A. PHẦN MỞ ĐẦU
Theo dòng lịch sử, tác phẩm văn chương luôn chịu sự thử thách chọn lọc khắc nghiệt của thời gian và nhiều tác phẩm rơi vào lãng quên. Dường như ngược với quy luật ấy, những tác giả và tác phẩm tiêu biểu lại không ngừng được luận bàn qua các thời kì lịch sử mà tác giả Nguyễn Đình Chiểu là một ví dụ điển hình. Thời gian đã bất lực trước dòng thơ đầy nhiệt huyết, đầy yêu thương, căm thù, có máu hòa trong nước mắt của Nguyễn Đình Chiểu – một nhà thơ kiệt xuất, một người chiến sĩ yêu nước chân chính. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu khắc sâu trong lòng người những dấu ấn khó phai nhạt, không xa lạ, không mĩ miều, kiểu cách. Thơ ông là tiếng nói chân chất, giản dị mà gần gũi.
Nói đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, chỉ kể mấy bài văn tế cũng đủ coi ông là nhà thơ mở đầu và dẫn đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp bằng chữ Nôm nửa cuối thế kỉ XIX. Khác với những sĩ phu yêu nước đương thời, ông đã dùng ngòi bút viết nên khúc ca bi tráng ca ngợi những con người đã xả thân vì nghĩa rồi hy sinh oanh liệt. Hàng loạt các bài: Hịch, điếu, văn tế một lần nữa lại tỏa sáng: Văn tế Trương Định, Điếu Phan Tòng, Văn tế sĩ dân lục tỉnh trận vong, Hịch đánh Tây và đặc biệt là bài“Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bài văn là tiếng khóc cao cả, khóc cho những nghĩa sĩ hi sinh và cũng là khóc cho Tổ quốc đau thương. Đồng thời qua tiếng khóc cao cả đó hiện lên một tượng đài nghệ thuật hiếm có về người nông dân nghĩa quân tương xứng với phẩm chất của họ.
Chọn đề tài: Lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu – một tấm gương yêu nước, thương dân sâu sắc, trọn đời; đồng thời, cũng muốn tìm hiểu về sự hi sinh anh dũng, cao cả của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Hi vọng rằng đây sẽ là nguồn kiến thức bổ ích cho những ai yêu và muốn tìm hiểu về Nguyễn Đình Chiểu cùng sự nghiệp sáng tác của ông.
2. Lịch sử vần đề nghiên cứu
Nguyễn Đình Chiểu có một vị trí rất quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông là nhà văn có nhiều đóng góp lớn lao cho sự phát triển của văn học dân tộc, là người nổi tiếng bởi những phẩm chất ngời sáng của mình. Giới nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu sáng tác của ông với một nỗ lực lớn lao. Hàng trăm công trình, bài viết đã được công bố, tiêu biểu như: Tuấn Thành – Anh Vũ (2005), Nguyễn Đình Chiểu – tác phẩm và lời bình, NXB Văn học; Viện văn học (1973), Nguyễn Đình Chiểu – tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội; Vũ Khiêu (1982), Nguyễn Đình Chiểu – Ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam, NXB Khoa học xã hội; Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập 2), NXB Đại học Sư phạm…
Đặc biệt cuốn: Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm của Nguyễn Ngọc Thiện xuất bản năm 2003, NXB Giáo dục là một sưu tập chọn lọc các bài nghiên cứu, phê bình, tiểu luận, trích đoạn chương sách…từ những công trình nghiên cứu do tác giả trong và ngoài nước đã công bố trong khoảng thời gian từ 1864 đến nay nhằm cung cấp một hệ thống tư liệu khoa học về con người và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã nêu được những luận điểm quan trọng, khái quát về lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, vấn đề đó chưa được trình bày một cách có hệ thống với tư cách là một đối tượng độc lập. Vì thế, trên cơ sở tiếp thu những bài viết của các nhà nghiên cứu, chúng tôi vẫn mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài trên, chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu đối tượng: lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu in trong cuốn Văn học 11, (tập 1), Phần văn học Việt Nam, NXB Giáo dục.
4. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành bằng những phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và logic:
- Phương pháp hệ thống cấu trúc:
- Phương pháp phân tích:
5. Bố cục đề tài
Đề tài này ngoài phần mở đầu, kết luận còn có hai chương của phần nội dung. Cụ thể:
Chương Một: Nguyễn Đình Chiểu – tấm gương yêu nước
Chương Hai: Lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu qua
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương Một: Nguyễn Đình Chiểu – tấm gương yêu nước
1.1. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của nước ta, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ ở đất Gia Định, ông lớn lên và trưởng thành vào giữa thế kỷ XIX, lúc triều đình phong kiến nhà Nguyễn đang suy vong và thực dân Pháp bước đầu xâm lược Việt Nam.
Nguyễn Đình Chiểu đã sống qua một thời điểm đặc biệt của lịch sử trên một địa điểm cũng rất đặc biệt: Nam kì lục tỉnh. Năm 1861, sau thất bại ở Đà Nẵng và Huế, Pháp đem toàn bộ hạm đội Á Đông đánh Nam Kì. Đến năm 1867, triều Nguyễn kí hòa ước nhường ba tỉnh miền Tây và toàn bộ Nam kì lục tỉnh đã thành “đất khác”. Người trí thức ấy đã trực tiếp chứng kiến một chặng dài điêu linh của dân tộc Việt Nam trong suốt ba chục năm kể từ buổi tiếng súng Tây rộ lên ở Cửa Hàn – Đà Nẵng, cho đến khi ông vĩnh viễn nằm xuống nơi mảnh đất Ba Tri.
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn rất nhạy cảm trước những vấn đề thuộc về đời sống chính trị, xã hội. Cũng chính vì thế, trong cuộc đời ông đã có những sự lựa chọn rất đúng đắn. Khi triều Nguyễn kí hiệp ước nhường đất Nam kì, Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người đầu tiên khởi xướng phong trào “tị địa”. Bước đường phiêu bạt của ông hòa vào dòng người bồng bê, dắt díu nhau dời khỏi quê hương đã thể hiện rất rõ một thái độ đối với kẻ thù, một tấm lòng đối với quê hương.
Lòng yêu nước đã soi rọi cho bước chân của người trí thức mù nhập được vào đúng hướng tiến lên của lịch sử. Vào thời điểm ấy, cả dân tộc được đặt trước ngã ba, ngã bảy của sự lựa chọn. Lối đi mà Nguyễn Đình Chiểu đã lựa chọn: cùng với nhân dân chống Pháp xâm lược, chống triều đình bán nước cúng chỉ là một. Và lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn này.
Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về lòng yêu nước. Tình yêu đất nước đồng bào trở thành một “phẩm chất” của con người này. Dường như nỗi niềm đất nước, dân tình đã lấn át tất cả khiến ông quên đi thảm trạng cá nhân. “Cuộc đời ấy luôn gắn liền với vận mệnh đất nước, dân tộc trong một giai đoạn lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại” (Phạm Văn Đồng).
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn có nhiều đóng góp xuất sắc cho dòng văn học yêu nước – dòng chủ lưu của văn học Việt Nam giai đoạn này. Ông là một trong những người mở đường, người dẫn đầu cho trào lưu văn học chống Pháp từ nửa sau thế kỉ XIX đến những năm đầu thế kỉ XX.
1.2. Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, bắt đầu xâm lược nước ta. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công.
Ngày 14 tháng 12 năm 1861, tức ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.
Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
1.2.2. Thể loại
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú luật Đường trong đó có cách hiệp vần độc vận (một vần) hoặc liên vận (nhiều vần), cách đặt câu (gồm các kiểu câu: tứ tự, bát tự, song quan, cách cú và gối hạc) và luật bằng trắc. Mặt khác, nó có bố cục gồm các đoạn: a) Lung khởi (Mở đầu: thường nói nỗi đau ban đầu và nêu ấn tượng khái quát về người chết), b) Thích thực (hồi tưởng công đức người chết), c) Ai vãn (than tiếc người chết), d) Kết (vừa tiếp tục than tiếc vừa nêu lên ý nghĩ của người đứng tế). Thể loại văn tế rất phù hợp với việc thể hiện tấm lòng, tình cảm tiếc thương vô hạn của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng, của nhân dân nói chung đối với những anh hùng liệt sĩ Cần Giuộc.
