Trả lời chủ đề

MỘT SỐ TƯ TƯỞNG THIỀN HỌC CƠ BẢN CỦA TRẦN THÁI TÔNG


  



 LÊ THỊ LAN (*)



  Để  làm sáng tỏ nội dung tư tưởng và phương pháp tu thiền của Trần Thái  Tông (1218 - 1277) - vị vua mở nghiệp triều đại nhà Trần, trước hết, bài  viết tập trung giải thích các khái niệm cơ bản:  tâmkhôngPhật tínhgiớiđịnhtuệ .  Tiếp đó, bài viết phân tích các giai đoạn của con đường tu tập mà thiền  gia phải trải qua. Theo tác giả, Trần Thái Tông đã thâu tóm được toàn  bộ những yếu chỉ căn bản về tư tưởng và phương pháp tu thiền của thiền  học Vô Ngôn Thông, đồng thời diễn giải chúng hết sức dễ hiểu và qua đó,  đã góp phần phổ biến thiền học trong dân chúng.


   Trần  Thái Tông (1218-1277) tên thật là Trần Cảnh, là vị vua mở nghiệp nhà  Trần. Ông lên ngôi năm 1225. Năm 1258, ông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt  chiến thắng quân Mông Cổ xâm lược, bảo vệ đất nước độc lập, hoà bình.  Dưới triều đại Trần Thái Tông, “chính trị, văn hoá, tôn giáo đều cực  thịnh. Chính ông cũng chuyên tâm  nghiên cứu Phật học và sùng mộ đạo Phật nhưng không xem thường cái học  của các trường phái khác. Học thuật nước nhà do đó phát triển”(1).  Ông  là vị vua đỡ đầu việc phát triển Phật giáo Việt Nam, khiến cho Thiền học  phát triển rực rỡ. Dưới ảnh hưởng của ông, Phật giáo thiền tông không  chỉ tạo nên những giá trị tinh thần độc đáo trong sự phát triển đời sống  văn hoá - tôn giáo Đại Việt thế kỷ XIII - XIV mà còn góp phần tích cực  vào sự nghiệp bảo vệ đất nước chống quân xâm lược Nguyên Mông và xây  dựng nền hoà bình, thịnh vượng của triều đại nhà Trần. Hơn thế, tư tưởng thiền của Trần Thái Tông là một nền tảng lý luận quan trọng để dòng thiền Trúc Lâm - thành tựu rực rỡ nhất  của  Phật giáo thời Trần - hình thành và phát triển. Bài viết này tập trung  phân tích một số tư tưởng thiền học cơ bản của Trần Thái Tông - một  trong những giá trị đặc sắc nhất của thiền tông thời Trần với những ý  nghĩa tích cực góp phần tạo dựng nên tinh thần Đông A độc nhất vô nhị  trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam.(1)


  Năm 1236, theo bài tựa Thiền tông chỉ nam, Trần Thái Tông đã từng lên Yên Tử gặp Quốc sư Trúc Lâm đại sa môn xin đi tu. Theo Thiền uyển tập anh,  vị Quốc sư này có thể là Viên Chứng, thế hệ nhà sư thứ hai tu ở Yên Tử.  Trần Thái Tông đã chịu ảnh hưởng tư tưởng thiền trực tiếp từ vị Quốc sư  này. Nhưng sau đó, theo lời khuyên của Quốc sư và chủ yếu là do sức ép  của Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông đã thuận lòng trở về kinh thành,  vừa chuyên tâm cai trị đất nước, vừa gắng sức nghiên cứu thiền học. Sau  khoảng 10 năm, ông viết xong cuốn Thiền tông chỉ nam.  Sách này nay không còn, mà chỉ còn bài tựa. Theo lời khuyên của Quốc  sư, rằng “trong núi vốn không có Phật. Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng  lẽ mà hiểu, đó chính là Phật. Nay nếu bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập  tức thành Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên ngoài”(2), và căn cứ vào  hành trạng của Trần Thái Tông trong bài tựa đó, ta có thể đoán định:  ông đã thấu triệt tôn chỉ thiền tông.


