Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Một số đề văn và bài làm tham khảo về lí luận văn học
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 19846" data-attributes="member: 699"><p><strong><u> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Black">Đề 5:</span></span></u></strong></p><p></p><p><strong><em>Bạn hiểu biết như thế nào về nội dung khái niệm tính nhân dân trong văn học? Liên hệ thực tế văn học.</em></strong></p><p></p><p><strong><p style="text-align: center"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: Navy">Bài tham khảo</span></span></p><p></strong></p><p></p><p>Tính nhân dân trong văn học thể hiện mối liên hệ giữa văn học và nhân dân.Nhân dân bao giờ cũng là những tầng lớp quần chúng lao động đông đảo nhất của dân tộc. Chính họ làm nên lịch sử, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất tinh thần cho xã hội. Họ là lực lượng lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.</p><p></p><p> Nói đến nhân dân là nói đến những lực lượng xã hội đông đảo trong quần chúng lao động và những thành phần xã hội khác mang xu thế tiến bộ của một thời đại.</p><p></p><p> Tính nhân dân là phẩm chất văn học, một mặt nói lên ý thức và sự gắn bó của nhà văn với nhân dân và mặt khác phản tư tưởng, tình cảm, quyền lợi của nhân dân trong tác phẩm văn học.</p><p></p><p> Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò lớn của nhân dân trong lịch sử, là động lực góp phần quyết định sự phát triển của lịch sử các dân tộc, do đso nghệ thuật phải gắn bó với nhân dân. Lênin đã từng chỉ rõ “Nghệ thuật là của nhân dân. Nó phải được họ hiểu và ưa thích. Nó phải thống nhất tư tưởng, tình cảm và ý chí của quần chúng và nâng họ lên một trình độ cao hơn”.</p><p></p><p> Như thế Lênin nhấn mạnh đến hai yêu cầu quan trọng của văn học. Văn học phải gắn bó và biết tiếp nhận những giá trị lớn lao trong nhân dân và góp phần nâng cao trình độ quần chúng. Tính nhân dân trong một tác phẩm văn học được biểu hiện dqua nhiều yếu tố.</p><p></p><p> Trước hết tác phẩm phải đề cập đến những vấn đề tha thiết của nhân dân, những vấn đề co bản của mọi thời đại mà nhân dân là người trực tiếp tham dự vào những cuộc đấu tranh xã hội đó. Chẳng hạn như chiến tranh và hoà bình,quyền sống, quyền tự do, đạo lí truyền thống dân tộc, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác....Những tác phẩm văn học có giá trị từ xưa đến nay đều phản ánh những vấn đề lớn có ý nghĩa thời đại. Tất nhiên điều ấy nó có ý nghĩa vô cùng với số phận của nhân dân, Tổ quốc. Lịch sử Việt Nam bốn nghìn năm chưa hề ngơi tắt ngọn đèn lửa chiến tranh, vì thế dòng văn học Việt Nam phần lớn là những áng thơ văn yêu nước. Số phận dân tộc lâm nguy, thì nó đe doạ số phận mỗi con người dân...Cho nên, dù là sáng tác bằng chữ Hán nhưng bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi... đều mang đậm tính nâhn dân. Lời thơ đanh thép hào sảng của Lí Thường Kiệt, cái trăn trở dằn vặtt , căm giận kẻ thù của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn...” và niềm tự hào dân tộc khi Nguyễn Trãi cất cao giọng đọc Bình Ngô đại cáo “Như nước Đại Việt ta từ trước “ của Nguyễn Trãi...Ai nói rằng nó không mang trong lòng nó những khao khát, ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc? Ai nói rằng đó là tâm sự riêng của một cá nhân. Dù không nói đến dân, chỉ nói đến “vua Nam” chỉ nhắc đến triều đại “từ Triệu, Đinh, Lí, Trần gây nên độc lập” nhưng