An Nhiên^^
Moderator
- Xu
- 0
Nam Phương Hoàng Hậu (Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan)
Nam Phương Hoàng Hậu người con gái đất Gò Công sắc nước hương trời, thông minh tài giỏi, sinh ra trong một gia đình quyền quý giàu có bậc nhất đất nam kỳ, là 1 vị hoàng hậu đương triều được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, nhưng cuộc đời lại không có được hạnh phúc vẹn toàn, ra đi trong lẻ loi cô độc nơi đất khách quê người không người thân thuộc bên cạnh
Nam Phương Hoàng Hậu (14/2/1914 – 16/9/1963) tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan vì theo công giáo nên bà còn có tên thánh là Marie Thérèse, bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Nguyên, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam
Thuở nhỏ
Hoàng hậu Nam Phương sinh ra tại tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình có truyền thống theo đạo công giáo rất giàu có. Bà là cháu ngoại của ông Huyễn Sỹ, Lê Phát Đạt. Ông Huyễn Sỹ, người đứng đầu nhóm tứ đại phú hộ Sài Gòn xưa với câu ví von “nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”.
Gia đình bên ngoại của hoàng hậu Nam Phương rất nổi tiếng trong giới công giáo thời bấy giờ, hiện nay ở Sài Gòn có 3 nhà thờ lớn được xây dựng do đóng góp của bên ngoại nhà hoàng hậu đó là nhà thờ giáo xứ Chợ Đũi, nhà thờ Chí Hòa và nhà thờ Hạnh Thông Tây. Cũng chính vì có nhiều đóng góp cho công giáo nên khi ông Huyễn Sỹ và vợ mình bà Huỳnh Thị Tài mất, cả 2 đều được chôn cất và dựng tượng tại nhà thờ Chợ Đũi
Tượng toàn thân ông Lê Phát Đạt, ông ngoại hoàng hậu Nam Phương trên nấm mồ bằng đá cẩm thạch bên trong nhà thờ giáo xứ Chợ Đũi, Q1, TP HCM
Còn bà Lê Thị Bính mẹ hoàng hậu Nam Phương là con gái thứ của ông Huyện Sỹ, thuở nhỏ được cha gửi vào học trường dòng tại Sài Gòn, cha bà là ông Nguyễn Hữu Hào. Thường nhật, vợ chồng ông Hào sống trong ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du, TP.HCM (nay là Lãnh sự quán Hàn Quốc ). Hai ông bà có 2 người con gái, người chị đầu của Hoàng hậu là Agnès Nguyễn Hữu Hào về sau lấy chồng người Pháp là bá tước Didelot
Năm 1926 khi mới 12 tuổi gia đình ông Hào cho Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sang Paris, Pháp học tại trường nữ tu dòng đức bà Couvent des Oiseaux, đây là một trường danh tiếng ở Pháp do các nữ tu điều hành. Sau khi đậu tú tài tại trường này (tương đương tốt nghiệp cấp 3 bây giờ) bà lên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie Maritime trở về Việt Nam
Có một điều đặc biệt là trên chuyến tàu D’Artagnan hồi loan lúc đó cũng có vua Bảo Đại người chồng tương lai đi cùng, nhưng lúc này hai người chưa biết nhau
Nam Phương Hoàng Hậu thời con gái
Khi về lại Việt Nam Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan ở tại căn nhà của gia đình ở đường Nguyễn Du tp HCM bây giờ. Bà cùng chị của mình mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ giáo xứ Chợ Đũi. Nhà thờ này theo thói quen lấy tên ông Huyện Sỹ
Nhìn chung tuổi thơ của Nam Phương trôi qua trong êm đềm đầy đủ về vật chất và tinh thần khác hẳn với sau này khi bà lên làm Hoàng Hậu nhà Nguyễn
Nam Phương Hoàng Hậu
Mùa hè năm 1933, vua Bảo Đại cùng vợ chồng Charles vào Đà Lạt nghỉ ngơi. Toàn quyền Pháp là Pasquier ra lệnh cho viên Đốc lý (thị trưởng) Đà Lạt là Darles tổ chức một buổi dạ tiệc. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại khách sạn La Palace với sự tham dự đông đủ văn võ bá quan Pháp – Nam triều cùng với cánh nhà giàu. Trong buổi dạ tiệc này, vua Bảo Đại và Thị Lan được sắp xếp ngồi cạnh với nhau để trở nên thân mật và cùng nhau khiêu vũ
Những ngày tháng vua Bảo Đại nghỉ mát ở Đà Lạt thường được vợ chồng Charles mời đến sân quần vợt của dinh Toàn quyền chơi tennis và mời cả vợ chồng Lê Phát An cùng với Nguyễn Hữu Thị Lan tới chơi. Vua Bảo Đại được ra sân đánh quần vợt với người đẹp thì còn gì bằng, và chính những buổi trên sân quần vợt này đã làm cho con tim Bảo Đại rung động. Chẳng bao lâu Bảo Đại đã mạnh dạn ngỏ ý và xin cưới Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ.
