươi của quốc gia gấm vóc, gương sáng của thời trang, kiểu mẫu của mọi người” [tr.96]. Ngoài ra, Hamlet còn là một đạo diễn tài ba, một trí thức am hiểu sâu sắc nhiều phương diện cuộc sống… Sêcxpia trao cho chàng hai nhiệm vụ: báo thù cha và xây dựng thời đại. Hamlet với trách nhiệm, bổn phận hoàng tử của mình – người sẽ gánh vác vai trò đúng đầu nhà nước – lại thiên về nghĩa vụ dựng xây. Việc kết hợp hai chủ đề này trong tác phẩm đã khiến mỗi lời nói, hành đọng của hình tượng trung tâm Hamlet thêm phần đa dạng. Người đọc, người nghiên cứu có thể khai thác ý nghĩa theo nhiều cách khác nhau.

Như vậy, khi viết tác phẩm này Sêcxpia đã kế thừa những người đi trước một phần đáng kể cho cốt truyện và những tình tiết cơ bản. Nhưng chỉ có ông thì chuyện Amleth mới trở thành bi kịch Hamlet với tất cả giá trị có thể bất chấp thời gian, không gian tường tồn như một kì quan nghệ thuật.
Cống hiến to lớn của Sêcxpia là đã cải biến câu chuyện trả thù mang tính chất riêng tư của người xưa thành một vở kịch phản ánh sâu sắc những đặc trưng của thời đại ông, nói lên được những nỗi băn khoăn trăn trở về lẽ sống, về ước vọng của người thời đại ấy một cách vô cùng thống thiết. Đó là một tác phẩm kết hợp tuyệt vời giữa thi ca và triết học, giữa nghệ thuật và tư tưởng, giữa sân khấu và cuộc đời.

2.1.2. Nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch.
Một phương diện rất đặc sắc khác của nghệ thuật bi kich của Sêcxpia là nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Sêcxpia có biệt tài trong việc chuyển một câu chuyện cũ thành kịch. Muốn làm được công việc này thì phải quan tâm trước hết đến việc tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch. Ở kịch lịch sử hoặc ở hài kịch, ông cũng đã làm tốt công việc này. Tuy nhiên, đến thể loại bi kịch thì tài năng này càng phát huy hết sức mạnh của ngòi bút ông.

Hãy xem ông đặt nhân vật của mình vào tình huống bi kịch và dẫn dắt chúng qua các tình huống đầy mâu thuẫn, để chúng đối đầu với các tình huống ấy và đối địch với nhau; chẳng những thế mà còn để chúng bộc bộ những mâu thuẫn bên trong của chúng…thì mới thấy hết công phu tạo dựng nên kịch của ông. Tình huống trước làm nảy sinh xung đột, những xung đột này làm nảy sinh mâu thuẫn mới xô đẩy nhân vật vào trong tình huống mới…Cứ thế lớp mâu thuẫn trước gọi lớp mâu thuẫn tiếp theo vì vậy mà trong các hành động của Sêchxpia diễn ra như một chuổi mâu thuẫn và xung đột căng thẳng, khẩn trương, cuồn cuộn như con gió lốc.

Hành động kịch của Sêchxpia là duy nhất nhưng không phải là đơn nhất. Bên cạnh hành động chính, ông thường đưa thêm hành động phụ nhằm mở rộng và khoét sâu thêm mâu thuẫn, khiến cho tấn bi kịch mà ông trình bày càng mở rộng thêm về kích thước, quy mô, càng gay gắt thêm tính chất, mức độ.

Trong tác phẩm Hamlet, Hamlet hiện lên như là một biểu tượng đẹp của con người Phục hưng. Là hoàng tử nhưng Hamlet vẫn say mê học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nươc. Tâm hồn chàng đầy lạc quan, tin tưởng ở con người –“Kì diệu thay là con người ! Con người cao quý làm sao về mặt lí trí, vô tận làm sao về mặt năng khiếu! Hình dung và dáng điệu mới giàu ý nghĩa và đánh kính làm sao! Trong hành động như thần tiên, về trí tuệ ngang tài thượng đế! Thật là vẻ dẹp thế gian, kiểu mẫu của muôn loài” [tr75]. Nhưng sau cái chết của cha và sau khi biết rõ nguyên nhân, Hamlet cay đắng: “đàn ông không làm cho tôi vui được, không đàn bà cũng vậy nữa”. Chàng nhiếc móc cuộc đời: “trời hỡi trời ! Bao nhiêu lạc thú trên đời này đối với ta sao chán chường, nhạt nhẽo và vô vị đến thế. Bẩn thỉu thay là đời. Ôi! Bẩn, bẩn! Chỉ là một cái vườn hoang mọc lên từ hạt giống độc, đầy rẫy những cây cỏ thối tha” [tr28].

Từ niềm tin, chàng chuyển sang hoài nghi, hoài nghi hết thảy. Thực tế cuộc sống tráo trở càng mài sắc thêm nỗi đau khổ của chàng. Chú ruột là thủ phạm giết cha, mẹ thì phản bội chồng và rơi vào chăn gối loạn luân, người yêu thì cam tâm làm kẻ do thám, bạn bè bội phản, quần thần thì toa rập theo cái xấu… Hamlet hoài nghi. Hoài nghi ở Hamlet gắn với sự nhẫn nhịn để cân nhắc, tìm ra giải pháp tối ưu, “lòng ta ơi, hãy cố nén lại” [tr48]. Hamlet hoài nghi để hành động. Từ hoài nghi đến do dự.

