PHÚC KEYNES
New member
- Xu
- 0
Trần Đình Hượu
(1927-1995)
MẤY Ý KIẾN BÀN VỀ NGHIÊN CỨU NHO GIÁO
____________________
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa càng ngày càng triển khai sâu rộng. Hứng thú đặc biệt đối với các vấn đề lịch sử và văn hóa truyền thống càng ngày càng kéo nhiều người chú ý đến vấn đề Nho giáo, bàn đến tác động của nó trong đời sống tinh thần trước kia và ngày nay. Nho giáo, ý thức hệ chính thống của xã hội cũ, trước đây biểu hiện rõ ràng nhất trong văn học, cho nên từ lâu các nhà nghiên cứu văn học đã là người đầu tiên nói đến nó. Lần lượt các ngành sử học, luật học, giáo dục học và gần đây nhất, cả trong công tác tổ chức cán bộ, người ta cũng chú ý đến ảnh hưởng của Nho giáo. Trong những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, trong sự say mê bồng bột, chúng ta tin tưởng có thể xếp gọn những cái gì là của ngày hôm qua vào bảo tàng, cứ ra sức tuyên truyền, giải thích thì chủ nghĩa Mác, vì nó là chân lý, tự khắc sẽ tiếp quản chóng vánh mọi trận địa. Ngày nay, qua thực tiễn, ta đã thấy sự thật không đơn giản như vậy. Quá khứ, hiện tại và tương lai là liên tục. Cách mạng xã hội chủ nghĩa vì là cuộc cách mạng triệt để nhất, phải va động đến tất cả, xem xét lại, tổ chức lại, đưa tất cả vào quỹ đạo thống nhất, không tránh khỏi công việc thẩm xét ý thức hệ cũ. Sự chiến thắng của nó diễn ra thành một quá trình dài, trong đó phê phán Nho giáo có ý nghĩa tự phê phán, tự ý thức. Việc nhiều người quan tâm chú ý đến Nho giáo chứng tỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước ta đang đi vào chiều sâu, đang tiến công vào những trận địa mới. Cũng đáng chú ý là các nhà khoa học tự nhiên, các nhà kinh tế, kỹ thuật, các nhà nghệ sĩ trong hoạt động xây dựng, sáng tạo của họ chưa nói gì đến ảnh hưởng của Nho giáo. Triết học cũng mới nói đến Nho giáo như một hệ thống tư tưởng riêng rẽ, ít liên quan đến quá trình thực tế, từ nó chúng ta trực tiếp bước sang chủ nghĩa Mác. Nho giáo tác động đến toàn bộ xã hội nước ta trước đây như một hệ thống tư tưởng triết học, nhưng chúng ta mới hình dung nó như một học thuyết ảnh hưởng từng phần đến văn hóa tinh thần. Như một di chỉ khảo cổ – hay đúng hơn là như một bãi lầy nằm sâu dưới móng của một công trình xây dựng – mà ta không thăm dò được trước, nay phát hiện ra chỗ này, mai phát hiện ra chỗ khác, ngẫu nhiên lẻ tẻ, gặp đâu làm đó, không hình dung được toàn bộ để kế hoạch hóa, chương trình hóa việc nghiên cứu và giải quyết. Tờ Tiền phong, cơ quan ngôn luận của Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh, đã kêu gọi quét sạch ảnh hưởng Nho giáo, muốn làm một cuộc tổng thanh toán với nó mà giới nghiên cứu thì lại chưa chuẩn bị sẵn sàng. Tuy chưa có những chuyên luận nhưng trên các báo chí cũng đã có nhiều bài bàn đến Nho giáo ở nhiều phạm vi, theo nhiều góc độ, với nhiều cạnh khía, nhưng ý kiến đang rất phân tán. Chúng ta bàn nhiều đến mặt tiêu cực, tích cực của Nho giáo nhưng chính đối tượng – Nho giáo là gì, nhà Nho là ai? – thì chưa xác định.
Ở Việt Nam, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu là Nho hay cả Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu nữa cũng là Nho? Chỉ các ông Nghè, ông Thám là Nho hay cả các thầy đồ - và thường là kiêm cả thầy thuốc, thầy địa lý, thầy số nữa, cũng là Nho? Chỉ những người trung nghĩa như Lý Trần Quán, các di thần nhà Lê – và khác hơn một chút, các nhà Nho Cần Vương cuối thế kỷ XIX – là Nho hay cả những người ẩn dật như Lý Tử Cấu, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Thiếp, cả những người nổi dậy chống triều đình như Cao Bá Quát, Hoàng Phan Thái cũng là nhà Nho? Chỉ những người lo tu dưỡng đạo đức, “tiến lên thì làm quan, lui về thì làm thầy” mới là Nho hay cả những nhà quân sự như Trần Quốc Tuấn, kinh tế như Nguyễn Công Trứ cũng là Nho? Đã là Nho thì chỉ thừa nhận kinh truyện Nho gia, bài xích mọi dị đoan hay cũng có thể đồng thời có cả tư tưởng Âm Dương, Lão Trang, Phật giáo? Với những người rất thường gặp có tư tưởng phức tạp như vậy thì nên phân loại như thế nào? Phải chăng có loại nhà Nho chân chính, có loại nhà Nho pha tạp, có loại nhà nho giả hay nhà Nho là như thế?
Vì chọn cái gì đó, ai đó là Nho không xác định cho nên khi đi thẳng vào bàn tính tích cực, tính tiêu cực, ý kiến rất phân tán, tùy thuộc một mức độ khá lớn vào tình cảm, định kiến chủ quan. Muốn nói là tích cực thì lấy cái này, bỏ cái kia, và muốn nói là tiêu cực thì làm ngược lại. Một thái độ dễ được chấp nhận là đúng mức có tình có lý – hay là bề ngoài là lý song trong là tình – lấy bên này một ít, bên kia một ít, vừa tích cực, vừa tiêu cực, cân nhắc liều lượng cho vừa phải, dễ được chấp nhận: “vô quá vô bất cập”. Không những về phương pháp có chỗ cần bàn bạc mà ngay cả phương hướng, mục tiêu nghiên cứu cũng cần xác định rõ ràng hơn. Có chỗ thống nhất thì mới bàn bạc được. Tất nhiên cần có sự đa dạng về phương hướng, phương pháp, nhưng nếu đối tượng nghiên cứu không thống nhất thì rất khó trao đổi ý kiến. Trong bài này, chúng tôi muốn nêu ra một số ý kiến trao đổi góp phần tìm sự thống nhất về đối tượng và mục tiêu nghiên cứu Nho giáo.
I.- NGHIÊN CỨU CHO THỰC TẾ VÀ THỰC TẾ ĐỂ NGHIÊN CỨU
Trong việc nghiên cứu Nho giáo của ta có ý kiến khác nhau giữa hai phương hướng tạm gọi là “học lý” và “thực tế”. Coi là “học lý” cách nghiên cứu dựa vào kinh điển, tìm nội dung, hệ thống tư tưởng Nho gia trong kinh điển, mà kinh điển thì ra đời ở Trung Quốc. Gọi là “thực tế” là chủ trương nghiên cứu Nho giáo ngay ở Việt Nam, tác động đến đời sống Việt Nam; tư liệu nghiên cứu là tác phẩm của các nhà Nho Việt Nam – tuyệt đại bộ phận là thơ ca. Nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc, nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam, nghiên cứu theo kinh điển, nghiên cứu trong ảnh hưởng thực tế đều là phương hướng có thể chấp nhận. Vấn đề sinh ra là ở chỗ khác, do thực tế chứ không phải do học lý.
Nội dung Nho giáo, tìm bằng con đường “học lý”, đến nay còn chưa thống nhất. Người thì cho nội dung chính của Nho giáo là cương thường, người thì cho là trung hiếu tiết nghĩa (hay chỉ trung hiếu), là nhân nghĩa (hay chỉ là nhân), là lễ, là đức; người thì cho là trung dung, người thì cho là thiên mệnh, là thiên nhân cảm ứng; người thì cho là tùy thời biến dịch; … Mỗi nhận định đều có lý do; tất cả những điều đó đều được trình bày, đều được nhấn mạnh nơi này hay nơi khác trong kinh điển, rải rác trong các mẩu ý kiến của thánh hiền. Nêu ý kiến thành từng mẩu, không thành hệ thống mà không thuyết minh vốn là đặc điểm của cách trình bày ý kiến của Nho gia. Điều đó cũng gây ra việc nhận định không thống nhất. Tùy mặt nào mà người nghiên cứu đó quan tâm, tùy trường hợp nào mà ý kiến đó được phát biểu, một trong những điều trên đây là quan trọng nhất. Nói chung cho Nho giáo, tùy cách lựa chọn kinh điển nào là chủ yếu – Ngũ kinh hay Tứ thư, Kinh Xuân Thu hay Kinh Dịch, Trung Dung hay Luận ngữ - thì một trong những nội dung trên đây sẽ được đặt lên hàng đầu, thành hạt nhân của học thuyết. Tất nhiên tư tưởng Nho gia có một hệ thống, và những nội dung trên đây có vị trí nhất định trong hệ thống chung, nhưng hệ thống hóa trên cơ sở một điểm nào đó trên đây là hạt nhân đều là nói có lý, bàn có cớ.
Có người thấy làm như vậy là học lý, nghĩa là sách vở, hơn nữa là nói Nho giáo Trung Quốc, xa xôi, mất nhiều thì giờ, nên đề nghị nghiên cứu cho thực tế: đi thẳng vào bàn Nho giáo ở Việt Nam, đi thẳng vào thứ Nho giáo tác động trong thực tế trước đây và còn có ý nghĩa với hiện tại. Tất cả chúng ta đều là người nghiên cứu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, đều muốn tìm hiểu Nho giáo ở Việt Nam, vì Việt Nam – và Việt Nam hiện nay – cho nên một đề nghị như vậy rất dễ hấp dẫn. nhưng khi muốn thực tế như vậy, người nghiên cứu không thể không chú ý đến thực tế của chính đối tượng nghiên cứu.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam chứ không phải phát sinh ở Việt Nam. Ở Việt Nam, nó không phải trải qua quá trình thai nghén, sinh thành, phát triển từng bước liên tục, trọn vẹn theo quy luật vận động nội tại, có quan hệ ăn khớp với hạ tầng cơ sở như ở bản địa. Nó được du nhập chậm – hay được tiếp nhận chậm – qua nhiều đợt, có khi là ngẫu nhiên, có khi là qua lựa chọn sau khi ở bản địa, Nho giáo đã trải qua một thời kỳ phát triển dài, từ Khổng Mạnh qua Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho. Khi các triều đại Lý, Trần có ý thức dùng nó phục vụ cho vương triều thì Nho giáo từ lâu đã phát triển đến giai đoạn kinh viện, tiên chú, đã tồn tại với cả những thể chế xã hội, những phong tục tập quán: ta đưa Nho giáo vào là với cả những kinh điển đã được Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho chú giải, cùng với những quy chế học tập, thi cử, cùng với những tổ chức thờ cúng tiên thánh, tiên hiền, tổ chức văn hội, sĩ hội, cùng với cả những công thức biểu đạt về mặt văn học. Coi là khuôn vàng thước ngọc là tư tưởng Nho gia với tất cả những điều kiện tồn tại như vậy. Sang Việt Nam, Nho giáo tồn tại như những tín điều chỉ để học tập, noi theo, ứng dụng, không cần tranh cãi, không cần bổ sung, phát triển. Người học phải học thuộc, nhớ kỹ, chỉ cần nhắc qua vài ba chữ là phải nhớ ra cả trên, cả dưới. Nếu không quan niệm thứ Nho giáo vào Việt Nam là như vậy thì đối với ta ngày nay thật khó hiểu lý do của các biểu đạt tư tưởng bằng tích, bằng điển và càng khó hiểu mối thù truyền kiếp của các nhà Nho Việt Nam đối với Pháp gia chẳng hạn, vì ở Việt Nam chưa có sự đụng độ nào giữa Pháp gia và Nho gia cả.
Nho giáo tuy được đưa vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc nhưng đến thế kỷ XV mới thực sự có ảnh hưởng chi phối. Khi được đưa lên vị trí hệ tư tưởng chính thống thì một mặt thứ Nho giáo được truyền bá đã trải qua hàng ngàn năm hỗn tạp nhiều yếu tố của hệ tư tưởng khác: Âm Dương, Đạo gia, Phật giáo … và mặt khác, trước thực tế Việt Nam, những quan hệ mới, vấn đề mới cũng đòi hỏi nó phải thích ứng. Ta gặp trong thực tế một thứ Nho giáo không thuần nhất, đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm Dương, Phật, Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương nên khi tác động đến từng mặt của đời sống ở Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó không còn nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau. Cái Nho giáo trong chế độ chính trị, trong luật pháp, trong đường lối dùng người khác với cái Nho giáo trong văn hóa, trong giáo dục, trong đạo đức mà cũng khác cái Nho giáo trong hành vi, trong suy nghĩ, trong cảm xúc của một người. Cái Nho ở dạng nguyên chất sách vở - thường là ít gặp trong thực tế - thì dễ nhận diện, nhưng cái Nho khi trở thành nếp suy nghĩ, thành phong tục tập quán, thành nghi thức, thành tâm lý xã hội thì khó nhận diện. Và cái Nho giáo của thực tế, tức là của cuộc sống Việt Nam, cái Nho giáo mà các nhà Nho Việt Nam để lại là thuộc loại sau.
Nhà Nho Việt Nam ra đời cũng chậm. Tuy từ thời Bắc thuộc đã có loại Trương Trọng, Lý Cầm, Lý Tiến nhưng Nho sĩ còn học và thi ở tận Trung Quốc. Phải đến thời Trần, Nho sĩ mới có một vai trò tương đối độc lập. Nhưng ngay cả đời Lê, trước thời Lê Thánh Tôn, nhà Nho vẫn chưa có số lượng đáng kể.
Nói về nhà Nho, các nhà nghiên cứu của ta thường chia theo mấy tính cách: dân tộc hay sùng bái nước ngoài, thuộc lớp trên hay lớp dưới, hiển Nho hay hàn Nho, khoa hoạn hay bình dân, vì dân hay vì vua, nghĩa là theo các tiêu chuẩn chính trị và xã hội. Nhưng lấy những tiêu chí như vậy đã đủ để phân loại hay đánh giá nhà Nho chưa?
Nhà Nho là người trí thức thuộc một đẳng cấp xã hội và đồng thời nhà Nho cũng là người tín đồ, tôn thờ một học thuyết. Trong xã hội họ có thể làm quan, làm thầy và thường là có viết văn, làm thơ. Thơ văn của họ - tài liệu ta dùng nghiên cứu - ngoài phần viết theo những thể thức có sẵn, có phần sáng tác tự do, bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân. Trong đó - nhất là trong thơ tâm sự - do vị trí giai cấp, hoàn cảnh cụ thể mà có thái độ riêng, nhưng trong cả xã hội phong kiến, nhà Nho có một vận mệnh chung, một thái độ chung, phân biệt họ với những tầng lớp khác, những người theo học thuyết khác, tôn giáo khác. Nho giáo trang bị cho mỗi nhà Nho một quan niệm thế giới, một phương pháp suy nghĩ, một quan niệm làm người. Mục đích cả cuộc đời họ là học, thi đỗ, làm quan. Đó là con đường duy nhất trong xã hội phong kiến nước ta trước đây làm cho họ thỏa mãn được ước mong, nói một cách văn hoa, lý tưởng là an dân, giúp vua, mà nói một cách thật thà là no ấm, vinh hoa, phú quý. Thái độ của các nhà Nho đối với cuộc đời là tích cực, hữu vi nhưng đối với người cầm quyền họ lại không nhập cuộc gắn bó hoàn toàn. Ở vị trí tầng lớp trung gian, họ xử sự theo phương châm “dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng” https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn1. – vua dùng thì đem Đạo ra thi hành, vua bỏ không dùng thì cất giấu cho mình. Quan niệm hành tàng, xuất xử đó làm cho nhà Nho thành hai mẫu người: hành đạo và ẩn dật. Hành đạo và ẩn dật vốn là hai mặt không thể tách rời trong mỗi nhà Nho: nhập thế mà vẫn xấu hổ, xấu hổ vì tham luyến công danh; xuất thế mà vẫn băn khoăn vì không làm tròn trách nhiệm. Trong cuộc đời không phải nhà Nho nào cũng tiến, cũng đạt. Có kẻ làm quan, làm thầy mà số đông thì phải - nói như Tản Đà - “phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, làm các nghề khác: thầy thuốc, thầy số, thầy địa lý, có chỗ dùng đến chữ nghĩa, ít phải lao động vất vả. Họ chuẩn bị cho tất cả: “nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ”. Đi học là phải dùi mài kinh truyện, tập làm văn thơ phú lục; làm thầy họ dùng nó để dạy dỗ; làm quan, họ dùng nó để làm việc quan. Công việc của người học trò, của ông thầy, của ông quan chủ yếu chỉ là làm văn, mà làm văn thì phải đọc rộng các sách khác: chư tử, tiểu thuyết, thơ văn Hán, Đường, Tống. Làm quan tất phải biết điển lệ, pháp luật, vô tình phải học tri thức chuyên môn theo Pháp gia. Làm nghề y, lý, số tất phải biết âm dương ngũ hành. Vào cuộc đời họ thường hăng hái say mê ôm ấp mộng “trí quân trạch dân”, làm nên công danh sự nghiệp, mà họ hình dung khá dễ dãi nên tin tưởng ở sức mạnh vạn năng của Đạo lý thánh hiền; khi vấp váp trong thực tế, họ dễ bất đắc chí, chán nản, tìm khuây khỏa trong tư tưởng hư vô của Lão Trang và Phật. Đối với một nhà Nho, trong các quan hệ xã hội họ dựa vào tư tưởng Nho gia, trong công việc nghề nghiệp họ cần đến tư tưởng Âm Dương; trong đời sống riêng họ lại cần đến tư tưởng Lão Trang, Phật. Cho nên tư tưởng nhà Nho là pha tạp và trên phương hướng chung thường đi từ Nho sang Trang. Không phải Nho thuần túy mà cũng không phải Trang thuần túy. Thường thường thì họ là loại văn nhân gần với Đường Tống bát đại gia hơn là một nhà tư tưởng một nhà học giả kiểu Đổng Trọng Thư, Chu Hy hay Trang Chu.
Nho giáo không thuần nhất, nhà Nho càng không thuần nhất, trong từng phạm vi nó khác nhau, xét về đồng đại nó có tính hỗn tạp, xét về lịch sử nó giống như một thứ trầm tích. Nhưng sự không thuần nhất, sự thiếu xác định đó không phủ nhận sự tồn tại của một cái Nho giáo nói chung, ít khi tồn tại riêng rẽ. Ngay trong cả sự hỗn tạp vẫn có một cái gì đó là Nho, trong sự kết hợp giữa Nho và các học thuyết, tín ngưỡng khác vẫn theo những quy luật nhất định, đó là quy luật kết hợp theo cách Nho. Nó là hợp chất chứ không phải hỗn hợp. Nếu ta biết các đơn chất - các bộ phận cấu thành, những quy luật kết hợp của nó, trong những điều kiện nhất định nào đó thì ta sẽ hiểu được cái lõi - phần thực chất của Nho giáo, cái sẽ qua kết hợp mà biến dạng trong lịch sử mà thành Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho, cái tự giản hóa hay kết hợp thêm trong những phạm vi khác nhau theo yêu cầu thực tế đòi hỏi ở nó. Nho giáo ở Việt Nam, đối với Nho giáo ở Trung Quốc cũng chỉ là một biến dạng như thế.
Tìm được cái lõi của Nho giáo, khả năng biến dạng để thích ứng, quy luật vận động và cơ sở tồn tại của nó thì ta có thể nhận thức nó chính xác, không bị những hiện tượng đa dạng làm rối trí, không rơi vào mô tả liên miên, không coi là phổ biến cái đơn nhất, không lấy cân nhắc chủ quan thay cho phân tích khoa học. Cái lõi đó là tiêu chí để nhận diện tàn dư Nho giáo trong thực tế xã hội ngày nay, là cái cần phải phá bỏ một cách khoa học để thanh toán ảnh hưởng của Nho giáo.
Tìm ra cái lõi đó phải là từ cái Nho giáo vận động trong thực tế, nhưng là thực tế rộng rãi, cụ thể, đa dạng và lịch sử, muốn nhận thức được phải vận dụng phương pháp của nhiều ngành khoa học (văn học, triết học, sử học, tức là những ngành khoa học chịu ảnh hưởng Nho giáo). Do đó, nghiên cứu một cách thực tế không thay thế được nghiên cứu một cách học lý, nghiên cứu Nho giáo trong xã hội không thay thế được nghiên cứu trong sách vở và muốn thực tế thì nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam không thể bỏ qua nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc. Nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc không phải là sách vở, là vì Trung Quốc, mà là nhìn vào thực tế một cách lịch sử, hoàn chỉnh, rõ nét, cho phép ta rút ra từ đó nội dung của cái lõi Nho giáo.
