Trả lời chủ đề

MÁY TÍNH LƯỢNG TỬ 



Một doanh nghiệp nhỏ ở Canada  cho biết họ đã chế tạo được chiếc máy tính lượng tử mang tính thương mại  đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, theo bình luận của Edwin Cartlidge  trên tạp chí Physics World, số tháng 4/2007, thì viễn cảnh một chiếc máy  tính lượng tử mang tính thương mại vẫn hãy còn xa, ít nhất là trong  vòng một thập kì nữa.


 

Khoảng 300 nhà khoa học, nhà báo và doanh nhân đã tập  trung tại Bảo tàng Lịch sử Máy tính ở Thung lũng Silicon, California,  vào ngày 13/2 vừa qua để tận mắt chứng kiến một người đàn ông giải bài  toán nan giải Sudoku trên một chiếc máy tính xách tay. Có thể bạn sẽ hỏi  tại sao họ lại phải phiền toái như vậy. Lí do là bài toán đó hình như  không được giải bằng chiếc máy tính xách tay tại hiện trường, mà bằng  một chiếc máy tính khác, kết nối qua mạng internet, đặt tại một phòng  thí nghiệm ở Vancouver. Theo lời công ty Canada D-Wave, thì chiếc máy  tính thứ hai nói trên không có linh kiện kĩ thuật số thông thường như  những máy tính khác, và nó sẽ là “chiếc máy tính lượng tử thương mại khả  thi đầu tiên trên thế giới”.

Nếu D-Wave, công ty ra đời từ trường đại học British  Columbia năm 1999, thực sự xây dựng được thiết bị này thì đây sẽ là một  đột phá to lớn. Khoảng 20 năm qua, một số trí tuệ vĩ đại hàng đầu ở các  viện hàn lâm và xưởng công nghệ trên thế giới đã cố công xây dựng chiếc  máy tính lượng tử - một cỗ máy mà về nguyên tắc nó có thể khai thác được  những quy luật kì lạ của cơ học lượng tử nhằm cải tiến tối đa những  chiếc máy tính cổ điển khi nó có thể thực hiện được những loại tính toán  nhất định. Mặc dù các nhà khoa học này đã xây dựng được các nguyên mẫu  cho cỗ máy, nhưng hầu như họ vẫn phải chờ thêm ít nhất là một thập kỉ  nữa mới có thể xây dựng được chiếc máy tính lượng tử hữu dụng, bởi vì  rất khó thao tác với những hệ lượng tử tinh vi mà không làm phá hủy  chúng lúc hoạt động.


Hình 1.D-Wave buộc cỗ máy  Orion phải sử dụng cơ học lượng tử để thực hiện các phép toán. Dải thiết  bị lọc tần số radio (trên hình) là cần thiết để loại sự nhiễu khỏi hệ  thống (Nguồn: D-Wave)


Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi các phương tiện truyền  thông phản ứng nồng nhiệt với thử nghiệm của D-Wave. Một bài báo chạy  dòng tít “Người Canada chiến thắng trong cuộc đua chế tạo siêu máy  tính”. Nhưng liệu đây có thực sự là một đột phá như người ta tán dương  hay không ? Do tính hơi mập mờ của thử nghiệm và sự thiếu thông tin kĩ  thuật có liên quan nên nhiều nhà khoa học khác trong lĩnh vực này vẫn  giữ thái độ hoài nghi cao độ. Phil Keukes, một nhà nghiên cứu máy tính  lượng tử tại công ty Hewlett Packard, ở Palo Alto, California, là một  người trong số đó. Ông nói: “Hình như D-Wave đang sử dụng các hiệu ứng  lượng tử nhất định trong cỗ máy của họ. Nhưng không có gì rõ ràng rằng  đó là một chiếc máy tính lượng tử”.

Bên trong cỗ máy Orion

Các máy tính lượng tử khai thác đặc tính của những hệ  lượng tử có thể tồn tại ở hai trạng thái cùng một lúc. Thay vì dùng các  bit, 0 hoặc 1, họ dùng các qubit. Qubit có thể đồng thời tồn tại ở trạng  thái 0 và 1. Ý tưởng là nếu một chiếc máy tính lượng tử có N qubit như  vậy thì chúng có thể được kết hợp hoặc “bị bẫy” để biểu diễn 2N  giá trị cùng một lúc. Bằng cách xử lí cùng lúc các giá trị này, về  nguyên tắc, một chiếc máy tính lượng tử có thể hoạt động nhanh hơn theo  quy luật hàm mũ so với bản sao cổ điển của nó.