Chỉ còn lại một mình khi cha mất, mẹ đứng về phía khác. Cơn cùng quẫn khiến cho chàng: “Ôi thịt da rắn chắc, quá rắn chắc này hãy chảy ra đi, tan biến đi; biến thành giọt sương! Mong sao đáng bất diệt kia đừng trừng phạt kẻ tự hủy hoại mình [tr.28]. Nhưng rồi hồn vua cha giục chàng hay đứng lên đi báo thù. Nhưng chàng lại cô đơn, một mình. Chỉ mình chàng đương đầu tất cả. Chàng phải làm sao đây. Dũng cảm quyết tử hay một phen ngồi ngắn thở dài.

Và rồi cái dũng mãnh đã thắng thế, sức mạnh của Hamlet tăng lên bội phần khi có trí tuệ soi đường: “thật là nguy hiểm cho những kẻ yếu hèn đứng xen vào giữa hai mũi gươm nóng rực của hai kẻ thù dũng mãnh” [tr.182]. Hamlet quyết ra tay giết Clôđiut báo thù, nhưng rồi khi định hành động, chàng lại lưỡng lự. Cứ thế càng lưỡng lữ thì chàng càng thấy mình bất lực hơn. Và rồi để kẻ thù hoài nghi và ra tay hại lại chàng…

Tóm lại, bằng nghệ thuật tạo dựng và dẫn dắt hành động kịch đã khiến cho vở kịch Hamlet trở nên cuốn hút, li kì, tạo nên nhiều những sự kịch tính trong tâm khảm nhân vật Hamlet và trong cả toàn bộ vở kịch. Chính nghệ thuật này mà Sêcxpia đã dẫn dắt người đọc đi đến hết sự kiện này đến những sự kiện khác, đến những mâu thuẫn, những sự quy tụ của vô khối xung đột trong tác phẩm, xung đột cá nhân, đến gia đình, đến xã hội, xung đột giữa bên trong và bên ngoài tâm lý…

2.1.3. Nghệ thuật xây dựng xung đột kịch.
Xung đột kịch là đặc điểm về đề tài và chủ đề của cả kịch bản văn học. Tác phẩm văn học thông qua việc phản ánh hiện thực, nêu lên một vấn đề trước mắt công chúng không thể trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến những mâu thuẫn trong cuộc sống. Những mâu thuẫn này mặc dù có những dạng thái, mức độ tình cảm khác nhau, nhưng đều tồn tại trong hiện thực. Nhưng chỉ đến một giai đoạn phát triển nhất định thì những mâu thuẫn mới trở thành xung đột đối lập hoặc bộc lộ những bản chất của hiện thực. Nhưng do không hạn chế về không gian và thời gian nên tiểu thuyết có thể phản ánh những mâu thuẫn trong cuộc sống một cách tỉ mỉ và sâu rộng. Nó có thể đề cập đến những mâu thuẫn trong trạng thái manh nha, âm ỷ, cũng như ở giai đoạn đối lập, đấu tranh, xung đột. Nhưng kịch bản văn học chủ yếu là để trình diễn trên sân khấu – xét từ hai mặt trình diễn cũng như thưởng thức, phải chịu hạn chế về không gian và thời gian. Ta không thể đánh đồng thời gian trên một cách thô thiển không gian, thời gian trên sân khấu đích thực với không gian thời gian ước lệ trên sân khấu. Cần thiết và có thể phân biệt một cách dễ dàng không gian và thời gian của câu chuyện ngoài đời được mô tả trong kịch bản văn học với mấy chục mét vuông bà ba, bốn tiếng đồng hồ của một đêm diễn trong rạp kịch. Các kịch tác gia xưa nay, với những thủ pháp ước lệ cả nghệ thuật nói chung, của kịch nói riêng, có thể phóng đại không gian, thời gian sân khấu đích thực lên gấp nhiều lần để phù hợp với không gian, thời gian của câu chuyện kịch, nhất là với những thành tựu khoa học hiện đại. Mặc dù vậy kịch bản văn học không thể nào như tiểu thuyết, muốn mở ra bao nhiêu cảnh trí, trường diện với những thời gian và địa điểm khác nhau bao nhiêu cũng được. Nhưng là nghệ sĩ, nhà văn kịch tác gia vẫn mong muốn và cần phải phản ánh cuộc sống bản chất đến mức tối đa có thể được. Chính vì thế họ buộc phải hướng vào những mâu thuận nào trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Xung đột do đó là đặc điểm cơ bản của kịch.

Ở vở bi kịch Hamlet, Sêcxpia đã khéo quy tụ vô khối xung đột, tạo nên tầng tầng lớp lớp mâu thuẫn đan xen, quyện chặt lấy nhau: xung đột cá nhân, xung đột gia đình, xung đột xã hội, xung đột bên trong, xung đột bên ngoài, xung đột đơn (Hamlet – Clôđiut), xung đột kép (Hamlet – Clôđiut – Laơctơ), xung đột bi kịch xen lẫn xung đột hài kịch…Xung đột nào cũng lên tiếng dành quyền nói tiếng nói cuối cùng về phía mình.

Xung đột kịch cũng được Sêchxpia thể hiện rất rõ qua nhân vật Hămlét. Đó là sự xung đột của Hămlét với thế giới xung quanh và xung đột ngay trong chính bản thân Hămlét.

