Một đôi điều cần bàn nhân đọc “Độc Tiểu Thanh ký” - Tác giả: Nguyễn Thế Duyên

Một đôi điều cần bàn nhân đọc “Độc Tiểu Thanh ký”

Vài lời mở đầu
Bạn Tiểu Thanh Đình có mang bài “Mấy suy nghĩ nhân đọc một bài thơ cổ” của tôi đăng lên một diễn đàn. Một bạn trong diễn đàn ấy đã đề nghị tôi bình bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du. Bạn Tiểu Thanh Đình có chuyển cho tôi lời đề nghị ấy nhưng vì một phần do tôi không có thời gian, và một phần (Mà là phần chủ yếu) là bài thơ này có rất nhiều ý kiến khác nhau mà ý kiến nào cũng có cái lý đúng của nó khiến cho tôi rất phân vân khi chọn một góc độ để tiếp cận bài thơ.
Như tôi đã từng nói: “ Không có cách tiếp cận sai, chỉ có cách tiếp cận nào làm cho bài thơ hay hơn, nhiều ý nghĩa hơn mà thôi”. Trước khi viết bài này, tôi đã nghiên cứu kĩ tất cả các cách tiếp cận khác nhau của mọi người với với bài thơ này, phân tích cái được, cái chưa được của những góc tiếp cận đó để chọn cho mình một cách tiếp cận khác. Xin mạnh dạn viết ra đây để mọi người cùng bàn luận.
Nguyễn thế Duyên


