Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao anh hùng, nhà tư tưởng xuất sắc, lãnh tụ vĩ đại làm rạng danh đất nước. Trong số những anh hùng, nhà tư tưởng ấy, ở thế kỷ XV, Nguyễn Trãi nổi lên như một ngôi sao sáng. Ông không chỉ là một nhà chính trị, nhà quân sự tài năng, mà còn là một nhà tư tưởng kiệt xuất. Nói về Nguyễn Trãi, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc, văn võ song toàn, văn là chính trị, chính trị cứu nước cứu dân, nội trị, ngoại giao, “mở nền thái bình muôn thuở, rửa nỗi thẹn ngàn thu”, võ là quân sự: chiến lược và chiến thuật, “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều, thắng hung tàn bằng đại nghĩa”; văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao”.
Ông sống trong thời buổi đất nước loạn lạc, đất nước bị xâm lược. Chính hoàn cảnh lịch sử, hoạt động thực tiễn, thiên tài trí tuệ và nhân cách vĩ đại của ông đã làm cho tư tưởng của ông có nhiều giá trị không chỉ đối với đương thời mà còn có ý nghĩa mãi về sau. Đặc biệt là tư tưởng triết học và tư tưởng yêu nước đặc sắc. Sách lịch sử tư tưởng Việt Nam viết: "Tên tuổi của ông sáng chói trên cuốn sử vàng của dân tộc. Có được vị trí đó, không những do cuộc đời, đức độ và ý thức vì dân, vì nước của ông, mà quan trọng hơn là do tư tưởng của ông đã đạt tới tầm cao của thời đại, ông đã khái quát được những vấn đề có tính quy luật của công cuộc cứu nước và dựng nước, chỉ ra được tầm quan trọng của nhận thức lý luận trong hoạt động thực tiễn, từ đó nâng tư duy của dân tộc lên một trình độ mới".
Tư tưởng của ông thể hiện rõ nét trong nhiều tác phẩm để lại cho đời sau. Tư tưởng của Nguyễn Trãi là một bộ phận cấu thành, đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nó thể hiện tư duy sâu rộng, nhạy bén của ông trước những biến động ở thời Trần - Hồ và thời kỳ Lam Sơn khởi nghĩa.
Là một nhà báo tương lai, muốn hiểu thêm về lịch sử văn hóa dân tộc và cũng là để phục vụ cho nghành nghề của chúng tôi sau này. Tìm hiểu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, một mặt, góp phần vào công việc ngày càng làm sáng tỏ chân dung Nguyễn Trãi - một công việc còn lâu dài. Mặt khác, góp phần khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng ta về việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, với phương châm: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Trên đây là một số lý do đã thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài này. Đề tài này chúng tôi tìm hiểu còn nhiều thiếu sót mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và các bạn.
2. lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả văn học , nhiều học sinh, sinh viên trong nước và ngoài nước đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu, nghiên cứu về tư tưởng của Nguyễn Trãi như :
- GS Nguyễn Xuân Phước : “Từ Phan Liêu, Đặng Dung đến Nguyễn Trãi, tâm sự của một thế hệ đầu thế kỉ thứ XV - Tâm sử”.
