Mâu thuẫn trong Quan Hệ Quốc Tế sau Chiến Tranh Lạnh
Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã không phát triển một cách hoà bình, ổn định như người ta mong đợi. Sự đối đầu Đông - Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế… đã từng chi phối đời sống quốc tế trong suốt thời kì chiến tranh lạnh, nay được chuyển hoá dưới những hình thức khác, bên cạnh sự nổi lên của những mâu thuẫn mới. Sự vận động của các mâu thuẫn này sẽ quyết định diện mạo của trật tự thế giới và xu hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các nước lớn xung quanh việc thiết lập một trật tự thế giới mới. Khác với các trật tự thế giới trước đây thường được thiết lập ngay sau khi chiến tranh kết thúc, trật tự thế giới mới đã không thể ra đời ngay sau khi Liên Xô tan rã. Mặc dù Tổng thống Mĩ Busơ (cha) năm 1991 đã tuyên bố về một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối, nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra theo ý muốn của Mĩ. Liên Xô tan rã nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại với tiềm lực quân sự kế thừa Liên Xô cũ và không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận một trật tự thế giới do Mĩ áp đặt. Các trung tâm kinh tế, các cường quốc khu vực như Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… không ngừng lớn mạnh và cố gắng tạo cho mình một vị thế đáng kể để chia sẻ quyền lực chi phối đời sống chính trị quốc tế. Trong lúc các cường quốc đang nổi lên thì Mĩ vẫn là một siêu cường, một cường quốc vượt trội và là cường quốc duy nhất có ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Nước Mĩ vừa trải qua một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001), với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp thấp, mức lạm phát thấp. Với số dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng nước Mĩ chiếm trên 30% GDP toàn cầu, với khoảng 10.000 tỉ đôla hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng lại. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sức mạnh tổng hợp của Mĩ (gồm 7 lĩnh vực: kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc tế) lớn hơn hai lần Nhật Bản và hơn bốn lần Trung Quốc(1). Với sự giải thể Liên bang Xô viết, Mĩ không còn đối thủ cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được mục tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình, Mĩ thực hiện chính sách đối ngoại đơn phương, chà đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích của Mĩ. Mĩ cho triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân… Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Mĩ chi phối được bắt đầu ngay sau chiến tranh lạnh và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn, công khai hơn trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Busơ (con).
Trong bối cảnh đó, sự kiện nước Mĩ bị tấn công khủng bố ngày 11 - 9 - 2001
là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn cực của Mĩ. Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến tranh lạnh, Mĩ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới mới do Mĩ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở ápganixtan (10 - 2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mĩ, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Mĩ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình. Chủ nghĩa đơn phương, ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mĩ đã vấp phải sự chống đối không những của các nước lớn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc… mà còn của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mĩ ở Irắc lan rộng khắp thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng thế giới đơn cực do Mĩ chi phối với yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của các nước lớn và cộng đồng quốc tế là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì sau Chiến tranh lạnh.
Thứ hai là mâu thuẫn về lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc là tiêu chí hàng đầu của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kì chiến tranh lạnh, khi thế giới bị chia làm hai phe do hai siêu cường khống chế, lợi ích dân tộc nhiều khi bị đặt xuống dưới, thậm chí bị hi sinh để bảo vệ “lợi ích quốc tế” của mỗi phe. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu. Mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để thể hiện quan điểm, thái độ riêng đối với các vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy, điều đó được thể hiện trong thái độ của các nước đối với các vấn đề quốc tế lớn hiện nay như: vấn đề chống khủng bố quốc tế, cuộc chiến tranh ápganixtan, chiến tranh Irắc, vai trò của Liên Hợp Quốc, vấn đề môi trường, vấn đề hạt nhân, nhân quyền… và hàng loạt những vấn đề khác. Sự tập hợp lực lượng trở nên cơ động, linh hoạt, tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở đảm bảo tốt nhất cho lợi ích dân tộc.
Thứ ba là mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo. Đây là mâu thuẫn đã từng tồn tại từ lâu đời trong lịch sử nhân loại. Xung đột sắc tộc, tôn giáo vốn được biết đến như những hậu quả của chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân, đồng thời còn bắt nguồn từ sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, việc tranh giành ảnh hưởng quyền lực giữa các nhóm sắc tộc, sự xúi giục, kích động của một số thế lực bên ngoài… Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trong xu thế dân chủ, đa nguyên, đa đảng, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bùng nổ, lan rộng và diễn ra ngày càng quyết liệt ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Trong đó, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có điều kiện tăng cường hoạt động và trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện nay. Xu hướng chính của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là chống Mỹ và các nước phương Tây thân Mĩ, nhưng lấy thủ đoạn khủng bố làm vũ khí. Chính sách đối ngoại hiếu chiến của chính quyền Mĩ đã khiến cho Mĩ trở thành đối tượng của chủ nghĩa khủng bố ở khắp mọi nơi trên thế giới. Khủng bố quốc tế có tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế, gây bất ổn định trong nội bộ quốc gia, đồng thời tác động đến hoà bình, an ninh khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung. Tình hình sẽ trở nên đặc biệt phức tạp khi khủng bố và chống khủng bố trở thành công cụ của nhà nước này chống lại nhà nước khác, làm căng thẳng quan hệ quốc tế.
Thứ tư là mâu thuẫn về hệ tư tưởng. Đã hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên… Biên giới của thời kỳ chiến tranh lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan. Để chống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn biến hoà bình mà còn dùng biện pháp bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế, đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền… Tuy nhiên, sự tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các nước có hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối kháng về ý thức hệ song sự đối kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế như trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” và “chống diễn biến hoà bình”. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương diện và là một quá trình đấu tranh lâu dài.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển (mâu thuẫn Bắc - Nam) tiếp tục diễn ra gay gắt, khoảng cách giữa các nước giầu với các nước nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tổng thu nhập kinh tế thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, vào khoảng 25.000 tỉ đôla Mĩ, trong đó các nước phát triển Mĩ, EU và Nhật chiếm tới 88%. Phần còn lại là của trên 100 nước đang phát triển. Sự cách biệt giàu nghèo ngày càng lớn đã, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, an ninh và sự thịnh vượng chung của thế giới. Tình trạng nghèo khổ, bất bình đẳng, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bùng lên đã khiến cho quy mô của chủ nghĩa khủng bố lan tràn trên khắp các lục địa, với những hình thức hết sức đa dạng. Mâu thuẫn về khoảng cách giàu nghèo còn diễn ra trong nội bộ từng nước, đặc biệt là trong các nước tư bản phát triển. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội… ở các nước tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Nhìn chung có thể thấy, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn còn tồn tại, song sự vận động của chúng có những biểu hiện mới, không giống như thời kỳ chiến tranh lạnh. Điều đó có tác động quyết định đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
Phân tích những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì hậu chiến tranh lạnh.
1. Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng nước, từng khu vực và cả trật tự thế giới vừa được thiết lập.
Thứ nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng các nước châu Âu, Nhật Bản và Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về người và của. Chỉ có Mỹ giầu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ đô la lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến tranh) và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế trong khoảng 3 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ USD) và nắm trong tay một lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: độc quyền về bon nguyên tử.
Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính trị…Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây cũng là cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối cảnh quốc tế và tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai phía quan hệ: Mỹ với các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị giảm sút tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những năm 70 khi các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây Âu và Nhật Bản.
Thứ hai, hai cường quốc Xô – Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu. Từ quan hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe – phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ Xô –Mỹ, quan hệ giữa hai phe, mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hòa bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó.