Nói đến xung đột giữa Hămlét và thế giới xung quanh được khởi nguồn từ cái chết đột ngột của vua cha vvà sự tái giá vội vàng của người mẹ, mà Hămlét mỉa mai là “thịt quay trong đám tang làm đồ nguội trong đám cưới” làm cho Hămlét mất niềm vui về cuộc đời nhưng chàng lại được một cái nhìn mới về cuộc đời, nhìn vào mặt trái của nó. Từ những bộ mặt thâm độc, xảo trá, từ tình an hem, tình vợ chồng, tình bạn, tình yêu đảo điên, phản loạn. Hămlét đã rút ra một kết luận có tính khái quát: Thế giới là một nhà tù mà Đan Mạch là nhà tù ghê tởm nhất. Cho nên, khi sự thật được khám phá ra thì nó vượt giới hạn của một gia đình để đi đến một giới hạn rộng lớn hơn mà “nội dung và quy mô của nó bao quát toàn bộ những vấn đề có tính chất quốc gia và quốc tế rộng lớn”.
Phát hiện ra thế giới là một nhà tù cũng có nghĩa là Hămlét tự đặt mình trong sự xung đột với môi trường, nhưng cũng chưa phải là xung đột bi kịch. Nhiệm vụ mà Hămlét đặt ra cho mình quá cao đẹp: Dẹp yên mọi nỗi bất bình trongg khi bản thân chàng lại rơi vào tình huống cô độc và có nguy cơ bị tiêu diệt. Xung đột bi kịch của Hămlét, theo cách nói của Goethe là ở chỗ “Một sự nghiệp quá lớn đặt trên một đôi vai quá yếu”.

Rồi đến xung đột trong bản thân Hămlét, xung đột bi kịch giữa cá nhân và xã hội chỉ là tiền đề của những xung đột bi kịch thực sự xẩy ra bên trong Hămlét. Thực tế phủ phàng của cuộc đời đã làm cho Hamlet chán chường tất cả, Hămlét luôn tự mâu thuẫn với mình, tự mình giấy lên những cảm xúc đối nghich. Sự xung đột giữa tinh tưởng và hoài nghi là một hình tượng có nội dung lịch sử của thời đại Phục Hưng. Nó là sự phản ánh của hai mặt: Huy hoàng và đen tối của chủ nghĩa tư bản. Ngay từ lúc nó đang sinh thành và trên đà phát triển giữa hai mặt đó, trọng lượng vẫn rơi về phía hoài nghi đó, cho nên gia đình chủ yếu vẫn là gia đình của cái bi. Những cái bi ở đây lại mang một ý nghĩa tích cực, vì sự hoài nghi đối với chủ nghĩa tư bản là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với những ai còn ảo tưởng về nó. Bao trùm lên tất cả những mâu thuẫn nội tâm Hamlet là sự trăn trở giữa “sống hay không sống”. Đây là mối xung đột cơ bản nhất nó huy động toàn bộ trí tuệ của Hamlet vào việc suy nghĩ và giải quyết vấn đề lớn của thời đại lẽ sống.

Theo Sêchxpia đi qua từng vở kịch. Chúng ta thấy được cái tài của ông là xây dựng từng xung đột trong các vở kịch khác nhau, xung đột kịch của Sêchxpia không chỉ do những mâu thuẫn đơn thuần mà nó liên tiếp diễn ra thông qua từng hành động kịch. Với nghệ thuật này mà các vở bi kịch của ông nói chung, và bi kịch Hamlet nói riêng lên đến cao trào, đậm chất kịch, luôn luôn lôi cuốn bởi những cao trào đỉnh cao của sự xung đột.

2.1.4. Nghệ thuật điển hình hoá trong cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật.
Thành tựu nổi bật nhất, cống hiến xuất sắc nhất của bi kịch Sêcxpia là nghệ thuật điển hình hoá.
Sêcxpia thường đặt nhân vật của ông vào một chuỗi những tình huống đầy mâu thuẫn, phức tạp, do đó mà toàn bộ tính cách của nó được bộc lộ ra hết, bản chất của nó cũng được phơi bày rõ rệt. Trong khi Sêcxpia xây dựng nhân vật, ông rất chú ý đến việc mổ xẻ nó, phân tích cái quá trình diễn biến tâm lý của nó trước mỗi tình huống mà nó gặp phải. Ông quan tâm mô tả không phải chỉ “cái việc mà nhân vật làm” mà đến cả “cái cách mà nhân vật làm” nữa. Chính nhờ vậy mà nhân vật của ông được cá tính hoá cao độ. Trong cái thế giới đông đúc mà ông miêu tả trong kịch của mình, mỗi nhân vật là một cá thể xác định, là “con người này” (chữ dùng của Ăngghen). Nhưng con người đó, với sự đa dạng phong phú, phức tạp trong tính cách của nó, lại không phải là một con người cá biệt, nó phản ánh được tâm lý, tính cách của một kiểu người, một lớp người nhất định. Nói khác đi, nó đã được điển hình hoá. Với Sêcxpia, cái cốt lõi của nghệ thuật điển hình hoá nhân vật chính là nghệ thuật hoá tính cách của nó.

Sêcxpia đã xây dựng một nhân vật điển hình rất sinh động, có chiều rộng và chiều sâu, một nhân vật dường như đang sống trong thực tế với toàn bộ cân não và trái tim, ngay cả với tiềm thức nữa. Mặc dầu hoài nghi và mỉa mai công kích tất cả, Hămlet vẫn mang trong người một trái tim yêu đương nồng cháy, một tình bạn chân thành, và trong thâm tâm chàng vẫn tin tưởng ở sự chiến thắng cuối cùng của lẽ phải, của chính nghĩa, bởi vậy hành vi của chàng luôn luôn cao quý, thẳng thắn, đại lượng. Hình tượng Hamlet không ngừng lớn lên trong diễn biến của kịch, bởi vì nội tâm nhân vật có quá trình phát triển sâu sắc của nó. Từ chỗ hoài nghi chán nản, Hamlet dần dần xác định được nhận thức về thế giới khách quan, tìm lại được nghị lực sống, và để chống lại cái ác, chàng đã trở nên kiên quyết hơn, khôn ngoan hơn, dũng cảm hơn. Một nhân vật như thế, thật là phức tạp mà cũng thật là sinh động, hiện thực.

