Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84090" data-attributes="member: 17223"><p>Diệm trước hết là một phần tử phong kiến: từ này có nghĩa là gì ở nước Việt Nam tại thời điểm năm 1954 ?</p><p></p><p>Ở miền Nam Việt Nam, phải có một sự phân biệt cơ bản giữa các cấu trúc xã hội và chính trị của ba vùng mà chúng tôi đã phân định trong phần mở đầu của cuốn sách này. Đó là: Nam Bộ hay Cochinchine[44], những dải đồng bằng nhỏ của miền Trung hay Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở đây chưa đề cập các vấn đề ruộng đất mà chúng tôi sẽ trở lại, trước hết phải thừa nhận cơ cấu ruộng đất có tầm quan trọng quyết định đối với các vấn đề chính trị, giống như ở tất cả các nước bị thực dân hóa.</p><p></p><p>Những dải đồng bằng nhỏ ở Trung Bộ cho đến năm 1919 vẫn giữ cấu trúc cũ của nước Việt Nam truyền thống, giống hệt như ở miền Bắc.</p><p></p><p>Một lượng dân cư dày đặc trên những đồng bằng nhỏ hẹp, và vấn đề sở hữu ruộng đất trải qua hàng nhiều thế kỷ đã gây nên một cuộc đấu tranh quyết liệt, không còn những lãnh chúa sở hữu những ấp trại lớn, ở bên trên một số đông vô vàn những nông dân không có ruộng hoặc chỉ có rất ít, lần lượt chồng lên một giai cấp phú nông đông đảo, những địa chủ sở hữu từ 3 hec-ta đến vài chục hec-ta. Một ai đó sở hữu khoảng 4 hay 5 hec-ta có thể cho phát canh ruộng để thu tô ít nhất là 50% thu hoạch, và nắm trong tay mình một đám người phụ thuộc gồm từ 8 đến 10 gia đình bần nông. Đám người này, ngoài số tô phải nộp, có thể còn buộc phải biếu xén hoặc góp những ngày làm không công cho chủ ruộng. Gặp buổi thời tiết bình thường, người bần nông hay người cố nông không có ruộng canh tác từ một nửa đến một hec-ta có thể có vừa đủ gạo để ăn trong những tháng ngày mùa, vào mùa hạ và vào cuối năm, thì ăn khoai trong những mùa khác. Nhưng nếu xảy ra một cơn hạn hán, một trận lụt hoặc một cơn trọng bênh xảy đến cho gia đình nông dân hay cho con trâu, thì họ buộc phải đến vay nợ người chủ ruộng của mình. Nợ lãi 10% trên một tháng, nhiều khi còn hơn, và khi một người bần nông mắc phải một món nợ lớn, thì nhiều lắm là anh ta trả được số tiền lãi. Trên thực tế, anh ta trở thành một kẻ nô lệ suốt đời, nhiều khi để trả được nợ, nông dân phải đợ con cho địa chủ để họ nuôi làm đầy tớ. Hễ ai đó có được chỉ khoảng một hec-ta ruộng là đã đứng vào hàng trung nông, có được một hec-ta rưỡi thì đã là phú nông, tuy vẫn phải tự tay mình lao động. Dần dà, cứ từng mảnh ruông nhỏ cộng lại, số ruộng đất sở hữu lớn dần lên, thì chủ ruộng cũng leo dần lên những nấc thang xã hội trong làng, để cuối cùng không cày cấy nữa mà chỉ sống bằng sức lao động của người khác. Đương nhiên, những ai đã được thừa kế sẵn nhiều tiền và ruộng đất của cha mẹ để lại, những kẻ ấy có đủ điều kiện hơn để thâu tóm vào tay mình những mẫu ruộng mà bần nông, trung nông hay phú nông buộc phải đem cầm cố hoặc bán đi. Người ta tranh nhau quyết liệt từng thước vuông ruộng. Để duy trì trật tự, thu