Thứ ba, một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ Latin sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 - 60 đã thu hút sự chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiền bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới. Tình hình trên đây đã dẫn tới một vấn đề: trong chiến lược của mình, Mĩ và các nước đồng minh không thể không tính đến một thực tế đó của chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi ở khắp các lục địa của Á, Phi, Mỹ La Tinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân bị tan vỡ từng mảng lớn và đến giữa những năm 60 đã sụp đổ về cơ bản. Hơn 100 quốc gia dân tộc trẻ tuổi ra đời, ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị thế giới. Bộ mặt hành tinh thay đổi to lớn. Trong chiến lược của hai cường quốc Xô – Mĩ và hai hệ thống không thể không tính đến lực lượng này.
Thứ năm, cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật bùng nổ vào những năm 40 của thế kỷ XX và diễn ra mạnh mẽ sau đó. Cuộc cách mạng này đã đưa lại những tiến bộ nhảy vọt, những thành tự kì diệu, những tác động tích cực và những hậu quả của nó rất to lớn. Những nước nào đi sâu vào cách mạng khoa học - kỹ thuật, tận dụng những thành tựu của nói thì vươn lên mạnh mẽ, tiếng nói của họ trong quan hệ quốc tế ngày càng có trọng lượng hơn. Những nước bỏ lỡ cơ hội tận dụng thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật, thì tụt hậu, hình bóng của các nước ấy trong quan hệ quốc tế cũng trở nên mờ nhạt.
Chiến tranh lạnh gần như là một hệ quả tất yếu của tình hình đối đầu, căng thẳng giữa hai phe thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
2. Nguyên nhân – nguồn gốc của Chiến tranh lạnh:
Cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mĩ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không phải chỉ bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mà nó nảy sinh ngay từ sau Cách mạng tháng Mười Nga (1917) với sự ra đời của nước Nga Xô viết. Lúc bấy giờ, các nước tư bản phương Tây đã tập trung lực lượng và tìm mọi cách để “bóp chết” nước Nga Xô viết: 14 nước tư bản đã đưa quân can thiệp chống nước Nga (1918 – 1920), các nước tư bản đã bao vay kinh tế, cô lập chính trị nước Nga trong những năm 20 – 30 của thế kỷ XX, đặc biệt trong cuộc xâm lược Liên Xô của các nước Đức phát xít trong những năm 1941 – 1945. Mặc dù vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên vẫn đứng vững, tồn tại và ngày càng hùng mạnh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và các nước Mĩ, Anh, Pháp đều là nạn nhân của cuộc xâm lược phát xít và họ đã liên minh với nhau để chống phát xít, nhưng mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước tư bản này vẫn luôn luôn tồn tại. Khi chiến tranh kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt, thì mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước Mĩ, Anh, Pháp lại nổi lên. Các nước này từ quan hệ đồng minh chuyển sang quan hệ đối đầu. Đó là một trong những nguồn gốc sâu xa của cuộc Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, từ Hội nghị Ianta (2/1945), Liên Xô, Mĩ, Anh đã thỏa thuận với nhau phân chia phạm vi ảnh hưởng đối với các khu vực trên phạm vi thế giới. Cũng vì thế, Chiến tranh lạnh là kết quả tất yếu của các cuộc chiến tranh giành và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên Xô và Mĩ, mà thường được gọi là hai cực trong trật tự thế giới hai cực được xác định từ Hội nghị Ianta.
Tuy nhiên, ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới chuyển biến mau lẹ ngày càng có lợi cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bất lợi cho Mĩ và các đồng minh của Mĩ. Đầu năm 1947, ở các nước Đông Âu, khu vực ảnh hưởng của Liên Xô, chính quyền lần lượt chuyển vào tay nhân dân lao động, ở Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp phong trào đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo phát triển mạnh mẽ. Ở Pháp, Bỉ và Italia đại diện của Đảng Cộng sản đã tham gia Chính phủ, ở các nước này đã diễn ra một loạt những cải cách kinh tế - xã hội có lợi cho người lao động. Ở châu Á, cách mạng Trung Quốc phát triển mạnh, so sánh lực lượng ngày càng có lợi cho Đảng Cộng sản. Trong bối cảnh như thế, Mĩ không thể không có những phản ứng lại. Tháng 3 – 1947, Tổng thống Mĩ Truman đã đọc diễn văn tại Quốc hội Mĩ, chính thức đưa ra học thuyết của mình. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn tính” và những đe dọa tương tự đang diễn ra nhiều nước khác ở châu Âu, ở Italia, Pháp và cả Đức nữa. Vì vậy, Mĩ phải đứng ra “đảm nhận sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do” phải giúp đỡ các dân tộc thế giới chống lại “sự đe dọa” của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự “bành trướng” của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mĩ đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, học thuyết Truman đã mở đầu cho cuộc chiến tranh lạnh và cuộc chiến tranh này đã diễn ra theo tư tưởng và mục tiêu của Mĩ mà học thuyết Truman đã vạch ra.
“Chiến tranh lạnh” là khái niệm do Baruch, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mĩ ở Liên hợp quốc đưa ra, xuất hiện trên báo chí từ ngày 26 – 07 – 1947. Theo Mĩ, “chiến tranh lạnh” là“chiến tranh không nổ súng, không đổ máu” nhưng “luôn luôn ở tình trạng chiến tranh” nhằm “ngăn chặn” rồi “tiêu diệt” Liên Xô.
Nhiều nhà nghiên cứu cũng đưa ra định nghĩa của mình về “chiến tranh lạnh”. Tựu trung lại, đó là sự đe dọa sử dụng bạo lực quân sự, bao vây kinh tế, phá hoại chính trị, chạy đua vũ trang và chuẩn bị chiến tranh, làm cho tình hình thế giới luôn luôn căng thẳng.
Mục tiêu của chiến tranh lạnh do Mĩ phát động là Mĩ tiến tới lãnh đạo thế giới tự do chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực khác.
Chiến tranh Lạnh hay Lãnh chiến (1945–1991) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia vệ tinh của nó, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ. Dù các lực lượng tham gia chủ yếu không bao giờ chính thức xung đột, họ đã thể hiện sự xung đột thông qua các liên minh quân sự, những cuộc triển khai lực lượng quy ước chiến lược, một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, tình báo, chiến tranh ủy nhiệm, tuyên truyền, và cạnh tranh kỹ thuật, như cuộc chạy đua không gian.
Bản chất của chiến tranh lạnh là sự đối đầu giữa hai cường quốc Xô_Mỹ,đồng thời đại diện cho hai khối Đông _ Tây.Cuộc nội chiến này diễn ra gần nửa thế kỷ(1945_1991) và sự kết thúc của nó cũng là việc gạt bỏ những sự tranh chấp sống còn giữa hai cực thế giới sau đại chiến thứ 2.
Mâu thuẫn Đông - Tây và khởi đầu của cuộc chiến tranh lạnh:
Mâu thuẫn Đông - Tây:
- Sự đối lập nhau về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc:
+ Liên Xô: duy trì hòa bình và an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới.
+ Mĩ: chống phá Liên Xô và các nước XHCN, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.
- Mĩ lo ngại ảnh hưởng to lớn của Liên Xô cùng những thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân.
- Sau chiến tranh, Mĩ vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Mĩ cho mình quyền lãnh đạo thế giới.
Khởi đầu chiến tranh lạnh:
- Ngày 12 - 3 - 1947, Học thuyết Tru-man ra đời đã đề nghị viện trợ khẩn cấp 400 triệu USD cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì nhằm lôi kéo lực lượng và ngăn chặn sự ảnh hưởng của CNXH.