các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta thấm sâu tính nhân dân. Chả trách mà trong cuốn hồi kí mới đây,cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc –na-ma-ra đã cho rằng một trong những nguyên nhân thất bại của Mĩ ở Việt Nam là do không hiểu về lịch sử nhân dân Việt Nam. “Ngày ra đi chốn biên cương, gió bấc lùa về lòng anh lạnh buốt. Nòng súng thép dán câu thơ, ý thơ tuyệt hay là thơ Lí Thường Kiệt. Lòng người Việt nam nào đadau thích gì bom đạn”....Lời bài hát t huở nào đã nói hộ lòng dân một thời.</p><p></p><p> Tư tưởng thần dân của Nguyễn Trãi đã trở thành nguồn máu nóng chảy trong huyết mạch các tác phẩm của ông tạo nên tính nhân dân đậm đà và đầy niềm tự hào xúc động.</p><p></p><p> Và... “Tố như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”. Tiếng khóc vĩ đại của Nguyễn Du , lòng nhân đạo vĩ đại của ông đã làm bao thế hệ người Việt Nam rơi lệ. Truyện Kiều huyền diệu có lẽ trước hết là tiếng nói đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc, quyền đựơc bảo vệ nhân phẩm tốt đẹp của con người...Nguyễn Du đã đứng trên lập trường nhân dân, đứng giẫm chân trong nỗi đau của nhân dân mà bênh vực cho những giá trị đạo đức nhân dân cũng như phẫn nộ với những thế lực mà nhân dân căm ghét. Có nhiều người đã bắt bẻ rằng Nguyễn Du vốn không phải là người lao động , nàng Kiều cũng thế và do đó mà truyện Kiều đâu có tính nhân đi trong chốn đoạn trường như cả dân tộc, nhân dân ta từng một thời “ma đưa lối quỷ đưa đường” sờ sẫm trong một xã hội ngạt thở...</p><p></p><p> Một tác phẩm văn học có tính nhân dân phải nói lên được tư tưởng tiến bộ nhất của nhân dân trong từng thời kì lịch sử, cách đánh giá của nhân dân với các hiện tượng xã hội. Tư tưởng yêu nước trọng dân của Nguyễn Trãi là tư tưỏng tiến bộ nhất thời kì lịch sử này.</p><p></p><p> Nguyễn Đình Chiểu qua những áng văn tế của mình, đặc biệt là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã ca ngợi nhân dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Họ chỉ có : “Một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông” nhưng vẫn hăng hái công đồn như vũ bão.</p><p></p><p> “Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắt đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.</p><p></p><p> Đây là bức tranh quần chúng nổi dậy, như thác đổ, không dễ có trong văn học thời trung đại. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong các sáng tác này cũng chính là đỉnh cao của tư tưởng yêu nước tiến bộ của giai đoạn lịch sử đau thương nhưng anh dũng này.</p><p></p><p> Một số tác phẩm không trực tiếp viết về nhân dân nhưng dù viết về những đề tài khác nhau mà bộc lộ cách nhìn và đánh giá của nhân dân thì cũng mang tính nhân dân. Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc là những khúc ngâm rất gần gũi với tâm tình của nhân dân mặc dù nhân vật trong các sáng tác không trực tiếp là người lao động.</p><p></p><p> Một tác phẩm có tính nhân dân phải có giá trị về mặt thẩm mĩ cao để cung cấp món ăn tinh thần cho quần chúng vốn nhu cầu thẩm mĩ hết sức phong phú, đa dạng. Nhân dân đòi hỏi văn học phản ánh được cái muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, cuộc đời, phải đề cập tới những niềm vui, nỗi buồn của con người. Nhân dân khong chấp nhận những tác phẩm giả tạo, hời hợt và vô dụng. Điều này giải thích tại sao đã hai trăm năm đại thi hào Nguyễn Du mất nhưng “thuở vui buồn Kiều sống giữa lòng dân”. Và đến nay “tiếng thươgn như tiếng mẹ ru những ngày” của Tố Như vẫn làm say lòng người.