  Căn  cứ vào lời khuyên đối với Trần Thái Tông của Quốc sư Trúc Lâm, có thể  thấy, các nhà sư trụ trì trên núi Yên Tử đã kế thừa những thành tựu tư  tưởng thiền Phật giáo thời Lý, chịu ảnh hưởng của thiền phái Vô Ngôn  Thông, là phái thiền tập trung vào khái niệm tâm. Theo thiền phái Vô  Ngôn Thông, Phật tức tâm, tâm tức Phật, khi người tu tập khiến cho cái  tâm trở nên trong sạch, trở nên siêu việt trên mọi ý niệm, trở thành  “tâm không” thì đó chính là lúc tâm đồng nhất với Phật. Lời của Quốc sư  đã cho thấy những yếu chỉ cơ bản của thiền Vô Ngôn: 1- Phật tại tâm  (lòng); 2- Tu tập đến độ giữ cho tâm yên tĩnh, phẳng lặng, đạt tới “tâm  không” mà thấu đạt mọi lẽ là đạt tới cảnh giới Phật; 3- Giác ngộ được  chân lý đó là thành Phật. Từ những chỉ dẫn này của Quốc sư, Trần Thái  Tông đã trở về kinh thành và suy niệm, triển khai tư tưởng thiền theo  hai hướng: 1- tiếp tục triển khai tư tưởng “tâm không” như là bản thể,  diệu tính, chân như của vạn vật và một số tư tưởng thiền học khác mang  tính lý luận siêu hình uyên áo; 2- hướng dẫn phương pháp tu tập thiền để  thanh lọc thân tâm, hướng tới giác ngộ. Những tư tưởng thiền đặc sắc  này của Trần Thái Tông có thể tìm thấy trong sách Khoá hư lục - sách tập hợp một số tác phẩm của ông còn lại đến ngày nay.


  1. Sự triển khai một số tư tưởng thiền học căn bản


   Thiền  học lấy tâm làm khái niệm căn bản để chỉ bản thể của thế giới. Trần  Thái Tông đã kế thừa quan niệm bản thể thế giới là không của thiền học  thời Lý: “Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ  không khởi ra hư vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ  cái chân không” ( 3); “Bốn núi chót vót muôn khóm xanh, Hiểu ra thì tất cả là hư vô, vạn vật là không” ( 4).  Bên cạnh khái niệm về tính không, Trần Thái Tông còn đưa ra các khái  niệm “chân tể”, “bản tính”, “chân tâm”, “bản tâm” để chỉ bản thể của thế  giới: “Bản tính huyền ngưng, chân tâm trạm tịch, dứt tuyệt ý niệm về  tròn khuyết, nếu không phải là người trí thì không truy cứu đến giềng  mối của nó. Nó không hợp, không tan, không mất, không còn… Vì nó không  phải hữu cũng không phải vô, không đạo cũng không tục, nó độc tồn, siêu  nhiên, ngoài nó không có gì khác, vì vậy nó là tự tính kim cương” ( 5).


   Quan  niệm chân tâm đồng nhất với tính không như trên của Trần Thái Tông có  rất nhiều điểm đồng nhất với quan niệm về “đạo” của Lão Tử. Điều này  cũng được ông thừa nhận khi tiếp tục quan điểm thiền học thời Lý cho  rằng mọi người đều có Phật tính, ai ai cũng có thể thành tựu được quá  trình tu tập, đạt tới giác ngộ nếu nhận thức được tâm không: “Nào biết  bồ đề giác tính, ai nấy viên thành; hay đâu trí tuệ thiện căn, người  người đều đủ. Chẳng cứ đại ẩn tiểu ẩn; đâu nền tại gia xuất gia. Chẳng  nề tăng tục, chỉ cốt tỏ lòng; nào kể gái trai, cớ sao nề tướng? Người  chưa hiểu chia bừa thành tam giáo; giác ngộ rồi cùng thấu một chữ  tâm”(6). 

  Từ  quan niệm tâm không đồng nhất với Phật tính, đồng nhất với bản thể của  vũ trụ, Trần Thái Tông đi tới những kiến giải nhận thức luận về thế giới  sự vật, hiện tượng bên ngoài. Ông cho rằng, sự xuất hiện của thế giới  giả tượng là do niệm khởi, duyên hội, ngũ uẩn hợp thành. Chân tâm vốn  như gương, do vọng niệm mà trở nên mờ tối, từ đó mà có thế giới giả  tượng: “Pháp tính như như, không vướng mảy may niệm lự. Chân tâm lặng  lặng xưa nay vốn dứt bụi nhơ. Chỉ vì bị che lấp nên vọng duyên mới khởi,  ảo thể hiện thành”(7). Do vậy, theo Trần Thái Tông, cần phải làm cho  chân tâm trở lại tĩnh lặng, trong sáng để dập tắt vọng duyên, có vậy mới  thấy được chân tính, bản thể. 


