1. Công nghiệp năng lượng:
a. Công nghiệp khai thác nguyên, nhiên liệu:
- Công nghiệp khai thác than:
Than của nước ta có nhiều loại với trữ lượng đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á, tập trung chủ yếu ở bể than Đông Bắc, khu vực Quảng Ninh chiếm hơn 90% trữ lượng than đá của cả nước (3 – 3,5 tỷ tấn). Ngoài ra, còn có than mỡ ở Làng Cẩm (Thái Nguyên) và 1 vài mỏ khác.
Than nâu phân bố ở Đồng bằng Sông Hồng với độ sâu 300 – 1000m, trữ lượng hàng chục tỷ tấn, nhưng khó khai thác.
Than bùn có ở nhiều nơi, nhưng tập trung chủ yếu ở ĐBSCL, đặc biệt là vùng U Minh.
Trong những năm gần đây, do mở rộng thị trường tiêu thụ và đầu tư trang thiết bị khai thác nên sản lượng trung bình hằng năm liên tục tăng.
- Công nghiệp khai thác dầu, khí:
Dầu, khí nước ta tập trung ở các bể trầm tích chứa dầu bên ngoài thềm lục địa (các bể trầm tích sông Hồng, Trung Bộ, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu – Mã Lai), trong đó 2 bể Cửu Long và Nam Côn Sơn có trữ lượng và triển vọng khai thác lớn hơn cả. Nước ta có trữ lượng khoảng vài tỷ tấn dầu thô và hàng trăm tỷ m3 khí.
Khai thác dầu khí là ngành non trẻ, bắt đầu hoạt động vào năm 1986. Ngoài dầu thô, hiện nay khí thiên nhiên được dẫn vào bờ phục vụ cho các nhà máy điện (Phú Mỹ). Một ngành công nghiệp mới cũng được ra đời, đó là ngành lọc, hóa dầu (nhà máy Dung Quất, công suất 6,5 triệu tấn/năm).
b. Công nghiệp điện lực:
Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp điện lực. Đó là trữ lượng than, dầu (nhập khẩu), khí thiên nhiên và nguồn thủy năng dồi dào. Riêng về thủy năng, công suất có thể đạt khoảng 30 triệu kW với sản lượng 260 – 270 tỷ kWh và tập trung chủ yếu ở hệ thống sông Hồng (37%) và hệ thống sông Đồng Nai (19%).
Một số nhà máy điện lớn:
Thủy điện: Hòa Bình (1920 MW), Yali (720 MW), Trị An (400 MW) và Sơn La (đang xây dựng, 2400 MW)
Nhiệt điện (chạy bằng than): Phả Lại (tổng công suất 1040 MW), Uông Bí (150 MW)
Nhiệt điện (chạy bằng khí): Phú Mỹ 1 (1090 MW), Bà Rịa (328 MW),…
a. Công nghiệp khai thác nguyên, nhiên liệu:
- Công nghiệp khai thác than:
Than của nước ta có nhiều loại với trữ lượng đứng đầu trong khu vực Đông Nam Á, tập trung chủ yếu ở bể than Đông Bắc, khu vực Quảng Ninh chiếm hơn 90% trữ lượng than đá của cả nước (3 – 3,5 tỷ tấn). Ngoài ra, còn có than mỡ ở Làng Cẩm (Thái Nguyên) và 1 vài mỏ khác.
Than nâu phân bố ở Đồng bằng Sông Hồng với độ sâu 300 – 1000m, trữ lượng hàng chục tỷ tấn, nhưng khó khai thác.
Than bùn có ở nhiều nơi, nhưng tập trung chủ yếu ở ĐBSCL, đặc biệt là vùng U Minh.
Trong những năm gần đây, do mở rộng thị trường tiêu thụ và đầu tư trang thiết bị khai thác nên sản lượng trung bình hằng năm liên tục tăng.
- Công nghiệp khai thác dầu, khí:
Dầu, khí nước ta tập trung ở các bể trầm tích chứa dầu bên ngoài thềm lục địa (các bể trầm tích sông Hồng, Trung Bộ, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Thổ Chu – Mã Lai), trong đó 2 bể Cửu Long và Nam Côn Sơn có trữ lượng và triển vọng khai thác lớn hơn cả. Nước ta có trữ lượng khoảng vài tỷ tấn dầu thô và hàng trăm tỷ m3 khí.
Khai thác dầu khí là ngành non trẻ, bắt đầu hoạt động vào năm 1986. Ngoài dầu thô, hiện nay khí thiên nhiên được dẫn vào bờ phục vụ cho các nhà máy điện (Phú Mỹ). Một ngành công nghiệp mới cũng được ra đời, đó là ngành lọc, hóa dầu (nhà máy Dung Quất, công suất 6,5 triệu tấn/năm).
b. Công nghiệp điện lực:
Nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp điện lực. Đó là trữ lượng than, dầu (nhập khẩu), khí thiên nhiên và nguồn thủy năng dồi dào. Riêng về thủy năng, công suất có thể đạt khoảng 30 triệu kW với sản lượng 260 – 270 tỷ kWh và tập trung chủ yếu ở hệ thống sông Hồng (37%) và hệ thống sông Đồng Nai (19%).
Một số nhà máy điện lớn:
Thủy điện: Hòa Bình (1920 MW), Yali (720 MW), Trị An (400 MW) và Sơn La (đang xây dựng, 2400 MW)
Nhiệt điện (chạy bằng than): Phả Lại (tổng công suất 1040 MW), Uông Bí (150 MW)
Nhiệt điện (chạy bằng khí): Phú Mỹ 1 (1090 MW), Bà Rịa (328 MW),…