</p><p> </p><p>Hình thức của tác phẩm phải bình dị, gần gũi với người đọc, tránh lối viết cầu kì, xa lạ. Có như thế, nhưng thông điệp tư tưởng, tình cảm của nhà văn mới đến trái tim quần chúng bằng con đường ngắn nhất. Các nhà văn, nhà thơ phải biết tiếp thu, nhuần nhĩ trong tác phẩm của m ình. Mặt khác, nhà văn phải góp phần không ngừng nâng cao trình độ thưởng thức văn học của quần chúng.</p><p></p><p> Có nhiều người ham hố trở về với nhân đân để học lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tuy nhiên, có lúc cực đoan sẽ dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Ông hoàng Thơ mới Xuân Diệu có những kinh nghiệm học tập rất đáng quý nhưng khi tự nguyện “ cùng xương thịt với nhân dân của tôi, cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu’’ với quần chúng Xuân Diệu cũng có những bài, những câu thơ quá dễ dãi và mờ nhạt. Thủ tướng Phạm Văn đồng trước đây khi nói về hai câu thơ Kiều trong như ánh sáng: “Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” thì thán phục vô cùng. Ông cho rằng, đó là ngôn ngữ của nhân dân rất trong sáng và đã qua bàn tay của một người thợ, người nghệ sĩ thiên tài mài giũa. để viết về lòng căm thù giặc của người nghệ sĩ – nhân dân, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Tưởng như khó có thể diễn đạt hay hơn nếu không dùng cái so sánh bình dị này.</p><p></p><p> Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ </p><p></p><p> Nhân dân vốn là Mẹ của Hồn thơ, hào hiệp cho ta những vầng trăng nghệ thuật. Không nên và không thể dùng ngôn ngữ của nhân dân mà lại không mài giũa sáng tạo.</p><p></p><p> Có lẽ để thay cho lời kết luận ta hãy đọc lời của nhà phê bình văn học Nga bê –ê – lin- xki : “ Nhân dân với nghệ thuật đúng là dầu với lửa, dầu xuôi ngọn lửa thành ánh sáng hoặc hơn nữa như đất với cây cối, đát cấp thức ăn cho cây cối”....</p><p></p><p> <strong><em><p style="text-align: right">(Sưu tầm)</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 19846, member: 699"] [B][U] [SIZE=4][COLOR=Black]Đề 5:[/COLOR][/SIZE][/U][/B] [B][I]Bạn hiểu biết như thế nào về nội dung khái niệm tính nhân dân trong văn học? Liên hệ thực tế văn học.[/I][/B] [B][CENTER] [SIZE=4][COLOR=Navy]Bài tham khảo[/COLOR][/SIZE][/CENTER] [/B] Tính nhân dân trong văn học thể hiện mối liên hệ giữa văn học và nhân dân.Nhân dân bao giờ cũng là những tầng lớp quần chúng lao động đông đảo nhất của dân tộc. Chính họ làm nên lịch sử, sáng tạo ra mọi giá trị vật chất tinh thần cho xã hội. Họ là lực lượng lớn lao trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nói đến nhân dân là nói đến những lực lượng xã hội đông đảo trong quần chúng lao động và những thành phần xã hội khác mang xu thế tiến bộ của một thời đại. Tính nhân dân là phẩm chất văn học, một mặt nói lên ý thức và sự gắn bó của nhà văn với nhân dân và mặt khác phản tư tưởng, tình cảm, quyền lợi của nhân dân trong tác phẩm văn học. Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định vai trò lớn của nhân dân trong lịch sử, là động lực góp phần quyết định sự phát triển của lịch sử các dân tộc, do đso nghệ thuật phải gắn bó với nhân dân. Lênin đã từng chỉ rõ “Nghệ thuật là của nhân dân. Nó phải được họ hiểu và ưa thích. Nó phải thống nhất tư tưởng, tình cảm và ý chí của quần chúng và nâng họ lên một trình độ cao hơn”. Như thế Lênin nhấn mạnh đến hai yêu cầu quan trọng của văn học. Văn học phải gắn bó và biết tiếp nhận những giá trị lớn lao trong nhân dân và góp phần nâng cao trình độ quần chúng. Tính nhân dân trong một tác phẩm văn học được biểu hiện dqua nhiều yếu tố. Trước hết tác phẩm phải đề cập đến những vấn đề tha thiết của nhân dân, những vấn đề co bản của mọi thời đại mà nhân dân là người trực tiếp tham dự vào những cuộc đấu tranh xã hội đó. Chẳng hạn như chiến tranh và hoà bình,quyền sống, quyền tự do, đạo lí truyền thống dân tộc, cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác....Những tác phẩm văn học có giá trị từ xưa đến nay đều phản ánh những vấn đề lớn có ý nghĩa thời đại. Tất nhiên điều ấy nó có ý nghĩa vô cùng với số phận của nhân dân, Tổ quốc. Lịch sử Việt Nam bốn nghìn năm chưa hề ngơi tắt ngọn đèn lửa chiến tranh, vì thế dòng văn học Việt Nam phần lớn là những áng thơ văn yêu nước. Số phận dân tộc lâm nguy, thì nó đe doạ số phận mỗi con người dân...Cho nên, dù là sáng tác bằng chữ Hán nhưng bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi... đều mang đậm tính nâhn dân. Lời thơ đanh thép hào sảng của Lí Thường Kiệt, cái trăn trở dằn vặtt , căm giận kẻ thù của Trần Quốc Tuấn “Ta thường tới bữa quên ăn...” và niềm tự hào dân tộc khi Nguyễn Trãi cất cao giọng đọc Bình Ngô đại cáo “Như nước Đại Việt ta từ trước “ của Nguyễn Trãi...Ai nói rằng nó không mang trong lòng nó những khao khát, ý chí bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc? Ai nói rằng đó là tâm sự riêng của một cá nhân. Dù không nói đến dân, chỉ nói đến “vua Nam” chỉ nhắc đến triều đại “từ Triệu, Đinh, Lí, Trần gây nên độc lập” nhưng các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta thấm sâu tính nhân dân. Chả trách mà trong cuốn hồi kí mới đây,cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc –na-ma-ra đã cho rằng một trong những nguyên nhân thất bại của Mĩ ở Việt Nam là do không hiểu về lịch sử nhân dân Việt Nam. “Ngày ra đi chốn biên cương, gió bấc lùa về lòng anh lạnh buốt. Nòng súng thép dán câu thơ, ý thơ tuyệt hay là thơ Lí Thường Kiệt. Lòng người Việt nam nào đadau thích gì bom đạn”....Lời bài hát t huở nào đã nói hộ lòng dân một thời. Tư tưởng thần dân của Nguyễn Trãi đã trở thành nguồn máu nóng chảy trong huyết mạch các tác phẩm của ông tạo nên tính nhân dân đậm đà và đầy niềm tự hào xúc động. Và... “Tố như ơi lệ chảy quanh thân Kiều”. Tiếng khóc vĩ đại của Nguyễn Du , lòng nhân đạo vĩ đại của ông đã làm bao thế hệ người Việt Nam rơi lệ. Truyện Kiều huyền diệu có lẽ trước hết là tiếng nói đòi quyền sống, quyền tự do, hạnh phúc, quyền đựơc bảo vệ nhân phẩm tốt đẹp của con người...Nguyễn Du đã đứng trên lập trường nhân dân, đứng giẫm chân trong nỗi đau của nhân dân mà bênh vực cho những giá trị đạo đức nhân dân cũng như phẫn nộ với những thế lực mà nhân dân căm ghét. Có nhiều người đã bắt bẻ rằng Nguyễn Du vốn không phải là người lao động , nàng Kiều cũng thế và do đó mà truyện Kiều đâu có tính nhân đi trong chốn đoạn trường như cả dân tộc, nhân dân ta từng một thời “ma đưa lối quỷ đưa đường” sờ sẫm trong một xã hội ngạt thở... Một tác phẩm văn học có tính nhân dân phải nói lên được tư tưởng tiến bộ nhất của nhân dân trong từng thời kì lịch sử, cách đánh giá của nhân dân với các hiện tượng xã hội. Tư tưởng yêu nước trọng dân của Nguyễn Trãi là tư tưỏng tiến bộ nhất thời kì lịch sử này. Nguyễn Đình Chiểu qua những áng văn tế của mình, đặc biệt là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã ca ngợi