Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ngan trang" data-source="post: 84077" data-attributes="member: 17223"><p>Ngày 17 tháng 11, Tướng Collins, đặc phái viên của Eisenhower ở Sài Gòn, tuyên bố rằng sở dĩ mình có mặt tại đây là để hết sức giúp cho chính phủ của Diệm, và chỉ giúp chính phủ này mà thôi. Ngụ ý thật là rõ ràng. Ngày 29 tháng 11, nội các chính phủ Bảo Đại ra thông cáo miễn nhiệm Hinh khỏi mọi chức trách. Ngày 13 tháng 12, một thỏa ước giữa Collins và Ely xác nhận việc Pháp từ bỏ mọi tham vọng trong lĩnh vực quân sự ở Nam Việt Nam, đúng vào lúc các cuộc thương thuyết về kinh tế vừa bắt đầu và đến cuối tháng Chạp sẽ nhượng cho Pháp một số lợi thế về kinh tế. Về tất cả những xung đột để tranh giành uy tín giữa người Pháp và người Mỹ, báo Pháp <em>Le Monde</em> số ra ngày 8 tháng Chạp sau đó đã thốt ra những lời đầy u uất: "Quan niệm của người Mỹ về mối nguy cơ Việt Minh là không đúng. Nguy cơ về một cuộc xâm lăng, một cuộc tiến công vũ trang thì ít mà cái chính là nguy cơ của một cuộc xâm nhập, đặc biệt là nguy cơ làm thối rữa chế độ miền Nam từ bên trong. Vả chăng, đây không còn là một nguy cơ mà đã là một thực trạng, và để bồi dưỡng cho cái thực trạng đó, thì không có thức ăn nào bổ hơn là sự bất lực về uy quyền của ông Diệm, sự ủng hộ của Hoa Kỳ mà ông ta được hưởng, cũng như cái mà người ta gọi là sự "trung lập" của Pháp."</p><p></p><p>Sau khi có được sự ủng hộ hoàn toàn của Hoa Kỳ, và trấn an người Pháp bằng những nhân nhượng về kinh tế, Diệm nhanh chóng xếp đặt đường đi nước bước của mình. Ngày 21 tháng Giêng năm 1955, y gửi thư cho tướng Collins yêu cầu Hoa Kỳ đảm đương hoàn toàn trách nhiệm tổ chức và huấn luyện quân đội Nam Việt Nam, đồng thời trình bày với viên tướng Mỹ một số kế hoạch tổ chức các lực lượng vũ trang để làm cơ sở cho những cuộc thương lượng về viện trợ kỹ thuật và tài chính. Ngày 10 tháng 2, giữa tướng Pháp Agostini và viên tướng Nam Việt Nam Lê Văn Ty, việc chuyển giao quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang cho chính quyền Diệm đã được ký kết.</p><p></p><p>Trên bàn cờ chính trị, Diệm cũng chủ động ra quân. Ngày 16 tháng 2 năm 1955, một sắc lệnh quyết định thành lập một Quốc hội lâm thời gồm những đại biểu được bầu và chỉ định, có nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch thành lập một Quốc hội lập hiến. Để quốc hội này có tính đại diện, sắc lệnh vạch rõ, sẽ được dành cho những đại biểu của các nhóm tôn giáo, người tị nạn hoặc các sắc tộc thiểu số. Những đại biểu này sẽ do người đứng đầu nhà nước chỉ định. Thế là, tiếp theo, tướng Collins, các cố vấn Hoa Kỳ thuộc trường đại học Michigan đã vào cuộc.</p><p></p><p>Các nhóm thân Pháp cảm thấy nguy cơ đang đến. Họ cố tìm cách chấm dứt tình trạng chia năm se bảy của mình. Ngày 3 tháng 3, sau ba tuần thương lượng, các nhóm Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên cùng nhau ký thỏa ước không đánh lẫn nhau, và giáo hoàng Phạm Công Tắc đứng ra thành lập Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia, mà nòng cốt là ba nhóm nói trên. Ráp thêm vào đó là những nhóm Đại VIệt, Quốc dân Đảng vốn đã từng theo Nhật hay theo Tưởng Giới Thạch, và cả cái đảng dân chủ tự do tí hon mà kẻ lắp ráp là Phan Quang Dân vốn cũng là một phần tử thân Mỹ, nhưng đã không tranh nổi với Diệm. Tuy nhiên, về chính tị, tất cả những nhóm và đảng này đều không có cơ sở quần chúng trong nhân dân; chúng hoàn toàn mất hết uy tín vì đã đứng về phe chống lại kháng chiến Việt Nam. Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia cố tìm cách núp dưới uy tín của Bảo Đại, vẫn còn là Quốc trưởng đứng đầu nhà nước Việt Nam. Nhiều phái viên lần lượt được gửi sang Pháp nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Bảo Đại, cố thuyết phục ông ta trở về Nam Việt Nam để nắm lại quyền hành. Nhưng Bảo Đại tự biết thân biết phận mình đã bị Pháp bỏ rơi rồi lại bị Hoa Kỳ cho ra rìa, nên chẳng dại gì mà rời khỏi nơi cư trú của mình ở thành phố Cannes. Nào thông cáo, nào mệnh lệnh, nào thông điệp tất cả những gì do ông ta gửi đi từ chỗ ẩn náu xa xôi trên đất Pháp đều hoàn toàn vô hiệu.