- Tháng 6 - 1947, Mĩ đưa ra Kế hoạch Mác-san với khoản viện trợ 17 tỉ USD để giúp Tây Âu phục hồi nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh.
- Ngày 4 - 4 - 1949, Mĩ thành lập khối quân sự - Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ( NATO ) gồm 11 nước, sau này thên Hi Lạp, Thổ Nhĩ Kì, CHLB Đức.
- Tháng 5 - 1955, Liên Xô và các nước Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va, một liên minh mang tính phòng thủ.
Sự ra đời của NATO và Tổ chức hiệp ước Vác-sa-va là những sự kiện cuối cùng đánh dấu sự xác lập của cục diện hai phe. Chiến tranh lạnh đã bao trùm thế giới.
3. Xu thế hòa hoãn Đông - Tây và chiến tranh lạnh chấm dứt:
- Trên cơ sở những thỏa thuận Xô - Mĩ, ngày 9 - 11 - 1972 hai nước Đức - Cộng hòa Dân chủ và Cộng hòa Liên bang đã kí kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Theo đó, hai bên phải tôn trọng không điều kiện chủ quyền sự toàn toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như của các nước châu Âu trên đường biên giới hiện tại. Hai bên thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình thường trên cơ sở bình đẳng, giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và sẽ tự kiềm chế việc đe dọa bằng vũ lực hay sử dụng vũ lực.
- Cũng trong năm 1972, hai bên siêu cường Liên Xô, Mĩ đã thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí chiến lược và ngày 26 - 5 kí Hiệp ước về việc hạn chế thống phòng chống tên lửa ( ABM ), sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược ( gọi tắt là SALT - 1 ). Hiệp ước ABM quy định:
+ Liên Xô và Mĩ mỗi nước chỉ được xây dựng hai hệ thống ABM với mỗi hệ thống có 100 tên lửa chống tên lửa.
+ Sau đó, trong năm 1974 hai nước lại thỏa thuận mỗi nước chỉ có một hệ thống ABM.
Với hai hiệp ước này, từ giữa những năm 70 đã hình thành thế cân bằng chiến lược giữa Liên Xô và Mĩ về lực lượng quân sự nói chung và về vũ khí hạt nhân chiến lược nói riêng.
- Đầu tháng 8 - 1975, 35 nước châu Âu và Mĩ, Ca-na-da đã kí kết Định ước Hen-xin-ki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết hòa bình các tranh chấp,... nhằm bảo đảm an ninh châu Âu và sự hợp tác giữa các nước về kinh tế, khoa học và kĩ thuật, bảo vệ môi trường. Định ước Hen-xin-ki năm 1975 đánh dấu sự chấm dứt tình trạng đối đầu giữa hai khối nước tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, đồng thời tạo nên một cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan đến hòa bình an ninh ở châu lục này.
- Cùng với các sự kiện trên, từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô - Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp gỡ cấp cao, nhất là từ năm 1985 khi Goóc-ba-chốp lên cầm quyền ở Liên Xô. Hầu như hàng năm đều diễn ra các cuộc gặp gỡ giữa hai nguyên thủ hai nước - Goóc-ba-chốp và Ri-gân, sau là Goóc-ba-chốp và Bu-sơ ( cha ). Nhiều văn kiện hợp tác về kinh tế và khoa học - kĩ thuật đã được kí kết giữa hai nước, nhưng trọng tâm là những thỏa thuận về thủ tiêu các tên lửa tầm trung ở châu Âu, cắt giảm vũ khí chiến lược cũng như hạn chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước.
- Tháng 12 - 1989, trong cuộc gặp gỡ không chính thức tại đảo Man-ta ( Địa Trung Hải ), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Goóc-ba-chốp và Tổng thống Mĩ Bu-sơ đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh.
Nguyên nhân làm cho hai siêu cường Xô - Mĩ chấm dứt chiến tranh lạnh:
- Cuộc chạy đua vũ trang kéo dài hơn bốn thập kỉ đã làm cho cả hai nước quá tốn kém và suy giảm thế mạnh của họ trên nhiều mặt so với các cường quốc khác.
- Sự vươn lên mạnh mẽ của Đức, Nhật Bản và Tây Âu,... đã đặt ra nhiều khó khăn và thách thức to lớn. Các nước này đã trở thành những đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với Mĩ. Còn Liên Xô lúc này nền kinh tế ngày càng lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Do vậy, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ đều cần phải thoát khỏi đối đầu để ổn định và củng cố vị thế của mình.
- Chiến tranh lạnh chấm dứt đã mở ra chiều hướng và những điều kiện giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới:
+ Ở áp-ga-ni-xtan, Liên Xô và Mĩ đã thỏa thuận giải quyết cuộc xung đột với việc quân đội Liên Xô rút ra khỏi áp-ga-ni-xtan.
+ Tháng 10 - 1991, Hiệp định về một giải pháp chính trị toàn bộ cho cuộc xung đột Cam-pu-chia đã được kí kết tại Pa-ri. Nhờ đó, cuộc xung đột kéo dài hơn một thập kỉ với những tội ác diệt chủng của chế độ Khơ-me đỏ đã chấm dứt. Những triển vọng tốt đẹp đã mở ra để xây dựng một nước Cam-pu-chia mới. Mối quan hệ giữa các nước trong khu vực được cải thiện nhằm xây dựng một Đông Nam á hòa bình và ổn định.
+ Ở Tây Nam Phi, quân đội Nam Phi và quân tình nguyện Cu Ba đều rút khỏi Na-mi-bi-a. Ngày 21 - 3 - 1990, Cộng hòa Na-mi-bi-a tuyên bố độc lập.
Tóm lại, thế giới vẫn chưa có một nền hòa bình, anh ninh thật sự, nhất là ở nhiều nước đang phát triển vốn đã nghèo nàn, lạc hậu chồng chất khó khăn.
4. Những biến đổi chính của tình hình thế giới sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt:
Sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa đưa tới sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực:
Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, tới những năm 1989 - 1991 chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô viết. Ngày 28 - 6 - 1991, Hội đồng Tương trợ Kinh tế ( SEV ) tuyên bố giả thể và sau đó ngày 1 - 7 - 1991 Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va chấm dứt hoạt động.
Với cực Liên Xô tan rã, hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại và Trật tự thế giới hai cực I-an-ta đã sụp đổ. Thế hai cực của hai siêu cường không còn nữa, Mĩ là cực duy nhất còn lại. Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu á đã bị mất, ảnh hưởng của Mĩ cũng bị thu hẹp dần ở nhiều nơi.
- Tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh ( 1991 - 2000 ):
+ Từ sau năm 1991 đầy biến động, tình hình thế giới đã diễn ra những thay đổi to lớn và phức tạp. Trật tự thế giới hai cực đã sụp đổ nhưng trật tự thế giới mới lại đang trong quá trình hình thành. Dư luận thế giới cho rằng phải nhiều năm nữa mới có thể hình thành trật tự thế giới mới theo xu hướng đa cực, nhiều trung tâm với sự vươn lên, đua tranh mạnh mẽ của các cường quốc như Mĩ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc.
+ Sự tan rã của Liên Xô đã tạo cơ hội cho Mĩ một lợi thế tạm thời. Giới cầm quyền Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới mới một cực để Mĩ làm bá chủ thế giới. Mặc dù ngày nay Mĩ có một lực lượng kinh tế - tài chính, khoa học - kĩ thuật và quân sự vượt trội so với tất cả các quốc gia nhưng giữa tham vọng to lớn làm bá chủ thế giới và khả năng hiện thực của Mĩ là một khoảng cách không nhỏ. Nhiều sự kiện diễn ra trên thế giới gần đây đã chứng tỏ điều đó.
