Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Một hành trình triết học hấp dẫn
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 4809" data-attributes="member: 7"><p><strong>Phương thức trí năng của minh triết phương Đông.</strong></p><p></p><p>Muốn làm được cuộc đối chiếu to lớn và cơ bản đó, đương nhiên phải xuyên thấu được rất sâu vào trình triết phương Đông, mà Juuien coi làmột phương thức trí năng (mode d'intelligibilité), bên cạnh phương thức trí năng của triết học. Nhưng thâm nhập được vào phương thức trí năng của minh triết phương Đông là cực khó. Bới vì đặc điểm quan trọng nhất của minh triết, cái làm cho nó là minh triết lại nằm chính ở chỗ… nó cực kỳ bằng phẳng, nhạt nhẽo vô vị chán phèo… Nó là một mặt phẳng lì hoàn toàn không có bất cứ chỗ gồ lên nào, dù là nhỏ nhất để ta có thể nắm lấy đó, mà bắt đầu thao tác. Vậy làm thế nào đây trước sự phẳng lì đến vô vọng này ? ở đây Jullien đã có một khám phá quan trọng: dưới cái mặt phẳng tưởng chừng dửng dưng đó, kỳ thực minh triết lại cũng rất cực đoan. Ông quyết định đột phá vào chính điểm cực đoan đó của nó, để buộc nó phải tự bộc lộ ra. </p><p></p><p>Minh triết cực kỳ cực đoan ở chỗ: trong khi phương thức tư duy của triết học là bắt đầu đưa ra trước (avancer) một tư tưởng, bỏ qua những cái khác đi đã (tức "tự chọc mù mắt mình" đi một phấn đã), lấy đó làm điểm xuất phát đề rồi hoặc biện minh hoặc bác bỏ nó đi, và cứ thế mà tiếp tục tiến tới, đào sâu mãi, lật đi lật lại mãi, hình thành một lịch sử của tư duy, của triết học (thậm chí, Jullien nói, các nhà triết học càng thiên tài - tự chọc mắt đình càng sâu - thì sự mù quáng khởi nguyên của họ càng lớn: tầm vĩ đại của Platon, Kant là ở những gì các ông đã bỏ qua"); thì minh triết ngược lại không hề có lịch sử. Một bậc minh triết là minh triết trước hết là vì ông là người vô ý (một tác phẩm quan trọng của F. Jullien có tên là “Một bậc minh triết thì vô ý”). Bậc minh triết giữ tuyệt đối không đưa ra trước bất cứ một tư tưởng nào hết. không nêu lên bất cứ một tư tưởng ưu tiên nào làm điểm xuất phát, làm nền tảng để từ đó bắt đầu triển khai tư duy. ông không nêu lên bất cứ tư tưởng đầu tiên nào hết. Hay nói đúng hơn, minh triết không hề có chỗ bắt đầu nào cả (và do đó cũng không có chỗ kết thúc). Bậc minh triết sẽ nói với ta: “Thì Trời có chỗ bắt đầu nào đâu!”. Minh triết gọi đó là "cái kho vốn nội sinh “ (le fonds d'immanence), là "cái “Hiển nhiên”, là "Trời". Cái kho vốn đó không có chỗ nào là chỗ bắt đầu cả nếu ta tuỳ tiện lấy bất cứ chỗ nào làm chỗ bát đầu, làm cái thứ nhất (để từ đó có chỗ bấu víu, dù là tạm thời, mà thao tác) thì cũng đều là phiến diện, độc đoán, và lập tức đẩy tất cả những cái khác về phía sau, che khuất chúng đi. Bậc minh triết sợ sự tuyệt đối hoá một tư tưởng, ông sợ mở ra một ngả đường, dù bất cứ là ngả đường nào, sẽ khiến ta bị mù trước tất cả các ngả đường khả dĩ khác. Dù sau đó ta có cố quay lại với những cái ta đã tạm thời bỏ qua, vớt nó lên, thì cái hiển nhiên ban đầu đã không còn là hiển nhiên nữa rồi, tư duy của ta hệt như tấm giấy bạc đã bị gấp một lần, đã bị làm nhàu càng cố trở đi trở lại nhiều lần thì càng làm nhàu nó thêm, không cách gì vuốt lại cho bằng được nữa . Ta đã mãi mãi đánh mất đi tính không có xếp gấp của tư duy... Jullien