  Trần Thái Tông tuân thủ nguyên lý căn bản của thiền học là “kiến tính thành Phật”.  Ông cho rằng, “người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính”(8). Theo  nguyên tắc thiền học, Trần Thái Tông quan niệm, để kiến tính, thấy được  bản tính Phật, thấy được chân tể, phải “cố thủ nội khán” (quay  đầu nhìn vào bên trong), hướng vào tu tập nội tâm để thấy tính: “Nếu hay  phản chiếu hồi quang, đều được rõ tính thành Phật”(9). Như vậy, Trần  Thái Tông tiếp tục xu hướng thiền học Vô Ngôn Thông, chú trọng việc  chiêm nghiệm tính không là bản thể vũ trụ, là chân tể của vạn vật. Khi  quay đầu nhìn vào bên trong (nguyên tắc thanh lọc nội tâm), tu tập để  cho tâm bình lặng, đạt tới trạng thái tâm không (dứt mọi niệm), là khi  đó đã đạt tới cảnh giới Phật. Do vậy, Phật tại tâm, không cần tìm kiếm  đâu xa. Càng tìm kiếm ở ngoại giới thì càng xa rời “quê hương” - xa rời  Phật tính - bởi quá trình tìm kiếm ở ngoại giới đó sẽ bị lục căn, lục  tặc (các giác quan) làm cho mê lầm:


  “Mũi quyện mùi thơm, lưỡi tham vị ngọt,

  Mắt mờ vì sắc đẹp, tai mê tiếng hát hay.

  Mãi mãi làm khách phong trần trôi dạt,

  Ngày càng xa quê hương muôn vạn dặm đường” ( 10).


   Điểm qua một số tư tưởng thiền học căn bản của Trần Thái Tông trong Khoá hư lục, chúng ta thấy, những tư tưởng này của ông một mặt là sự tiếp nối tư tưởng thiền học của phái Vô Ngôn Thông dưới thời Lý, mặt khác  là sự lý giải cụ thể hơn và sâu sắc hơn các nguyên lý tư tưởng mang  tính siêu hình của thiền học. Nhờ đó, người học đạo dễ dàng tiếp cận tới  chân lý thiền học hơn là những bài kệ súc tích mang tính yếu chỉ thiền  dưới thời Lý. Cũng do vậy, thiền học, qua cách diễn giải của Trần Thái  Tông, trở nên gần gũi với nhận thức của người tu thiền và dân chúng. Đó  là đặc trưng tư tưởng thiền học của Trần Thái Tông.  


  2. Sự hướng dẫn các phương pháp tu tập thiền


  Xuất  phát từ các nguyên lý tư tưởng thiền học căn bản nêu trên và từ các  luận thuyết Phật giáo căn bản về tứ diệu đế, bát chính đạo, nghiệp, thập  nhị nhân duyên…, Trần Thái Tông đã đưa ra một số phương pháp tu tập  thiền để người tu hành không bị mê lầm trên con đường chứng ngộ Phật  tính.


  Tuân  thủ triết học Phật giáo về giải thoát, Trần Thái Tông dẫn giải quá  trình đi tới giác ngộ là con đường thiện và chia con đường giải thoát  thành 3 giai đoạn: giới, định, tuệ. Theo Trần Thái Tông, con đường tu  tập, thanh lọc thân tâm trước nhất phải là thực hành ngũ giới: không sát  sinh, không trộm cắp, không mê nữ sắc, không nói càn và không uống  rượu. Ông dùng lý lẽ của cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo làm cơ sở để  luận giải và thuyết phục mọi người tuân thủ cách tu tập này. Không sát  sinh bởi vạn vật đều có tính linh và đều có cái tình tham sống, sợ chết.  Không được trộm cắp là bởi đó là hành vi của kẻ tiểu nhân và nếu trộm  cắp thì khi chết sẽ phải làm kiếp trâu ngựa. Không ham nữ sắc mới giữ  gìn được đạo đức. Không nói càn thì mới tránh được nghiệp chướng. Không  uống rượu mới vẹn toàn được tài  trí. Như vậy, trên con đường tu tập, giới là bước khởi đầu.  Đây chính là giai đoạn chế định ham muốn, kiểm soát bản thân khỏi sự  quyến rũ, mê lầm của các giác quan. Người tu hành thực hành tốt giai  đoạn giới là đi được giai đoạn đầu của thiện. Ở giai đoạn đầu này, nếu  thành tựu được, người tu tập sẽ vui mừng khiến thân nghiêng ngả nên vẫn  chưa kiểm soát được cái tâm. Vì thế, người tu tập cần phải đi vào giai  đoạn hai là định. 


