Lời khuyên một số bệnh ở trẻ nhỏ

nucuoixaydung

New member
Xu
0
LỜI KHUYÊN MỘT SỐ BỆNH TRẺ NHỎ

1. Thóp.

Thóp là vùng mềm giữa các xương sọ bên trên trán của trẻ sơ sinh. Thóp sẽ cứng lại ởkhoảng từ 8 tới 18 tháng tuổi: các xương sọ lúc đó sẽ liền lại. Nếu cháu bé đã ngoài 2 tuổi mà thóp vẫn còn mềm, bà mẹ cần nói cho bác sĩ biết. Ngược lại nếu mới trong 1, 2 tháng đầu mà cháu bé đã không còn thóp nữa, thì đấy cũng là điều bất thường, có ảnh hưởng không hay tới sự phát triển của đứa bé.

Các bà mẹ thường thấy thóp cǎng ra khi cháu bé khóc: đó là việc bình thường. Cả hiện tượng nhìn thấy và sờ thấy thóp phập phồng cũng vậy.

Thóp lúc nào cũng phải dẹt và đàn hồi. Nếu thóp bị phồng cǎng lên thì là hiện tượng bất thường: Bé có thể bị bệnh ở màng óc. Nếu thóp hõm xuống là biểu hiện cơ thể bé thiếu nước.

Nếu vì một tai nạn nào đó mà thóp bị va mạnh hoặc tổn thương, phải đưa bé vào bệnh viện ngay.

2. Vẩy trên đầu.

Nếu đầu cháu có những vẩy nhỏ, phải bôi va-dơ-lin lên mỗi chiều rồi hôm sau gội đầu cho cháu bằng loại xà bông nhẹ (shampoing). Nếu không khỏi, cần hỏi các bác sĩ da liễu.

3. Bệnh viêm màng não.

Ngày nay, bệnh viêm màng não là một bệnh đáng ngại, tuy rằng việc chẩn đoán và phát hiện bệnh có nhiều điều kiện để thực hiện được nhanh hơn trước.

Một triệu chứng rõ nhất ở trẻ sơ sinh là khi các cháu bị bệnh viêm màng não thì thóp bị cǎng và phồng lên: cần phải đưa cháu đi bệnh viện hoặc tới bác sĩ ngay.

Những triệu chứng ở các cháu lớn là nôn ói nhiều, phọt ra thành tia, sốt, đau đầu và đặc biệt là hiện tượng bị cứng gáy không thể gập cổ lại, để cằm đụng được ngực như ngày thường giống với mọi người. ở bệnh viện, người ta thường phải lấy nước tủy để xét nghiệm xem cháu bị bệnh do vi trùng hoặc vi rút.

Viêm màng lão do vi trùng

Làm cho nước tủy của cháu bé bị bệnh có mủ. Cháu bé càng nhỏ thì bệnh càng nguy hiểm. Một số vi trùng có thể là nguyên nhân của bệnh này như vi trùng bệnh phổi (phế cầu trùng), liên cầu trùng, hoặc hémophilus (xem mục 210: hémophilus là gì?). Bệnh này có thể xuất hiện thành dịch. Trong thời gian có dịch, người ta có thể lấy chất mẫu ở họng những trẻ nghi bị bệnh để xét nghiệm và phát hiện những trẻ có mang vi trùng. Đối với những người có tiếp xúc với người bệnh và các trẻ bị bệnh, bác sĩ thường cho uống thuốc kháng sinh hoặc thuốc sulfamide trong 5 ngày liền để trị hoặc phòng bệnh.

Hiện nay, đã có thuốc tiêm phòng vi trùng hémophilus, nhưng chưa có thuốc phòng bệnh hữu hiệu đối với màng não cầu.

Viêm màng lão do vurut - Chất lỏng lấy ra từ cột sống các cháu bị bệnh này do vi rút thường trong vắt, không có mủ và vi trùng. Những triệu chứng của bệnh cũng giống như trên, nhưng nhẹ hơn. Không cần thuốc kháng sinh bệnh cũng tự khỏi trong vài ngày, người ta phát hiện bệnh bằng cách xét nghiệm kháng thể trong máu. Bệnh có thể do cháu bị quai bị hay nhiễm một số vi rút khác.

Viêm màng lão do lao - Hiện nay hiếm thấy vì các cháu đã được tiêm BCG phòng lao từ nhỏ.

4. Bé rụng tóc hoặc không có tóc.

Nhiều bà mẹ lo ngại con mình bị hói vì quãng đầu Bé đè lên gối khi nằm, không có tóc. Thật ra, hiện tượng này là bình thường, chỉ do vì ma sát mà thôi. Lẽ dĩ nhiên, có nhiều đứa trẻ khác cũng nằm như thế mà vẫn có tóc. Nhưng, tóc Bé có thể mảnh mai hơn, dễ rụng hơn và cháu hay nằm lâu ở một tư thế hơn là các Bé khác, đặc biệt là nằm ngửa.

Nếu cháu đã lớn nhưng vẫn rụng tóc thì rõ ràng là có vấn đề cần chú ý: có thể cháu bé có thói quen giật tóc hoặc soắn tóc mình. Ngoài ra, sau khi khỏi bệnh sốt thương hàn cũng bị rụng tóc. Một số dược phẩm, thuốc uống cũng có tác dụng như vậy.

Một số ít các cháu có những mảng da trống không có tóc trên đầu do bị nấm tóc, cần phải chữa trị ngay vì bệnh này có thể kéo dài và lây.

Một số trẻ từ 2 tuổi trở lên bị rụng tóc từng mảng lại do những nguyên nhân tám lý.

Nói chung, khi xác định một đứa trẻ có chứng rụng tóc, cần phải đưa cháu tới bác sĩ để tìm nguyên nhân và chữa trị .

5. Chấy.

Một cháu bé sạch sẽ vẫn có thể lây chấy của các cháu khác, các cháu có chấy hay gãi đầu vì bị ngứa. Nhìn kỹ vào tóc của các cháu, bạn sẽ thấy các trứng chấy nhỏ, tròn, mầu xám bám vào tóc.

Hãy gội đầu hàng ngày cho cháu bằng các chất thuốc chống chấy bán ở hiệu thuốc trong 5 ngày liền. Hãy dùng xà phòng gội kỹ lại, chải tóc bằng lược bí (có rǎng lược khít).

Nhúng lược vào dấm nóng để chải rồi lấy khǎn sạch trùm lên tóc các cháu một hồi lâu.

Thay và giặt áo gối, khǎn trải giường và quần áo mỗi ngày cho các cháu!

6. Mắt.

Những vấn đề về mắt đã được đề cập trong những mục: đau mắt đỏ, chắp, lác v.v...
Nếu đau mắt vì bị chấn thương cần phải tới ngay bác sĩ chuyên khoa mắt để khám mắt. Tất cả các hiện tượng bất thường ở mắt nói chung; ở giác mạc, thủy tinh thể, con ngươi nói riêng, đều ảnh hưởng tới thị giác và có thể làm khả nǎng nhìn của cháu bé kém đi.

PHáT HIệN MắT KéM - Cũng như việc nghe kém, việc nhìn kém của các cháu cần phải phát hiện và tìm nguyên nhân từ sớm. Thí dụ: hiện tượng lác mắt cần phải luyện tập cho các cháu cách nhìn theo một phương pháp riêng để chữa trị và luyện tập càng sớm càng tốt.
Có nhiều phương pháp thử nghiệm để phát hiện xem các cháu có bị kém về thị giác hay không. Có cháu mới được vài tháng cũng cần phải đeo kính.

7. Giảm thị lực.

Trẻ mới được mấy tháng có thể mắc chứng giảm thị lực nhìn không tinh ở một bên hay cả hai bên mắt. Có thể thử đơn giản bằng cách rọi tia sáng vào mắt cháu rồi theo dõi phản ứng. Nếu có nghi ngờ gì phải đưa cháu đến bác sĩ chuyên khoa mắt.

