Nêu những thắng lợi về mặt quân sự cso ý nghĩa chiến lược tù 1946-1950?

[FONT=&quot]
Nêu những thắng lợi về mặt quân sự có ý nghĩa chiến lược từ 1946-1950?


Mọi người giúp em trả lời câu hỏi này với ạ. Em cám ơn nhiều![/FONT]

Bạn tham khảo những kiến thức trong Giáo trình LSVN sau:

1- Cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội

Cuộc chiến đấu của quân và dân Hà Nội diễn ra trong điềukiện so sánh lực lượng giữa hai bên rất chênh lệch.Về phía thực dân Pháp, tính đến tháng 12-1946, ở Hà Nội,chúng có 6.500 sĩ quan và binh lính được trang bị mạnh, đóngtại 45 địa điểm. Tất cả các điểm đóng quân của Pháp tạo thành một thế bao vây, chia cắt nội thành Hà Nội, khống chế nhữngnơi đóng quân và kèm chặt các cơ quan đầu não của ta. Vũ khícủa quân Pháp khá tối tân: 42 khẩu sơn pháo 75 mm, lựu pháo100 và pháo 37 mm bố trí 2 trận địa ở sân bay Gia Lâm vàtrường Anbe Xarô, có thể bắn vào hầu hết các mục tiêu trong HàNội. Lực lượng xe máy bao gồm 22 xe tăng, 40 xe thiết giáp bốtrí ở trong thành là một lực lượng cơ động phản kích mạnh. Sânbay Gia Lâm có 30 máy bay sẵn sàng chi viện cho chiến trườngHà Nội và một số vùng ven đô.

Ngoài ra, ở Hà Nội lúc đó còn có 13.000 Pháp kiều sống tậptrung trong hai khu vực nối tiếp nhau thành một dải rộng lớn cắtđôi thành phố. Trong số này, nhiều người được trang bị vũ khí;nhiều căn nhà đã trở thành những ổ chiến đấu bí mật.Một số tàu chiến của thuỷ quân Pháp khống chế đường sông,sẵn sàng chi viện cho quân Pháp ở nội thành. Với lực lượng vàcách bố trí như trên, chúng hi vọng chỉ trong 24 giờ sẽ nhanhchóng đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của ta; bao vây,chia cắt, tiêu diệt ta và làm chủ thành phố Hà Nội trong thờigian ngắn; đồng thời đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân tanói chung, thực hiện âm mưu chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh.

Biết rõ âm mưu của kẻ thù, Ban Thường vụ Trung ươngĐảng, Bộ Tổng chỉ huy chỉ đạo: Chiến khu Hà Nội không thểrơi vào thế bất ngờ, nếu đích đánh trước ta có thể quật lại ngay,trận đánh ở thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiêu biểucho tinh thần kháng chiến của cả nước, Hà Nội cần giam chânđịch ít nhất là một tháng, tạo điều kiện cho cả nước chuyển sang
chiến tranh.

Về phía ta, lực lượng vũ trang Hà Nội có 5 tiểu đoàn Vệquốc, trang bị vũ khí thô sơ và thiếu thốn: 9 khẩu đội pháo binhgồm những khẩu sơn pháo, pháo chống tăng, pháo cao xạ cũ kĩđược bố trí ở Láng, Xuân Canh, Xuân Tảo, Đào Xuyên... Ngoàira, còn có 8 trung đội công an xung phong, 1 đại đội tự vệ chiếnđấu và đông đảo nhất là lực lượng dân quân, tự vệ nội, ngoại thành (khoảng 28.500 người), trang bị chủ yếu bằng lựu đạn,dao, kiếm.

Mặc dù lực lượng rất chênh lệch, nhưng quân và dân Hà Nộivẫn ngoan cường chiến đấu. Lần đầu tiên xung trận, quân và dânta khó tránh khỏi lúng túng và thiếu sót. Có những trận đánh được chuẩn bị khá công phu, nhưng kết quả thu được chưatương xứng; có trận ta bị thiệt hại. Tuy nhiên, với khí thế nhất tềxông lên, quân và dân Hà Nội đã giành được quyền chủ động và phá tan thế trận bao vây của quân Pháp, đẩy chúng vào tìnhtrạng bị động đối phó. Chỉ trong vài giờ đầu, các chiến sĩ Vệquốc đoàn và tự vệ, với sự giúp đỡ của nhân dân, đã tiêu diệtphần lớn các ổ chiến đấu của quân Pháp.