Ba trăm năm! Dài hay ngắn với cuộc đời của một con người?
Rất dài!
Cái khoảng thời gian ấy đủ để biến một vườn hoa lộng lẫy bên Tây Hồ thành một nơi hoang vắng
Tây hồ hoa uyển tẫn thành hư.
Cái khoảng thời gian ấy đủ để xóa sạch mọi dấu vết của một cá thể cụ thể nào đó đã từng tồn tại trên đời.
Thời gian! Vô thanh, vô hình, nhưng lại có một sức hủy diệt thật đáng kinh sợ. Nó chậm rãi nghiền vụn mọi thứ trên cuộc đời này để rồi ném tất cả vào trong hư vô và hình như mọi sự sống mà đức Chúa trời đã tạo ra đều bị thời gian khuất phục. Trừ con người.
Cũng như mọi sinh vật khác, con người cũng luôn sợ thời gian. Nhưng khác với mọi loại sinh vật khác, trong con người lại luôn luôn thường trực một khát vọng cháy bỏng: “Chinh phục thời gian”
Cũng từ cái khát vọng đó mà những câu chuyện thần thoại ra đời, những vị thần bất tử. Cũng từ cái khát vọng đó mà đạo giáo đã ra đời, những cách tu luyện để trở thành Tiên Phật, những cách chế luyện linh đan, thần dược có thể làm con người trở nên trường sinh bất tử chẳng phải đã ra đời từ cái khát vọng đó hay sao?
Có một người đứng trước cảnh hoang phế của một nơi trước kia đã từng là một vườn hoa tuyệt đẹp, ông đã cảm nhận được cái sức mạnh vô hình khủng khiếp của thời gian và cũng như mọi vĩ nhân khác, cái khát vọng chinh phục thời gian lại bùng cháy trong ông dữ dội.
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố như?
Một câu hỏi không lời giải đáp. Ông tự hỏi mình và chính ông cũng không thể trả lời được . Nhưng! Chính cái câu hỏi ông tự đặt ra đó đã cho chúng ta biết một điều “Nguyễn Du đã tìm ra cách để chinh phục thời gian”.
Vì sao Nguyễn Du biết đến có một Tiểu Thanh từng tồn tại trên cuộc đời này? Vì nàng đẹp quá chăng? Chắc chắn là không phải! Cái đẹp tuy cũng có sức mạnh của nó nhưng cái đẹp chưa đủ mạnh để chiến thắng nổi thời gian. Những người như Dương quý phi, Điêu Thuyền, Tây Thi có sống nổi thêm dăm ba năm sau khi chết không, nếu như không có những tác phẩm văn học như “Đông chu liệt quốc” hay “Tam quốc diễn nghĩa” ?
Không! Chắc chắn là không. Còn một câu hỏi nữa.
“Những giai nhân tuyệt sắc ấy liệu có ai nhắc đến không khi bên cạnh họ không có hình bóng của một người đàn ông có khả năng làm chao đảo cả lịch sử?
Cũng chắn chắn là không. Biết bao nhiêu hoa hậu thế giới ngày nay chỉ sau một vài năm đã vĩnh viễn không còn ai nhắc tới. Sắc đẹp, tự nó khi đứng một mình, không đủ tạo nên sức mạnh.
Tiểu Thanh dẫu có là một cô gái đẹp thì chắc cũng không thể đẹp bằng Tây Thi vả lại bên cạnh nàng lại không có bóng dáng của một người đàn ông “Chọc trời khấy nước” mà sao Nguyễn Du vẫn biết đến nàng? Đó là vì cuốn “Dư tập”. Còn chúng ta biết đến nàng là vì chúng ta có “Độc Tiểu Thanh ký” của Nguyễn Du.
Viết đến đến đây tôi lại sực nhớ đến một đoạn trong “Tùy viên thi thoại”. Xin trích ra đây để mọi người đọc và suy ngẫm
“Tôi đùa khắc một con dấu để dùng riêng, trên có câu thơ “Tiền Đường Tô Tiểu thị lương thân” (Tô Tiểu Tiền Đường [1] là người quen). Viên thượng thư nọ qua Kim Lăng, đòi xem tập thơ của tôi, tôi tùy tiện đóng con dấu ấy mà đưa, ông quở trách rất gắt, ban đầu tôi còn xin lỗi, sau ông ta cứ quở mãi, tôi bèn nghiêm sắc mặt mà nói rằng: “Ngài cho con dấu ấy là thối tha ư? Cứ hiện nay mà nói, cố nhiên ngài là quan nhất phẩm, Tô Tiểu Tiểu là hèn mọn, nhưng e rằng, sau trăm năm, người đời chỉ biết có cô Tô Tiểu Tiểu ấy mà không còn biết có có ngài nữa”.
Con người! Loài sinh vật duy nhất không chỉ mong tồn tại trên thế giới này mà hơn thế, con người còn muốn sống mãi
Có người cho rằng hai từ “Tố như” Trong hai câu thơ này không phải là nói về tác giả mà hai từ “Tố như” trong hai câu trên có nghĩa là một cô gái đẹp. Với hướng tiếp cận này ông Vũ Tam Cập đã dịch hai câu cuối thành