Các nhà nghiên cứu đã xây dựng được những máy tính lượng  rất cơ bản - hầu như chỉ gồm một nhóm qubit - sử dụng trạng thái lượng  tử của nhiều hệ vi mô, như các ion bị giam trong điện từ trường, các  nguyên tử trung hòa, các photon và các mảnh chất bán dẫn nhỏ gọi là chấm  lượng tử. Tuy nhiên, cỗ máy có tên là Orion tạo ra 16 qubit của nó từ  các cuộn niobi siêu dẫn. Lợi thế của việc sử dụng vật liệu siêu dẫn là -  không giống như nguyên tử và photon - chúng là những vật vĩ mô người ta  có thể sản xuất và thao tác bằng kĩ thuật vi chip thông thường. Các cặp  electron trong chất bán dẫn, làm cho nó có điện trở bằng không ở dưới  một nhiệt độ xác định, đều tồn tại ở cùng một trạng thái lượng tử, và do  đó về tổng thể nó mang đến những đặc tính lượng tử cho chất bán dẫn.

Mỗi qubit của Orion có bề ngang chừng 5mm, và con chip  gắn chúng có kích thước 5 mm x 5 mm (trong khi toàn bộ hệ thống, kể cả  thiết bị làm lạnh, có thể tích

45 m3). Dòng điện trong các qubit của Orion có thể truyền vòng quanh  cuộn dây theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ, hoặc hỗn  hợp cả hai hướng, tương ứng với bit 0, bit 1 hay là sự chồng nhau của cả  hai giá trị. Giá trị của một qubit tại bất kì một thời điểm được xác  định bằng ba thông số có thể điều khiển được - “độ nghiêng” của từng  qubit về phía 1 hoặc 0; sự ghép đôi giữa các qubit lân cận (tức là dòng  điện của chúng có xu hướng truyền cùng chiều hay ngược chiều nhau); và  hàng rào thế giữa các trạng thái qubit khác nhau (có thể vượt qua được  theo hiệu ứng đường hầm).

Để thực hiện tính toán, trước tiên Orion được làm lạnh  xuống nhiệt độ chỉ còn 0,01K nhằm hạn chế tối đa sự nhiễu nhiệt có thể  phá hủy các trạng thái lượng tử. Với các qubit ban đầu được thiết đặt  giá trị như nhau, ba thông số sẽ được điều chỉnh thông qua một thuật  toán cài sẵn trong máy tính. Một khi các điều chỉnh đã thực hiện xong và  hệ thống ở vào trạng thái ổn định, thì kết quả phép tính là con số kĩ  thuật số 16 bit cho bởi giá trị cuối cùng của các qubit.

Orion được thiết kế để giải lớp bài toàn có tên là  “NP-hard”, về cơ bản là bài toán tìm giá trị nhỏ nhất hoặc giá trị lớn  nhất của một hàm số nhất định (ví dụ như bài toán làm tương hợp các phân  tử sinh học với nhau, nghĩa là tối đa hóa sự tương tự trong cấu trúc).  Những bài toán như vậy rất “cứng đầu”, vì thời gian cần thiết cho một  máy tính thường giải bài toán tăng tỉ lệ theo hàm số mũ với số dữ kiện  đầu vào. Nét đẹp của Orion là, về nguyên tắc, nó tìm lời giải bằng cách  tuân thủ các quy luật của cơ học lượng tử nhằm xác định giá trị bền nhất  của mỗi qubit, mang lại tương quan lực thế hiệu dịch và lực ghép đôi.  “Về cơ bản, chúng ta đang đề cập đến khả năng giải phương trình của tự  nhiên” - lời của nhà vật lí Geordie Rose, nhà sáng lập và là nhân vật kì  cựu trong nghiên cứu kĩ thuật của D-Wave.

Chỉ là nóng vội

Theo lí thuyết của D-Wave, Orion cần khoảng thời gian  gấp 100 lần để giải cùng một bài toán cho trước so với thuật toán thường  phổ biến hiện nay cài trên một máy tính để bàn. Nhưng Rose nói rằng  chừng nào công ty đầu tư tăng số qubit trên các chip - họ tuyên bố là sẽ  có các 1024-qubit vào cuối năm sau - thì Orion sẽ trở thành đối thủ  cạnh tranh của các thuật toán kiểu cũ tốt nhất hiện nay. Bản nâng cấp  sắp tới sẽ là phiên bản Orion 32-qubit mà mọi người có thể truy cập qua  môi trường internet vào cuối năm nay.

