Một cách giải mã bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du

livestock

New member
Xu
0
Một cách giải mã bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du

Quản bao nước thẳm non xa
Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng.
(Li tao – Khuất Nguyên)​
1. Sinh thời, Nguyễn Du là một người cực cô độc, cô đơn. Không phải vô cớ trong Truyện Kiều Nguyễn Du từng thốt lên qua lời nhân vật mà ông đặc biệt yêu thương quý trọng và kính trọng là Thúy Kiều rằng: Vui là vui gượng kẻo là – Ai tri âm đó mặn mà với ai? Rồi trong giai thoại trước khi mất, ông khẩu chiếm bằng hai câu thơ kết của bài thơ mà tôi sẽ bàn dưới đây; lại một giai thoại khác: ông ốm nặng, không chịu uống thuốc, khi đã giá đến đầu gối, người nhà hỏi ông có trăng trối gì không, ông chỉ nói: “Được” rồi mất... Giai thoại chỉ là giai thoại, nhưng nó vẫn có hạt nhân hiện thực của nó. Mỗi thiên tài là một đỉnh Êvơret. Vả lại, cái thời điểm tam bách dư niên hậu như nhà thơ ao ước chưa đến, mà tôi thì không thể sống được đến lúc ấy. Thiết nghĩ trong cõi đời, việc hiểu người như hiểu mình là cực khó, chỉ có trong muôn một, hiểu được thiên tài còn khó gấp bội. Phải chăng câu chuyện tri âm dường như chỉ tồn tại trong điển cố? Nó là một khao khát cháy bỏng của con người hơn là một hiện thực? Còn nhớ khi thuyết tương đối rộng được công bố, một học giả gặp Anhxtanh nói rằng: - Thưa ngài, ngài thật là một người hạnh phúc, bởi có một người đã hiểu được thuyết tương đối của ngài. Tác giả của thuyết tương đối lịch sự trả lời như sau: - Thật cảm ơn ngài! Nhưng thưa ngài! Tôi còn đang băn khoăn không biết người đó là ai? Đó chính là lí do mà tôi không dám nhận mình tri âm với bậc đại thi hào số một của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du. Bài viết này chỉ mong được giãi bày những suy tư của cá nhân về một trong những bài thơ vào loại hay nhất, viết về thể tài thương tiếc những người có tài năng, nhân cách, những giai nhân tuyệt sắc trong thơ Nguyễn Du mà thôi.
2. Nguyên văn chữ Hán:
讀小青記
西湖花苑盡成墟

獨吊窗前一紙書

脂粉有神憐死後

文章無命累焚餘

古今恨事天難問

風韻奇冤我自居
不知三百餘年後

天下何人泣素如

3. Phiên âm Hán – Việt của Độc Tiểu Thanh kí: Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư, Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư. Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kì oan ngã tự cư. Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như? Dịch nghĩa: Cảnh đẹp ở Tây Hồ đã thành gò hoang cả rồi, Đơn độc viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết, Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở. Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được, Ta tự coi là kẻ cùng một hội với con người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng. Không biết hơn ba trăm năm sau, Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