+ Sau chiến tranh lạnh, hòa bình thế giới được củng cố, nhưng ở nhiều khu vực tình hình lại không ổn định với những cuộc nội chiến, xung đột quân sự đẫm máu kéo dài ở nhiều nơi như bán đảo Ban-căng, một số nước châu Phi và Trung á. Nguyên nhân chính là do những mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo và tranh chấp lãnh thổ đã bùng lên dữ dội, khi mâu thuẫn Đông - Tây không còn nữa.
Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Tuy nhiên, tình hình quốc tế đã không phát triển một cách hoà bình, ổn định như người ta mong đợi. Sự đối đầu Đông - Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế… đã từng chi phối đời sống quốc tế trong suốt thời kì chiến tranh lạnh, nay được chuyển hoá dưới những hình thức khác, bên cạnh sự nổi lên của những mâu thuẫn mới. Sự vận động của các mâu thuẫn này sẽ quyết định diện mạo của trật tự thế giới và xu hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
Quan hệ Đông - Tây bắt đầu hoà dịu
Ngay từ giữa những năm 50, những người đứng đầu nhà nước Liên Xô đã bắt đầu có xu hướng triển khai chiến lược cùng tồn tại hoà bình với các nước phương Tây, tạo điều kiện có lợi cho công cuộc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, một lĩnh vực mà Liên Xô đặc biệt quan tâm. Về phía Mĩ, Tổng thống Aixenhao cũng lên tiếng “hoan nghênh bất cứ hành động nào tranh thủ cho hoà bình”. Tuy nhiên, trên thực tế, xuất phát từ những lợi ích khác nhau, quyết sách của các nước lớn vẫn làm cho tình hình thế giới tiếp tục căng thẳng. Những cuộc xung đột quân sự mà hai cực Xô - Mĩ làm hậu thuẫn cho mỗi bên tham chiến tiếp tục lan rộng ở nhiều nơi trên thế giới, điển hình là cuộc chiến tranh Đông Dương, nội chiến ápganixtan, Ănggôla, chiến tranh Trung Đông… Mặc dù vậy, bên cạnh chiến tranh lạnh, đã diễn ra những cuộc thương lượng, nhân nhượng giữa hai cực Xô - Mĩ trong việc giải quyết một số vấn đề trong quan hệ quốc tế, điển hình là vấn đề Đức và vấn đề đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược.
Vấn đề Đức vẫn là một vấn đề trung tâm trong quan hệ quốc tế thời kì này. Từ năm 1970 hai nước Liên Xô và Mĩ đã bắt đầu thương lượng để giải quyết vấn đề Đức. Ngày 9 - 11 - 1972, trên cơ sở những nguyên tắc đã được thoả thuận giữa Mĩ và Liên Xô trong Hiệp định Bon (9 - 1971), hai nước Cộng hoà dân chủ Đức và Cộng hoà Liên bang Đức đã kí kết Hiệp định về cơ sở quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức. Theo hiệp định này, hai bên “phải tôn trọng không điều kiện chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau” và “thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình thường với nhau trên cơ sở bình đẳng”. Tháng 9 - 1973, cả hai nước Đức đều gia nhập Liên Hợp Quốc. Việc giải quyết vấn đề Đức là một biểu hiện cho xu thế hoà dịu trong quan hệ Đông - Tây.
Vấn đề hạn chế vũ khí chiến lược là vấn đề được cả thế giới quan tâm và một trong những vấn đề trung tâm trong quan hệ Xô - Mĩ. Cuộc chạy đua vũ trang trong chiến tranh lạnh đã khiến cho cả hai nước Liên Xô và Mĩ gặp phải không ít khó khăn để duy trì thế cân bằng chiến lược. Những khoản chi phí quân sự khổng lồ đã khiến hai nước mất dần ưu thế cạnh tranh về kinh tế với các nước khác. Những nhân tố đó đã thúc đẩy xu hướng giảm bớt chạy đua vũ trang và hoà dịu trong quan hệ Xô - Mĩ. Quá trình đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược giữa Liên Xô và Mĩ được tiến hành liên tục trong hơn 20 năm và trải qua bốn giai đoạn:
Giai đoạn I (11 - 1969 đến 5 - 1972)
Giai đoạn II (11 - 1972 đến 6 - 1979)
Giai đoạn III (6 - 1982 đến 12 - 1983)
Giai đoạn IV6 - 1982 đến 12 - 1983)
Quá trình đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược phản ánh so sánh lực lượng và cuộc đấu tranh giữa hai cực Xô - Mĩ trong quan hệ quốc tế. Tuy còn nhiều bất đồng nhưng cả hai nước đã từng bước một nhượng bộ lẫn nhau, không làm cho tình hình căng thẳng hơn và đi đến sự kết thúc tình trạng đối đầu kéo dài, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Cùng với những thay đổi trong quan hệ Xô - Mĩ, từ cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đã diễn ra những chuyển biến trong quan hệ giữa Tây Âu với Liên Xô và Đông Âu. Hai nước lớn ở Tây Âu là Pháp và Cộng hoà Liên bang Đức đã bắt đầu thực hiện chính sách đối thoại, hoà hoãn với Liên Xô và các nước Đông Âu. Ngày 1 - 8 - 1975, 33 nước châu Âu cùng Mĩ và Canađa đã kí kết Định ước an ninh và hợp tác châu Âu tại Henxinki (Phần Lan). Định ước xác nhận quyền bình đẳng của các quốc gia, không dùng vũ lực, không xâm lấn lãnh thổ, giải quyết hoà bình các cuộc xung đột, không can thiệp vào nội bộ của nhau, tôn trọng nhân quyền, hợp tác trên cơ sở nhu cầu chính đáng của các dân tộc. Năm 1977, tại Bêôgrát (Nam Tư), các nước tiếp tục thương lượng về vấn đề an ninh, hợp tác, đồng thời đưa ra những hình thức phù hợp để thực hiện Định ước Henxinki. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Tây Âu với Liên Xô và Đông Âu tăng lên nhanh chóng trong thập niên 80.
Xô - Mĩ chấm dứt chiến tranh lạnh
Từ nửa sau thập niên 80, sau khi M. Goócbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô, quan hệ Xô - Mĩ đã thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nước và quan hệ quốc tế. Quá trình đàm phán cắt giảm vũ khí chiến lược tấn công trải qua chặng đường dài đầy khó khăn, cuối cùng cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo cơ sở quan trọng cho việc kết thúc cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới. Ngày 2 - 12 - 1989, tại Manta, Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Goócbachốp và Tổng thống Mĩ G. Busơ đã có cuộc gặp gỡ không chính thức. Trong cuộc gặp này, hai bên đã chính thức tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai nước, đồng thời cũng chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang quyết liệt làm cho tình hình thế giới luôn luôn căng thẳng trong suốt hơn 40 năm qua. Cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mĩ đã khiến cả hai siêu cường quốc phải huy động một khoản ngân sách rất lớn để tạo ra một kho vũ khí khổng lồ có thể huỷ diệt một khối lượng vật chất gấp nhiều lần trái đất và toàn thể nhân loại. Theo thống kê, trong vòng 20 năm, từ thập niên 60 đến thập niên 80, Liên Xô phải chi cho quốc phòng khoảng 11 đến 13% thu nhập quốc dân, còn Mĩ là 7 đến 8% thu nhập quốc dân hàng năm. Việc huy động ngân sách quốc phòng quá lớn đã ảnh hưởng xấu đến các chương trình kinh tế, đến việc nâng cao đời sống nhân dân và giảm sút thế mạnh của hai nước. Trong khi hai siêu cường ra sức chạy đua vũ trang thì các nước Tây Âu, Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ về kinh tế, trở thành những đối thủ cạnh tranh lợi hại của Liên Xô và Mĩ. Chính vì vậy cả hai nước Xô - Mĩ đều cần phải thoát ra khỏi thế đối đầu để củng cố vị thế của mình.
