Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học Mác - Lê Nin
Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="VnKienThuc" data-source="post: 192604" data-attributes="member: 1"><p><strong>b. Nhận thức và các trình độ nhận thức</strong></p><p></p><p><em>- Định nghĩa</em>. Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào não người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó; tính đúng, sai của những tri thức đó được thước đo thực tiễn xác định.</p><p></p><p><em>Các cấp độ của nhận thức</em></p><p></p><p>1) Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; chúng là hai mức nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh</p><p></p><p>a) <em>Nhận thức kinh nghiệm </em>được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong các thí nghiệm khoa học và trong các hình thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thường- là những tri thức thu nhận được nhờ sự quan sát trực tiếp hàng ngày và trong lao động sản xuất; tri thức kinh nghiệm khoa học- là những tri thức thu được nhờ đúc kết những thí nghiệm khoa học. Cả hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết, xâm nhập lẫn nhau tạo ra tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm</p><p></p><p>b) <em>Nhận thức lý luận </em>(còn gọi là lý luận) là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm. Cái khác của nhận thức lý luận so với nhận thức kinh nghiệm nằm ở chỗ, nhận thức lý luận có chức năng phản ánh gián tiếp, có tính khái quát và trừu tượng cao. Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận (kết quả của nhận thức lý luận) là sự thể hiện chân lý sâu sác, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm</p><p></p><p>c) <em>Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.</em></p><p></p><p>Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu cụ thể nhưng phong phú. Nhận thức kinh nghiệm là dạng nhận thức còn bị hạn chế ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, dữ kiện đã thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do vậy, nhận thức kinh nghiệm “tự nó không bao giờ chứng minh được tính tất yếu”. Nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ nhận thức kinh nghiệm. Tính độc lập tương đối của nhận thức lý luận nằm ở chỗ, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự chọn lọc những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất được nâng lên thành những tri thức khái quát, phổ biến. Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức và mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận giúp khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức kinh nghiệm “mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”[1]. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý luận, dễ dẫn đến bệnh giáo điều</p><p></p><p>2) Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học</p><p></p><p>a) <em>Nhận thức thông thường</em> (có tính tự phát) là nhận thức hình thành tự phát, trực tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người. Loại nhận thức này phản ánh sự vật, hiện tượng xẩy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội</p><p></p><p>b) <em>Nhận thức khoa học</em> (có tính tự giác) là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phanr ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu</p><p></p><p>c) <em>Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. </em>Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai nấc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là cơ sở để xây dựng nội dung của các lý thuyết khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.</p><p></p><p><strong>c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức</strong></p><p></p><p> - Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học.</p><p></p><p>- Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.</p><p></p><p>- Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.</p><p></p><p>- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện nhận thức.</p><p></p><p> Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt <em>quan điểm thực tiễn</em>. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.</p><p></p><p>VnKienthuc.com</p><p>----</p><p><em>còn nữa</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="VnKienThuc, post: 192604, member: 1"] [B]b. Nhận thức và các trình độ nhận thức[/B] [I]- Định nghĩa[/I]. Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào não người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó; tính đúng, sai của những tri thức đó được thước đo thực tiễn xác định. [I]Các cấp độ của nhận thức[/I] 1) Dựa vào khả năng phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; chúng là hai mức nhận thức khác nhau về đối tượng, tính chất, chức năng cũng như hình thức và trình tự phản ánh a) [I]Nhận thức kinh nghiệm [/I]được hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, trong các thí nghiệm khoa học và trong các hình thức hoạt động thực tiễn không cơ bản khác. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Có hai loại tri thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm thường- là những tri thức thu nhận được nhờ sự quan sát trực tiếp hàng ngày và trong lao động sản xuất; tri thức kinh nghiệm khoa học- là những tri thức thu được nhờ đúc kết những thí nghiệm khoa học. Cả hai loại tri thức này có quan hệ mật thiết, xâm nhập lẫn nhau tạo ra tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm b) [I]Nhận thức lý luận [/I](còn gọi là lý luận) là nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết nhận thức kinh nghiệm. Cái khác của nhận thức lý luận so với nhận thức kinh nghiệm nằm ở chỗ, nhận thức lý luận có chức năng phản ánh gián tiếp, có tính khái quát và trừu tượng cao. Nhận thức lý luận chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Do vậy, tri thức lý luận (kết quả của nhận thức lý luận) là sự thể hiện chân lý sâu sác, chính xác và có hệ thống hơn nhận thức kinh nghiệm c) [I]Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận.[/I] Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu cụ thể nhưng phong phú. Nhận thức kinh nghiệm là dạng nhận thức còn bị hạn chế ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, dữ kiện đã thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do vậy, nhận thức kinh nghiệm “tự nó không bao giờ chứng minh được tính tất yếu”. Nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ nhận thức kinh nghiệm. Tính độc lập tương đối của nhận thức lý luận nằm ở chỗ, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự chọn lọc những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, thông qua đó những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất được nâng lên thành những tri thức khái quát, phổ biến. Nắm vững bản chất, chức năng của từng loại nhận thức và mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức kinh nghiệm với nhận thức lý luận giúp khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức kinh nghiệm “mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”[1]. Nếu tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý luận, dễ dẫn đến bệnh giáo điều 2) Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Căn cứ vào tính tự phát hay tự giác của sự phản ánh bản chất của đối tượng nhận thức, người ta chia nhận thức thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học a) [I]Nhận thức thông thường[/I] (có tính tự phát) là nhận thức hình thành tự phát, trực tiếp từ hoạt động hàng ngày của con người. Loại nhận thức này phản ánh sự vật, hiện tượng xẩy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối hoạt động của mọi người trong xã hội b) [I]Nhận thức khoa học[/I] (có tính tự giác) là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phanr ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Đây là sự phản ánh diễn ra dưới dạng trừu tượng, khái quát vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Sự phản ánh đó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu c) [I]Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. [/I]Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai nấc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là cơ sở để xây dựng nội dung của các lý thuyết khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người. [B]c. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức[/B] - Thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các lý thuyết khoa học. - Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao năng lực thực tiễn để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết. - Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức. Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo. - Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Trong thực tiễn con người chứng minh chân lý. Mọi sự biến đổi của nhận thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị (chân lý) những tri thức đã đạt được; đồng thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Như vậy, thực tiễn không những là yếu tố đóng vai trò quy định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, mà còn là nơi nhận thức phải luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta quán triệt [I]quan điểm thực tiễn[/I]. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn; nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu; ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. VnKienthuc.com ---- [I]còn nữa[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học Mác - Lê Nin
Lý luận nhận thức duy vật biện chứng
Top