4. Cho đến nay, vấn đề thời điểm ra đời chính xác của thi phẩm này vẫn còn là một tồn nghi trong giới nghiên cứu. Người thì cho rằng bài thơ được Nguyễn Du viết khi chưa đi sứ nên đưa vào Thanh Hiên thi tập; người thì cho rằng Nguyễn Du làm khi đi sứ Trung Quốc, vì vậy đưa vào tập thơ Bắc hành tạp lục; người thì cho rằng nó được làm khi tác giả đã trở về nước, nên đưa vào tập thơ Nam trung tạp ngâm. Mỗi bên đều có những lí lẽ riêng để bảo vệ quan niệm của mình. Đây là tình trạng khá phổ biến của các văn bản ngữ văn thời trung đại ở ta. Vấn đề đặt ra với những người sáng tác và trước thuật hôm nay là trong mỗi sáng tạo của mình nên ghi cụ thể thời điểm, địa điểm ra đời, để độc giả nói chung, giới nghiên cứu nói riêng tiết kiệm được công sức khi tiếp nhận. Nhưng không phải vì vậy mà việc giải mã bài thơ rơi vào tình trạng bất khả tri. 5. Về cách dịch nhan đề bài thơ: Bài thơ vốn có tên: Độc Tiểu Thanh kí (讀小青記), khi dịch ra tiếng Việt, các bản dịch đều dịch là Đọc Tiểu Thanh kí. Như vậy, chỉ dịch độc ()thành đọc, còn những chữ khác vẫn để nguyên. Cách dịch này khiến nhiều người lầm tưởng khi còn sống Tiểu Thanh có viết kí (ghi chép, còn là một thể loại trong văn học cổ trung đại phương Đông). Nguyễn Du đã đọc kí này của Tiểu Thanh và ai điếu người đàn bà sắc tài yểu mệnh có tên trong nhan đề bài thơ). Sự thật Tiểu Thanh chỉ làm thơ mà không hề viết kí; kí (thực ra là truyện) do người đời sau ghi chép lại về hành trạng cuộc đời nàng, mà có lẽ khi đi sứ Nguyễn Du đã đọc trước khi đi sứ hay đã đọc khi đi sứ hay đi sứ về nước rồi mới đọc?... Chúng tôi đề nghị nên chăng dịch là: Đọc kí (ghi chép) về Tiểu Thanh? Tuy không giữ nguyên cấu trúc ngữ pháp của nguyên tác, nhưng lại thể hiện chính xác sự thật về nàng Tiểu Thanh mà thư tịch cổ của nước người ta ghi lại và chuyển đúng thần thái của điều Tố Như muốn nói. Cách dịch nhan đề hiện nay của bài thơ rõ ràng chỉ dịch được phần xác chữ mà bỏ mất phần hồn của nó. Cũng tương tự như cách dịch nhan đề Nam Xương nữ tử trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Đến nay tất cả mọi người đều công nhận cách dịch Người con gái Nam Xương. Tất cả các nhà xuất bản trong nước từ trước tới giờ, khi in và phát hành tác phẩm của Nguyễn Dữ đều nhất trí… trăm phần trăm (!). Nó đúng là sự chuyển ngữ chứ chưa phải là chuyển mã văn hóa. Nữ tử là người con gái, trớ trêu, oái oăm thay, nhân vật Vũ Thị Thiết là gái đã có chồng (Trương Sinh) và có con (bé Đản). Trong tiếng Việt, chỉ những người còn thanh tân, chưa hề lấy chồng mới được gọi là con gái. Vì vậy đề nghị nên dịch là Người thiếu phụ Nam Xương cho đúng. 6. Hai câu mở đầu bài thơ đã cho thấy người viếng và người chết đều cô độc, cô đơn. Ý tứ đọng lại trong hai chữ độc điếu (獨吊) mà các bản dịch nghĩa của các dịch giả đều dịch là một mình (Trước song một mình viếng một tập giấy(1), Một mình ngồi trước cửa sổ viết một tờ thư viếng (2), Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ (3)... (Chữ độc ở tên bài thơ có nghĩa là đọc, còn chữ độc này lại có nghĩa là một mình, cô đơn, cô độc, một chữ có tần số xuất hiện khá nhiều trong Đường thi). Nếu dịch độc là một mình e không ổn, vì một mình chưa chắc đã cô đơn, cô độc. Thật là cách mở đề kiểu khai môn kiến sơn. Bài thơ đã mở ra mênh mang tâm trạng. 