Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Một phong trào văn hóa dân tộc nhằm tự cường, độc lập, hiện đại hóa đất nước của các nhà nho yêu nướ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 14414" data-attributes="member: 699"><p><strong>III</strong></p><p> </p><p>Thực ra các nhà duy tân chưa nghĩ đến chuyện phê phán Nho giáo. Các cụ đau xót bộc lộ mọi mặt hen kém của nước ta, dân ta, nhìn trách nhiệm làm cho nước yếu, dân hèn là ở học thuật, các cụ phê phán lối học khoa cử, phê phán người hủ Nho, và vì vậy động chạm đến một số luận điểm cơ bản của Nho giáo.</p><p></p><p>Đọc địa lí và lịch sử các nước, họ thấy sâu sắc sự cách biệt một trời một vực giữa nước ta với các nước Âu Mĩ, đau xót thừa nhận cai thực tế cay đắng: “ Nước Đại Nam vốn là một nước lớn văn minh, trong ngoài đều khen là một nước thanh danh văn vật”(4), trong thế giới ngày nay chỉ là một nước bán khai, có hơn những nước còn ở trình độ dã man; còn so với các nước Âu Mĩ đã đạt tới tuyệt đỉnh văn minh thi mình hèn kém mọi mặt. Tuy lịch sử là tiến hóa, nhưng trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, các nước hèn kém ấy không những mất nước mà còn có nguy cơ diệt chủng. </p><p></p><p>Các nước Âu Mĩ sở dĩ văn minh là vì, về tư tưởng quyền tự do và dân chủcủa dân được tôn trọng, trong nước “có nghị viện để duy trì quốc thị,có báo quán để đạo đạt hạ tình”. Không những họ có “các đại trước tác của Vônte, Rútxô, Xpenxe” mà tất cả các hoạt động văn học văn hóa đều nhằm “phát huy chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống”; vì họ có nền giáo dục hẳn hoi, “đào tạo có cấp, có chương trình, dạy theo năng khiếu, chuộng thực hành”, sử dụng theo kết quả đào tạo; học thành tài rồi sau mới dùng, dùng làm được việc rồi sau mới thăng chức”; vì chế độ chính trị của họ, lập hiến hay cộng hòa cũng vậy, đều bầu ra nghị viện “ bàn luận kĩ càng mọi việc cốt làm cho đúng chân lí”, hợp với tình hình; vì dân của họ gắn bó với nước, vì con người của họ xem thường hiểm trở gian nan, ham hiểu biết và biết rộng. Còn ở nước ta thì mọi mặt từ từ công thương nghiệp, đến chính trị, luật pháp, đến giáo dục, tư tưởng, đâu đâu nền nếp cổ hủ cũng ngự trị, đâu đâu cũng lạc hậu thảm hại: “ Ngoài văn chương, không có là quý, ngoài áp chế không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tùng không có gì là nghĩ xa”. Bên trên thì cấm đoán, bưng bít, “dùng người quý im lìm lặng lẽ ”, “ làm việc chiếu theo lệ cũ, mà lệ cũ không nhất định, luật có ban bố nhưng dân không được đọc”. Bên dưới thì sợ hãi, “làm văn sách thì sợ phạm húy, dâng thư cho người trên thì e phạm tội vượt phận nói leo”. Đất nước giàu tài nguyên, khí hậu thuận lợi làm ăn dễ dàng, nhưng nguồn lợi đó dân ta không được hưởng. Đối với công thương nghiệp, việc phát triển kinh tế, “ triều đình thì lảng đi, sĩ phu thì khinh rẻ không chịu làm”, bao nhiêu vật dụng hằng ngày không mua của Tàu thì mua của Tây; gánh vàng đi đổ ra ngoài. Cả nước “sống lêu lổng, ham mê đàn sáo, đầu hồ, lá bài, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lí, phù thủy, ngày ngày dốc trí khôn vào những thứ vô dụng”, miệt mài theo đuổi kinh nghĩa, ngũ ngôn, biền ngẫu, “đỗ đạt lên được một tí cái tiếng quèn, đã vội khủng khinh ta đây là kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày ngồi khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy những thứ học mới”. Hạng người tệ hơn nữa thì chỉ “ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bậc, cất nhắc được mấy người”, không biết “ năm châu là những châu nào, thế kỉ này là thế kỉ thứ mấy”. Trong cuộc sống bưng bít, mọi người ru rú giữ lây “xóm cùng làng hẻm”, lìa nhà mười dặm đã bùi ngùi “mưa gió hoa vàng”, ở nơi đất khách vài năm đã than thở “quan hà đầu bạc”. Khắp nơi đầy rẫy hủ tục. Người ta phàn nàn nước nghèo không có vốn để kinh doanh, khó khăn cả trong việc mỗi người góp chỉ một hào, nhưng lại sẵn sàng dốc những số tiền lớn gấp trăm lần vào những việc vô ích. Quanh năm cưới hỏi, ma chay, cầu cúng, mượn tiếng lế nghĩa để xôi thịt. Đối với những khoản chi tiêu như vậy, người Việt Nam đã quen thà ngậm cháo ăn rau, chứ đâu dám tiếc tiền. Tục lệ, dư luận bắt họ phải thế. Người ta lại chuộng hư danh bỏ tiền đút lót để được tiềng học trò đi thi, được tiếng người chức việc trong làng để được tiếng làm anh. Vì danh, có tốn tiền đến bao nhiêu cũng mát mặt, không tiếc. Để chi tiêu vào những việc vô ích như vậy, nhiều người không ngần ngại bán cả nhà cửa, ruộng vườn, cả áo khăn, đồ đạc, đến nỗi như Nguyễn Thượng Hiền nói:</p><p></p><p>Qua đêm rã đám là ngày đi pheo,</p><p>Khổ đến thân thì liều chẳng kể,</p><p>Chốn hương quan mấy kẻ tìm về.</p><p>(Hợp đoàn doanh sinh huyết)</p><p></p><p> Bao nhiêu hủ bại của đất nước đều tập trung ở kẻ sĩ, hay như các cụ hiểu bao nhiêu hủ bại đều là do kẻ sĩ, do cách học sai lầm của kẻ sĩ. Người hủ Nho là hình ảnh tập trung của nhiều cái lạc hậu, hèn kém của xã hội. Nhà Nho, kẻ sĩ trong xã hội trước đây là người “tiên giác” có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân, vì họ biết hơn dân. Thế nhưng, cái biết của họ trước tình hình mới tỏ ra nghèo nàn, và sai lầm thảm hại:</p><p></p><p>Nhà Nho hủ vẫn cậy mình khôn khéo,</p><p>Đem văn chương mà vênh váo với đời.</p><p>Dăm ba câu bát cổ dông dài,</p><p>Trừ cử nghiệp, việc ngoài chi nỏ biết.</p><p>(Bài hát khuyên hủ Nho)</p><p>Quả là họ không biết gì thật:</p><p>Đọc câu “lịch tượng thụ thời”,</p><p>Hỏi giăng chẳng biết hỏi giời chẳng hay.</p><p>Hỏi địa lí đêm ngày mờ mịt;</p><p>Hỏi các nghề rối tịt trơ trơ.</p><p>Nghĩa đen lấn cấn lơ mơ,</p><p>Mắt nhìn thủng giấy, tay sơ đứt lề.