II. - CẢ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG NỮA CŨNG QUAN TRỌNG
Từ đời Hán ở Trung Quốc và quãng Lý Trần ở Việt Nam, cho mãi đến thế kỷ XIX, Nho giáo được nhà nước phong kiến sử dụng làm công cụ thống trị về ý thức tư tưởng. Cũng có khi nó không được độc tôn, phần nào thất sủng và chịu cảnh suy đốn nhưng không khi nào thành đối tượng đấu tranh, gạt bỏ. Một học thuyết không cần đến bộ máy và phương pháp tổ chức tín đồ và mê hoặc tôn giáo mà vẫn giữ được sự thống trị đến hơn hai ngàn năm là một điều đáng chú ý. Sức sống dai dẳng đó phải có lý do tất yếu, nghĩa là Nho giáo phải đáp ứng đúng những nhu cầu của cơ sở kinh tế - xã hội thực chất của xã hội phương Đông. Người ngoài nhìn vào hiện tượng sống lâu như vậy tưởng nó chứa đựng một nội dung chân lý cao siêu nào đó; người trong quen với nó, thấy nó gắn bó, là cái gì của mình; mọi hậu quả do sự trường thọ ấy gây ra đều tự nhiên, không đáng kinh ngạc. Ai cũng tin rằng trong nó phải có cái gì đúng đắn làm cho nó đứng vững mãi.
Sự tồn tại lâu dài có làm cho Nho giáo biến thiên, thay đổi diện mạo: Nho giáo thời Tiên Tần, thời Hán, thời Đường, thời Tống, thời Minh, thời Thanh có khác nhau. Người quan tâm đến tác dụng, ảnh hưởng của nó đi tìm cái hay, cái dở trong những hình thái đã đổi thay đó của Nho giáo. Sự tìm tòi được hướng vào sự đổi thay cách hiểu các khái niệm, sự bổ sung những vấn đề mới vào nội dung, sự chỉnh lý, sắp xếp các bộ phận trong hệ thống … Chúng ta cũng đã chú ý tới mối tương quan giữa các đổi thay đó, với những đổi thay về chính trị, kinh tế, xã hội. Nhưng chúng ta chưa lưu ý tới chỗ trong từng thời khác nhau, các giai cấp, các đẳng cấp đã sử dụng Nho giáo giải quyết những vấn đề gì, và vì vậy đã làm đổi thay như thế nào vai trò, chức năng, vị trí của nó trong đời sống xã hội.
Nó là gì (nội dung hệ thống) là rất quan trọng, mà nó được dùng làm việc gì (vai trò, chức năng) cũng rất quan trọng khi ta bàn về tác động của Nho giáo trong thực tế.
Nho giáo là học thuyết đạo đức mà cũng là học thuyết chính rị của người sĩ quân tử. Sĩ quân tử là sản phẩm của một xã hội, của một thời đại nhất định. Họ tổng kết kinh nghiệm sống trên cơ sở thực tế xã hội đó mà xây dựng lý tưởng cũng trên cơ sở thực tế xã hội đó. Lý tưởng của họ là tu thân để tề gia, tề gia để trị quốc, trị quốc để bình thiên hạ https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn2. Phương hướng tu dưỡng đạo đức và đức trị đặt ra cho từng người những mục tiêu có khác nhau, nhưng đòi hỏi từ thiên tử cho đến thứ nhân ai ai cũng phải lấy tu thân làm gốc https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn3. Nho gia cũng chủ trương lễ trị - dùng lễ nhạc để giáo hóa. Lễ phát huy tác dụng cách khác, nhưng nội dung của lễ (lễ ý) là đạo đức. Lễ trị cũng chỉ là đức trị, thực hiện bằng những phương tiện khác, cũng chỉ là tu dưỡng đạo đức, thực hiện bằng biện pháp khác. Thứ đạo đức mà Nho giáo muốn phổ biến là đạo đức của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc, làng xóm, nước, thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn, hình dung theo mô hình gia đình mở rộng. các cộng đồng tuy có tính chất gia đình, xã hội, nhà nước, tôn giáo hoàn toàn khác nhau nhưng quan hệ trong đó lại chỉ có quan hệ trên dưới theo thân tình như trong gia đình: cha con, anh em, vợ chồng. Trong gia đình người ta đối xử với nhau theo tình cảm máu mủ mà cũng hình thành một thứ quan hệ trên dưới tự nhiên: con theo cha, em nghe anh, vợ theo chồng. Người dưới yêu kính và phục tùng người trên và người trên có nhiệm vụ yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục người dưới. Vị trí cao nhất thuộc về người gia trưởng. Người gia trưởng có uy quyền tuyệt đối và đồng thời phải yêu thương, chăm sóc, chịu trách nhiệm về mọi thành viên trong gia đình. Trong gia đình, uy quyền người trên được duy trì không phải theo sự sòng phẳng, lẽ công bằng, không phải bằng luật lệ, sự thưởng phạt mà chủ yếu bằng sự gắn bó tình cảm. Nho giáo lý tưởng hóa cảnh gia đình êm ấm, trật tự, hòa mục, đề cao đạo đức: cha từ, con hiếu, anh hòa, em kính, chồng bao dung, vợ thuận tùng. Hiếu đễ là căn bản đạo đức, nhưng không phải chỉ là đạo đức của con người trong phạm vi gia đình; hiếu đễ là gốc của nhân. Làm như vậy cũng không chỉ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc: tề gia là để trị quốc. Trên cơ sở đồng nhất xã hội, nhà nước với gia đình, đồng nhất quan hệ xã hội, quan hệ nhà nước với quan hệ gia đình, Nho giáo muốn mọi người suy từ lòng hiếu đễ mà kính yêu kẻ tôn trưởng trong làng nước, kính yêu quan trưởng, trung với vua, hiếu kính với trời đất quỷ thần; muốn suy từ người gia trưởng uy nghiêm, từ ái mà đòi người trên (tôn trưởng, quan trưởng, vua và cả trời) cư xử theo cách cha anh trong gia đình trong quan hệ với người dân: yêu thương, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ - dạy dỗ bằng treo gương, bằng cảm hóa. Bằng cách đó, Nho giáo hy vọng có thể thiết lập khắp nơi - trong bốn biển, trong thiên hạ - một cảnh trị bình yên ấm, mọi người sống với nhau thân thiết, tình nghĩa; không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa vị, vạn vật dục - khí hạo tràn đầy khắp trời đất https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn4.
Lý tưởng của Nho giáo được xây dựng xuất phát từ con người của gia đình, của thị tộc, của nền kinh tế tự nhiên; tổ chức xã hội đơn giản; bộ máy nhà nước từ thiên tử, chư hầu đến trung sĩ, hạ sĩ tuy đông đảo, tổ chức theo quan chế phức tạp nhưng chưa có tác dụng trực tiếp đáng kể đối với mọi người. Lý tưởng Nho giáo đặt lên hàng đầu đòi hỏi tu thân, nhưng tu thân không chỉ nhằm mục tiêu đạo đức - hoàn thiện phẩm chất con người - mà còn nhằm cả mục tiêu chính trị - thực hiện đức trị - hơn thế, lại còn nhằm cả một mục tiêu tôn giáo - tham dự, góp phần vào sự hóa dục của Trời Đất https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn5.
Sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước gây biến động rất lớn trong đời sống xã hội. Quan hệ bóc lột và bị bóc lột, áp bức và bị áp bức có tác dụng ngày càng lớn, lấn át cả quan hệ máu mủ tự nhiên, “chính” và “hình” thay cho “đức” và “lễ” trong quan hệ giữa người cầm quyền và dân: sinh hoạt xã hội và nhà nước đòi hỏi một cách nhìn thống nhất đồng loạt (tề, nhất). Trong sự tiến hoá của lịch sử, đó là một bước tiến bộ, nhưng đồng thời nó cũng lại phân hóa, làm xáo động, gây đau xót, làm tổn thương tình cảm những người không muốn mất đi cảnh êm đềm của đời sống gia đình, thị tộc. Nho giáo nhiệt tình với công việc trị nước, tôn trọng trật tự nhà nước, coi là đương nhiên quyền lợi ưu đãi đối với những kẻ trị nước dạy dân: từng lớp sĩ quân tử nhìn thấy quyền lợi của họ trong sự phân hóa xã hội. Thế nhưng họ lại phản đối chính, hình, muốn giải quyết các quan hệ nhà nước và xã hội theo kiểu tình cảm tự nhiên như trong gia đình, không muốn phá cảnh êm đềm, không muốn có sự tàn nhẫn, đau xót. Xét về mặt tình cảm, đó là lòng nhân ái. Xét về mặt lịch sử, đó là thái độ phản động, phản động vì bảo thủ, chống lại sự tất yếu. Với chức năng là học thuyết tu dưỡng đạo đức, Nho giáo bằng cả hai mặt có tác động đến từng cá nhân nhà Nho.
Nhà nước phong kiến đưa Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống tức là dùng nó làm lý luận tổ chức xã hội, tổ chức chính quyền, làm cơ sở lý luận cho luật pháp, làm phương hướng cho nội dung và tổ chức giáo dục, làm tiêu chuẩn cho phong hóa, cho sáng tác văn học nghệ thuật. Nó phải đóng vai trò một thế giới quan, một phương pháp luận trong nhận thức thế giới, một chân lý phổ biến làm chuẩn cho mọi suy nghĩ, hành động. Nó chi phối toàn bộ theo chức năng hệ tư tưởng triết học. Một học thuyết đạo đức vốn không xây dựng theo yêu cầu của một học thuyết triết học, không đặt ra và giải quyết những vấn đề của một hệ tư tưởng triết học. Làm chức năng hệ tư tưởng triết học, Nho giáo thiếu một vũ trụ quan, một nhận thức luận minh bạch. Để giải đáp nhiều vấn đề, nó phải suy diễn từ các nguyên lý đạo đức, phải vay mượn các quan điểm các học thuyết khác, nhiều trường hợp trái với Nho giáo, làm cho học thuyết phình ra mà không nhất quán. Đưa Nho giáo làm ý thức hệ chính thống là sự lựa chọn khôn ngoan của chế độ chuyên chế, điều này chúng tôi sẽ nói ở sau, nhưng Nho giáo để thích ứng với chức năng mới, phải lấp những chỗ trống một cách chắp vá, phải giải thích nhiều vấn đề một cách ứng phó tùy tiện. Sự nghèo nàn thiếu hoàn chỉnh, thiếu nhất quán của hệ tư tưởng đạo đức lộ ra, gây tác dụng hạn chế, kìm hãm. Chỗ nào mà đòi hỏi hàng đầu là nhận thức, là hành động, tổ chức, là sáng tạo, nghĩa là ở những chỗ thiết yếu cho con người và xã hội phát triển, thì ở đó hệ tư tưởng đạo đức Nho giáo có tác dụng kìm hãm, cản trở.
Ân tình nồng hậu, đối xử theo quan hệ trên dưới yêu thương và thuận hòa, không kể những đòi hỏi quá khắt khe, nhiều khi là cách giải quyết có hiệu quả và hợp lý các quan hệ trong gia đình. Thế nhưng rút gọn mọi quan hệ xã hội - thậm chí cả mọi quan hệ trong thế giới tự nhiên nữa – thành chỉ có quan hệ cha con, anh em, vợ chồng và bè bạn thì con người không có tiền đề để đấu tranh cho nhân phẩm, cho tự do, cho sự công bằng xã hội, cho việc tăng thêm uy lực của con người… Nhìn và giải thích xã hội theo nhân tình thế thái, nhìn và giải thích thế giới theo trật tự và hòa khí, đòi hỏi sống theo tình nghĩa thì không có vấn đề đấu tranh xã hội, đấu tranh tự nhiên cho sự tiến bộ.
Giữ mình trung chính, tự tôn tự trọng, làm cho người chung quanh kính nể không dám xúc phạm, do đó xử sự theo lối quân tử, giữ mình nghiêm cẩn, tránh can thiệp, tránh tiếp xúc, sống hơi biệt lập cả với bạn bè, dầu hết sức thân thiết cũng giữ mức độ, không quá chầm bập đến suồng sã, a dua, bè cánh (quân tử chi giao đạm nhược thủy) là sáng suốt, hợp lý, có hiệu quả trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Ứng dụng thái độ đó trong thực tế đối với người trên là giữ lễ, khiêm tốn mà tự tôn, đối với người dưới là uy nghiêm, khoan dung mà kẻ cả. Nếu so với cao ngạo hay xu nịnh với người trên, cậy quyền cậy thế, tác oai tác phúc, hay lừa phỉnh để lợi dụng người dưới thì như thế còn là tốt hơn. Thế nhưng cơ sở làm chỗ xuất phát cho thái độ đó là sự tôn trọng phận vị, là tư tưởng yên mệnh chứ không phải là khát vọng công bằng và tiến bộ chi phối hành động, là sự giữ gìn chứ không phải là lòng yêu thương, sự phẫn nộ, chính nghĩa cảm. Đối với quỷ thần kính nhi viễn chi là tiến bộ; so với mê tín, khuất phục cầu xin, mua chuộc thì tốt hơn. Nhưng quỷ thần không chỉ là những sự bày đặt mê tín mà còn là những sức mạnh kỳ lạ mà con người chưa hiểu biết, thái độ nhìn vào cái thiết thực “chưa biết cái sống thì làm sao biết cái chết, chưa biết thờ người thì làm sao biết thờ quỷ thần” https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn6– như Khổng Tử bảo Tử Lộ - không chỉ là gạt bỏ sự mê tín mà đồng thời cũng là gạt bỏ những thắc mắc, những tò mò của con người trước những sức mạnh khó hiểu, huyền bí của ngoại giới. Kết quả của thái độ tự tôn, tự tin, giữ mình uy nghiêm kiểu nhà Nho thường chỉ dẫn đến thiển cận, bất lực, gàn bướng và ngoan cố.
Đi đôi với sự đổi thay, tăng cường vị trí và chức năng của Nho giáo là sự tăng cường vị trí và chức năng của nhà Nho trong xã hội. Nhà Nho là người sĩ quân tử, học, tu dưỡng theo đạo đức Nho giáo. Nhưng trong đời sống xã hội, trong lịch sử, họ là người trí thức và về chức nghiệp họ có thể là quan, là thầy và làm các nghề khác. Suốt đời chỉ đọc một thứ là kinh điển Nho giáo, họ có một cách nghĩ, một cách sống mà hiển Nho hay hàn Nho, lớp trên hay lớp dưới, có một vận mệnh chung, chịu sự quy định của cùng một cơ sở kinh tế - xã hội nên thấy cùng những vấn đề, chấp nhận cùng một sự hợp lý, nên cơ bản là giống nhau. Khi Nho giáo thành ý thức hệ chính thống thì nếp nghĩ chung đó ảnh hưởng, chi phối cả quần chúng - chủ yếu là nông dân. Nho giáo thay đổi chức năng xã hội, đặt kẻ sĩ quân tử vào những vị trí khác nhau, làm các chức nghiệp khác nhau, vị trí chức nghiệp đòi hỏi ở họ cách suy nghĩ, hành động tương ứng, và ở đó họ gặp những vấn đề mà tư tưởng đạo đức - chính trị Nho giáo không chuẩn bị cho họ. Họ phải vay mượn ở các học thuyết khác, cho nên trong lý tưởng vì đời, giúp vua, an dân họ là Nho, nhưng khi làm điều đó trong thực tế - tức là làm quan - họ phải theo luật lệ và trở thành nửa Nho nửa Pháp. Trong quan niệm thế giới họ có thể nhìn trời, đất, xã hội như gia đình theo kiểu Nho, nhưng khi làm thầy số, thầy thuốc, thầy địa lý họ phải vừa Nho vừa Âm Dương. Trong quan niệm xuất xử họ chủ trương “ dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” – theo Nho, nhưng đã xuất thế, ẩn dật, nhất là nếu họ làm thơ, thì đứng trước thiên nhiên, trước nhân tình thế thái đen bạc họ thường phải là nửa Nho, nửa Lão - Trang hay Phật. Nho giáo vẫn chi phối họ. Kể cả trường hợp nhà Nho phải vay mượn ở học thuyết khác thì cũng là vay mượn những cái Nho giáo cho phép. Sống theo Nho, nghĩ theo Nho không nhất định phải là người đọc hết Kinh, Truyện, trải qua công đăng hỏa ở cửa Khổng sân Trình. Nhân dân trước đây và nhiều người trong chúng ta ngày nay có đọc Kinh, Truyện bao giờ mà sống và nghĩ cũng rất Nho.
Nhà Nho có nhiều nét tiêu cực, nhưng ở những phạm vi khác nhau mức độ tiêu cực không giống nhau; và giữa những nét tiêu cực đã nhận thấy, họ lại có cái gì đó làm cho người khác kính nể. Đó là dáng dấp trang nghiêm, là lối sống thanh cao, khí tiết cứng cỏi. Đó là sự ung dung thanh thản trước những hoàn cảnh khó khăn. Người ta cũng thường nghĩ đến những nhà Nho làm quan, giữ thanh liêm suốt đời, trong khi bổng lộc của nhà vua bao giờ cũng đơn bạc, phải nhờ vợ tần tảo mới có thể sống tương xứng với cương vị, đến những người dám bỏ quan về sống nghèo khổ ở thôn quê khi triều chính không làm mình vừa lòng, khi bị quan trên ức hiếp, đến những ngự sử dám hạch tội vua quan trước triều đình, thậm chí coi thường cả cái chết để chửi mắng những hành động bất chính. Trong cuộc đời, riêng các nhà Nho thường hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm đến bà con làng xóm, có tình nghĩa, thủy chung với bạn bè, .... Ở nhiều nhà Nho có những hành động không phải ai cũng làm được. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, biết bao nhà Nho đã đứng lên chống giặc trong những điều kiện không cân sức, chỉ biết vì việc nghĩa thì phải làm không kể nguy hiểm đến tính mạng.
Cho đến mãi đầu thế kỉ XX, nhiều thanh niên Tây học đã chán ngấy với trình độ hiểu biết ít ỏi và lạc hậu, với lối thuyết lý đạo đức dông dài, với tác phong cổ lỗ của các nhà Nho, mà đứng trước họ vẫn có mặc cảm tự ti, cảm thấy mình có cái gì đó không bằng.
Nhân đây, tôi nghĩ cũng nên nói lại một ngộ nhận. Người ta thường nói nhà Nho thuộc giai cấp thống trị, lười lao động, ăn bám, bóc lột và quen hình dung họ theo kiểu giai cấp thống trị hám lợi tàn ác. Thực ra nhà Nho là những người chủ trương sống thanh bạch, cần, kiệm, liêm, chính, không ích kỉ, vơ vét, tham lam. Ít có nhà Nho nào không thức khuya dậy sớm, không lắc xắc làm những việc lặt vặt hay cầm sách liền tay. Chỉ có điều là họ siêng năng trong các công việc không sản xuất, coi sản xuất, làm giàu, kiếm lợi là thấp kém hèn hạ. Họ thích trồng hoa chứ không thích trồng khoai, trồng làm cảnh chứ không trồng để kiếm lợi. Hoa tươi, quả nhiều, nếu ai khen đẹp thì họ coi là tri âm, tri kỉ, nhưng nếu ai bảo là sẽ bán được nhiều tiền thì họ coi là ti bỉ, có khi bị cấm cửa không cho đến nữa. Họ thích nhàn tản ung dung, nhưng cũng có phần phản đối chơi bời lêu lổng. Nhà Nho coi thường dân lao động, đối xử với họ một cách kẻ cả, bề trên nhưng không phải là theo kiểu hống hách, tàn bạo của kẻ thống trị cậy quyền, cậy thế. Họ coi dân lao động là hạng “dân ngu khu đen” dốt nát và kém đạo đức cho nên cần được họ che chở, giáo hóa và vì vậy dân lao động cần phải kính cẩn, nghe lời và nuôi nấng họ: đó là kẻ dưới nhưng là đối tượng che chở, giáo hóa chứ không phải là đối tượng đàn áp, bóc lột... Ít nhà Nho xa xỉ. Điều này thì cũng dễ hiểu: xưa nay nhà Nho vốn nghèo. Giữ được thật sự liêm chính thì cũng khó biết được bao nhiêu người, nhưng ít ra họ cũng suy nghĩ nhiều khi nhận của kẻ khác, có ăn hối lộ thì cũng biết xấu hổ, cũng mất công tìm danh nghĩa để tiếp nhận của vi thiềng theo lễ. (Các nhà Nho làm quan dưới thời Pháp thuộc thì đã không quan tâm đến những cái vặt ấy nữa). Tất cả những điều đó đều làm với ý thức giữ đạo đức cá nhân, vì Đạo vì Lý chứ không phải vì trách nhiệm đối với xã hội, vì sự công bằng giữa những con người.