Ba trăm năm nữa làm sao biết
Ai khóc thương nàng phận trái ngang
Và cho rằng nếu coi hai từ “Tố như” là một danh từ chung chỉ về một cô gái đẹp ( ở đây là chỉ về chính nàng Tiểu Thanh) thì câu thơ sẽ sâu sắc hơn vì tác giả lý luậnrằng: “ sự nghiệp Nguyễn Du hiển hách chẳng có gì để cho đời sau phải khóc vì thương cảm”.
Tôi cho rằng cách tiếp cận bài thơ như thế là không ổn.
Thứ nhất—Nếu chúng ta hiểu từ “Khấp” theo nghĩa đen là “Khóc” để rồi cho rằng cuộc đời Nguyễn Du chẳng có gì để cho đời sau phải thương cảm thì câu thơ có nghĩa là
“Sau ba trăm năm ta (Nguyễn Du) thương cảm cho cuộc đời nàng. Vậy ba trăm năm nữa liệu còn ai thương cảm về cuộc đời nàng nữa không?
Còn nếu chúng ta hiểu nghĩa từ “Khấp” theo nghĩa bóng là “ sự tưởng nhớ”, “ biết đến” Và hai từ “Tố Như” trong câu thơ là danh từ riêng chỉ về chính tả giả thì câu thơ trên có nghĩa là.
Nàng đã sống ba trăm năm liệu ta có thể sống nổi ba trăm năm như nàng không?
Thì câu thơ trở nên cực kì sâu sắc.
Thứ hai—Nếu hiểu theo nghia “Tố Như” là danh từ chung chỉ về người con gái đẹp thì chúng ta không thể lí giải được câu
Bất tri tam bách dư niên hậu
Tại sao lại là ba trăm năm mà không phải là bốn hay năm trăm năm sau liệu có ai còn khóc thương nàng nữa không?
Khi khóc Tú xương cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã viết
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn năm tiếng vẫn còn
Một nghìn năm chứ không phải là ba trăm năm
Chúng ta không thể trả lời được câu hỏi này. Nhưng nếu hiểu hai từ “Tố Như” là chính tác giả thì câu hỏi này hoàn toàn có thể trả lời được. Tiểu Thanh sống cách Nguyễn Du ba trăm năm. Nguyễn Du đã lấy Tiểu Thanh làm hệ quy chiếu nên không phải vô tình ông đưa ra hai từ “Tam bách”.
Các bạn có thấy không! Chỉ cần hiểu khác nhau hai từ thôi câu thơ đã hoàn toàn đổi khác.
Văn học tồn tại với thời gian là do tính nhân văn của nó. Có thể nói chắc chắn rằng chỉ có những tác phẩm có tính nhân văn cao mới có thể trường tồn và trở thành những tác phẩm kinh điển. Còn những tác phẩm mà nói như cụ Nguyễn Du “ Mua vui cũng được một vài trống canh” thì lập tức bị thời gian chôn vùi vào quên lãng. Thật đáng tiếc nền văn học “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” của chúng ta chẳng có nổi một tác phẩm văn học nào sống nổi ba mươi năm. Tại sao vậy? Hoài Thanh trước khi chết đã ngậm ngùi nói với con trai mình rằng “Nền văn học của chúng ta thiếu tính nhân văn” (Tôi chỉ nhớ đại ý mà không nhớ chính xác câu nói . Điều này được chính con trai Hoài Thanh kể lại trong phần lời nói đầu của cuốn “Thi nhân việt nam” trong một lần tái bản). Thực ra nói như Hoài Thanh cũng chưa hẳn đã đúng. Chính xác ra thì phải nói rằng “Nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta tuy cũng có tính nhân văn nhưng cái biên độ của tính nhân văn ấy quá hẹp. Chúng ta chỉ yêu thương những kẻ trong hàng ngũ của chúng ta còn những ai không ở trong hàng ngũ của chúng ta thì ta lại có chuyên chính vô sản để thay thế. Thời còn trẻ khi đọc câu thơ
Cho!
Cho!
Cho tất cả mọi điều
Giết chúng đi! Chỉ còn một đường thôi giết chúng
Ôi hôm nay lòng ta như họng súng
Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu
Của Chế Lan Viên tôi đã cho là hay lắm cho đến tận khi đọc Quo vadis ( Một cuốn sách được tặng thưởng Noben văn học) đến cái đoạn người giáo dân từ trên cao của cây thánh giá (Vì ông đang bị đóng đinh lên cây thánh giá) cúi nhìn xuống kẻ đã phản bội ông và cả một cộng đồng của hắn mà nói rằng
-Ta tha thứ cho người