Chương Hai: Lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu qua
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
2.1. Tiếng khóc đau thương cho thế nước hiểm nghèo
Mở đầu bài văn tế là một lời than qua hai câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết là tiếng khóc nghẹn ngào của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc đất rền; lòng dân[FONT="] [/FONT]trời tỏ”[FONT="][/FONT]
Trước hết đây là tiếng khóc: khóc cho đất nước, cho nhân dân, cho đời “trong cơn bấn loạn”, khóc cho vong linh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hy sinh vì vận mệnh của Tổ quốc. Tiếng khóc cao cả và trân trọng biết bao!
Với hình thức ngắn gọn, câu văn mang một nội dung hàm súc vì đã dựng nên được khung cảnh bão táp, căng thẳng của thời đại, khái quát đầy đủ hai mặt của biến cố chính trị lớn lao: một bên là cuộc xâm lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù với vũ khí tối tân “súng”; một bên là vai trò và ý chí chống giặc ngoại xâm luôn âm ỉ trong nhân dân nay bỗng bùng lên sáng ngời. Hai mặt đó trong thực tế lịch sử đã xung đột mãnh liệt, chi phối toàn bộ thời cuộc. Vì thế, tác giả dùng những yếu tố không gian rộng lớn “đất”, “trời” kèm theo hai động từ mạnh “rền”, “tỏ” làm thành một hình ảnh thống nhất nhưng lại mang mâu thuẫn nội tại gay gắt, nêu bật được tính chất nghiêm trọng và quyết liệt của tình thế. Bằng cách đối lập “súng giặc” và “lòng dân” tác giả đã thể hiện một quan điểm nhìn nhận thời cuộc khá sâu sắc và tiến bộ.
Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”.
( Chạy giặc )
Nước đã mất thì nhà tan. Hình ảnh quê hương Nam Bộ giờ đây thật điêu linh: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước / Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây” ( Chạy giặc ). Hy sinh cho người khác, hành động vì nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt khỏi tư tưởng của một đồ đệ Cửa Khổng Sân Trình - một tư tưởng tiến bộ của nhà nho yêu nước. Ông quan tâm đến những người dân đen, chú ý đến cái lòng của họ rồi khẳng định: Hành động của họ được trời thấu rõ.
Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy.
2.2. Khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn hay vào loại bậc nhất trong văn học Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam chúng ta được nghe một lời ca chứa chan tình anh em ruột thịt và lòng kính phục vô biên đối với những người nông dân nghèo khổ.[FONT="] [/FONT]Đây cũng là lần đầu tiên người nông dân có tên trong danh mục của văn chương đất Việt với tư cách đường hoàng, mang tầm vóc và vẻ đẹp có thực của một giai cấp, một kiếp người bị lãng quên trong lịch sử. Bởi cuộc sống nhỏ lẻ, đời tiếp đời nối cái nghèo khó để tồn tại:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó”.
Bao nhiêu yêu thương trong một chữ “côi cút”. Chỉ riêng từ “côi cút” đã đủ sức khiến cho độc giả hiểu được về cuộc sống bình dị, thầm lặng đến tội nghiệp của những người nông dân này. Họ vốn quen làm lụng “một nắng hai sương”, suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để đổi lấy từng hạt lúa, củ khoai, lo cho từng bữa ăn. Cái nghèo, cái khó đã khiến người nông dân suốt cả một đời chỉ biết lao động hăng say, không biết đến binh đao, chiến trận.
Trước khi trở thành nghĩa sĩ, dũng sĩ, họ chỉ là người dân cày chất phác, cần cù, giản dị. Họ có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm”. Họ có đôi mắt hiền lành, ánh lên vẻ đẹp hòa bình của đời sống thường nhật: “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Nhưng đối với quân xâm lược lòng căm thù của họ thật sâu sắc: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Cách so sánh chân thực, cụ thể, sống động của Nguyễn Đình Chiểu thật phù hợp với suy nghĩ, tình cảm của người nông dân. Cỏ đối với nhà nông là kẻ thù nguy hiểm, bởi nó đe dọa sẽ cướp đi của họ sự no ấm, sự bội thu của mùa màng, sẽ khiến gia đình họ nghèo hơn, đói hơn. Và giặc Pháp cũng vậy, chúng là kẻ thù “bất cộng đái thiên” bởi chúng cướp nước, cướp ruộng vườn và tàn sát nhân dân.