Khách Sạn Hotel Palace Đàlạt nơi gặp mặt lần đầu giữa vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu
Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy mối tình Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan có sự sắp đặt một cách khéo léo và tinh vi của vợ chồng viên Khâm sứ Huế Charles ngay từ khi Bảo Đại còn đang học ở bên Pháp, để phục vụ cho mục đích chính trị.
Tuy nhiên, một tờ báo Sài Gòn hồi cuối năm 1933 có phỏng vấn Nam Phương Hoàng hậu sau ngày lấy Bảo Đại và bà đã trả lời như sau: “… Cuộc hôn nhân giữa tôi và Hoàng thượng là một sự tình cờ. Vì hai người đã gặp nhau trong một bữa dạ hội ở Dinh Đốc lý Darles tại thị xã Đà Lạt vào năm 1933. Lúc ấy tôi mới 20 tuổi, tôi không để ý gì đến Hoàng đế, nhưng Hoàng đế đã chú ý đến tôi…”.
Về mối tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:
“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:
“Hôm đó ông Darle, Đốc Lí thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”. Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.
Đó là tất cả những gì chúng ta biết được về mối tình hoàng tộc nổi tiếng này. Mối tình đó dù có sắp đặt hay tình cờ nên duyên thì họ cũng đã tiến đến hôn nhân
Vua Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:
1. Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
2. Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
3. Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
4. Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau
Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và theo Công giáo. Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại đã nói: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình.”
Ngày 20/3/1934, vua Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Hoàng phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi.
Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế”.
Sau lễ cưới, Bảo Đại hoàng đế cùng Nam Phương hoàng hậu dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện này được vua Khải Định xây nhưng đã được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều Bảo Đại.
Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương hoàng hậu đã hạ sinh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Hoàng hậu đã sinh một Hoàng tử. Người đó chính là Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long.
Hoàng Hậu Nam Phương, Thái Tử Bảo Long, Đức Từ Cung và Vua Bảo Đại
Nam Phương hoàng hậu cùng Bảo Đại hoàng đế có tất cả 5 người con:
1. Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, tước phong Hoàng thái tử.
2. Phương Mai công chúa, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937.
3. Phương Liên công chúa, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938.
4. Phương Dung công chúa, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942.
5. Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, Nhị hoàng tử.
Khi đó công việc hàng ngày của Hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Từ Cung Hoàng thái hậu, tức mẹ của Bảo Đại Đế. Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Hoàng hậu cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Bảo Đại hoàng đế trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên… Lần Bảo Đại Đế tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài.
Trở về làm thường dân
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày 30 tháng 8 1945, Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức “Cố vấn tối cao” trong chính phủ. Ngày 16 tháng 3 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng không trở về nước. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu Nam Phương rời khỏi thành nội ra sống ngay tại khách sạn Morin, lúc này đây khách sạn duy nhất trong kinh đô Huế để chờ đợi thời cơ sang Pháp, cũng như tránh khỏi cuộc chiến chính trị trong Thành Nội. Ngày 1 tháng 1 1947 Nam Phương hoàng hậu cùng các con sang Pháp.
Tuy vậy, Nam Phương hoàng hậu được nhiều người đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
“Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương củaĐồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi”
Nam Phương Hoàng Hậu cũng là người tiêu biểu trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với “Tuần lễ Vàng” do Việt Minh phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày 17 tháng 9 1945, bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo hết số hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người. Sau đó bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng.
Định cư tại Pháp và qua đời
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nướcPháp. Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách… Bảo Đại có đến thăm bà vài lần. Tháng 1 năm 1962, công chúa Phương Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain. Bảo Đại cũng đến dự và đám cưới đó là một sự kiện của vùng.
Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.
Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963[11]. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của Nam Phương Hoàng Hậu được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac. Trong suốt thời gian tang lễ Cựu hoàng Bảo Đại cũng không có mặt. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.
Ngôi mộ lẻ loi cô độc nơi đất khách quê người của Hoàng Hậu Nam Phương tại làng Chabrignac, Pháp
Người tới viếng thăm có thể thấy tấm bia, mặt trước khắc chữ Hán và mặt sau khắc chữ Pháp, để tưởng nhớ tới Nam Phương Hoàng Hậu.
