Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84128" data-attributes="member: 17223"><p>Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, theo tạp chí Tập san kinh tế, có 6100 điền chủ sở hữu trên 50 ha, và 18500 điền chủ sở hữu dưới 50 ha, đã bỏ nông thôn chạy về Sài Gòn - Chợ Lớn; 5% trong số họ vẫn tiếp tục được thu tô, và đến cuối cuộc chiến tranh, 349500 hec-ta ruộng được coi như đất bị bỏ hoang vô chủ (số ngày 13 tháng 8 năm 1956). Số ruộng đất của những điền chủ đã bỏ của để chạy lấy nguời và của những thực dân người Pháp đã được chính quyền nhân dân chia cho các tá điền và bần nông. ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ không có những đồn điền lớn, các điền chủ nhỏ và vừa phần đông đều ở lại làng, và chính quyền nhân dân buộc họ phải giảm tô và tức.</p><p></p><p>Ủy ban kháng chiến Nam bộ đã ban hành một loạt biện pháp về ruộng đất, các nghị định số 51/ND ngày 21 tháng 2 năm 1948, 240/ND ngày 31 tháng 4 năm 1949, sắc lệnh 89/SL ngày 22 tháng 2 năm 1950, chỉ thị 121/SVI ngày 18 tháng 10 năm 1950 quy định các mức tô, tức, cho hoãn hoặc xóa một số nợ của nông dân. Ở các tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, số bần nông sở hữu không đầy nửa hec-ta ruộng đất chiếm 65% dân số. Ruộng trên 3 hec-ta đã là một tài sản lớn, trên 25 hec-ta thì là một tài sản rất lớn. 6% dân số sở hữu những diện tích khai thác ruộng từ 2,5 đến 25 hec-ta, chiếm 15% diện tích canh tác. 10% diện tích nằm trong tay những địa chỉ có trên 25 hec-ta, tức là 0,058% dân số. Trong số này, có 8 gia đình sở hữu hơn 100 hec-ta. Gần 30% nông dân không có trong tay đến một mảnh đất nhỏ. Tình trạng đất chật người đông làm cho sự bóc lột của địa chủ đối với những nông dân không có ruộng cày thêm tồi tệ. Những địa chủ này bám chặt lấy từng mét vuông đất, giành giật với nông dân nghèo từng kilogam thóc do họ làm ra. Trong tình trạng đó, lại thêm ách áp bức của bọn quan lại và hào lý đè nặng lên đầu những nông dân nghèo, phải khá chật vật mới buộc được họ nhất nhất tuân theo lệnh trên. Ngoài ra, còn có khoảng 25% diện tích đất đai về nguyên tắc là công điền của xã và đáng lẽ phải chia cho nhân dân trong xã luân phiên thay nhau cày cấy, nhưng trên thực tế những phần béo nở nhất trong số công điền này đều lọt vào tay bọn hương lý.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84128, member: 17223"] Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, theo tạp chí Tập san kinh tế, có 6100 điền chủ sở hữu trên 50 ha, và 18500 điền chủ sở hữu dưới 50 ha, đã bỏ nông thôn chạy về Sài Gòn - Chợ Lớn; 5% trong số họ vẫn tiếp tục được thu tô, và đến cuối cuộc chiến tranh, 349500 hec-ta ruộng được coi như đất bị bỏ hoang vô chủ (số ngày 13 tháng 8 năm 1956). Số ruộng đất của những điền chủ đã bỏ của để chạy lấy nguời và của những thực dân người Pháp đã được chính quyền nhân dân chia cho các tá điền và bần nông. ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ không có những đồn điền lớn, các điền chủ nhỏ và vừa phần đông đều ở lại làng, và chính quyền nhân dân buộc họ phải giảm tô và tức. Ủy ban kháng chiến Nam bộ đã ban hành một loạt biện pháp về ruộng đất, các nghị định số 51/ND ngày 21 tháng 2 năm 1948, 240/ND ngày 31 tháng 4 năm 1949, sắc lệnh 89/SL ngày 22 tháng 2 năm 1950, chỉ thị 121/SVI ngày 18 tháng 10 năm 1950 quy định các mức tô, tức, cho hoãn hoặc xóa một số nợ của nông dân. Ở các tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam, số bần nông sở hữu không đầy nửa hec-ta ruộng đất chiếm 65% dân số. Ruộng trên 3 hec-ta đã là một tài sản lớn, trên 25 hec-ta thì là một tài sản rất lớn. 6% dân số sở hữu những diện tích khai thác ruộng từ 2,5 đến 25 hec-ta, chiếm 15% diện tích canh tác. 10% diện tích nằm trong tay những địa chỉ có trên 25 hec-ta, tức là 0,058% dân số. Trong số này, có 8 gia đình sở hữu hơn 100 hec-ta. Gần 30% nông dân không có trong tay đến một mảnh đất nhỏ. Tình trạng đất chật người đông làm cho sự bóc lột của địa chủ đối với những nông dân không có ruộng cày thêm tồi tệ. Những địa chủ này bám chặt lấy từng mét vuông đất, giành giật với nông dân nghèo từng kilogam thóc do họ làm ra. Trong tình trạng đó, lại thêm ách áp bức của bọn quan lại và hào lý đè nặng lên đầu những nông dân nghèo, phải khá chật vật mới buộc được họ nhất nhất tuân theo lệnh trên. Ngoài ra, còn có khoảng 25% diện tích đất đai về nguyên tắc là công điền của xã và đáng lẽ phải chia cho nhân dân trong xã luân phiên thay nhau cày cấy, nhưng trên thực tế những phần béo nở nhất trong số công điền này đều lọt vào tay bọn hương lý. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
Top