Trong các trận đánh của quân và dân thủ đô đêm 19-12, oanh liệt nhất là trận chiến đấu bảo vệ Bắc Bộ phủ - nơi đặt trụ sở làmviệc của Bộ Nội vụ, Bộ Lao động, nhà làm việc của Chủ tịch HồChí Minh. Trận chiến đấu ở Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, Cửa Nam,nhất là ở khu chợ Đồng Xuân đều là những trận đánh tiêu biểucho khí phách anh hùng và sự kết hợp giữa lòng dũng cảm với trí thông minh, sáng tạo của các chiến sĩ cảm tử thủ đô, của nhândân ta trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp.

Từ trong khói lửa chiến đấu ác liệt, ngày 6-1-1947, Trung đoàn Thủ đô chính thức thành lập. Lực lượng của Trung đoàngồm ba tiểu đoàn, với số quân gắn 2.000 người, có cả phụ nữ,người nhiều tuổi và thanh, thiếu niên đã từng sống, chiến đấubảo vệ thủ đô trong những ngày đầu kháng chiến.

Trải qua hai tháng (19-12-1946 - 18-2-1947), quân và dân HàNội đánh gần 200 trận, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lựcđịch, giam chân chúng nhiều ngày để hậu phương kịp tổ chức,triển khai thế trận kháng chiến lâu dài; bảo vệ các cơ quan đầunão của Đảng, Chính phủ, Mặt trận di chuyển về căn cứ an toàn,bảo vệ hàng vạn đồng bào thủ đô rời thành phố về vùng hậu phương.

Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân Hà Nội tượngtrưng cho ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Namquyết đánh thắng quân đội xâm lược nhà nghề của một đế quốcđể bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.

2. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.

a. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc.


Cho đến giữa năm 1947, cuộc kháng chiến toàn quốc đã trảiqua 5 tháng. Về cơ bản, chúng ta đã đạt được các mục tiêu chiếnlược do Trung ương Đảng đề ra: "Địch thiệt hại khá nhiều ở BắcBộ... Chiến sự ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ khá hơn trước.Quân du kích của ta ở đó hoạt động dữ, đã thu được nhiều kếtquả khá"1.

Về phía thực dân Pháp, ở Bắc Bộ, tuy đã được tăng viện lên11 tiểu đoàn Âu - Phi từ Pháp sang, nhưng chúng cũng chỉ đủsức chiếm giữ một số thành phố, thị xã (Hà Nội, Nam Định, HảiDương, Hải Phòng). Trên con đường giao thông chiến lược nốiliền Hà Nội với Hải Phòng, tuy địch đã sử dụng một lực lượng bảo vệ khá lớn, nhưng vẫn không ngăn chặn được hoạt động củaquân ta; không có cuộc hành quân nào của địch trên tuyếnđường này được an toàn.

Về phía ta, bộ đội chủ lực vẫn được bảo toàn và phát triển cảvề số lượng và trình độ tác chiến. Cơ quan đầu não kháng chiếnđược bảo vệ an toàn. Thế trận chiến tranh nhân dân được củngcố và mở rộng. Như vậy là âm mưu chiến lược đánh nhanhthắng nhanh của thực dân Pháp bước đầu bị thất bại. Cuộc chiếntranh vẫn kéo dài và ngày càng mở rộng đã khiến cho thực dân
Pháp lâm vào tình trạng khó khăn, quân số thiếu hụt. Số quântăng viện nhỏ giọt từ Pháp sang không sao khắc phục được tìnhtrạng phân tán, dàn mỏng lực lượng trên các chiến trường. Mộtbộ phận binh sĩ địch bắt đầu tỏ ra chán ghét chiến tranh. Nhữngvụ phản chiến xuất hiện ở một số nơi. Trước tình hình trên, thựcdân Pháp âm mưu kết hợp chặt chẽ giữa thủ đoạn chính trị và biện pháp quân sự. Về chính trị, chúng vừa cố tạo ra một chínhquyền tay sai bản xứ, vừa tìm cách lôi kéo, lừa bịp quần chúngbằng một thứ lí tưởng đối lập với chủ nghĩa yêu nước chânchính. Về quân sự, chúng vừa bình định miền Nam, vừa tậptrung lực lượng lớn đánh đòn quyết định ở miền Bắc, hòng đèbẹp tinh thần và lực lượng kháng chiến của đối phương.