Bằng cách nào mà một công ty nhỏ như công ty Canada này  lại có thể làm một việc mà dường như tất cả các nhóm nghiên cứu trên thế  giới trước nay đều lãng tránh ? Câu trả lời là hiện nay Orion chưa thật  sự là một máy tính lượng tử đủ bản lĩnh để ra đời. Nó là vật thay thế  cho cái được gọi là “máy tính lượng tử đoạn nhiệt”, thiết bị vẫn giữ  được mức năng lượng thấp nhất có thể tại mọi điểm trong một phép tính,  và do đó ít bị tổn hại đến mức phá hủy hơn - sự phá hủy các giai đoạn  tương đối của các mức năng lượng trong một máy tính lượng tử đa năng xảy  ra nếu như người ta mang máy tính đặt vào thế giới bên ngoài. “Vì lí do  này, việc chế tạo 16-qubit ít thách thức về mặt kĩ thuật hơn so với  qubit siêu dẫn đa năng”, Frank Wilhelm, nhà vật lí nghiên cứu qubit siêu  dẫn tại đại học Waterloo, Canada, nói.


Hình 2. Trái tim của vật chất. Bộ vi xử lí D-Wave gồm 16-qubit siêu dẫn sắp thành mạng lưới 4 x 4 (Nguồn: D - Wave)


Rose thừa nhận những hạn chế của Orion, chẳng hạn như nó  không thể tái tạo các hệ cơ lượng tử khác - một điều mà người ta mong  đợi sẽ là một trong những ứng dụng chính của thế hệ đầu tiên của các máy  tính lượng tử đa năng, và có thể ứng dụng nó vào hóa học hoặc sinh học  chẳng hạn. Ông cũng cho rằng một máy tính lượng tử giải bài toán NP-hard  không chắc chắn là sẽ nhanh hơn theo hàm mũ so với máy tính thường, và  thay vì vậy có lẽ nó chỉ nhanh hơn vào bậc lũy thừa hai (thực ra thì  cũng đẩy tốc độ tính toán lên nhanh hàng ngàn lần). Ông nói: “Chúng tôi  cho rằng sự gần đúng bậc hai là giải pháp tốt hơn để chống lại sự nhiễu.  Đây là một sự chọn lựa thiết kế, và chúng tôi tin rằng nó có tiềm năng  thương mại rất lớn”.

Tuy nhiên, không phải ai cũng tin rằng Orion có thể đạt  tới sự tăng tốc độ theo lũy thừa hai. Umesh Vazirani, một nhà khoa học  máy tính tại trường đại học California, Berkeley, nói rằng để đạt được  điều này, Orion phải cải thiện tốc độ thực thi thuật toán trong tiến  trình tính toán. Nhưng ông cho rằng không ai biết phải làm như thế nào  đối với kiểu tính toán mà D-Wave đang cố gắng chiếm lĩnh.

Rose thừa nhận “có những vấn đề chưa được giải quyết  liên quan tới việc tìm kiếm thuật toán hiệu quả cho cỗ máy mà chúng tôi  đang xây dựng”, nhưng ông cũng khẳng định rằng phương pháp duy nhất giải  quyết vấn đề này là “theo lối kinh nghiệm”, về cơ bản là sẽ lần lượt  thiết kế lại và chế tạo lại bộ vi xử lí, còn hơn là thận trọng chế tạo  một thiết bị từ những nguyên lí cơ bản. Trong khi miễn cưỡng tiết lộ một  số chi tiết, Rose thông báo “không chút hoài nghi” rằng Orion đã thực  sự khai thác hiện tượng cơ lượng tử trong tính toán. Nhưng ông cũng thừa  nhận ông không biết liệu phiên bản lớn hơn của Orion sẽ có thể khai  thác sức mạnh của thế giới lượng tử hay không. Ông nói: “Sự thật thô  thiển là thực sự không ai biết một cỗ máy kích thước lớn sẽ hoạt động  như thế nào”.

Bất chấp những sự mập mờ xung quanh kĩ thuật chế tạo, số  tiền đầu tư cho dự án của D-Wave vẫn tăng lên 38 triệu đô la - khoảng  một nửa là do các nhà đầu tư mạo hiểm tài trợ, phần nửa còn lại lấy từ  chính phủ Canada - và người ta hi vọng nó sẽ còn thu thêm nhiều nguồn  tài trợ từ các công ty kĩ nghệ có uy tín. Mặc dù Wilhelm vẫn còn hoài  nghi về tiềm năng của cách tiếp cận đoạn nhiệt và trong khi chờ D-Wave  công bố những chi tiết kĩ thuật của Orion, nhưng ông đồng ý với Rose ở  quan điểm sau: chỉ có một cách duy nhất để tìm ra tiềm lực của công nghệ  này là xây dựng và kiểm tra phiên bản lớn hơn của thiết bị. “Cho đến  khi điều này được thực hiện thì việc đánh giá sức mạnh của con chip này  vẫn còn lấp lửng”, Wilhelm nói.



_ST_




Top