- Giáo sư Phan Huy Lê : “Nguyễn Trãi 560 năm sau vụ án Lệ Chi Viên”
- Nguyễn Lương Bích : “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước”. NXB Quân đội nhân dân
- Dương Bá Cung, : “Bình luận chư thuyết trong Ức Trai di tập”, quyển 5
- Phạm Văn Đồng: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc”, báo Nhân dân số 3099, ngày 19-9-1962
Tuy nhiên, mỗi người có những cách tiếp cận và những mục đích khác nhau sẽ có những cách tìm hiểu về những chủ đề, đề tài khác nhau. Với công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên chúng tôi đi theo hướng cửa riêng mình là nét đặc sắc trong tư tưởng triết học và tư tưởng yêu nước của tác gia Nguyễn Trãi
Đề tài “nét đặc sắc trong tư tưởng triết học và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi’’ còn là một đề tài mới, có thể cũng có một số người nghiên cứu về đề tài này nhưng do tầm hiểu biết và những tìm hiểu còn hạn hẹp nên việc nêu ra những dẫn chứng về điều này chúng tôi chưa có. Vì vậy đề tài này vẫn là một ‘‘mảnh đất trống’’ cho chúng tôi nghiên cứu và tìm hiểu. Nếu như nói rằng, chúng tôi là những người đi tiên phong trong việc nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài này thì không chính xác nhưng chúng tôi sẽ là nguười tiếp tục tiếp bước những người đi trước để tiếp tục nghiên cứu về đề tài này theo những hướng suy nghĩ và đánh giá của cá nhân chúng tôi, mong nhận được sự giúp đỡ và những đánh giá của thầy cô và các bạn.
Với hiểu biết còn hạn chế đề tài của chúng tôi nghiên cứu của chúng tôi chắc hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót ,vì vậy chúng tôi mong nhận được sự ủng hộ và những đóng góp của các bạn.
Chúng tôi xin cảm ơn!
II .PHẦN NỘI DUNG
1. Giới Thuyết Chung
1.1 Cuộc đời của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, là con trai của một đại quan triều Hồ, cháu ngoại của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.
Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại là quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (trước đây có tên là Nguyễn Ứng Long), vốn là học trò nghèo thi đỗ thái học sinh và bà Trần Thị Thái - con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc nhà Trần.
Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.
x Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.
Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.
Nhận định được thời cuộc ông đã tìm gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.
Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.
Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề .Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Ông được xem là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau khi đánh đuổi được giặc Minh. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi, phong ông tước Quan Phục hầu và cho theo họ Lê của vua.
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
1.2 Vụ án Lệ Chi Viên- nỗi oan lớn
Năm 1433, Thái Tổ mất, thái tử Nguyên Long lên nối ngôi, tức là Lê Thái Tông. Những năm đầu,
Năm 1435, ông soạn sách Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước.
Bị các quyền thần đứng đầu là Lê Sát chèn ép, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Chí Linh, thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
Tháng 7 năm 1442, vua Lê Thái Tông về qua nhà Nguyễn Trãi tại Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương ngày nay), vợ Nguyễn Trãi là bà Nguyễn Thị Lộ theo "hầu" vua. Trên đường về kinh Vua đột ngột qua đời tại vườn hoa Lệ Chi Viên nay thuộc Gia Bình, Bắc Ninh. Nguyễn Trãi bị triều đình do hoàng hậu Nguyễn Thị Anh cầm đầu khép tội giết vua và bị giết cả 3 họ (tru di tam tộc) ngày 16 tháng 8 năm 1442.
Năm 1464, khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi đã hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.
1.3 Sự nghiệp của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo". .
Ông đã để lại cho đời sau cả một số lượng tác phẩm đồ sộ, trong đó có các tác phẩm lớn như :
Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.
Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.
Lam Sơn thực lục, Ngọc đường di cảo, Luật thư, Giao tự đại lễ, Thạch khách hồ, Phú núi Chí Linh, Chuyện cũ về Băng Hồ tiên sinh. Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm thơ viết bằng chữ Nôm và rất nhiều bài chiếu, biểu mà ông đã thay vua Lê Thái Tổ viết.
1.4 Tư tưởng của Nguyễn Trãi
1.4.1 Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi
Mỗi nhân vật lịch sử nói chung, mỗi nhà tư tưởng nói riêng đều là sự kết tinh tinh hoa đất nước, dân tộc và thời đại họ, như C.Mác đã viết: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học”. Thực vậy, cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Nguyễn Trãi gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIV và nửa đầu thế kỷ XV, qua sự biến đổi dồn dập của lịch sử.
