Một sự phân biệt bị đánh mất
(Dù với tuy và mặc dầu)
Một ngôn ngữ làm tròn công năng của nó là nhờ những sự phân biệt. Những sự phân biệt về hình thức - âm thanh, trật tự của các dấu hiệu, v.v. - không nhiều thì ít đều báo hiệu những sự phân biệt về nội dung, tức về nghĩa, và những phơng tiện phân biệt về hình thức càng phong phú bao nhiêu thì những nội dung đợc truyền đạt càng minh xác và tinh tế bấy nhiêu.
Vì vậy, khi những ngời thuộc thế hệ trớc thấy trong tiếng mẹ đẻ có những sự phân biệt bị đánh mất đi, họ tất nhiên phải có phần lo lắng tự hỏi: không biết đây có phải là một bớc phát triển có tính quy luật của ngôn ngữ hay chỉ là kết quả của một sự khinh suất nào đó đã dần dần phổ biến để trở thành một thói quen chung đợc mọi ngời dung thứ rồi rốt cục chấp nhận nh một chuẩn mực?
Trong bài này, chúng tôi muốn nói đến một hiện tợng rất phổ biến trong cách sử dụng tiếng Việt của các văn bản xuất hiện vào khoảng mơi năm nay trên báo chí, sách vở, kể cả văn bản khoa học và nghệ thuật: đó là lối sử dụng dù (dầu, dẫu, cho dù, dù cho, cho dầu, dầu cho, dẫu cho) thay cho tuy và mặc dầu.
Ngày nay, dù đợc dùng phổ biến hơn hẳn tuy và mặc dầu ở những chỗ mà trớc những năm 70, ngời cầm bút vẫn dùng hai từ sau với một ý nghĩa khác hẳn. Vậy sự khác nhau ấy ra sao?
So sánh cách dùng các từ nói trên với nhau trong các tác phẩm cổ điển của thế kỷ 18 nh Truyện Kiều, ta thấy rằng một mặt, dù đợc dùng theo một nghĩa cũ không còn có trong cách dùng ngày nay: nghĩa của nếu (đánh dấu một câu phụ chỉ điều kiện) chẳng hạn nh trong câu:
Mai sau dù có bao giờ
Thắp lò hơng ấy so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ cành cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Cách dùng theo nghĩa này cũng thấy còn lại trong ca dao tục ngữ cận đại và hiện đại:
Dù ai lấy đợc chồng khôn,
Nh hũ vàng cốm anh chôn đầu giờng.
Vào thời ấy, chữ nẻo cha biến âm thành chữ nếu và đợc dùng thay cho dù nh bây giờ, và ta không đợc rõ sự phân biệt giữa hai ý nghĩa dù và nếu nh hiện nay đợc diễn đạt nh thế nào. Rất có thể là nó đợc dùng để diễn đạt cả hai nghĩa, vì cả hai đều có chứa đựng ý nghĩa "điều kiện", tức ý nghĩa "giả định". Vậy, mặt khác, giữa dù của thời trớc và nếu của ngày nay vẫn có một điểm chung khiến cho hai chữ đó khác hẳn với tuy và mặc dầu, tuy hiện nay giữa dù và nếu đã có một sự phân biệt rất rõ ràng.
Sự khác nhau này cũng phổ quát không kém gì sự khác nhau giữa dù và tuy. Chữ nếu dùng để đánh dấu tính điều kiện của một sự thể giả định: Nếu trời ma có nghĩa là "trong trờng hợp mà trời có thể ma (là nói giả dụ nh thế)". Sự thể giả định này đa ra trong phát ngôn là để thông báo một điều gì khác (phần thuyết của câu, thờng đi sau chữ thì) sẽ trở thành hiện thực khi nào cái sự thể giả định ấy trở thành hiện thực. Còn Dù trời ma hay Dù cho trời có ma có nghĩa là "ngay cả trong trờng hợp mà trời có ma (là nói giả dụ thế)". Nh vậy, so với nếu, dù có thêm cái ý "ngay cả", cho biết là ngời nói tiền giả định rằng "trời ma" là một hoàn cảnh thờng cản trở việc thực hiện điều sẽ đợc nói ở phần thuyết. Ðó không phải là một sự khác nhau ở tính chất hay chiều rộng của khung đề, mà là ở chỗ có hay không có một cái tiền giả định có liên quan đến tác dụng của sự thể (giả định) đợc trình bày trong khung đề đối với sự thể đợc trình bày trong phần thuyết.