Trong tình hình mọi người - đều là nhà Nho - dè bỉu, khinh miệt Thương Ưởng và các biện pháp Pháp trị của ông, Vương Anh Thạch đã nói:
Thời nhân vị khả khi Thương Ưởng
Thương Ưởng năng linh lệnh tất hành
Thương Ưởng có mặt sở trường mà các nhà Nho dè bỉu ông không dễ làm được: đã ra lệnh thì kẻ dưới phải thực hiện. Và đối với nhà Nho chúng ta cũng có thể nói điểm sở trường nổi bật của họ là ý thức giữ đạo đức, lòng tự tôn, tự trọng. Điều đó cũng như lệnh tất hành của Thương Ưởng, cũng có cái mặt trái tai hại của nó.
Lý Trần Quán, Trần Danh Án xét về mặt đạo đức cá nhân thì tinh thần trách nhiệm, lòng tín nghĩa, tinh thần dũng cảm là cao cả, nhưng xét về mặt xã hội, về mặt chính trị thì hành động trung nghĩa của họ là phản động. Phan Thanh Giản, về mặt con người là ông quan thanh cần, sống thanh bạch, chăm lo công việc, không trốn tránh công việc khó khăn. Phải kí hàng ước, ông ung dung làm việc mà mình cho là phải: kí và tự tử. Cuộc đời và hành động của ông có sức làm xúc động cả những người yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu. Thế nhưng xét về mặt xã hội, về mặt chính trị thì ông là một đại thần, một sứ thần có tội với đất nước, với nhân dân. Ngay cả Tự Đức cũng vậy. Tự Đức là một ông vua chăm lo chính sự, hết lòng theo đúng lời dạy của thánh hiền để xây dựng nước nhà trị bình, rất quan tâm đến văn hóa giáo dục. Những sự xa xỉ như xây Khiêm lăng, đi săn, đi chơi cửa Thuận thực ra có tốn kém là bao (tất nhiên là tính theo sự chi phí của một ông vua). Nhưng xét về mặt xã hội, mặt chính trị, trong tình trạng nước loạn ly, dân đói khổ, giặc ngoài ngấp nghé, một ông vua lấy hiếu trị thiên hạ, lấy tín nghĩa để cảm hóa thực dân, dựa vào các nhà khoa bảng, chăm làm thơ viết sách để giải quyết mọi chuyện, kể cả võ bị, kinh tế; một ông vua thầy đồ như vậy làm sao cho khỏi mất nước? Cho đến giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, rồi cách mạng vô sản, nhiều nhà Nho đồng tình, tham gia. Họ không khó trở thành nhà yêu nước, người chiến sĩ đáng tin cậy vì khí tiết, vì lòng tín nghĩa. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều nhà Nho tham gia, chịu đựng gian khổ, vận động nhân dân kháng chiến và vận động có hiệu quả. Không ít nhà Nho thích chủ nghĩa xã hội, sùng bái Mác-Lênin, một số tham gia hàng ngũ Đảng. Tất nhiên, quá nửa trong số họ không phân biệt chủ nghĩa cộng sản khoa học và ảo tưởng đại đồng, chủ nghĩa Mác đối với họ không phải là hệ tư tưởng triết học nhận thức và cải tạo thế giới mà là học thuyết chính trị đạo đức, một lý tưởng xã hội tốt đẹp. Ở đâu mà hoạt động xã hội chủ yếu dựa vào hành động, vào tinh thần của những cá nhân thì ở đó nhà Nho có thể tham gia và có tác dụng vừa xấu vừa tốt. Cuối thế kỉ thứ XIX, cũng là các nhà Nho ấy nhưng khi cầm quyền bính ở triều đình thì bí bét đến thế mà khi giặc đến lại đứng lên chống giặc và hi sinh rất oanh liệt.
So với tư tưởng Đạo giáo thì Nho giáo là loại tư tưởng nhập thế, cứu thế, chủ trương con người xã hội, nhưng trong xã hội thì nhà Nho lại là người ít hiểu biết xã hội và nhà nước. Con người, theo nhà Nho là con người cộng đồng, nhưng là những cộng đồng như gia đình, hình dung mình sống trong gia đình, nhìn khách quan theo quan điểm đạo đức và đẳng cấp, nhìn xã hội theo nhân tình thế thái chứ không thành tổ chức, cộng đồng có tính cách riêng biệt. Họ mơ ước một cộng đồng rộng lớn đến cả bốn biển, đến cả thiên hạ, thậm chí đến cả trời đất, một quốc gia có nền văn hiến, lễ nhạc, đầy đủ mọi thiết chế, vừa có ý nghĩa thực tế, vừa có ý nghĩa trang sức, một chế độ chính trị như thời Nghiêu, Thuấn, bằng đức trị đưa lại cảnh thái bình, không những làm cho mọi người yên vui mà còn làm cho mưa thuận, gió hòa, không có nhật thực, nguyệt thực, không có sâu keo làm hại mùa màng, ..., thế nhưng lại gồm những người đồng nhất, đồng nhất về phẩm chất đạo đức và chỉ có phẩm chất đạo đức. Họ cũng mong một xã hội tốt đẹp hơn nhưng lại với biện pháp “an” - ổn định, giữ như cũ, không xáo động; “quân” - phân phối công bằng theo một bảng phân phối vạch sẵn và số lượng không thêm không bớt. Không nghĩ đến sự tiến hóa, tiến hóa thông qua tăng gia sản xuất, thông qua cải tiến tổ chức, quản lý kinh tế và xã hội và cự tuyệt sự biệt dị, sự phân hóa. Cho nên một lúc nào đó trong xã hội đòi hỏi hành động tập thể, cần đến tổ chức, quản lý, cần đến khoa học kỹ thuật để thay đổi thì nhà Nho là cản trở ghê gớm. Tâm lý nệ cổ, cầu an, sự bất lực cộng với chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình, thái độ gia trưởng xô đẩy mọi người vào một sự lùng nhùng vướng víu không thoát ra được.
Thời Tự Đức là thế. Trước cả Tự Đức, Minh Mạng đã biết sức mạnh kỹ thuật phương Tây và âm mưu xâm lược của thực dân và lo đối phó. Thế nhưng mất ba bốn mươi năm bàn cãi đạo lý, nghe các đề án cải cách, cái thì cho vô lý, cái thì chê cao quá, cái thì chê tốn quá, cái thì lo không hợp với cha ông, cái thì sợ gây xáo động bất an... Cuối cùng, không dám quyết đoán một cái gì cả. Triều đình Tự Đức rất Nho, quá nhiều nhà Nho: mẹ Nho, con Nho, vua Nho, tôi Nho, đầy triều là Nho thần, cầm quân cũng là Nho thần. Nó không phải hỏng vì các nhà Nho thiếu tinh thần chăm lo việc nước hay ít đạo đức hơn trước mà nguy hại vì họ quá đạo đức theo kiểu nhà Nho và làm một chức năng không phù hợp: cầm quyền cai trị một nhà nước. Nho giáo được thử thách toàn diện trên chức năng một ý thức hệ chính thống, quản lý mọi mặt cuộc sống của một đất nước chứ không phải trên chức năng một học thuyết tu dưỡng đạo đức. Nhà Nho được thử thách trên chức năng xã hội chứ không phải trên chức năng cá nhân. Sự thử thách khắc nghiệt trong điều kiện bất lợi cho nó nhất.
Trong một xã hội coi Nho giáo là ý thức hệ chính thống, người trẻ trở thành con cháu, người lớn tuổi trở thành cha chú, chỉ có gia đình lớn nhỏ mà không có xã hội, không có nhà nước, không có con người mà cũng không có công dân; mọi người chỉ lo xử lý quan hệ với người trên và người dưới, tìm sự hòa thuận êm ấm, không hướng con người vào việc tìm tự do và hạnh phúc trong việc cải tiến tổ chức xã hội và làm chủ các lực lượng tự nhiên. Trong lịch sử, Nho giáo cũng chỉ giúp được các ông vua thủ thành - giữ lấy ngai vàng, chứ không giúp được cả những ông vua sáng nghiệp hay cần cải cách.
Đưa một hệ tư tuởng đạo đức-chính trị làm chức năng hệ tư tưởng triết học, chỉ đạo mọi hoạt động tất nhiên phải gây ra vô số trở ngại cho sự phát triển. Càng dốc lòng tin tưởng, càng nhất loạt tuân theo nó bao nhiêu thì càng hỏng việc bấy nhiêu. Đó không phải là lỗi của những ai đó lựa chọn thiếu sáng suốt, mà có nguyên nhân sâu xa ở một tình hình nào đó làm mọi người thấy Nho giáo làm chức năng đó hợp tình hợp lý hơn cả. Không những trong hàng chục thế kỷ không hình thành hệ tư tưởng triết học nào đó chống lại nó, mà các hệ tư tưởng triết học từ ngoài du nhập vào thì cũng chỉ có đạo đức-chính trị hóa thì mới được chấp nhận, chỉ có xây dựng lại theo mô hình Nho giáo mới được nhận thức dễ dàng. Cứ nhìn vào những cá nhân có đạo đức thanh cao, khí tiết, giàu tình nghĩa, cứ nhìn vào những gia đình gia giáo, những tổ chức êm ấm hòa mục như gia đình thì những người ghét Tự Đức, ghét các nhà Nho đầu hàng Pháp đến như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng vẫn nghĩ Nho giáo là cái không bỏ được, cho đến lúc chết dầu không tiếc thân mình mà vẫn tiếc chôn vùi mất cái Khổng Mạnh trong mình https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn7. Cứ phê phán Nho giáo có một mặt là chính trị thì cũng khó thấy nhiều tác hại nguy hiểm hơn và khó thấy trong ta có cái gì đấy là Nho.
III. VỚI MỘT CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN CỤ THỂ
Nho giáo được đề cao, trở thành độc tôn dưới chế độ phong kiến, là ý thức hệ chính thống của nhà nước phong kiến cho nên người ta thường tìm thực chất - tức nội dung giai cấp - của nó ở giai cấp địa chủ và vua quan. Theo hướng suy nghĩ đó, nhiều người làm cho việc Nho giáo thống trị phản ánh xã hội kinh tế địa chủ trở thành phổ biến; giai cấp địa chủ là cơ sở xã hội của chính quyền tập trung (bạch y địa chủ thắng thế lực hào tộc địa chủ thời Hán Võ Đế, giai cấp địa chủ trở thành thế lực thống trị sau sự tan rã của đại điền trang đời Trần). Cũng theo hướng đó, người ta chỉ ra nét tiêu cực chính của Nho giáo là biện hộ cho chế độ vua quan, cho sự áp bức và bóc lột của giai cấp địa chủ, là khinh lao động, là ăn bám, là ngu trung, chống lại nhân dân. Và theo cách lôgích tất yếu, nhân dân - cụ thể là nông dân - chống lại Nho giáo. Nhiều người viện dẫn một số câu ca dao, một số chuyện tiếu lâm để chứng minh thái độ phi Nho giáo của nông dân, bỏ qua nhiều tài liệu ngược lại, về mặt số lượng có khi nhiều hơn đến mức áp đảo.
Nho giáo đã bảo vệ chế độ phong kiến và cơ sở của chế độ phong kiến là chế độ địa tô, giai cấp địa chủ. Điều đó thì không cần bàn cãi. Nhưng ở đây thường có sự đồng nhất, không chú ý đến những nét khác biệt giữa chế độ phong kiến ở phương Đông và chế độ phong kiến ở phương Tây, giữa hoàng đế, lãnh chúa, điền chủ phương Tây và vua, quan lại, cường hào địa chủ phương Đông. Cũng là vua, quý tộc, quan lại, địa chủ, nhưng đặt trong những quan hệ kinh tế, những quan hệ xã hội, chế độ sở hữu, điều kiện sản xuất, phương thức phân phối khác nhau nên thành những thực tế rất khác nhau. Khó khăn là sử học chưa cho chúng ta những tài liệu nghiên cứu cụ thể về kinh tế, xã hội phương Đông và sai lầm thường là chỗ chúng ta dễ dàng bằng lòng với những suy luận từ những nguyên lý, vốn được tổng kết trên cơ sở thực tế lịch sử ở phương Tây, sử dụng những thuật ngữ hình thành trong tình hình đó để nói về phương Đông; nhiều khi coi sự trùng hợp là có cùng nhân quả, coi sự giống nhau là đồng nhất.
Nhấn mạnh tính đặc thù không có nghĩa là phủ nhận tính phổ biến, phủ nhận quy luật. Một phương thức sản xuất phong kiến hay tư bản chủ nghĩa, ở phương Đông hay phương Tây cũng đều có những đặc trưng chung. Lưu ý đến tính đặc thù là để tìm đến sự thật cụ thể-lịch sử. Cùng là có những đặc trưng chung nhưng một phương thức sản xuất nào đó ở từng nơi, hình thành theo những con đường cụ thể khác nhau, trải qua những chặng đường, gặp những tình thế làm biến chuyển giai đoạn khác nhau. Trong nó tồn tại những quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể, đặt ra những vấn đề chính trị, tổ chức xã hội, pháp quyền, văn hóa tư tưởng cụ thể, làm cho cuộc sống diễn ra khác nhau, con người buộc phải suy nghĩ khác nhau. Chế độ phong kiến ở Việt Nam có những đặc điểm của chế độ phong kiến chung mà lại tồn tại với những quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể. Trong lịch sử của nó, thực tế luôn luôn phải đối phó với nạn ngoại xâm cũng đẻ ra những vấn đề rất khác. Nho giáo được lựa chọn để bảo vệ chế độ phong kiến, thì đồng thời nó cũng phải phục vụ chế độ phong kiến đó chống ngoại xâm. Có người khi nói đến tính đặc thù Việt Nam thường chỉ chú ý đến đặc điểm chống ngoại xâm hay cô lập nó để nhìn đặc điểm đó. Nhưng đặc thù không chỉ có ở chống ngoại xâm mà còn có cơ sở kinh tế-xã hội và đặc điểm chống ngoại xâm cũng biểu hiện trong chế độ kinh tế-xã hội. Nhìn ở góc độ kinh tế-xã hội, ta mới có một cái thước đo chung để bàn một cách khoa học, vừa tôn trọng tính cụ thể-lịch sử vừa tôn trọng quy luật phổ biến.
Một hiện tượng mà ai cũng dễ thấy là ở phương Đông nhà nước tập quyền cao độ - tập trung đến mức thành chuyên chế - ra đời rất sớm và hủy diệt rất muộn. Chế độ chuyên chế ra đời cùng thời kì với các đế chế phương Tây, cuối thời kì chiếm hữu nô lệ nhưng kéo dài cho đến cuối thế kỉ XIX, không chia ra hai giai đoạn phân quyền và tập quyền; phong kiến tập quyền không phải là chính quyền liên minh giữa hoàng quyền và tư sản, không phải là chính quyền trung ương của một dân tộc đã có thị trường chung với một nền kinh tế tư sản đã phát triển.
Chế độ chuyên chế phương Đông – từ đây chúng tôi tạm dùng thuật ngữ đó – có giai đoạn mang tính chất chiếm hữu nô lệ, có giai đoạn mang tính chất phong kiến. Đó là chế độ chiếm hữu nô lệ không phải thông qua phân hóa trong nội bộ công xã, dẫn đến chiếm hữu tư nhân về nô lệ và ruộng đất từng vùng nhỏ, mà thông qua chiến tranh giữa các bộ tộc; kẻ chiến thắng áp đặt quyền lực để bóc lột các dân tộc chiến bại bằng cách vương hóa hữu ruộng đất và thần dân hóa dân chúng. Các vùng đất chiến bại, khuất phục bị biến thành chư hầu hay sáp nhập thành quận huyện mới, những cơ sở hạ tầng là công xã vẫn không thay đổi. Về sau cũng xảy ra quá trình phân hóa nội bộ, cũng thay đổi phương thức thu cống nạp, xã hội nô lệ chuyển sang xã hội phong kiến, nhưng về toàn bộ mà nói sự thay đổi không trải qua phá vỡ cơ sở công xã và nền sản xuất tự nhiên. Đó là việc dùng bạo lực quân sự và chính trị để thi hành bóc lột về kinh tế, không kèm theo sự tổ chức lại về sản xuất. Đó là sự thay đổi phía trên, thay đổi danh nghĩa, sự chuyển về hình thức, không thay đổi nhiều trong trật tự có sẵn (nhất là trong công xã), không đưa lại sự thay đổi lớn về kinh tế. Đây là một hình thức ở giữa, hay là hỗn hợp, của ba hình thức chiếm hữu nô lệ, phong kiến phân quyền, phong kiến tập quyền chứ không phải là sự thay đổi lần lượt của ba hình thức như vậy. Nổi bật trong thể chế kinh tế-xã hội đó là công điền và thần dân, cả hai là đất màu nuôi sống chế độ chuyên chế.
Ruộng đất trước đây là của công xã. Sau khi chính quyền chuyên chế xác lập, nhà vua lấy danh nghĩa kẻ có mệnh trời nhất luật vương hữu hóa. Nhưng đó chỉ là về danh nghĩa, còn trong thực tế nhà vua giao ruộng đất cho thôn xã, phân cấp cho dân cày cấy. Người làm ruộng nộp thóc, tơ, bông, đặc sản, tức là địa tô hiện vật, đi phu đi lính, tức là địa tô lực dịch cho nhà vua. Dưới danh nghĩa khác nhau: cống, trợ, phú dưới thời nô lệ hay tô, dung, điệu dưới thời phong kiến, việc mang đóng góp của người dân vừa mang nội dung hiện vật của người thất bại với người chiến thắng, địa tô của tá điền đối với chủ đất, vừa mang nghĩa vụ của người dân đối với nhà nước. Công điền là nguồn sống của người dân mà làng xã là đơn vị có công điền. Chỉ dân bản quán, những người có tên trong sổ làng mới được chia ruộng đất; những người vì lý do nào đó sống tha phương, làm dân ngụ cư, không được coi là dân làng, mất quyền (chứ không mất nghĩa vụ) làm dân, bị phân biệt đối xử, bị bắt lao dịch nhiều hơn, đóng góp nhiều hơn, phải chạy chọt lâu dài, tốn kém để ghi tên vào danh bạ làm dân làng. Đối với nhà nước, làng xã là đơn vị hành chính: bắt lính, thu thuế, điều động nhân công, làm công dịch đều theo đơn vị đó. Nhưng nghĩa vụ đó cũng không cho phép người dân rời làng. Công điền trói chặt người dân vào làng xã, làm cho nó thành địa bàn quần tụ bền vững, mang tính chất tự trị, tạo thành thế chân vạc rất vững vàng cho chính quyền chuyên chế. Số lượng của công điền là cố định, nhưng ở những nơi gần sông, gần núi những hiện tượng bồi lở, bỏ hoang làm cho diện tích biến động, xảy ra chấp chiếm, tranh giành không chỉ giữa các cá nhân mà cả giữa các làng xã lân cận, có khi kéo dài thành những mối thù truyền kiếp. Ruộng là ruộng công, nhưng quyền quản lý, phân phối nằm trong tay các chức dịch làm việc làng. Điều đó dẫn đến làm giàu bằng cách chiếm công vi tư, có khi trắng trợn chiếm đoạt, có khi bằng mưu mẹo xà xẻo thu lợi trong khi phân phối và mua bán. Sự lũng đoạn tài sản công tạo ra lớp hào cường lợi dụng chức vụ kiếm ăn trên công điền, phù thu lạm bổ, ức hiếp, vơ vét của dân. Đó là cách bóc lột khác với cách bóc lột tô tức của giai cấp địa chủ. Nó tạo ra ở làng xã mâu thuẫn giữa hai phe hào hộ - hào cường, vì những người giàu có, có ruông tư, có vốn riêng - nhân dân thường đồng tình, ủng hộ phe hộ.