8. Chắp (lẹo) mắt.

Chắp mắt là loại mụn nhỏ mọc ở bờ mi mắt, dưới chân một lông mi. Chắp chóng khỏi nhưng dễ bị lại. Muốn trị chắp, chỉ cần bôi lên chắp loại pommát kháng sinh.

Nguyên nhân chắp là do một loại tuyến nhỏ ở bờ mi bị nhiễm trùng.

9. Chứng lác mắt.

Trong mấy tháng đầu, có lúc mắt trẻ sơ sinh có vẻ như hơi lác. Hiện tượng này về sau tự nhiên sẽ hết, vì trong những ngày đầu của cuộc sống, hai mắt các cháu chưa phối hợp khớp với nhau mà thôi.

Nhưng, nếu hiện tượng này kéo dài và thường xuyên thì bà mẹ phải đưa cháu tới bác sĩ chuyên khoa mắt ngay, càng sớm càng tốt.
Lác thường là khuyết tật của một bên mắt. Cần phải tập luyện cho bên mắt bị tật. Bác sĩ sẽ bǎng kín bên mắt không bị tật lại để luyện tập cho mắt kia hoặc cho cháu đeo kính có mắt kính đặc biệt để điều chỉnh hướng nhìn cho mắt cháu. Khi mắt cháu đã nhìn được bình thường rồi bác sĩ có thể thực hiện thêm một cuộc phẫu thuật thẩm mỹ nhỏ nữa.

10. Đau mắt đỏ.

Nhiều khi các cháu nhỏ vừa bị ho, vừa đau mắt đỏ. Lòng trắng mắt ngứa, hơi sưng và màu đỏ. Khi cháu hết ho, thì mắt cũng khỏi.
Nếu cháu chỉ bị đau mắt thôi, lòng trắng mắt màu đỏ, luôn chảy nước mắt, buổi sáng mí mắt dính vào nhau vì dỉ màu vàng đến nỗi cháu không mở mắt được, thì phải đưa cháu tới bác sĩ khám mắt. Trong khi chưa có bác sĩ, bạn có thể rửa nhẹ nhàng mắt cháu bằng nước ấm.

Nếu cháu mới được mấy tuần mà đã bị đau mắt như vậy thì chúng ta phải tìm xem có phải cháu bị tắc ống lệ đạo hay không. Lệ đạo là đường dẫn nước mắt.

CHƯNG ĐAU MắT CủA TRẻ SƠ SINH - Cháu bé khi mới sinh ra dễ bị lây nhiễm chất bẩn hay vi trùng vào mắt. Bởi vậy, khi mới lọt lòng, cháu thường được các bà đỡ tra thuốc phòng bệnh vào mắt như dung dịch nitrat bạc.

Vì nitrat bạc cũng không trừ diệt được một số vi trùng như trùng bệnh chlamydia, ngày nay người ta thường nhỏ thêm thuốc kháng sinh như cycline.

Khi một cháu bé vừa SốT, HO, và MắT RấT Đỏ, cũng nên nghĩ tới một số bệnh do vi rút gây ra, chẳng hạn như BệNH SởI.

11. Xỏ lỗ tai.

Một số bà mẹ muốn xuyên vành tai dưới cho con gái để đeo đồ trang sức. Việc làm này không có gì nguy hiểm với điều kiện các dụng cụ dùng để xuyên lỗ tai cho trẻ phải được rửa sạch và tiệt trùng cẩn thận, nhất là hiện nay, khi đang có dịch bệnh AIDS tràn lan trong thành phố.

12. Viêm xương chũm ở tai.

Sau vành tai mỗi người chúng ta đều có một gò xương vồng lên với đặc điểm là có những điểm nhỏ hõm xuống, vì thế được gọi là xương chũm. Trong số các hõm này, quan trọng nhất là hõm thông với tai trong. Khi tai giữa bị viêm, hõm này dễ bị nhiễm trùng và mưng mủ.

Ngày nay, chứng viêm xương chũm không còn phổ biến như trước kia. Nhưng việc phát hiện các cháu nhỏ, nhất là các cháu sơ sinh mắc chứng này ở giai đoạn đầu rất khó, vì các cháu chỉ biết khóc mà không nói được là đau ở đâu.

Bởi vậy, các bà mẹ cần chú ý, khi thấy tai của cháu bé chảy nước hay chảy mủ nhiều, màng nhĩ có sắc thái khác thường, cháu bị sốt và người gầy rộc đi. Cần đưa cháu tới bác sĩ chuyên khoa tai-mũi-họng để khám. Nếu việc uống thuốc kháng sinh đã kéo dài mấy tuần mà cháu vẫn không khỏi thì phải phẫu thuật để chữa trị.

13. Viêm tai trong.

Phần trong tai, sau màng nhĩ khi bị viêm thường kèm theo viêm họng. Các cháu bé sơ sinh hay bị chứng viêm này vì trong tư thế nằm, con đường thông nhau giữa tai và sau mũi trở nên rộng thoáng khiến vi trùng và vi rút dễ lây lan ở cả 2 nơi.

NHƯNG BIểU HIệN ở CHáU Bé - Những cháu bé chưa nói được khiến người lớn không biết cháu đau ở trong tai. Cháu có thể khóc, cọ tai xuống gối, nhưng cũng không đủ để mọi người hiểu. Tuy vậy, có một số triệu chứng sau làm chúng ta có thể nghĩ tới chứng viêm tai trong: cháu bị rối loạn tiêu hóa, đi tướt (ỉa lỏng), nôn ói, ho, cựa quậy luôn và khó ngủ. Việc đầu tiên của bác sĩ là khám tai và coi nhĩ tai cho cháu.

Với các cháu lớn thì việc xác định bệnh dễ dàng hơn vì các cháu nói được là thấy đau trong tai.

PHƯƠNG PHáP CHữA TRị - Thoạt đầu, khi tai bé bắt đầu bị sưng, đau, bác sĩ thường cho thuốc nhỏ vào tai để giảm đau. Sau này khi chỗ viêm đã có mủ, nhiều khi bác sĩ tai-mũi-họng phải tìm cách chọc một lỗ thủng ở nhĩ làm lối thoát cho mủ chảy ra và lấy mủ xét nghiệm xem chỗ viêm bị loại vi trùng hay vi rút nào gây bệnh.

HIệN TƯợNG TAI CHảY Mủ - Nhĩ có thể tự thủng để mủ chảy ra ngoài. Trường hợp này vẫn cần phải đi khám bác sĩ chuyên khoa tai-mũi-họng, vì như vậy chưa phải là bệnh sẽ hết. Ngay việc cho các cháu uống thuốc kháng sinh, bác sĩ cũng phải cân nhắc và theo dõi. Nhiều khi nhìn bề ngoài nhĩ, tưởng như đã khỏi vì thuốc có tác dụng nhanh nhưng thật ra không phải như vậy. Bệnh vẫn âm ỉ, chưa khỏi hẳn và có những biến chứng vào xương chũm khiến đứa trẻ sút cân, gầy yếu, và tới một lúc nào đó, bệnh lại trở lại.

Sau nhiều lần uống thuốc kháng sinh, tai không có mủ nữa nhưng lại có một chất nước sền sệt. Hiện tượng này kéo dài khiến nhĩ bị tổn thương nặng làm Bé bị giảm thính lực.

Trong thời gian chữa trị, Bé phải gài trong tai một ống thông, có khi trong nhiều tháng.

Nếu Bé bị đau tai nhiều lần, bị đi bị lại, các bác sĩ sẽ nạo V.A cho cháu.