</p><p>(Cáo hủ lậu văn)</p><p></p><p>Thật là khác cho các cụ! Từ thời Khổng Phu Tử nội dung của tri thức đã khuôn lại là biết Đạo, biết Lễ, biết Nghĩa, biết Mệnh chứ có đòi hỏi biết một cái cụ thể nào về thế giới khách quan đâu! Đức Thánh quả có nhấn mạnh học và tập, học và hành, nhưng như thế cũng chỉ là dùng văn chương để truyền bá đạo nghĩa thôi. Đến đây các nhà duy tân mới nói, biết như vậy cũng là không biết, mới đòi hỏi biết thêm bao nhiêu thứ, biết Âu, biết Mĩ, biết địa lí, biết các nghề… Đến như Khổng tẻ nổi tiếng uyên bác là vậy mà Phàn Trì hỏi nghề cày cấy, nghề làm vườn, ngài cũng có biết đâu! Các nhà Nho học để đi thi chỉ biết học theo, nhắc lại, chỉ cần nhớ đúng chứ không cần hiểu kỹ. Đọc một câu không cần suy nghĩ nhiều về ý nghĩa, nói đạo lý cũng không cần so với hoàn cảnh xung quanh. Không biết đã là nguy hại, nhưng “không biết mà tỏ ra không biết cũng là biết”(lời Khổng Tử). Đằng nay nhà Nho hủ đã không biết lại tự phụ là đã biết hết “ nhất nghệ bất tri Nho giả sở si”. Họ đem những người xưa, việc xưa, những tri thức cổ lỗ trời tròn, đất vuông, những điềm rủi, điềm mẩy giải thích vong mạng. Chỉ với lí thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, chỉ với Đạo, Lí họ tin có thể suy ra mà hiểu hết mọi chuyện trong vũ trụ, “không ra khỏi màn mà đoán đinh được việc ngoài ngàn dặm”. Dầu có đem chuyện khoa học kĩ thuật Âu Mĩ ra hỏi, họ cũng không biết gì nhưng cũng không chịu im.</p><p> Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng,Thư trù chi cổ đế.</p><p> Cơ khí là thế, điện khí là thế. Cụ rằng mộc ngưu, lưu mã chi Khổng Minh.</p><p> (Văn tế thầy đồ hủ)</p><p></p><p> Họ bàn cả cơ học, lí học, hóa học, nhưng lại hiều lí học, cơ học ra chuyện lí, khí, chuyện cơ tâm, cỏ trí trong Luận ngữ; ra chuyện mộc ngưu lưu mã thời Khổng Minh, thậm chí còn ra chuyện trong Kinh Thư, Kinh Dịch nữa. Với cái tri thức mơ hồ, lối phán đoán đại khái chủ nghĩa, họ vẫn tự cao tự đại, coi mình là người thức giả. Và họ cũng không dừng lại ở chỗ tự cao hợm hĩnh vô hại, đã bàn đủ mọi chuyện lại khích bác “những người nói khác mình”, tức là những nhà duy tân, vẫn mỉa mai, cự tuyệt mọi cái mới. Sự khích bác của họ không phải là không nguy hiểm. Với tư thế là “người bảo vệ Đạo Thánh”, “cầm chính đạo”, “chống dị đoan”(5), họ buộc tội cho những người đọc sách Tây cái tội bội đạo, tội li kinh, phản bội danh giáo, những tội danh này còn nhục nhã, nguy hiểm hơn cả bất hiếu, bất mục, làm phản triều đình. Thái độ của họ tạo ra dong nước ngược, gây trở ngại lớn cho công việc duy tân cứu nước.</p><p></p><p> Người hủ Nho bị lên án gay gắt. Các nhà duy tân chì chiết, bêu riếu, mỉa mai họ, không ngại cả việc dùng những từ ngữ độc địa. Bài Văn tế thầy đồ hủ vẽ lên một bức biếm họa, chạm trổ chọn vẹn chân dung thể chất và tinh thần nhà Nho hủ, từ diện mạo củ rủ, quần áo bẩn thỉu, ăn uống bần tiện, cho đến cách nói năng, cách đi đứng, tính tình, nguyện vọng lí tưởng, thái độ đối với đất nước… Người ta không từ cả việc gọi cái học khoa cử của nhà Nho là học “nhai phân”, học “nhá đờm”, nhấm nháp những cặn bã người xưa bỏ lại. Có làm như thế các nhà duy tân mới làm cho thanh niênkinh tởm cái cũ, mới quyết tâm học khoa học và kĩ thuật Âu Mĩ. Có làm như vậy mới khẳng định được trí tuệ, tự do tư tưởng là những yêu cầu của cuộc vận động khải mông mà họ đề xướng.</p><p></p><p> Động đến khoa cử, động đến nhà Nho là động đến Nho giáo. Thế nhưng khi Phan Bội Châu kêu gọi mười hàng người trong nước đoàn kết cúu nước, còn nghĩ: “Đứng đầu tiên là bạn làng Nho”; Nguyễn Thượng Hiền kêu gọi họp đoàn doanh sinh còn mong dựa vào uy tín lớp thân sĩ vận động mọi người góp vốn, trông cậy ở đạo đức tài năng của họ để quản lí, thì việc phê phán Nho giáo cũng chỉ có thể dừng lại ở một số giới hạn. Tác giả Văn minh tân học sách say mê thuyết tiến hóa đã bác bỏ quan điểm tuần hoàn, xưa hơn nay, thịnh suy đắp đổi, coi động lực vận động của tiến hóa là trí tuệ, sáng tạo khoa học, là sự ứng dụng trí tuệ và sáng tạo khoa học vào sản xuất, kinh doanh chứ không phải là đạo đức, thì động lực của lịch sử vẫn là học vấn, trí thức. Ông công kích các nguyên tắc “hậu cổ bạc kim”, “trọng vương khinh bá”, “nộ hạ ngoại di”, “trọng quan khinh dân”, tức là những quan điểm rất cơ bản về lịch sử, chính trị, về xã hội của Nho giáo, thì vai trò tiền phong trong công cuộc vận động duy tân cũng vấn là giới trí thức, một thứ kẻ sĩ tiên giác. Các cụ kêu gọi bỏ lối học từ chương, bỏ khoa cử, nhưng vẫn còn chủ trương học chính văn của kinh truyện, nghĩa là chỉ bỏ những lời chú giải, những lời bàn suông, bỏ thơ phú, kinh nghĩa, mà vẫn giữ lại sách, luận, nghĩa là chỉ bỏ thứ văn chương phù hoa, thứ văn chương bát cổ, biền ngẫu mà thôi. Phương châm của họ là chống lại phù hoa, chuộng thực dụng, chứ “lời hay nết tốt của thánh hiền”, những “cái có quan hệ đến thế đạo nhân tâm” vẫn chưa phải là cái có thể bỏ. Vả lại với cách nhìn chủng tộc, các cụ cũng chưa thể bỏ lòng tự hào “Châu Á là ngọn nguồn của văn minh” được.</p><p></p><p> Dầu các cụ đã thay đổi cách suy nghĩ, chú ý đến mặt kinh tế, mặt xã hội, thì cũng chưa phải là đã bỏ được cách hình dung thế giới theo mô hình gia đình, coi quan hệ xã hội giống quan hệ gia đình, làng xóm:</p><p></p><p>Hồn xưa dòng dõi Lạc Long,</p><p>Con nhà Nam Việt ở trong giống vàng,</p><p>Chi Na chung một họ hàng,</p><p>Xiêm la, Nhật Bản cùng làng Á Đông.</p><p></p><p> Thế giới đã mở rổnga đến năm châu, nhưng vẫn mang hình ảnh gia đình mở rộng, mà xã hội tuy có dân làm chủ thì dân vẫn là người yếu kém, dốt nát, cần được che chở, giáo hóa.</p><p></p><p> Năm 1905, tác giả Cáo hủ lậu văn mở đầu bài ca: “Muôn năm Ất Tị vua ta”… Năm 1940, ở trong câu đối tuyệt mệnh, Phan Bội Châu than thở “Khả tích hung trung mai Khổng Mạnh” ( Tiếc bấy trong lòng vùi Khổng Mạnh).</p><p></p><p> Món nợ lâu đời với Nho giáo, không dễ gì một lúc đã thanh toán được!</p><p> </p><p><strong>IV</strong></p><p> </p><p> Cuộc cải cách văn hóa mà nhà Nho duy tân đề xướng chưa có những điều kiện thuận lợi. Nội dung yêu nước thương nòi của nó không che mắt được thức dân, mà nội dung tư sản của nó chưa có lực lượngthành thị lớn mạnh để hưởng ứng. Phong trào chưa kịp phát triển đã bị đàn áp, bị dập tắt nhanh chóng. Chỉ nhìn qua cũng thấy phong trào có chỗ nghịch lí, lạ lùng: lớn tiếng đòi tư sản hóa không phải là người dân đòi truyền bá học thuyết phương Tây mà trong hàng ngũ người chủ xướng không ai có Tây học. Trong nước nền kinh tế hàng hóa chưa kịp phát triển, thành thị còn nhỏ yếu, thị dân ít, lực lượng tư sản chưa thành lực lượng đáng kể. Các nhà Nho đề xướng Âu hóa chưa sống ở nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không trực tiếp đọc được các tác phẩm mà họ đinh truyền bá. Là những nhà Nho, họ chỉ đọc được Hán văn, hiểu học thuật Phương Tây qua sự giới thiệu của sách báo Trung Quốc, mà qua dịch thuật, giới thiệu cảu Trung Quốc thì mọi thứ đã Trung Quốc hóa. Trong nước, lúc đó cũng có người biết tiếng Pháp, học tận bên Pháp, nhưng họ còn ít ỏi sống dính líu nhiều với thực dân; chính họ lại không nghĩ đến chuyện Âu hóa đất nước. Vào lúc đó nhà Nho vẫn là lực lượng trí thức dân tộc, là người mang văn hóa dân tộc, gắn bó với quần chúng đông đảo là nông dân. Vừa trải qua hai, ba chục năm chiến đấu với kẻ thù trong phong trào Văn thân, tiếng nói của họ vì thế có trọng lượng. Đó là chỗ thuận lợi. Nhưng đề xướng Âu hóa, nhà Nho làm công việc hoàn toàn trái với bản chất của mình.