7.Hai câu luận: (4) Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kì oan ngã tự cư Đây có lẽ là một trong những câu thơ ám ảnh nhất trong những câu thơ Nguyễn Du. Không ngẫu nhiên chút nào khi các bản dịch Độc Tiểu Thanh kí của các dịch giả khác nhau, tuy có nét tiểu dị nhưng đều gặp gỡ trên đại đồng. Cụ Bùi Kỉ dịch như sau: Sự oán hận xưa nay khó mà hỏi trời được Oan lạ của người phong vận kia tự mình ta buộc lấy mình. Cụ Đào Duy Anh dịch là: Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời Oan lạ của người phong vận ta cũng tự thấy có mình ở trong ấy. Ông Vũ Tam Tập cũng dịch: Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Từ cuộc đời đau khổ hồng nhan đa truân, sắc tài mệnh yểu của Tiểu Thanh (1594-1612) sống vào triều đại Minh bên Trung Hoa, Nguyễn Du (1765-1820), với sức đồng cảm lạ thường của người có cặp mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới ngàn đời đã khái quát thành một trong những qui luật của muôn đời. Hận, oan vốn là những chữ, những khái niệm thường dùng trong văn chương thời cổ trung đại ở phương Đông. Cổ nhân dùng chúng để biểu hiện những cung bậc, những sắc thái khác nhau của nỗi buồn nhân thế, thời thế và thân thế. Đó cũng là những chữ mà người xưa dùng để thể hiện sự tự ý thức về bản ngã. Hận là nỗi đau đớn tột cùng không thể giải tỏa, không thể sẻ chia vì những giá trị, những năng lực, những tài năng, phẩm giá... của con người bị lãng quên, bị phí hoài, bị xỉ nhục và lăng mạ. Oan là sự tự ý thức của cổ nhân về các giá trị người bị chà đạp, bị kết tội một cách thậm vô cớ và vô lí. Trong thơ mình, Nguyễn Du chủ yếu thể hiện nỗi đau đứt ruột, xé lòng trước những đau khổ bất hạnh về tâm và thân của những giai nhân tài tử rơi vào cảnh đời ngang trái , bởi tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê (Mộng Liên Đường chủ nhân), Ai tri âm đó mặn mà với ai- Nỗi mình thêm tức nỗi nhà -Thân sao bướm chán ong chường bấy thân - Biết thân đến bước lạc loài... (Truyện Kiều). Nỗi đau, nỗi oan của con người, niềm uất hận của những bậc kì tài tuyệt sắc trong thiên hạ xưa đã có, nay cũng có và có lẽ không bao giờ hết được. Nỗi đau ấy, niềm uất hận ấy đến trời cũng không có lời giải đáp. Câu thơ là sự tổng kết, sự nghiệm sinh của thi nhân về chính mình và của biết bao kiếp tài hoa, biết bao kiếp người đau khổ trên cõi nhân gian bé tí này. Nguyễn Du từng điếu Khuất Nguyên (340-278 TCN) bằng Phản chiêu hồn. Thi nhân Việt Nam không muốn tác giả Li tao trở về. Về làm gì hỡi hương hồn Khuất Nguyên! Mặt đất giờ đây, đâu đâu cũng là sông Mịch La, người đời ai ai cũng là Thượng Quan, họ ra vào cười cười nói nói như ông Cao, ông Quì không để lộ nanh vuốt, nhưng nhai xé thịt ngưòi ngọt xớt như đường. Hà cớ gì mà Khuất Bình phải nhảy xuống sông Mịch La tự tử? Bởi cả đời đục riêng một mình ông trong, bởi cả đời say riêng một mình ông tỉnh. Tố Như cũng từng khóc Thánh thi Đỗ Phủ (712-770), người được ông tôn vinh là Thiên cổ văn chương thiên cổ sư với day dứt không nguôi: Phải chăng vì thơ hay mà đời khổ? - Phải chăng vì đời khổ mà thơ hay? Trở về với đất nước mình, Nguyễn Trãi chỉ vì Một niềm trung mấy hiếu - Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen - Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông, chỉ vì tiên ưu hậu lạc mà bị cái án oan thảm khốc tru di tam tộc, khiến người anh hùng phải di hận kỉ thiên niên. Trong thơ chữ Hán của mình, Nguyễn Du còn thổn thức nỗi niềm đau khổ của Tỉ Can, Nhạc Phi, Dương Quí Phi, của cô Cầm (Long thành cầm giả ca), của mấy mẹ con người đàn bà trong Sở kiến hành... Hai lần trong Truyện Kiều và trong Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du đã cất lên Tiếng kêu đứt ruột mới:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Rồi:
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Hỡi ôi! Thân ấy biết là mấy thân (Tố Hữu). Có điều mấy thân cũng chỉ có kiếp đàn bà. Còn trong Độc Tiểu Thanh kícổ kim hận sự, là phong vận kì oan của mọi kiếp người. Cổ nhân có câu: Mĩ nhân tự cổ như danh tướng Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu. Tạm dịch: Người đẹp xưa nay như danh tướng Trời xanh chẳng để sống bạc đầu. Mệnh đề tài mệnh tương đố không chỉ có ý nghĩa tiên nghiệm, tiền định, ở thời Nguyễn Du, mệnh đề này có một nội dung xã hội khá cụ thể. Đây là thời đại xuất hiện hàng loạt tài năng lớn về nhiều phương diện. Ông vua chuyên chế phong kiến phương Đông luôn cảnh giác trước tài năng, nhất là cái tài kinh bang tế thế. Người có tài có thể làm lu mờ đấng tối cao, thậm chí có thể cướp ngôi. Chế độ xã hội ấy chỉ chấp nhận người cúc cung tận tụy, thậm chí cuồng tín, ngu tín trước ông vua. Không phải ngẫu nhiên mà trong các phim cổ trang nước Tàu, lúc nào kẻ bề tôi cũng luôn luôn lặp lại cái câu cửa miệng “Hoàng thượng sáng suốt (!)”, kể cả khi hoàng thương rơi vào tình thế bi hài nhất, kể cả khi hoàng thượng ngu tối ban cho kẻ tôi trung chén thuốc độc hay giải lụa (Cảm ơn hoàng thượng ban chết (!). Thật là cười ra nước mắt. Cái tài nhiều khi bị đem ra mua vui cho thiên hạ, bị sỉ nhục, bị lăng mạ. Vì vậy, người xưa mới đề cao tấm lòng biệt nhỡn liên tài.. Chắc chắn Nguyễn Du không thể không biết đến số phận bi thảm của Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, Cống Chỉnh, Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường, Lê Văn Duyệt, cha con Nguyễn Văn Thành... rồi gia cảnh nhà ông khi kiêu binh nổi loạn ở kinh thành Thăng Long, ông cũng từng chứng kiến cảnh những người tài sắc bị kẻ có tiền và có quyền khinh bỉ, tài sắc bị biến thành một món hàng, một thứ đồ chơi (Long Thành cầm giả ca); đặc biệt là những nghiệm sinh về thân phận của chính mình trong mười năm cát bụi. Quả là: Có tài mà cậy chi tài - Chữ tài liền với chữ tai một vần. Thời ấy kẻ có tài năng thường thị tài, cậy tài, khoe tài mà quên mất câu nhắc nhở của cổ nhân: thông minh thánh trí thì giữ mình bằng ngu độn, muốn giữ được đầy thì đổ bớt đi. Ta hiểu vì sao, tuy là chú vợ vua, ở vào bậc á khanh, hoạn lộ khá hanh thông mà mỗi khi vào chầu, vua hỏi tới việc gì ông cũng chỉ vâng dạ cho phải phép. Đã làm quan thì cái cười cái nói cái đi cái đứng đều phải tính toán mà. Câu tổng kết dân gian: ngu si hưởng thái bình, ngẫm ra thấy quả có lí. Những kẻ chỉ luẩn quẩn trong vòng mũ áo, trong cuộc tỉnh say dẫu có gặp cái cảnh thanh nhàn như hoa thơm buổi sáng, trăng tỏ ban đêm cũng trơ trơ như cỏ cây, như cá chim, lại thường được sống