Đến câu tiếp theo, sự căm ghét đã được nâng lên thành một thái độ căm thù mãnh liệt, sẵn sàng bùng nổ ra bằng hành động:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tối ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Người nông dân vốn hiền lành, thầm lặng đến đay đã có một bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng: không thể thụ động trông đợi triều đình mà phải kiên quyết tự mình đứng lên giết giặc cứu nước.
Diễn tả được rạch ròi, tự nhiên và chân thực sự đột biến đó là một thành công trong nghệ thuật của tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà những chi tiết miêu tả sự hoành hành ngang nhiên, khiêu khích của quân thù đã được dùng với những màu sắc kích động “trắng lốp”, “đen sì” để đủ sức tạo nên những phản ứng tâm lí tự nhiên và quyết liệt “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Cả câu văn là một chỉnh thể cân đối giữa các ý vừa “biểu hiện” vừa “lí giải” được một trạng thái căm thù cháy bỏng, dữ dội một cách chính đáng và chân thực.
Tính chất yêu nước của người nông dân Việt Nam ở đây thật vững chãi. Có thể nói, họ yêu nước từ trong xương, trong máu, không phải từ những khái niệm sách vở nào. Họ yêu nước là yêu tấc đất, ngọn rau của họ, là bảo vệ bát cơm manh áo, bảo vệ bát hương, cái bàn thờ ông bà cha mẹ, cũng như thuần phong mỹ tục của xóm làng. Cái lớn lao của Nguyễn Đình Chiểu là ông đã để cho tâm hồn mình hòa hợp với tình cảm của nhân dân. Những rung động, xúc cảm của nhân dân đã trở thành rung động, xúc cảm của ông.
Ý chí căm thù còn được nâng cao trong sự gắn bó sâu sắc với ý thức công dân về trách nhiệm bảo vệ giang sơn, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Tổ quốc:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó”.
Thành ngữ kết hợp với cách nói phủ định đã khẳng định thái độ khinh bỉ, không khoan nhượng của nghĩa quân trước kiểu bài lừa bịp của thực dân Pháp.
Vốn suốt đời nghèo khổ nên những người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng xuất hiện ở chiến trường với đủ thứ thiếu thốn: thiếu rèn luyện võ nghệ, binh thư, thiếu tập tành tối thiểu về cơ ngũ, thiếu mọi thứ trang bị…Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng “hoả mai” khai hoả “bằng rơm con cúi”. Trái lại, giặc Pháp có đầy đủ các vũ khí tối tân như “tàu thiếc, tàu đồng”, “đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Vậy mà, những người “dân ấp, dân lân” vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”. Khí giới quyết định của họ là tinh thần tự tôn dân tộc, tình thương yêu giống nòi và ý chí căm thù sâu sắc quân cướp nước và bè lũ bán nước. Nguyễn Đình Chiểu nêu lên tình cảnh kể trên không phải với thái độ tủi cực, tự ti mà với một niềm tự hào, phản ánh đúng tinh thần hăng hái, bất chấp khó khăn, thiếu thốn của nghĩa quân trong chiến đấu.
Vượt qua mọi gian nguy, với tinh thần “mến nghĩa”, với khí thế hăng hái, và lòng dũng cảm vô song, người nông dân Cần Giuộc đã xông lên mạnh như vũ bão:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Có thể nói, đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ…đã tô đậm tinh thần tự nguyện, dũng cảm xả thân của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Động từ chéo “đâm ngang, chém ngược” làm tăng thêm sự sôi nổi, mạnh mẽ cho khí thế của cuộc chiến đấu, nhất thời khiến quân giặc thất điên, bát đảo. Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu đến đây như bay nhảy lên vô cùng sáng khoái với hàng loạt động từ tràn đầy sinh lực và dũng khí: “đạp, lướt, xô, xông, đâm, chém, hò, ó” tiếp nối nhau theo một nhịp điệu dồn dập, sôi nổi.
Như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các nghĩa quân những tình cảm cao đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Hình ảnh người nông dân - nghĩa quân hiện lên như bức tượng đài nghệ thuật hào hùng tới mức hiếm có “vô tiền khoáng hậu”, bao nhiêu năm sau chưa có cây bút nào vượt được. Điều đó đã thể hiện cái nhìn rất mới, rất tiến bộ của nhà thơ mù đối với người nông dân trong thơ văn yêu nước của ông.