Không phải tất cả ruộng đất là công điền. Pháp luật chỉ cấm mua bán công điền chứ không cấm khai khẩn đất hoang và mua bán ruộng đất. Quý tộc, quan lại có ruộng đất tư do vua rút từ công điền ban cấp và dân thường cũng có ruộng tư, do khai khẩn và mua bán mà có. Bên cạnh ruộng công quân cấp và ruộng tư còn có ruộng hội, trích từ ruộng công, giao cho những người nhóm nhỏ, đối với nhà nước có tính chất nửa tư điền, các họ có ruộng hương hỏa, tự điền tuy là ruộng tư nhưng được pháp luật bảo hộ, không dễ mua bán cũng có tính chất nửa công điền. Ruộng tư được pháp luật thừa nhận, nhưng với ranh giới làng xã, với số lượng công điền và nửa công điền lớn không thể mua bán, sở hữu tư nhân về ruộng đất rất khó phát triển. Tất nhiên qua một quá trình dài tỉ lệ ruộng công và ruộng tư thay đổi. Ruộng công được bổ sung không đáng kể bằng ruộng tịch thu của người phạm tội, bằng các công trình khai hoang của nhà nước mà lại bị chấp chiếm, trích cấp cho quý tộc, quan lại, bán để làm những việc công ích, ..., ruộng tư tăng lên với sức lao động của dân số. Tuy vậy, về mặt chính sách của nhà nước phong kiến, không đánh thuế ruộng tư khi số lượng ruộng tư chưa đáng kể, hay đánh thuế ruộng tư nặng hơn khi số lượng ruộng tư nhiều hơn thì nội dung vẫn coi công điền là chủ yếu, vẫn bảo vệ nguyên tắc ruộng đất vương hữu.
Công điền, làng xã bền vững, tự trị và đóng kín hạn chế khả năng khai thác triệt để về nông nghiệp, hạn chế sức tiêu thụ của công thương nghiệp, thu nhỏ công thương nghiệp trong quy mô chợ địa phương. Với những điều đó, chế độ chuyên chế đã tạo cho mình cái thế để trường thọ: đô thị, giai cấp tư sản – những lực lượng mang sứ mệnh tiêu diệt nó – có ra đời cũng không lớn lên được.
Kẻ chiến thắng chiếm đoạt ruộng đất mà cũng chiếm đoạt sức lao động. Đi đôi với vương hữu hóa ruộng đất là thần dân hóa toàn thể dân chúng áp đặt theo nguyên tắc “dưới trời đâu chẳng phải đất của vua, sống trên đất ai chẳng là tôi của vua”. Đó cũng là chiếm hữu nô lệ, nhưng không chiếm hữu từng người. Đó cũng là mất thân phận tự do nhưng không phải mất từng trường hợp cá nhân, mà mất hàng loạt thành chuyện phổ biến: làm dân, làm tôi con chứ không phải làm nô lệ. Nô lệ là trường hợp riêng khi bị bắt làm tù binh hay khi bị tội, bị xử phạt. Tập trung ruộng đất và sức lao động như vậy nhà vua thành địa chủ lớn nhất, chủ nô lớn nhất, mở rộng đến vô hạn quyền hành kẻ làm vua thành một chế độ chuyên chế tuyệt đối. Nhà vua là người duy nhất có quyền sở hữu ruộng đất và các nguồn lợi tự nhiên về ao hồ, sông biển, núi rừng. Nhà vua tự xưng là con Trời, kẻ có mệnh trời giữ độc quyền tế Trời Đất, thần sông, thần núi, có khi trực tiếp nhận là giáo chủ Đạo giáo, Phật giáo để nắm cả đời sống tinh thần của nhân dân. Không chỉ nhân dân mới là thần hạ. Bách thần – thần linh theo tín ngưỡng của các thị tộc, các địa phương – cũng được xếp bậc, cũng được phong tước, có cơ quan quản lý (Bộ Lễ) và chịu thưởng phạt. Nhà vua trực tiếp cầm đầu bộ máy hành chính, bộ máy quân sự, giữ quyền tối cao về tư pháp, không những xử phạt kẻ phạm tội hình, hộ mà còn chinh phạt, hỏi tội các nước khác nữa. Quyền lực của vua chuyên chế không chia sẻ cho một ai, dầu là giáo hoàng, đẳng cấp tăng lữ, là lãnh chúa, đẳng cấp hiệp sĩ hay cả cha mẹ, vợ con của nhà vua. Tất cả là thần dân. Ngôi hoàng đế có tính linh thiêng. Trong thực tế không phải khi nào cái uy quyền kì quái đó cũng được tôn trọng, thế nhưng nó đã hình thành từ xa xưa, chấp nhận thành nếp, thành lễ, mỗi một triều đại lại được bổ sung, củng cố, quy định thành pháp điển, giải thích thành lý luận. Trong lịch sử chưa bao giờ nó bị phủ nhận nên vẫn là một nguyên lý để xây dựng thể chế xã hội.
Uy lực của kẻ chiến thắng tuy hung bạo nhưng lại có tính nhất thời. Có nước, có thiên hạ, giành được một sở hữu quá lớn, một quyền lực khá mạnh không dễ thu lợi, bảo vệ, sử dụng và hưởng thụ cả. Từ đầu đời Ân, vua chúa đã cảm thấy vị trí bếp bênh, căn dặn con cháu về mối lo “mệnh trời không thường”. Giữa thời thống nhất và cường thịnh của đế chế nhà Tần, Tuân Tử đã nói “kiên ngưng” - giữ vững được sự ổn định - mới là khó. Vương hữu hóa cả nước, cả thiên hạ, người chủ không có khả năng khai thác, tổ chức sản xuất, trực tiếp bóc lột thu lợi như chủ nô, lãnh chúa. Kẻ độc phu lũng đoạn, luôn luôn nơm nớp lo sợ kẻ khác cướp mất ngai vàng, dầu tham lam đến đâu cũng phải mong ước một thế thủ thành - cảnh thái bình, giữ nguyên hiện trạng, không xáo trộn, cũng không phải bằng lòng với cách bóc lột không gia tăng được, nhưng ổn định, chắc chắn. Sở hữu kinh tế phụ thuộc quyền bính chính trị; vừa chuyên chế chiếm đoạt nó bằng bạo lực quân sự, luôn luôn có ý thức duy trì ưu thế về lực lượng quân sự nhưng lại ra sức bác bỏ nguyên tắc “quyền của kẻ mạnh”. Nó che giấu nguồn gốc đích thực bằng nhãn hiệu kẻ có đức, kẻ có công ơn, kẻ có thiên mệnh, kẻ gánh vác chịu trách nhiệm nhà nước làm việc chung. Vua chuyên chế khai thác quyền sở hữu bóc lột, thu lợi không phải bằng bộ máy tổ chức, quản lý kinh tế mà bằng bộ máy nhà nước chính trị và tôn giáo. Bộ máy nhà nước đó cũng làm một số chức năng kinh tế: thu tô thuế, vận chuyển, cất giấu và phân phối số tô thuế đó. Tô thuế đã căn cứ vào số đinh, điền mà định sẵn việc cho làng xã, nhà nước không can thiệp vào viễ sản xuất và phân bố đóng góp cho từng hộ, nhưng để cho nông dân có thu hoạch mà nộp thuế nhà vua cũng giao cho quan lại địa phương chăm sóc tu bổ đê điều, cầu trời mưa gió thuận hòa, hiểu dụ khuyến khích trồng dâu cày ruộng. Số tô thuế thu được, cũng tức là tổng số thu nhập của nhà nước, về danh nghĩa là của vua. Ngoài số chi tiêu cho việc công ích, có tính chất nhà nước và số dành cho việc chi tiêu của nhà vua, một phần không ít được trích để cấp bổng lộc. Cấp bổng lộc không phải là trả công sòng phẳng cho những người giúp việc mà là ban phát ân hiệ cho những người có công lao, công lao đối với nhà vua. Nếu ban theo sự khó nhọc (lao) thì cũng là sự trả công bình thường của nhà nhà nước nhưng theo công – công xây dựng và bảo vệ vương triều của hoàng tộc và các dòng họ công thần, của quý tộc – thì đó là sự phân chia chiến lợi phẩm. Quyền sở hữu tập trung không chia nhỏ cho quý tộc đẻ ra việc thu tô bằng con đường nhà nước (thuế) và sự phân phối của nhà nước không theo chức năng mà theo tước vị, hưởng tô không theo sở hữu mà theo danh vị. Sự phân phối đó dựng lên trong xã hội một cái thang danh vị mà mọi người phải chú ý, phải cố sức leo lên: có danh vị thì có quyền, thì có bổng lộc, thì có lợi.
Vua chuyên chế sống bằng tô thuế biết rất rõ chỗ dựa của nó là ruộng đất công ở làng xã và thân dân, ngai vàng chông chênh và nguy cơ uy hiếp ngai vàng đến từ phía các lực lượng phân tán. Ruộng công là nguồn tài chính, lương thực của nó, thần dân là nguồn sức lao động đi phu, đi lính, làm thành sức mạnh vật chất, tạo cho nó uy thế tuyệt đối để đè bẹp bất cứ mưu đồ nào nhòm ngó ngai vàng. Vì vậy, để bảo vệ ngai vàng, chính quyền chuyên chế luôn luôn quan tâm không để cho ruộng công bị chấp chiếm, chuyển thành ruộng tư, thần dân chuyển thành nô tì, rơi vào tay tư nhân làm mạnh thêm lực lượng phân tán cát cứ. Đất nước mênh mông những lại gồm vô vàn làng xã mà thực tế là chính quyền trung ương không nắm chặt được, tạo thành thế phân tán tự nhiên. Ở những vùng xa xôi, những kẻ đàn anh trong làng xã chiếm nhiều ruộng đất, có nhiều tôi tớ, phát triển thành những hào trưởng, vọng tộc, khống chế cả một vùng, đối với trung ương nhiều khi chỉ làm nhiệm vụ thần hạ một cách chiếu lệ. Quý tộc, công thần, tướng lĩnh được cử trông coi phiên trấn có kho tàng, có quân đội, có quyền hành rộng rãi, nếu ở lâu năm dễ trở thành chúa địa phương, cát cứ, chiếm hết tô thuế. Sự tập trung của chế độ chuyên chế là hình thức, phi kinh tế, không chặn được tình hình phân tán cát cứ. Cho nên đối với vọng tộc, thân hào, nhà vua chỉ có thể thỏa hiệp: thừa nhận thực tế bằng cách phong quan tước để đổi lấy sự thần phục, sự cống nạp nhiều khi chỉ là hình thức. Những người phát triển đến có thế lực chính trị, thế lực quân sự lập tức bị triệt hạ. Các lãnh chúa bất hợp pháp tồn tại thường không lâu. Ngôi vua là của một dòng họ, giành được là nhờ sức các công thần, giữ được là nhờ các phiên tướng. Quý tộc, công thần, phiên tướng là phên dậu che đỡ ngai vàng. Đối với nhà vua, họ không những có công mà còn có tình nghĩa, cho nên đương nhiên được ưu đãi, ưu đãi bằng tước lộc. Nhưng chính họ cũng lại là những lực lượng có khả năng nhất trở thành đối địch. Quyền lợi nhà vua bắt buộc phải cảnh giác đề phòng: hạn chế quý tộc cầm quân, giữ phiên trấn, hạn chế tham gia chính quyền, phân tán lộc điền ra nhiều nơi, cấm liên lạc với quan địa phương. Hầu như đã thành quy luật trong lịch sử: các công thần lừng lẫy của các triều đại vì cớ này hay cớ khác đều bị giết, bị diệt tộc và tịch thu tài sản. Đã từ rất sớm, nhà nước chuyên chế rút được kinh nghiệm tìm chỗ dựa ở bộ máy quan liêu và quân đội thường trực, dùng người ngoài họ, dùng người xuất thân khoa cử – những người có tài năng mà ít thế lực, dễ bảo, ít có khả năng tranh đoạt ngai vàng – thay cho quý tộc và võ tướng. Chính sách hạn chế để bảo vệ nguồn tô thuế là một chính sách toàn diện và triệt để, nhất là “hạn điền, hạn nô”: quy định số ruộng đất, nô tì, số tài sản tương đương với thân phận xã hội, căn cứ vào mức đó tịch thu số thừa, quá quy định. Hạn điền, hạn nô không chỉ đụng chạm đến quý tộc mà đụng chạm cả đến địa chủ và thương nhân - những kẻ giàu có, những kẻ có của. Bảo vệ ngai vàng, bảo vệ sự chuyên quyền, bảo vệ nguồn tô thuế là nội dung pháp điển của chế độ chuyên chế. Điều đó cũng chi phối cách tổ chức xã hội, cách sắp xếp thần dân, chi phối chính sách, thái độ đối với người dân, những người trực tiếp sản xuất, những người không được dự vào hàng tước vị để chia phần hưởng tô thuế.
Dân chia ra bốn hạng: sĩ, nông, công, thương. Đó không phải chỉ là sự phân loại nghề nghiệp mà còn là sự sắp xếp vị trí xã hội. Trong kinh tế, quan trọng nhất là nông nghiệp, sự đóng góp cho nhà nước hầu hết là do nông dân. Triều đình chuyên chế cũng lấy nông là nghề gốc, nói những lời tốt đẹp về nông dân, thi hành những chính sách trọng nông, khuyến nông. Nhà vua luôn luôn nhắc nhở quan lại trách nhiệm phải quan tâm làm cho người nông dân an cư lạc nghiệp, không đụng đến thì giờ cày cấy gặt hái của họ, không để họ rơi vào cảnh khốn quẫn đến phải xiêu tán bỏ làng, bỏ ruộng hoang, bán mình làm nô tì. Thủ công nghiệp phát triển rộng khắp nhưng không tách hẳn nông nghiệp, phát triển trong quy mô làng xã. Nhiều vùng có nghề riêng, tinh xảo, có nhiều thợ khéo tay nhưng nhà nước chuyên chế chỉ quan tâm đến việc chế tạo vật dụng cho cung đình và chế tạo phương tiện, khí giới cho quân đội; nó không nghĩ ra cách thu lợi nào khác là bắt thợ khéo vào làm việc trong các quan xưởng. Thủ công nghiệp không phát triển được và người thợ chiếm vị trí phụ sau nông dân. Còn thương nhân? Một chế độ chống sự “giàu có quá phận vị” tất không thừa nhận lối làm ăn “nhất bản vạn lợi”. Một chế độ khuyến khích sự an phận giữ bản nghiệp tất chống lại cách làm ăn cầu may, trục lợi. Đó là mạt nghiệp, pháp luật ức chế, xã hội khinh bỉ. Thương nhân bị xếp vào hạng chót và ở vị trí nhục nhã đó, kẻ giàu có bằng thương nghiệp bị quan lại ức hiếp, sách nhiễu. Được xếp đầu tứ dân là sĩ, một tầng lớp không sản xuất mà cũng không đóng góp gì nhiều. Sĩ là những người học trò học đạo thánh hiền, “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” – như ca dao nói - lại được tính vào hai hạng quan trọng nhất, quan trọng hơn cả nông dân: nhất sĩ, nhì nông. Đối với chế độ chuyên chế, sĩ đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Đó là những người có học, nắm được đạo lý thánh hiền, hiểu pháp điển của triều đình nên có thể giáo hóa, truyền đạt cho dân không biết chữ. Họ là tầng lớp nhiệt tâm bênh vực cho sự thống nhất, nền chính thống, tôn trọng mệnh vua, mệnh trời. Họ là những người không giàu, không sang, nên muốn bằng con đường đi học, đi thi mà bước vào một bộ máy quan liêu vốn không hợp với kẻ giàu có và kẻ sang nhờ dòng máu. Về tư tưởng, họ là kẻ đồng minh của chế độ chuyên chế. Giữa đám nông dân họ là thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý, thầy số – làm những công việc tương đương với công việc của người giáo sĩ phương Tây – thành kẻ chăn dân tự nhiên, có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tư tưởng của nông dân. Đó là tầng lớp cần tranh thủ. Tuy có vai trò như vậy, sĩ cũng chỉ là dân; chính sách nuôi sĩ, trọng sĩ, sự ưu đãi đối với họ cũng chỉ có: được tế Khổng Tử, tham gia văn hội, sĩ hội, cũng đồng thời được dự phần hưởng các ruộng đất tế tự của văn hội, sĩ hội đó.
Đó là một xã hội phân chia theo ranh giới đẳng cấp. Trước hết là ranh giới vua và thần dân: về sở hữu kinh tế và quyền lực chính trị, quý tộc cho đến cha mẹ, vợ con vua cũng là thần hạ. Một bước nữa là ranh giới giữa những người có tước vị và dân bạch đinh. Tước vị chia ra nhiều bậc (năm tước, chín phẩm...) mà dân bạch đinh cũng chia ra nhiều hạng (tứ dân). Trong xã hội tuy có phân biệt giàu nghèo và sang hèn nhưng nếu không có tước vị thì giàu vẫn là bạch đinh, vẫn là hèn. Cái được quý chuộng là danh vị chứ không phải tài sản. Cái đẻ ra quyền lợi, là danh vị chứ không phải sở hữu. Trong xã hội đó, địa chủ không phải là người có vị trí xã hội cao, được pháp luật ưu đãi. Đối với làng xã và nhà nước, phú ông, nếu không kiếm được chút chức vị gì thì vẫn bị xếp chung với nông dân, vẫn bị coi là trọc phú, vẫn bị hào cường, chức dịch, quan lại bóp nặn, ức hiếp. Đẳng cấp được xác định chặt chẽ, phân biệt không chỉ bằng danh mà cả bằng quyền, lợi, cả bằng quy định nghiêm ngặt về nhà cửa, phục sức, nghi trượng đi lại, chỗ ngồi, chỗ đứng nơi công cộng, cử chỉ nói năng với người khác nữa.
Với sở hữu lũng đoạn của nhà vua ai cũng là thần dân, ai cũng chịu ơn vua lộc nước cả. Người tiểu nông trong làng xã cày ruộng vua, ở đất vua, vì nghĩ rằng “tấc đất ngọn rau ơn chúa” nên phải đền đáp, “nợ áo cơm phải trả đến hình hài”. Người thần dân không trải qua quá trình mất quyền làm người thành công cụ, súc vật của một ông chủ (nô lệ) rồi mới giành được quyền nữa làm người (lệ nông của lãnh chúa), quyền làm người nông dân tự do. Họ là người nông dân phổ biến của nhà vua, có tư cách pháp nhân: quý tộc, quan lại, chủ nuôi nô tì đều không có quyền giết hại họ. Đối với mọi người, họ không mất quyền làm người, nhưng nhà vua lại có toàn quyền đối với họ. Đối với vua, họ vừa là nô lệ, vừa là lệ nông, vừa là tá điền. Họ không bị tước mất nhân cách nhưng đúng ra là chưa có để mà mất, chưa đủ để cảm thấy sự mất mát. Trước mắt họ, trật tự xã hội là cái thang danh vị và những cái khung phận vụ theo đẳng cấp. Mọi người chỉ có một cách sống: tính toán, vun vén trong cái khung khác rộng rãi hơn. Nhưng dầu có leo đến tột đỉnh thì cũng vẫn là thần dân của vua, cũng chưa giành được quyền làm người tự do.