14. Vành tai dị dạng.

Nếu vành tai cháu bé xa da đầu quá, chớ nên dính vành tai vào da đầu bằng bǎng keo hoặc bắt cháu đội mũ xụp xuống cả ngày để hòng sửa đổi được cái dáng của đôi tai.

Bạn hãy kiên trì đợi tới khi cháu lên 8 hoặc 9 tuổi, vì tới lúc đó mới sửa được cho cháu bằng phương pháp phẫu thuật rất đơn giản.
15. Vật lạ trong tai.

Nếu bạn không thể lấy ngay vật mà Bé đã nhét vào tai cháu thì đừng cố. Như vậy, bạn có thể làm tổn thương ống tai của Bé. Hãy đưa Bé tới bác sĩ khoa TAI-MũI-HọNG ngay. ở đó, bác sĩ có các dụng cụ chuyên môn để lấy vật ra.

16. Điếc.

Điếc là chứng bệnh không phải là hiếm thấy ở trẻ em. Các cháu có thể bị nghễnh ngãng hoặc điếc hoàn toàn. Hậu quả của tật điếc làm các cháu chậm biết nói. Nhiều bà mẹ không biết con mình bị tật này vì thấy con vẫn bình thường, nghĩ rằng cháu bé chỉ phát triển chậm đôi chút về trí tuệ. Một cháu bé hát sai có thể vì nghe không tốt: cần phải kiểm tra khả nǎng thính giác của cháu.

PHáT HIệN TậT ĐIếC của các cháu càng nhỏ, càng khó. Bố, mẹ các cháu nhỏ nên để ý theo dõi phản ứng của các cháu với các tiếng động hàng ngày như: tiếng nói nhỏ, tiếng rađiô, tiếng tích tắc đồng hồ, tiếng kẹt cửa v.v... Nếu có điều gì nghi ngại, nên đưa ngay cháu tới bác sĩ chuyên khoa tai để thử.

Việc kiểm tra định kỳ về thính giác cho các cháu thường được tiến hành khi các cháu được 9 tháng và 24 tháng. Hiện nay, ở các bệnh viện sản hoặc nhà hộ sinh, người ta đã áp dụng các phương pháp kiểm tra thính giác cho các cháu bé mới sinh được vài ngày hay vài tuần.

NGUYÊN NHÂN CủA TậT ĐIếC thì nhiều :

- Cháu bé có thể bị điếc bẩm sinh do di truyền hoặc bị nhiễm bệnh ngay từ khi còn trong bụng mẹ, như bệnh thủy đậu chẳng hạn.
- Cháu bị điếc nhẹ sau khi mắc một số bệnh; hoặc bị viêm tai mà chữa trị nửa chừng; hoặc do uống một số thuốc kháng sinh (như gentamicine) và bị ảnh hưởng của thuốc.

17. Vật lạ trong mũi.

Nếu Bé tống một vật nhỏ và làm kẹt vật đó trong mũi, thì bạn cần lấy ngay ra cho cháu. Nhưng phải cẩn thận, nếu không, bạn có thể làm cho vật tụt sâu thêm vào làm thương tổn tới phần niêm mạc bên trong. Nếu khó lấy vật ra, không nên cố mà nên đưa Bé tới bác sĩ chuyên khoa về tai-mũi-họng vì ở đó có nhiều dụng cụ chuyên môn để thực hiện việc đó có kết quả.

18. Sổ mũi, viêm mũi, viêm mũi - họng.

Sổmũi là một chứng nhẹ ởtrẻ em: thán nhiệt hơi cao hơn bình thường, mũi chảy nước (một chất nhầy lỏng, không màu). Với các cháu lớn, chỉ vài hôm là khỏi. Các cháu bé sơ sinh thì kèm theo một vài hiện tượng như khó ngủ, khó thở làm cho các cháu bú khó (vì khi bú không thở được).

Các bà mẹ có thể dùng các dụng cụ hút nước mũi cho các cháu, thường bán ở các hiệu thuốc; nhỏ mũi cho các cháu bằng các loại thuốc dành riêng cho trẻ em. Tránh dùng các thuốc có dầu và các loại thuốc làm co mạch máu.

Viêm mũi-họng là chứng bệnh về mũi nhưng lan từ phần sau của hốc mũi cho tới họng và có các triệu chứng như: chảy nước mũi, có thể sốt cao, thân nhiệt tǎng đột ngột nên có thể gây co giật ở các cháu nhỏ, ho, không chịu ǎn, ỉa chảy.
Để chữa trị cần : nhỏ thuốc mũi cho cháu, cho uống thuốc sốt. Bệnh sẽ khỏi sau vài ngày.

Tuy vậy, bệnh có thể biên chứng như : viêm tai, viêm thanh quản, viêm phế quản và phổi.
Để chữa những biến chứng này, phải cho cháu uống thuốc kháng sinh theo liều lượng đã được bác sĩ chỉ định.

Viêm mũi-họng tái phát - Mùa đông, các cháu bé thường bị đi bị lại bệnh viêm mũi-họng, dẫn tới viêm tai khiến các cháu thường xuyên bị ho, sổ mũi, xuống sức và chậm lớn.

Nguyên nhân có thể do: dị ứng, khả nǎng miễn nhiễm của cơ thể yếu, thiếu chất sắt, thiếu vitamin D. Nhưng, cũng có thể do các điều kiện về khí hậu và nơi ở như: không khí khô tự nhiên hoặc vì sưởi nóng, bụi phấn hoa, sự lây nhiễm giữa các trẻ trong tập thể, khói thuốc lá do người lớn hút trong nhà đóng kín cửa v.v...

Cũng nên chú ý rằng cơ thể các cháu nhỏ sau thời gian tránh được một số bệnh vì thừa hưởng khả nǎng miễn nhiễm của mẹ và do bú sữa mẹ, nay phải đi vào một thời kỳ tập tự chống chọi với các vi trùng và vi rút. Do đó, có thể coi mỗi lần cháu bé bệnh là một lần cơ thể của cháu có dịp luyện tập để chống cuộc xâm lǎng của các nhân tố có hại tấn công từ bên ngoài, để tạo cho mình khả nǎng chống nhiễm. Giai đoạn miễn nhiễm của trẻ hết khi cháu 6 - 7 tuổi.

Bởi vậy, việc dùng thuốc kháng sinh để chữa trị cho các cháu phải theo sự chỉ định có cân nhắc của bác sĩ. Chỉ dùng thuốc để trị bệnh, chưa hắn đã là tốt. Phải dành phần tiêu diệt vi trùng và vi rút cho chính cơ thể của cháu bé, sao cho cơ thể có khả nǎng tự miễn nhiễm, tǎng cường sức khỏe cho cháu bé như cho cháu tắm nắng, thay đổi không khí chỗ ở (đi nghỉ ở biển, ởnúi...), dùng thuốc để có thêm chất gammaglobuline trong máu, tổ chức các cuộc đi tắm nước khoáng v.v...

Nếu cháu luôn bị đau tai cũng nên nghĩ tới vấn đề nạo V.A ở họng cho cháu. Việc nạo V.A cũng có tác dụng làm cho cháu thở dễ khi ngủ, tránh được tật ngáy.

19. Tật sứt môi.

Cócháu bé mới sinh đã bị tật sứt môi: một đường nứt từ dưới mũi chạy xuống, chẻ đôi môi trên.
Chữa tật này phải phẫu thuật làm 2 giai đoạn: khâu dính liền chỗ đứt của môi và xử trí để nổi phần hàm bên trong vết nứt ở vòm họng.
Trong thời gian chữa, các cháu bé phải bú bằng những núm vú giả đặc biệt vì nuốt khó.
Sau giải phẫu, các cháu còn cần được theo dõi về các mặt rǎng, lợi, tai-mũi-họng và học phát âm cho chính xác. Tốt nhất là đưa các cháu tới những kíp chuyên gia điều trị tật này.

