Nam Cao- Quan điểm nghệ thuật
Ngay từ khi xuất hiện trên văn dàn Nam Cao đã chịu ảnh hưởng khá rõ của văn học lãng mạn đương thời. Ông đi theo xu hướng “Nghệ thuật vị nghệ thuật”thoát li thực tế. Nhưng dần dần Nam Cao nhận ra thứ văn chương mơ mộng, ảo tưởng ấy rất xa lạ với đời sống lầm than của quần chúng nghèo khổ xung quanh. Nam Cao nhanh chóng trở về với cuộc đời thực. Sự chuyển biến của Nam Cao từ xu hướng nghệ thuật lãng mạn sang quan điểm hiện thực là cả một quá trình phấn đấu gian khổ nhưng dứt khoát. Để xác định cho mình một quan điểm sống và viết đúng đắn, Nam Cao đã trải qua không ít những dằn vặt, băn khoăn.
Truyện ngắn Trăng sáng đã thể hiện rất rõ điều này. Đó là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao, tuyên chiến với thứ văn chương lãng mạn tiêu cực: Xóa nhòa ranh giới giữa hiện thực với văn chương, tách rời con người nghệ sĩ và con người xã hội, với tính chất phi hiện thực của nó. Trăng sáng là bản tự thuật về diễn biến tâm lý, là quá trình dằn vặt đầy đau đớn của nhà văn để đi tới đoạn tuyệt với thứ văn chương chạy theo vẻ bề ngoài, thi vị hóa cuộc sống, coi nghệ thuật như là “cái ánh trăng xanh huyền ảo, nó làm đẹp đến những cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa”. Nam Cao đã công khai quan điểm nghệ thuật của mình, ông viết: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” [tuyển tập Nam Cao, tr.319]. Ông phê phán thứ văn chương lãng mạn thoát ly, Nam Cao đòi hỏi nghệ thuật phải trở về với đời sống hiện thực, phản ánh chân thực hiện thực. Người cầm bút phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc sống.Nam Cao ý thức được nhiệm vụ nặng nề mà người nghệ sĩ phải gánh vác. Qua nhân vật Hộ, Nam Cao nhấn mạnh ý nghĩa cao quý của văn nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật: “Văn chương phải khơi những nguồn chưa ai khơi sáng tạo những gì chưa có” [Tuyển tập Nam Cao, Tr.319].
Đến đây nhà văn đã thực sự chia tay với khuynh hướng lãng mạn thoát ly để đến với khuynh hướng hiện thực. Nam Cao cũng chỉ ra rằng: “Một tác phẩm có giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho loài người. Nó chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” [Tuyển tập Nam Cao, Tr.327]. Ở sự đổi mới nghệ thuật, Nam Cao đánh giá rất cao sự đào sâu, tìm tòi, sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Ông cho rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” [Tuyển tập Nam Cao, Tr.319]. Nó đã trở thành phương châm trong quá trình sáng tác của nhà văn. Sau cách mạng tháng Tám thì ý thức trách nhiệm đối với ngòi bút ngày càng rõ rệt hơn.
Ông quan niệm văn nghệ sĩ phải sống và viết vì Tổ quốc, nhân dân. Với trách nhiệm của người công dân yêu nước chân chính, Nam Cao cho rằng “nếu chưa cầm súng một phen thì cầm viết còn vụng về”. Đó là tư tưởng của nhà văn - chiến sĩ. Nhờ vào quan niệm sáng tác riêng của mình, Nam Cao đã tạo cho mình một chỗ đứng. Nam Cao không đặt nghề văn cao hơn mọi nghề, nhưng ông là người có suy nghĩ nghiêm túc và cẩn trọng với cái nghề mà mình theo đuổi. Nam Cao đã xây dựng cho mình một hệ thống quan điểm sáng tác độc đáo và được xem là khuôn mẫu mực thước, nó có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả những cây bút đương thời cũng như nhiều thế hệ nhà văn.
-minhnguyen-