trọn tuổi trời. Kì lạ thay, bất công, ngang trái và oan trái thay! Nhưng đó lại là một sự thực hiển nhiên. Thế mới thấy tầm khái quát, thế mới thấy tình thương Nguyễn Du dành cho thân phận con người mênh mông nhường nào. Con người đặc biệt là người tài, người đẹp chính là sự kết tinh những phẩm giá người cao nhất, lại thường đau khổ. Mang cái tài cái đẹp chính là mang cái mầm mống của khổ đau, mang cái bản án của định mệnh phũ phàng nghiệt ngã... Ngay từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du đã chỉ ra sự bất công của Tạo hoá, sự đành hanh của máy trời. Thương người như thể thương thân, thương thân như thương người, phải chăng đó là Nguyễn Du? Ông đã nhìn ra trong nỗi đau của đồng loại nỗi đau của chính mình, và trong nỗi đau của chính mình, ông thấy được nỗi đau của đồng loại. Giọt nước mắt khóc nàng Tiểu Thanh trở thành lời ai điếu cho mọi kiếp tài hoa bạc mệnh, trở thành giọt nước mắt khóc chính mình. Vì sao sắc tài thường khổ? Vì sao thân phận con người lắm những nỗi đau? Câu hỏi ấy vẫn treo lơ lửng giữa trời xanh. Bao giờ và ai là người giải đáp hữu hiệu? Nguyễn Du đã rất đồng cảm với Nguyễn Gia Thiều (1741-1789) trong Cung oán ngâm khúc, khi ông này viết:
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.
rồi:
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Với Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm (?) trong Chinh phụ ngâm:
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Câu hỏi ấy Thiên hà ngôn tai (!). Còn nhớ Hêghen, nhà triết học Đức thế kỉ XIX có nhận xét rằng: trong văn học hiện tượng định mệnh là hiện tượng bi kịch của người tốt. Với Nguyễn Du, những bậc kì tài tuyệt sắc luôn luôn phải chịu cái gọi là cổ kim hận sự, phong vận kì oan mà ông không tìm thấy lời giải đáp hữu hiệu trong triết lí thiên mệnh của Nho giáo, duyên nghiệp quả báo của Phật giáo, tướng số của Đạo giáo triết lí ở hiền gặp lành trong dân gian... Dường như, nhà thơ của chúng ta đã linh cảm được giải tần mờ của cuộc đời đầy bí ẩn. Lịch sử có những sự trùng hợp lạ kì. Năm 1965, khi cả thế giới long trọng kỉ niệm 200 năm ngày sinh đại thi hào danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Du, cũng chính là năm nhà toán học người Mĩ Lôtfi Zadeh công bố lí thuyết lôgic mờ trong một bài báo có tên Các tập mờ. Điều kì lạ hơn nữa là mãi đến đầu thế kỉ XX Fran Kapka (1833 - 1924), một nhà văn gốc Do Thái nói tiếng Đức sống ở Tiệp Khắc cũ dưới ách đô hộ Áo - Hung, được Phương Tây suy tôn là một trong ba ông tổ của văn học hiện đại chủ nghĩa, mới phát hiện ra điều mà Nguyễn Du đã nói trước đó hơn một trăm năm. Trong các tác phẩm của mình F. Kapka đã thể hiện: Cảm giác về sự không có tự do của con người, về sự lệ thuộc của con người vào những thế lực bất hợp lí nào đó ở ngoài con người và chi phối bắt con người phục tùng (5). Trong Vụ án, nhà văn này viết câu chuyện về một viên chức ngân hàng, mang cái tên Jô zep K. bỗng dưng bị một toà án vô hình kết tội. K. không biết mình có tội gì. Toà án cũng không biết...Cuối cùng K. bị dẫn đi hành quyết đúng vào sinh nhật lần thứ ba mươi của mình. Đao phủ chọc dao vào