Sự sụp đổ của trật tự hai cực Yalta
Quá trình sụp đổ của Trật tự hai cực Ianta bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, cuộc chạy đua vũ trang đã được đẩy lên đến mức độ cao nhất mà cả hai siêu cường đều nhận thấy rằng không thể xoá bỏ được nhau, nên buộc phải tự dàn xếp để đi đến hạn chế cuộc chạy đua tốn kém và căng thẳng chưa từng thấy trong lịch sử này. Tình trạng đối đầu đã từng bước được thay thế bằng đối thoại, đàm phán để hạn chế và cắt giảm vũ khí chiến lược tấn công. Thứ hai, sự đối lập Đông - Tây cũng mờ nhạt dần cùng với các cuộc đàm phán Đông - Tây ở châu Âu. Chính sách hoà dịu có chọn lọc và hợp tác của Liên Xô, Đông Âu với Tây Âu đã tạo ra xu thế hoà hoãn ở châu Âu. Cuối thập niên 80, khi Goócbachốp đưa ra ý tưởng về “Ngôi nhà chung châu Âu” thì sự đối đầu Đông - Tây ở châu Âu về cơ bản đã chấm dứt. Thứ ba, sự vươn lên của các nước trong thế giới thứ ba nhằm thoát khỏi ảnh hưởng của hai cực đã làm suy giảm sức mạnh của trật tự Ianta. Đặc biệt là sự vươn lên của Trung Quốc, sự hình thành tam giác chiến lược Mĩ - Xô - Trung cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình giải thể trật tự hai cực. Thứ tư, một nhân tố quan trọng cần phải kể đến là sự thay đổi trong cán cân kinh tế thế giới. Sự nổi lên của Nhật Bản, các nước Tây Âu đã tạo ra những trung tâm kinh tế đối trọng với Mĩ trong thế giới tư bản. Năm 1975, trong nội bộ chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện cơ chế điều hoà với sự ra đời của tổ chức G7 (gồm 7 nước công nghiệp phát triển). Điều đó chứng tỏ Mĩ không còn là nước duy nhất quyết định thế giới phương Tây. Về phía Liên Xô, những sai lầm trong chiến lược phát triển kinh tế, nhất là chiến lược đầu tư quá lớn vào công nghiệp nặng, chi phí quân sự cao… đã làm méo mó cơ cấu kinh tế và suy giảm sức mạnh của Liên Xô. Trước những biến đổi về kinh tế và quan hệ quốc tế trong thập niên 80, Liên Xô không có khả năng xoay chuyển được tình thế, vai trò siêu cường bị suy yếu, dẫn tới sự giải thể của trật tự hai cực Ianta.
Thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh có 5 đặc điểm nổi bật sau đây:
- Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, so sánh lực lượng trên thế giới thay đổi bất lợi cho phong trào cách mạng và hòa bình, nhưng tính chất thời đại vẫn không thay đổi, loài người vẫn ở thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển sâu sắc với những hình thức biểu hiện mới.
- Thứ hai, nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, hòa bình thế giới được giữ vững, nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, các hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố quốc tế vẫn xảy ra nhiều nơi.
- Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ với nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lương, vật liệu mới phát triển với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội. Các quốc gia đang đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng cũng chịu những thách thức lớn. Cuộc cạnh tranh kinh tế - thương mại và khoa học công nghệ đang diễn ra gay gắt.
- Thứ tư, cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách như khủng bố quốc tế, bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, tình trạng đói nghèo, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo… mà không một quốc gia riêng rẽ nào có thể giải quyết được. Điều đó đòi hỏi sự hợp tác đa phương, sự phối hợp giữa các quốc gia.
- Thứ năm, khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang trở thành khu vực phát triển năng động và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Xu thế tự do hóa thương mại, liên kết hợp tác kinh tế diễn ra phong phú và có hiệu quả. Các nước lớn, các trung tâm kinh tế trên thế giới đều điều chỉnh chiến lược, chuyển hướng mạnh vào châu Á – Thái Bình Dương, vừa tạo thời cơ cho các nước phát triển, nhưng cũng chứa đựng những nhân tố tiềm ẩn gây mất ổn định ở khu vực.
5.Mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các nước lớn xung quanh việc thiết lập một trật tự thế giới mới. Khác với các trật tự thế giới trước đây thường được thiết lập ngay sau khi chiến tranh kết thúc, trật tự thế giới mới đã không thể ra đời ngay sau khi Liên Xô tan rã. Mặc dù Tổng thống Mĩ Busơ (cha) năm 1991 đã tuyên bố về một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối, nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra theo ý muốn của Mĩ. Liên Xô tan rã nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại với tiềm lực quân sự kế thừa Liên Xô cũ và không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận một trật tự thế giới do Mĩ áp đặt. Các trung tâm kinh tế, các cường quốc khu vực như Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… không ngừng lớn mạnh và cố gắng tạo cho mình một vị thế đáng kể để chia sẻ quyền lực chi phối đời sống chính trị quốc tế. Trong lúc các cường quốc đang nổi lên thì Mĩ vẫn là một siêu cường, một cường quốc vượt trội và là cường quốc duy nhất có ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Nước Mĩ vừa trải qua một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001), với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp thấp, mức lạm phát thấp. Với số dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng nước Mĩ chiếm trên 30% GDP toàn cầu, với khoảng 10.000 tỉ đôla hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng lại. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu , sức mạnh tổng hợp của Mĩ (gồm 7 lĩnh vực: kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc tế) lớn hơn hai lần Nhật Bản và hơn bốn lần Trung Quốc(1). Với sự giải thể Liên bang Xô viết, Mĩ không còn đối thủ cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được mục tiêu chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn lên thách thức vai trò siêu cường của mình, Mĩ thực hiện chính sách đối ngoại đơn phương, chà đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích của Mĩ. Mĩ cho triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân… Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Mĩ chi phối được bắt đầu ngay sau chiến tranh lạnh và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn, công khai hơn trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Busơ (con).
Trong bối cảnh đó, sự kiện nước Mĩ bị tấn công khủng bố ngày 11 - 9 - 2001
là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn cực của Mĩ. Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến tranh lạnh, Mĩ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới mới do Mĩ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở ápganixtan (10 - 2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mĩ, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Mĩ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình. Chủ nghĩa đơn phương, ý đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mĩ đã vấp phải sự chống đối không những của các nước lớn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc… mà còn của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mĩ ở Irắc lan rộng khắp thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng thế giới đơn cực do Mĩ chi phối với yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của các nước lớn và cộng đồng quốc tế là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì sau Chiến tranh lạnh.