Trong phiên họp ngày 9-6-1947, Hội đồng phòng thủ ĐôngDương thông qua trên nguyên tắc cuộc tiến công mùa thu 1947với mục đích: bịt kín biên giới, ngăn chặn không cho Việt Minhtiếp xúc với Trung Quốc. . . loại trừ mọi sự chi viện từ ngoàivào; truy lùng Việt Minh đến tận sào huyệt, đánh cho tan tácmọi tiềm lực kháng chiến của họ”1. Sau một thời gian ráo riết chuẩn bị, đến đầu tháng 9-1947, kế hoạch tiến công lớn trênchiến trường Bắc Bộ của Bộ chỉ huy Pháp càng lộ rõ. Ngày 10-9-1947, tại Hà Đông, trong một bài diễn văn bằng những lời lẽlừa bịp, lắt léo Bôlaec (Bollaert) thay mặt Chính phủ Pháp tuyênbố không có lí do gì để kéo dài chiến tranh, nhưng vẫn ngoan cốkhông công nhận độc lập của Việt Nam, không công nhậnChính phủ Hồ Chí Minh. Như vậy, thực dân Pháp có ý đồ kếtthúc cuộc chiến tranh bằng một cuộc tiến công quân sự chớpnhoáng.

Kế hoạch tiến công Việt Bắc do Xalăng (Salan), Tư lệnhchiến trường Bắc Đông Dương vạch ra, đến tháng 7-1947, đượcChính phủ Pháp phê chuẩn. Kế hoạch này trước hết nhằm baovây, tiến tới tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệtphần lớn bộ đội chủ lực của ta để nhanh chóng kết thúc cuộcchiến tranh; dùng thắng lợi quân sự để xúc tiến thành lập chínhphủ bù nhìn toàn quốc Đánh lên Việt Bắc, thực dân Pháp cònnhằm khoá chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn con đườngliên lạc giữa cách mạng Việt Nam với quốc tế.

Lực lượng Pháp tung ra trong cuộc tiến công gồm 5 trungđoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn pháo binh và 2 tiểuđoàn công binh; tất cả là 12.000 quân.Kế hoạch tấn công của địch lên Việt Bắc được thể hiện trên
hai bước:

Bước 1 : Một cuộc hành quân mang mật danh LEA, tập trungcàn quét ở vùng Chợ Đồn, Bắc Kạn, Chợ Mới (nay thuộc tỉnhBắc Kạn) :

+ Ngày 7-10, nhảy dù xuống Bắc Kạn, Chợ Mới; ngày 8-10xuống Chợ Đồn và càn quét các vùng xung quanh; ngày 9-10,hai cánh quân ở Bắc Kạn và Chợ Đồn sẽ gặp nhau ở Bản Pè(cách Bắc Kạn 20 km trên hướng Bắc Kạn - Chợ Đồn).

+ Ngày 10-10, chiếm Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng tiến xuốngBắc Kạn (dự kiến ngày 12), sau đó từ Chợ Đồn tiến ra Đài Thị(Chiêm Hoá, Tuyên Quang), liên lạc với cánh quân hướng tây(Đường số 2 - sông Lô) vào ngày 13.

+ Sau khi hoàn thành tổ chức phòng thủ ở Chợ Mới (dự kiếnngày 11) sẽ tiến hành càn quét và tuần tiễu trên Quốc lộ số 3 . . .

- Bước 2: Một cuộc hành quân mang mật danh Clo - Clo, dự kiến:

+ Chiếm Chợ Chu (dự kiến ngày 14-10) từ nhiều hướng: TừBắc Kạn, Chợ Mới tiến về, nhảy dù trực tiếp xuống Chợ Chu (lđại đội) và nhảy dù xuống phía nam Chợ Chu, khoá đường ChợChu - Thái Nguyên.

+ Sau đó sẽ càn quét trong vùng, tuỳ theo tin tình báo... 1 .

Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 7-10, cuộc hành quân mangmật danh "LEA" bắt đầu được triển khai:

- Khoảng 8 giờ 15 phút sáng 7-10-1947, binh đoàn quân dùdo Trung tá Xôvanhắc (Sauvagnac) chỉ huy lần lượt đổ quânxuống thị xã Bắc Kạn, nơi chúng nghi có cơ quan đầu nãokháng chiến. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, chúng thả tiếpmột bộ phận quân dù xuống thị trấn Chợ Mới nhằm khống chếtuyến đường Thái Nguyên đi Bắc Kạn và lấy đó làm nơi tập kết
những đạo quân lùng sục cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Ngày hôm sau (8-10), chúng cho quân nhảy dù xuống Chợ Đồn(Bắc Kạn).
Trên đường bộ, sáng 7-10-1947, binh đoàn bộ binh thuộc địado Trung tá Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy, xuất phát từ Lạng Sơntheo Đường số 4 tiến lên chiếm Cao Bằng, rồi một bộ phận tiếnxuống Bắc Kạn, vòng sang Chợ Đồn, lên Chiêm Hoá (TuyênQuang), hình thành một gọng kìm lớn ở hướng đông bắc.