ngực K.và ngoáy một cái. Kap ka kết thúc thiên truyện của mình băng một kết luận hết sức bi đát: K. chết như một con chó. Thân phận K. là thân phận con người bị kết án bởi một toà án vô hình, tựa như tội tổ tông trong Thánh kinh đạo Gia tô, tựa như tội mà đạo Phật quan niệm trong câu Đức Thích Ca Mâu Ni trả lời con quạ: Con khổ vì con có cái thân của con, và dường như có cả sự khúc xạ những ám ảnh của Kapka về thân phận con người trong xã hội tư sản hiện đại, khi bóng đen của chủ nghĩa phát xít đang đến gần, trước thảm hoạ do mặt trái của nền văn minh công nghiệp, hậu công nghiệp gây ra. Sự hội ngộ Nguyễn Du - Kapka phải chăng là sự gặp gỡ Đông – Tây? Điều này còn chứng tỏ chủ nghĩa duy lí phương Tây không phải bao giờ cũng hữu hiệu hơn cảm quan trực giác huyền diệu phương Đông khi khám phá hiện thực đời sống, khi thâm nhập vào những miền thẳm sâu của tâm hồn, tâm linh con người. Sự hội ngộ này khiến những bộ óc sùng ngoại nhất cũng phải bừng tỉnh. Không hiểu vì sao viết đến đây tôi bỗng cảm thấy câu thơ: Phương Đông là phương Đông- Phương Tây là phương Tây của một thi sĩ Anh quốc (Kiplinh) thật vô nghĩa. 8. Về hai câu thơ kết: Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như (Không biết sau ba trăm năm lẻ nữa – Thiên hạ có một ai đó khóc thầm tố Như): Trước hết nói về hai chữ độc điếu. Nó không chỉ hiển hiện thành câu chữ ở cặp câu đề, nó thấp thoáng ẩn hiện trong cặp câu thực (Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh lụy phần dư), nó âm vang trong cặp câu luận và đến đây nó lại thấp thoáng hiện ra trong cặp câu kết ở khát khao, ở băn khoăn day dứt không biết sau ba trăm năm lẻ có một ai đó dưới gầm trời này khóc thầm (khấp () chứ không phải khốc) mình, Tố Như chỉ cần một ai đó (hà nhân (何人) chứ không phải là số đông, rất nhiều người. Hai chữ độc điếu chính là nhãn tự, huyệt đạo của thi phẩm này vậy (6). Phải chăng đó là hai chữ thể hiện được tâm sự về nhân thế, thời thế, thân thế của Tố Như tử? Ta cứ tự cho mình là người hiểu Nguyễn Du, kì thực chưa hẳn thế (Không ngẫu nhiên chút nào khi trong Truyện Kiều lại có những câu: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh - Giật mình mình lại thương mình xót xa, Vui là vui gượng kẻo là – Ai tri âm đó mặn mà với ai? Chọn người tri kỉ một ngày được chăng? Cười rằng: Tri kỉ trước sau mấy người?”. Ta hiểu vì sao người xưa có thể chết vì tri kỉ tri âm).Thứ đến là ý kiến cho rằng đây là câu thơ thất niêm. Quả đúng thế. Người phát hiện ra điều này, rõ ràng rất giỏi về phép tắc làm thơ cách luật. Tuy vậy, lại cũng nên biết rằng: bài Hoàng Hạc Lâu một bài thất ngôn bát cú được coi là một trong 10 bài thơ hay nhất của thơ Đường, (tuy Thôi Hiệu không phải là một trong những gương mặt sáng giá nhất của Đường thi), thì câu thơ thứ tư: Bạch vân thiên tải không du du (Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi)… cũng là câu thơ phạm luật. Điều này cho thấy tài năng, thiên tài có khi tuân thủ qui củ chung, nhưng cũng có khi vượt qua qui củ, họ tạo nên những phép tắc và luật lệ mới. Tiếp theo là thời điểm ba trăm năm lẻ... Một thời gian dài người ta cho rằng đó là