</p><p></p><p> Nhà Nho vốn là người chỉ quen đọc sách ngâm thơ, coi thường việc sản xuất khinh bỉ việc làm giàu, căm ghét việc cạnh tranh . Họ ca tụng cuộc sống thanh thả, nhàn tản, vui với nước non, tiêu dao với ngày tháng, tự hào tay không có mùi tiền, óc không nghĩ đến sản nghiệp, họ là người ăn bám không lao động có triết học. Ăn bám không lao động mà lại cần kiệm, liêm, chính. Trong cuộc sống họ là người siêng năng thức khuya dậy sớm, cầm sách liền tay, chăm chỉ trồng hoa tưới cây… Họ là người ăn bám, vì theo đúng thánh hiền sống trọng nghĩa, khinh lợi, coi trách nhiệm của kẻ sĩ là phù trì thế đạo nhân tâm, là giáo hóa dân, làm công việc lao tâm; còn việc cơm gạo, tiền nong, sản nghiệp là việc của vợ con, đàn bà, việc cày cấy là việc của nông phu, lao lực. Phải từ bỏ bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu nếp sống, học tập, bao nhiêu mánh khóe khôn ngoan, bao nhiêu tinh thần mạo hiểm, họ mới có thể mặc áo gấm, cầm quạt lông, bảo thằng nhỏ nách gói theo hầuđể xuống thuyền xem mặt hàng, mặc cả giá với thuyền buôn. Vốn là người sùng cổ, coi thời Tam Hoàng, Ngũ đế là tuyệt đỉnh văn minh, việc làm không bắt chước xưa thì hỏng, nói không đúng sách vở thánh hiền là sai, thế mà lại phải hi vọng, chờ đợi sự cứu vớt ơ tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo. Vốn là người cẩn thủ tuân theo nề nếp cha ông, tuân theo tục lệ hàng xóm kì thị, bài ngoại, mà lại phải học theo Âu mĩ, những nước ở tận đâu những phương trời xa xôi. Vốn là người suy nghĩ, phán đoán chỉ theo Lí, theo Đạo, theo những gương mẫu có sẵn, mà phải bàn chuyện thực tế, giải quyết chuyện thực tế. Nhà Nho không tự phủ định triệt để thì không thể đi theo cái mới, không thể hiện đại hóa được.</p><p></p><p> Những điều trình bày ở các phần trên cho ta thấy, quả thật nhà Nho trong phong trào duy tân đã gột rửa được nhiều thành kiến, vứt bỏ được nhiều nề nếp, nhiều thói quen. Giúp họ vượt lên trên minh như vậylà tinh thần truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc, nhờ lòng căm thù chứa chất sau những thất bại nhục nhã, sau những nếm trải sự khổ nhục khi làm người dân mất nước, và đồng thời cũng là nhờ tư tưởng Nho giáo trong chính họ. Tư tưởng Nho giáo khuyến khích con người yêu quê cha đất tổ, yêu bà con làng xóm, sẵn sàng nhận trách nhiệm cứu nạn,phò nguy, “đối với việc hưng vong của đất nước, kẻ thất phu cũng có trách nhiệm”. Các nhà Văn thân của thế kỉ trước vì yêu nước đã tay không chống giặc, ngã xuống hàng loạt, đến lượt họ, các nhà Nho đầu thế kỉ lại vì yêu nước, lại dũng cảm từ bỏ nhiều cái quen thuộc, thân thiết của mình để làm việc nghĩa.</p><p></p><p> Không phải họ có thể vượt quan tất cả. Không phải Nho giáo cho phép họ từ bỏ tất cả, nhìn ra được cái “chân lí”, cái mà đến đây họ hay nhắc đến một cách thiết tha. Chân lí quan trọng nhất đối với họ là độc lập. Cái làm họ chú ý trước hết trong các nước Âu Mĩ là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm của người dân đối với nước. Theo họ đó là đặc điểm của người dân Âu Mĩ, là động lực làm cho các nước đó trở nên văn minh, trở nên phú cường. Cái làm cho họ say mê nữa đó là chế độ dân chủ. Các nhà duy tân nhìn vào chế độ dân chủđại nghị với nhiều màu sắc ảo tưởng.Họ nghĩ rằng, dưới chế độ dân chủ tư sản, mọi cái đều tốt đẹp: tự do hạnh phúc của nhân dân được đảm bảo, trí tuệ, khoa học đều được tự do, phát triển thuận lợi. Thế nhưng, họ hiểu dân chủ - dầu chỉ ở mức dân chủ tư sản – còn khá sơ lược. Họ chưa hề nghĩ kĩ dân là ai? Là những người thế nào? Làm chủ cái gì? Bằng cách nào? Chưa trải qua một cuộc đấu tranh chống áp bức về mặt xã hộ, trên lãnh thổ gọi là đất nước, họ ý thức được chủ quyền dân tộc, mà không chú ý nhiều đến những vấn đề xã hội của cuộc sống trong cộng đồng. Tuy thích thú và bỏ nhiều tâm lực truyền bá, giảng giải, nhưng họ không hiểu sâu sắc những tư tưởng của Vônte, Rútxô – các nhà triết học phương Tây được các cụ đưa lên bậc thánh – nói về tự do, hạnh phúc, bình đẳng, công bằng, hữu ái. Chưa thấy ý nghĩa của những từ tưởng đơn giản, như cá nhân, công dân, luật pháp…, chưa thấm thía những vấn đề nhân quyền, dân quyền, chưa thấy sâu sắc ý nghĩa của đòi hỏi sự tương ứng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cho nên cũng không ý thức đầy đủ chức năng Nhà nước, vai trò pháp luật. Nước và cả thế giới được hình dung theo mô hình gia đình, làng xã, trong đó mọi người quan hệ với nhautheo tình máu mủ, thân thuộc,thì nhà nước cũng là địa bàn quần tụ của giống nòi, là gia tài, sản nghiệp là tự điền hương hỏa cha ông để lại, không đòi hỏi giải quyết những vấn đề phức tạp giữa những con người ngẫu nhiên và bắt buộc phải cùng sống với nhau. Dân được tuyên bố là chủ nhân, gán cho nhiều mĩ tự của người làm chủ, nhưng như vậy cũng là để mang thêm nhiều trách nhiệm của người làm chủ; còn đối với lớp nguời tiên giác, dân vẫn là đối tượng che chở, nuôi dưỡng, giáo hóa. Đó là sự khác nhau giữa quốc dân trong tình chủng tộc, nghĩa đồng bào với người công dân tự do, bình đẳng, tự nguyện tham gia khế ước xã hội. Đó cũng là sự thu nhỏ chế độ dân chủ tư sảnvào khuôn khổ Nho giáo.