Thì tôi mới hiểu Chế Lan Viên mới nhỏ bé làm sao. Một nền văn học được khuyến khích bởi một biên độ nhân văn nhỏ hẹp như vậy làm sao có thể xuất hiện những tác phẩm lớn. Chế Lan Viên của nền văn học “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” đã chết chỉ còn một Chế Lan Viên của “Điêu tàn” còn sống với cuộc đời. Sao vậy? Vì tính nhân văn của điêu tàn cao hơn hẳn thời Chế Lan Viên viết theo bút pháp “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” Thời viết điêu tàn thơ ông đầy thương cảm và hoài nhớ. Thời “Hiện thực xã hội chủ nghĩa” Thơ ông chỉ có lửa và chính ngọn lửa đó đã đốt cháy chính ông và ném ông vào hư vô.
Thương cảm, đồng cảm với nỗi đau của con người hình như là bản năng của người cầm bút. Khi cầm bút viết thi nhân đã hóa thân vào nhân vật của mình. Đừng đặt ra câu hỏi “Cuộc đời Nguyễn Du hiển hách công thành danh toại có chi mà phải khóc cho ông?” Loại câu hỏi như thế có thể đặt ra cho bất cứ ai. Trừ thi nhân. Đau với nỗi đau của con người. Vui với niềm vui của con người đó chính là “Phật tính” của người cầm bút. Không có cái “Phật tính” ấy văn chương chắc sẽ không tồn tại trên cuộc đời này.
Phong vận kì oan ngã tự cư.
“Tự cư” tự mình thấy, tự đặt mình vào nỗi oan khuất của người xưa để mà thương cảm. Trong chúng ta ai chẳng đã từng có một lần rời trang sách mà rưng rưng nước mắt. Đấy chính là lúc ta đã hóa thân vào trang sách như Nguyễn Du. Nhưng hơn hẳn chúng ta, ông còn muốn ngửa mặt lên hỏi trời “Sao vậỵ?”
Văn chương có lỗi gì đâu mà cũng mang ra đốt. Sắc đẹp có phải là tội lỗi không mà phải chết một cách oan ức? Đồng cảm với nạn nhân nhưng Nguyễn Du còn lớn tiếng lên án sự độc ác của con người.
Son phấn hữu thần liên tử hậu.
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Trời cao không trả lời “Thiên nan vấn” vì trời chính là cuộc đời này đầy dẫy sự bất công và độc ác. Câu thơ là một lời lên án chế độ thối nát đương thời. Và cái hình ảnh cô độc của tác giả trước một cảnh hoang phế với một trang sách mỏng viếng người xưa gieo vào trong lòng người đọc một nỗi cô đơn đến bùi ngùi. Nó tạo cho ta một cảm giác hình như cái tốt đẹp quá nhỏ bé trước sự độc ác và vô cảm của con người.
Thông thường một bài thơ đường luật được chia làm hai phần một phần thực nói về cái hiện tại mà tác giả bắt gặp và một phần luận từ cái bắt gặp đó suy ra những điều mà tác giả muốn gửi gắm. Thường ra mà nói hai phần thực và luận dài bằng nhau (đều là bốn câu) ta lấy một vài ví dụ để làm rõ điều nay
Buớc đến đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên song rợ mấy nhà
Nhớ nuớc đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Từ câu một đến câu bốn là tả cảnh thực. Từ câu năm đến câu tám là phần luận nhưng ở bài thơ này độc đáo ở chỗ phần thực duy nhất chỉ có một câu “Tây hồ hoa uyển tẫn thành hư”
Đến câu thứ hai “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư” nói là phần thực cũng đúng nhưng nếu nói là phần luận cũng chẳng sai bởi vì đây không phải cái mà tác giả bắt gặp mà đây là hành động của tác giả nó cũng tương tự như câu”Dừng chân đứng lại trời non nước” Của Bà huyện thanh quan. Không thể nói đây là một câu thực.
Hai câu kết của bài thơ thật là tuyệt bút. Nó đột ngột khiến ta cảm thấy bất ngờ. Ý tứ của hai câu kết tách rời hẳn với mạch thơ của sáu câu trên và vấn đề mà hai câu kết đặt ra khiến bài thơ mang một sắc thái mới. Chính vì vậy muốn cảm thụ hết được cái hay của bài thơ này chúng ta phải đi nguợc từ dưới lên trên. Đấy cũng là một nét độc đáo của bài thơ
Bất tri tam bách dư niên hậu
Lúc viết ra câu này, Nguyễn Du không biết, không thể trả lời được câu hỏi này. Nhưng bây giờ thì chúng ta đã biết và có thể trả lời ông
Không phải là ba trăm năm mà có lẽ là ba nghìn năm nữa “ thiên hạ vẫn còn nhớ Nguyễn Du”
Hà nội 24—6--2013