Ngày 9-10, binh đoàn hỗn hợp bộ binh thuộc địa và lính thuỷđánh bộ, do Trung tá Commuynan (Communal) chỉ huy, từ HàNội theo sông Hồng lên Việt Trì (ngày 11-10), rẽ sang sông Lôlên Tuyên Quang (ngày 13-10) và đến Khe Lau (nơi hợp lưugiữa sông Lô và sông Gâm), quân Pháp ngược dòng sông Gâmlên Chiêm Hoá. Hai cánh quân thuỷ, bộ sẽ gặp nhau tại Đài Thị
(cách Chiêm Hoá 12 km về phía đông bắc).

Như vậy, khu vực càn quét, đánh phá của địch nằm trongvùng tứ giác Tuyên Quang - Đài Thị - Bắc Kạn - Thái Nguyên,rộng khoảng 3.600 km2; trong đó, khu vực trọng điểm là BắcKạn - Chợ Chu - Chợ Mới. Cơ quan lãnh đạo kháng chiến tậptrung ở phía tây nam Chợ Chu sát trung tâm càn quét của địch,nằm trong tình thế bị uy hiếp.


b- Quân và dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch

Ngày 15-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra bảnChỉ thị: Bôlaec nói gì - Ta phải làm gì?. Sau khi vạch trần âmmưu của Bôlaec, Chỉ thị nêu những nhiệm vụ cần kíp của quânvà dân ta. Ban Thường vụ Trung ương nhắc nhở quân và dân cảnước tích cực chuẩn bị đối phó với cuộc tiến công Thu - Đôngcủa giặc Pháp, ra sức làm vườn không nhà trống, xây dựng làng
chiến đấu và mở rộng tuyên truyền, vận động binh lính địch.Từ ngày 27 đến ngày 29-9-1947, Bộ Tổng chỉ huy triệu tậpHội nghị quân sự toàn quốc lần thứ 4 để thống nhất nhận địnhvề hướng tiến công của địch. Hội nghị nhận định: "Bắc Bộ sẽ làchiến trường chính, nếu địch không mạo hiểm thì đánh đồngbằng, nếu mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc... Tấn công lênViệt Bắc, chúng sẽ chiếm các tỉnh Phúc Yên, Thái Nguyên, PhúThọ, Tuyên Quang, nối liền đường Hà Nội - Lạng Sơn..." 1.Hộinghị chủ trương nắm vững bộ đội, giữ gìn chủ lực, tiêu diệt từngbộ phận quân địch, bảo vệ căn cứ, thực hiện phối hợp giữa cáckhu và phối hợp chiến lược toàn quốc, phá âm mưu lập ngụy quyền của địch; kiên quyết thực hiện đánh du kích chiến và vậnđộng chiến, dùng đơn vị đại đội để hoạt động trên chiến trườngcủa mỗi địa phương, tập trung từng tiểu đoàn chủ lực cơ độngđánh vận động chiến, tránh phòng ngự chính diện, bộ đội phải ởlại sau lưng địch, hoá chỉnh vi linh, hoá linh vi chỉnh, hoá tranglẫn vào dân khi cần. . .

Ngày 4-10-1947, Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh gửi các Khu,khẳng định "thế nào địch cũng có những cuộc hành binh lớn";có thể “quét vùng đồng bằng Bắc Bộ, đánh lên căn cứ địa ViệtBắc". Mệnh lệnh nêu rõ phương án tác chiến dối với từng tìnhhuống và dự kiến nếu đánh Việt Bắc, hướng tiến công của địchsẽ là Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên; hướng kiềm chế hay phối hợp ở phía tây là vùng HoàBình, Sơn La; phía Đông là Bắc Giang, Lạng .Sơn. Bộ Tổng chỉhuy giao nhiệm vụ cho các Khu I, X, XII và các đơn vị chủ lựcthuộc Bộ sẵn sàng đón đánh địch, đồng thời chỉ thị cho cácchiến trường toàn quốc đánh mạnh để kiềm chế địch, phối hợpvới Việt Bắc.

Tối 7-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng điện chocác Khu uỷ và Quân khu uỷ: "Sáng ngày 7-10, Pháp nhảy dùchiếm Bắc Kạn, Chợ Mới, mưu tấn công Việt Bắc. Vậy Đoànthể ra lệnh cho các Khu uỷ và Quân khu uỷ tích cực chỉ huy bộđội định mạnh để chia sẻ lực lượng địch và phá kế hoạch mùakhô của chúng" 1.