20. Rǎng.

Rối loạn mọc rǎng, có thể khiến đứa trẻ rên rỉ vì đau, không ǎn được và mất ngủ. Lợi cháu bị sưng làm má cũng tấy đỏ nước dãi chảy khỏi miệng cả ngày. Cháu quấy.

Bạn có thể làm cho cháu giảm đau hay quên đau bằng cách :

- Cho cháu một miếng bánh mềm, một cái bánh bích quy.

- Tẩm vào khǎn tay một ít sirô hoặc nước thơm rồi xoa nhẹ vào lợi, chỗ rǎng đang nhú lên. Cóthể thay bằng một cục nước đá nhỏ quấn trong khǎn.

- Cho cháu uống aspirine.

Đôi khi cháu còn bị sốt và đi tướt (ỉa lỏng). Nếu sốt cao, cũng tác dụng xấu bởi các cháu sẵn có chứng co giật. Do đó, khó xác định được là cháu bị sớt do rǎng đau hay vì một bệnh nào khác.

Trong trường hợp cháu bị sốt nhiều, nên để bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân :

LUNG LAY RǍNG Vì TAI NạN - Nếu cháu bé bị ngã mà gãy hoặc lung lay rǎng, nên đưa cháu lại nha sĩ ngay để xem còn có thể giữ dược rǎng không. Muốn rǎng khỏi rơi ra trong khi đi bạn có thể bọc quanh rǎng một đoạn kẹo cao su và bảo cháu cắn rǎng lại.
MUốN CáC CHáU Có Bộ RǍNG TốT, PHảI LàM Gì ?

Phải chú ý cung cấp cho các cháu đủ chất Canxi và Phốtpho trong thức ǎn. Những nguyên tố này có trong sữa và các sản phàm của sữa, trứng và rau.

- Dạy các cháu biết cách đánh rǎng từ nhỏ.

- Tránh các nguyên nhân gây sâu rǎng như ǎn kẹo buổi tối

- Dùng thêm chất Fluor hàng ngày, theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.

21. Sâu rǎng.

Trẻ em có những cái "rǎng sữa" cho tới 6 tuổi. Tuy những rǎng này rồi dần dần sẽ rụng hết, nhưng các bậc cha mẹ không nên coi thường hiện tượng rǎng sâu của các cháu. Trái lại, rǎng nào sâu cần phải chữa hoặc nhổ đi để không ảnh hưởng tới rǎng khác bên cạnh sắp mọc hoặc đang mọc. Nhất là các rǎng đang mọc lại là những rǎng vĩnh viễn.

Trẻ em có rǎng sâu nhai thức ǎn không kỹ. Do đó, việc tiêu hóa không được tốt. Chỉ cần có một cái rǎng sâu cũng đủ làm cho việc nhai, nghiền thức ǎn của cả hàm rǎng bị kém hiệu quả. Mỗi cái rǎng sâu lại là một ổvi trùng có thể gây ra nhiều loại bệnh do bị viêm nhiễm. Các cháu có bệnh tim hoặc bệnh thấp khớp cấp càng phải đặc biệt giữ gìn bộ rǎng cho khỏi sâu.

Việc cần thiết nhất là: dạy cho trẻ cách đánh rǎng từ nhỏ, cho trẻ đi khám rǎng thường kỳ, cho ǎn ít đồ ngọt, không ǎn vào buổi tối, dùng kem đánh rǎng có chất Fluor. Dù cái rǎng chỉ có một chấm đen, cũng cần tới bác sĩ chữa rǎng ngay: càng chữa sớm, càng chóng khỏi và đỡ tốn tiền.

Những thức ǎn ngọt ǎn trong bữa ǎn sẽ bị nước bọt tiết ra nhiều làm trung hòa tính chất axít của đường.

Nhưng nếu các cháu ǎn kẹo nhất là các kẹo dễ dính vào rǎng - vào buổi tối rồi đi ngủ, trong miệng không đủ nước bọt làm tan kẹo và trung hòa chất xít do đường biến chất đọng lại ở các kẽ rǎng, chất axít này sẽ làm hỏng men rǎng và phá hoại các chân rǎng.
Kinh nghiệm cho thấy chất Fluor có tác dụng chống sâu rǎng. Bởi vậy, ở một số nước, người ta pha Fluor vào nước uống, vào sữa hoặc trộn vào muốí ǎn. Một số rau, cá có chứa Fluor. Trong thành phần nhiều loại thuốc đánh rǎng ngày nay cũng có Fluor. Các bác sĩ còn hướng dẫn cho các bà mẹ cho các cháu bé mới sinh uống một lượng nhỏ Fluor mỗi ngày ngay trong những tháng đầu.

22. Hạt cơm trong miệng.

Bên trong miệng ở phần trong má và môi của Bé, có thể có những hạt nhỏ màu trắng xám mọc lên rải rác, đôi khi có nhiều làm bé bị vướng và đau khi ǎn, uống. Do đó, Bé không chịu ǎn.
Có thể lấy bông quấn vào đầu tǎm, tẩm thuốc sát trùng và chấm khẽ vào các hạt trên.
Cho Bé ǎn loãng, mát (sữa để hơi lạnh).

23. Chứng tưa miệng do vi rút.

Chứng bệnh này do vi rút gây ra làm cho bên trong miệng của cháu bé (má, lưỡi, lợi) có nhiều vết loét nhỏ, nằm dưới một lớp màng trắng. Khi màng trắng này bong ra, những vết loét càng đau rát làm cho cháu bé không ǎn được, vì việc tiếp xúc với thức ǎn, dù là thức ǎn lỏng, cũng làm các cháu đau. Hiện tượng này kéo dài trong 4, 5 ngày. Trong thời gian mang bệnh, cháu bé chảy nhiều nước dãi, miệng hôi và có thể sốt tới 40[SUP]o[/SUP]C.

Bác sĩ thường cho các cháu thuốc bôi miệng. Các bà mẹ nuôi các cháu nên kiên nhẫn cho các cháu ǎn ít một các món súp, nước quả, nước đường ướp lạnh... Trong khi cháu bé mang bệnh, tránh để cháu tiếp xúc với các cháu khác.

24. Bệnh tưa do nấm.

Bệnh tưa là loại bệnh nấm biểu hiện dưới dạng những đốm trắng như cặn sữa trong mồm. Toàn bộ chỗ mọc nấm màu đỏ, đụng vào đau khiến các cháu bé bỏ ǎn. Hiện tượng này có thể xảy ra cả trong bộ máy tiêu hóa từ miệng tới hậu môn. Tuy vậy, bệnh dễ khỏi nếu cho cháu uống thuốc đúng theo sự chỉ định của bác sĩ.

25. Viêm xoang hàm.

Bệnh viêm xoang thường hiếm gặp ở trẻ em nhỏ hơn 4 tuổi Các cháu nhỏ thường bị bệnh xoang do dị ứng. Nếu cháu bị viêm xoang mãn tính, các bác sĩ thường chẩn đoán bằng cách chụp X-quang, các xoang ở mặt. Một cháu bé bị viêm mũi, phế quản tái đi tái lại và ho dai dẳng cũng thường phải làm xét nghiệm này.

26. Nhức đầu.

Bệnh nhức đầu thường hiếm thấy ở trẻ em dưới 4 tuổi và chỉ thấy ở tuổi đã tới trường học. Các cháu hay kêu đau ở một bên trán, đằng sau một bên mắt. Cơn đau rần giật ở đầu như nhịp tim, lâu hàng giờ, trở đi trở lại, gây nôn ói hoặc làm mắt nẩy đom đóm. Đôi khi đã nhức đầu còn kèm theo cả đau bụng nữa.

Mỗi cháu có thể đau một kiểu khác nhau.

Sau khi loại bỏ các bệnh khác, bác sĩ thường cho rằng cháu bị nhức đầu vì truyền thống, trong gia đình, họ hàng từ xưa đã từng có người nhức đầu như thế.