Nam Phương Hoàng Hậu người con gái đất Gò Công sắc nước hương trời, thông minh tài giỏi, sinh ra trong một gia đình quyền quý giàu có bậc nhất đất nam kỳ, là 1 vị hoàng hậu đương triều được coi là bậc mẫu nghi thiên hạ, nhưng cuộc đời lại không có được hạnh phúc vẹn toàn, ra đi trong lẻ loi cô độc nơi đất khách quê người không người thân thuộc bên cạnh
Nam Phương Hoàng Hậu (14/2/1914 – 16/9/1963) tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan vì theo công giáo nên bà còn có tên thánh là Marie Thérèse, bà là vị hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Nguyên, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam
Thuở nhỏ
Hoàng hậu Nam Phương sinh ra tại tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình có truyền thống theo đạo công giáo rất giàu có. Bà là cháu ngoại của ông Huyễn Sỹ, Lê Phát Đạt. Ông Huyễn Sỹ, người đứng đầu nhóm tứ đại phú hộ Sài Gòn xưa với câu ví von “nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa”.
Gia đình bên ngoại của hoàng hậu Nam Phương rất nổi tiếng trong giới công giáo thời bấy giờ, hiện nay ở Sài Gòn có 3 nhà thờ lớn được xây dựng do đóng góp của bên ngoại nhà hoàng hậu đó là nhà thờ giáo xứ Chợ Đũi, nhà thờ Chí Hòa và nhà thờ Hạnh Thông Tây. Cũng chính vì có nhiều đóng góp cho công giáo nên khi ông Huyễn Sỹ và vợ mình bà Huỳnh Thị Tài mất, cả 2 đều được chôn cất và dựng tượng tại nhà thờ Chợ Đũi
Còn bà Lê Thị Bính mẹ hoàng hậu Nam Phương là con gái thứ của ông Huyện Sỹ, thuở nhỏ được cha gửi vào học trường dòng tại Sài Gòn, cha bà là ông Nguyễn Hữu Hào. Thường nhật, vợ chồng ông Hào sống trong ngôi biệt thự ở đường Nguyễn Du, TP.HCM (nay là Lãnh sự quán Hàn Quốc ). Hai ông bà có 2 người con gái, người chị đầu của Hoàng hậu là Agnès Nguyễn Hữu Hào về sau lấy chồng người Pháp là bá tước Didelot
Năm 1926 khi mới 12 tuổi gia đình ông Hào cho Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sang Paris, Pháp học tại trường nữ tu dòng đức bà Couvent des Oiseaux, đây là một trường danh tiếng ở Pháp do các nữ tu điều hành. Sau khi đậu tú tài tại trường này (tương đương tốt nghiệp cấp 3 bây giờ) bà lên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie Maritime trở về Việt Nam
Có một điều đặc biệt là trên chuyến tàu D’Artagnan hồi loan lúc đó cũng có vua Bảo Đại người chồng tương lai đi cùng, nhưng lúc này hai người chưa biết nhau
Nam Phương Hoàng Hậu thời con gái
Nhìn chung tuổi thơ của Nam Phương trôi qua trong êm đềm đầy đủ về vật chất và tinh thần khác hẳn với sau này khi bà lên làm Hoàng Hậu nhà Nguyễn
Nam Phương Hoàng Hậu
Mùa hè năm 1933, vua Bảo Đại cùng vợ chồng Charles vào Đà Lạt nghỉ ngơi. Toàn quyền Pháp là Pasquier ra lệnh cho viên Đốc lý (thị trưởng) Đà Lạt là Darles tổ chức một buổi dạ tiệc. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại khách sạn La Palace với sự tham dự đông đủ văn võ bá quan Pháp – Nam triều cùng với cánh nhà giàu. Trong buổi dạ tiệc này, vua Bảo Đại và Thị Lan được sắp xếp ngồi cạnh với nhau để trở nên thân mật và cùng nhau khiêu vũ
Những ngày tháng vua Bảo Đại nghỉ mát ở Đà Lạt thường được vợ chồng Charles mời đến sân quần vợt của dinh Toàn quyền chơi tennis và mời cả vợ chồng Lê Phát An cùng với Nguyễn Hữu Thị Lan tới chơi. Vua Bảo Đại được ra sân đánh quần vợt với người đẹp thì còn gì bằng, và chính những buổi trên sân quần vợt này đã làm cho con tim Bảo Đại rung động. Chẳng bao lâu Bảo Đại đã mạnh dạn ngỏ ý và xin cưới Nguyễn Hữu Thị Lan làm vợ.
Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy mối tình Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan có sự sắp đặt một cách khéo léo và tinh vi của vợ chồng viên Khâm sứ Huế Charles ngay từ khi Bảo Đại còn đang học ở bên Pháp, để phục vụ cho mục đích chính trị.