Người nông dân, cụ thể hơn là người tiểu nông ở thôn xã, nhân vật chủ yếu và phổ biến của xã hội ta vừa mô tả, sống trong cái khung hẹp nhất của người bạch đinh, nai lưng cày cấy và làm thủ công trên mảnh vườn, mảnh ruộng được chia, ra sức cấu véo, vun vén để cố gắng đảm bảo cho cuộc sống tự cấp tự túc của cả hộ. Thế nhưng thu nhập ít, sưu thuế, lực dịch phiền nhiễu, thường là họ phải kiếm ăn thêm bằng săn bắn, hái lượm hay lưu tán, bỏ làng kiếm công việc làm thuê. Gặp trường hợp hào cường hoành hành quá sức, chiếm đoạt ruộng công, ức hiếp quá đáng, lại gặp thiên tai mất mùa, thiếu công ăn việc làm là họ bị đẩy đến bước đường cùng. Cảnh lưu tán rộng lớn biến thành bạo động nông dân. Trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, bạo động nông dân không đẻ ra khẩu hiệu ruộng đất (trừ Thái Bình thiên quốc). Thường là họ chống hào cường áp bức và quan lại tham nhũng. Họ chống lại cách phân phối ruộng công đúng lệ chứ không đòi tư hữu ruộng đất. Họ muốn có vua tốt quan tốt chứ không chống chế độ vua quan. Hành động thực tế thường là lấy của nhà giàu - phần lớn là hào cường, quan lại – chia cho dân nghèo chứ không nhắm chiếm đất, giành chính quyền. Đối với các cuộc khởi nghĩa như vậy nếu triều đình có một lực lượng quân sự mạnh đủ đánh tan, và thường là như vậy, nếu triều đình biết đưa họ về với công điền, làng xã, nghĩa là giúp đỡ một ít trâu bò, nông cụ cho họ khai hoang, để cho họ được sống với họ hàng, làng mạc, với thần linh, phong tục của họ thì tình hình lại trở lại
(1927-1995)
MẤY Ý KIẾN BÀN VỀ NGHIÊN CỨU NHO GIÁO
____________________
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa càng ngày càng triển khai sâu rộng. Hứng thú đặc biệt đối với các vấn đề lịch sử và văn hóa truyền thống càng ngày càng kéo nhiều người chú ý đến vấn đề Nho giáo, bàn đến tác động của nó trong đời sống tinh thần trước kia và ngày nay. Nho giáo, ý thức hệ chính thống của xã hội cũ, trước đây biểu hiện rõ ràng nhất trong văn học, cho nên từ lâu các nhà nghiên cứu văn học đã là người đầu tiên nói đến nó. Lần lượt các ngành sử học, luật học, giáo dục học và gần đây nhất, cả trong công tác tổ chức cán bộ, người ta cũng chú ý đến ảnh hưởng của Nho giáo. Trong những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, trong sự say mê bồng bột, chúng ta tin tưởng có thể xếp gọn những cái gì là của ngày hôm qua vào bảo tàng, cứ ra sức tuyên truyền, giải thích thì chủ nghĩa Mác, vì nó là chân lý, tự khắc sẽ tiếp quản chóng vánh mọi trận địa. Ngày nay, qua thực tiễn, ta đã thấy sự thật không đơn giản như vậy. Quá khứ, hiện tại và tương lai là liên tục. Cách mạng xã hội chủ nghĩa vì là cuộc cách mạng triệt để nhất, phải va động đến tất cả, xem xét lại, tổ chức lại, đưa tất cả vào quỹ đạo thống nhất, không tránh khỏi công việc thẩm xét ý thức hệ cũ. Sự chiến thắng của nó diễn ra thành một quá trình dài, trong đó phê phán Nho giáo có ý nghĩa tự phê phán, tự ý thức. Việc nhiều người quan tâm chú ý đến Nho giáo chứng tỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước ta đang đi vào chiều sâu, đang tiến công vào những trận địa mới. Cũng đáng chú ý là các nhà khoa học tự nhiên, các nhà kinh tế, kỹ thuật, các nhà nghệ sĩ trong hoạt động xây dựng, sáng tạo của họ chưa nói gì đến ảnh hưởng của Nho giáo. Triết học cũng mới nói đến Nho giáo như một hệ thống tư tưởng riêng rẽ, ít liên quan đến quá trình thực tế, từ nó chúng ta trực tiếp bước sang chủ nghĩa Mác. Nho giáo tác động đến toàn bộ xã hội nước ta trước đây như một hệ thống tư tưởng triết học, nhưng chúng ta mới hình dung nó như một học thuyết ảnh hưởng từng phần đến văn hóa tinh thần. Như một di chỉ khảo cổ – hay đúng hơn là như một bãi lầy nằm sâu dưới móng của một công trình xây dựng – mà ta không thăm dò được trước, nay phát hiện ra chỗ này, mai phát hiện ra chỗ khác, ngẫu nhiên lẻ tẻ, gặp đâu làm đó, không hình dung được toàn bộ để kế hoạch hóa, chương trình hóa việc nghiên cứu và giải quyết. Tờ Tiền phong, cơ quan ngôn luận của Đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh, đã kêu gọi quét sạch ảnh hưởng Nho giáo, muốn làm một cuộc tổng thanh toán với nó mà giới nghiên cứu thì lại chưa chuẩn bị sẵn sàng. Tuy chưa có những chuyên luận nhưng trên các báo chí cũng đã có nhiều bài bàn đến Nho giáo ở nhiều phạm vi, theo nhiều góc độ, với nhiều cạnh khía, nhưng ý kiến đang rất phân tán. Chúng ta bàn nhiều đến mặt tiêu cực, tích cực của Nho giáo nhưng chính đối tượng – Nho giáo là gì, nhà Nho là ai? – thì chưa xác định.
Ở Việt Nam, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu là Nho hay cả Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu nữa cũng là Nho? Chỉ các ông Nghè, ông Thám là Nho hay cả các thầy đồ - và thường là kiêm cả thầy thuốc, thầy địa lý, thầy số nữa, cũng là Nho? Chỉ những người trung nghĩa như Lý Trần Quán, các di thần nhà Lê – và khác hơn một chút, các nhà Nho Cần Vương cuối thế kỷ XIX – là Nho hay cả những người ẩn dật như Lý Tử Cấu, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Thiếp, cả những người nổi dậy chống triều đình như Cao Bá Quát, Hoàng Phan Thái cũng là nhà Nho? Chỉ những người lo tu dưỡng đạo đức, “tiến lên thì làm quan, lui về thì làm thầy” mới là Nho hay cả những nhà quân sự như Trần Quốc Tuấn, kinh tế như Nguyễn Công Trứ cũng là Nho? Đã là Nho thì chỉ thừa nhận kinh truyện Nho gia, bài xích mọi dị đoan hay cũng có thể đồng thời có cả tư tưởng Âm Dương, Lão Trang, Phật giáo? Với những người rất thường gặp có tư tưởng phức tạp như vậy thì nên phân loại như thế nào? Phải chăng có loại nhà Nho chân chính, có loại nhà Nho pha tạp, có loại nhà nho giả hay nhà Nho là như thế?
Vì chọn cái gì đó, ai đó là Nho không xác định cho nên khi đi thẳng vào bàn tính tích cực, tính tiêu cực, ý kiến rất phân tán, tùy thuộc một mức độ khá lớn vào tình cảm, định kiến chủ quan. Muốn nói là tích cực thì lấy cái này, bỏ cái kia, và muốn nói là tiêu cực thì làm ngược lại. Một thái độ dễ được chấp nhận là đúng mức có tình có lý – hay là bề ngoài là lý song trong là tình – lấy bên này một ít, bên kia một ít, vừa tích cực, vừa tiêu cực, cân nhắc liều lượng cho vừa phải, dễ được chấp nhận: “vô quá vô bất cập”. Không những về phương pháp có chỗ cần bàn bạc mà ngay cả phương hướng, mục tiêu nghiên cứu cũng cần xác định rõ ràng hơn. Có chỗ thống nhất thì mới bàn bạc được. Tất nhiên cần có sự đa dạng về phương hướng, phương pháp, nhưng nếu đối tượng nghiên cứu không thống nhất thì rất khó trao đổi ý kiến. Trong bài này, chúng tôi muốn nêu ra một số ý kiến trao đổi góp phần tìm sự thống nhất về đối tượng và mục tiêu nghiên cứu Nho giáo.
I.- NGHIÊN CỨU CHO THỰC TẾ VÀ THỰC TẾ ĐỂ NGHIÊN CỨU
Trong việc nghiên cứu Nho giáo của ta có ý kiến khác nhau giữa hai phương hướng tạm gọi là “học lý” và “thực tế”. Coi là “học lý” cách nghiên cứu dựa vào kinh điển, tìm nội dung, hệ thống tư tưởng Nho gia trong kinh điển, mà kinh điển thì ra đời ở Trung Quốc. Gọi là “thực tế” là chủ trương nghiên cứu Nho giáo ngay ở Việt Nam, tác động đến đời sống Việt Nam; tư liệu nghiên cứu là tác phẩm của các nhà Nho Việt Nam – tuyệt đại bộ phận là thơ ca. Nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc, nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam, nghiên cứu theo kinh điển, nghiên cứu trong ảnh hưởng thực tế đều là phương hướng có thể chấp nhận. Vấn đề sinh ra là ở chỗ khác, do thực tế chứ không phải do học lý.
Nội dung Nho giáo, tìm bằng con đường “học lý”, đến nay còn chưa thống nhất. Người thì cho nội dung chính của Nho giáo là cương thường, người thì cho là trung hiếu tiết nghĩa (hay chỉ trung hiếu), là nhân nghĩa (hay chỉ là nhân), là lễ, là đức; người thì cho là trung dung, người thì cho là thiên mệnh, là thiên nhân cảm ứng; người thì cho là tùy thời biến dịch; … Mỗi nhận định đều có lý do; tất cả những điều đó đều được trình bày, đều được nhấn mạnh nơi này hay nơi khác trong kinh điển, rải rác trong các mẩu ý kiến của thánh hiền. Nêu ý kiến thành từng mẩu, không thành hệ thống mà không thuyết minh vốn là đặc điểm của cách trình bày ý kiến của Nho gia. Điều đó cũng gây ra việc nhận định không thống nhất. Tùy mặt nào mà người nghiên cứu đó quan tâm, tùy trường hợp nào mà ý kiến đó được phát biểu, một trong những điều trên đây là quan trọng nhất. Nói chung cho Nho giáo, tùy cách lựa chọn kinh điển nào là chủ yếu – Ngũ kinh hay Tứ thư, Kinh Xuân Thu hay Kinh Dịch, Trung Dung hay Luận ngữ - thì một trong những nội dung trên đây sẽ được đặt lên hàng đầu, thành hạt nhân của học thuyết. Tất nhiên tư tưởng Nho gia có một hệ thống, và những nội dung trên đây có vị trí nhất định trong hệ thống chung, nhưng hệ thống hóa trên cơ sở một điểm nào đó trên đây là hạt nhân đều là nói có lý, bàn có cớ.
Có người thấy làm như vậy là học lý, nghĩa là sách vở, hơn nữa là nói Nho giáo Trung Quốc, xa xôi, mất nhiều thì giờ, nên đề nghị nghiên cứu cho thực tế: đi thẳng vào bàn Nho giáo ở Việt Nam, đi thẳng vào thứ Nho giáo tác động trong thực tế trước đây và còn có ý nghĩa với hiện tại. Tất cả chúng ta đều là người nghiên cứu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, đều muốn tìm hiểu Nho giáo ở Việt Nam, vì Việt Nam – và Việt Nam hiện nay – cho nên một đề nghị như vậy rất dễ hấp dẫn. nhưng khi muốn thực tế như vậy, người nghiên cứu không thể không chú ý đến thực tế của chính đối tượng nghiên cứu.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam chứ không phải phát sinh ở Việt Nam. Ở Việt Nam, nó không phải trải qua quá trình thai nghén, sinh thành, phát triển từng bước liên tục, trọn vẹn theo quy luật vận động nội tại, có quan hệ ăn khớp với hạ tầng cơ sở như ở bản địa. Nó được du nhập chậm – hay được tiếp nhận chậm – qua nhiều đợt, có khi là ngẫu nhiên, có khi là qua lựa chọn sau khi ở bản địa, Nho giáo đã trải qua một thời kỳ phát triển dài, từ Khổng Mạnh qua Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho. Khi các triều đại Lý, Trần có ý thức dùng nó phục vụ cho vương triều thì Nho giáo từ lâu đã phát triển đến giai đoạn kinh viện, tiên chú, đã tồn tại với cả những thể chế xã hội, những phong tục tập quán: ta đưa Nho giáo vào là với cả những kinh điển đã được Hán Nho, Đường Nho, Tống Nho chú giải, cùng với những quy chế học tập, thi cử, cùng với những tổ chức thờ cúng tiên thánh, tiên hiền, tổ chức văn hội, sĩ hội, cùng với cả những công thức biểu đạt về mặt văn học. Coi là khuôn vàng thước ngọc là tư tưởng Nho gia với tất cả những điều kiện tồn tại như vậy. Sang Việt Nam, Nho giáo tồn tại như những tín điều chỉ để học tập, noi theo, ứng dụng, không cần tranh cãi, không cần bổ sung, phát triển. Người học phải học thuộc, nhớ kỹ, chỉ cần nhắc qua vài ba chữ là phải nhớ ra cả trên, cả dưới. Nếu không quan niệm thứ Nho giáo vào Việt Nam là như vậy thì đối với ta ngày nay thật khó hiểu lý do của các biểu đạt tư tưởng bằng tích, bằng điển và càng khó hiểu mối thù truyền kiếp của các nhà Nho Việt Nam đối với Pháp gia chẳng hạn, vì ở Việt Nam chưa có sự đụng độ nào giữa Pháp gia và Nho gia cả.
Nho giáo tuy được đưa vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc nhưng đến thế kỷ XV mới thực sự có ảnh hưởng chi phối. Khi được đưa lên vị trí hệ tư tưởng chính thống thì một mặt thứ Nho giáo được truyền bá đã trải qua hàng ngàn năm hỗn tạp nhiều yếu tố của hệ tư tưởng khác: Âm Dương, Đạo gia, Phật giáo … và mặt khác, trước thực tế Việt Nam, những quan hệ mới, vấn đề mới cũng đòi hỏi nó phải thích ứng. Ta gặp trong thực tế một thứ Nho giáo không thuần nhất, đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm Dương, Phật, Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương nên khi tác động đến từng mặt của đời sống ở Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó không còn nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau. Cái Nho giáo trong chế độ chính trị, trong luật pháp, trong đường lối dùng người khác với cái Nho giáo trong văn hóa, trong giáo dục, trong đạo đức mà cũng khác cái Nho giáo trong hành vi, trong suy nghĩ, trong cảm xúc của một người. Cái Nho ở dạng nguyên chất sách vở - thường là ít gặp trong thực tế - thì dễ nhận diện, nhưng cái Nho khi trở thành nếp suy nghĩ, thành phong tục tập quán, thành nghi thức, thành tâm lý xã hội thì khó nhận diện. Và cái Nho giáo của thực tế, tức là của cuộc sống Việt Nam, cái Nho giáo mà các nhà Nho Việt Nam để lại là thuộc loại sau.
Nhà Nho Việt Nam ra đời cũng chậm. Tuy từ thời Bắc thuộc đã có loại Trương Trọng, Lý Cầm, Lý Tiến nhưng Nho sĩ còn học và thi ở tận Trung Quốc. Phải đến thời Trần, Nho sĩ mới có một vai trò tương đối độc lập. Nhưng ngay cả đời Lê, trước thời Lê Thánh Tôn, nhà Nho vẫn chưa có số lượng đáng kể.
Nói về nhà Nho, các nhà nghiên cứu của ta thường chia theo mấy tính cách: dân tộc hay sùng bái nước ngoài, thuộc lớp trên hay lớp dưới, hiển Nho hay hàn Nho, khoa hoạn hay bình dân, vì dân hay vì vua, nghĩa là theo các tiêu chuẩn chính trị và xã hội. Nhưng lấy những tiêu chí như vậy đã đủ để phân loại hay đánh giá nhà Nho chưa?
Nhà Nho là người trí thức thuộc một đẳng cấp xã hội và đồng thời nhà Nho cũng là người tín đồ, tôn thờ một học thuyết. Trong xã hội họ có thể làm quan, làm thầy và thường là có viết văn, làm thơ. Thơ văn của họ - tài liệu ta dùng nghiên cứu - ngoài phần viết theo những thể thức có sẵn, có phần sáng tác tự do, bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân. Trong đó - nhất là trong thơ tâm sự - do vị trí giai cấp, hoàn cảnh cụ thể mà có thái độ riêng, nhưng trong cả xã hội phong kiến, nhà Nho có một vận mệnh chung, một thái độ chung, phân biệt họ với những tầng lớp khác, những người theo học thuyết khác, tôn giáo khác. Nho giáo trang bị cho mỗi nhà Nho một quan niệm thế giới, một phương pháp suy nghĩ, một quan niệm làm người. Mục đích cả cuộc đời họ là học, thi đỗ, làm quan. Đó là con đường duy nhất trong xã hội phong kiến nước ta trước đây làm cho họ thỏa mãn được ước mong, nói một cách văn hoa, lý tưởng là an dân, giúp vua, mà nói một cách thật thà là no ấm, vinh hoa, phú quý. Thái độ của các nhà Nho đối với cuộc đời là tích cực, hữu vi nhưng đối với người cầm quyền họ lại không nhập cuộc gắn bó hoàn toàn. Ở vị trí tầng lớp trung gian, họ xử sự theo phương châm “dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng” https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn1. – vua dùng thì đem Đạo ra thi hành, vua bỏ không dùng thì cất giấu cho mình. Quan niệm hành tàng, xuất xử đó làm cho nhà Nho thành hai mẫu người: hành đạo và ẩn dật. Hành đạo và ẩn dật vốn là hai mặt không thể tách rời trong mỗi nhà Nho: nhập thế mà vẫn xấu hổ, xấu hổ vì tham luyến công danh; xuất thế mà vẫn băn khoăn vì không làm tròn trách nhiệm. Trong cuộc đời không phải nhà Nho nào cũng tiến, cũng đạt. Có kẻ làm quan, làm thầy mà số đông thì phải - nói như Tản Đà - “phá nghiệp kiếm ăn xoàng”, làm các nghề khác: thầy thuốc, thầy số, thầy địa lý, có chỗ dùng đến chữ nghĩa, ít phải lao động vất vả. Họ chuẩn bị cho tất cả: “nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ”. Đi học là phải dùi mài kinh truyện, tập làm văn thơ phú lục; làm thầy họ dùng nó để dạy dỗ; làm quan, họ dùng nó để làm việc quan. Công việc của người học trò, của ông thầy, của ông quan chủ yếu chỉ là làm văn, mà làm văn thì phải đọc rộng các sách khác: chư tử, tiểu thuyết, thơ văn Hán, Đường, Tống. Làm quan tất phải biết điển lệ, pháp luật, vô tình phải học tri thức chuyên môn theo Pháp gia. Làm nghề y, lý, số tất phải biết âm dương ngũ hành. Vào cuộc đời họ thường hăng hái say mê ôm ấp mộng “trí quân trạch dân”, làm nên công danh sự nghiệp, mà họ hình dung khá dễ dãi nên tin tưởng ở sức mạnh vạn năng của Đạo lý thánh hiền; khi vấp váp trong thực tế, họ dễ bất đắc chí, chán nản, tìm khuây khỏa trong tư tưởng hư vô của Lão Trang và Phật. Đối với một nhà Nho, trong các quan hệ xã hội họ dựa vào tư tưởng Nho gia, trong công việc nghề nghiệp họ cần đến tư tưởng Âm Dương; trong đời sống riêng họ lại cần đến tư tưởng Lão Trang, Phật. Cho nên tư tưởng nhà Nho là pha tạp và trên phương hướng chung thường đi từ Nho sang Trang. Không phải Nho thuần túy mà cũng không phải Trang thuần túy. Thường thường thì họ là loại văn nhân gần với Đường Tống bát đại gia hơn là một nhà tư tưởng một nhà học giả kiểu Đổng Trọng Thư, Chu Hy hay Trang Chu.
Nho giáo không thuần nhất, nhà Nho càng không thuần nhất, trong từng phạm vi nó khác nhau, xét về đồng đại nó có tính hỗn tạp, xét về lịch sử nó giống như một thứ trầm tích. Nhưng sự không thuần nhất, sự thiếu xác định đó không phủ nhận sự tồn tại của một cái Nho giáo nói chung, ít khi tồn tại riêng rẽ. Ngay trong cả sự hỗn tạp vẫn có một cái gì đó là Nho, trong sự kết hợp giữa Nho và các học thuyết, tín ngưỡng khác vẫn theo những quy luật nhất định, đó là quy luật kết hợp theo cách Nho. Nó là hợp chất chứ không phải hỗn hợp. Nếu ta biết các đơn chất - các bộ phận cấu thành, những quy luật kết hợp của nó, trong những điều kiện nhất định nào đó thì ta sẽ hiểu được cái lõi - phần thực chất của Nho giáo, cái sẽ qua kết hợp mà biến dạng trong lịch sử mà thành Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho, cái tự giản hóa hay kết hợp thêm trong những phạm vi khác nhau theo yêu cầu thực tế đòi hỏi ở nó. Nho giáo ở Việt Nam, đối với Nho giáo ở Trung Quốc cũng chỉ là một biến dạng như thế.
Tìm được cái lõi của Nho giáo, khả năng biến dạng để thích ứng, quy luật vận động và cơ sở tồn tại của nó thì ta có thể nhận thức nó chính xác, không bị những hiện tượng đa dạng làm rối trí, không rơi vào mô tả liên miên, không coi là phổ biến cái đơn nhất, không lấy cân nhắc chủ quan thay cho phân tích khoa học. Cái lõi đó là tiêu chí để nhận diện tàn dư Nho giáo trong thực tế xã hội ngày nay, là cái cần phải phá bỏ một cách khoa học để thanh toán ảnh hưởng của Nho giáo.
Tìm ra cái lõi đó phải là từ cái Nho giáo vận động trong thực tế, nhưng là thực tế rộng rãi, cụ thể, đa dạng và lịch sử, muốn nhận thức được phải vận dụng phương pháp của nhiều ngành khoa học (văn học, triết học, sử học, tức là những ngành khoa học chịu ảnh hưởng Nho giáo). Do đó, nghiên cứu một cách thực tế không thay thế được nghiên cứu một cách học lý, nghiên cứu Nho giáo trong xã hội không thay thế được nghiên cứu trong sách vở và muốn thực tế thì nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam không thể bỏ qua nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc. Nghiên cứu Nho giáo ở Trung Quốc không phải là sách vở, là vì Trung Quốc, mà là nhìn vào thực tế một cách lịch sử, hoàn chỉnh, rõ nét, cho phép ta rút ra từ đó nội dung của cái lõi Nho giáo.