Ngòi bút hiện thức của Sêcxpia không những chỉ thành công ở nhân vật chính Hamlet, mà còn thành công ở những nhân vật thứ yếu và nhân vật phụ nữa. Bất kỳ nhân vật xuất hiện nhiều hay ít trên sân khấu, ở đâu chúng ta cũng nhìn thấy những con người rất độc đáo và điển hình: Clôđiut, chú ruột của Hamlet là một kẻ nham hiểm, miệng ngoài luôn luôn đường mật mà bụng dạ gươm dao; Pôlôniut, một lão già ti tiện, giả dối lại nghiêm khắc và độc đoán, tính hay giễu cợt mà xiểm nịnh, sâu cay; Giectrut, một người đàn bà yêu con nhưng sa ngã, nhẹ dạ, yếu đuối; Ôphêlia, một người con gái có trái tim chung thủy, nhưng lại sợ lễ giáo, cường quyền; Hôraxiô, một thư sinh lúc nào cũng nói giọng học thức, một người bạn trung thành và dũng cảm; Ôxric, một vai không quan trọng gì nhưng cũng được vẽ rất rõ nét, khiến người xem thích thú liên tưởng đến bao nhiêu kẻ khác như hắn, đần độn, bất tài, kiểu cách chỉ nhờ giàu sang mà leo được thang danh vọng. Từ cửa miệng của hai người đào huyệt, chúng ta cũng đủ thấy ý nghĩ của quần chúng nhân dân nước Anh thời bấy giờ đối với lập pháp, lễ nghi và cả cái xã hội mà ở đấy "mọi người đều điên cả".

Ngoài ra khi xây dựng nhân vật, Sêcxpia luôn luôn chú ý đến hoàn cảnh, kể cả hoàn cảnh chung, tức hoàn cảnh xã hội, đất nước, thời đại lẫn hoàn cảnh riêng, đó là hoàn cảnh gia đình, cá nhân và những mối quan hệ hẹp. Ông không mô tả nhiều cái hoàn cảnh đó, chỉ cần đôi nét tiêu biểu ông nêu bật bản chất. Cái tài tình là chỉ qua một đôi nét khéo chọn đó, ông đã làm nổi rõ vừa cái chung vừa cái riêng.

Như vậy, ông đã xây dựng được hoàn cảnh điển hình. Từ trong hoàn cảnh điển hình đó, đã nảy sinh các tính cách điển hình. Đây chính là sự cống hiến của Sêcxpia cho chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng mà bi kịch của ông đã góp phần chủ yếu. Sêcxpia đã khẳng định được ưu thế của thể loại bi kịch tính cách mà ông đã sáng tạo nên. Ở đây cái bi đã được soi rọi từ thế giới bên trong đầy mâu thuẫn của nhân vật. Nhân vật được tác giả miêu tả trong cấu trúc đa cực mà mỗi cực lại luôn đấu tranh, giằng xé với nhau.

Chủ nghĩa hiện thực của Sêcxpia thể hiện trong việc xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật hết sức sinh động và sắc nét. Nhà văn đã cá tính hoá cao độ nhân vật của mình khiến cho các nhân vật của ông đã là những “con người này” chứ không phải là con người chung mờ nhạt nào. Tuy nhiên không phải vì vậy mà nhân vật của Sêcxpia là một sáng tạo hoàn toàn chủ quan, phi hiện thực.

2.1.5. Biệt tài sử dụng ngôn ngữ kịch.
Ngôn ngữ kịch chủ yếu là ngôn ngữ nhân văn bởi ngoài một số chỉ dẫn hết sức ngắn gọn của tác giả ở đầu mỗi lời kịch, kịch bản văn học là một hệ thống ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của các nhân vật. Do là phương tiện cơ bản để thể hiện nội dung tác phẩm nên ngôn ngữ nhân vật trong kịch phải đạt được các tính năng sau:

Trước hết ngôn ngữ nhân vật phải được cá tính hoá, thể hiện đặc trưng tính cách của nhân vật. M.Goocki “ngôn ngữ nhân vật kịch phải biểu hiệnở mức chính xác tối đa cái gì đó điển hình”.
Ngôn ngữ nhân vật kịch cũng mang tính hành động, vì là loại ngôn ngữ biểu hiện cảm xúc, biểu hiện hoạt động trong tình huống xung đột, thể hiện kịch tính. Ngôn ngữ nhân vật kịch còn phải được khẩu ngữ hoá, do chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật. Tuy nhiên, dù mang tính khẩu ngữ nhân vật trong kịch vẫn là ngôn ngữ văn học nên thường cô đọng, hàm súc, chứa đựng nhiều tầng nghĩa.

Trong kịch không có nhân vật kể chuyện nên không có ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn ngữ nhân vật có 3 dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.

Ngôn ngữ đối thoại chiếm bộ phận lớn trong kịch bản văn học. Đối thoại là nói với nhau, nhưng không phải cứ nói với nhau là đối thoại trong kịch. Qua ngôn ngữ đối thoại các nhân vật trong vở kịch tự bộc lộ mình đồng thời thể hiện nội dung tác phẩm.

Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, các nhân vật còn sử dụng ngôn ngữ độc thoại. Độc thoại là tiếng nói nội tâm của nhân vật. ngôn ngữ độc thoại giúp người xem hiểu rõ bản chất và hiểu rõ tâm lí bên trong của nhân vật.