Ngày 9-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉthị cần kíp gửi các đồng chí Tỉnh uỷ Bắc Kạn và các đồng chíphụ trách quân, chính, dân Bắc Kạn. Bản Chỉ thị nêu lên nhiệmvụ trước mắt của tỉnh lúc này là dùng lực lượng bộ đội, dânquân du kích và toàn dân bao vây địch chung quanh tỉnh lị,"giam chân địch ở đó, không cho chúng chiếm toả ra, đặc biệtngăn địch trên mấy đường này: Đường Bắc Kạn - Chợ Đồn, BắcKạn - Chợ Rã, Bắc Kạn - Cao Bằng, Bắc Kạn - Chợ Mới, BắcKạn - Na Rì, Bắc Kạn - Chợ Chu” 1. Ngày 15-10-1947, BanThường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Phải phá tan cuộccuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp. Chỉ thị vạch rõ phươnghướng hành động cụ thể của quân và dân ta là bao vây giamchân địch tại những căn cứ chúng vừa chiếm, triệt để làm vườnkhông nhà trống chung quanh chỗ địch chiếm đóng; chặt đứtgiao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không cho chúngtiếp ứng và tiếp tế.

Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận:

- Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hoá, quân và dân ta liên tụcchặn đánh địch; điển hình là các trận Đoàn Hùng, Khoan Bộ,Khe Lau. Nhiều tàu chiến, ca nô địch bị bắn cháy.

- Trên mặt trận Đường số 4 diễn ra nhiều trận phục kích, tiêubiểu là trận đánh tại đèo Bông Lau (30-10-1947): Phá huỷ 27 xecơ giới, diệt và bắt 240 địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quândụng. Đây là trận đánh giao thông điển hình trên chiến trườngBắc Bộ. Đường số 4 bị uy hiếp, trở thành con đường chết đốivới giặc Pháp.

- Ở mặt trận Đường số 3, tại Bắc Kạn, Chớ Mới, quân và dânta nhanh chóng khắc phục tình trạng bị động, lúng túng ban đầu,hình thành thế trận bao vây, chia cắt địch. Sau khi Bộ Tổng chỉhuy và Bộ chỉ huy Khu I điều thêm lực lượng về Bắc Kạn, hoạtđộng của quân ta tại mặt trận này tăng dần lên. Các đại đội độclập cùng dân quân, tự vệ liên tiếp tập kích, quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, Bạch Thông; phục kích địch trêncác trục đường Bắc Kạn đi Chợ Đồn, Phủ Thông, Chợ Mới.

Vừa đánh địch, ta vừa khẩn trương tổ chức di chuyển các cơquan, công xưởng, kho tàng đến những nơi an toàn. Phối hợpvới Việt Bắc, quân và dân cả nước đẩy mạnh các hoạt độngkiềm chế địch. Ở Hà Nội, Sài Gòn, những tên Việt gian đầu sỏTrương Đình Tri, Nguyễn Văn Sâm lăm le đứng ra lập chínhphủ bù nhìn, đã bị trừng trị đích đáng.Quân và dân Nam Bộ liên tiếp diệt từng tốp lính địch. TâyNguyên phát triển công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơsở đến tận buôn làng, thành lập căn cứ kháng chiến ở nhiều nơi.
Đồng bằng sắc Bộ thực hiện tổng phá tề khu vực dọc Đường số 5.

Trước tình thế bế tắc, Bộ chỉ huy Pháp quyết định vừa tổchức rút lui vừa huy động thêm lực lượng cùng với các lựclượng đã tham gia Kế hoạch LEA mở cuộc càn quét khu tứ giácTuyên Quang - Thái Nguyên - Việt Trì - Phủ Lạng Thương, trênmột phạm vi rộng hơn 8.000 km2. Kế hoạch này mang tên Xanhtuya (Ceinture), nhằm tiếp tục "lùng bắt kì được cơ quanđầu não kháng chiến, tiêu diệt chủ lực Việt Minh, phá nát căn cứđịa". Hướng càn quét chủ yếu của địch là Thái Nguyên, haihướng khác là Sông Thương - Yên Thế và khu vực Chợ Mới -Tuyên Quang xuống đồng bằng. Ngày 20-11, đợt tiến công mớicủa địch bắt đầu.

Nhận thấy hiện tượng địch chuẩn bị rút quân, ngày 10 và 29-11, Bộ Tổng chỉ huy kịp thời chỉ thị cho các mặt trận bố trí lạilực lượng, bám sát hoạt động của địch, không bỏ lỡ thời cơ diệtđịch, chống khuynh hướng "ăn to", coi thường trận nhỏ; đồngthời phát động rộng rãi phong trào khắp nơi đánh giặc, khiếncho quân Pháp đi tới đâu cũng bị chặn đánh.Trên tất cả các hướng địch hành quân, chúng đều bị quân tachặn đánh quyết liệt Tại các địa điểm: Bình Ca, La Hoàng(Tuyên Quang), Đèo Giàng (Bắc Kạn), Quán ông Già, PhúMinh, Bản Ngoại, Yên Rã(Đại Từ, Thái Nguyên) đều vang lên tiếng súng diệt địch.