II. - CẢ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG NỮA CŨNG QUAN TRỌNG
Từ đời Hán ở Trung Quốc và quãng Lý Trần ở Việt Nam, cho mãi đến thế kỷ XIX, Nho giáo được nhà nước phong kiến sử dụng làm công cụ thống trị về ý thức tư tưởng. Cũng có khi nó không được độc tôn, phần nào thất sủng và chịu cảnh suy đốn nhưng không khi nào thành đối tượng đấu tranh, gạt bỏ. Một học thuyết không cần đến bộ máy và phương pháp tổ chức tín đồ và mê hoặc tôn giáo mà vẫn giữ được sự thống trị đến hơn hai ngàn năm là một điều đáng chú ý. Sức sống dai dẳng đó phải có lý do tất yếu, nghĩa là Nho giáo phải đáp ứng đúng những nhu cầu của cơ sở kinh tế - xã hội thực chất của xã hội phương Đông. Người ngoài nhìn vào hiện tượng sống lâu như vậy tưởng nó chứa đựng một nội dung chân lý cao siêu nào đó; người trong quen với nó, thấy nó gắn bó, là cái gì của mình; mọi hậu quả do sự trường thọ ấy gây ra đều tự nhiên, không đáng kinh ngạc. Ai cũng tin rằng trong nó phải có cái gì đúng đắn làm cho nó đứng vững mãi.
Sự tồn tại lâu dài có làm cho Nho giáo biến thiên, thay đổi diện mạo: Nho giáo thời Tiên Tần, thời Hán, thời Đường, thời Tống, thời Minh, thời Thanh có khác nhau. Người quan tâm đến tác dụng, ảnh hưởng của nó đi tìm cái hay, cái dở trong những hình thái đã đổi thay đó của Nho giáo. Sự tìm tòi được hướng vào sự đổi thay cách hiểu các khái niệm, sự bổ sung những vấn đề mới vào nội dung, sự chỉnh lý, sắp xếp các bộ phận trong hệ thống … Chúng ta cũng đã chú ý tới mối tương quan giữa các đổi thay đó, với những đổi thay về chính trị, kinh tế, xã hội. Nhưng chúng ta chưa lưu ý tới chỗ trong từng thời khác nhau, các giai cấp, các đẳng cấp đã sử dụng Nho giáo giải quyết những vấn đề gì, và vì vậy đã làm đổi thay như thế nào vai trò, chức năng, vị trí của nó trong đời sống xã hội.
Nó là gì (nội dung hệ thống) là rất quan trọng, mà nó được dùng làm việc gì (vai trò, chức năng) cũng rất quan trọng khi ta bàn về tác động của Nho giáo trong thực tế.
Nho giáo là học thuyết đạo đức mà cũng là học thuyết chính rị của người sĩ quân tử. Sĩ quân tử là sản phẩm của một xã hội, của một thời đại nhất định. Họ tổng kết kinh nghiệm sống trên cơ sở thực tế xã hội đó mà xây dựng lý tưởng cũng trên cơ sở thực tế xã hội đó. Lý tưởng của họ là tu thân để tề gia, tề gia để trị quốc, trị quốc để bình thiên hạ https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn2. Phương hướng tu dưỡng đạo đức và đức trị đặt ra cho từng người những mục tiêu có khác nhau, nhưng đòi hỏi từ thiên tử cho đến thứ nhân ai ai cũng phải lấy tu thân làm gốc https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn3. Nho gia cũng chủ trương lễ trị - dùng lễ nhạc để giáo hóa. Lễ phát huy tác dụng cách khác, nhưng nội dung của lễ (lễ ý) là đạo đức. Lễ trị cũng chỉ là đức trị, thực hiện bằng những phương tiện khác, cũng chỉ là tu dưỡng đạo đức, thực hiện bằng biện pháp khác. Thứ đạo đức mà Nho giáo muốn phổ biến là đạo đức của con người hình dung mình sống trong gia đình, gia tộc, làng xóm, nước, thiên hạ, trời đất, một thế giới gồm những cộng đồng từ nhỏ đến lớn, hình dung theo mô hình gia đình mở rộng. các cộng đồng tuy có tính chất gia đình, xã hội, nhà nước, tôn giáo hoàn toàn khác nhau nhưng quan hệ trong đó lại chỉ có quan hệ trên dưới theo thân tình như trong gia đình: cha con, anh em, vợ chồng. Trong gia đình người ta đối xử với nhau theo tình cảm máu mủ mà cũng hình thành một thứ quan hệ trên dưới tự nhiên: con theo cha, em nghe anh, vợ theo chồng. Người dưới yêu kính và phục tùng người trên và người trên có nhiệm vụ yêu thương, nuôi dưỡng, giáo dục người dưới. Vị trí cao nhất thuộc về người gia trưởng. Người gia trưởng có uy quyền tuyệt đối và đồng thời phải yêu thương, chăm sóc, chịu trách nhiệm về mọi thành viên trong gia đình. Trong gia đình, uy quyền người trên được duy trì không phải theo sự sòng phẳng, lẽ công bằng, không phải bằng luật lệ, sự thưởng phạt mà chủ yếu bằng sự gắn bó tình cảm. Nho giáo lý tưởng hóa cảnh gia đình êm ấm, trật tự, hòa mục, đề cao đạo đức: cha từ, con hiếu, anh hòa, em kính, chồng bao dung, vợ thuận tùng. Hiếu đễ là căn bản đạo đức, nhưng không phải chỉ là đạo đức của con người trong phạm vi gia đình; hiếu đễ là gốc của nhân. Làm như vậy cũng không chỉ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc: tề gia là để trị quốc. Trên cơ sở đồng nhất xã hội, nhà nước với gia đình, đồng nhất quan hệ xã hội, quan hệ nhà nước với quan hệ gia đình, Nho giáo muốn mọi người suy từ lòng hiếu đễ mà kính yêu kẻ tôn trưởng trong làng nước, kính yêu quan trưởng, trung với vua, hiếu kính với trời đất quỷ thần; muốn suy từ người gia trưởng uy nghiêm, từ ái mà đòi người trên (tôn trưởng, quan trưởng, vua và cả trời) cư xử theo cách cha anh trong gia đình trong quan hệ với người dân: yêu thương, chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ - dạy dỗ bằng treo gương, bằng cảm hóa. Bằng cách đó, Nho giáo hy vọng có thể thiết lập khắp nơi - trong bốn biển, trong thiên hạ - một cảnh trị bình yên ấm, mọi người sống với nhau thân thiết, tình nghĩa; không chỉ thiên hạ bình mà thiên địa vị, vạn vật dục - khí hạo tràn đầy khắp trời đất https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn4.
Lý tưởng của Nho giáo được xây dựng xuất phát từ con người của gia đình, của thị tộc, của nền kinh tế tự nhiên; tổ chức xã hội đơn giản; bộ máy nhà nước từ thiên tử, chư hầu đến trung sĩ, hạ sĩ tuy đông đảo, tổ chức theo quan chế phức tạp nhưng chưa có tác dụng trực tiếp đáng kể đối với mọi người. Lý tưởng Nho giáo đặt lên hàng đầu đòi hỏi tu thân, nhưng tu thân không chỉ nhằm mục tiêu đạo đức - hoàn thiện phẩm chất con người - mà còn nhằm cả mục tiêu chính trị - thực hiện đức trị - hơn thế, lại còn nhằm cả một mục tiêu tôn giáo - tham dự, góp phần vào sự hóa dục của Trời Đất https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn5.
Sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước gây biến động rất lớn trong đời sống xã hội. Quan hệ bóc lột và bị bóc lột, áp bức và bị áp bức có tác dụng ngày càng lớn, lấn át cả quan hệ máu mủ tự nhiên, “chính” và “hình” thay cho “đức” và “lễ” trong quan hệ giữa người cầm quyền và dân: sinh hoạt xã hội và nhà nước đòi hỏi một cách nhìn thống nhất đồng loạt (tề, nhất). Trong sự tiến hoá của lịch sử, đó là một bước tiến bộ, nhưng đồng thời nó cũng lại phân hóa, làm xáo động, gây đau xót, làm tổn thương tình cảm những người không muốn mất đi cảnh êm đềm của đời sống gia đình, thị tộc. Nho giáo nhiệt tình với công việc trị nước, tôn trọng trật tự nhà nước, coi là đương nhiên quyền lợi ưu đãi đối với những kẻ trị nước dạy dân: từng lớp sĩ quân tử nhìn thấy quyền lợi của họ trong sự phân hóa xã hội. Thế nhưng họ lại phản đối chính, hình, muốn giải quyết các quan hệ nhà nước và xã hội theo kiểu tình cảm tự nhiên như trong gia đình, không muốn phá cảnh êm đềm, không muốn có sự tàn nhẫn, đau xót. Xét về mặt tình cảm, đó là lòng nhân ái. Xét về mặt lịch sử, đó là thái độ phản động, phản động vì bảo thủ, chống lại sự tất yếu. Với chức năng là học thuyết tu dưỡng đạo đức, Nho giáo bằng cả hai mặt có tác động đến từng cá nhân nhà Nho.
Nhà nước phong kiến đưa Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống tức là dùng nó làm lý luận tổ chức xã hội, tổ chức chính quyền, làm cơ sở lý luận cho luật pháp, làm phương hướng cho nội dung và tổ chức giáo dục, làm tiêu chuẩn cho phong hóa, cho sáng tác văn học nghệ thuật. Nó phải đóng vai trò một thế giới quan, một phương pháp luận trong nhận thức thế giới, một chân lý phổ biến làm chuẩn cho mọi suy nghĩ, hành động. Nó chi phối toàn bộ theo chức năng hệ tư tưởng triết học. Một học thuyết đạo đức vốn không xây dựng theo yêu cầu của một học thuyết triết học, không đặt ra và giải quyết những vấn đề của một hệ tư tưởng triết học. Làm chức năng hệ tư tưởng triết học, Nho giáo thiếu một vũ trụ quan, một nhận thức luận minh bạch. Để giải đáp nhiều vấn đề, nó phải suy diễn từ các nguyên lý đạo đức, phải vay mượn các quan điểm các học thuyết khác, nhiều trường hợp trái với Nho giáo, làm cho học thuyết phình ra mà không nhất quán. Đưa Nho giáo làm ý thức hệ chính thống là sự lựa chọn khôn ngoan của chế độ chuyên chế, điều này chúng tôi sẽ nói ở sau, nhưng Nho giáo để thích ứng với chức năng mới, phải lấp những chỗ trống một cách chắp vá, phải giải thích nhiều vấn đề một cách ứng phó tùy tiện. Sự nghèo nàn thiếu hoàn chỉnh, thiếu nhất quán của hệ tư tưởng đạo đức lộ ra, gây tác dụng hạn chế, kìm hãm. Chỗ nào mà đòi hỏi hàng đầu là nhận thức, là hành động, tổ chức, là sáng tạo, nghĩa là ở những chỗ thiết yếu cho con người và xã hội phát triển, thì ở đó hệ tư tưởng đạo đức Nho giáo có tác dụng kìm hãm, cản trở.
Ân tình nồng hậu, đối xử theo quan hệ trên dưới yêu thương và thuận hòa, không kể những đòi hỏi quá khắt khe, nhiều khi là cách giải quyết có hiệu quả và hợp lý các quan hệ trong gia đình. Thế nhưng rút gọn mọi quan hệ xã hội - thậm chí cả mọi quan hệ trong thế giới tự nhiên nữa – thành chỉ có quan hệ cha con, anh em, vợ chồng và bè bạn thì con người không có tiền đề để đấu tranh cho nhân phẩm, cho tự do, cho sự công bằng xã hội, cho việc tăng thêm uy lực của con người… Nhìn và giải thích xã hội theo nhân tình thế thái, nhìn và giải thích thế giới theo trật tự và hòa khí, đòi hỏi sống theo tình nghĩa thì không có vấn đề đấu tranh xã hội, đấu tranh tự nhiên cho sự tiến bộ.
Giữ mình trung chính, tự tôn tự trọng, làm cho người chung quanh kính nể không dám xúc phạm, do đó xử sự theo lối quân tử, giữ mình nghiêm cẩn, tránh can thiệp, tránh tiếp xúc, sống hơi biệt lập cả với bạn bè, dầu hết sức thân thiết cũng giữ mức độ, không quá chầm bập đến suồng sã, a dua, bè cánh (quân tử chi giao đạm nhược thủy) là sáng suốt, hợp lý, có hiệu quả trong quan hệ giữa cá nhân với cá nhân. Ứng dụng thái độ đó trong thực tế đối với người trên là giữ lễ, khiêm tốn mà tự tôn, đối với người dưới là uy nghiêm, khoan dung mà kẻ cả. Nếu so với cao ngạo hay xu nịnh với người trên, cậy quyền cậy thế, tác oai tác phúc, hay lừa phỉnh để lợi dụng người dưới thì như thế còn là tốt hơn. Thế nhưng cơ sở làm chỗ xuất phát cho thái độ đó là sự tôn trọng phận vị, là tư tưởng yên mệnh chứ không phải là khát vọng công bằng và tiến bộ chi phối hành động, là sự giữ gìn chứ không phải là lòng yêu thương, sự phẫn nộ, chính nghĩa cảm. Đối với quỷ thần kính nhi viễn chi là tiến bộ; so với mê tín, khuất phục cầu xin, mua chuộc thì tốt hơn. Nhưng quỷ thần không chỉ là những sự bày đặt mê tín mà còn là những sức mạnh kỳ lạ mà con người chưa hiểu biết, thái độ nhìn vào cái thiết thực “chưa biết cái sống thì làm sao biết cái chết, chưa biết thờ người thì làm sao biết thờ quỷ thần” https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn6– như Khổng Tử bảo Tử Lộ - không chỉ là gạt bỏ sự mê tín mà đồng thời cũng là gạt bỏ những thắc mắc, những tò mò của con người trước những sức mạnh khó hiểu, huyền bí của ngoại giới. Kết quả của thái độ tự tôn, tự tin, giữ mình uy nghiêm kiểu nhà Nho thường chỉ dẫn đến thiển cận, bất lực, gàn bướng và ngoan cố.
Đi đôi với sự đổi thay, tăng cường vị trí và chức năng của Nho giáo là sự tăng cường vị trí và chức năng của nhà Nho trong xã hội. Nhà Nho là người sĩ quân tử, học, tu dưỡng theo đạo đức Nho giáo. Nhưng trong đời sống xã hội, trong lịch sử, họ là người trí thức và về chức nghiệp họ có thể là quan, là thầy và làm các nghề khác. Suốt đời chỉ đọc một thứ là kinh điển Nho giáo, họ có một cách nghĩ, một cách sống mà hiển Nho hay hàn Nho, lớp trên hay lớp dưới, có một vận mệnh chung, chịu sự quy định của cùng một cơ sở kinh tế - xã hội nên thấy cùng những vấn đề, chấp nhận cùng một sự hợp lý, nên cơ bản là giống nhau. Khi Nho giáo thành ý thức hệ chính thống thì nếp nghĩ chung đó ảnh hưởng, chi phối cả quần chúng - chủ yếu là nông dân. Nho giáo thay đổi chức năng xã hội, đặt kẻ sĩ quân tử vào những vị trí khác nhau, làm các chức nghiệp khác nhau, vị trí chức nghiệp đòi hỏi ở họ cách suy nghĩ, hành động tương ứng, và ở đó họ gặp những vấn đề mà tư tưởng đạo đức - chính trị Nho giáo không chuẩn bị cho họ. Họ phải vay mượn ở các học thuyết khác, cho nên trong lý tưởng vì đời, giúp vua, an dân họ là Nho, nhưng khi làm điều đó trong thực tế - tức là làm quan - họ phải theo luật lệ và trở thành nửa Nho nửa Pháp. Trong quan niệm thế giới họ có thể nhìn trời, đất, xã hội như gia đình theo kiểu Nho, nhưng khi làm thầy số, thầy thuốc, thầy địa lý họ phải vừa Nho vừa Âm Dương. Trong quan niệm xuất xử họ chủ trương “ dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” – theo Nho, nhưng đã xuất thế, ẩn dật, nhất là nếu họ làm thơ, thì đứng trước thiên nhiên, trước nhân tình thế thái đen bạc họ thường phải là nửa Nho, nửa Lão - Trang hay Phật. Nho giáo vẫn chi phối họ. Kể cả trường hợp nhà Nho phải vay mượn ở học thuyết khác thì cũng là vay mượn những cái Nho giáo cho phép. Sống theo Nho, nghĩ theo Nho không nhất định phải là người đọc hết Kinh, Truyện, trải qua công đăng hỏa ở cửa Khổng sân Trình. Nhân dân trước đây và nhiều người trong chúng ta ngày nay có đọc Kinh, Truyện bao giờ mà sống và nghĩ cũng rất Nho.
Nhà Nho có nhiều nét tiêu cực, nhưng ở những phạm vi khác nhau mức độ tiêu cực không giống nhau; và giữa những nét tiêu cực đã nhận thấy, họ lại có cái gì đó làm cho người khác kính nể. Đó là dáng dấp trang nghiêm, là lối sống thanh cao, khí tiết cứng cỏi. Đó là sự ung dung thanh thản trước những hoàn cảnh khó khăn. Người ta cũng thường nghĩ đến những nhà Nho làm quan, giữ thanh liêm suốt đời, trong khi bổng lộc của nhà vua bao giờ cũng đơn bạc, phải nhờ vợ tần tảo mới có thể sống tương xứng với cương vị, đến những người dám bỏ quan về sống nghèo khổ ở thôn quê khi triều chính không làm mình vừa lòng, khi bị quan trên ức hiếp, đến những ngự sử dám hạch tội vua quan trước triều đình, thậm chí coi thường cả cái chết để chửi mắng những hành động bất chính. Trong cuộc đời, riêng các nhà Nho thường hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm đến bà con làng xóm, có tình nghĩa, thủy chung với bạn bè, .... Ở nhiều nhà Nho có những hành động không phải ai cũng làm được. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, biết bao nhà Nho đã đứng lên chống giặc trong những điều kiện không cân sức, chỉ biết vì việc nghĩa thì phải làm không kể nguy hiểm đến tính mạng.
Cho đến mãi đầu thế kỉ XX, nhiều thanh niên Tây học đã chán ngấy với trình độ hiểu biết ít ỏi và lạc hậu, với lối thuyết lý đạo đức dông dài, với tác phong cổ lỗ của các nhà Nho, mà đứng trước họ vẫn có mặc cảm tự ti, cảm thấy mình có cái gì đó không bằng.
Nhân đây, tôi nghĩ cũng nên nói lại một ngộ nhận. Người ta thường nói nhà Nho thuộc giai cấp thống trị, lười lao động, ăn bám, bóc lột và quen hình dung họ theo kiểu giai cấp thống trị hám lợi tàn ác. Thực ra nhà Nho là những người chủ trương sống thanh bạch, cần, kiệm, liêm, chính, không ích kỉ, vơ vét, tham lam. Ít có nhà Nho nào không thức khuya dậy sớm, không lắc xắc làm những việc lặt vặt hay cầm sách liền tay. Chỉ có điều là họ siêng năng trong các công việc không sản xuất, coi sản xuất, làm giàu, kiếm lợi là thấp kém hèn hạ. Họ thích trồng hoa chứ không thích trồng khoai, trồng làm cảnh chứ không trồng để kiếm lợi. Hoa tươi, quả nhiều, nếu ai khen đẹp thì họ coi là tri âm, tri kỉ, nhưng nếu ai bảo là sẽ bán được nhiều tiền thì họ coi là ti bỉ, có khi bị cấm cửa không cho đến nữa. Họ thích nhàn tản ung dung, nhưng cũng có phần phản đối chơi bời lêu lổng. Nhà Nho coi thường dân lao động, đối xử với họ một cách kẻ cả, bề trên nhưng không phải là theo kiểu hống hách, tàn bạo của kẻ thống trị cậy quyền, cậy thế. Họ coi dân lao động là hạng “dân ngu khu đen” dốt nát và kém đạo đức cho nên cần được họ che chở, giáo hóa và vì vậy dân lao động cần phải kính cẩn, nghe lời và nuôi nấng họ: đó là kẻ dưới nhưng là đối tượng che chở, giáo hóa chứ không phải là đối tượng đàn áp, bóc lột... Ít nhà Nho xa xỉ. Điều này thì cũng dễ hiểu: xưa nay nhà Nho vốn nghèo. Giữ được thật sự liêm chính thì cũng khó biết được bao nhiêu người, nhưng ít ra họ cũng suy nghĩ nhiều khi nhận của kẻ khác, có ăn hối lộ thì cũng biết xấu hổ, cũng mất công tìm danh nghĩa để tiếp nhận của vi thiềng theo lễ. (Các nhà Nho làm quan dưới thời Pháp thuộc thì đã không quan tâm đến những cái vặt ấy nữa). Tất cả những điều đó đều làm với ý thức giữ đạo đức cá nhân, vì Đạo vì Lý chứ không phải vì trách nhiệm đối với xã hội, vì sự công bằng giữa những con người.