đẩy minh triết đến chỗ cực đoan nhất của nó đối mặt với triết học . Trước hết là trên một vấn đề cơ bản nhất của triết học: vấn đề chân lý. Triết học sinh ra chính là để đi tìm chân lý, đó là con đường lịch sử vinh quang của nó. Thì về vấn đề trọng đại này. minh triết hờ hững nói: Cũng chẳng cần đến chân lý làm gì! Chỉ cần sự thích đáng (la congruence) là đủ rồi! Nếu chính vì để kéo cái chân và cái giả ra khỏi đám rối mù của huyền thoại mà triết học đã ra đời, thì minh triết lại không hề quan tâm đến việc xua tan mâu thuẫn, không bị vướng bận bởi quan điểm về một chủ thể, nó nhìn sự vật theo quan điểm một tiến trình liên tục, trong cái này luôn có cái kia, việc cái này đồng thời cũng là cái kia chẳng hề thành vấn đề, trái lại còn là điều kiện cho một sự tiến triển có thể diễn ra, âm nhi dương, trong âm có dương, vừa là âm, vừa là dương, âm mà dương, âm mà đến dương. Đối với nó thế giới không phải hoặc là hoặc là mà vừa là vừa là. Chú mục vào chân lý nên triết học thiên về biết. Trái lại minh triết thiên về ngộ. Vì thiên về biết nên triết học nói rất nhiều, nhà triết học là người rất lắm lời, thậm chí nếu không còn nói nữa thì nhà triết học sẽ không còn là nhà triết học. Bằng lời nói triết học giữ một mối quan hệ siêu nghiệm với thế giới mà nó lấy làm khách thể, nó thiết lập khách thể ấy bằng lời nói. (Kinh Thánh: “Khởi đầu là Lời"; “Lời Chúa là lẽ thật”). Trong khi đó bậc minh triết lại cần sự im lặng để cho cái hiển nhiên cứ thế hiện ra. Đấy là "cái vốn nội sinh", "cái tự nó vốn vậy", nên chẳng có gì để nói về nó cả. Bằng cách im lặng ta ngộ ra nó. Khổng Tử bảo: “Trời có nói chăng? Vậy mà bốn mùa cứ xoay vần, trăm vật trong vũ trụ cứ sánh hoá mãi. Mà Trời có nói chăng?”. (Jullien có một phân tích từ nguyên thú vị về từ évidence (cái hiển nhiên) : tiền tố é = trồi lên,vidence, bắt nguồn từ vide = trống không, cái hiển nhiên là cái trồi lên từ chỗ trống không, vậy có gì đâu để mà nói vệ nó!). Bậc minh triết là người từ chối nói. Một vấn đề lớn khác của triết học là vấn đề Bản thể. Minh triết không quan tâm nhiều đến bản thể, nó quan tâm hơn đến Quá trình. Chính vì vậy mà có vấn đề Trung dung. bới vì Trung dung là tâm pháp để điều tiết quá trình Jullien cho rằng quan niệm Trung dung Trung Hoa rất đặc sắc. Ông lấy ví dụ ve quẻ Càn trong Kinh Dịch, gồm 6 hào bằng nhau. Vì là 6 (chẵn) nên không có hào nào ở giữa; như quẻ 6 hào là do hai nhóm 3 hào chồng lên nhau mà thành, và vì 3 nên mỗi nhóm lại có một hào giữa. Tức quẻ vừa không có trung tá, vừa có đến 2 trung tâm. Tức Trung Hoa quan niệm Trung dung không phải là đúng giữa, một cách kỹ thuật, một cách hình học, mà là thể chuyển từ bên này sang bên kia, từ cực này sang cực nọ. Trung dung không tĩnh, mà động. Đối với minh triết "đức thời trung" không phải là một thứ một vừa hai phải một thứ nửa chừng rụt rè, mà một cái Trung dung rất tích cực, dám thế này mà cũng dám thế kia, và mỗi lần như vậy đều là dám đến cực, đến cùng, tuỳ theo, tuỳ nghi. Minh triết, lạ thay, cũng là dám sống cho đến cùng! Luận Ngữ viết: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không việc gì người cố ý bỏ, hể hợp nghĩa thì làm”. Và Jullien tìm một nghĩa cổ của chữ nghĩa = đòi hỏi của tình thế. Minh triết, cũng, lạ thế, không quan tâm nhiều hơn đến mặt “đạo