  Theo  Trần Thái Tông, định là giai đoạn hai của thiện, giúp cho thân dừng  lại, giúp tâm đứng vững: “Vì tâm đứng vững nên nhận biết được sự chân  thực. Do vậy gọi là giai đoạn giữa của thiện”(11). Để đạt được giai đoạn  hai của thiện là định, ông tập trung vào một số phương pháp tu tập cơ  bản cho người hành thiền. Những phương pháp đó là: thụ giới, niệm Phật,  ngồi thiền. Thụ giới là việc tiếp nhận giới luật của Phật giáo. Người tu  hành như người qua sông phải dùng bè mảng. Tiếp nhận giới luật của Phật  giáo giống như việc dùng bè để qua sông vậy. Qua sông mà không dùng  phương tiện thì khó có thể tới bờ bên kia: “Giới như thuyền bè vượt qua  bể khổ. Giới như chuỗi ngọc làm cho pháp thân trang nghiêm” ( 12).  Thực hành giới luật Phật giáo chính là để chấm dứt nghiệp thân. Cùng  với phương pháp thụ giới là phương pháp niệm Phật. Ai cũng có điều nghĩ,  ai cũng có điều nảy sinh. Nghĩ, nảy sinh điều thiện thì nghiệp thiện  khởi. Nghĩ, nảy sinh điều ác thì nghiệp ác khởi. Tất cả đều do tâm động  khởi mà thành ý. Để khơi dậy ý nghĩa chân chính không gì bằng niệm Phật.  Khi niệm Phật, người tu hành phải ngồi ngay thẳng, miệng tụng lời chân  chính, ý chăm chú ở sự tinh tiến, như vậy sẽ dập tắt được những hành  động, lời nói, ý nghĩ xằng bậy. Trần Thái Tông chia kẻ trí ra ba hạng là  thượng, trung, hạ. Tuỳ mức độ trí mà công nghiệp niệm Phật của mỗi  người đạt tới cảnh trí nào. Bậc thượng trí có thể nhờ niệm Phật mà khiến  tâm trong sáng, không động, đạt tới cảnh trí thân Phật là thân ta, tâm  tức Phật. Bậc trung trí nhờ niệm Phật mà tiêu diệt được ý nghĩ, trở về  chính đạo, khi qua đời sẽ được niềm vui cõi Niết bàn. Còn kẻ hạ trí nhờ  niệm Phật sẽ ngày đêm tu tập chăm chỉ, khi mệnh hết sẽ theo ý nghĩa  thiện mà sinh ở nước Phật, lĩnh hội được chính pháp, được Phật quả. Ngồi  thiền là phương pháp thứ ba hết sức quan trọng đối với người theo Thiền  phái, vì mục đích cuối cùng của thiền giả là chứng nghiệm tâm không,  thấy được bản tính, giác ngộ. Trần Thái Tông nhấn mạnh mục đích và tầm  quan trọng của phương pháp ngồi thiền là: “Người học đạo chỉ cốt thấy  được bản tính. Tuy chịu tất cả mọi tịnh giới mà không ngồi thiền thì  định lực không sinh. Định lực không sinh thì ý nghĩ sai lầm không diệt  được, thế mà lại muốn thấy bản tính, chẳng cũng khó sao!”(13).  Ông cho rằng cả đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể thiền, nhưng chỉ có ngồi  thiền mới là phương pháp hiệu quả nhất để dập tắt ý nghĩ, không để “tâm  vượn” trỗi dậy. Tuy nhiên, cũng có người ngồi thiền mà không tắt mọi ý  nghĩ, đó là giả thiền và nguy hiểm như “ngồi dưới núi Hắc Sơn trong hang  quỷ”(14). Ông cũng chia ngồi thiền làm bốn loại để người tu hành tự  kiểm nghiệm xếp loại hành thiền của mình đang ở mức độ nào. Loại dùng kế  lạ làm vui người trên, chán kẻ dưới mà tu hành gọi là ngoại đạo thiền.  Loại hết lòng tin ở nhân quả nhưng cũng lấy việc làm vui, gây chán mà tu  gọi là phàm phu thiền. Loại hiểu rõ lẽ cuộc sống là không, chứng riêng  được đạo chân chính mà tu hành, là tiểu giáo thiền. Loại hiểu rõ người  và pháp đều không mà tu hành là đại giáo thiền. Và, Trần Thái Tông  khuyến khích mọi người tu theo đại giáo thiền(15).