Ngoài ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của nhân vật, đôi khi trong kịch còn xuất hiên ngôn ngữ bàng thoại. Bàng thoại là loại ngôn ngữ hướng đến khán giả (giải thích một tình huống, một cảnh ngộ, một tâm trạng…) loại ngôn ngữ này gần giống lời giáo đầu hoặc tiếng vọng, tiếng đế trong các vở chèo

Ngôn ngữ trong kịch của Sêchxpia rất phong phú và đa dạng, Sêchxpia có năng khiếu biệt tài, kì diệu là chọn đúng và xác định được ngay ngôn ngữ thích hợp nhất, đắt nhất cho từng nhân vật để thể hiện điều mà ông muốn nói. Là nhà soạn kịch, ông có thể lựa chọn giữa bi kịch và hài kịch hoặc với kịch lịch sử. Cả ba thể loại ông đã đều thử thách qua và đều tỏ ra có biệt tài làm chủ chúng điều khiển chúng theo ý mình. Nhưng đến lúc này, để thể hiện những khám phá, phát hiện và dự báo lớn lao, sâu sắc nhất của mình, ông chọn thể loại bi kịch. Không chỉ dứt khoát chọn bi kịch, ông còn thấy rõ ở đây phải trộn lẫn cái bi và cái hài, cái bi với cái hùng, cả cái cao cả với cái ti tiện…Vì cái vấn đề mà ông đề cập đến là những vấn đề lớn lao và nghiêm trọng liên quan đến vận mệnh của con người nói chung. Của hôm nay và cả ngày mai nữa. Hài kịch hoặc kịch lịch sử do tính chất và đặc điểm của chúng không thích hợp để thể hiện những cái đó. Ngay cả bi kịch truyền thống với quan điểm tách biệt cái bi với cái hài, bi kịch với hài kịch, với các yêu cầu đảm bảo tính duy nhất về hành động và thời gian…cũng không còn đủ sức để thể hiện những vấn đề mới mẻ và lớn lao đến thế.

Ngôn ngữ của Sêchxpia là ngôn ngữ để diễn. Nó có mục đích vẻ lên trước mắt khán giả một hình ảnh quen thuộc nhờ đó họ đi sâu vào nội dung tư tưởng. Như nhà thơ Grây nói: “mỗi lời của ông là một bức tranh”. Điều đó là một việc thiết yếu trong hoàn cảnh diễn kịch lúc bấy giờ.

Hamlet là một trong những của tài năng sử dụng ngôn từ của Shakespeare. Cũng với cách pha trộn giữa bi kịch và hài kịch, những câu nói đầy suy tư và triết lý bên cạnh những lời lẽ hàng ngày, độc thoại xen lẫn với đối thoại một cách hài hòa, nhịp nhàng để góp phần thể hiện con người bên trong và con nguời bên ngoài của nhân vật.

Đối với từng nhân vật, Shakespeare cá tính hóa một cách sâu sắc. Mỗi nhân vật của ông đều có khẩu khí riêng. Ngôn ngữ của ông giàu hình ảnh và giàu tính biểu tượng, ông để cho nhân vật Hamlet gọi cuộc đời trước mắt là “một vườn hoang đầy cỏ rác thối tha”, gọi nước “Đan mạch là một ngục thất”, gọi cái chết “là một thế giới huyền bí mà vượt biên cương thì không một du khách nào quay trở lại”... Để lột trần chân tướng hay tạo chân dung cho nhân vật Shakespeare đã dùng một lối mỉa mai sâu cay: Colonius được ông gọi là “một thằng sát nhân, một gã đê tiện, một tên vô lại...một tên vua hề, một thằng ăn cắp ngai vàng và quyền uy, xoáy trộm vương miện để bỏ vào túi áo...”; gọi tên nịnh thần Polonius là một tay lái cá; thậm chí để Hamlet mỉa mai mình là: “một kẻ khốn khiếp đần độn”, “một thằng hèn nhát”, “một con đỉ”, “một loài súc vật”. Đối thoại của các nhân vật cũng rất sắc sảo đặc biệt là những đoạn đối thoại giữa Hamlet và mẫu hậu Gertrude...

Ngôn ngữ trong bi kịch Hămlet là một ngôn ngữ rất điêu luyện. Đặc biệt ở đây, để diễn tả tính cách và tâm lý phức tạp của nhân vật trong mỗi tình huống, ngoài việc vận dụng những hình tượng ẩn dụ rất phong phú, Sêcxpia đã vận dụng đến cao độ phương tiện nhịp điệu. Ngôn ngữ tinh vi này làm cho tác phẩm toát ra một nội dung triết lý sâu sắc và màu sắc trữ tình rất nên thơ.

Có khẳng định lại rằng, kịch của Sêchxpia nói chung và vở Hamlet nói riêng là một kho ngôn ngữ vô tận, kho ngôn ngữ đó kết hợp rất nhiều tục ngữ, thành ngữ, câu đố bài hát dân gian…Ngôn ngữ của Sêchxpia là phương tiện hết sức đắc lực làm nổi bật tính cách của nhân vật, nó cũng nói rõ nhân vật thuộc tầng lớp xã hội nào, nghề nghiệp nào. Nhà văn “có chiếc lưỡi đường mật” này dùng ngôn ngữ mà cảm hoá chúng ta, làm chúng ta phải cùng tác giả yêu, ghét, căm, thù…Ngôn ngữ ấy của nhà thơ lại thường xuyên biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh và tâm lý tính cách của nhân vật. Ngôn ngữ đó khi đanh thép, khi hùng hồn, khi tha thiết, khi lại não nuột như một tiếng thở dài. Và ta thấy Sêchxpia chẳng những đã phá vở những giới hạn ngoặt nghèo, cũ kĩ mà còn sáng tạo ra nhiều biện pháp mới, mở ra những chân trời bao la cho nghệ thuật nói chúng.