Đó là quá trình chuyển biến từ nhà Trần sang nhà Hồ; sau đó là sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống quân Minh bằng khởi nghĩa Lam Sơn gian khổ nhưng thắng lợi vẻ vang, mở đầu cho công cuộc xây dựng đất nước của một triều đại mới - triều đại Lê Sơ. Chính những đặc điểm và điều kiện lịch sử - xã hội thời ấy đã làm nên Nguyễn Trãi - một nhà văn hóa, một nhân vật lịch sử kiệt xuất đầu thế kỷ XV của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng, nhưng ông không trình bày quan điểm của mình thành một học thuyết có tính hệ thống nào đó, mà từ hiện thực lịch sử đầy sôi động của dân tộc cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV, ông đã suy xét, triết lý về nó để từ đó, soi rọi vào sự nghiệp “nhân nghĩa”, “an dân”, “rửa nỗi hận ngàn thu”, “mở nền thái bình muôn thuở” cho dân tộc. Cho nên, tư tưởng triết học của ông mang đậm hơi thở của cuộc sống, hòa lẫn và ẩn chứa đằng sau các lĩnh vực tư tưởng khác, như chính trị, quân sự, ngoại giao, văn chương… Về vấn đề này, một nhà nghiên cứu đã viết: “Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân, cái nghĩa cuối cùng chẳng qua là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”.
1.4.2 Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi
Nét nổi bật về tư tưởng của triết học Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước.Chủ nghĩa yêu nước này không dừng lại ở tâm lí,tâm trạng và tình cảm,mà trở thành một lí luận,một quan niệm.Đó là quan niệm về độc lập dân tộc và quốc gia có chủ quyền.Quan niệm đó đã có sự phát triển,từ nhận thức về vùng trời,lãnh thổ riêng biệt…đến một quan niệm toàn diện về thực thể đất nước,mà ở đây,quan niệm của Nguyễn Trãi là tiêu biểu nhất:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tư tưởng yêu nước là một phương diện được các nhà tư tưởng hết lòng chú ý.Họ dựa vào đạo Nho và đạo Phật để vạch cho con người một đạo đối xử và ăn ở.Ở đó thể hiện tư tưởng tôn ti trật tự của thời đại nhằm bảo đảm sự ổn định của chế độ đương thời.Nhưng mặt khác,qua các nhà tư tưởng có trách nhiệm với thời cuộc,những khái niệm trung hiếu,nhân nghĩa,cương thường…của Nho,thiện ác,họa phúc..của Phật được vận dụng và phát huy theo chiều hướng tích cực,thể hiện một quan niệm và một thái độ yêu nước,kính trên nhường dưới,có hiếu với cha mẹ,có nghĩa với mọi người,có kỉ cương trật tự trong xã hội..Và đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh của dân tộc.
2. Nét đặc sắc trong tư tưởng triết học và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi
2.1 Về tiền đề lý luận của tư tưởng Nguyễn Trãi
Qua các tác phẩm văn thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy, tư tưởng của ông trước hết chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Cụ thể, đó là tư tưởng của Nho giáo về thiên mệnh, trung dung, tam cương, ngũ thường, tư tưởng về nhân nghĩa… Nhưng, tư tưởng Nho giáo của Nguyễn Trãi là một thứ “Nho học khai phóng”, mang nhiều nội dung vượt lên trên Nho giáo chính thống, không phải Nho giáo có tính kinh viện, vong bản của bọn “bạch diện thư sinh”. Bởi lẽ, cuộc đời và tâm hồn Nguyễn Trãi luôn gắn với thực tiễn nóng bỏng của xã hội Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV. Ông luôn trăn trở về sự tồn vong của dân tộc với lòng yêu nước cháy bỏng và thương dân tha thiết.
Bên cạnh đạo lý Nho giáo, Nguyễn Trãi còn thấm nhuần triết lý Phật giáo với đức hiếu sinh, khoan dung, bác ái và từ bi.Và, trên thực tế, Nguyễn Trãi đã xin Lê Lợi tha cho mười vạn quân Minh khi chúng bại trận.