Trong tình hình mọi người - đều là nhà Nho - dè bỉu, khinh miệt Thương Ưởng và các biện pháp Pháp trị của ông, Vương Anh Thạch đã nói:
Thời nhân vị khả khi Thương Ưởng
Thương Ưởng năng linh lệnh tất hành
Thương Ưởng có mặt sở trường mà các nhà Nho dè bỉu ông không dễ làm được: đã ra lệnh thì kẻ dưới phải thực hiện. Và đối với nhà Nho chúng ta cũng có thể nói điểm sở trường nổi bật của họ là ý thức giữ đạo đức, lòng tự tôn, tự trọng. Điều đó cũng như lệnh tất hành của Thương Ưởng, cũng có cái mặt trái tai hại của nó.
Lý Trần Quán, Trần Danh Án xét về mặt đạo đức cá nhân thì tinh thần trách nhiệm, lòng tín nghĩa, tinh thần dũng cảm là cao cả, nhưng xét về mặt xã hội, về mặt chính trị thì hành động trung nghĩa của họ là phản động. Phan Thanh Giản, về mặt con người là ông quan thanh cần, sống thanh bạch, chăm lo công việc, không trốn tránh công việc khó khăn. Phải kí hàng ước, ông ung dung làm việc mà mình cho là phải: kí và tự tử. Cuộc đời và hành động của ông có sức làm xúc động cả những người yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu. Thế nhưng xét về mặt xã hội, về mặt chính trị thì ông là một đại thần, một sứ thần có tội với đất nước, với nhân dân. Ngay cả Tự Đức cũng vậy. Tự Đức là một ông vua chăm lo chính sự, hết lòng theo đúng lời dạy của thánh hiền để xây dựng nước nhà trị bình, rất quan tâm đến văn hóa giáo dục. Những sự xa xỉ như xây Khiêm lăng, đi săn, đi chơi cửa Thuận thực ra có tốn kém là bao (tất nhiên là tính theo sự chi phí của một ông vua). Nhưng xét về mặt xã hội, mặt chính trị, trong tình trạng nước loạn ly, dân đói khổ, giặc ngoài ngấp nghé, một ông vua lấy hiếu trị thiên hạ, lấy tín nghĩa để cảm hóa thực dân, dựa vào các nhà khoa bảng, chăm làm thơ viết sách để giải quyết mọi chuyện, kể cả võ bị, kinh tế; một ông vua thầy đồ như vậy làm sao cho khỏi mất nước? Cho đến giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, rồi cách mạng vô sản, nhiều nhà Nho đồng tình, tham gia. Họ không khó trở thành nhà yêu nước, người chiến sĩ đáng tin cậy vì khí tiết, vì lòng tín nghĩa. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhiều nhà Nho tham gia, chịu đựng gian khổ, vận động nhân dân kháng chiến và vận động có hiệu quả. Không ít nhà Nho thích chủ nghĩa xã hội, sùng bái Mác-Lênin, một số tham gia hàng ngũ Đảng. Tất nhiên, quá nửa trong số họ không phân biệt chủ nghĩa cộng sản khoa học và ảo tưởng đại đồng, chủ nghĩa Mác đối với họ không phải là hệ tư tưởng triết học nhận thức và cải tạo thế giới mà là học thuyết chính trị đạo đức, một lý tưởng xã hội tốt đẹp. Ở đâu mà hoạt động xã hội chủ yếu dựa vào hành động, vào tinh thần của những cá nhân thì ở đó nhà Nho có thể tham gia và có tác dụng vừa xấu vừa tốt. Cuối thế kỉ thứ XIX, cũng là các nhà Nho ấy nhưng khi cầm quyền bính ở triều đình thì bí bét đến thế mà khi giặc đến lại đứng lên chống giặc và hi sinh rất oanh liệt.
So với tư tưởng Đạo giáo thì Nho giáo là loại tư tưởng nhập thế, cứu thế, chủ trương con người xã hội, nhưng trong xã hội thì nhà Nho lại là người ít hiểu biết xã hội và nhà nước. Con người, theo nhà Nho là con người cộng đồng, nhưng là những cộng đồng như gia đình, hình dung mình sống trong gia đình, nhìn khách quan theo quan điểm đạo đức và đẳng cấp, nhìn xã hội theo nhân tình thế thái chứ không thành tổ chức, cộng đồng có tính cách riêng biệt. Họ mơ ước một cộng đồng rộng lớn đến cả bốn biển, đến cả thiên hạ, thậm chí đến cả trời đất, một quốc gia có nền văn hiến, lễ nhạc, đầy đủ mọi thiết chế, vừa có ý nghĩa thực tế, vừa có ý nghĩa trang sức, một chế độ chính trị như thời Nghiêu, Thuấn, bằng đức trị đưa lại cảnh thái bình, không những làm cho mọi người yên vui mà còn làm cho mưa thuận, gió hòa, không có nhật thực, nguyệt thực, không có sâu keo làm hại mùa màng, ..., thế nhưng lại gồm những người đồng nhất, đồng nhất về phẩm chất đạo đức và chỉ có phẩm chất đạo đức. Họ cũng mong một xã hội tốt đẹp hơn nhưng lại với biện pháp “an” - ổn định, giữ như cũ, không xáo động; “quân” - phân phối công bằng theo một bảng phân phối vạch sẵn và số lượng không thêm không bớt. Không nghĩ đến sự tiến hóa, tiến hóa thông qua tăng gia sản xuất, thông qua cải tiến tổ chức, quản lý kinh tế và xã hội và cự tuyệt sự biệt dị, sự phân hóa. Cho nên một lúc nào đó trong xã hội đòi hỏi hành động tập thể, cần đến tổ chức, quản lý, cần đến khoa học kỹ thuật để thay đổi thì nhà Nho là cản trở ghê gớm. Tâm lý nệ cổ, cầu an, sự bất lực cộng với chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình, thái độ gia trưởng xô đẩy mọi người vào một sự lùng nhùng vướng víu không thoát ra được.
Thời Tự Đức là thế. Trước cả Tự Đức, Minh Mạng đã biết sức mạnh kỹ thuật phương Tây và âm mưu xâm lược của thực dân và lo đối phó. Thế nhưng mất ba bốn mươi năm bàn cãi đạo lý, nghe các đề án cải cách, cái thì cho vô lý, cái thì chê cao quá, cái thì chê tốn quá, cái thì lo không hợp với cha ông, cái thì sợ gây xáo động bất an... Cuối cùng, không dám quyết đoán một cái gì cả. Triều đình Tự Đức rất Nho, quá nhiều nhà Nho: mẹ Nho, con Nho, vua Nho, tôi Nho, đầy triều là Nho thần, cầm quân cũng là Nho thần. Nó không phải hỏng vì các nhà Nho thiếu tinh thần chăm lo việc nước hay ít đạo đức hơn trước mà nguy hại vì họ quá đạo đức theo kiểu nhà Nho và làm một chức năng không phù hợp: cầm quyền cai trị một nhà nước. Nho giáo được thử thách toàn diện trên chức năng một ý thức hệ chính thống, quản lý mọi mặt cuộc sống của một đất nước chứ không phải trên chức năng một học thuyết tu dưỡng đạo đức. Nhà Nho được thử thách trên chức năng xã hội chứ không phải trên chức năng cá nhân. Sự thử thách khắc nghiệt trong điều kiện bất lợi cho nó nhất.
Trong một xã hội coi Nho giáo là ý thức hệ chính thống, người trẻ trở thành con cháu, người lớn tuổi trở thành cha chú, chỉ có gia đình lớn nhỏ mà không có xã hội, không có nhà nước, không có con người mà cũng không có công dân; mọi người chỉ lo xử lý quan hệ với người trên và người dưới, tìm sự hòa thuận êm ấm, không hướng con người vào việc tìm tự do và hạnh phúc trong việc cải tiến tổ chức xã hội và làm chủ các lực lượng tự nhiên. Trong lịch sử, Nho giáo cũng chỉ giúp được các ông vua thủ thành - giữ lấy ngai vàng, chứ không giúp được cả những ông vua sáng nghiệp hay cần cải cách.
Đưa một hệ tư tuởng đạo đức-chính trị làm chức năng hệ tư tưởng triết học, chỉ đạo mọi hoạt động tất nhiên phải gây ra vô số trở ngại cho sự phát triển. Càng dốc lòng tin tưởng, càng nhất loạt tuân theo nó bao nhiêu thì càng hỏng việc bấy nhiêu. Đó không phải là lỗi của những ai đó lựa chọn thiếu sáng suốt, mà có nguyên nhân sâu xa ở một tình hình nào đó làm mọi người thấy Nho giáo làm chức năng đó hợp tình hợp lý hơn cả. Không những trong hàng chục thế kỷ không hình thành hệ tư tưởng triết học nào đó chống lại nó, mà các hệ tư tưởng triết học từ ngoài du nhập vào thì cũng chỉ có đạo đức-chính trị hóa thì mới được chấp nhận, chỉ có xây dựng lại theo mô hình Nho giáo mới được nhận thức dễ dàng. Cứ nhìn vào những cá nhân có đạo đức thanh cao, khí tiết, giàu tình nghĩa, cứ nhìn vào những gia đình gia giáo, những tổ chức êm ấm hòa mục như gia đình thì những người ghét Tự Đức, ghét các nhà Nho đầu hàng Pháp đến như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng vẫn nghĩ Nho giáo là cái không bỏ được, cho đến lúc chết dầu không tiếc thân mình mà vẫn tiếc chôn vùi mất cái Khổng Mạnh trong mình https://triethoc.edu.vn/index.php?o...o-giao&catid=5:t-tng-vit-nam&Itemid=224#_ftn7. Cứ phê phán Nho giáo có một mặt là chính trị thì cũng khó thấy nhiều tác hại nguy hiểm hơn và khó thấy trong ta có cái gì đấy là Nho.
III. VỚI MỘT CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN CỤ THỂ
Nho giáo được đề cao, trở thành độc tôn dưới chế độ phong kiến, là ý thức hệ chính thống của nhà nước phong kiến cho nên người ta thường tìm thực chất - tức nội dung giai cấp - của nó ở giai cấp địa chủ và vua quan. Theo hướng suy nghĩ đó, nhiều người làm cho việc Nho giáo thống trị phản ánh xã hội kinh tế địa chủ trở thành phổ biến; giai cấp địa chủ là cơ sở xã hội của chính quyền tập trung (bạch y địa chủ thắng thế lực hào tộc địa chủ thời Hán Võ Đế, giai cấp địa chủ trở thành thế lực thống trị sau sự tan rã của đại điền trang đời Trần). Cũng theo hướng đó, người ta chỉ ra nét tiêu cực chính của Nho giáo là biện hộ cho chế độ vua quan, cho sự áp bức và bóc lột của giai cấp địa chủ, là khinh lao động, là ăn bám, là ngu trung, chống lại nhân dân. Và theo cách lôgích tất yếu, nhân dân - cụ thể là nông dân - chống lại Nho giáo. Nhiều người viện dẫn một số câu ca dao, một số chuyện tiếu lâm để chứng minh thái độ phi Nho giáo của nông dân, bỏ qua nhiều tài liệu ngược lại, về mặt số lượng có khi nhiều hơn đến mức áp đảo.
Nho giáo đã bảo vệ chế độ phong kiến và cơ sở của chế độ phong kiến là chế độ địa tô, giai cấp địa chủ. Điều đó thì không cần bàn cãi. Nhưng ở đây thường có sự đồng nhất, không chú ý đến những nét khác biệt giữa chế độ phong kiến ở phương Đông và chế độ phong kiến ở phương Tây, giữa hoàng đế, lãnh chúa, điền chủ phương Tây và vua, quan lại, cường hào địa chủ phương Đông. Cũng là vua, quý tộc, quan lại, địa chủ, nhưng đặt trong những quan hệ kinh tế, những quan hệ xã hội, chế độ sở hữu, điều kiện sản xuất, phương thức phân phối khác nhau nên thành những thực tế rất khác nhau. Khó khăn là sử học chưa cho chúng ta những tài liệu nghiên cứu cụ thể về kinh tế, xã hội phương Đông và sai lầm thường là chỗ chúng ta dễ dàng bằng lòng với những suy luận từ những nguyên lý, vốn được tổng kết trên cơ sở thực tế lịch sử ở phương Tây, sử dụng những thuật ngữ hình thành trong tình hình đó để nói về phương Đông; nhiều khi coi sự trùng hợp là có cùng nhân quả, coi sự giống nhau là đồng nhất.
Nhấn mạnh tính đặc thù không có nghĩa là phủ nhận tính phổ biến, phủ nhận quy luật. Một phương thức sản xuất phong kiến hay tư bản chủ nghĩa, ở phương Đông hay phương Tây cũng đều có những đặc trưng chung. Lưu ý đến tính đặc thù là để tìm đến sự thật cụ thể-lịch sử. Cùng là có những đặc trưng chung nhưng một phương thức sản xuất nào đó ở từng nơi, hình thành theo những con đường cụ thể khác nhau, trải qua những chặng đường, gặp những tình thế làm biến chuyển giai đoạn khác nhau. Trong nó tồn tại những quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể, đặt ra những vấn đề chính trị, tổ chức xã hội, pháp quyền, văn hóa tư tưởng cụ thể, làm cho cuộc sống diễn ra khác nhau, con người buộc phải suy nghĩ khác nhau. Chế độ phong kiến ở Việt Nam có những đặc điểm của chế độ phong kiến chung mà lại tồn tại với những quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể. Trong lịch sử của nó, thực tế luôn luôn phải đối phó với nạn ngoại xâm cũng đẻ ra những vấn đề rất khác. Nho giáo được lựa chọn để bảo vệ chế độ phong kiến, thì đồng thời nó cũng phải phục vụ chế độ phong kiến đó chống ngoại xâm. Có người khi nói đến tính đặc thù Việt Nam thường chỉ chú ý đến đặc điểm chống ngoại xâm hay cô lập nó để nhìn đặc điểm đó. Nhưng đặc thù không chỉ có ở chống ngoại xâm mà còn có cơ sở kinh tế-xã hội và đặc điểm chống ngoại xâm cũng biểu hiện trong chế độ kinh tế-xã hội. Nhìn ở góc độ kinh tế-xã hội, ta mới có một cái thước đo chung để bàn một cách khoa học, vừa tôn trọng tính cụ thể-lịch sử vừa tôn trọng quy luật phổ biến.
Một hiện tượng mà ai cũng dễ thấy là ở phương Đông nhà nước tập quyền cao độ - tập trung đến mức thành chuyên chế - ra đời rất sớm và hủy diệt rất muộn. Chế độ chuyên chế ra đời cùng thời kì với các đế chế phương Tây, cuối thời kì chiếm hữu nô lệ nhưng kéo dài cho đến cuối thế kỉ XIX, không chia ra hai giai đoạn phân quyền và tập quyền; phong kiến tập quyền không phải là chính quyền liên minh giữa hoàng quyền và tư sản, không phải là chính quyền trung ương của một dân tộc đã có thị trường chung với một nền kinh tế tư sản đã phát triển.
Chế độ chuyên chế phương Đông – từ đây chúng tôi tạm dùng thuật ngữ đó – có giai đoạn mang tính chất chiếm hữu nô lệ, có giai đoạn mang tính chất phong kiến. Đó là chế độ chiếm hữu nô lệ không phải thông qua phân hóa trong nội bộ công xã, dẫn đến chiếm hữu tư nhân về nô lệ và ruộng đất từng vùng nhỏ, mà thông qua chiến tranh giữa các bộ tộc; kẻ chiến thắng áp đặt quyền lực để bóc lột các dân tộc chiến bại bằng cách vương hóa hữu ruộng đất và thần dân hóa dân chúng. Các vùng đất chiến bại, khuất phục bị biến thành chư hầu hay sáp nhập thành quận huyện mới, những cơ sở hạ tầng là công xã vẫn không thay đổi. Về sau cũng xảy ra quá trình phân hóa nội bộ, cũng thay đổi phương thức thu cống nạp, xã hội nô lệ chuyển sang xã hội phong kiến, nhưng về toàn bộ mà nói sự thay đổi không trải qua phá vỡ cơ sở công xã và nền sản xuất tự nhiên. Đó là việc dùng bạo lực quân sự và chính trị để thi hành bóc lột về kinh tế, không kèm theo sự tổ chức lại về sản xuất. Đó là sự thay đổi phía trên, thay đổi danh nghĩa, sự chuyển về hình thức, không thay đổi nhiều trong trật tự có sẵn (nhất là trong công xã), không đưa lại sự thay đổi lớn về kinh tế. Đây là một hình thức ở giữa, hay là hỗn hợp, của ba hình thức chiếm hữu nô lệ, phong kiến phân quyền, phong kiến tập quyền chứ không phải là sự thay đổi lần lượt của ba hình thức như vậy. Nổi bật trong thể chế kinh tế-xã hội đó là công điền và thần dân, cả hai là đất màu nuôi sống chế độ chuyên chế.
Ruộng đất trước đây là của công xã. Sau khi chính quyền chuyên chế xác lập, nhà vua lấy danh nghĩa kẻ có mệnh trời nhất luật vương hữu hóa. Nhưng đó chỉ là về danh nghĩa, còn trong thực tế nhà vua giao ruộng đất cho thôn xã, phân cấp cho dân cày cấy. Người làm ruộng nộp thóc, tơ, bông, đặc sản, tức là địa tô hiện vật, đi phu đi lính, tức là địa tô lực dịch cho nhà vua. Dưới danh nghĩa khác nhau: cống, trợ, phú dưới thời nô lệ hay tô, dung, điệu dưới thời phong kiến, việc mang đóng góp của người dân vừa mang nội dung hiện vật của người thất bại với người chiến thắng, địa tô của tá điền đối với chủ đất, vừa mang nghĩa vụ của người dân đối với nhà nước. Công điền là nguồn sống của người dân mà làng xã là đơn vị có công điền. Chỉ dân bản quán, những người có tên trong sổ làng mới được chia ruộng đất; những người vì lý do nào đó sống tha phương, làm dân ngụ cư, không được coi là dân làng, mất quyền (chứ không mất nghĩa vụ) làm dân, bị phân biệt đối xử, bị bắt lao dịch nhiều hơn, đóng góp nhiều hơn, phải chạy chọt lâu dài, tốn kém để ghi tên vào danh bạ làm dân làng. Đối với nhà nước, làng xã là đơn vị hành chính: bắt lính, thu thuế, điều động nhân công, làm công dịch đều theo đơn vị đó. Nhưng nghĩa vụ đó cũng không cho phép người dân rời làng. Công điền trói chặt người dân vào làng xã, làm cho nó thành địa bàn quần tụ bền vững, mang tính chất tự trị, tạo thành thế chân vạc rất vững vàng cho chính quyền chuyên chế. Số lượng của công điền là cố định, nhưng ở những nơi gần sông, gần núi những hiện tượng bồi lở, bỏ hoang làm cho diện tích biến động, xảy ra chấp chiếm, tranh giành không chỉ giữa các cá nhân mà cả giữa các làng xã lân cận, có khi kéo dài thành những mối thù truyền kiếp. Ruộng là ruộng công, nhưng quyền quản lý, phân phối nằm trong tay các chức dịch làm việc làng. Điều đó dẫn đến làm giàu bằng cách chiếm công vi tư, có khi trắng trợn chiếm đoạt, có khi bằng mưu mẹo xà xẻo thu lợi trong khi phân phối và mua bán. Sự lũng đoạn tài sản công tạo ra lớp hào cường lợi dụng chức vụ kiếm ăn trên công điền, phù thu lạm bổ, ức hiếp, vơ vét của dân. Đó là cách bóc lột khác với cách bóc lột tô tức của giai cấp địa chủ. Nó tạo ra ở làng xã mâu thuẫn giữa hai phe hào hộ - hào cường, vì những người giàu có, có ruông tư, có vốn riêng - nhân dân thường đồng tình, ủng hộ phe hộ.