đức”, nó quan tâm nhiều hơn đến sự điều tiết, sự tuỳ nghi, sự thích đáng, đối với nó quan trọng là chữ "Thời”, phải hợp thời. Bậc minh triết sống tuỳ thời. Và Jullien nói: trong khi đối với phương Tây "tuỳ thời” là xấu, thì đối với bậc quân tử Trung Hoa là đức tính quan trọng... Jullien đặt câu hỏi: Như vậy chăng những phạm trù phổ phổ quát một cách tức thời, đương nhiên? Hoá ra rất có thể không có những phạm trù như vậy. Chúng ta đã thấy điều đó qua hai phạm trù hết sức cơ bản của triết học: Chân lý và Bản thể. Phương Đông không chỉ khác (différent) với triết học phương Tây trên những điểm này. Điều còn quan trọng hơn, nó dửng dưng (indifíérent) về những điều đó Còn có rất nhiều lĩnh vực khác nữa. Chẳng hạn về quan niệm Hạnh phúc (bonheur); hoá ra Hạnh phúc cũng chỉ là một khái niệm của phương Tây. Trong khái niệm đó vẫn còn quá nhiều tính mục tiêu, hay ít ra là tính chiếm lấy, đoạt lấy. Trung Hoa có từ Phước, nhưng Phước là hàm ý ân huệ, vận may, của trời cho, nghĩa là cái ta may mắn gặp được trong tiến trình vận hành tự nhiên của sự vật. Phương Đông quan tâm nhiều hơn đến sự ích dụng (la disponibilité), mà ích dụng thì là tuỳ theo (au gré), tuỳ theo từng lúc, tùng hoàn cảnh, tức tuỳ theo quá trình.</p><p></p><p></p><p>“Nhìn từ cái nơi xa ấy (từ minh triết phương Đông), toàn bộ sự nghiệp của triết học, và của khoa học là cái nối dài của nó, hoá ra chỉ có đơn giản là một trường hợp đặc biệt. Hai thiên niên kỷ rưỡi nỗ lực để triển khai toàn hệ các khả năng của tư duy, rồi để đạt đến những quan niệm được mọi người công nhận và có thể dùng được cho lợi ích của mỗi người, hoá ra cuối cùng đã đưa đến một cách nhìn cục bộ về thế giới”.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 4809, member: 7"] [B]Phương thức trí năng của minh triết phương Đông.[/B] Muốn làm được cuộc đối chiếu to lớn và cơ bản đó, đương nhiên phải xuyên thấu được rất sâu vào trình triết phương Đông, mà Juuien coi làmột phương thức trí năng (mode d'intelligibilité), bên cạnh phương thức trí năng của triết học. Nhưng thâm nhập được vào phương thức trí năng của minh triết phương Đông là cực khó. Bới vì đặc điểm quan trọng nhất của minh triết, cái làm cho nó là minh triết lại nằm chính ở chỗ… nó cực kỳ bằng phẳng, nhạt nhẽo vô vị chán phèo… Nó là một mặt phẳng lì hoàn toàn không có bất cứ chỗ gồ lên nào, dù là nhỏ nhất để ta có thể nắm lấy đó, mà bắt đầu thao tác. Vậy làm thế nào đây trước sự phẳng lì đến vô vọng này ? ở đây Jullien đã có một khám phá quan trọng: dưới cái mặt phẳng tưởng chừng dửng dưng đó, kỳ thực minh triết lại cũng rất cực đoan. Ông quyết định đột phá vào chính điểm cực đoan đó của nó, để buộc nó phải tự bộc lộ ra. Minh triết cực kỳ cực đoan ở chỗ: trong khi phương thức tư duy của triết học là bắt đầu đưa ra trước (avancer) một tư tưởng, bỏ qua những cái khác đi đã (tức "tự chọc mù mắt mình" đi một phấn đã), lấy đó làm điểm xuất phát đề rồi hoặc biện minh hoặc bác bỏ nó đi, và cứ thế mà tiếp tục tiến tới, đào sâu mãi, lật đi lật lại mãi, hình thành một lịch sử của tư duy, của triết học (thậm chí, Jullien nói, các nhà triết học càng thiên tài - tự chọc mắt đình càng sâu - thì sự mù quáng khởi nguyên của họ càng lớn: tầm vĩ đại của Platon, Kant là ở những gì các ông đã bỏ qua"); thì minh triết