 
Bài thơ mở ra với cảnh hoang phế :
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang

Cảm xúc trước những đổi thay xã hội, cuộc đời như chớp mắt thường trở đi trở lại trong thơ văn hậu kì phong kiến. Những “bãi bể nương dâu, bức tranh vân cầu” (Cung oán ngâm khúc), những “cuộc hí trường”, “vũng tang thương”, “lớp sóng phế hưng” (Thăng Long thành hoài cổ, Chơi đài khán xuân Trấn Võ, Chùa Trấn Bắc), rồi “một phen thay đổi sơn hà” (Văn chiêu hồn)... đều là dấu tích của những biến động xã hội. Câu thơ là lời Nguyễn Du than thở cho sự tàn lụi của cái đẹp trong tâm thế chung của thời đại bấy giờ. Hình ảnh “Vườn hoa bên Tây Hồ biến thành bãi hoang hết” (Tây Hồ hoa uyển tận thành khư) cố nhiên chỉ có ý nghĩa tượng trưng, nhưng sao nhức nhối, xót xa... Đó là duyên cớ để sang câu sau bật lên tiếng thổn thức của trái tim nhân hậu Nguyễn Du.

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Đây là dịch thoát nghĩa, nguyên tắc “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”. Câu thơ nguyên tắc nổi lên một Nguyễn Du với tấm lòng đau xót, một mình trước song cửa, viếng hồn nàng Tiểu Thanh qua một tập sách nhỏ.

Hai câu sau là hình ảnh nàng Tiểu Thanh. Nhắc đến một tài nữ có số phận oan nghiệt, sống trước đó ba thế kỉ, Nguyễn Du chỉ gợi những nết tiêu biểu nhất :

Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương

Nàng Tiểu Thanh tiêu biểu cho những người con gái “hồng nhan bạc mệnh”. Cái chết oan khiên của nàng để thương để tiếc cho bao người. Hơn thế nữa, ở nàng có sự thống nhất giữa vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn. Nàng có nhan sắc, có tài văn chương. Những vần thơ còn sót lại làm rung động trái tim người đọc các thế hệ sau. Tiểu Thanh là hình ảnh lí tưởng của cái đẹp, là biểu hiện cái nhìn tiến bộ của Nguyễn Du về người phụ nữ (hiện thân của cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ) vốn đã được biểu hiện thành hệ thống trong thơ ông. Từ người ca nữ đất La Thành, người gảy đàn Long Thành rồi Đạm Tiên và cao độ là nàng Kiều. Có cái gì day dứt tmãi trong hai cụm từ đối nhau theo lối lưu thuỷ “liên tử hậu, luỵ phần dư” ? Số phận bi thảm của Tiểu Thanh cùng tập thơ của nàng khiến cho người ta xót thương, nuối tiếc. Câu thơ không chỉ là lòng tiếc thương mà còn hàm ý tố cáo thói tục phong kiến độc ác đã chà đạp lên con người. Hơn thế nữa, hai câu thơ còn là sự khái quát số phận bi thảm của những trang tài tử, những bậc nữ lưu trong xã hội xưa.

Phần sau bài thơ, cùng với sự khái quát được đẩy cao là liên tưởng của Nguyễn Du.

Ông khái quát mối uất hận của Tiểu Thanh không chỉ là của riêng nàng chưa tìm ra lời giải đáp (thiên nan vấn). Nỗi oan kì lạ của những con người phong vận như nàng cũng là nỗi oan của bao người, mà Nguyễn Du vừa quan sát, vừa thể nghiệm :

Cái án phong lưu khách tự mang

“Phong vận kì oan ngã tự cư”, câu thơ nguyên tác dồi dào ý nghĩa. Nguyễn Du khẳng định mình đứng trong số những người tài hoa, phong nhã, mà mệnh bạc. Đọc thơ chữ Hán của ông nhiều lần ta thấy sự khẳng định ấy, nỗi đau ấy :

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm, sinh kế lưỡng mang nhiên.
(Tạp thi I)

(Bạc đầu tráng sĩ ngẩng kêu trời
Dũng khí, sinh nhai lỗ cả đôi)

Hay :

Tráng niên ngã diệc vi tài giả
Bạch phát thu phong không tự ta

(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)

(Ta cũng tài hao khi tuổi trẻ
Gió thu đầu bạc luống buồn thay)

Chính vì thế hai câu kết bài thơ là một bầu tâm sự, một cái nhìn đau đáu, một câu hỏi cháy lòng :

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?

Nguyễn Du đau đớn khi nghĩ tới mối hận văn chương, nỗi oan phong vận của mình sẽ bị chôn vùi trong lớp bụi của thời gian. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình xem như người “cùng hội cùng thuyền”. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nỗi đồng cảm của các thời đại với nhau. Bài thơ với phương thức trữ tình, giọng thơ chân thành, thông cảm, xót xa có thể xem như một biểu dương, tranh đấu cho một giá trị, một quan niệm nhân văn về người phụ nữ nói riêng và những người tài hoa trong xã hội nói chung.

Bài thơ là lời kí thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top