27. Đau đầu.

Nếu trẻ em bất chợt bị đau nhức đầu dữ dội kèm theo sốt và nôn ói, hãy nghĩ ngay tới bệnh đau màng óc và phải đưa cháu tới bác sĩ ngay. Nhiều khi, cháu chỉ bị cúm theo mùa hoặc nhiễm một cǎn bệnh nào khác thôi. Nếu cháu hay bị đi bị lại, nên cho cháu đi kiểm tra mắt, khám xem có bị viêm xoang không. Cũng nên đề phòng xem cháu bị tổn thương ở não không, có bị huyết áp cao không, có bị nhiễm độc vì khí ôxít các bon không?

Vì nguyên nhân gây ra chứng đau đầu thì nhiều, nên chỉ có bác sĩ mới xác định được bệnh và có khi còn phải cho cháu đi chụp hộp sọ nữa.

Nhưng nhiều khi nguyên nhân bệnh lại có tính chất tâm lý như cháu bé lo sợ một điều gì, quá cảm động hoặc bị cǎng thẳng thần kinh vì vừa qua một cuộc thi kiểm tra ở lớp học.

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Những vấn đề có liên quan tới cổ

28. Tật vẹo cổ bẩm sinh.

Cháu bé có thể bị tật vẹo cổ ngay trong những tuần lễ đầu tiên: đầu cháu bé nghiêng xuống một bên vai trong khi cằm lại quay về hướng khác.

Nguyên nhân gây ra chứng này do các bắp thịt cổ ức đòn chũm có tật nên kéo cổ và đầu về một phía. Đôi khi người ta có thể nắn thấy một cục cứng ở chỗ bắp thịt có tật đó.

Người ta có thể chữa chứng này bằng phương pháp vận động trị liệu, hoặc tiến hành một cuộc phẫu thuật ở dây chằng của bắp thịt. Chứng này cũng có thể là do có tật ở xương sống cổ. Tuy nhiên trường hợp này hiếm thấy hơn.

29. Tật vẹo cổ ở trẻ em.

ở trẻ em đã lớn hơn một chút, tật vẹo cổ có nhiều nguyên nhân khác nhau: nhiều khi do một chấn thương nào đó mà người lớn không biết, hoặc do ảnh hưởng tư thế nằm của các cháu khi ngủ. Mắt lác cũng có thể làm các cháu vẹo cổ đi để nhìn cho rõ; hoặc bệnh viêm họng làm nổi hạch ở cổ, việc dùng thuốc như thuốc Primpéran chống nôn - làm co các cơ bắp ở cổ đều cũng có thể là nguyên nhân.
Nếu cháu bé vẹo cổ vì những nguyên nhân trên thì không cần phải chữa trị, tật vẹo cổ của cháu cũng sẽ hết sau một vài ngày.
Nếu tật này kéo dài, cần tới bác sĩ để xét nghiệm tìm những nguyên nhân có liên quan tới hệ thần kinh hoặc bệnh thấp khớp.

30. Tuyến giáp.

Tuyến Giáp có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển toàn bộ cơ thể của trẻ em. Nếu thiếu tuyến này hoặc tuyên phát triển không bình thường, lượng hoóc-môn Giáp tiết ra không đủ cung cấp cho cơ thể sẽ dẫn tới các chứng: chậm phát triển về chiều cao và về trí khôn. Bởi vậy, cần phải chú ý phát hiện bệnh càng sớm càng tốt vì việc chữa trị bằng hoócmôn Giáp tiến hành càng sớm chừng nào càng tốt chừng ấy cho sự phát triển của cơ thể và trí tuệ.

Những triệu chứng của cǎn bệnh về tuyến giáp có thể thấy ngay trong những tuần lễ đầu tiên của cháu bé: cháu không hoạt động, không kêu, không khóc, không đòi ǎn, ngủ nhiều và ít cựa quậy. Lưỡi bé lớn khác thường khiến cháu khó ngậm vú hoặc tu bình sữa, cháu đi táo, da tái và lạnh.

Nếu chụp X-quang, bác sĩ sẽ thấy những dấu hiệu bộ xương bị dị dạng hoặc chậm phát triển. Nhưng muốn xác định bệnh một cách chắc chắn để tiến hành chữa trị, cần phải xác định lượng hoóc-môn Giáp trong cơ thể. Việc sử dụng các chất sát trùng có iốt cho sản phụ và cho các cháu bé mới sinh có thể ảnh hưởng tới việc thử nghiệm dẫn tới những kết quả dương tính sai. Bởi vậy, người ta không dùng cồn iốt hoặc Bétadine trong lúc đỡ đẻ nữa.

Ngược lại với việc thiếu hoócmôn Giáp, lại có các cháu bé có dư hoóc-môn này, thường là bị di truyền từ mẹ . Những triệu chứng của bệnh dư hoócmôn giáp là: mắt lồi, bướu cổ, ỉa chảy và mạch nhanh.

31. Amiđan.

Amiđan là một cục thịt nhỏ nhìn thấy dễ dàng ở cuối vòm họng, từ trên rũ xuống, rất hay bị viêm. Người ta chưa xác định được rõ ràng vai trò của cục thịt này; nhưng hình như vị trí của nó là để ngǎn cản vi trùng và virút thâm nhập vào trong cơ thể qua đường miệng.

32. Viêm amiđan - Viêm họng.

Thông thường, trẻ sơ sinh ít khi bị viêm Amiđan. Các cháu ở độ tuổi từ 2 - 3 tuổi hay bị hơn. Nếu bị viêm, cục amiđan sưng lên, tấy đỏ hoặc có những chấm trắng, cháu bé sốt cao, nuốt khó và có hạch ở cổ, sờ vào cháu sẽ khóc vì đau.

Viêm amiđan là do liên cầu khuẩn hoặc vi trùng, phổ biến là loại liên cầu khuẩn (streptocoque). Trong trường hợp này, hiện tượng đau rát loang rộng cả vùng họng, cần chú ý chữa trị vì có thể biến chứng thành viêm khớp hoặc viêm thận.

Nhiều chứng bệnh của trẻ em bắt đầu từ viêm họng do loại liên cầu khuẩn sinh ra độc tố. Viêm họng dạng bạch hầu càng ngày càng hiếm thấy vì các trẻ em đã được chủng ngừa. Bị bệnh này, trẻ không sốt cao nhưng mất sức nhanh, trong họng thấy có những màng trắng, dầy, dính vào các amiđan.

Để chữa trị chứng viêm họng, bác sĩ thường lấy một ít màng nhầy ở họng cùng một mẫu máu để xét nghiệm. Đồng thời cho các cháu uống ngay thuốc kháng sinh để ngǎn chặn các biến chứng do trùng liên cầu khuẩn gây ra.

Viêm họng là một chứng bệnh nhẹ, thường sẽ khỏi trong vài ba ngày. Nhưng, điều đáng chú ý là hay bị đi bị lại nhiều lần.

33. Phẫu thuật cắt amiđan
.
Cắt amiđan là một tiểu phẫu thuật không có điều gì đáng lo ngại nếu sau khi cắt các cháu được sǎn sóc và theo dõi cẩn thận. Chỉ cắt amiđan cho các cháu từ 4 - 5 tuổi trở lên.

Trước kia, bác sĩ hay khuyên cắt amiđan. Bây giờ, việc cắt amiđan chỉ thực hiện trong những trường hợp cần thiết như đứa trẻ bị viêm họng luôn luôn, nhiều lần trong một nǎm, cục amiđan phát triển to tới độ làm cho cháu bé khó thở, bị đau khớp nặng, bị viêm thận hoặc để đề phòng các biến chứng có thể xảy ra tiếp.

Nên chú ý rằng những trường hợp amidan lớn không có nghĩa là bị viêm nặng.