</p><p> Nhìn ra sự quan trọng của khoa học, học thuật, nhu cầu cải cách văn hóa đối với các nhà duy tân dường như có bớt khó khăn hơn. Nho giáo vốn là học thuyết đề cao văn hóa, học vấn, đề cao giáo dục. Thế nhưng, trong sự ngiệp văn hóa- giáo dụ, nhà Nho chú trọng chức năng “đạo giác tư dân”, tức là giáo dục, cải tạo tư tưởng của dân, nên đặc biệt chú ý nội dung tư tưởng, mà coi thường phần nghệ thuật. Không phải Nho giáo không thấy tác dụng to lớn của nghệ thuật đối với tình cảm, tư tưởng con người. Ngược lại chính vì vậy mà nó đòi nghệ thuật chỉ có một chức năng là mang tư tưởng phục vụ giáo dục. Chính quan niệm đó đã hạn chế phát triển của các nghệ thuật, đến nỗi ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, văn minh, văn hóa hầu như rút gọn lại chỉ còn sự phát triển của văn chương, và là văn chương đạo lí. Các nhà duy tân đều là những nhà khoa bảng sành văn chương, khi tiếp thu tư tưởng duy tân, thấy cái nguy hại của một nước “ ngoài văn chương không có gì là quý”, ghét cái thứ nghệ thuật “rung đùi, lắc vế gò gẫmtìm một chữ cho kêu, chọn một điển tích cho đắt” (6), thứ nghệ thuật theo họ là phù hoa, vô ích, lại muốn đưa nội dung mới làm đạo lí và bắt văn chương làm nhiệm vụ giáo hóa mạnh hơn nữa. Trong cuộc vận động duy tân, các cụ đề cao trí tuệ, đề cao sáng tạo, nhưng là nói trong phạm vi khoa học, kĩ thuật, trong phạm vị học thuật, chứ không đả động gì đến sáng tác văn học - nghệ thuật. Dưới sự thống trị lâu dài của Nho giáo, trong truyền thống ít ai quan tâm nhiều đến lý luận nghệ thuật, các cụ dầu là duy tân, cũng không thấy giá trị chân chínhcủa nghệ thuật là cái thực, không phải hiểu đối lập với hư (trống rỗng, phù hoa), tức là có nội dung thiết thực, có ích cho giáo hóa, mà là mang bóng dáng của cuộc sống, hơi thở của cuộc sống, tức là phản ánh, tái tạo, xây dựng cuộc sống.</p><p></p><p> Trước sự cường thịnh của Âu,Mĩ, các nhà Nho say mê muốn bắt chước. Các cụ kêu gọi học lịch sử, học địa lí, toán học, cơ học, điện học, mọi thứ học của phương Tây, các cụ hết lòng ca tụng khoa học kĩ thuật, đề cao tư tưởng, tự do tranh luận. Phương hướng chung của cuộc vân động là giải phóng tư tưởng, đề cao trí tuệ , đề cao sáng tạo, những nét chính của cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, những tai năng trí tuệ là để ổ sung cho đức chứ không phải là để thay thế nó. Để gìn giữ thế đạo nhân tâm thì làm sao nó có thể bỏ được “lời hay nết tốt của thánh hiền”? Tuy là thiết tha muốn tự cường, muốn duy tân, muốn hiện đại hóa đất nước, nhưng tư tưởng Nho giáo trong bản thân không cho phép các cụ bỏ cái khuôn khổ chuộng đức, cái thế giới quan gia đình mở rộng, cái quan niệm là người tiên tri tiên giác hướng đạo, giáo hóa, vỗ về nhân dân. Dầu cố gắng hết sức, các cụ cũng không hiểu được xã hội hiện đại, với quan niệm hiện đại về con người làm cơ sở cho cái xã hội đó.</p><p></p><p> Lòng yêu nước đã mở mắt cho các nhà Nho lúc đó thấy được nhiều chuyện khó thấy. Trước đây , các nhà Nho thường có phân biệt minh và trí, sáng suốt và khôn ngoan, “biết người la khôn ngoan, biết mình mới là sáng suốt”. Các nhà Nho nhờ lòng yêu nước đã minh lại trí. Họ đã thấy ra nhiều nhược điểm tai hại của chính mình, lại nhìn ra con đường mới đầy hứa hẹn cho đất nước. Nhiệt tình, lòng dũng cảm, tinh thần hi sinh của họ không thiếu, nhưng hiểu biết, tiếc thay lại không đủ. Nhiều vấn đề, nhiều từ ngữ, các cụ thích thú nói đi nói lại nhiều lần, nhưng ngày nay có lần mò tìm ra cách hiểu đơn giản hóa của các cụ mới hiểu đúng.</p><p></p><p> Đối với Nho giáo, các cụ phê phán tri thức mà chưa phê phán cách nhận thức, phê phán chính trị mà chưa phê phán triết học, phê phán từng điểm mà chưa phê phán cả hệ thống. Các cụ lên án những người hủ Nho gay gắt, nhưng lại không biết rằng đã là nhà Nho thì hủ như vậy. Không những thực tế lạc hậu che tầm mắt, Nho giáo buông bóng tối, mà nhìn ra cái xấu của dân tộc, của cha ông, của bản thân những cái quen thuộc, thân thương quả thật là khó.</p><p></p><p> Vào những năm 20, 30, khi phong trào duy tân của các nhà Nho chấm dứt, đời sống đô thị phát triển, văn hóa tư sản đã hình thành, nhiều nhà chí sĩ, tức là các nhà Nho duy tân, trước đây còn sót lại, cảm thấy ngỡ ngàng trước thực tế hiện đại, điều mà chính họ mong sẽ tới. Tất nhiên, đối với xã hội và nền văn hóa hổ lốn, còn đầy rẫy những yêu tố phong kiến và thực dân lúc đó, các cụ có lí do để than thở “Á cũ qua rồi mới chửa Âu”(1). Cái Âu Mĩ mà các cụ mong muốn quả thật đã không đến. Nhưng cái Á cũng chưa qua, và trong cái hổ lốn như vậy, cũng không phải cũng không có cái Âu Mĩ thực, cái hiện đại thực. Điều tôi muốn lưu ý là các cụ cũng không thể thấy ra những cái đó. Vào những năm đó các nhà Nho duy tân còn lại có tâm trạng khá cô độc, bi quan và cũng khá bảo thủ. Nhiều người trở lại gìn giữ lối sống thanh cao, khí tiết, trở lại thói quen ngâm vịnh, tiêu sầu, có khi lên tiếng bênh vực cả luân lí triết lí Á Đông nữa.</p><p></p><p> Không phải họ giảm sút lòng yêu nước, nhưng sự hiểu biết về thế giới hiện đại không đủ bảo hiểm cho họ tránh được một quá trình lại giống ( thoai hóa): trở lại là nhà Nho.</p><p></p><p> Phong trào duy tân cải cách văn hóa đầu thế kỉ ở nước ta tiếp tục phong trào cứu nước của Văn thân cuối thế kỉ XIX, nhưng lại tiến hành trong hoàn cảnh khác: châu  thức tỉnh trước thế giới hiện đại. Chủ nghĩa đế quốc, rồi cách mạng Vô sản, lần lượt xúc tiến quá trình nhất thể hóa thế giới, hiện đại hóa ở từng khu vực, ở từng nước. Giao lưu văn hóa, duyệt lại truyền thống, hướng về nền văn hóa hiện đại phương Tây thành xu hướng tất yếu của lịch sử. Với tư cách là người mang văn hóa của dân tộc, các nhà Nho yêu nước đã lãnh trách nhiệm đi bước đầu giải quyết vấn đề lịch sử đó. Họ đã cố gắng hết sức minh, đã nêu những tấm gương cao cả về lòng yêu nước, về lòng dũng cảm, về sự sáng suốt, hi sinh. thế nhưng cơ sở kinh tế - xã hội ý thức hệ Nho giáo ở phương Đông thật bền vững, không dễ phá vỡ. Dầu là với một tinh thần quả quyết: “ Dây đàn cầm không hài hòa thì phải tháo ra mà sửa lại, nhà ở đã cũ hàng ngàn nămthì phải dỡ đi mà làm lại”(4), các nhà Nho duy tân cũng không đủ sức mạnh thực tế lay chuyển nó đến tận nền tảng, để có một chủ nghĩa nhân đạo thực sự, một quan niệm dân chủ thực sự, một tư tưởng dân tộc chân chính làm cơ sở xây dựng đất nước hiên đại, nên văn hóa hiện đại. Trước bước ngoặt lịch sử, Nho giáo, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về tình trạng tối tăm, bưng bít, được miễn nghị. Người hủ Nho lần đầu tiên bị lột khăn áo lôi ra vành móng ngựa của lịch sử. Sự thất bại của Đông kinh nghĩa thục đã giải thoát nó. Vế sau Phong hóa, Ngày nay có đưa Lý Toét, Bang Bạnh, Xã Xệ ra chế giễu, nhưng nhà Nho hủ bại vẫn không bị đem ra sân khấu để chuốc cười.</p><p></p><p> Nhiều khi, trong bộ mặt người làm cha, làm chú, làm thầy, có khi cả làm quan nữa, ông đồ già lại còn giành được thương tiếc, cảm phục.</p><p></p><p> Trước tòa án lịch sử, hồ sơ vụ án đã được xếp lại, ghi thêm hai chữ “Miễn tố”?</p><p>-------------------------------</p><p> CHÚ THÍCH:</p><p> (1): Phan Bội Châu. Thư gửi Phan Chu Trinh.