Trong Bình Ngô đại cáo, cùng với việc lên án sự tàn bạo tột cùng của quân thù, Nguyễn Trãi còn biểu lộ tấm lòng yêu thương bao la của mình không chỉ đối với con người, với dân chúng, mà còn đối với cả loài vật.
Cùng với Nho và Phật, Nguyễn Trãi còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lão - Trang, đó là lòng “thanh tĩnh vô vi”, nhàn tản, ung dung tự tại, không màng danh lợi của ông. Trong Quốc âm thi tập, từ an nhàn, yên phận được ông nhắc đến rất nhiều lần, chẳng hạn:
“Bỏ chốn phồn hoa, lánh tục trần.
Cày sâu mảnh ruộng được yên thân.”
Trong những tiền đề hình thành tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi, chúng ta không thể không đề cập tới nhân tố chủ quan của nhân tài Nguyễn Trãi - nhân tố giữ vai trò quyết định trong việc hình thành tư tưởng của ông. Bởi vì, tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của tư duy con người trên cơ sở con người phản ánh sáng tạo và khái quát hiện thực khách quan. Nguyễn Trãi sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho, ông ngoại và cha của ông là những trí thức uyên bác.
Nguyễn Trãi đã học ở ông và cha những kiến thức sâu rộng và tâm hồn cao đẹp. Ông cũng tiếp thu ở nhiều nhà Nho trước đó và cùng thời ông tư tưởng suốt đời “báo quốc”, “an dân”. Thiên tài của Nguyễn Trãi còn thể hiện ở chỗ, ông biết tự đổi mới. Một bậc trí giả như Nguyễn Trãi, dưới thời phong kiến, vốn dòng dõi thế tộc, chịu sự chi phối của luồng tư tưởng thống trị lúc bấy giờ, đã từng hấp thụ những kiến thức phức tạp qua sử sách cũ, nhất là qua Tứ thư, Ngũ kinh… nhưng vốn là một người có bản lĩnh, biết tư duy độc lập, cho nên ông đã biết chắt lọc, tiếp thu những nhân tố tích cực trong tư tưởng Nho - Phật - Lão. Tất nhiên, Nguyễn Trãi không thể thoát ly hoàn cảnh ông đang sống, không thể đoạn tuyệt với tất cả những ràng buộc trong xã hội lúc bấy giờ, như phong tục, tập quán, luật lệ…, nhưng ông vẫn tìm ra được lối thoát khỏi những ràng buộc của khuôn khổ phong kiến.
2.2 Nét đặc sắc trong tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi
2.2.1 Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi về thiên mệnh, về trời đất.
Trước hết là quan điểm về thiên mệnh, về trời đất và con người. Nguyễn Trãi tự coi mình là môn đệ của Khổng Tử và vì thế, ông chịu khá nhiều ảnh hưởng quan niệm về vũ trụ của Khổng Tử, đặc biệt là quan niệm về mệnh trời, vận trời. Khổng Tử tin rằng, trời là một lực lượng siêu hình, nhưng có sức mạnh, có ý chí, quy định trật tự xã hội, tự nhiên và số phận con người, đó gọi là thiên mệnh.
Trong tư tưởng của Khổng Tử, chúng ta không thấy ông nói tới trời đất sinh ra muôn vật và loài người, chỉ thấy ông nói đến “mệnh”, “mệnh trời”, tin có mệnh, biết mệnh và sợ mệnh. Khổng Tử khuyên: “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời thánh nhân.
Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi nói rất nhiều đến vũ trụ và trời đất, điển hình là trong Quân trung từ mệnh tập và Ức Trai thi tập. Chẳng hạn, ông viết: “Trên có trời đất quỷ thần ,Dối trời lừa vua rồi bảo rằng trời cao. Lưới trời lồng lộng không thể trốn.