Thứ hai là mâu thuẫn về lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc là tiêu chí hàng đầu của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kì chiến tranh lạnh, khi thế giới bị chia làm hai phe do hai siêu cường khống chế, lợi ích dân tộc nhiều khi bị đặt xuống dưới, thậm chí bị hi sinh để bảo vệ “lợi ích quốc tế” của mỗi phe. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu. Mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để thể hiện quan điểm, thái độ riêng đối với các vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy, điều đó được thể hiện trong thái độ của các nước đối với các vấn đề quốc tế lớn hiện nay như: vấn đề chống khủng bố quốc tế, cuộc chiến tranh ápganixtan, chiến tranh Irắc, vai trò của Liên Hợp Quốc, vấn đề môi trường, vấn đề hạt nhân, nhân quyền… và hàng loạt những vấn đề khác. Sự tập hợp lực lượng trở nên cơ động, linh hoạt, tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở đảm bảo tốt nhất cho lợi ích dân tộc.
Thứ ba là mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo. Đây là mâu thuẫn đã từng tồn tại từ lâu đời trong lịch sử nhân loại. Xung đột sắc tộc, tôn giáo vốn được biết đến như những hậu quả của chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân, đồng thời còn bắt nguồn từ sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, việc tranh giành ảnh hưởng quyền lực giữa các nhóm sắc tộc, sự xúi giục, kích động của một số thế lực bên ngoài… Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trong xu thế dân chủ, đa nguyên, đa đảng, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bùng nổ, lan rộng và diễn ra ngày càng quyết liệt ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Trong đó, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có điều kiện tăng cường hoạt động và trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện nay. Xu hướng chính của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là chống Mỹ và các nước phương Tây thân Mĩ, nhưng lấy thủ đoạn khủng bố làm vũ khí. Chính sách đối ngoại hiếu chiến của chính quyền Mĩ đã khiến cho Mĩ trở thành đối tượng của chủ nghĩa khủng bố ở khắp mọi nơi trên thế giới. Khủng bố quốc tế có tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế, gây bất ổn định trong nội bộ quốc gia, đồng thời tác động đến hoà bình, an ninh khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung. Tình hình sẽ trở nên đặc biệt phức tạp khi khủng bố và chống khủng bố trở thành công cụ của nhà nước này chống lại nhà nước khác, làm căng thẳng quan hệ quốc tế.
Thứ tư là mâu thuẫn về hệ tư tưởng. Đã hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ vẫn chưa từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên… Biên giới của thời kỳ chiến tranh lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan. Để chống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn biến hoà bình mà còn dùng biện pháp bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế, đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền… Tuy nhiên, sự tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các nước có hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với Mĩ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối kháng về ý thức hệ song sự đối kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế như trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà bình” và “chống diễn biến hoà bình”. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương diện và là một quá trình đấu tranh lâu dài.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển (mâu thuẫn Bắc - Nam) tiếp tục diễn ra gay gắt, khoảng cách giữa các nước giầu với các nước nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), tổng thu nhập kinh tế thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, vào khoảng 25.000 tỉ đôla Mĩ, trong đó các nước phát triển Mĩ, EU và Nhật chiếm tới 88%. Phần còn lại là của trên 100 nước đang phát triển. Sự cách biệt giàu nghèo ngày càng lớn đã, đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, an ninh và sự thịnh vượng chung của thế giới. Tình trạng nghèo khổ, bất bình đẳng, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo bùng lên đã khiến cho quy mô của chủ nghĩa khủng bố lan tràn trên khắp các lục địa, với những hình thức hết sức đa dạng. Mâu thuẫn về khoảng cách giàu nghèo còn diễn ra trong nội bộ từng nước, đặc biệt là trong các nước tư bản phát triển. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống, chống thất nghiệp, tệ nạn xã hội… ở các nước tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Nhìn chung có thể thấy, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn còn tồn tại, song sự vận động của chúng có những biểu hiện mới, không giống như thời kỳ chiến tranh lạnh. Điều đó có tác động quyết định đến chiều hướng phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.
6. Xu thế phát triển của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh
a. Xu hướng chung:
Thứ nới đang chuyển tiếp sang một trật tự thế giới mới. Thời kỳ quá độ sau chiến tranh lạnh hiện nay được các nhà nghiên cứu gọi là trạng thái “nhất siêu, nhiều cường”. Trong trạng thái này, Mĩ nổi lên là siêu cường mạnh nhất so với các cường quốc khác, với ưu thế vượt trội trên tất cả các lĩnh vực then chốt của sức mạnh. Do tương quan lực lượng giữa các nước lớn hiện nay đang có lợi cho Mĩ, cùng với những thắng lợi quân sự nhanh chóng tại ápganixtan và Irắc, nên Mĩ có chủ trương xây dựng một trật tự thế giới đơn cực do Mĩ chi phối. Tuy nhiên ảnh hưởng của Mĩ bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi sự vươn lên của các cường quốc khác như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc… Xu thế phát triển của trật tự thế giới trong tương lai là tiến tới một hệ thống đa cực, bởi lẽ nhìn trên bình diện toàn cầu, một quốc gia, dù là siêu cường duy nhất cũng không có khả năng kiểm soát thực tế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong kỷ nguyên toàn cầu hoá khiến cho Mĩ không thể và không đủ khả năng thiết lập một trật tự đơn cực mà phải dựa vào các cường quốc khác và các tổ chức quốc tế, trong đó quan trọng nhất là Liên Hợp Quốc. Việc tái thiết Irắc sau chiến tranh đã cho thấy thực tế đó. Bên cạnh đó, đặc điểm chủ yếu trong quan hệ giữa các nước trong trạng thái “nhất siêu nhiều cường” hiện nay vẫn tiếp tục là hợp tác, cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau. Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước đã tạo ra tình thế buộc các nước phải vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhưng tránh đối đầu, xung đột và chiến tranh.
Thứ hai, kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của các quốc gia và trở thành động lực chính của xu thế khu vực hoà và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, các quốc gia đều nhận thấy vấn đề cấp bách hàng đầu là phải ra sức tận dụng mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài để phát triển kinh tế. Cách đặt vấn đề về an ninh, quốc phòng và kinh tế về cơ bản đã khác so với thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia không còn tuỳ thuộc vào sức mạnh quân sự, chính trị mà sức mạnh kinh tế nổi lên hàng đầu và trở thành trọng điểm. Đồng thời, làn sóng tập hợp các quốc gia trong các tổ chức khu vực địa lý, từ tiểu khu vực đến đại khu vực thành những khu vực mậu dịch tự do đang diễn ra dồn dập ở hầu khắp các châu lục, thậm chí liên châu lục. Trào lưu nhất thể hoá khu vực phát triển mạnh trong thập niên 90, sẽ tiếp tục gia tăng cả về lượng và về chất trong những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với quá trình toàn cầu hoá sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực của đời sống quốc tế.
Thứ ba, quan hệ quốc tế phát triển theo xu hướng hoà dịu nhưng năng động và phức tạp hơn. Trước những đòi hỏi của tình hình thế giới, tất cả các quốc gia từ lớn đến nhỏ đều phải điều chỉnh chiến lược đối nội và đối ngoại nhằm tạo cho mình một vị thế có lợi nhất trong quan hệ quốc tế. Xu thế hoà bình, hợp tác trở thành xu thế chủ đạo trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia ngày nay được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Tất cả các quốc gia đều linh hoạt, mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh, giải quyết mọi vấn đề bằng thương lượng hoà bình.