Trước kia, người ta thường tránh cắt amiđan cho các cháu hay bị dị ứng. Ngày nay người ta không chú ý nhiều tới điều này nữa.
34. V.A.

Ngoài những amiđan nhìn thấy rõ ở họng trẻ em (amygdale) còn một cục thịt nữa ở cuối lỗ mũi, sau vòm miệng có tác dụng bảo vệ đường hô hấp chống lại sự xâm nhập của vi trùng và vi rút.

Nếu cục thịt này bị nhiễm, bản thân nó lại là nơi tập trung các vi trùng và vi rút ở ngay ngã ba TAI-MũI-HọNGvà trở thành nguyên nhân của các chứng bệnh về tai-mũi-họng và đường hô hấp.

Kết quả là mũi có thể thường xuyên bị nghẹt làm cháu bé phải thở bằng miệng, ngáy, nói giọng mũi, ho lâu khỏi, sốt 37 - 38[SUP]o[/SUP]C, buổi sáng có thể đã sốt 38[SUP]o[/SUP]C, bị hạch, chậm lớn, không chịu ǎn, hay quấy.

Trường hợp này, bác sĩ chuyên khoa tai-mũi-họng hay đề nghị tiến hành một phẫu thuật hoặc thủ thuật chuyên môn nhỏ. Cháu không cần phải nằm viện.

Tuy thủ thuật này thực hiện nhanh, nhưng không làm được cho các cháu dưới 1 tuổi.

35. Viêm vòm họng.

Sau mũi, có một điểm gặp chung của các đường tới từ miệng, mũi và tai. Nếu điểm này bị nấm, hoặc viêm, trẻ sẽ bị ho.

36. Viêm thanh quản.

Chúng ta thường nhận định chung rằng một cháu bé bị viêm thanh quản khi cháu ho ra tiếng khô như chó sủa, từng tiếng một và bị khó thở. Tuy vậy, nên phân biệt 2 loại viêm thanh quản theo các triệu chứng sau :

- Cháu bé đột nhiên bị ho và thở rất khó vào ban đêm vì thanh quản của cháu bị co thắt lại. Sự co thắt này có thể sẽ hết sau vài giờ nhưng rồi sẽ tái lại.

- Loại viêm thanh quản thứ 2 gây ra bởi một loại virút. Bệnh khi bắt đầu không đột ngột nhưng tiến triển ngày càng nặng thêm. Trường hợp này, phải đưa cháu bé vào bệnh viện ngay, vì nghiêm trọng hơn trường hợp trên nhiều.

Trong khi bác sĩ chưa tới hoặc chưa cho cháu đi bệnh viện nếu có điều kiện, làm tǎng độ ẩm của không khí sẽ có lợi cho cháu bé.

37. Bệnh bạch hầu.

Bạch hầu là một bệnh rất nguy hiểm, ngày nay đã bị loại trừ một phần lớn do phương pháp tiêm phòng bệnh. Những trẻ em không tiêm phòng bệnh, khi mắc bệnh, cổ họng bị đau, có một lớp màng trắng, dầy, dính, ngày càng phát triển làm cho trẻ thở khó. Đồng thời, cháu bé bị mệt, người nhợt nhạt, mạch nhanh dù thân nhiệt không tǎng nhiều.

Khi trẻ không tiêm phòng bệnh hoặc tiêm không đủ liều lượng mà có các hiện tượng trên, cần phải đưa tới bệnh viện ngay. Bác sĩ sẽ lấy một ít mẫu ở họng để xét nghiệm xem có vi trùng bạch hầu không.

 
Những vấn đề có liên quan tới ngực


38. Nghẹt thở do có vật lạ trong đường hô hấp.

Có nhiều trường hợp Bé bị ngạt thở:

Bi ngạt vì nằm ngủ dưới lớp chǎn nên bị thiếu không khí hoặc Bé bị nghẹt thở vì nuốt một vật và vật đó nằm ngáng trên con đường hô hấp. Thí dụ Bé nuốt một củ lạc hoặc một mẩu đồ chơi. Kết quả là Bé bị tắc thở ngay hoặc bị tắc thở dần dần vì vật nuốt mỗi lúc lại bịt kín hơn con đường hô hấp.

Trong trường hợp sau, cháu bắt đầu ho, rồi thở khó nhọc, mỗi lần thở lại có tiếng rên hoặc rít. Mặt Bé sạm dần lại rồi Bé ngưng, không thở nữa.

PHảI LàM Gì KHI CHáU Bé Bị NGạT TRÊN GIƯờNG ? Nếu thấy da bé tím hay xám, người không cử động hoặc bị co giật, hãy để đầu bé ngửa ra phía sau để bé thở dễ hơn.

Nếu thấy không có kết quả gì hãy làm hô hấp nhân tạo cho Bé, nhờ người đi báo bác sĩ hoặc đưa Bé tới trạm cấp cứu ngay.
NếU Bé NGạT Vì NUốT PHảI MộT VậT VàO HọNG - Nếu bạn nhìn thấy vật đó, hãy thử cố lấy vật đó ra bằng ngón tay của mình và chú ý không làm cho vật tụt sâu thêm vào họng Bé .

Nếu không lấy ra được, hãy làm theo phương pháp Heimlich như sau : .

PHƯƠNG PHáP HEIMLICH - Nội dung chính của phương pháp này là bất chợt ấn mạnh vào vùng dạ dày theo hướng từ dưới lên. Giữ cháu bé ở tư thế đứng hay ngồi (xem hình vẽ). Người chữa cho cháu đứng ở đằng sau, nắm bàn tay trái lại đặt lên bụng cháu ở trên rốn - vị trí của dạ dày - Bàn tay phải nắm lấy nắm tay trái và bất chợt ép mạnh vào bụng cháu theo chiều từ dưới lên trên để cho lượng không khí bị dồn từ phổi ra phía cổ họng sẽ làm bắn vật lạ ra. Có thể làm nhiều lần, lần sau cách quãng với lần trước.
Đối với các trẻ sơ sinh, phải ép bằng các ngón tay và chú ý nương nhẹ vì xương của các cháu còn rất yếu.

Nếu không đạt được kết quả, phải đưa cháu tới bệnh viện. Trên đường đi, không ngừng làm hô hấp nhân tạo.

NGạT Vì KHóC - Có trường hợp các cháu nhỏ từ 6 tháng tới 2 tuổi có thể bị ngạt vì khóc. Tiếng khóc của cháu từng đợt bị ngắt quãng vì tiếng nấc. Cháu vội thở nhưng cơn nấc lại đến làm cháu không kịp thở. Cuối cùng cháu ngất đi, mặt tím lại vì thiếu không khí. Cảnh tượng này dễ làm người lớn lo lắng vì xúc động nhưng không có gì nguy hiểm. Người lớn cần giữ bình tĩnh. Cháu bé sẽ chóng hồi tỉnh và tiếng khóc lại tiếp tục ré lên.

Cần chú ý sǎn sóc cháu bé hơn nhưng nên tránh để cháu cảm thấy rằng: muốn đòi gì cứ khóc là được!

39. Thở dốc.

Chứng thở dốc, thở từng cơn hối hả khiến các cháu bé không chạy nhảy, chơi đùa bình thường được như những đứa trẻ khác là một chứng bệnh rất đáng quan tâm. Vì nguyên nhân chứng bệnh này có thể do sự mất sức của toàn cơ thể hoặc bị thiếu máu. Nhưng cũng có thể do có trục trặc về TIM hoặc bộ máy Hô HấP; cần phải qua xét nghiệm để theo dõi.