ngược lại không hề có lịch sử. Một bậc minh triết là minh triết trước hết là vì ông là người vô ý (một tác phẩm quan trọng của F. Jullien có tên là “Một bậc minh triết thì vô ý”). Bậc minh triết giữ tuyệt đối không đưa ra trước bất cứ một tư tưởng nào hết. không nêu lên bất cứ một tư tưởng ưu tiên nào làm điểm xuất phát, làm nền tảng để từ đó bắt đầu triển khai tư duy. ông không nêu lên bất cứ tư tưởng đầu tiên nào hết. Hay nói đúng hơn, minh triết không hề có chỗ bắt đầu nào cả (và do đó cũng không có chỗ kết thúc). Bậc minh triết sẽ nói với ta: “Thì Trời có chỗ bắt đầu nào đâu!”. Minh triết gọi đó là "cái kho vốn nội sinh “ (le fonds d'immanence), là "cái “Hiển nhiên”, là "Trời". Cái kho vốn đó không có chỗ nào là chỗ bắt đầu cả nếu ta tuỳ tiện lấy bất cứ chỗ nào làm chỗ bát đầu, làm cái thứ nhất (để từ đó có chỗ bấu víu, dù là tạm thời, mà thao tác) thì cũng đều là phiến diện, độc đoán, và lập tức đẩy tất cả những cái khác về phía sau, che khuất chúng đi. Bậc minh triết sợ sự tuyệt đối hoá một tư tưởng, ông sợ mở ra một ngả đường, dù bất cứ là ngả đường nào, sẽ khiến ta bị mù trước tất cả các ngả đường khả dĩ khác. Dù sau đó ta có cố quay lại với những cái ta đã tạm thời bỏ qua, vớt nó lên, thì cái hiển nhiên ban đầu đã không còn là hiển nhiên nữa rồi, tư duy của ta hệt như tấm giấy bạc đã bị gấp một lần, đã bị làm nhàu càng cố trở đi trở lại nhiều lần thì càng làm nhàu nó thêm, không cách gì vuốt lại cho bằng được nữa . Ta đã mãi mãi đánh mất đi tính không có xếp gấp của tư duy... Jullien đẩy minh triết đến chỗ cực đoan nhất của nó đối mặt với triết học . Trước hết là trên một vấn đề cơ bản nhất của triết học: vấn đề chân lý. Triết học sinh ra chính là để đi tìm chân lý, đó là con đường lịch sử vinh quang của nó. Thì về vấn đề trọng đại này. minh triết hờ hững nói: Cũng chẳng cần đến chân lý làm gì! Chỉ cần sự thích đáng (la congruence) là đủ rồi! Nếu chính vì để kéo cái chân và cái giả ra khỏi đám rối mù của huyền thoại mà triết học đã ra đời, thì minh triết lại không hề quan tâm đến việc xua tan mâu thuẫn, không bị vướng bận bởi quan điểm về một chủ thể, nó nhìn sự vật theo quan điểm một tiến trình liên tục, trong cái này luôn có cái kia, việc cái này đồng thời cũng là cái kia chẳng hề thành vấn đề, trái lại còn là điều kiện cho một sự tiến triển có thể diễn ra, âm nhi dương, trong âm có dương, vừa là âm, vừa là dương, âm mà dương, âm mà đến dương. Đối với nó thế giới không phải hoặc là hoặc là mà vừa là vừa là. Chú mục vào chân lý nên triết học thiên về biết. Trái lại minh triết thiên về ngộ. Vì thiên về biết nên triết học nói rất nhiều, nhà triết học là người rất lắm lời, thậm chí nếu không còn nói nữa thì nhà triết học sẽ không còn là nhà triết học. Bằng lời nói triết học giữ một mối quan hệ siêu nghiệm với thế giới mà nó lấy làm khách thể, nó thiết lập khách thể ấy bằng lời nói. (Kinh Thánh: “Khởi đầu là Lời"; “Lời Chúa là lẽ thật”). Trong khi đó bậc minh triết lại cần sự im lặng để cho cái hiển nhiên cứ thế hiện ra. Đấy là "cái vốn nội sinh", "cái tự nó vốn vậy", nên chẳng có gì để nói về nó cả. Bằng cách im lặng ta ngộ ra nó. Khổng Tử bảo: “Trời có nói chăng? Vậy mà bốn mùa cứ xoay vần, trăm vật trong vũ trụ cứ sánh hoá mãi. Mà Trời có nói chăng?”