thuế, chế độ quân chủ cũ của Việt Nam đã đặt ra thể chế quan lại, một đội ngũ viên chức cao cấp được tuyển chọn thông qua thi cử, để trở thành những quan huyện, quan phủ, quan tỉnh, quan án, thượng thư. Một thể chế rất lâu đời, bởi khoa thi tuyển quan lại đầu tiên được mở từ năm 1075 cho đến tận năm 1919 vẫn giữ hầu như nguyên vẹn những tính chất cơ bản đã có từ đầu. Ông quan là người thay mặt cho Hoàng đế, đáng Thiên tử, tức là con của Trời, bản thân ông quan là "cha mẹ của dân", không làm gì có chuyện hỏi ý kiến của dân, làm đại diện cho dân thì lại càng không.</p><p></p><p>"Mỗi khi ông ta (ông quan) đi ra, có hai hoặc ba người lính đi sau tay cầm biển, lọng theo hầu và trước cảnh tượng đầy tính lễ nghi như thế, ai nấy đều tránh xa và cung kính vái chào. Khi lên gặp quan, không phải là người dân đến trước một ô cửa (ghi-sê) để giáp mặt với người đại diện của Nhà nước trông vẻ chẳng có gì là ghê gớm, trái lại, khi người dân đến cửa quan, trước mặt anh ta được trưng ra một loạt nào cờ, nào biển, nào những câu chữ nạm vàng, cả một hệ thống nghi lễ với những cử chỉ, những công thức thưa gửi bắt buộc phải tuân theo, khiến anh ta phải cúi đầu và hạ thấp giọng nói của mình xuống. Người dân đang đứng trước vị đại diện uy phong của đấng Thiên tử."[45]</p><p>______________________________________</p><p>[44] Nam Kỳ.</p><p></p><p>[45] Xem <em>Confucianisme et marxisme au Vietnam</em> (Khổng giáo và chủ nghĩa Mác ở Việt Nam) tạp chí Pháp L<em>a Pensée</em> tháng 10 năm 1962.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84090, member: 17223"] Diệm trước hết là một phần tử phong kiến: từ này có nghĩa là gì ở nước Việt Nam tại thời điểm năm 1954 ? Ở miền Nam Việt Nam, phải có một sự phân biệt cơ bản giữa các cấu trúc xã hội và chính trị của ba vùng mà chúng tôi đã phân định trong phần mở đầu của cuốn sách này. Đó là: Nam Bộ hay Cochinchine[44], những dải đồng bằng nhỏ của miền Trung hay Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở đây chưa đề cập các vấn đề ruộng đất mà chúng tôi sẽ trở lại, trước hết phải thừa nhận cơ cấu ruộng đất có tầm quan trọng quyết định đối với các vấn đề chính trị, giống như ở tất cả các nước bị thực dân hóa. Những dải đồng bằng nhỏ ở Trung Bộ cho đến năm 1919 vẫn giữ cấu trúc cũ của nước Việt Nam truyền thống, giống hệt như ở miền Bắc. Một lượng dân cư dày đặc trên những đồng bằng nhỏ hẹp, và vấn đề sở hữu ruộng đất trải qua hàng nhiều thế kỷ đã gây nên một cuộc đấu tranh quyết liệt, không còn những lãnh chúa sở hữu những ấp trại lớn, ở bên trên một số đông vô vàn những nông dân không có ruộng hoặc chỉ có rất ít, lần lượt chồng lên một giai cấp phú nông đông đảo, những địa chủ sở hữu từ 3 hec-ta đến vài chục hec-ta. Một ai đó sở hữu khoảng 4 hay 5 hec-ta có thể cho phát canh ruộng để thu tô ít nhất là 50% thu hoạch, và nắm trong tay mình một đám người phụ thuộc gồm từ 8 đến 10 gia đình bần nông. Đám người này, ngoài số tô phải nộp, có thể còn buộc phải