</p><p> (2): Luận ngữ.</p><p> (3): Phan Chu Trinh. Tựa Hợp đoàn doanh sinh huyết.</p><p>(4): Văn minh tân học sách.</p><p>(5): Mạnh Tử.</p><p>(6): Ngô Đức Kế: Bàn về chính học cùng tà thuyết.</p><p>(7): Huỳnh Thúc Kháng vịnh Kiều.</p><p></p><p>(Nguồn: Khoa Văn học-Trường ĐH KHXH&NV HN)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 14414, member: 699"] [B]III[/B] Thực ra các nhà duy tân chưa nghĩ đến chuyện phê phán Nho giáo. Các cụ đau xót bộc lộ mọi mặt hen kém của nước ta, dân ta, nhìn trách nhiệm làm cho nước yếu, dân hèn là ở học thuật, các cụ phê phán lối học khoa cử, phê phán người hủ Nho, và vì vậy động chạm đến một số luận điểm cơ bản của Nho giáo. Đọc địa lí và lịch sử các nước, họ thấy sâu sắc sự cách biệt một trời một vực giữa nước ta với các nước Âu Mĩ, đau xót thừa nhận cai thực tế cay đắng: “ Nước Đại Nam vốn là một nước lớn văn minh, trong ngoài đều khen là một nước thanh danh văn vật”(4), trong thế giới ngày nay chỉ là một nước bán khai, có hơn những nước còn ở trình độ dã man; còn so với các nước Âu Mĩ đã đạt tới tuyệt đỉnh văn minh thi mình hèn kém mọi mặt. Tuy lịch sử là tiến hóa, nhưng trong cuộc cạnh tranh sinh tồn, các nước hèn kém ấy không những mất nước mà còn có nguy cơ diệt chủng. Các nước Âu Mĩ sở dĩ văn minh là vì, về tư tưởng quyền tự do và dân chủcủa dân được tôn trọng, trong nước “có nghị viện để duy trì quốc thị,có báo quán để đạo đạt hạ tình”. Không những họ có “các đại trước tác của Vônte, Rútxô, Xpenxe” mà tất cả các hoạt động văn học văn hóa đều nhằm “phát huy chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống”; vì họ có nền giáo dục hẳn hoi, “đào tạo có cấp, có chương trình, dạy theo năng khiếu, chuộng thực hành”, sử dụng theo kết quả đào tạo; học thành tài rồi sau mới dùng, dùng làm được việc rồi sau mới thăng chức”; vì chế độ chính trị của họ, lập hiến hay cộng hòa cũng vậy, đều bầu ra nghị viện “ bàn luận kĩ càng mọi việc cốt làm cho đúng chân lí”, hợp với tình hình; vì dân của họ gắn bó với nước, vì con người của họ xem thường hiểm trở gian nan, ham hiểu biết và biết rộng. Còn ở nước ta thì mọi mặt từ từ công thương nghiệp, đến chính trị, luật pháp, đến giáo dục, tư tưởng, đâu đâu nền nếp cổ hủ cũng ngự trị, đâu đâu cũng lạc hậu thảm hại: “ Ngoài văn chương, không có là quý, ngoài áp chế không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tùng không có gì là nghĩ xa”. Bên trên thì cấm đoán, bưng bít, “dùng người quý im lìm lặng lẽ ”, “ làm việc chiếu theo lệ cũ, mà lệ cũ không nhất định, luật có ban bố nhưng dân không được đọc”. Bên dưới thì sợ hãi, “làm văn sách thì sợ phạm húy, dâng thư cho người trên thì e phạm tội vượt phận nói leo”. Đất nước giàu tài nguyên, khí hậu thuận lợi làm ăn dễ dàng, nhưng nguồn lợi đó dân ta không được hưởng. Đối với công thương nghiệp, việc phát triển kinh tế, “ triều đình thì lảng đi, sĩ phu thì khinh rẻ không chịu làm”, bao nhiêu vật dụng hằng ngày không mua của Tàu thì mua của Tây; gánh vàng đi đổ ra ngoài. Cả nước “sống lêu lổng, ham mê đàn sáo, đầu hồ, lá bài, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lí, phù thủy, ngày ngày dốc trí khôn vào những thứ vô dụng”, miệt mài theo đuổi kinh nghĩa, ngũ ngôn, biền ngẫu, “đỗ đạt lên được một tí cái tiếng quèn, đã vội khủng khinh ta đây là kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo, ngày ngày ngồi khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy những thứ học mới”. Hạng người tệ hơn nữa thì chỉ “ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bậc, cất nhắc được mấy người”, không biết “ năm châu là những châu nào, thế kỉ này là thế kỉ thứ mấy”. Trong cuộc sống bưng bít, mọi người ru rú giữ lây “xóm cùng làng hẻm”, lìa nhà mười dặm đã bùi ngùi “mưa gió hoa vàng”, ở nơi đất khách vài năm đã than thở “quan hà đầu bạc”. Khắp nơi đầy rẫy hủ tục. Người ta phàn nàn nước nghèo không có vốn để kinh doanh, khó khăn cả trong việc mỗi người góp chỉ một hào, nhưng lại sẵn sàng dốc những số tiền lớn gấp trăm lần vào những việc vô ích. Quanh năm cưới hỏi, ma chay, cầu cúng, mượn tiếng lế nghĩa để xôi thịt. Đối với những khoản chi tiêu như vậy, người Việt Nam đã quen thà ngậm cháo ăn rau, chứ đâu dám tiếc tiền. Tục lệ, dư luận bắt họ phải thế. Người ta lại chuộng hư danh bỏ tiền đút lót để được tiềng học trò đi thi, được tiếng người chức việc trong làng để được tiếng làm anh. Vì danh, có tốn tiền đến bao nhiêu cũng mát mặt, không tiếc. Để chi tiêu vào những việc vô ích như vậy, nhiều người không ngần ngại bán cả nhà cửa, ruộng vườn, cả áo khăn, đồ đạc, đến nỗi như Nguyễn Thượng Hiền nói: Qua đêm rã đám là ngày đi pheo, Khổ đến thân thì liều chẳng kể, Chốn hương quan mấy kẻ tìm về. (Hợp đoàn doanh sinh huyết) Bao nhiêu hủ bại của đất nước đều tập trung ở kẻ sĩ, hay như các cụ hiểu bao nhiêu hủ bại đều là do kẻ sĩ, do cách học sai lầm của kẻ sĩ. Người hủ Nho là hình ảnh tập trung của nhiều cái lạc hậu, hèn kém của xã hội. Nhà Nho, kẻ sĩ trong xã hội trước đây là người “tiên giác” có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân, vì họ biết hơn dân. Thế nhưng, cái biết của họ trước tình hình mới tỏ ra nghèo nàn, và sai lầm thảm hại: Nhà Nho hủ vẫn cậy mình khôn khéo, Đem văn chương mà vênh váo với đời. Dăm ba câu bát cổ dông dài, Trừ cử nghiệp, việc ngoài chi nỏ biết. (Bài hát khuyên hủ Nho) Quả là họ không biết gì thật: Đọc câu “lịch tượng thụ thời”, Hỏi giăng chẳng biết hỏi giời chẳng hay. Hỏi địa lí đêm ngày mờ mịt; Hỏi các nghề rối tịt trơ trơ. Nghĩa đen lấn cấn lơ mơ, Mắt nhìn thủng giấy, tay sơ đứt lề. (Cáo hủ lậu văn) Thật là khác cho các cụ! Từ thời Khổng Phu Tử nội dung của tri thức đã khuôn lại là biết Đạo, biết Lễ, biết Nghĩa, biết Mệnh chứ có đòi hỏi biết một cái cụ thể nào về thế giới khách quan đâu! Đức Thánh quả có nhấn mạnh học và tập, học và hành, nhưng như thế cũng chỉ là dùng văn chương để truyền bá đạo nghĩa thôi. Đến đây các nhà duy tân mới nói, biết như vậy cũng là không biết, mới đòi hỏi biết thêm bao nhiêu thứ, biết Âu, biết Mĩ, biết địa lí, biết các nghề… Đến như Khổng tẻ nổi tiếng uyên bác là vậy mà Phàn Trì hỏi nghề cày cấy, nghề làm vườn, ngài cũng có biết đâu! Các nhà Nho học để đi thi chỉ biết học theo, nhắc lại, chỉ cần nhớ đúng chứ không cần hiểu kỹ. Đọc một câu không cần suy nghĩ nhiều về ý nghĩa, nói đạo lý cũng không cần so với hoàn cảnh xung quanh. Không biết đã là nguy hại, nhưng “không biết mà tỏ ra không biết cũng là biết”(lời Khổng Tử). Đằng nay nhà Nho hủ đã không biết lại tự phụ là đã biết hết “ nhất nghệ bất tri Nho giả sở si”. Họ đem những người xưa, việc xưa, những tri thức cổ lỗ trời tròn, đất vuông, những điềm rủi, điềm mẩy giải thích vong mạng. Chỉ với lí thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, chỉ với Đạo, Lí họ tin có thể suy ra mà hiểu hết mọi chuyện trong vũ trụ, “không ra khỏi màn mà đoán đinh được việc ngoài ngàn dặm”. Dầu có đem chuyện khoa học kĩ thuật Âu Mĩ ra hỏi, họ cũng không biết gì nhưng cũng không chịu im. Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng,Thư trù chi cổ đế. Cơ khí là thế, điện khí là thế. Cụ rằng mộc ngưu, lưu mã chi Khổng Minh. (Văn tế thầy đồ hủ) Họ bàn cả cơ học, lí học, hóa học, nhưng lại hiều lí học, cơ học ra chuyện lí, khí, chuyện cơ tâm, cỏ trí trong Luận ngữ; ra chuyện mộc ngưu lưu mã thời Khổng Minh, thậm chí còn ra chuyện trong Kinh Thư, Kinh Dịch nữa. Với cái tri thức mơ hồ, lối phán đoán đại khái chủ nghĩa, họ vẫn tự cao tự đại, coi mình là người thức giả. Và họ cũng không dừng lại ở chỗ tự cao hợm hĩnh vô hại, đã bàn đủ mọi chuyện lại khích bác “những người nói khác mình”, tức là những nhà duy tân, vẫn mỉa mai, cự tuyệt mọi cái mới. Sự khích bác của họ không phải là không nguy hiểm. Với tư thế là “người bảo vệ Đạo Thánh”, “cầm chính đạo”, “chống dị đoan”(5), họ buộc tội cho những người đọc sách Tây cái tội bội đạo, tội li kinh, phản bội danh giáo, những tội danh này còn nhục nhã, nguy hiểm hơn cả bất hiếu, bất mục, làm phản triều đình. Thái độ của họ tạo ra dong nước ngược, gây trở ngại lớn cho công việc duy tân cứu nước. Người hủ Nho bị lên án gay gắt. Các nhà duy tân chì chiết, bêu riếu, mỉa mai họ, không ngại cả việc dùng những từ ngữ độc địa. Bài Văn tế thầy đồ hủ vẽ lên một bức biếm họa, chạm trổ chọn vẹn chân dung thể chất và tinh thần nhà Nho hủ, từ diện mạo củ rủ, quần áo bẩn thỉu, ăn uống bần tiện, cho đến cách nói năng, cách đi đứng, tính tình, nguyện vọng lí tưởng, thái độ đối với đất nước… Người ta không từ cả việc gọi cái học khoa cử của nhà Nho là học “nhai phân”, học “nhá đờm”, nhấm nháp những cặn bã người xưa bỏ lại. Có làm như thế các nhà duy tân mới làm cho thanh niênkinh tởm cái cũ, mới quyết tâm học khoa học và kĩ thuật Âu Mĩ. Có làm như vậy mới khẳng định được trí tuệ, tự do tư tưởng là những yêu cầu của cuộc vận động khải mông mà họ đề xướng. Động đến khoa cử, động đến nhà Nho là động đến Nho giáo. Thế nhưng khi Phan Bội Châu kêu gọi mười hàng người trong nước đoàn kết cúu nước, còn nghĩ: “Đứng đầu tiên là bạn làng Nho”; Nguyễn Thượng Hiền kêu gọi họp đoàn doanh sinh còn mong dựa vào uy tín lớp thân sĩ vận động mọi người góp vốn, trông cậy ở đạo đức tài năng của họ để quản lí, thì việc phê phán Nho giáo cũng chỉ có thể dừng lại ở một số giới hạn. Tác giả Văn minh tân học sách say mê thuyết tiến hóa đã bác bỏ quan điểm tuần hoàn, xưa hơn nay, thịnh suy đắp đổi, coi động lực vận động của tiến hóa là trí tuệ, sáng tạo khoa học, là sự ứng dụng trí tuệ và sáng tạo khoa học vào sản xuất, kinh doanh chứ không phải là đạo đức, thì động lực của lịch sử vẫn là học vấn, trí thức. Ông công kích các nguyên tắc “hậu cổ bạc kim”, “trọng vương khinh bá”, “nộ hạ ngoại di”, “trọng quan khinh dân”, tức là những quan điểm rất cơ bản về lịch sử, chính trị, về xã hội của Nho giáo, thì vai trò tiền phong trong công cuộc vận động duy tân cũng vấn là giới trí thức, một thứ kẻ sĩ tiên giác. Các cụ kêu gọi bỏ lối học từ chương, bỏ khoa cử, nhưng vẫn còn chủ trương học chính văn của kinh truyện, nghĩa là chỉ bỏ những lời chú giải, những lời bàn suông, bỏ thơ phú, kinh nghĩa, mà vẫn giữ lại sách, luận, nghĩa là chỉ bỏ thứ văn chương phù hoa, thứ văn chương bát cổ, biền ngẫu mà thôi. Phương châm của họ là chống lại phù hoa, chuộng thực dụng, chứ “lời hay nết tốt của thánh hiền”, những “cái có quan hệ đến thế đạo nhân tâm” vẫn chưa phải là cái có thể bỏ. Vả lại với cách nhìn chủng tộc, các cụ cũng chưa thể bỏ lòng tự hào “Châu Á là ngọn nguồn của văn minh” được. Dầu các cụ đã thay đổi cách suy nghĩ, chú ý đến mặt kinh tế, mặt xã hội, thì cũng chưa phải là đã bỏ được cách hình dung thế giới theo mô hình gia đình, coi quan hệ xã hội giống quan hệ gia đình, làng xóm: Hồn xưa dòng dõi Lạc Long, Con nhà Nam Việt ở trong giống vàng, Chi Na chung một họ hàng, Xiêm la, Nhật Bản cùng làng Á Đông. Thế giới đã mở rổnga đến năm châu, nhưng vẫn mang hình ảnh gia đình mở rộng, mà xã hội tuy có dân làm chủ thì dân vẫn là người yếu kém, dốt nát, cần được che chở, giáo hóa. Năm 1905, tác giả Cáo hủ lậu văn mở đầu bài ca: “Muôn năm Ất Tị vua ta”… Năm 1940, ở trong câu đối tuyệt mệnh, Phan Bội Châu than thở “Khả tích hung trung mai Khổng Mạnh” ( Tiếc bấy trong lòng vùi Khổng Mạnh). Món nợ lâu đời với Nho giáo, không dễ gì một lúc đã thanh toán được! [B]IV[/B] Cuộc cải cách văn hóa mà nhà Nho duy tân đề xướng chưa có những điều kiện thuận lợi. Nội dung yêu nước thương nòi của nó không che mắt được thức dân, mà nội dung tư sản của nó chưa có lực lượngthành thị lớn mạnh để hưởng ứng. Phong trào chưa kịp phát triển đã bị đàn áp, bị dập tắt nhanh chóng. Chỉ nhìn qua cũng thấy phong trào có chỗ nghịch lí, lạ lùng: lớn tiếng đòi tư sản hóa không phải là người dân đòi truyền bá học thuyết phương Tây mà trong hàng ngũ người chủ xướng không ai có Tây học. Trong nước nền kinh tế hàng hóa chưa kịp phát triển, thành thị còn nhỏ yếu, thị dân ít, lực lượng tư sản chưa thành lực lượng đáng kể. Các nhà Nho đề xướng Âu hóa chưa sống ở nước ngoài, không biết ngoại ngữ, không trực tiếp đọc được các tác phẩm mà họ đinh truyền bá. Là những nhà Nho, họ chỉ đọc được Hán văn, hiểu học thuật Phương Tây qua sự giới thiệu của sách báo Trung Quốc, mà qua dịch thuật, giới thiệu cảu Trung Quốc thì mọi thứ đã Trung Quốc hóa. Trong nước, lúc đó cũng có người biết tiếng Pháp, học tận bên Pháp, nhưng họ còn ít ỏi sống dính líu nhiều với thực dân; chính họ lại không nghĩ đến chuyện Âu hóa đất nước. Vào lúc đó nhà Nho vẫn là lực lượng trí thức dân tộc, là người mang văn hóa dân tộc, gắn bó với quần chúng đông đảo là nông dân. Vừa trải qua hai, ba chục năm chiến đấu với kẻ thù