Đối với Nguyễn Trãi, trời đất rất linh thiêng. Trong Côn Sơn ca, ông viết: “Thiên khải thánh hề, địa hưng vương - Trời mở đường cho thánh. Đất giúp việc cho vương”. Nguyễn Trãi cho thấy rằng, trời là lẽ biến hóa tự nhiên: “trời đất lòng nào sự biến kinh - trời đất thật vô tình sinh ra sự biến nhiều”. Trong thư gửi cho các tướng giặc là Đả Trung, Lương Nhữ Hốt, Vương Thông, ông viết: “Vận trời tuần hoàn, đi rồi lại lại - Thiên vận tuần hòan, vô vãng bất phục”.
Tư tưởng về thế giới của Nguyễn Trãi rất đa dạng, phong phú, bao gồm nhiều yếu tố. Có lúc, ông gọi là trời, đất, núi cao, sông dài, biển rộng… Có lúc, ông gọi là vũ trụ - một khái niệm rộng lớn, bao trùm hơn. Theo ông, vũ trụ luôn vận động, biến hóa liên tục. Trong tư tưởng Nguyễn Trãi, trời đất không phải là một khái niệm trừu tượng hay có ý nghĩa vật lý như trong triết học phương Tây, mà trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật, ông viết: “Trời đất sinh muôn vật”, “ơn tạo hóa của trời đất”. Tư tưởng thiên mệnh của Khổng Tử không nói tới điều này. Theo Nguyễn Trãi, trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm: “Thiên địa đa tình - Trời đất đa tình”. Nguyễn Trãi coi trời đất cũng có tấm lòng giống như cha mẹ.
Với Nguyễn Trãi, mệnh trời được hiểu trong nhiều trường hợp, như trong vận nước, mệnh vua, trong cuộc sống giàu sang, nghèo hèn, trong thành bại… Trước hết, theo Nguyễn Trãi, vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Ngoài việc tin ở sự chi phối của mệnh trời và chu kỳ xoay vần của trời đất, Nguyễn Trãi còn tin rằng, nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo “ý trời”, “lòng trời”, thì có thể “biến thân thiết làm thù địch, chuyển yên thành nguy. …
Tư tưởng này của Nguyễn Trãi thể hiện rõ trong những bức thư ông gửi cho các tướng giặc nhà Minh và trong thư kêu gọi binh lính trong các thành chiếm đóng. Đối với các tướng giặc, ông coi chúng là kẻ “bất đạo, trái với lòng trời”.
Nguyễn Trãi tin ở mệnh trời, bởi sự trừng phạt công minh ở đời, bởi trời không khô khan, cứng nhắc mà trái lại, trời có lòng “hiếu sinh”, có “đạo trời”. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình.
Trong Lại có thư dụ Vương Thông, ông viết: “Nước Ngô ngày nay mạnh thì không bằng Tần mà hà khắc thì hơn. Rồi không đầy năm, sẽ nối nhau chết cả đó” Đó mới là mệnh trời, chứ sức người có làm gì , nước thịnh hay suy, quan hệ ở trời. Nhưng, nếu một ông vua có nhân đức, có tấm lòng yêu nước, thương dân thì sẽ được trời giúp. Vì thế, trong Chiếu răn dạy thái tử, Nguyễn Trãi có căn dặn: “Giúp đỡ cho người có đức là trời, khó biết không thường cũng lại là trời “
Qua đó, chúng ta thấy rằng, tư tưởng của Nguyễn Trãi về trời không phải chỉ là đấng siêu nhiên, thần bí, mà trời còn là yếu tố khách quan, là quy luật, là lệ ước, là thời
2.2.2 Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi về cuộc sống con người.