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ngan trang, post: 84077, member: 17223"] Ngày 17 tháng 11, Tướng Collins, đặc phái viên của Eisenhower ở Sài Gòn, tuyên bố rằng sở dĩ mình có mặt tại đây là để hết sức giúp cho chính phủ của Diệm, và chỉ giúp chính phủ này mà thôi. Ngụ ý thật là rõ ràng. Ngày 29 tháng 11, nội các chính phủ Bảo Đại ra thông cáo miễn nhiệm Hinh khỏi mọi chức trách. Ngày 13 tháng 12, một thỏa ước giữa Collins và Ely xác nhận việc Pháp từ bỏ mọi tham vọng trong lĩnh vực quân sự ở Nam Việt Nam, đúng vào lúc các cuộc thương thuyết về kinh tế vừa bắt đầu và đến cuối tháng Chạp sẽ nhượng cho Pháp một số lợi thế về kinh tế. Về tất cả những xung đột để tranh giành uy tín giữa người Pháp và người Mỹ, báo Pháp [I]Le Monde[/I] số ra ngày 8 tháng Chạp sau đó đã thốt ra những lời đầy u uất: "Quan niệm của người Mỹ về mối nguy cơ Việt Minh là không đúng. Nguy cơ về một cuộc xâm lăng, một cuộc tiến công vũ trang thì ít mà cái chính là nguy cơ của một cuộc xâm nhập, đặc biệt là nguy cơ làm thối rữa chế độ miền Nam từ bên trong. Vả chăng, đây không còn là một nguy cơ mà đã là một thực trạng, và để bồi dưỡng cho cái thực trạng đó, thì không có thức ăn nào bổ hơn là sự bất lực về uy quyền của ông Diệm, sự ủng hộ của Hoa Kỳ mà ông ta được hưởng, cũng như cái mà người ta gọi là sự "trung lập" của Pháp." Sau khi có được sự ủng hộ hoàn toàn của Hoa Kỳ, và trấn an người Pháp bằng những nhân nhượng về kinh tế, Diệm nhanh chóng xếp đặt đường đi nước bước của mình. Ngày 21 tháng Giêng năm 1955, y gửi thư cho tướng Collins yêu cầu Hoa Kỳ đảm đương hoàn toàn trách nhiệm tổ chức và huấn luyện quân đội Nam Việt Nam, đồng thời trình bày với viên tướng Mỹ một số kế hoạch tổ chức các lực lượng vũ trang để làm cơ sở cho những cuộc thương lượng về viện trợ kỹ thuật và tài chính. Ngày 10 tháng 2, giữa tướng Pháp Agostini và viên tướng Nam Việt Nam Lê Văn Ty, việc chuyển giao quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang cho chính quyền Diệm đã được ký kết. Trên bàn cờ chính trị, Diệm cũng chủ động ra quân. Ngày 16 tháng 2 năm 1955, một sắc lệnh quyết định thành lập một Quốc hội lâm thời gồm những đại biểu được bầu và chỉ định, có nhiệm vụ nghiên cứu kế hoạch thành lập một Quốc hội lập hiến. Để quốc hội này có tính đại diện, sắc lệnh vạch rõ, sẽ được dành cho những đại biểu của các nhóm tôn giáo, người tị nạn hoặc các sắc tộc thiểu số. Những đại biểu này sẽ do người đứng đầu nhà nước chỉ định. Thế là, tiếp theo, tướng Collins, các cố vấn Hoa Kỳ thuộc trường đại học Michigan đã vào cuộc. Các nhóm thân Pháp cảm thấy nguy cơ đang đến. Họ cố tìm cách chấm dứt tình trạng chia năm se bảy của mình. Ngày 3 tháng 3, sau ba tuần thương lượng, các nhóm Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên cùng nhau ký thỏa ước không đánh lẫn nhau, và giáo hoàng Phạm Công Tắc đứng ra thành lập Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia, mà nòng cốt là ba nhóm nói trên. Ráp thêm vào đó là những nhóm Đại VIệt, Quốc dân Đảng vốn đã từng theo Nhật hay theo Tưởng Giới Thạch, và cả cái đảng dân chủ tự do tí hon mà kẻ lắp ráp là Phan Quang Dân vốn cũng là một phần tử thân Mỹ, nhưng đã không tranh nổi với Diệm. Tuy nhiên, về chính tị, tất cả những nhóm và đảng này đều không có cơ sở quần chúng trong nhân dân; chúng hoàn toàn mất hết uy tín vì đã đứng về phe chống lại kháng chiến Việt Nam. Mặt trận thống nhất các lực lượng quốc gia cố tìm cách núp dưới uy tín của Bảo Đại, vẫn còn là Quốc trưởng đứng đầu nhà nước Việt Nam. Nhiều phái viên lần lượt được gửi sang Pháp nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Bảo Đại, cố thuyết phục ông ta trở về Nam Việt Nam để nắm lại quyền hành. Nhưng Bảo Đại tự biết thân biết phận mình đã bị Pháp bỏ rơi rồi lại bị Hoa Kỳ cho ra rìa, nên chẳng dại gì mà rời khỏi nơi cư trú của mình ở thành phố Cannes. Nào thông cáo, nào mệnh lệnh, nào thông điệp tất cả những gì do ông ta gửi đi từ chỗ ẩn náu xa xôi trên đất Pháp đều hoàn toàn vô hiệu. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ
Top