Bây giờ ta thử xem trong tiếng Việt hiện đại, ít nhất là trớc 1970, dù (dù cho, dầu cho, dẫu cho, v.v.) khác với tuy và mặc dầu (mặc dù) nh thế nào. Ta thử so sánh hai câu sau đây:
(1) a. Tuy/ Mặc dầu hôm qua trời ma to, tôi vẫn đến.
b. Ngày mai dù có ma to gió lớn thế nào tôi cũng sẽ đến.
Sự khác nhau quan yếu giữa hai bên là ở chỗ: Trong khi chuyện hôm qua ma to là một hiện thực, thì chuyện ngày mai ma to chỉ là một giả định. Ðây là một sự phân biệt mà loại hình học ngôn ngữ đã nhận thấy tính phổ quát từ khá lâu. Trong khi hành chức, ngôn ngữ không thể không phân biệt giữa việc trần thuật những sự việc có diễn ra thực (nhất là những sự việc mà ngời nói có chứng kiến, với những giả định, những dự kiến, những phỏng đoán, những suy diễn, vốn chỉ có trong trí óc con ngời chứ không hề có (hay ít nhất là cha hề có) trong thế giới hiện thực, dù những dự đoán ấy có chắc chắn đến đâu chăng nữa. Ngôn ngữ học cũng đã dần dần nhận ra mối quan hệ đơng nhiên giữa "thì tơng lai" và cách diễn đạt tính không hiện thực: trong rất nhiều ngôn ngữ, cái mà ngời ta vẫn tởng là "thì tơng lai" thật ra là một hình thức diễn đạt ý nghĩa tình thái phi hiện thực, trong những ngôn ngữ có hình thái học có thể làm thành một thức (mood) riêng, thức giả định.
So sánh hai câu dẫn trên và những câu tơng tự, ta thấy sự phân biệt [ HIỆN THỰC] HAY HIỆN THỰC/GIẢ ÐỊNH giữa dù và tuy/mặc dầu lộ rõ ở chỗ hai từ sau không dùng cho những sự thể đợc giả định hay dự kiến cho tơng lai. Những câu nh:
(2) a.* Ngày mai, tuy/mặc dù trời ma to, tôi cũng sẽ đến.
b.* Sau này, tuy không gặp nhau, tôi cũng sẽ nhớ đến anh.
đều không ổn, và khó lòng có thể gặp trong một văn bản cũ, nh trong tiểu thuyết của Tự lực Văn đoàn chẳng hạn. Và ngay cả những ngời ngày nay thờng dùng tuy và mặc dầu cho những câu nh thế cũng phải thừa nhận.
Ngoài ra, tuy và mặc dầu cũng không thể dùng trong những câu chứa đựng một phần đề đợc đánh dấu là [ bất định/nghi vấn] hay một phần thuyết chứa đựng một tham tố [ bất định/nghi vấn]:
3. a.* Tuy/Mặc dầu có ai nói nh vậy anh cũng đừng tin
b.* Mặc dù/Tuy cần gì, anh cứ hỏi tôi.
c.* Tuy/Mặc dầu sao, nó cũng là em tôi.
d.* Mặc dầu/Tuy có đi đâu nó cũng nhớ về Hà Nội.
Trong những câu nh thế, tuy và mặc dầu đều phải đợc thay bằng dù.