2.2. Hamlet – Một tác phẩm rất riêng với những màn độc thoại khắc họa tính cách nhân vật.
Ngòi bút hiện thực của Sêchxpia chú trọng mô tả cả ngoại diện cuả nhân vật trong khi đào sâu tâm lí bên trong của nó, tâm lí các nhân vật của Sêchxpia biến đổi không ngừng, phù hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh khách quan mà nó tiếp xúc và được thử thách. Mô tả được quá trình chuyển biến đó là một đóng góp của Sêchxpia cũng như chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng. Để đào sâu vào nội tâm nhân vật, và khắc họa tính cách, Sêchxpia đã sử dụng thủ pháp “phân đôi”. Có thể thấy rằng nhiều nhân vật của Sêchxpia được xây dựng bằng phương pháp này. Hamlet là một bằng chứng tiêu biểu nhất. Hình như có hai con người trong bản thân nhân vật này. Con người hành động, luôn nghĩ đến sứ mạng của mình đối với thời đại và nghĩa vụ đối với cha, luôn phê phán con người hoài nghi, do dự trong Hamlet. Nhân vật của Sêchxpia một khi đã bước lên sân khấu là có một cuộc sống riêng của nó, nó cứ thế lớn lên trong những xung đột với hoàn cảnh, với nhân vật khác, và trong những đấu tranh của nhân vật đó. Sêchxpia tôn trọng quy luật phát triển ấy của nhân vật mình và thường dữ được thái độ khách quan, “không biến nhân vật thành ra chỉ là những người phát ngôn cho tình thần của thời đại”hoặc cho tư tưởng của chính mình.

Độc thoại nội tâm của nhân vật thể hiện rất rõ nét trong nhân vật Hamlet. Hamlet là hình tượng văn học đầu tiên có một thế giới nội tâm phong phú và phức tạp. Dưới ngòi bút của Sêchxpia, Hamlet đã hiện lên như một con người biết tự mổ xẻ chính bản thân mình, tự khắc phục những khuyết điểm, thiếu xót của chính mình để thực hiện cho bằng được lí tưởng của mình và điều đó đã làm cho nhân vật trở thành người “ khổng lồ” chiếm lĩnh đỉnh cao của tư tưởng thời đại.

Đặc tính nổi bật của Hamlet là luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát hiện bản chất của mọi sự kiện, biến cố đang diễn ra xung quanh chàng và ngay trong con người chàng. Bởi vậy Hamlet là con người của trí tuệ lớn biết đặt ra trong mình sứ mạnh nhận thức, khám phá thế giới và cải tạo thế giới. Sau cái chết của vua cha, người tượng trưng cho kiểu mẫu Phục hưng, Hamlet bị ném ra bên lề cuộc đời. Mặc dù những kẻ trong cuộc mời mọc, hứa hẹn nhưng chàng hiểu rõ mình không thuộc thế giới của họ. Cuộc chơi của những kết cánh, độc ác, lộc lừa, thủ đoạn…không phải là cuộc chơi của Hamlet. Chàng muốn tìm, muốn trong thấy thế giới khác. Không phải ngẫu nhiên mà Sêchxpia để Hamlet băn khoăn nhiều về ý nghĩa của sự sống và cái chết. “Chết” theo Hamlet là “ ngủ. Không hơn”. Tuy nhiên, những ai chọn cái chết khi chưa thực hiện xong nghĩa vụ tranh đấu cho lẽ phải trên đời thì sẽ không có giấc ngủ bình yên, “ vì, trong giấc ngủ của cõi chết, khi ta đã thoát khỏi cái thân xác trần tục này, những giấc mơ nào sẽ tới, điều đó làm ta dừng lại và suy nghĩ. Chính điều đó gây ra bao tai hoạ cho cuộc sống giằng giặc này”. Cũng còn một kiểu chết nữa, tuy Hamlet không trực tiếp nói rõ nhưng ta vẫn hiểu “ con người còn có ra gì, nếu đem tất cả phần tinh tuý và giá trị của đời mình vào việc ăn, việc nghĩ? chỉ là con vật, không hơn. Thật thế”. Do vậy con người cần phải sống. Sống đồng nghĩa với hành động vì lẽ thiện, “ sống, hay không nên sống – đó là vấn đề”. Chịu đựng tất cả những viên đá, những mũi tên của số mệnh phủ phàng, hay là cầm vũ khí vùng lên mà chống lại để maf tiêu dệt chúng đi. Lẽ tất nhiên, Hamlet sẽ chọn con đường “ cầm vũ khí vùng lên”.

Độc thoại giữ vai trò hết sức quan trọng trong Hamlet. Đây là những điểm kết tinh tư tưởng và ý đồ nghệ thuật sâu sắc của tác giả. Tâm lí của Hamlet có phần thể hiện qua các đối thoại nhưng những đấu tranh nội tâm thực sự thì lại được thể hiện qua độc thoại. Kiểu khai thác tâm trạng bằng hình thức ngôn từ này là sự cách tân độc đáo của Sêchxpia. Nó mở đường cho các cây đại thụ văn chương nhiều thế kỷ sau không chỉ trong kịch mà cả trong văn xuôi..

Khảo sát toàn tác phẩm ta thấy độc thoại của Hamlet rải rác tương đối nhiều từ trang thứ nhất đến trang thứ 142. Tỉ lệ bình quân cách nhau 18 trang. Độc thoại đa số là ngắn gọn. chúng đảm nhiệm ba chức năng chính: phô bày con người thực Hamlet, đưa ra kết luận cô đọng theo kiểu triết lý về các tình huống Hamlet vừa trải qua và định hướng hành động Hamlet tiếp theo.

Tóm lại qua bằng thủ pháp nghệ thuật này, chúng ta cũng có thể thấy được tài năng nghệ thuật của Sêchxppia, một tài năng không ai có thể sánh kịp. Vì vậy mà Vichto Huygô, Ơnixt Hemingway, Wiliam Fốcknơ, Macket…đều suy tôn Sêchxpia là bậc thầy, một phần là ở kĩ thuật ngôn từ này.