Về cuộc đời của mỗi con người, Nguyễn Trãi cho rằng, mọi sự thành bại, giàu sang, phú quý hay đói rách, nghèo hèn của con người cũng đều do mệnh trời sắp đặt: “Nhân sinh vạn sự tổng quan thiên - Đời người muôn việc thảy do trời”, “sang cùng khó bởi chưng trời, lăn lóc làm chi cho nhọc hơi”.
Vậy nên, “mới biết doanh hư là có số, ai mà cãi được lòng trời”.
Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng tin vào sự tuần hoàn của trời, của thiên đạo; rằng, hết xuân hạ đến thu đông, hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai, cuộc đời luôn xoay vần chứ không bao giờ đứng yên. Với niềm tin đó, Nguyễn Trãi bao giờ cũng an nhiên tự tại. Ngay cả lúc gặp thất bại, Nguyễn Trãi cũng không đau khổ, dẫu gặp thành công cũng không tự đắc.
Nguyễn Trãi coi đó là hai điều kiện quan trọng không thể thiếu ở một con người hành động, nhất là trong hành động chính trị, điều đáng quý ở người quân tử là phải biết “do tùy thời thông biến. Đồng thời, ông còn chỉ ra rằng, trong hai điều kiện đó, loại thứ nhất là cơ sở, là điều kiện, quy định hoạt động của con người “phải thuận lòng trời mới hợp lòng người.
2.2.3 Tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi về thời thế
Có thể nói, chữ thời nổi lên như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông. Chữ thời mà Nguyễn Trãi nói đến chính là thời cơ, thời thế. Thời thế là xu thế tất yếu của thời đại, là hướng đi lên không gì cưỡng lại của lịch sử.
Thời là lúc có hoàn cảnh khách quan thuận lợi, cho phép hoạt động chủ quan của con người đạt được kết quả, thậm chí kết quả không ngờ, mà lúc khác không thể đạt được. Hiểu thời thế là biết phân tích tình hình một cách khách quan, nắm vững quy luật vận động, biến hóa của sự vật khách quan, để xác định, lựa chọn những phương pháp và hành động kịp thời, đúng lúc.
Vì lẽ đó, Nguyễn Trãi thường nhấn mạnh vấn đề phải kịp thời, đúng thời, không lỡ thời. Song, theo Nguyễn Trãi, không phải ai cũng có thể nắm được thời. Chỉ những người có tầm mắt tiến bộ, tư tưởng khoáng đạt, đại biểu cho một giai cấp đi lên mới hiểu được thời thế.
Ở Nguyễn Trãi, quan niệm về thời hoàn toàn không mang nghĩa thụ động hay có ý chỉ chờ thời, không có hành động tích cực. Mà trái lại, ông cho rằng, cần phải vừa xem xét, phân tích diễn biến của thời cuộc đang diễn ra để biết được thời đến, vừa tạo ra lực lượng chủ quan để đón thời, để ứng phó cho kịp, để có thể chủ động được, tức là phải tạo ra cái mà Nguyễn Trãi gọi là thế. Để thành công thì phải có cả thời lẫn thế. Bởi vì, có thời mà không có thế thì thời sẽ bị bỏ lỡ, có thế thì sẽ đón bắt được thời khi thời cơ đến.
2.3 Nét đặc sắc trong tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi
2.3.1 Tư tưởng nhân nghĩa
Với Nguyễn Trãi, trước hết, “nhân nghĩa cốt ở an dân .Nhân nghĩa như vậy chính là yêu nước, thương dân, đánh giặc, trừ bạo cứu nước, an dân; trong đó, “an dân” là mục đích của nhân nghĩa, còn “trừ bạo” là đối tượng và phương tiện của nhân nghĩa.
Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, cho nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo - Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn. Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo”. Nhân nghĩa như là một phép lạ làm cho “Càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong - Càn khôn ký bĩ nhi phục thái. Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông. Nó không chỉ được biểu hiện rõ nét nhất trong các quan điểm của Nguyễn Trãi về lòng thương người, an dân, trừ bạo, về đức hiếu sinh, mà còn được thể hiện trong các quan điểm của ông về đường lối chính trị, về nhân dân và về một xã hội thái bình.
Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi trước hết là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Với lòng thương người, tình người, sự chân thành, sự khoan dung độ lượng, Nguyễn Trãi không chỉ dạy cho mọi người hiểu và làm điều nhân nghĩa, mà tư tưởng nhân nghĩa của ông còn là phương tiện tốt nhất để thuyết phục kẻ thù, cảm hóa những kẻ lầm đường, thu phục lòng người.
Đây là nét độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, gọi là chiến lược “tâm công”, nghĩa là “đánh vào tấm lòng bằng tấm lòng”. Chiến lược này đã được Nguyễn Trãi thâu tóm linh hồn, chất tinh tuý từ trong các sách về binh pháp xưa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm và thái độ đối xử với kẻ thù đã đầu hàng. Nó thể hiện đậm nét đức “hiếu sinh”, “khoan dung” và lòng nhân ái của dân tộc Việt. Nguyễn Trãi, cũng như Lê Lợi, chủ trương không giết kẻ thù đã đầu hàng để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cho chúng rút về nước không mất thể diện.Đó là tinh thần nhân đạo cao cả và triết lý nhân sinh sâu sắc của ông. Nguyễn Trãi và Lê Lợi cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hàng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Nguyễn Trãi thực là một con người “kinh bang tế thế”, tư tưởng “vang đến muôn đời”.
Trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, ngoài những đặc điểm trên, còn phải kể đến tư tưởng về nhân dân của ông. Cuộc đời Nguyễn Trãi, trừ những năm ông sống ở Thăng Long và Côn Sơn, là cuộc sống của một Nho sĩ nghèo, thiếu thốn, mười năm cùng Lê Lợi chống quân Minh là mười năm cực kỳ gian khổ.
Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi với nhân dân, hòa mình vào nhân dân, nên ông đã nhìn thấy những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân và tin vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân.
Vì thế, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đậm đà, sâu sắc, mang nhiều nét độc đáo, rất gần gũi với nhân dân. Đối với Nguyễn Trãi, “yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người.
2.3.2 Tư tưởng xây dựng một đất nước thái bình
Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép.
Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.
Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
2.3.3 Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi - nhân tố cấu thành sức mạnh văn hoá tinh thần
Đó chính là sức mạnh văn hoá tinh thần. Chính Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã thành công khi biết khai thác và phát huy sức mạnh của cộng đồng Đại Việt có văn hóa. Thành công về mặt này của Nguyễn Trãi đã mang lại sức mạnh dân tộc để chiến .thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.
Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, những nhân tố cấu thành sức mạnh văn hoá tinh thần của dân tộc bao gồm lòng yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc về cương vực của tổ quốc cũng như những giá trị bản sắc văn hoá, ý chí đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ bản sắc văn hóa của mình. Chính vì vậy, tư tưởng về Quốc gia độc lập luôn được ông nêu ra một cách tập trung nhất, bao trùm các nhân tố khác. Trong Đại cáo bình Ngô, ông viết:
“ Như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến
Bờ cõi núi sông đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên làm đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”.
Vì thế, trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong quá trình dựng nước, nhân tố đó phải được phát huy. Phát huy được nhân tố đó thì sức mạnh dân tộc mới được phát huy đầy đủ, đạt mức cao nhất. Trong thư dụ thành Bắc Giang, để chỉ cho địch thấy sức mạnh truyền thống vốn có của dần tộc, ông viết: " Người có Bắc Nam, đạo không kia khác. Nhân nhân quân tử đâu đâu là không có.
Khi đã giành được độc lập, ông vẫn nêu trách nhiệm giữ gìn phong hóa của đất nước, coi đó là một trong những cội nguồn sức sống của dân tộc.