Cuối cùng, giữa dù và tuy/mặc dầu còn có một sự phân biệt rõ rệt về cú pháp nữa. Một khung đề mở đầu bằng dù bao giờ cũng có thể đợc đánh dấu biên giới bằng thì, trong khi những câu trạng ngữ mở đầu bằng tuy và mặc dầu, vốn không phải là khung đề, không bao giờ đợc đánh dấu nh vậy.
Trên đây là tình hình trong tiếng Việt hiện đại kể cho tới những năm 70 của thế kỷ. Còn hiện nay thì không còn nh thế nữa. Cùng với u thế ngày càng lấn át của những lối viết bất thành cú, với những câu lẫn lộn chủ đề với khung đề (nh: Trong tình hình này đòi hỏi khắc phục ngay các tồn tại), lẫn lộn trạng ngữ với câu (nh: Với những cố gắng vợt bậc nhng họ vẫn không giải quyết đợc dứt điểm), lẫn lộn giữa trạng ngữ với chủ đề (nh: Bằng những hình tợng sắc nét của tác giả đã cho thấy...) (*), cách hành văn của một số ngời viết gần đây đã đánh mất những sự phân biệt quan trọng cho phép tiếng Việt truyền đạt những sắc thái tinh tế của t duy, nh sự phân biệt giữa xác định và bất định, giữa danh ngữ có sở chỉ và danh ngữ không có sở chỉ, giữa tiêu điểm và chủ đề, và cả những sự phân biệt cơ bản nh giữa hiện thực và phi hiện thực.
Ngày nay ta thấy có rất nhiều ngời dùng dù vừa nh một tác tử điều kiện, vừa nh một tác tử "nhân nhợng" (= tuy), chẳng hạn:
4. a. Dù nói tiếng Anh rất khá, anh ta chỉ có bằng A.
b. Dù cha quen anh, tôi đã đọc truyện ngắn của anh từ lâu.
c. Dù anh đã khuyên tôi nhiều lần, nhng tôi vẫn cha thông.
d. Dù nó rất giỏi môn lý, thì giám khảo cũng đánh trợt nó.
e. Dân bản xứ vẫn còn lo sợ dù tình hình đã lắng dịu hẳn.
Có thể nói rằng trong tất cả các câu này, ngời viết đều có ý muốn nói tuy hay mặc dầu, nhng cái tập quán dùng đúng những từ cần dùng để diễn đạt cái ý này đã mất đi rồi. Trong tất cả các câu trên không có lấy một lý do nhỏ nào để cho rằng cái mệnh đề bắt đầu bằng dù có tính chất giả định. Việc dùng dù tỏ ra đặc biệt phi lý trong những câu nh (4)b, và (4)c, trong đó ngời nói (tôi) và ngời nghe (anh) tất nhiên phải biết chắc chắn rằng mệnh đề đi sau dù là đúng sự thật, chứ tuyệt nhiên không có tính giả định. Trong (4)a và (4)d, dù không thể dung hòa với rất, vốn không thể dùng trong những câu phi hiện thực nh * Tôi muốn tìm mua một cái xe rất tốt (chỉ có thể nói một cái xe thật tốt).
Nh chúng tôi đã nói ở phần đầu bài này, đây có thể là một sự chuyển biến có tính quy luật khách quan, do yêu cầu phát triển tự nhiên của tiếng Việt mà có. Ngay những kiểu câu nh Với những hành động ấy cho thấy họ thiếu trách nhiệm cũng phải xét kỹ xem có phải là phạm lỗi không. Ta cứ nhìn sang tiếng Pháp mà xem: tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ nh ngày nay chính là do những lỗi ngữ pháp và từ vựng mà ngời bản xứ vì không nói đúng đợc tiếng La-tinh, phạm phải mà ra. Nhng chúng tôi trộm nghĩ đó là trờng hợp khác: những lỗi làm cho tiếng Việt mất đi những phơng tiện diễn đạt hữu hiệu và tinh tế nh vậy khó lòng có thể coi là một hiện tợng tiến bộ.