Trước Nguyễn Đình Chiểu, nhiều người đã thấy được nỗi cơ cực, lầm than của người nông dân Việt Nam. Khá nhiều người bằng tác phẩm của mình đã tỏ lòng thiện cảm với tình cảnh người dân cày, đã tỏ ý định bênh vực họ. Nhưng chỉ có Nguyễn Đình Chiểu mới thấy được cái khía cạnh tích cực, lớn lao của người nông dân: đó là khả năng rộng lớn của họ, ý chí quật cường và tinh thần bất khuất. Nếu không phải là nhà thơ của nhân dân, nếu không sống đến tận cùng tâm cảm niềm đau, nỗi khổ của nhân dân thì không bao giờ viết được một áng văn như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Trước kia, Nguyễn Trãi đã có những nhận thức đúng đắn về khả năng, về lực lượng của người nông dân: “Làm lật thuyền mới biết sức dân mạnh như nước”. Trong thời mình, có lẽ Nguyễn Đình Chiểu là người duy nhất thấy được một phần lòng yêu nước, căm thù và sức trỗi dậy mãnh liệt của người nông dân. Phải chăng vì thế, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đặt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ngang hàng với Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và gọi đây là “khúc ca người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.
Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Những người nông dân anh hùng đã hi sinh trong trận đánh ngày 16 – 12 – 1861 ở Cần Giuộc sẽ mãi mãi là vô danh như hàng trăm, hàng ngàn người nông dân anh hùng khác đã hi sinh trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Nhưng với bức tượng đài hào hùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm cho họ trở thành bất tử. Họ sẽ sống mãi trong lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân.
2.3. Lên án triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp
Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, mở đường xâm lược nước ta. Năm 1859, chúng tấn công Gia Định. Trước tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn yếu hèn đã “án binh bất động”:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”
Là người dân dưới chế độ phong kiến, nhân dân Nam Bộ buộc phải trông chờ sự lãnh đạo của quan tướng triều đình. Họ lo lắng, hồi hộp, bồn chồn như mong mỏi một vị phúc tinh: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Nhưng thực tế lịch sử ngày càng chứng tỏ vai trò bất lực, ươn hèn và thái độ vô trách nhiệm của giai cấp phong kiến đương thời mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đối với vận mệnh của nhân dân, đất nước.
Trong bài thơ Chạy giặc, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng thốt lên đầy chua xót:
“Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Tác giả không chỉ lên án thái độ thờ ơ của triều đình phong kiến, của bè lũ bán nước mà còn kể tội ác của giặc và bóc trần những thủ đoạn gian trá gọi rằng khai hóa, gọi rằng đưa lại văn minh. Cái bọn giết người, cướp của đội lốt văn minh ấy, theo ông, chỉ là bọn “treo dê, bán chó”, chúng không thể có chỗ đứng nào dưới ánh sáng rực trời của chính nghĩa: “hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó”. Và mặc dầu chúng đội lốt văn minh, Nguyễn Đình Chiểu vẫn dứt khoát xem thực dân Pháp là man rợ. Nói đến chúng, ông chửi thẳng, không một chút kiêng dè: “bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”. Bọn cướp nước là một thứ tanh hôi mà người dân Cần Giuộc không thể nào chịu được: “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Qua bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rất rõ thái độ “không đội trời chung” đối với quân xâm lược và bè lũ bán nước.
2.4. Lòng tiếc thương của tác giả và nhân dân đối với liệt sĩ
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ, tiếc thương của tác giả, của nhân dân và của gia đình đối với những người nông dân yêu nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương họ:
“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”
Những tưởng tấm lòng yêu nước căm thù giặc, tấm lòng vị nghĩa lớn lao sẽ được phục vụ lâu dài cho đất nước nhưng ai ngờ sinh mệnh con người lại chấm dứt một cách bất ngờ ngắn ngủi. Thực tế phũ phàng đã khiến tác giả xúc động mạnh. Ở đây, tình cảm ấy càng mãnh liệt hơn vì đó không phải là sự xúc động của một tâm hồn bình thường mà cao hơn là của con người nặng lòng yêu nước, nặng lòng với thời cuộc trước cái chết cao cả của những anh hùng. Nỗi tiếc thương được nảy sinh từ cảnh ngộ éo le, từ cuộc đời chiến đấu của nghĩa sĩ chưa thỏa chí bình sinh mà cái chết đã phũ phàng ập tới:
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”
Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẹn. Lời khóc tắc nghẹn dường như mất mát các từ, các tiếng. Nếu viết đầy đủ: “Nước mắt khóc người anh hùng lau không hết được” có nghĩa là nước mắt chảy mãi, chảy hoài…
Âm điệu thơ như những trận sóng lừng xô bờ bỗng dưng lắng xuống, chìm sâu vào đất trời:
“Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.