2.3. Hamlet – Đặc tính bi hài trong kịch Sêcxpia.
Aristot phân chia thành bi kịch và hài kịch. Bi kịch liên quan đến số phận nhân vật đáng kính trọng, còn hài kịch tái hiện sự ngớ ngẩn hoặc những động thái ti tiện, kẻ đồi bại xấu xa. Nhân vật bi kịch ẩn đằng sau chiếc mặt nạ của nỗi buồn tu sĩ, nhân vật hài kịch khoác bộ mặt giả, đã được bóp méo một cách tục tĩu, chẳng có nhân vật trung gian nào giữa chúng.

Đến kịch Sêchxpia, có đóng góp quan trọng mang tính cách mạng trong sáng tạo kịch của ông. Ông loại bỏ tính kiên cưỡng phân chia rạch ròi thành hai loại bi và hài kịch. Theo ông chúng luôn đan quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên các chất giọng, tình huống đặc biệt cho kịch Sêchxpia. Giai đoạn sáng tác của ông trước năm1600, yếu tố hài và niềm lạc quan lấn át tính bi và niềm bi quan. Còn sau năm 1600 thì tình hình diễn ra theo chiều hướng ngược lại, Hamlet ra đời 1601 là đỉnh cao cho bước chuyển biến đó.

Hamlet vở bi – hài tiêu biểu nhất của Sêchxpia. Qua xung đột giữa cái tốt và cái xấu đã làm các yếu tố bi – hài lần lượt xuất hiện. Sự thắng thế của cái xấu càng làm tăng thêm tính bi đát, khôi hài của vở kịch.

Hamlét ngã xuống, nói như Rôbơtspai là “sụp đổ dưới gánh nặng và những người như thế thường gặp phải và người trả thù trở thành nạn nhân của hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ báo thù của mình”. Và ông cũng phát hiện ra nguyên nhân khiến Hamlet trở thành vở kịch có sức hấp dẫn độc giả nhất. “ Đằng sau xung đột bên ngoài Clôđiút là xung đột nội tâm của Hamlet. Sự lưỡng phân này chỉ hiện rõ trong hầu hết các vở kịch. Hamlet là chuyện về một con người xã hội kiêm con người đời tư, xuất hiện trong cùng lúc. Đây là lí do để vở kịch quyến rũ mọi người tuy Hamlet không phải là mọi người”.

Hamlet là vở kịch đặc biệt. Ngay từ lúc mới ra đời nó đã “ lập tức nổi tiếng” và qua thời gian nó “ thể hiện được sự trường tồn của danh tiếng ấy. Vở kịch có ảnh hưởng sâu rộng đến văn hoá phương Tây và Hamlet của Sêchxpia đã đi vào thế giới huyền thoại.

Hamlet là đỉnh cao nghệ thuật của Sêchxpia. Sở dĩ được đề cao như vậy là do bản thân vở kịch quy tụ được những nguyên tắc sáng tạo độc đáo nhất của Sêchxpia. Mà nhờ đó Sêchxpia trở thành nhà soạn kịch lỗi lạc nhất thế giới. Khẳng định vai trò của Sêchxpia trong việc cách tân thể loại kịch. Pitơconrat đặt ông trong tương quan của những cách tân văn học Anh: “ Nét độc đáo thực sự của văn học Anh là việc thể hiện mình trong khả năng lập lại trật tự từ các mối quan hệ giữa những thể loại cổ điển: sự xuống cấp của anh hùng ca, sự hợp nhất của nó với truyện anh hùng hiệp sĩ và thơ điền viên. Cũng thế, kịch đã làm phá sản nền lí thuyết cổ điển. Arixtốt xuống chiếu phân chia kịch thành bi kịch, liên quan đến những số phận đáng kính trọng, và hài kịch, tái hiện sự ngớ ngẩn hoặc những động thái ti tiện của kẻ đồi bại hay xấu xa, những kẻ đáng được xem là ngu ngốc. Nhân vật bi kịch ẩn đằng sau chiếc mặt nạ của nỗi buồn tu sĩ, nhân vật hài kịch khoác bộ mặt giả, đã được bóp méo một cách tục tĩu. Chẳng có chủng loại trung gian nào giữa những chủng loại trên quyết định phớt lờ sự tách biệt này của Sêchxpia là đặc trưng quan trọng nhất trong kịch của ông. Không một vở kịch nào của Sêchxpia có thể phân chia thành bi kịch hay hài kịch. Chủng loại của chúng, ngược đời thay, là chungt loại trung gian: Bi – hài kich”.

Yếu tố hài trong Hamlet thường gắn với yếu tố bi, nhìn ở góc độ này là bi nhưng nhìn ở góc độ khác là hài. Vậy nên mọi việc tách rời để phân tích chỉ mang tính tương đối. Đặc điểm này thể hiện ngay trong chính câu nói của Clôđiút: “Tuy vương huynh Hamlet thân yêu của trẫm mất đi, kỉ niệm hãy còn tươi xanh, đáng lẽ chúng ta phải giữ niềm đau buồn trong long, cả đất nước phải rầu rĩ tang tóc; vậy mà lẽ phải với thương tình chẳng dung nhau, thương tiếc người là hợp tình nhưngg cũng còn phải ngĩ đến bản thân chúng ta; chính vì thế mà chị dâu trước của Trẫm, giờ đây là hoàng hậu, người kế tục ngôi báu của đất nước thượng võ này. Trẫm đã cùng người se duyên, long vừa mừng vừa đau, một bên mắt chói ngời hạnh phúc, một bên đau buồn rơi lệ, cười trong tang tóc, khóc trong hôn lễ,bắc cân lên, niềm vui và nỗi buồn thật quá đều nhau”.(Trang24). Bi – hài ở đây trộn lẫn trong cái nhìn ích kĩ, cái nhìn của một anh chàng tư sản đang làm phá sản những giá trị nhân văn Phục hưng. Cái bi thể hiện qua việc những giá trị truyền thống – những chân giá trị của thời Phục Hưng – lại không phù hợp với thời hiện tại nữa. Còn cái hài ở đây là những sự việc bất thường, trái đạo lí ấy lại được cả triều thần tán đồng. Vẫn là lời Clôđiút: Mà Trẫm vẫn không làm gì trái với những lời khuyên rất sáng suốt của các khanh đã tự ý phò trẫm trong việc này (trang24).