Mặc khác ở nhiều khu vực trên thế giới, xung đột cục bộ và tình trạng bất ổn vẫn tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, những xung đột này khó có khả năng lan rộng, lôi cuốn sự đối đầu trực tiếp của các nước lớn, chủ yếu là do các nước lớn hiện nay đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hoà bình để phát triển kinh tế. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa khủng bố quốc tế trở thành mối đe doạ tiềm tàng đối với an ninh chung của thế giới. Những biến đổi của tình hình quốc tế như đã nêu ở trên làm cho xu thế đa dạng hoá trong quan hệ quốc tế trở thành xu thế phổ biến của các quốc gia. Do đời sống kinh tế quốc gia đã và đang được quốc tế hoá cao độ, do nhu cầu phát triển kinh tế, các quốc gia đều phải năng động, linh hoạt thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả nhất. Những xu thế trên tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên những động lực cộng hưởng làm thay đổi sâu sắc nền kinh tế và diện mạo của quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh. Tình hình đó đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới phải có cách nhận thức đúng và kịp thời để hoạch định một chính sách đối ngoại phù hợp với trào lưu chung của thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
b. Xu hướng quan hệ giữa các nước lớn:
Trong những năm tới, mục tiêu của Mỹ vẫn không thay đổi, là xác lập một trật tự thế giới một cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Mục tiêu của các nước lớn Tây Âu (trước hết là Pháp và Đức) là từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào Mỹ về mặt an ninh, những vẫn ra sức củng cố, mở rộng NATO và EU để xây dựng một châu Âu không chia cắt, dân chủ, hòa bình, ổn định và vững mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị - an ninh. Mục tiêu của Nga là xác lập lại vị thế cường quốc, phục hồi ảnh hưởng quốc tế đã từng có và phát triển kinh tế ổn định, vững chắc, bảo đảm an ninh và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Mục tiêu của Nhật Bản là trở thành cường quốc chính trị cho tương xứng với vị thế cường quốc kinh tế - tài chính vốn có, tức là tạo dựng được ảnh hưởng quốc tế lớn hơn. Mục tiêu của Trung Quốc là khẳng định vị thế cường quốc trên thế giới, cố gắng thống nhất đất nước bằng con đường hòa bình. Mục tiêu của Ấn Độ là khẳng định vị thế cường quốc khu vực châu Á, trở thành thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Chính do tác động của những nhân tố chủ quan và khách quan kể trên mà cục diện quan hệ giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI có những nét mới rất khác so với thời kỳ trước đó.
- Quan hệ Mỹ - Trung: Do Trung Quốc đang mạnh dần lên về kinh tế, Mỹ hy vọng Trung Quốc tiếp tục chuyển hướng kinh tế thị trường, thay đổi hệ tư tưởng và hệ thống chính trị theo mô hình phương Tây. Để khuyến khích khuynh hướng ấy, Mỹ giảm áp lực đối với Trung Quốc về vấn đề tự do, dân chủ, quyền con người, không gắn những vấn đề đó với vấn đề kinh tế - thương mại, tạo điều kiện cho Trung Quốc gia nhập WTO và tăng cường hợp tác kinh tế.
Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc đang có những phức tạp do mâu thuẫn về địa chính trị, trong đó hai vấn đề nổi cộm, nhạy cảm nhất là vấn đề Tây Tạng và Đài Loan. Hai nước đã tỏ ra thông cảm và thân thiện, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. Tuy nhiên, Mỹ không muốn đẩy quan hệ hai nước đến đổ vỡ để Trung Quốc tìm đến sự bảo trợ của Nga. Về phía mình, Trung Quốc chọn sách lược xoa dịu các mâu thuẫn, không muốn làm tăng sự đối đầu với Mỹ, ngay cả khi đã liên minh với Nga. Trong thời gian tới, quan hệ Mỹ - Trung còn phụ thuộc vào các nhân tố: mức độ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố; nhận thức của chính quyền Mỹ về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Trung Quốc, coi Trung Quốc là đối tác hay đối thủ trong cạnh tranh chiến lược; quan hệ Trung Quốc – Đài Loan… Dù còn nhiều bất đồng nhưng quan hệ hợp tác Mỹ - Trung vẫn tiếp tục phát triển.
- Quan hệ Nga – Mỹ: Quan hệ giữa hai nước phát triển hay căng thẳng chính do lợi ích chiến lược của mỗi nước quy định. Tuy đạt được nhiều thỏa thuận, cam kết, nhưng giữa hai nước vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn mang tính chiến lược như “đa cực hay đơn cực” và những mâu thuẫn cụ thể như thái độ đối với Irắc, Iran, Côsôvô, mở rộng NATO… Trên thực tế, Mỹ vẫn không từ bỏ chính sách kiềm chế Nga, vì nếu Nga phục hồi sẽ đe dọa sự lãnh đạo thế giới của Mỹ. Không thể chi phối Nga như dưới thời B.Enxin, hiện nay Mỹ tiếp tục chính sách vừa hợp tác vừa khống chế Nga, bằng mọi cách ngăn chặn nguy cơ quay lại chủ nghĩa cộng sản ở Nga. Về phần mình, Nga muốn hòa nhập với phương Tây, giảm căng thẳng bất đồng với Mỹ để tạo môi trường hòa bình phát triển kinh tế, giải quyết những bất đồng nội bộ, không nhấn mạnh việc khôi phục vị trí nước lớn. Đầu năm 2007, tiếp theo sự thành công trong việc mở rộng NATO, EU về phía đông, Mỹ tiến thêm một bước khi lên kế hoạch triển khai 10 hầm tên lửa đánh chặn ở Ba Lan và hệ thống cảnh báo rađa ở Séc, áp sát nước Nga. Tổng thống Nga đã phản đối quyết liệt và tuyên bố xây dựng học thuyết quân sự mới, trong đó đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí hiện đại đủ khả năng bảo vệ nước Nga, dọa sẽ rút khỏi Hiệp ước tên lửa hạt nhân tầm trung (ký năm 1987) nếu Mỹ không từ bỏ tham vọng lá chắn phòng thủ tên lửa ở châu Âu. Tóm lại, mặc dù quan hệ Nga – Mỹ đã được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều trở ngại.
- Quan hệ Mỹ - EU: Vấn đề Trung Đông (Irắc, Iran, Palextin – Ixraen), đặc biệt là cuộc chiến Irắc, không tạo thành lợi ích hạt nhân trong quan hệ giữa các nước lớn, kể cả quan hệ Mỹ - EU. Các cường quốc sẽ không thể xảy ra đối kháng về thực chất vì vấn đề này. Những bất đồng giữa Mỹ và EU xoay quanh vấn đề Irắc đã dịu đi. Do lợi ích trong hợp tác phát triển, các bên đã nhanh chóng cải thiện quan hệ và liên minh Mỹ - EU tiếp tục được củng cố. Vấn đề căn bản hiện nay là sức mạnh của EU vẫn chưa đủ, chưa thể tự bảo vệ được mình, nếu xảy ra chiến tranh (như Nam Tư trước đây) thì vẫn phải dựa vào Mỹ. Tuy nhiên, quan hệ hai bên sẽ diễn tiến theo xu hướng “vừa hợp tác vừa cạnh tranh”. Mỹ tiếp tục tìm cách khẳng định vai trò bá chủ của mình tiến tới xây dựng thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ, còn EU sẽ tham gia nhiều hơn vào giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, nâng cao uy tín chính trị, phấn đấu cho một thế giới.
Trong thời kỳ hiện nay, Mỹ, các nước chủ chốt EU và Nhật Bản lợi dụng ưu thế nhiều mặt, ráo riết thực hiện các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không có sự đoàn kết thống nhất, nhưng trong điều kiện nhất định, các cường quốc tư bản vẫn có khả năng tạo lập sự hợp tác, phối hợp, đồng thuận và tìm kiếm tiếng nói chung trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh và phát triển. Tuy nhiên, họ không thể che giấu nổi những mâu thuẫn cố hữu.