Hình ảnh ẩn dụ cỏ cây sông Cần Giuộc “mấy dặm sầu giăng” biểu hiện một nỗi buồn lớn, có sức lan tỏa như nhuốm lên cả cảnh vật thiên nhiên. Thiên nhiên quê hương, con người quê hương khóc thương cho sự hi sinh của những người nghĩa sĩ và khóc cho cả Tổ quốc đau thương. Mất họ, nhân dân ngậm ngùi, thương tiếc. Mất họ, gia đình đau khổ, bơ vơ. Mất họ, nạn dân, ách nước càng thêm bối rối. Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu ở đây quả thật đã nức nở trên từng trang giấy. Nối đau thương man mác bao trùm vạn vật và thấm vào từng câu, từng chữ, trong giọt nước mắt của bà mẹ già bên ngọn đèn khuya , trong bước chân bơ vơ của người vợ yếu dưới bóng xế chiều:
“Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân, gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của toàn đất nước, dân tộc. Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã rung động đến tận đáy lòng mình khi viết những câu văn trên do nhiều nguồn cảm thương hợp lại.
Mở đầu bài văn tế là tiếng than “Hỡi ôi” và kết thúc cũng bằng một lời than “Ôi thôi thôi”. Nỗi đau đến đây dường như không thể kìm nén được đã tự bật lên nghe sao đau nhói như xé tâm can người đọc . Trong tiếng than đó còn có cả sự tuyệt vọng.
Như vậy, Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người nông dân - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” - họ đứng trên triều đại, đã làm nên lịch sử. Họ hy sinh vì non sông vì dân tộc, cái chết cao đẹp của họ đã đi vào vĩnh cửu. Cái chết của họ đã nhuộm đau thương, tang tóc trùm lên vạn vật.
Ở đây, nói về nghệ thuật, quả thật không phải chỉ là vấn đề bút pháp mà điều cốt lõi nhất là cảm xúc chân thành và sâu nặng của tâm hồn, đó là gốc của nghệ thuật trữ tình. Sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu trước hết là do tình cảm của tác giả đã hòa chung với tình cảm của nhân dân, của thời đại. Tác giả sử dụng những chất liệu thường gặp trong văn chương cổ điển như: một bóng trăng, một ngọn đèn khuya, một tiếng khóc…nhưng tất cả được kết hợp với một chất xúc cảm thân thiết, chân thực nên có sức rung động sâu sắc trong lòng người đọc.
2.5. Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ
Kết thúc bài văn tế, tác giả tập trung ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ: “Ôi!
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”
Bằng cách diễn tả cô đọng, hàm súc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm hiển hiện lên khí tiết cao quý của nghĩa sĩ như một vầng dương rực rỡ. Khí tiết, tiếng thơm của người trung nghĩa sẽ sống mãi trong lòng mến thương, cảm phục của nhân dân qua các thế hệ:
“Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”.
Nguyễn Đình Chiểu với lòng biết ơn sâu sắc đã nhân danh tiếng nói dân tộc ca ngợi công ơn lớn lao của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc theo hướng vĩnh viễn hóa thời gian “nghìn năm, muôn đời”. Tấm lòng yêu nước, sự hi sinh vĩ đại của nghĩa quân sẽ mãi mãi sáng ngời, trường tồn và bất tử cùng thời gian.
Linh hồn nghĩa sĩ trong sự tưởng niệm thành kính của tác giả như vẫn níu lấy cuộc sống để theo đuổi đến cùng sự nghiệp giết giặc cứu nước bởi những gì thuộc về chính nghĩa không bao giờ bị diệt vong:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”.
Những con người đó vẫn tồn tại trong lòng những người đã và đang tiếp tục sự nghiệp chiến đấu vẻ vang của họ để lại.