CAO XUÂN HẠO
(Dù với tuy và mặc dầu)
Một ngôn ngữ làm tròn công năng của nó là nhờ những sự phân biệt. Những sự phân biệt về hình thức - âm thanh, trật tự của các dấu hiệu, v.v. - không nhiều thì ít đều báo hiệu những sự phân biệt về nội dung, tức về nghĩa, và những phơng tiện phân biệt về hình thức càng phong phú bao nhiêu thì những nội dung đợc truyền đạt càng minh xác và tinh tế bấy nhiêu.
Vì vậy, khi những ngời thuộc thế hệ trớc thấy trong tiếng mẹ đẻ có những sự phân biệt bị đánh mất đi, họ tất nhiên phải có phần lo lắng tự hỏi: không biết đây có phải là một bớc phát triển có tính quy luật của ngôn ngữ hay chỉ là kết quả của một sự khinh suất nào đó đã dần dần phổ biến để trở thành một thói quen chung đợc mọi ngời dung thứ rồi rốt cục chấp nhận nh một chuẩn mực?
Trong bài này, chúng tôi muốn nói đến một hiện tợng rất phổ biến trong cách sử dụng tiếng Việt của các văn bản xuất hiện vào khoảng mơi năm nay trên báo chí, sách vở, kể cả văn bản khoa học và nghệ thuật: đó là lối sử dụng dù (dầu, dẫu, cho dù, dù cho, cho dầu, dầu cho, dẫu cho) thay cho tuy và mặc dầu.
Ngày nay, dù đợc dùng phổ biến hơn hẳn tuy và mặc dầu ở những chỗ mà trớc những năm 70, ngời cầm bút vẫn dùng hai từ sau với một ý nghĩa khác hẳn. Vậy sự khác nhau ấy ra sao?
So sánh cách dùng các từ nói trên với nhau trong các tác phẩm cổ điển của thế kỷ 18 nh Truyện Kiều, ta thấy rằng một mặt, dù đợc dùng theo một nghĩa cũ không còn có trong cách dùng ngày nay: nghĩa của nếu (đánh dấu một câu phụ chỉ điều kiện) chẳng hạn nh trong câu:
Mai sau dù có bao giờ
Thắp lò hơng ấy so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ cành cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Cách dùng theo nghĩa này cũng thấy còn lại trong ca dao tục ngữ cận đại và hiện đại:
Dù ai lấy đợc chồng khôn,
Nh hũ vàng cốm anh chôn đầu giờng.
Vào thời ấy, chữ nẻo cha biến âm thành chữ nếu và đợc dùng thay cho dù nh bây giờ, và ta không đợc rõ sự phân biệt giữa hai ý nghĩa dù và nếu nh hiện nay đợc diễn đạt nh thế nào. Rất có thể là nó đợc dùng để diễn đạt cả hai nghĩa, vì cả hai đều có chứa đựng ý nghĩa "điều kiện", tức ý nghĩa "giả định". Vậy, mặt khác, giữa dù của thời trớc và nếu của ngày nay vẫn có một điểm chung khiến cho hai chữ đó khác hẳn với tuy và mặc dầu, tuy hiện nay giữa dù và nếu đã có một sự phân biệt rất rõ ràng.
Sự khác nhau này cũng phổ quát không kém gì sự khác nhau giữa dù và tuy. Chữ nếu dùng để đánh dấu tính điều kiện của một sự thể giả định: Nếu trời ma có nghĩa là "trong trờng hợp mà trời có thể ma (là nói giả dụ nh thế)". Sự thể giả định này đa ra trong phát ngôn là để thông báo một điều gì khác (phần thuyết của câu, thờng đi sau chữ thì) sẽ trở thành hiện thực khi nào cái sự thể giả định ấy trở thành hiện thực. Còn Dù trời ma hay Dù cho trời có ma có nghĩa là "ngay cả trong trờng hợp mà trời có ma (là nói giả dụ thế)". Nh vậy, so với nếu, dù có thêm cái ý "ngay cả", cho biết là ngời nói tiền giả định rằng "trời ma" là một hoàn cảnh thờng cản trở việc thực hiện điều sẽ đợc nói ở phần thuyết. Ðó không phải là một sự khác nhau ở tính chất hay chiều rộng của khung đề, mà là ở chỗ có hay không có một cái tiền giả định có liên quan đến tác dụng của sự thể (giả định) đợc trình bày trong khung đề đối với sự thể đợc trình bày trong phần thuyết.