Đỉnh cao của giọng lưỡi bi – hài kịch ở Clôđiút được tập trung ở những lí lẽ y viện dẫn để khuyên giả Hamlet trước nỗi buồn mất cha: Cháu nên biết là thân phụ cháu cũng đã từng mất thân phụ của người, và chính người thân phụ ấy cũng đã từng mất thân phụ của mình…lẽ phải thường tình là một người cha đều phải chết; từ khi có cái thi hài đầu tiên cho đến người chết hôm nay, lẽ phải đó luôn luôn kêu lên: “ Ấy là việc tất nhiên!”( Trang 27). Dùng quy luật tự nhiên để bao biện cho hành động tội lỗi của mình; Clôđiút đích thị là một con rắn độc. Cái hài ở đây toát lên qua việc để một kẻ phi đạo đức lại đi giảng đạo lí cho một người đạo đức. Vì lẽ này mà Clôđiút hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật hài. Dĩ nhiên, y không ý thức được điều đó. Trong khi đó Hamlet là kiểu mẫu cuủa nhân vậ bi. Cái bi ở Hamlet cũng hàm chứa cái hài một khi tác giả đặt chàng vào một tình huống bi hài nào đó:

Hămlét – huyệt này là của ai thế bác?
Người đào I, của tôi đấy, tiên sinh ạ…
Hămlét: Tôi cho rằng huyệt này đúng của bác thực vì bác ở trong ấy.
Người đào I: Còn tiên sinh thì ở ngoài, nên chẳng phải là huyệt của tiên sinh. Về phần tôi, tôi không nói láo đâu dù tôi không nằm trong này cũng là huyệt của tôi.
Hămlét: Bác nói láo, ở trongg đó mà dám bảo rằng huyệt của bác. Huyệt là của người chết, đâu phải của người sống; thế là bác nói láo.
Người đào I:Đó là một lời nói láo sống sượng, thưa tiên sinh. Tôi nói láo thành thử tiên sinh cũng bị lây” (Trang 170).

Biện pháp hài ở đây là sử dụng yếu tố trái tự nhiên. Huyệt được dùng cho người chết thì người sống lại nhận là của mình. Nhưng qua đó, lời thoại ẩn dấu một cái bi: Nỗi khổ của người lao động, dù ở trong hay ở ngoài thì huyệt ấy vẫn cứ là huyệt của người đào. Còn Hamlet, thoạt tiên chàng chỉ đùa “Huyệt của bác vì bác ở trong ấy”, nhưng trước lời nói biểu lộ sự bi đát của kiếp người, chàng phản bác: Không phải là huyệt của bác. Đến đây, người đào huyệt kia dường như hiểu được ý nghĩ sâu sắc của chàng nên kết luận: chỉ nói láo mà thôi. Lời thoại thấm đẫm yếu tố hài nhưng biên dưới là dòng chảy ngầm của cái bi.

Hamlet là vở bi – hài kịch tiêu biểu nhất của Sêchxpia. Qua xung đột giữa cái tốt và cái xấu đã làm các yếu tố bi hài lần lượt xuất hiện. Sự thắng thế của cái xấu đã làm tăng thêm tính bi đát, khôi hài của vở kịch. Hamlet, Clôđiút…vừa là nhân vật bi kịch, vừa là nhân vật hài kịch. Cái bi – hài của Hamlet toát lên ở chỗ nhân vật mang khát vọng, dục vọng thật lớn lao nhưng kết quả thì không được như ý muốn. Còn cái xấu, cái ác, cái kệch cỡm…phải bị tuyệt diệt thì lại nhỡn nhơ tồn tại lên mặt cái tốt đẹp, nhân văn.

Với Hamlet, có lẽ Sêchxpia muốn tạo nên một vơt kịch cân bằng giữa niềm vui và nỗi buồn, như cách nói của Clôđiút. Nhưng cuộc đời thì làm ggì có được sự cân bằng đó, nên vở kịch dù được Sêchxpia long ghép vào đó nhiều chuyện vui nhưng âm hưởng chung thì lại không như vậy.
Cái hài, về bản chất, là xuất hiện để dùng tiếng cười tống tiễn cái xấu, cái già cỗi, lỗi thời…Nhưng ở Hamlet, cái hài lại được dùng để khóc cho sự suy tàn của lí tưởng nhân văn Phục Hưng. Có lẽ chính Sêchxpia vẫn ý thức được, chủ nghĩa tư bản, ngay thời kì trong nước tuy đã bộc lộ nhiều điểm xấu nhưng không phải không có những mặt tích cực phù hợp với thời đại. Vậy nên, Hamlet không hề chống lại xu hướng tất yếu của thời đại – sự hình thành tư bản – mà chỉ chống những mặt trái, mặt xấu xa của nó mà thôi.

2.4. Hiệu quả của việc sử dụng nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia qua vở bi kịch Hamlet.
Qua tìm hiểu nghệ thuật bi kịch của Sêcxpia nói chung và vở Hamlet của ông nói riêng, chúng ta thấy được cống hiến của ông là đã giúp cho con người
 

Đính kèm

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top