Tuy nhiên, một tờ báo Sài Gòn hồi cuối năm 1933 có phỏng vấn Nam Phương Hoàng hậu sau ngày lấy Bảo Đại và bà đã trả lời như sau: “… Cuộc hôn nhân giữa tôi và Hoàng thượng là một sự tình cờ. Vì hai người đã gặp nhau trong một bữa dạ hội ở Dinh Đốc lý Darles tại thị xã Đà Lạt vào năm 1933. Lúc ấy tôi mới 20 tuổi, tôi không để ý gì đến Hoàng đế, nhưng Hoàng đế đã chú ý đến tôi…”.
Về mối tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:
“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:
“Hôm đó ông Darle, Đốc Lí thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”. Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.
Đó là tất cả những gì chúng ta biết được về mối tình hoàng tộc nổi tiếng này. Mối tình đó dù có sắp đặt hay tình cờ nên duyên thì họ cũng đã tiến đến hôn nhân
Vua Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:
1. Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
2. Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
3. Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
4. Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau
Nguyễn Hữu Thị Lan là người nổi tiếng xinh đẹp, từng ba năm liền đạt giải hoa hậu Đông Dương, nhưng bà mang quốc tịch Pháp và theo Công giáo. Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại đã nói: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình.”
Ngày 20/3/1934, vua Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương hoàng hậu. Đây là một việc làm phá lệ bởi vì kể từ khi vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn cho đến vua Khải Định, các vợ vua chỉ được phong tước Hoàng phi, sau khi mất mới được truy phong Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi.
Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: “Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế”.
Sau lễ cưới, Bảo Đại hoàng đế cùng Nam Phương hoàng hậu dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện này được vua Khải Định xây nhưng đã được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều Bảo Đại.
Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương hoàng hậu đã hạ sinh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Hoàng hậu đã sinh một Hoàng tử. Người đó chính là Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long.
Hoàng Hậu Nam Phương, Thái Tử Bảo Long, Đức Từ Cung và Vua Bảo Đại
Nam Phương hoàng hậu cùng Bảo Đại hoàng đế có tất cả 5 người con:
1. Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, tước phong Hoàng thái tử.
2. Phương Mai công chúa, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937.
3. Phương Liên công chúa, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938.
4. Phương Dung công chúa, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942.
5. Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, Nhị hoàng tử.
Khi đó công việc hàng ngày của Hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Từ Cung Hoàng thái hậu, tức mẹ của Bảo Đại Đế. Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Hoàng hậu cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Bảo Đại hoàng đế trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên… Lần Bảo Đại Đế tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài.
Trở về làm thường dân
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 25 tháng 8, Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày 30 tháng 8 1945, Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là ông Trần Huy Liệu. Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức “Cố vấn tối cao” trong chính phủ. Ngày 16 tháng 3 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng không trở về nước. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu Nam Phương rời khỏi thành nội ra sống ngay tại khách sạn Morin, lúc này đây khách sạn duy nhất trong kinh đô Huế để chờ đợi thời cơ sang Pháp, cũng như tránh khỏi cuộc chiến chính trị trong Thành Nội. Ngày 1 tháng 1 1947 Nam Phương hoàng hậu cùng các con sang Pháp.
Tuy vậy, Nam Phương hoàng hậu được nhiều người đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
“Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương củaĐồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi”
Nam Phương Hoàng Hậu cũng là người tiêu biểu trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với “Tuần lễ Vàng” do Việt Minh phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày 17 tháng 9 1945, bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo hết số hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người. Sau đó bà được gắn một huy hiệu in cờ đỏ sao vàng.
Định cư tại Pháp và qua đời
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Những năm cuối đời, bà sống lặng lẽ cùng các con tại Perche, một làng cổ ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Limousin nướcPháp. Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách… Bảo Đại có đến thăm bà vài lần. Tháng 1 năm 1962, công chúa Phương Liên thành hôn với một người Pháp, Bernard Soulain. Bảo Đại cũng đến dự và đám cưới đó là một sự kiện của vùng.
Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.
Một lần, sau chuyến đi chơi về, bà thấy đau cổ. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng bà càng khó thở hơn và trái tim bà đã ngừng đập ở tuổi 49. Bà mất ngày 14 tháng 9 năm 1963[11]. Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của Nam Phương Hoàng Hậu được tổ chức một cách sơ sài lặng lẽ, thưa thớt, vắng vẻ, không tiếng khóc than, không lời ai điếu. Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac. Trong suốt thời gian tang lễ Cựu hoàng Bảo Đại cũng không có mặt. Nấm mộ đơn sơ đặt trong nghĩa trang của nhà thờ ngay tại Chabrignac, kém cả những ngôi mộ xây đủ hình khối ở ngay bên cạnh.
Người tới viếng thăm có thể thấy tấm bia, mặt trước khắc chữ Hán và mặt sau khắc chữ Pháp, để tưởng nhớ tới Nam Phương Hoàng Hậu.