Bây giờ ta thử xem trong tiếng Việt hiện đại, ít nhất là trớc 1970, dù (dù cho, dầu cho, dẫu cho, v.v.) khác với tuy và mặc dầu (mặc dù) nh thế nào. Ta thử so sánh hai câu sau đây:
(1) a. Tuy/ Mặc dầu hôm qua trời ma to, tôi vẫn đến.
b. Ngày mai dù có ma to gió lớn thế nào tôi cũng sẽ đến.
Sự khác nhau quan yếu giữa hai bên là ở chỗ: Trong khi chuyện hôm qua ma to là một hiện thực, thì chuyện ngày mai ma to chỉ là một giả định. Ðây là một sự phân biệt mà loại hình học ngôn ngữ đã nhận thấy tính phổ quát từ khá lâu. Trong khi hành chức, ngôn ngữ không thể không phân biệt giữa việc trần thuật những sự việc có diễn ra thực (nhất là những sự việc mà ngời nói có chứng kiến, với những giả định, những dự kiến, những phỏng đoán, những suy diễn, vốn chỉ có trong trí óc con ngời chứ không hề có (hay ít nhất là cha hề có) trong thế giới hiện thực, dù những dự đoán ấy có chắc chắn đến đâu chăng nữa. Ngôn ngữ học cũng đã dần dần nhận ra mối quan hệ đơng nhiên giữa "thì tơng lai" và cách diễn đạt tính không hiện thực: trong rất nhiều ngôn ngữ, cái mà ngời ta vẫn tởng là "thì tơng lai" thật ra là một hình thức diễn đạt ý nghĩa tình thái phi hiện thực, trong những ngôn ngữ có hình thái học có thể làm thành một thức (mood) riêng, thức giả định.
So sánh hai câu dẫn trên và những câu tơng tự, ta thấy sự phân biệt [ HIỆN THỰC] HAY HIỆN THỰC/GIẢ ÐỊNH giữa dù và tuy/mặc dầu lộ rõ ở chỗ hai từ sau không dùng cho những sự thể đợc giả định hay dự kiến cho tơng lai. Những câu nh:
(2) a.* Ngày mai, tuy/mặc dù trời ma to, tôi cũng sẽ đến.
b.* Sau này, tuy không gặp nhau, tôi cũng sẽ nhớ đến anh.
đều không ổn, và khó lòng có thể gặp trong một văn bản cũ, nh trong tiểu thuyết của Tự lực Văn đoàn chẳng hạn. Và ngay cả những ngời ngày nay thờng dùng tuy và mặc dầu cho những câu nh thế cũng phải thừa nhận.
Ngoài ra, tuy và mặc dầu cũng không thể dùng trong những câu chứa đựng một phần đề đợc đánh dấu là [ bất định/nghi vấn] hay một phần thuyết chứa đựng một tham tố [ bất định/nghi vấn]:
3. a.* Tuy/Mặc dầu có ai nói nh vậy anh cũng đừng tin
b.* Mặc dù/Tuy cần gì, anh cứ hỏi tôi.
c.* Tuy/Mặc dầu sao, nó cũng là em tôi.
d.* Mặc dầu/Tuy có đi đâu nó cũng nhớ về Hà Nội.
Trong những câu nh thế, tuy và mặc dầu đều phải đợc thay bằng dù.
