Trả lời chủ đề

Như vậy là chúng ta thấy rõ rằng hai lập trường hoàn toàn đối lập nhau đã được khẳng định. Chính phủ Hồ Chí Minh thừa nhận chính phủ của Diệm là "một đối tác có giá trị", mặc dù chính phủ này đã không đấu tranh cho nền độc lập của dân tộc, và đề nghị với chính phủ này không phải là đầu hàng mà là cùng nhau bàn bạc những phương thức để tiến hành cuộc tổng tuyển cử. Còn Diệm, về phía ông ta, lại muốn rằng chính phủ miền Bắc phải trình bày những chứng cớ về lòng yêu nước của mình: chừng nào mà bản thân Diệm chưa tự tay cấp cho Hồ Chí Minh tấm giấy chứng nhận rằng ông Hồ là, người yêu nước, thì chưa thể có tổng tuyển cử. Vả chăng, đối với Diệm, các Hiệp định Genève chỉ là những mảnh giấy lộn vô giá trị, điều làm cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 2 năm 1956, tuyên bố trước Quốc hội Ấn Độ rằng:


"Thiếu sót chủ yếu của tình hình ở Đông Dương, là ở chỗ ông Diệm không thừa nhận các Hiệp định Genève mặc dù ông ta chấp nhận những gì có lợi cho ông ta trong các hiệp định đó."


Quả vậy, chính phủ Diệm rất muốn, nhân danh các hiệp định đình chiến, tiếp quản việc quản lý khu vực miền Nam, trở thành người thừa kế hợp pháp quyền chỉ huy các lực lượng quân sự của Liên hợp Pháp, theo điều khoản này của hiệp định nhưng đồng thời lại không bị ràng buộc bởi những điều khoản khác.


Ngày 26 tháng 6 năm 1955, Chủ tịch Ba Lan và Nehru ký một thông cáo chung khẳng định rằng:


"Không những hòa bình ở Đông Dương mà cả trong toàn cõi Viễn Đông và trên thế giới đòi hỏi các Hiệp định Genève phải được các bên hữu quan thi hành một cách trọn vẹn, và các cuộc tổng tuyển cử phải được tiến hành như các hiệp định đã dự kiến."


(Cần nhắc lại rằng Ba Lan, cũng như Ấn Độ, là thành viên của Ủy ban kiểm soát quốc tế).


Top