nhân dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Họ chỉ có : “Một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông” nhưng vẫn hăng hái công đồn như vũ bão. “Chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắt đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Đây là bức tranh quần chúng nổi dậy, như thác đổ, không dễ có trong văn học thời trung đại. Tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong các sáng tác này cũng chính là đỉnh cao của tư tưởng yêu nước tiến bộ của giai đoạn lịch sử đau thương nhưng anh dũng này. Một số tác phẩm không trực tiếp viết về nhân dân nhưng dù viết về những đề tài khác nhau mà bộc lộ cách nhìn và đánh giá của nhân dân thì cũng mang tính nhân dân. Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc là những khúc ngâm rất gần gũi với tâm tình của nhân dân mặc dù nhân vật trong các sáng tác không trực tiếp là người lao động. Một tác phẩm có tính nhân dân phải có giá trị về mặt thẩm mĩ cao để cung cấp món ăn tinh thần cho quần chúng vốn nhu cầu thẩm mĩ hết sức phong phú, đa dạng. Nhân dân đòi hỏi văn học phản ánh được cái muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, cuộc đời, phải đề cập tới những niềm vui, nỗi buồn của con người. Nhân dân khong chấp nhận những tác phẩm giả tạo, hời hợt và vô dụng. Điều này giải thích tại sao đã hai trăm năm đại thi hào Nguyễn Du mất nhưng “thuở vui buồn Kiều sống giữa lòng dân”. Và đến nay “tiếng thươgn như tiếng mẹ ru những ngày” của Tố Như vẫn làm say lòng người. Hình thức của tác phẩm phải bình dị, gần gũi với người đọc, tránh lối viết cầu kì, xa lạ. Có như thế, nhưng thông điệp tư tưởng, tình cảm của nhà văn mới đến trái tim quần chúng bằng con đường ngắn nhất. Các nhà văn, nhà thơ phải biết tiếp thu, nhuần nhĩ trong tác phẩm của m ình. Mặt khác, nhà văn phải góp phần không ngừng nâng cao trình độ thưởng thức văn học của quần chúng. Có nhiều người ham hố trở về với nhân đân để học lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tuy nhiên, có lúc cực đoan sẽ dẫn tới hậu quả đáng tiếc. Ông hoàng Thơ mới Xuân Diệu có những kinh nghiệm học tập rất đáng quý nhưng khi tự nguyện “ cùng xương thịt với nhân dân của tôi, cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu’’ với quần chúng Xuân Diệu cũng có những bài, những câu thơ quá dễ dãi và mờ nhạt. Thủ tướng Phạm Văn đồng trước đây khi nói về hai câu thơ Kiều trong như ánh sáng: “Long lanh đáy nước in trời, Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” thì thán phục vô cùng. Ông cho rằng, đó là ngôn ngữ của nhân dân rất trong sáng và đã qua bàn tay của một người thợ, người nghệ sĩ thiên tài mài giũa. để viết về lòng căm thù giặc của người nghệ sĩ – nhân dân, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Tưởng như khó có thể diễn đạt hay hơn nếu không dùng cái so sánh bình dị này. Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ Nhân dân vốn là Mẹ của Hồn thơ, hào hiệp cho ta những vầng trăng nghệ thuật. Không nên và không thể dùng ngôn ngữ của nhân dân mà lại không mài giũa sáng tạo. Có lẽ để thay cho lời kết luận ta hãy đọc lời của nhà phê bình văn học Nga bê –ê – lin- xki : “ Nhân dân với nghệ thuật đúng là dầu với lửa, dầu xuôi ngọn lửa thành ánh sáng hoặc hơn nữa như đất với cây cối, đát cấp thức ăn cho cây cối”.... [B][I][RIGHT](Sưu tầm)[/RIGHT] [/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Một số đề văn và bài làm tham khảo về lí luận văn học
Top