  Giai  đoạn cuối cùng của con đường giác ngộ là giai đoạn tuệ, đạt được nhờ  định lực. Theo Trần Thái Tông, “Tuệ sinh ra từ định lực. Nếu như tâm  định thì gương tuệ sinh; nếu tâm loạn thì gương tuệ mất”(16).  Nhưng ông cũng cho rằng, định và tuệ có quan hệ tương hỗ lẫn nhau: “Cho  nên biết rằng tuệ xuất hiện từ định; định nảy sinh từ tuệ. Định và tuệ  nương dựa nhau, không bỏ sót một bên nào”(17). Do đó, nếu ngồi thiền mà  tâm không định thì gương tuệ không thể  sinh,  nếu có tuệ tính mà không tập ngồi thiền thì cũng không thể đạt được  gương tuệ: “vắng lặng mà thường chiếu, thường chiếu mà vắng lặng”(18).  Giai đoạn tuệ là giai đoạn lý tưởng của thiền giả. Đạt được trạng thái  tuệ là thiền giả đã đạt được trạng thái tâm không, chứng ngộ được bản  tính, giác ngộ được chân lý Phật tại tâm. 


  Như  vậy, con đường tu tập của thiền giả bắt buộc phải trải qua ba giai đoạn  giới, định, tuệ nói trên. Đó cũng là con đường thiện, thanh lọc thân  tâm, quay đầu nhìn vào bên trong tâm thức, khiến cho thân được trong  sạch, kiềm chế được lục tặc, định được tâm, từ đó mở ra huệ nhãn giác  ngộ chân lý nhà Phật. Trì giới, niệm Phật và ngồi thiền là ba phương  pháp căn bản mà thiền giả phải luôn thực hành trên con đường thiện để  đạt được chân lý Phật tại tâm. Là một nhà thuyết pháp uyên áo  thiền học, Trần Thái Tông đã thâu tóm toàn bộ những yếu chỉ căn bản về  tư tưởng và phương pháp tu thiền của thiền học Vô Ngôn Thông, diễn giải  chúng hết sức dễ hiểu và đầy đủ trong bộ sách Khoá hư lục như  trên đã phân tích. Sự tổng hợp và hệ thống những yếu chỉ thiền học đó  của Trần Thái Tông không chỉ có ý nghĩa xây dựng những nền tảng cơ bản  cho thiền học thời Trần phát triển, không những giúp cho người tu thiền  đương thời và hậu thế tránh được những mê lầm trong nhận thức và thực  hành thiền, mà còn giúp phổ biến thiền học và thu hút quảng đại dân  chúng hướng tới tu Thiền bởi sự giản dị, khúc triết trong cách dẫn giải  tư tưởng và phương pháp tu thiền đó. Bởi vậy, Trần Thái Tông được coi là  người khơi nguồn để thiền học thời Trần phát triển rực rỡ. 1

 

    (*) Ti ến  sĩ, Phó trưởng phòng Lịch sử tư tưởng Việt  Nam, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

  (1)  Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Mục Trần Cảnh (1). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991. tr.825.

 

   (2) Tr ần  Lê Sáng (chủ biên). Tổng tập văn học Việt Nam, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.30.

  (3)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.34.

 

   (4)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.35.

 

   (5)  Trích theo: Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988, tr.219-220.

 

   (6) Tr ần  Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.50.

  (7) Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Sđd., tr.220.

  (8) Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.62.

  (9)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr48.

  (10)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.37.

 

   (11)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.58.

  (12)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.59.

 

   (13) Tr ần  Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.62.

  (14) Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.63.

  (15)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.63.

  (16)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.63.

  (17)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.63.

  (18)  Trần Lê Sáng (chủ biên). Sđd., tr.64.

 


 Theo Tạp Chí Triết Học


 

 

 



Top