khoảng thời gian từ khi Tiểu Thanh mất đến khi Nguyễn Du viết bài thơ này(7). Nhưng căn cứ vào tiểu sử của nàng do một số ghi chép của văn nhân nước Tàu, thì tính cách nào cũng không đủ ba trăm năm lẻ (1820 -1595 = 225 (8) hoặc lên đến 360 năm, thậm chí là 400, hay 407, 408 năm (9), và để tránh sự võ đoán khiên cưỡng trước đây, hiện sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập I cho rằng: Có lẽ là một con số ước lệ chỉ khoảng thời gian dài (10). Có người lại cho 300 năm là thời gian luân hồi ba kiếp của một con người theo quan niệm của Phật giáo (11), nhưng ở đây là tam bách dư niên (ba trăm năm lẻ) khác với tam bách niên. Quả đúng là con số ước lệ, nhưng tại sao lại ước lệ là ba trăm năm lẻ chứ không phải là trăm năm, bốn, hay năm trăm năm, thậm chí ngàn năm? vì chúng là những con số ước lệ thường thấy người xưa dùng trong thơ văn của họ (Ư bách niên trung tu hữu ngã – Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy (Trong khoảng trăm năm này phải có ta – Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có ai? –Xuất dương lưu biệt, Phan Bội Châu).Vậy nên lí giải thế nào? Có lẽ là thế này chăng? Theo quan niệm của người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử, những bậc thánh nhân trong lịch sử phải năm trăm năm mới xuất hiện một lần, khi thánh nhân ra đời có điềm lành chỉ báo, đó là phượng hoàng kì lân hiện ra. Nguyễn Du rất chân thực, trung thực với mình và với tha nhân. Ông tự nhận mình không phải là thánh nhân, cũng không phải thường nhân, ông tự thấy mình thuộc lớp tài tử tri âm với giai nhân Tiểu Thanh. Phải chăng tài tử giai nhân khoảng ba trăm năm lẻ là chu kì để họ hội ngộ, tái xuất? Thời điểm ấy chưa tới, hãy chờ đợi. Lúc ấy, người ta giải mã Nguyễn Du chắc gì giống với chúng ta ngày nay?
Tân Thành, 12-10-2011 - Vân Giang, 16-11-1011
------------- CHÚ THÍCH: (1): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Bùi Kỉ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dịch, NXB Văn hóa Hà Nội, năm 1959).
(2): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Đào Duy Anh dịch nghĩa, chú thích, NXB Văn học, Hà Nội, năm 1988).
(3), (6): Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Lê Thước, Trương Chính sưu tầm, chú thích, biên dịch, NXB Văn học, Hà Nôi, năm 1965.
(4): Phần này đã trích đăng trên newvietart.com với tiêu đề Hội ngộ Nguyễn Du – Kapka, vandanviet.net.
(5): Suxkôp – Truyện ngắn phương Tây thế kỷ XX, tập I – NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, năm 1998.
(7): Xin xem quan niệm huyệt đạo trong một bài thơ trong bài: Suy ngẫm về câu thơ “Ôm đất ngước những người áo vải – Đã đứng lên thành những anh hùng” của Nguyễn Đình Thi, của Bùi Ngọc Minh trên vandanviet.net, newvietart. com, trieuxuaninfo, vannghesongcuulong online, ninhbinh.edu.vn.
(8): Xin xem: Những thế giới nghệ thuật thơ, Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, năm 1995, trang 215 -224
(9), (11); Xin xem Nguyễn Đăng Na, khoa Ngữ văn ĐHSPHN, viethoc.org.
(10): Ngữ văn 10, tập I (nâng cao), NXB Giáo dục, năm 2006, trang 176.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top