trong phong trào Văn thân, tiếng nói của họ vì thế có trọng lượng. Đó là chỗ thuận lợi. Nhưng đề xướng Âu hóa, nhà Nho làm công việc hoàn toàn trái với bản chất của mình. Nhà Nho vốn là người chỉ quen đọc sách ngâm thơ, coi thường việc sản xuất khinh bỉ việc làm giàu, căm ghét việc cạnh tranh . Họ ca tụng cuộc sống thanh thả, nhàn tản, vui với nước non, tiêu dao với ngày tháng, tự hào tay không có mùi tiền, óc không nghĩ đến sản nghiệp, họ là người ăn bám không lao động có triết học. Ăn bám không lao động mà lại cần kiệm, liêm, chính. Trong cuộc sống họ là người siêng năng thức khuya dậy sớm, cầm sách liền tay, chăm chỉ trồng hoa tưới cây… Họ là người ăn bám, vì theo đúng thánh hiền sống trọng nghĩa, khinh lợi, coi trách nhiệm của kẻ sĩ là phù trì thế đạo nhân tâm, là giáo hóa dân, làm công việc lao tâm; còn việc cơm gạo, tiền nong, sản nghiệp là việc của vợ con, đàn bà, việc cày cấy là việc của nông phu, lao lực. Phải từ bỏ bao nhiêu tư tưởng, bao nhiêu nếp sống, học tập, bao nhiêu mánh khóe khôn ngoan, bao nhiêu tinh thần mạo hiểm, họ mới có thể mặc áo gấm, cầm quạt lông, bảo thằng nhỏ nách gói theo hầuđể xuống thuyền xem mặt hàng, mặc cả giá với thuyền buôn. Vốn là người sùng cổ, coi thời Tam Hoàng, Ngũ đế là tuyệt đỉnh văn minh, việc làm không bắt chước xưa thì hỏng, nói không đúng sách vở thánh hiền là sai, thế mà lại phải hi vọng, chờ đợi sự cứu vớt ơ tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo. Vốn là người cẩn thủ tuân theo nề nếp cha ông, tuân theo tục lệ hàng xóm kì thị, bài ngoại, mà lại phải học theo Âu mĩ, những nước ở tận đâu những phương trời xa xôi. Vốn là người suy nghĩ, phán đoán chỉ theo Lí, theo Đạo, theo những gương mẫu có sẵn, mà phải bàn chuyện thực tế, giải quyết chuyện thực tế. Nhà Nho không tự phủ định triệt để thì không thể đi theo cái mới, không thể hiện đại hóa được. Những điều trình bày ở các phần trên cho ta thấy, quả thật nhà Nho trong phong trào duy tân đã gột rửa được nhiều thành kiến, vứt bỏ được nhiều nề nếp, nhiều thói quen. Giúp họ vượt lên trên minh như vậylà tinh thần truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc, nhờ lòng căm thù chứa chất sau những thất bại nhục nhã, sau những nếm trải sự khổ nhục khi làm người dân mất nước, và đồng thời cũng là nhờ tư tưởng Nho giáo trong chính họ. Tư tưởng Nho giáo khuyến khích con người yêu quê cha đất tổ, yêu bà con làng xóm, sẵn sàng nhận trách nhiệm cứu nạn,phò nguy, “đối với việc hưng vong của đất nước, kẻ thất phu cũng có trách nhiệm”. Các nhà Văn thân của thế kỉ trước vì yêu nước đã tay không chống giặc, ngã xuống hàng loạt, đến lượt họ, các nhà Nho đầu thế kỉ lại vì yêu nước, lại dũng cảm từ bỏ nhiều cái quen thuộc, thân thiết của mình để làm việc nghĩa. Không phải họ có thể vượt quan tất cả. Không phải Nho giáo cho phép họ từ bỏ tất cả, nhìn ra được cái “chân lí”, cái mà đến đây họ hay nhắc đến một cách thiết tha. Chân lí quan trọng nhất đối với họ là độc lập. Cái làm họ chú ý trước hết trong các nước Âu Mĩ là tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, tinh thần trách nhiệm của người dân đối với nước. Theo họ đó là đặc điểm của người dân Âu Mĩ, là động lực làm cho các nước đó trở nên văn minh, trở nên phú cường. Cái làm cho họ say mê nữa đó là chế độ dân chủ. Các nhà duy tân nhìn vào chế độ dân chủđại nghị với nhiều màu sắc ảo tưởng.Họ nghĩ rằng, dưới chế độ dân chủ tư sản, mọi cái đều tốt đẹp: tự do hạnh phúc của nhân dân được đảm bảo, trí tuệ, khoa học đều được tự do, phát triển thuận lợi. Thế nhưng, họ hiểu dân chủ - dầu chỉ ở mức dân chủ tư sản – còn khá sơ lược. Họ chưa hề nghĩ kĩ dân là ai? Là những người thế nào? Làm chủ cái gì? Bằng cách nào? Chưa trải qua một cuộc đấu tranh chống áp bức về mặt xã hộ, trên lãnh thổ gọi là đất nước, họ ý thức được chủ quyền dân tộc, mà không chú ý nhiều đến những vấn đề xã hội của cuộc sống trong cộng đồng. Tuy thích thú và bỏ nhiều tâm lực truyền bá, giảng giải, nhưng họ không hiểu sâu sắc những tư tưởng của Vônte, Rútxô – các nhà triết học phương Tây được các cụ đưa lên bậc thánh – nói về tự do, hạnh phúc, bình đẳng, công bằng, hữu ái. Chưa thấy ý nghĩa của những từ tưởng đơn giản, như cá nhân, công dân, luật pháp…, chưa thấm thía những vấn đề nhân quyền, dân quyền, chưa thấy sâu sắc ý nghĩa của đòi hỏi sự tương ứng giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cho nên cũng không ý thức đầy đủ chức năng Nhà nước, vai trò pháp luật. Nước và cả thế giới được hình dung theo mô hình gia đình, làng xã, trong đó mọi người quan hệ với nhautheo tình máu mủ, thân thuộc,thì nhà nước cũng là địa bàn quần tụ của giống nòi, là gia tài, sản nghiệp là tự điền hương hỏa cha ông để lại, không đòi hỏi giải quyết những vấn đề phức tạp giữa những con người ngẫu nhiên và bắt buộc phải cùng sống với nhau. Dân được tuyên bố là chủ nhân, gán cho nhiều mĩ tự của người làm chủ, nhưng như vậy cũng là để mang thêm nhiều trách nhiệm của người làm chủ; còn đối với lớp nguời tiên giác, dân vẫn là đối tượng che chở, nuôi dưỡng, giáo hóa. Đó là sự khác nhau giữa quốc dân trong tình chủng tộc, nghĩa đồng bào với người công dân tự do, bình đẳng, tự nguyện tham gia khế ước xã hội. Đó cũng là sự thu nhỏ chế độ dân chủ tư sảnvào khuôn khổ Nho giáo. Nhìn ra sự quan trọng của khoa học, học thuật, nhu cầu cải cách văn hóa đối với các nhà duy tân dường như có bớt khó khăn hơn. Nho giáo vốn là học thuyết đề cao văn hóa, học vấn, đề cao giáo dục. Thế nhưng, trong sự ngiệp văn hóa- giáo dụ, nhà Nho chú trọng chức năng “đạo giác tư dân”, tức là giáo dục, cải tạo tư tưởng của dân, nên đặc biệt chú ý nội dung tư tưởng, mà coi thường phần nghệ thuật. Không phải Nho giáo không thấy tác dụng to lớn của nghệ thuật đối với tình cảm, tư tưởng con người. Ngược lại chính vì vậy mà nó đòi nghệ thuật chỉ có một chức năng là mang tư tưởng phục vụ giáo dục. Chính quan niệm đó đã hạn chế phát triển của các nghệ thuật, đến nỗi ở các nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, văn minh, văn hóa hầu như rút gọn lại chỉ còn sự phát triển của văn chương, và là văn chương đạo lí. Các nhà duy tân đều là những nhà khoa bảng sành văn chương, khi tiếp thu tư tưởng duy tân, thấy cái nguy hại của một nước “ ngoài văn chương không có gì là quý”, ghét cái thứ nghệ thuật “rung đùi, lắc vế gò gẫmtìm một chữ cho kêu, chọn một điển tích cho đắt” (6), thứ nghệ thuật theo họ là phù hoa, vô ích, lại muốn đưa nội dung mới làm đạo lí và bắt văn chương làm nhiệm vụ giáo hóa mạnh hơn nữa. Trong cuộc vận động duy tân, các cụ đề cao trí tuệ, đề cao sáng tạo, nhưng là nói trong phạm vi khoa học, kĩ thuật, trong phạm vị học thuật, chứ không đả động gì đến sáng tác văn học - nghệ thuật. Dưới sự thống trị lâu dài của Nho giáo, trong truyền thống ít ai quan tâm nhiều đến lý luận nghệ thuật, các cụ dầu là duy tân, cũng không thấy giá trị chân chínhcủa nghệ thuật là cái thực, không phải hiểu đối lập với hư (trống rỗng, phù hoa), tức là có nội dung thiết thực, có ích cho giáo hóa, mà là mang bóng dáng của cuộc sống, hơi thở của cuộc sống, tức là phản ánh, tái tạo, xây dựng cuộc sống. Trước sự cường thịnh của Âu,Mĩ, các nhà Nho say mê muốn bắt chước. Các cụ kêu gọi học lịch sử, học địa lí, toán học, cơ học, điện học, mọi thứ học của phương Tây, các cụ hết lòng ca tụng khoa học kĩ thuật, đề cao tư tưởng, tự do tranh luận. Phương hướng chung của cuộc vân động là giải phóng tư tưởng, đề cao trí tuệ , đề cao sáng tạo, những nét chính của cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng, những tai năng trí tuệ là để ổ sung cho đức chứ không phải là để thay thế nó. Để gìn giữ thế đạo nhân tâm thì làm sao nó có thể bỏ được “lời hay nết tốt của thánh hiền”? Tuy là thiết tha muốn tự cường, muốn duy tân, muốn hiện đại hóa đất nước, nhưng tư tưởng Nho giáo trong bản thân không cho phép các cụ bỏ cái khuôn khổ chuộng đức, cái thế giới quan gia đình mở rộng, cái quan niệm là người tiên tri tiên giác hướng đạo, giáo hóa, vỗ về nhân dân. Dầu cố gắng hết sức, các cụ cũng không hiểu được xã hội hiện đại, với quan niệm hiện đại về con người làm cơ sở cho cái xã hội đó. Lòng yêu nước đã mở mắt cho các nhà Nho lúc đó thấy được nhiều chuyện khó thấy. Trước đây , các nhà Nho thường có phân biệt minh và trí, sáng suốt và khôn ngoan, “biết người la khôn ngoan, biết mình mới là sáng suốt”. Các nhà Nho nhờ lòng yêu nước đã minh lại trí. Họ đã thấy ra nhiều nhược điểm tai hại của chính mình, lại nhìn ra con đường mới đầy hứa hẹn cho đất nước. Nhiệt tình, lòng dũng cảm, tinh thần hi sinh của họ không thiếu, nhưng hiểu biết, tiếc thay lại không đủ. Nhiều vấn đề, nhiều từ ngữ, các cụ thích thú nói đi nói lại nhiều lần, nhưng ngày nay có lần mò tìm ra cách hiểu đơn giản hóa của các cụ mới hiểu đúng. Đối với Nho giáo, các cụ phê phán tri thức mà chưa phê phán cách nhận thức, phê phán chính trị mà chưa phê phán triết học, phê phán từng điểm mà chưa phê phán cả hệ thống. Các cụ lên án những người hủ Nho gay gắt, nhưng lại không biết rằng đã là nhà Nho thì hủ như vậy. Không những thực tế lạc hậu che tầm mắt, Nho giáo buông bóng tối, mà nhìn ra cái xấu của dân tộc, của cha ông, của bản thân những cái quen thuộc, thân thương quả thật là khó. Vào những năm 20, 30, khi phong trào duy tân của các nhà Nho chấm dứt, đời sống đô thị phát triển, văn hóa tư sản đã hình thành, nhiều nhà chí sĩ, tức là các nhà Nho duy tân, trước đây còn sót lại, cảm thấy ngỡ ngàng trước thực tế hiện đại, điều mà chính họ mong sẽ tới. Tất nhiên, đối với xã hội và nền văn hóa hổ lốn, còn đầy rẫy những yêu tố phong kiến và thực dân lúc đó, các cụ có lí do để than thở “Á cũ qua rồi mới chửa Âu”(1). Cái Âu Mĩ mà các cụ mong muốn quả thật đã không đến. Nhưng cái Á cũng chưa qua, và trong cái hổ lốn như vậy, cũng không phải cũng không có cái Âu Mĩ thực, cái hiện đại thực. Điều tôi muốn lưu ý là các cụ cũng không thể thấy ra những cái đó. Vào những năm đó các nhà Nho duy tân còn lại có tâm trạng khá cô độc, bi quan và cũng khá bảo thủ. Nhiều người trở lại gìn giữ lối sống thanh cao, khí tiết, trở lại thói quen ngâm vịnh, tiêu sầu, có khi lên tiếng bênh vực cả luân lí triết lí Á Đông nữa. Không phải họ giảm sút lòng yêu nước, nhưng sự hiểu biết về thế giới hiện đại không đủ bảo hiểm cho họ tránh được một quá trình lại giống ( thoai hóa): trở lại là nhà Nho. Phong trào duy tân cải cách văn hóa đầu thế kỉ ở nước ta tiếp tục phong trào cứu nước của Văn thân cuối thế kỉ XIX, nhưng lại tiến hành trong hoàn cảnh khác: châu  thức tỉnh trước thế giới hiện đại. Chủ nghĩa đế quốc, rồi cách mạng Vô sản, lần lượt xúc tiến quá trình nhất thể hóa thế giới, hiện đại hóa ở từng khu vực, ở từng nước. Giao lưu văn hóa, duyệt lại truyền thống, hướng về nền văn hóa hiện đại phương Tây thành xu hướng tất yếu của lịch sử. Với tư cách là người mang văn hóa của dân tộc, các nhà Nho yêu nước đã lãnh trách nhiệm đi bước đầu giải quyết vấn đề lịch sử đó. Họ đã cố gắng hết sức minh, đã nêu những tấm gương cao cả về lòng yêu nước, về lòng dũng cảm, về sự sáng suốt, hi sinh. thế nhưng cơ sở kinh tế - xã hội ý thức hệ Nho giáo ở phương Đông thật bền vững, không dễ phá vỡ. Dầu là với một tinh thần quả quyết: “ Dây đàn cầm không hài hòa thì phải tháo ra mà sửa lại, nhà ở đã cũ hàng ngàn nămthì phải dỡ đi mà làm lại”(4), các nhà Nho duy tân cũng không đủ sức mạnh thực tế lay chuyển nó đến tận nền tảng, để có một chủ nghĩa nhân đạo thực sự, một quan niệm dân chủ thực sự, một tư tưởng dân tộc chân chính làm cơ sở xây dựng đất nước hiên đại, nên văn hóa hiện đại. Trước bước ngoặt lịch sử, Nho giáo, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về tình trạng tối tăm, bưng bít, được miễn nghị. Người hủ Nho lần đầu tiên bị lột khăn áo lôi ra vành móng ngựa của lịch sử. Sự thất bại của Đông kinh nghĩa thục đã giải thoát nó. Vế sau Phong hóa, Ngày nay có đưa Lý Toét, Bang Bạnh, Xã Xệ ra chế giễu, nhưng nhà Nho hủ bại vẫn không bị đem ra sân khấu để chuốc cười. Nhiều khi, trong bộ mặt người làm cha, làm chú, làm thầy, có khi cả làm quan nữa, ông đồ già lại còn giành được thương tiếc, cảm phục. Trước tòa án lịch sử, hồ sơ vụ án đã được xếp lại, ghi thêm hai chữ “Miễn tố”? ------------------------------- CHÚ THÍCH: (1): Phan Bội Châu. Thư gửi Phan Chu Trinh. (2): Luận ngữ. (3): Phan Chu Trinh. Tựa Hợp đoàn doanh sinh huyết. (4): Văn minh tân học sách. (5): Mạnh Tử. (6): Ngô Đức Kế: Bàn về chính học cùng tà thuyết. (7): Huỳnh Thúc Kháng vịnh Kiều. (Nguồn: Khoa Văn học-Trường ĐH KHXH&NV HN) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Một phong trào văn hóa dân tộc nhằm tự cường, độc lập, hiện đại hóa đất nước của các nhà nho yêu nướ
Top