40. Bé thở có tiếng rít.

Trừ trường hợp trẻ em ngáy khi ngủ, còn nếu cháu thở mà có tiếng lào xào hay tiếng rít thì phải báo ngay cho bác sĩ biết, nhất là nếu cháu lại bị sốt. Có thể đó là triệu chứng của một bệnh viêm ở mũi họng hay viêm phế quản bình thường, nhưng cũng có thể là những bệnh khác quan trọng hơn như: hen, vật lạ mắc trong cổ, viêm thanh quản v.v...

Có nhiều cháu bé sơ sinh khi thở đã nghe như tiếng gà kêu do thanh quản có cấu tạo hơi khác thường lúc mới sinh. Sau một vài tháng, thanh quản các cháu phát triển và dần dần trở thành bình thường, tiếng kêu kia cũng sẽ mất.

41. Ngưng thở cách quãng.

Trong những ngày đầu mới sinh ra, Bé thường thở không đều. Đôi khi có những đợt ngưng thở chừng vài giây hoặc lâu hơn 10 giây đối với các Bé sinh thiếu tháng. Hiện tượng này có thể kèm theo sự giảm nhịp đập của tim, có những biến cố xấu. Do đó, các Bé sinh thiếu tháng cần phải được theo dõi cẩn thận và được nuôi trong các thiết bị khí có máy theo dõi nhịp tim, nhịp thở. Những cơn ngừng thở trong giấc ngủ của trẻ sơ sinh hiện nay được coi như những nguyên nhân phổ biến nhất gây chết đột ngột cho các cháu.

42. Ngạt do gaz.

Những hơi làm ngạt có thể có trong gia đình là:

- Gaz dùng để đun nấu, thoát ra ngoài vì đường ống có chỗ rò rỉ;

- Khí ôxýt cacbon (CO), là một khí không màu, sinh ra từ cái máy sưởi ấm hay đun nước không hoạt động tốt.
Khi có hiện tượng một người trong nhà - lớn hay bé - bị ngạt do gaz, KHôNG Được dùng bất cứ một dụng cụ điện nào vì chỉ cần có một tia lửa điện nhỏ sẽ gây ra nguy hiểm khó lường trước được.

PHảI :

Khóa ngay bình gaz lại, mở rộng các cửa, hoặc đưa nạn nhân ra ngoài trời;

- Làm ngay hô hấp nhân tạo cho nạn nhân, nếu nạn nhân không còn thở nữa;

- Nhờ người hàng xóm gọi điện tới cơ quan cứu hỏa.

Nếu nạn nhân ngất, nhưng vẫn thở :

Không được cho nạn nhân uống bất cứ thứ gì. Việc làm này không làm cho nạn nhân tỉnh lại mà có nguy cơ làm nước vào trong phổi, rất nguy hiểm.

Để nạn nhân nằm im, đầu hơi thấp hơn chân, quay đầu sang một bên để tránh không cho lưỡi tụt vào cổ họng và nếu nạn nhân nôn ói, thì không bị nước tràn xuống phổi.

43. Ho.

Bình thường, những đường hô hấp luôn luôn được giữ gìn sạch sẽ do có những lớp lông nhỏ phủ trên lòng ống không ngừng chuyển động để đẩy các chất bẩn ra ngoài. Ho là một phản ứng của cơ thể, dùng hơi phổi tống các chất lạ hoặc chất nhầy do chính ống dẫn khí đã tiết ra nhiều quá, ra khỏi các ống dẫn khí. Bởi vậy ho là một phản ứng bảo vệ cần thiết của cơ thể, cho nên nhiều khi, không nên tìm cách ngǎn cản việc ho.

Để chữa trị bệnh ho, bác sĩ thường đặt nhiều câu hỏi để tìm nguyên nhân như: ho từ bao giờ, hay ho vào lúc nào? tiếng ho vang cao hay khàn khàn? Kèm với việc ho cháu bé có sốt không, có chảy nước mũi không, có khó thở không, có chất nhầy ở phân hay khi bị nôn ói không ?... Bác sĩ còn chú ý xem có phải là cháu bị lây ho gà hay bệnh sởi không?

Chúng ta nên phân biệt nhiều thứ ho khác nhau như sau:

* Ho cấp tính thường kèm theo sốt các trẻ em bị viêm đường hô hấp trên;

* Ho mạn tính do viêm lâu ngày các đường hô hấp trên, như bị viêm xoang chẳng hạn;

* Ho không kèm theo sốt có thể do dị ứng như hen; thường các cháu ho khan và ho từng cơn;

- Ho đêm ở các cháu sơ sinh do các chất nhầy tích tụ làm tắc các đường dẫn khí; để các cháu bé khỏi ho, chỉ cần nhấc cháu bé dậy và bế theo chiều đứng để các chất nhầy tích tụ trong các đường dẫn khí chảy thoát đi; ho đêm cũng có thể là triệu chứng của sự lưu thông ngược chiều của các chất ở đoạn từ miệng tới dạ dày;

* Ho tiếng khàn khàn từng tiếng một có thể do viêm họng;

* Ho từng cơn dài có thể là ho gà.

Nếu bất chợt cháu bé ho sặc sụa, không bị sốt nhưng thở khó khǎn làm mặt tái đi thì có thể do cháu bé đã nuốt hoặc tống một vật gì vào họng.

CáCH CHữA TRị - Như trên đã nói, nhiều khi không nên ngǎn cản bé ho. Các loại thuốc an thần, giảm ho có khi lại có hại làm cho cháu bé khó thở. Bởi vậy, các bác sĩ thường tìm loại thuốc có tác dụng làm loãng các chất nhầy ra để dễ tống chúng ra khỏi các đường ống dẫn khí.

Chỉ khi nào cháu bé ho khan nhiều quá, bị mất sức vì ho ban đêm thì bác sĩ mới cho cháu uống thuốc an thần để làm dịu cơn ho như trong trường hợp cháu bị ho gà.

Đối với các cháu bi ho kinh niên, hay bị đi bị lại, người ta thường áp dụng phương pháp vận động hô hấp hỗ trợ việc thở nhân tạo.

44. Ho gà.

Ngày nay, nhờ phương pháp tiêm phòng bệnh, nên ít trẻ em bi bệnh HO Gà. Với các cháu nhỏ không được người lớn cho đi tiêm chủng đủ liều thì HO Gà vẫn là một bệnh dai dẳng, đáng sợ.

Từ 8 tới 10 ngày sau khi tiếp xúc với một trẻ khác mang bệnh, cháu bé bắt đầu có các triệu chứng bị lây như: sốt nhẹ, bắt đầu ho và càng lúc càng ho nhiều hơn.

Từ ngày thứ 15 trở đi, cháu ho từng cơn. Mỗi cơn ho làm người cháu co dúm lại, mắt đỏ ràn rụa nước mắt. Sau cơn ho, cháu vội hít thở từng hơi dài nghe có những tiếng rít đặc biệt. Đôi khi miệng cháu có những chất dãi dính không nhổ ra được khiến cháu bị nôn ói.
Mỗi ngày cháu nhỏ có thể bị tới mấy chục cơn ho, số cơn càng nhiều chứng tỏ bệnh cháu càng nặng. Hiện tượng này kéo dài từ 2 tới 3 tuần hay hơn nữa, rồi mới thuyên giảm.

Nếu cháu vừa ho vừa sốt thì cháu có thể bị thêm chứng viêm đường hô hấp.

Thuốc kháng sinh ít tác dụng tới bệnh ho gà nên khi trị bệnh, các bác sĩ chủ yếu dùng thuốc an thần làm cho các cháu đỡ ho và ngủ được.

Vì những cơn ho tới bất thường nên phải thay đổi cách ǎn của các cháu. Lúc nào cháu ngớt cơn thì tranh thủ cho ǎn ngay, không kể giờ giấc.

Đối với các cháu từ 12 - 18 tháng tuổi - Ho gà rất nguy hiểm đối với các cháu bé ở độ tuổi này vì có thể làm cho các cháu chết vì không thở được. Bởi vậy, phải cho cháu nằm bệnh viện để được sǎn sóc kỹ càng trong một thời gian cần thiết.