biếu xén hoặc góp những ngày làm không công cho chủ ruộng. Gặp buổi thời tiết bình thường, người bần nông hay người cố nông không có ruộng canh tác từ một nửa đến một hec-ta có thể có vừa đủ gạo để ăn trong những tháng ngày mùa, vào mùa hạ và vào cuối năm, thì ăn khoai trong những mùa khác. Nhưng nếu xảy ra một cơn hạn hán, một trận lụt hoặc một cơn trọng bênh xảy đến cho gia đình nông dân hay cho con trâu, thì họ buộc phải đến vay nợ người chủ ruộng của mình. Nợ lãi 10% trên một tháng, nhiều khi còn hơn, và khi một người bần nông mắc phải một món nợ lớn, thì nhiều lắm là anh ta trả được số tiền lãi. Trên thực tế, anh ta trở thành một kẻ nô lệ suốt đời, nhiều khi để trả được nợ, nông dân phải đợ con cho địa chủ để họ nuôi làm đầy tớ. Hễ ai đó có được chỉ khoảng một hec-ta ruộng là đã đứng vào hàng trung nông, có được một hec-ta rưỡi thì đã là phú nông, tuy vẫn phải tự tay mình lao động. Dần dà, cứ từng mảnh ruông nhỏ cộng lại, số ruộng đất sở hữu lớn dần lên, thì chủ ruộng cũng leo dần lên những nấc thang xã hội trong làng, để cuối cùng không cày cấy nữa mà chỉ sống bằng sức lao động của người khác. Đương nhiên, những ai đã được thừa kế sẵn nhiều tiền và ruộng đất của cha mẹ để lại, những kẻ ấy có đủ điều kiện hơn để thâu tóm vào tay mình những mẫu ruộng mà bần nông, trung nông hay phú nông buộc phải đem cầm cố hoặc bán đi. Người ta tranh nhau quyết liệt từng thước vuông ruộng. Để duy trì trật tự, thu thuế, chế độ quân chủ cũ của Việt Nam đã đặt ra thể chế quan lại, một đội ngũ viên chức cao cấp được tuyển chọn thông qua thi cử, để trở thành những quan huyện, quan phủ, quan tỉnh, quan án, thượng thư. Một thể chế rất lâu đời, bởi khoa thi tuyển quan lại đầu tiên được mở từ năm 1075 cho đến tận năm 1919 vẫn giữ hầu như nguyên vẹn những tính chất cơ bản đã có từ đầu. Ông quan là người thay mặt cho Hoàng đế, đáng Thiên tử, tức là con của Trời, bản thân ông quan là "cha mẹ của dân", không làm gì có chuyện hỏi ý kiến của dân, làm đại diện cho dân thì lại càng không. "Mỗi khi ông ta (ông quan) đi ra, có hai hoặc ba người lính đi sau tay cầm biển, lọng theo hầu và trước cảnh tượng đầy tính lễ nghi như thế, ai nấy đều tránh xa và cung kính vái chào. Khi lên gặp quan, không phải là người dân đến trước một ô cửa (ghi-sê) để giáp mặt với người đại diện của Nhà nước trông vẻ chẳng có gì là ghê gớm, trái lại, khi người dân đến cửa quan, trước mặt anh ta được trưng ra một loạt nào cờ, nào biển, nào những câu chữ nạm vàng, cả một hệ thống nghi lễ với những cử chỉ, những công thức thưa gửi bắt buộc phải tuân theo, khiến anh ta phải cúi đầu và hạ thấp giọng nói của mình xuống. Người dân đang đứng trước vị đại diện uy phong của đấng Thiên tử."[45] ______________________________________ [44] Nam Kỳ. [45] Xem [I]Confucianisme et marxisme au Vietnam[/I] (Khổng giáo và chủ nghĩa Mác ở Việt Nam) tạp chí Pháp L[I]a Pensée[/I] tháng 10 năm 1962. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
Top