Cuối cùng, giữa dù và tuy/mặc dầu còn có một sự phân biệt rõ rệt về cú pháp nữa. Một khung đề mở đầu bằng dù bao giờ cũng có thể đợc đánh dấu biên giới bằng thì, trong khi những câu trạng ngữ mở đầu bằng tuy và mặc dầu, vốn không phải là khung đề, không bao giờ đợc đánh dấu nh vậy.
Trên đây là tình hình trong tiếng Việt hiện đại kể cho tới những năm 70 của thế kỷ. Còn hiện nay thì không còn nh thế nữa. Cùng với u thế ngày càng lấn át của những lối viết bất thành cú, với những câu lẫn lộn chủ đề với khung đề (nh: Trong tình hình này đòi hỏi khắc phục ngay các tồn tại), lẫn lộn trạng ngữ với câu (nh: Với những cố gắng vợt bậc nhng họ vẫn không giải quyết đợc dứt điểm), lẫn lộn giữa trạng ngữ với chủ đề (nh: Bằng những hình tợng sắc nét của tác giả đã cho thấy...) (*), cách hành văn của một số ngời viết gần đây đã đánh mất những sự phân biệt quan trọng cho phép tiếng Việt truyền đạt những sắc thái tinh tế của t duy, nh sự phân biệt giữa xác định và bất định, giữa danh ngữ có sở chỉ và danh ngữ không có sở chỉ, giữa tiêu điểm và chủ đề, và cả những sự phân biệt cơ bản nh giữa hiện thực và phi hiện thực.
Ngày nay ta thấy có rất nhiều ngời dùng dù vừa nh một tác tử điều kiện, vừa nh một tác tử "nhân nhợng" (= tuy), chẳng hạn:
4. a. Dù nói tiếng Anh rất khá, anh ta chỉ có bằng A.
b. Dù cha quen anh, tôi đã đọc truyện ngắn của anh từ lâu.
c. Dù anh đã khuyên tôi nhiều lần, nhng tôi vẫn cha thông.
d. Dù nó rất giỏi môn lý, thì giám khảo cũng đánh trợt nó.
e. Dân bản xứ vẫn còn lo sợ dù tình hình đã lắng dịu hẳn.
Có thể nói rằng trong tất cả các câu này, ngời viết đều có ý muốn nói tuy hay mặc dầu, nhng cái tập quán dùng đúng những từ cần dùng để diễn đạt cái ý này đã mất đi rồi. Trong tất cả các câu trên không có lấy một lý do nhỏ nào để cho rằng cái mệnh đề bắt đầu bằng dù có tính chất giả định. Việc dùng dù tỏ ra đặc biệt phi lý trong những câu nh (4)b, và (4)c, trong đó ngời nói (tôi) và ngời nghe (anh) tất nhiên phải biết chắc chắn rằng mệnh đề đi sau dù là đúng sự thật, chứ tuyệt nhiên không có tính giả định. Trong (4)a và (4)d, dù không thể dung hòa với rất, vốn không thể dùng trong những câu phi hiện thực nh * Tôi muốn tìm mua một cái xe rất tốt (chỉ có thể nói một cái xe thật tốt).
Nh chúng tôi đã nói ở phần đầu bài này, đây có thể là một sự chuyển biến có tính quy luật khách quan, do yêu cầu phát triển tự nhiên của tiếng Việt mà có. Ngay những kiểu câu nh Với những hành động ấy cho thấy họ thiếu trách nhiệm cũng phải xét kỹ xem có phải là phạm lỗi không. Ta cứ nhìn sang tiếng Pháp mà xem: tiếng Pháp trở thành một ngôn ngữ nh ngày nay chính là do những lỗi ngữ pháp và từ vựng mà ngời bản xứ vì không nói đúng đợc tiếng La-tinh, phạm phải mà ra. Nhng chúng tôi trộm nghĩ đó là trờng hợp khác: những lỗi làm cho tiếng Việt mất đi những phơng tiện diễn đạt hữu hiệu và tinh tế nh vậy khó lòng có thể coi là một hiện tợng tiến bộ.
CAO XUÂN HẠO