Không phải tất cả ruộng đất là công điền. Pháp luật chỉ cấm mua bán công điền chứ không cấm khai khẩn đất hoang và mua bán ruộng đất. Quý tộc, quan lại có ruộng đất tư do vua rút từ công điền ban cấp và dân thường cũng có ruộng tư, do khai khẩn và mua bán mà có. Bên cạnh ruộng công quân cấp và ruộng tư còn có ruộng hội, trích từ ruộng công, giao cho những người nhóm nhỏ, đối với nhà nước có tính chất nửa tư điền, các họ có ruộng hương hỏa, tự điền tuy là ruộng tư nhưng được pháp luật bảo hộ, không dễ mua bán cũng có tính chất nửa công điền. Ruộng tư được pháp luật thừa nhận, nhưng với ranh giới làng xã, với số lượng công điền và nửa công điền lớn không thể mua bán, sở hữu tư nhân về ruộng đất rất khó phát triển. Tất nhiên qua một quá trình dài tỉ lệ ruộng công và ruộng tư thay đổi. Ruộng công được bổ sung không đáng kể bằng ruộng tịch thu của người phạm tội, bằng các công trình khai hoang của nhà nước mà lại bị chấp chiếm, trích cấp cho quý tộc, quan lại, bán để làm những việc công ích, ..., ruộng tư tăng lên với sức lao động của dân số. Tuy vậy, về mặt chính sách của nhà nước phong kiến, không đánh thuế ruộng tư khi số lượng ruộng tư chưa đáng kể, hay đánh thuế ruộng tư nặng hơn khi số lượng ruộng tư nhiều hơn thì nội dung vẫn coi công điền là chủ yếu, vẫn bảo vệ nguyên tắc ruộng đất vương hữu.
Công điền, làng xã bền vững, tự trị và đóng kín hạn chế khả năng khai thác triệt để về nông nghiệp, hạn chế sức tiêu thụ của công thương nghiệp, thu nhỏ công thương nghiệp trong quy mô chợ địa phương. Với những điều đó, chế độ chuyên chế đã tạo cho mình cái thế để trường thọ: đô thị, giai cấp tư sản – những lực lượng mang sứ mệnh tiêu diệt nó – có ra đời cũng không lớn lên được.
Kẻ chiến thắng chiếm đoạt ruộng đất mà cũng chiếm đoạt sức lao động. Đi đôi với vương hữu hóa ruộng đất là thần dân hóa toàn thể dân chúng áp đặt theo nguyên tắc “dưới trời đâu chẳng phải đất của vua, sống trên đất ai chẳng là tôi của vua”. Đó cũng là chiếm hữu nô lệ, nhưng không chiếm hữu từng người. Đó cũng là mất thân phận tự do nhưng không phải mất từng trường hợp cá nhân, mà mất hàng loạt thành chuyện phổ biến: làm dân, làm tôi con chứ không phải làm nô lệ. Nô lệ là trường hợp riêng khi bị bắt làm tù binh hay khi bị tội, bị xử phạt. Tập trung ruộng đất và sức lao động như vậy nhà vua thành địa chủ lớn nhất, chủ nô lớn nhất, mở rộng đến vô hạn quyền hành kẻ làm vua thành một chế độ chuyên chế tuyệt đối. Nhà vua là người duy nhất có quyền sở hữu ruộng đất và các nguồn lợi tự nhiên về ao hồ, sông biển, núi rừng. Nhà vua tự xưng là con Trời, kẻ có mệnh trời giữ độc quyền tế Trời Đất, thần sông, thần núi, có khi trực tiếp nhận là giáo chủ Đạo giáo, Phật giáo để nắm cả đời sống tinh thần của nhân dân. Không chỉ nhân dân mới là thần hạ. Bách thần – thần linh theo tín ngưỡng của các thị tộc, các địa phương – cũng được xếp bậc, cũng được phong tước, có cơ quan quản lý (Bộ Lễ) và chịu thưởng phạt. Nhà vua trực tiếp cầm đầu bộ máy hành chính, bộ máy quân sự, giữ quyền tối cao về tư pháp, không những xử phạt kẻ phạm tội hình, hộ mà còn chinh phạt, hỏi tội các nước khác nữa. Quyền lực của vua chuyên chế không chia sẻ cho một ai, dầu là giáo hoàng, đẳng cấp tăng lữ, là lãnh chúa, đẳng cấp hiệp sĩ hay cả cha mẹ, vợ con của nhà vua. Tất cả là thần dân. Ngôi hoàng đế có tính linh thiêng. Trong thực tế không phải khi nào cái uy quyền kì quái đó cũng được tôn trọng, thế nhưng nó đã hình thành từ xa xưa, chấp nhận thành nếp, thành lễ, mỗi một triều đại lại được bổ sung, củng cố, quy định thành pháp điển, giải thích thành lý luận. Trong lịch sử chưa bao giờ nó bị phủ nhận nên vẫn là một nguyên lý để xây dựng thể chế xã hội.
Uy lực của kẻ chiến thắng tuy hung bạo nhưng lại có tính nhất thời. Có nước, có thiên hạ, giành được một sở hữu quá lớn, một quyền lực khá mạnh không dễ thu lợi, bảo vệ, sử dụng và hưởng thụ cả. Từ đầu đời Ân, vua chúa đã cảm thấy vị trí bếp bênh, căn dặn con cháu về mối lo “mệnh trời không thường”. Giữa thời thống nhất và cường thịnh của đế chế nhà Tần, Tuân Tử đã nói “kiên ngưng” - giữ vững được sự ổn định - mới là khó. Vương hữu hóa cả nước, cả thiên hạ, người chủ không có khả năng khai thác, tổ chức sản xuất, trực tiếp bóc lột thu lợi như chủ nô, lãnh chúa. Kẻ độc phu lũng đoạn, luôn luôn nơm nớp lo sợ kẻ khác cướp mất ngai vàng, dầu tham lam đến đâu cũng phải mong ước một thế thủ thành - cảnh thái bình, giữ nguyên hiện trạng, không xáo trộn, cũng không phải bằng lòng với cách bóc lột không gia tăng được, nhưng ổn định, chắc chắn. Sở hữu kinh tế phụ thuộc quyền bính chính trị; vừa chuyên chế chiếm đoạt nó bằng bạo lực quân sự, luôn luôn có ý thức duy trì ưu thế về lực lượng quân sự nhưng lại ra sức bác bỏ nguyên tắc “quyền của kẻ mạnh”. Nó che giấu nguồn gốc đích thực bằng nhãn hiệu kẻ có đức, kẻ có công ơn, kẻ có thiên mệnh, kẻ gánh vác chịu trách nhiệm nhà nước làm việc chung. Vua chuyên chế khai thác quyền sở hữu bóc lột, thu lợi không phải bằng bộ máy tổ chức, quản lý kinh tế mà bằng bộ máy nhà nước chính trị và tôn giáo. Bộ máy nhà nước đó cũng làm một số chức năng kinh tế: thu tô thuế, vận chuyển, cất giấu và phân phối số tô thuế đó. Tô thuế đã căn cứ vào số đinh, điền mà định sẵn việc cho làng xã, nhà nước không can thiệp vào viễ sản xuất và phân bố đóng góp cho từng hộ, nhưng để cho nông dân có thu hoạch mà nộp thuế nhà vua cũng giao cho quan lại địa phương chăm sóc tu bổ đê điều, cầu trời mưa gió thuận hòa, hiểu dụ khuyến khích trồng dâu cày ruộng. Số tô thuế thu được, cũng tức là tổng số thu nhập của nhà nước, về danh nghĩa là của vua. Ngoài số chi tiêu cho việc công ích, có tính chất nhà nước và số dành cho việc chi tiêu của nhà vua, một phần không ít được trích để cấp bổng lộc. Cấp bổng lộc không phải là trả công sòng phẳng cho những người giúp việc mà là ban phát ân hiệ cho những người có công lao, công lao đối với nhà vua. Nếu ban theo sự khó nhọc (lao) thì cũng là sự trả công bình thường của nhà nhà nước nhưng theo công – công xây dựng và bảo vệ vương triều của hoàng tộc và các dòng họ công thần, của quý tộc – thì đó là sự phân chia chiến lợi phẩm. Quyền sở hữu tập trung không chia nhỏ cho quý tộc đẻ ra việc thu tô bằng con đường nhà nước (thuế) và sự phân phối của nhà nước không theo chức năng mà theo tước vị, hưởng tô không theo sở hữu mà theo danh vị. Sự phân phối đó dựng lên trong xã hội một cái thang danh vị mà mọi người phải chú ý, phải cố sức leo lên: có danh vị thì có quyền, thì có bổng lộc, thì có lợi.
Vua chuyên chế sống bằng tô thuế biết rất rõ chỗ dựa của nó là ruộng đất công ở làng xã và thân dân, ngai vàng chông chênh và nguy cơ uy hiếp ngai vàng đến từ phía các lực lượng phân tán. Ruộng công là nguồn tài chính, lương thực của nó, thần dân là nguồn sức lao động đi phu, đi lính, làm thành sức mạnh vật chất, tạo cho nó uy thế tuyệt đối để đè bẹp bất cứ mưu đồ nào nhòm ngó ngai vàng. Vì vậy, để bảo vệ ngai vàng, chính quyền chuyên chế luôn luôn quan tâm không để cho ruộng công bị chấp chiếm, chuyển thành ruộng tư, thần dân chuyển thành nô tì, rơi vào tay tư nhân làm mạnh thêm lực lượng phân tán cát cứ. Đất nước mênh mông những lại gồm vô vàn làng xã mà thực tế là chính quyền trung ương không nắm chặt được, tạo thành thế phân tán tự nhiên. Ở những vùng xa xôi, những kẻ đàn anh trong làng xã chiếm nhiều ruộng đất, có nhiều tôi tớ, phát triển thành những hào trưởng, vọng tộc, khống chế cả một vùng, đối với trung ương nhiều khi chỉ làm nhiệm vụ thần hạ một cách chiếu lệ. Quý tộc, công thần, tướng lĩnh được cử trông coi phiên trấn có kho tàng, có quân đội, có quyền hành rộng rãi, nếu ở lâu năm dễ trở thành chúa địa phương, cát cứ, chiếm hết tô thuế. Sự tập trung của chế độ chuyên chế là hình thức, phi kinh tế, không chặn được tình hình phân tán cát cứ. Cho nên đối với vọng tộc, thân hào, nhà vua chỉ có thể thỏa hiệp: thừa nhận thực tế bằng cách phong quan tước để đổi lấy sự thần phục, sự cống nạp nhiều khi chỉ là hình thức. Những người phát triển đến có thế lực chính trị, thế lực quân sự lập tức bị triệt hạ. Các lãnh chúa bất hợp pháp tồn tại thường không lâu. Ngôi vua là của một dòng họ, giành được là nhờ sức các công thần, giữ được là nhờ các phiên tướng. Quý tộc, công thần, phiên tướng là phên dậu che đỡ ngai vàng. Đối với nhà vua, họ không những có công mà còn có tình nghĩa, cho nên đương nhiên được ưu đãi, ưu đãi bằng tước lộc. Nhưng chính họ cũng lại là những lực lượng có khả năng nhất trở thành đối địch. Quyền lợi nhà vua bắt buộc phải cảnh giác đề phòng: hạn chế quý tộc cầm quân, giữ phiên trấn, hạn chế tham gia chính quyền, phân tán lộc điền ra nhiều nơi, cấm liên lạc với quan địa phương. Hầu như đã thành quy luật trong lịch sử: các công thần lừng lẫy của các triều đại vì cớ này hay cớ khác đều bị giết, bị diệt tộc và tịch thu tài sản. Đã từ rất sớm, nhà nước chuyên chế rút được kinh nghiệm tìm chỗ dựa ở bộ máy quan liêu và quân đội thường trực, dùng người ngoài họ, dùng người xuất thân khoa cử – những người có tài năng mà ít thế lực, dễ bảo, ít có khả năng tranh đoạt ngai vàng – thay cho quý tộc và võ tướng. Chính sách hạn chế để bảo vệ nguồn tô thuế là một chính sách toàn diện và triệt để, nhất là “hạn điền, hạn nô”: quy định số ruộng đất, nô tì, số tài sản tương đương với thân phận xã hội, căn cứ vào mức đó tịch thu số thừa, quá quy định. Hạn điền, hạn nô không chỉ đụng chạm đến quý tộc mà đụng chạm cả đến địa chủ và thương nhân - những kẻ giàu có, những kẻ có của. Bảo vệ ngai vàng, bảo vệ sự chuyên quyền, bảo vệ nguồn tô thuế là nội dung pháp điển của chế độ chuyên chế. Điều đó cũng chi phối cách tổ chức xã hội, cách sắp xếp thần dân, chi phối chính sách, thái độ đối với người dân, những người trực tiếp sản xuất, những người không được dự vào hàng tước vị để chia phần hưởng tô thuế.
Dân chia ra bốn hạng: sĩ, nông, công, thương. Đó không phải chỉ là sự phân loại nghề nghiệp mà còn là sự sắp xếp vị trí xã hội. Trong kinh tế, quan trọng nhất là nông nghiệp, sự đóng góp cho nhà nước hầu hết là do nông dân. Triều đình chuyên chế cũng lấy nông là nghề gốc, nói những lời tốt đẹp về nông dân, thi hành những chính sách trọng nông, khuyến nông. Nhà vua luôn luôn nhắc nhở quan lại trách nhiệm phải quan tâm làm cho người nông dân an cư lạc nghiệp, không đụng đến thì giờ cày cấy gặt hái của họ, không để họ rơi vào cảnh khốn quẫn đến phải xiêu tán bỏ làng, bỏ ruộng hoang, bán mình làm nô tì. Thủ công nghiệp phát triển rộng khắp nhưng không tách hẳn nông nghiệp, phát triển trong quy mô làng xã. Nhiều vùng có nghề riêng, tinh xảo, có nhiều thợ khéo tay nhưng nhà nước chuyên chế chỉ quan tâm đến việc chế tạo vật dụng cho cung đình và chế tạo phương tiện, khí giới cho quân đội; nó không nghĩ ra cách thu lợi nào khác là bắt thợ khéo vào làm việc trong các quan xưởng. Thủ công nghiệp không phát triển được và người thợ chiếm vị trí phụ sau nông dân. Còn thương nhân? Một chế độ chống sự “giàu có quá phận vị” tất không thừa nhận lối làm ăn “nhất bản vạn lợi”. Một chế độ khuyến khích sự an phận giữ bản nghiệp tất chống lại cách làm ăn cầu may, trục lợi. Đó là mạt nghiệp, pháp luật ức chế, xã hội khinh bỉ. Thương nhân bị xếp vào hạng chót và ở vị trí nhục nhã đó, kẻ giàu có bằng thương nghiệp bị quan lại ức hiếp, sách nhiễu. Được xếp đầu tứ dân là sĩ, một tầng lớp không sản xuất mà cũng không đóng góp gì nhiều. Sĩ là những người học trò học đạo thánh hiền, “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” – như ca dao nói - lại được tính vào hai hạng quan trọng nhất, quan trọng hơn cả nông dân: nhất sĩ, nhì nông. Đối với chế độ chuyên chế, sĩ đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Đó là những người có học, nắm được đạo lý thánh hiền, hiểu pháp điển của triều đình nên có thể giáo hóa, truyền đạt cho dân không biết chữ. Họ là tầng lớp nhiệt tâm bênh vực cho sự thống nhất, nền chính thống, tôn trọng mệnh vua, mệnh trời. Họ là những người không giàu, không sang, nên muốn bằng con đường đi học, đi thi mà bước vào một bộ máy quan liêu vốn không hợp với kẻ giàu có và kẻ sang nhờ dòng máu. Về tư tưởng, họ là kẻ đồng minh của chế độ chuyên chế. Giữa đám nông dân họ là thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý, thầy số – làm những công việc tương đương với công việc của người giáo sĩ phương Tây – thành kẻ chăn dân tự nhiên, có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, tư tưởng của nông dân. Đó là tầng lớp cần tranh thủ. Tuy có vai trò như vậy, sĩ cũng chỉ là dân; chính sách nuôi sĩ, trọng sĩ, sự ưu đãi đối với họ cũng chỉ có: được tế Khổng Tử, tham gia văn hội, sĩ hội, cũng đồng thời được dự phần hưởng các ruộng đất tế tự của văn hội, sĩ hội đó.
Đó là một xã hội phân chia theo ranh giới đẳng cấp. Trước hết là ranh giới vua và thần dân: về sở hữu kinh tế và quyền lực chính trị, quý tộc cho đến cha mẹ, vợ con vua cũng là thần hạ. Một bước nữa là ranh giới giữa những người có tước vị và dân bạch đinh. Tước vị chia ra nhiều bậc (năm tước, chín phẩm...) mà dân bạch đinh cũng chia ra nhiều hạng (tứ dân). Trong xã hội tuy có phân biệt giàu nghèo và sang hèn nhưng nếu không có tước vị thì giàu vẫn là bạch đinh, vẫn là hèn. Cái được quý chuộng là danh vị chứ không phải tài sản. Cái đẻ ra quyền lợi, là danh vị chứ không phải sở hữu. Trong xã hội đó, địa chủ không phải là người có vị trí xã hội cao, được pháp luật ưu đãi. Đối với làng xã và nhà nước, phú ông, nếu không kiếm được chút chức vị gì thì vẫn bị xếp chung với nông dân, vẫn bị coi là trọc phú, vẫn bị hào cường, chức dịch, quan lại bóp nặn, ức hiếp. Đẳng cấp được xác định chặt chẽ, phân biệt không chỉ bằng danh mà cả bằng quyền, lợi, cả bằng quy định nghiêm ngặt về nhà cửa, phục sức, nghi trượng đi lại, chỗ ngồi, chỗ đứng nơi công cộng, cử chỉ nói năng với người khác nữa.
Với sở hữu lũng đoạn của nhà vua ai cũng là thần dân, ai cũng chịu ơn vua lộc nước cả. Người tiểu nông trong làng xã cày ruộng vua, ở đất vua, vì nghĩ rằng “tấc đất ngọn rau ơn chúa” nên phải đền đáp, “nợ áo cơm phải trả đến hình hài”. Người thần dân không trải qua quá trình mất quyền làm người thành công cụ, súc vật của một ông chủ (nô lệ) rồi mới giành được quyền nữa làm người (lệ nông của lãnh chúa), quyền làm người nông dân tự do. Họ là người nông dân phổ biến của nhà vua, có tư cách pháp nhân: quý tộc, quan lại, chủ nuôi nô tì đều không có quyền giết hại họ. Đối với mọi người, họ không mất quyền làm người, nhưng nhà vua lại có toàn quyền đối với họ. Đối với vua, họ vừa là nô lệ, vừa là lệ nông, vừa là tá điền. Họ không bị tước mất nhân cách nhưng đúng ra là chưa có để mà mất, chưa đủ để cảm thấy sự mất mát. Trước mắt họ, trật tự xã hội là cái thang danh vị và những cái khung phận vụ theo đẳng cấp. Mọi người chỉ có một cách sống: tính toán, vun vén trong cái khung khác rộng rãi hơn. Nhưng dầu có leo đến tột đỉnh thì cũng vẫn là thần dân của vua, cũng chưa giành được quyền làm người tự do.
Người nông dân, cụ thể hơn là người tiểu nông ở thôn xã, nhân vật chủ yếu và phổ biến của xã hội ta vừa mô tả, sống trong cái khung hẹp nhất của người bạch đinh, nai lưng cày cấy và làm thủ công trên mảnh vườn, mảnh ruộng được chia, ra sức cấu véo, vun vén để cố gắng đảm bảo cho cuộc sống tự cấp tự túc của cả hộ. Thế nhưng thu nhập ít, sưu thuế, lực dịch phiền nhiễu, thường là họ phải kiếm ăn thêm bằng săn bắn, hái lượm hay lưu tán, bỏ làng kiếm công việc làm thuê. Gặp trường hợp hào cường hoành hành quá sức, chiếm đoạt ruộng công, ức hiếp quá đáng, lại gặp thiên tai mất mùa, thiếu công ăn việc làm là họ bị đẩy đến bước đường cùng. Cảnh lưu tán rộng lớn biến thành bạo động nông dân. Trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam, bạo động nông dân không đẻ ra khẩu hiệu ruộng đất (trừ Thái Bình thiên quốc). Thường là họ chống hào cường áp bức và quan lại tham nhũng. Họ chống lại cách phân phối ruộng công đúng lệ chứ không đòi tư hữu ruộng đất. Họ muốn có vua tốt quan tốt chứ không chống chế độ vua quan. Hành động thực tế thường là lấy của nhà giàu - phần lớn là hào cường, quan lại – chia cho dân nghèo chứ không nhắm chiếm đất, giành chính quyền. Đối với các cuộc khởi nghĩa như vậy nếu triều đình có một lực lượng quân sự mạnh đủ đánh tan, và thường là như vậy, nếu triều đình biết đưa họ về với công điền, làng xã, nghĩa là giúp đỡ một ít trâu bò, nông cụ cho họ khai hoang, để cho họ được sống với họ hàng, làng mạc, với thần linh, phong tục của họ thì tình hình lại trở lại