Các cánh quân Pháp đều bị thiệt hại nặng nề trên đường rút chạy.

Do không đạt được mục tiêu của cuộc tấn công, lại bị thiếthại nặng nề , ngày 21-12-1947, đại bộ phận quân Pháp phải rútkhỏi Việt Bắc, đánh đấu thất bại chiến lược đầu tiên trong cuộcchiến tranh xam lược của chúng.

Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, vận dụng nghệthuật tác chiến của chiến tranh nhân dân một cách sáng tạo,quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 6.000 địch,bắn rơi 16 máy bay; bắn cháy, bắn chùn 11 ca nô, tàu chiến; pháhuỷ hàng trăm xe quân sự; tịch thu của địch hơn 100 khẩu pháo,súng cối các loại, hàng ngàn súng bộ binh cùng với hàng chụctấn quân trang, quân dụng. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặcPháp.

Mặc dù quân Pháp còn kiểm soát đoạn đường biên giới LạngSơn - Cao Bằng, tuyến Đường số 3 từ Cao Bằng về Bắc Kạn vàphá hoại được một số kho tàng, thị trấn, làng bản của ta, nhưngchúng đã không thực hiện được những mục tiêu chiến lược củacuộc tiến công.

Sau thất bại trong Chiến dịch Việt Bắc, tinh thần chiến đấucủa binh lính Pháp sa sút, giảm lòng tin vào sự chỉ huy vàphương tiện chiến tranh hiện đại. Giới cầm quyền thực dân lụcđục, mâu thuẫn; nước Pháp đứng trước những khó khăn mới.Chiến thắng Việt Bắc chứng minh đường lối kháng chiến do Đảng và Chính phủ đề ra là đúng đắn; đồng thời cũng khẳng định quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đập tan một cuộc tấncông quân sự quy mô lớn của giặc Pháp.Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947, so sánh lựclượng giữa hai bên trên chiến trường đã có sự thay đổi theo chiều hướng ngày càng có lợi cho ta. Chiến lược đánh nhanhthắng nhanh, với đòn quyết định đè bẹp đối phương, kết thúcchiến tranh, dựng lại nền thống trị của thực dân Pháp đã hoàntoàn phá sản. Từ đó, thực dân Pháp buộc phải chấp nhận đánh lâu dài với ta.

Cũng qua cuộc đọ sức này, quân và dân ta càng hiểu rõ hơnđối tượng tác chiến, tích luỹ thêm kinh nghiệm chiến đấu.Chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 là thắng lợi chung củaquân và dân cả nước, cổ vũ mạnh mẽ toàn quân và toàn dân tatiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn.

3. Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950

Chiến trường Biên giới có tầm quan trọng về chiến lược. Do vậy thực dân Pháp bố trí ở đây một lực lượng quân sự khá mạnh. Tổng số binh lực của địch ở Liên khu Biên giới Đông Bắc có 11 tiểu đoàn, 9 đại đội lẻ, phần lớn là lính Âu - Phi tinh nhuệ (gồm 10 tiểu đoàn). Ngoài ra, địch còn có lực lượng binh chủng gồm 27 khẩu pháo, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh
và 8 máy bay. Với binh lực lớn và tinh nhuệ, hể thống phòng thủ vững chắc,

Bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều hi vọng vào khả năng phòng thủ của Liên khu Biên giới. Tuy nhiên, Liên khu này có nhiều điểm bất lợi: Thế bố trí thành tuyến kéo dài trên một con đường độc đạo với những vị trí cô lập cách xa nhau hàng chục km; địa hình rừng núi hiểm trở, phức tạp làm cho quân cơ động ứng chiến bằng cơ giới khó phát huy được tác dụng...

Bộ chỉ huy chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính uỷ và Bí thư Đảng uỷ mặt trận, quyết định tập trung một lực lượng mạnh tham gia chiến dịch. Lực lượng này gồm có Đại đoàn 308, Trung đoàn 209, Trung đoàn 174, bốn đại đội sơn pháo cùng với lực lượng vũ trang của Liên khu Việt Bắc và hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Phương ándự kiến ban đầu là đánh địch ở Cao Bằng để thu hút lực lượng địch, nhưng sau khi cân nhắc kĩ, Bộ chỉ huy quyết định đánh xuống Đông Khê - nơi địch tương đối mỏng để đảm bảo chắc thắng. Phương châm chiến dịch là đánh điểm diệt viện.