Kết thúc bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã đốt lên “cây hương” thơm để tưởng vọng linh hồn của các anh hùng, liệt sĩ:
“Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
Ở đây, tác giả không chỉ hướng tới ca ngợi công đức, sự bất tử của các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn thể hiện rõ trách nhiệm của những người đang sống phải đứng lên, viết tiếp trang sử hào hùng chống giặc cứu nước.
C. KẾT BÀI
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca hùng tráng tạo nên một cơn sóng ngầm mãnh liệt, thúc đẩy phong trào chống Pháp ngay từ khi chúng vừa đặt chân xâm lược Việt Nam. “Cách mạng tiến lên, vai trò của quần chúng càng nổi bật, thì lại càng đưa ta về gần với Nguyễn Đình Chiểu, và qua văn thơ Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta càng thêm gắn bó với những con người đã sáng tạo ra nước non này, đã chiến đấu, để bảo vệ nó và giờ đây vẫn không ngừng phấn đấu hi sinh để xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Ngọn lửa yêu nước, ngọn lửa chính nghĩa hừng hực trong văn thơ Nguyễn Đình Chiểu, giờ đây vẫn là một sức cổ vũ lớn cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta”. (Hoài Thanh).
Có thể khẳng định rằng, chỉ đến Nguyễn Đình Chiểu thì hình ảnh người nông dân mới chính thức bước vào văn học không phải như những nạn nhân đáng thương của xã hội phong kiến, mà là những người anh hùng dân tộc. Tác giả làm được điều đó, trước hết là do đặc điểm riêng của cuộc kháng chiến chống Pháp trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX ở Nam Bộ. Trong cuộc chiến đấu này, vai trò của người dân trở nên vô cùng quan trọng trước sự nhượng bộ và từng bước đầu hàng Pháp của triều đình nhà Nguyễn. Với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lần đầu tiên trong lịch sử văn học có một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Họ đã ra đi, đã chiến đấu, đã hi sinh nhưng cũng chính họ lại là những người đã góp phần tô thêm sắc thắm cho sợi chỉ đỏ của lòng yêu nước xuyên suốt bốn ngàn năm lịch sử dân tộc.
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước bất khuất. Và lòng yêu nước của ông qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã làm rung động bạn đọc bao thế hệ, khiến Miên Thẩm – một người được xếp vào hàng “thất thịnh Đường” phải phục đến nỗi sánh ông với Tả Khâu Minh, Khuất Nguyên, hai văn hào bậc nhất của Trung Quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bảo, Hà Minh Đức…(1998), Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục.
2. Nguyễn Đăng Na (2007), Giáo trình Văn học trung đại Việt Nam (tập 2), NXB Đại học Sư phạm.
3. Nguyễn Phong Nam, Nam (2003), Giáo trình Văn học Việt, NXB Trường ĐHSP Đà Nẵng.
4. Vũ Khiêu (1982), Nguyễn Đình Chiểu – Ngôi sao sáng của người trí thức Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
5. Tuấn Thành – Anh Vũ (2005), Nguyễn Đình Chiểu – tác phẩm và lời bình, NXB Văn học.
6. Nguyễn Ngọc Thiện (2003), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm NXB Giáo dục.
7. Viện văn học (1973), Nguyễn Đình Chiểu – tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, NXB Khoa học xã hội.
8. Văn học 11 (tập 1), Phần văn học Việt Nam, NXB Giáo dục.
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vần đề nghiên cứu. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2
4. Phương pháp nghiên cứu. 3
5. Bố cục đề tài 3
B. PHẦN NỘI DUNG.. 3
Chương Một: Nguyễn Đình Chiểu – tấm gương yêu nước. 3
1.1. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. 3
1.2. Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 4
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác. 4
1.2.2. Thể loại 5
Chương Hai: Lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu qua
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 5
2.1. Tiếng khóc đau thương cho thế nước hiểm nghèo. 5
2.2. Khắc họa hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc. 6
2.3. Lên án triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp. 11
2.4. Lòng tiếc thương của tác giả và nhân dân đối với liệt sĩ 12
2.5. Ca ngợi linh hồn bất diệt của các liệt sĩ 14
C. KẾT BÀI. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
:26::26::26::26:.Hãy để tâm hồn cuốn theo gió....