Trong cuốn Dư địa chí, ông viết: "Người nước Nam không được bắt chước ngôn ngữ và y phục của nước Ngô, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân Lạp để làm loạn phong tục trong nước".
Phương thức huy động nguồn lực con người của Nguyễn Trãi còn bao hàm phương thức lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, lấy đại nghĩa thắng hung tàn. Theo ông, phải biết sử dụng sức mạnh cộng đồng đánh trúng vào điểm yếu của quân địch, hướng vào giải quyết đúng nhiệm vụ quan trọng nhất.
Phát huy sức mạnh cộng đồng trên cơ sở hoà mục cũng là một điểm đáng chú ý trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Trước hết, ông đánh giá cao vai trò quan trọng của đội ngũ quan lại, giải quyết các mối quan hệ của đội ngũ này.
Ông yêu cầu quan lại phải bớt lòng tư dục, sửa bỏ tệ tham ô, lười biếng, đối với vua thì hết trung, đối với dân thì hết hòa, biết nhường nhịn, chịu thiệt về mình. Đối với nhân dân, ông mong muốn nhà vua sửa đổi chỉnh sách, tạo điều kiện thuận lợi cho dân làm ăn, sinh sống để tạo sự hòa khí, lòng tin tưởng nơi dân. Ông coi đó là điều cốt lõi để giữ cho xã hội thái bình, thịnh trị.
III. KẾT LUẬN
Trên đây mới chỉ là một vài nét cơ bản và đặc sắc trong tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi. Song, qua đó, chúng ta vẫn có thể thấy rằng, tư tưởng triết học của ông hoàn toàn không phải là những vấn đề tản mạn, mà trái lại, nó đã đạt đến một trình độ tư duy mang tính khái quát khá cao. Đặc biệt, ẩn chứa đằng sau hệ thống các quan điểm về thiên mệnh, về trời đất và con người, về nhân nghĩa và thời thế đó là “chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam được phát triển đến đỉnh cao trong điều kiện chiến tranh nhân dân, đánh đuổi giặc Minh xâm lược, giành độc lập và xây dựng nước nhà" của Nguyễn Trãi.
Những tư tưởng trên đây cho thấy về cơ bản, Nguyễn Trãi có những quan niệm đúng đắn, nhân đạo sâu sắc về vấn đề con người. Con người trong tư tưởng của ông thực sự là con người văn hoá, không tách rời những giá trị văn hoá, đặc biệt là văn hoá tinh thần.
Chính vì vậy mà việc khai thác nguồn lực của con người trong tư tưởng Nguyễn Trãi đã khá toàn diện, cả nhân tố vật chất lẫn nhân tố văn hoá, tinh thần. Đề cao những giá trị văn hoá tinh thần như độc lập dân tộc, phong tục truyền thống, tình yêu thương hoà mục, tôn trọng lợi ích chung... để phát huy cao độ nguồn nội lực dân tộc là một giá trị lớn trong tư tưởng của ông.
Tư tưởng ấy có giá trị to lớn đối với hiện thực lịch sử .Góp phần giáo dục lòng yêu nước thương dân, tinh thần chiến đấu vì độc lập, tự do, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết dân tộc của nhân dân ta
1. Nguyễn Trãi - Cuộc đời và sự nghiệp _Giáo trình Đại học Cần Thơ
2. Trương Ngọc Hương, 2003_Luận đề về Nguyễn Trãi. Nxb Thanh Niên
3. Đường Anh Sơn 2009_Nguyễn Trãi Ức Trai Thi Tập. Nxb Văn Hóa Sài Gòn
4. Vũ Đường Quý 1998_Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông.Nxb Giáo Dục
5. Nhiều tác giả 1980. Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa của dân tộc.Nxb Khoa Học Xã hội
6. www.http.nguyentrai.net
7. www.http.google.com.vn
8. www.http.Thuviendientu.com.vn
9. www.http.Wikipedia.com
:26::26::26::26:.Hãy để tâm hồn cuốn theo gió....