. (Jullien có một phân tích từ nguyên thú vị về từ évidence (cái hiển nhiên) : tiền tố é = trồi lên,vidence, bắt nguồn từ vide = trống không, cái hiển nhiên là cái trồi lên từ chỗ trống không, vậy có gì đâu để mà nói vệ nó!). Bậc minh triết là người từ chối nói. Một vấn đề lớn khác của triết học là vấn đề Bản thể. Minh triết không quan tâm nhiều đến bản thể, nó quan tâm hơn đến Quá trình. Chính vì vậy mà có vấn đề Trung dung. bới vì Trung dung là tâm pháp để điều tiết quá trình Jullien cho rằng quan niệm Trung dung Trung Hoa rất đặc sắc. Ông lấy ví dụ ve quẻ Càn trong Kinh Dịch, gồm 6 hào bằng nhau. Vì là 6 (chẵn) nên không có hào nào ở giữa; như quẻ 6 hào là do hai nhóm 3 hào chồng lên nhau mà thành, và vì 3 nên mỗi nhóm lại có một hào giữa. Tức quẻ vừa không có trung tá, vừa có đến 2 trung tâm. Tức Trung Hoa quan niệm Trung dung không phải là đúng giữa, một cách kỹ thuật, một cách hình học, mà là thể chuyển từ bên này sang bên kia, từ cực này sang cực nọ. Trung dung không tĩnh, mà động. Đối với minh triết "đức thời trung" không phải là một thứ một vừa hai phải một thứ nửa chừng rụt rè, mà một cái Trung dung rất tích cực, dám thế này mà cũng dám thế kia, và mỗi lần như vậy đều là dám đến cực, đến cùng, tuỳ theo, tuỳ nghi. Minh triết, lạ thay, cũng là dám sống cho đến cùng! Luận Ngữ viết: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không việc gì người cố ý bỏ, hể hợp nghĩa thì làm”. Và Jullien tìm một nghĩa cổ của chữ nghĩa = đòi hỏi của tình thế. Minh triết, cũng, lạ thế, không quan tâm nhiều hơn đến mặt “đạo đức”, nó quan tâm nhiều hơn đến sự điều tiết, sự tuỳ nghi, sự thích đáng, đối với nó quan trọng là chữ "Thời”, phải hợp thời. Bậc minh triết sống tuỳ thời. Và Jullien nói: trong khi đối với phương Tây "tuỳ thời” là xấu, thì đối với bậc quân tử Trung Hoa là đức tính quan trọng... Jullien đặt câu hỏi: Như vậy chăng những phạm trù phổ phổ quát một cách tức thời, đương nhiên? Hoá ra rất có thể không có những phạm trù như vậy. Chúng ta đã thấy điều đó qua hai phạm trù hết sức cơ bản của triết học: Chân lý và Bản thể. Phương Đông không chỉ khác (différent) với triết học phương Tây trên những điểm này. Điều còn quan trọng hơn, nó dửng dưng (indifíérent) về những điều đó Còn có rất nhiều lĩnh vực khác nữa. Chẳng hạn về quan niệm Hạnh phúc (bonheur); hoá ra Hạnh phúc cũng chỉ là một khái niệm của phương Tây. Trong khái niệm đó vẫn còn quá nhiều tính mục tiêu, hay ít ra là tính chiếm lấy, đoạt lấy. Trung Hoa có từ Phước, nhưng Phước là hàm ý ân huệ, vận may, của trời cho, nghĩa là cái ta may mắn gặp được trong tiến trình vận hành tự nhiên của sự vật. Phương Đông quan tâm nhiều hơn đến sự ích dụng (la disponibilité), mà ích dụng thì là tuỳ theo (au gré), tuỳ theo từng lúc, tùng hoàn cảnh, tức tuỳ theo quá trình. “Nhìn từ cái nơi xa ấy (từ minh triết phương Đông), toàn bộ sự nghiệp của triết học, và của khoa học là cái nối dài của nó, hoá ra chỉ có đơn giản là một trường hợp đặc biệt. Hai thiên niên kỷ rưỡi nỗ lực để triển khai toàn hệ các khả năng của tư duy, rồi để đạt đến những quan niệm được mọi người công nhận và có thể dùng được cho lợi ích của mỗi người, hoá ra cuối cùng đã đưa đến một cách nhìn cục bộ về thế giới”. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Một hành trình triết học hấp dẫn
Top