Phương án trên đã được Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn y. Các mặt chuẩn bị cho chiến dịch cũng được tiến hành khẩn trương. Chúng ta đã huy động hàng chục vạn dân công tập trung để sửa đường vận tải, vận chuyển một khối lượng lớn vật chất ra mặt trận. Với khẩu hiệu Tất cả cho chiến dịch toàn thắng, cán bộ và nhân dân các dân tộc Việt
Bắc đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến. Khoảng 121.700 dân công thuộc các dân tộc Việt Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến, tổng cộng 1.716.000 ngày công. Khoảng 2/3 cán bộ các cấp của các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kim, Lạng Sơn được huy động phục vụ chiến dịch. Đồng bào các dân tộc còn đóng góp cho chiến dịch hơn 100 tấn lương thực. Viện trợ của Chính phủ và nhân dân
Trung Quốc cũng là nguồn rất quan trọng góp phần đảm bảo cho chiến dịch toàn thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "chống gậy lên non xem trận địa",
trực tiếp kiểm tra kế hoạch tác chiến, công tác chuẩn bị và động viên cán bộ, chiến sĩ, dân công tham gia chiến dịch.


Sáng 16-9-1950, quân ta nổ súng đánh Đông Khê, mở màn chiến dịch. Trong trận này đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu hi sinh dũng cảm tuyệt vời, đó là Đại đội trưởng Trần Cừ lấy thân mình lấp lỗ châu mai mở đường cho đơn vị xông lên diệt đồn địch; Lý Văn Mưu bị thương đã dùng bộc phá lao vào phá huỷ lô cốt giặc; La Văn Cầu bị thương vào cánh tay đã
không chút do dự nhờ đồng đội chặt đứt khỏi vướng để tiếp tục lao lên đánh bộc phá, hoàn thành nhiệm vụ. Các nữ dân công Đinh Thị Dậu, Triệu Thị Soi nhiều lần băng mình qua lửa đạn cứu thương binh, tiếp đạn cho bộ đội... Sau hai ngày chiến đấu quyết liệt bộ đội ta tiêu diệt được vị trí Đông Khê. Thất Khê bị uy hiếp trực tiếp. Cao Bằng hoàn toàn bị cô lập. Thế trận phòng
thủ của địch trên Đường số 4 bị rung chuyển.

Đúng như ta phán đoán, Đông Khê thất thủ đã gây nên phản ứng dây chuyền trong giới cầm quyền quân sự và chính trị Pháp. Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương phải ra lệnh rứt quân khỏi Cao Bằng theo Đường số 4. Kế hoạch trên được thực hiện bằng cuộc hành quân "kép". Một mặt, địch cho binh đoàn từ Thất Khê, do Lơ Pagiơ (Le Page) chỉ huy, tiến lên chiếm lại Đông Khê để đón binh đoàn từ Cao Bằng, do Sáctông (Charton) chỉ huy, kéo về. Mặt khác, chúng vét hầu hết lực lượng dự bị chiến lược ở Bắc Bộ (gồm 6 tiểu đoàn) mở chiến dịch mang tên Phôcơ (Pho que: Chó biển) đánh chiếm thị xã Thái Nguyên, hi vọng thu hút chủ lực của ta ở mặt trận Biên giới để đỡ đòn cho đồng bọn và trấn an dư luận trước việc thất thủ Đông Khê. Nắm được ý đồ của địch, quán triệt phương châm "đánh điểm diệt viện", trên mặt trận Biên giới, bộ đội ta kiên nhẫn mai phục chờ đánh quân tiếp viện.

Sau một thời gian chuẩn bị, vừa thăm dò ý định của ta, ngày 30-9, địch cho binh đoàn Lơ Pagiơ tiến lên Đông Khê. Binh đoàn của Sáctông ở Cao Bằng cũng bắt đầu rút về. Bộ chỉ huy mặt trận chủ trương tập trung lực lượng, tiêu diệt từng cánh quân địch. Trải qua 8 ngày chiến đấu ác liệt tại khu vực núi Cốc Xá và khu Đồi 477 ở phía tây Đông Khê, bằng chiến thuật vận động chiến, quân ta tiêu diệt và bắt gọn' hai binh đoàn địch gồm 7 tiểu đoàn. Ngày 8-10, địch cho một tiểu đoàn, do Đờ la Bôm (De la Beaume) chỉ huy, từ Thất Khê kéo lên định ứng cứu cho Lơ Pagiơ và Sáctông cũng bị đánh tan. Kế hoạch rút quân của địch hoàn toàn sụp đổ.