Hiện nay, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển hiện trên ba vấn đề lớn: xác lập trật tự thế giới, phân chia thị trường toàn cầu và cạnh trạnh ưu thế phát triển. Các mâu thuẫn tuy vẫn gay gắt, phức tạp, nhưng được khống chế trong giới hạn nhất định. Một số mâu thuẫn, bất đồng được tháo gỡ thông qua thương lượng, thỏa hiệp. Quan hệ giữa các cường quốc tư bản hiện nay là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, vừa hướng tâm vừa ly tâm, vừa phối hợp vừa chế ước nhau. Những véctơ thuận - nghịch đa chiều này tạo ra mâu thuẫn biện chứng ngay trong lòng mối quan hệ nội bộ của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Trong những năm tới, các cặp quan hệ Mỹ - Nhật, Trung - Nhật và Nga - Nhật có lẽ là những mối quan hệ ít thay đổi nhất. Quan hệ Mỹ - Nhật vẫn là quan hệ đồng minh, liên minh chặt chẽ, nước này luôn coi nước kia là hòn đá tảng trong chiến lược đối ngoại và an ninh của mình, và tính chất này nhìn chung không thay đổi trước những thăng trầm của lịch sử thế giới. Sau sự kiện 11 – 9, Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước châu Á – Thái Bình Dương, nhưng các căn cứ trên đất Nhật Bản vẫn là những mắt khâu chính yếu và quan trọng nhất để Mỹ triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Trên thực tế, trong quan hệ song phương và trên trường quốc tế, Mỹ đang lợi dụng Nhật hơn là hợp tác bình đẳng với Nhật. Nhật vẫn bị Mỹ coi là đồng minh đàn em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật trong các vấn đề quốc tế và trong quan hệ với những nước lớn khác.Về phần mình, do vẫn là “người khổng lồ một chân” nên Nhật Bản phải tiếp tục dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh và xử lý các mối quan hệ song phương, đa phương khác. Song, Nhật Bản cũng đang điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cân bằng, đề cao tính độc lập tự chủ hơn trong quan hệ với Mỹ. Để trở thành cường quốc chính trị thế giới, Nhật Bản cho rằng cần phải thay đổi hình ảnh của mình trong con mắt của cộng đồng quốc tế (tức là hình ảnh một cái bóng luôn đi theo Mỹ), rằng Nhật Bản phải phát huy vai trò quốc tế không chỉ ở lĩnh vực kinh tế - tài chính, mà cả ở lĩnh vực chính trị - an ninh quốc tế.
Trong quan hệ với Trung Quốc, Nhật Bản là nước cung cấp nguồn viện trợ ODA lớn nhất, là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Nhật Bản không thể không coi trọng một Trung Quốc đang có sức mạnh quốc gia tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng. Nhưng giữa hai nước cũng đang tồn tại nhiều bất đồng nên quan hệ Nhật – Trung vừa có sự hợp tác tích cực, vừa có sự nghi kỵ, dè chừng, kiềm chế lẫn nhau. Trung Quốc vừa muốn thúc đẩy quan hệ với Mỹ để kiềm chế Nhật Bản, đẩy lùi nguy cơ Mỹ - Nhật câu kết với nhau gây áp lực với Trung Quốc, vừa muốn cải thiện quan hệ với Nhật để tận dụng tối đa thế mạnh kinh tế - tài chính, khoa học - công nghệ của nước này.
Quan hệ Nga –Nhật nhìn chung chưa có tiến triển gì đáng kể trong cục diện những năm gần đây. Hai nước vẫn chưa ký được Hiệp ước hòa bình, vấn đề quần đảo Curin vẫn là nhân tố chủ yếu cản trở quan hệ bình thường giữa họ. Có thể nói, đây là cặp yếu nhất trong tứ giác chiến lược Mỹ - Trung - Nga - Nhật sau Chiến tranh lạnh.
- Trong quan hệ Nga - Trung - Ấn, mặc dù cả ba nước đều có những thế mạnh riêng, nhưng đều bị chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan quá khích đe dọa an ninh với với mức độ khác nhau (Nga với vấn đề Chécnhia, Ấn Độ với vấn đề Casơmia, Trung Quốc với vấn đề Tân Cương). Chính vì vậy, ba nước có những quan điểm khá tương đồng trong vấn đề chống khủng bố quốc tế, và điều rất đáng chú ý là quan hệ giữa họ không còn bị nhân tố Pakixtan gây xung khắc, chia rẽ ở mức độ lớn như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Hơn nữa, cũng như Trung Quốc, Ấn Độ là nước chủ yếu nhập vũ khí từ Nga, còn Nga rất quan tâm hợp tác với Ấn Độ - cường quốc phần mềm máy tính toàn cầu đang nổi lên. Cả ba nước (lúc đầu là Nga và Trung Quốc, muộn hơn là Ấn Độ) đều chủ trương cải thiện quan hệ với Mỹ và ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế. Nhưng đồng thời, họ cũng cảnh giác với ý đồ chiến lược của Mỹ là xác lập chỗ đứng lâu dài ở vành đai địa – chiến lược quan trọng đối với cả ba nước, là vành đai kéo dài từ Trung Đông qua Trung Á tới Đông Bắc Á. Đối với Mỹ, lợi ích địa – chính trị, địa – kinh tế ở khu vực này không kém phần quan trọng so với lợi ích an ninh. Vì vậy, cả ba nước Nga, Trung Quốc, Ấn Độ đều có nhu cầu hợp tác với nhau để hạn chế chính sách cường quyền, bành trướng của Mỹ. Mặc dù quan hệ giữa Ấn Độ với Nga và với Trung Quốc chưa thể tiến tới mức độ hợp tác, hiểu biết và tin cậy như giữa Nga và Trung Quốc, nhưng vì những lý do trên mà được cải thiện rõ rệt. Biểu hiện gần đây nhất là Ấn Độ tỏ ý muốn gia nhập Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) do Nga và Trung Quốc sáng lập năm 2000. Tuy nhiên, quan hệ liên kết Nga - Trung - Ấn chưa có dấu hiện chứng tỏ là một “tam giác chiến lược”. Và dù có hình thành thì “tam giác” đó cũng không phải là một khối liên minh quân sự - chính trị, mà sẽ là một trục các quan hệ đối tác mềm dẻo để đối phó hiệu quả hơn với các vấn đề toàn cầu, từ khủng bố quốc tế cực đoan đến xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới.
Như vậy, có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu thế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột. Có thể quy lại ở mâu thuẫn giữa đơn cực và đa cực, giữa Mỹ và các nước lớn khác trong việc vẽ lại bản đồ chính trị - an ninh – kinh tế thế giới. Quan hệ giữa các nước lớn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cục diện quan hệ giữa họ còn tiếp tục thay đổi khó lường. Hơn nữa, trong thời điểm hiện nay, khi tình hình Irắc sau chiến tranh, vấn đề hạt nhân ở Iran và Bắc Triều Tiên, quan hệ Palextin – Ixraen … còn diễn biến phức tạp, lại liên quan trực tiếp đến lợi ích của các nước lớn (nên chắc chắn họ có sự mặc cả với nhau để dàn xếp lợi ích), thì cục diện đó càng khó đoán định. Với cục diện quan hệ giữa các nước lớn như vậy, trật tự thế giới mới khó có thể được xác lập trong tương lai gần.