Liên tiếp từ ngày 10 đến ngày 23-10, địch lần lượt rút chạy khỏi các vị trí: Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu. Trong quá trình rút chạy, địch lại bị quân ta truy kích tiêu diệt thêm một phần lực lượng. Phối hợp với mặt trận Biên giới, trên các chiến trường khác,
quân ta tích cực đẩy mạnh các hoạt động tiến công địch. Tại mặt trận Tây Bắc, quân và dân ta vừa hoàn thành nhiệm vụ nghi binh, vừa tiêu diệt và buộc địch phải rút bỏ hàng loạt vị trí, trong đó có thị xã Lào Cai và thị trấn Sa Pa.

Tại Việt Bắc, cuộc tấn công lên Thái Nguyên của 6 tiểu đoàn địch đã bị quân và dân ta đập tan. Không thực hiện được ý đồ phá chủ lực của ta ở mặt trận Biên giới về, lại bị thiệt hại gần 1.000 tên. Ngày 11-10 quân Pháp buộc phải rút khỏi thị xã Thái Nguyên.

Ở chiến trường Bắc Bộ, quân và dân ta đánh mạnh, tiêu diệt 700 địch, buộc chúng phải rút 44 vị trí, trong đó có thị xã Hoà Bình. Ở Bình - Trị - Thiên, quân ta mở chiến dịch Phan Đình Phùng, đột nhập thị xã Quảng Trị, đánh mìn trên đoạn dường Huế - Đà Nẵng, thực hiện được nhiệm vụ tiêu hao và kiềm chế địch tại chỗ, không cho chúng điều quân ra Bắc Bộ. Sau khoảng một tháng chiến đấu dũng cảm và mưu trí của quân và dân ta, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Quân ta đã tiêu diệt và bắt khoảng 8.300 địch, gồm 8 tiểu đoàn Âu – Phi và 2 tiểu đoàn ngụy, thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; giải phóng một dải biên giới với chiều dài 750 km,gồm 350.000 dân. Nếu tính cả các chiến trường phối hợp với mặt trận Biên giới, tổng số địch bị tiêu diệt và bị bắt là 11.500 tên; một vùng rất rộng lớn khoảng 4.000 km2 cùng với 400.000 dân được hoàn toàn giải phóng; địch buộc phải rút khỏi 217 vị trí, trong đó có 5 thị xã quan trọng: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên và Hoà Bình; hành lang Đông - Tây của địch bị phá vỡ. Con đường liên lạc giữa căn cứ địa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu IV được thông suốt. Sự thông thương giữa nước ta với quốc tế cũng được mở ra trên nhiều hướng. Từ đây, hậu phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nối liền với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, với Liên Xô và với các lực lượng yêu chuộng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thoát khỏi thế bao vây phong toả của các thế lực đế quốc, có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế.

Đối với địch, đây là một thất bại nặng nề chưa từng có từ trước đến bấy giờ. Cả một loạt kế hoạch chính trị, quân sự mà Pháp ra sức thực hiện từ sau thu - đông 1947 đã bị phá sản. Kế hoạch Rơve cơ bản bị thất bại. Tất cả những tổn thất ấy đã khoét sâu thêm khó khăn về quân sự và giáng một đòn mạnh vào tinh thần tướng sĩ địch. Thất bại ở biên giới đã gây nên sự đảo lộn lớn về chiến lược, chiến thuật của thực dân Pháp. Chúng phải bố trí lại quân lực, thay đổi chỉ huy, thay đổi chiến thuật và ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự về chiến lược.

Đối với nhân dân ta; sau bốn năm kháng chiến toàn quốc, đây là lần đầu tiên quân đội ta chủ động mở một chiến dịch tiến công quy mô lớn và chiến thắng giòn giã. Chiến thắng này đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chỉ đạo chiến dịch và trình độ tác chiến tập trung của quân đội ta.

Với chiến thắng Biên giới, quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ) đã thuộc về quân đội ta. Cục diện chiến tranh đã thay đổi có lợi cho ta. Từ đó về sau, quân đội ta liên tục chủ động tiến công và phản công địch. Chiến thắng Biên giới mở ra bước ngoặt cơ bản, đưa cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy.

Chiến thắng Biên giới còn phản ánh kết quả của Đảng và Chính phủ về xây dựng hậu phương kháng chiến. Chính kẻ địch cũng phải thừa nhận: "Đây thực sự là một cuộc chiến tranh của một dân tộc có tinh thần đấu tranh cương quyết bảo vệ độc lập của nước mình" .


(Hơi dài. Bạn chịu khó đọc nghen ^_^)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top