Việc tiêm chủng phòng bệnh ho gà thường được phối hợp với việc phòng các bệnh uốn ván, bạch hầu, bại liệt bắt đầu từ 3 tuổi. Sau khi đã bị lây bệnh, việc tiêm chích thuốc gamma globuline trước khi cháu bé bị lên cơn, cũng có tác dụng làm giảm cơn hoặc ngǎn kháng cho các cơn ho xảy tới

Theo nguyên tắc, một trẻ em đã đi nhà trẻ hay tới trường, cần phải để nghỉ ở nhà 1 tháng, kể từ khi Bé bị cơn ho đầu tiên. Việc cách ly cháu bé bị bệnh với các anh, chị em trong nhà cũng cần phải như vậy.

45. Hen.

Hen là một bệnh có liên quan tới các phế quản và thể hiện từng cơn do các đường dẫn khí của phổi bị co thắt lại, làm cho bệnh nhân không thở ra được

Nguyên nhân của hen có thể giống nguyên nhân của các bệnh dị ứng: cơ thể và nhất là các ống phế quản của phổi phản ứng với các bụi phấn hoa, lông súc vật, bụi, một số vi sinh vật. Xét nghiệm máu hoặc thử nghiệm bằng phương pháp cấy dưới da có thể xác định được chất gây phản ứng hen.

Bệnh hen là một bệnh gia truyền: ông, bà, cha, mẹ, họ hàng có người hen thì các con cháu sau cũng dễ mắc bệnh.
Cơn hen nặng hay nhẹ tùy ở mỗi người, mỗi lúc. Một đứa trẻ lên cơn hen ngồi trên giường, mặt tím tái, đẫm mồ hôi, cố gắng hít thở khó khǎn với những tiếng rít đặc trưng của bệnh. Cần an ủi cháu khi bác sĩ chưa tới và không được dùng thuốc gì nếu không được bác sĩ chỉ định từ trước.

Các thuốc chữa hen có tác dụng chủ yếu làm giãn phế quản để cho cơn hen dịu đi. Nếu cơn hen vẫn tiếp diễn, thì cần phải cho cháu vào bệnh viện.

Bệnh hen là một bệnh phải chữa trị lâu dài. Các cơn hen không giống nhau có thể một nǎm xảy ra đôi lần, nhưng cũng có thể xảy ra nhiều lần trong một tháng, ảnh hưởng tới việc học hành và cuộc sống lâu dài của trẻ. Bởi vậy phải chữa trị tới cùng.
Tâm lý bi quan của trẻ bị bệnh cũng như sự lo âu của các người thân có ảnh hưởng xấu tới tinh thần và làm bệnh thêm trầm trọng Bởi vậy, việc động viên, khuyến khích an ủi người bệnh là những việc làm có tính chất tâm lý, nhưng lại rất cần thiết.

46. Viêm phổi.

Ngày nay, các bác sĩ hay nói một cách chung chung: viêm vùng phổi. Cháu bé bị viêm vùng phổi thường có các triệu chứng như: đột nhiên sốt cao, má đỏ, thở gấp (đôi khi cánh mũi phập phồng vì khó thở), ho. Cần phải đưa gấp trẻ tới bác sĩ. Việc chiếu X-quang sẽ cho biết cháu bị viêm phổi có rộng hay không?

Được chữa trị ngay, bằng thuốc kháng sinh, trẻ sẽ khỏi nhanh, trong vài ngày.

47. Viêm phế quản.

Một cháu bé bị cúm hoặc có thể kèm theo ho. Viêm phế quản nếu được chữa trị ngay khi cháu chỉ bị sốt nhẹ, cháu sẽ khỏi ngay bằng một liều thuốc kháng sinh. Thường thì chứng ho khỏi trong vòng 5 - 6 ngày nhưng cũng có khi kéo dài tới 1, 2 tuần, nhất là với các cháu chưa biết cách khạc đờm ra.

Nếu cháu đã khỏi, rồi lại bị lại, không nên cho cháu uống lại thứ thuốc vừa dùng hãy còn lại. Nên cho cháu đi khám bác sĩ vì chứng ho của cháu rất có thể liên quan tới một chứng viêm mạn tính vùng mũi họng. Ngoài ra còn một số bệnh khác mà bác sĩ cần phải nghe và thử nghiệm mới biết được như bị dị ứng, chẳng hạn.

48. Viêm phế quản dạng hen.

Một số trẻ em bị ho khi thay đổi thời tiết kiểu ho theo mùa. Chứng này gây bởi virút làm các cháu khó thở và khi thở có tiếng rít giống như hiện tượng hen.

Cháu ho, sốt, bị rối loạn tiêu hóa kéo dài nhiều ngày, bị đi bị lại nhiều đợt, mùa hè rồi lại mùa đông.
Một số cháu có thể chuyển thành hen thực thụ.

Để chữa trị, cần đưa cháu tới các bác sĩ chuyên khoa để hướng dẫn cho cháu về phương pháp thở. Biết cách thở sẽ giảm được cơn bệnh rất nhiều.

49. Bệnh lao (Phản ứng thử B.C.G).

Hiện nay, bệnh lao không còn hoành hành như thời gian cách đây 30 nǎm nữa, vì đã có nhiều loại thuốc phòng và chữa trị hiệu nghiệm. Tuy vậy, bệnh vẫn còn tồn tại, nhất là trong số những người cơ nhỡ.

Bệnh lao gây nên bởi vi trùng KOCH (B.K), do sự lây nhiễm trực tiếp. Trẻ em - nhất là các cháu sơ sinh - dễ bị lây bệnh, nên cần phải tiêm phòng cho các cháu bằng vắc-xin B.C.G (vi khuẩn mang tên người tìm ra chúng là Calmette và Guérin). Các cháu có thể bị lây từ một người không biết mình có bệnh hoặc một người có bệnh nhưng lại tưởng là mình đã khỏi rồi.

Giai đoạn bị lây bệnh đầu tiên của một cháu bé chưa tiêm phòng B.K gọi là sơ nhiễm có thể không có triệu chứng gì nổi bật, phải thử nghiệm mới biết được (cǎn cứ vào kết quả thử nghiệm âm tính hay dương tính). Tuy vậy, cũng có những trẻ có những biểu hiện như: sốt, tình trạng sức khỏe toàn thân bị suy sụp, xuống cân, gầy ốm. Kết quả chiếu X quang cho thấy có những điểm bất thường ở phổi như sự xuất hiện các hạch ở quanh khí quản và ở phổi. Đối với các cháu mới sinh, bệnh lao màng óc là một bệnh cực kỳ nguy hiểm.
Khi thấy một đứa trẻ bị sơ nhiễm lao, người ta thường để ý tìm xem người nào đã lây bệnh sang cháu và thường phát hiện ra ngay trong gia đình hoặc người thường tiếp xúc với cháu.

Việc chữa trị cho một cháu bé bị sơ nhiễm lao rất đơn giản: cho cháu uống thuốc kháng sinh loại chống lao trong thời gian từ 6 đến 9 tháng.

NHữNG PHảN ứNG VớI THUốC Thử LAO - Những phản ứng của cơ thể cháu bé đối với thuốc thử lao cho thấy: cơ thể cháu đã tiếp xúc với trùng B.K hoặc cháu đã được tiêm thuốc B.C.G phòng lao rồi. Người ta tiêm vào dưới da của các cháu một lượng nhỏ các vi trùng lao (B.K) đã bị chết, rồi quan sát trạng thái da ở chỗ tiêm.

* Nếu cơ thể không bị nhiễm B.K và cháu chưa tiêm phòng B.C.G thì không có phản ứng gì ở da: kết quả âm tính.

Nếu cơ thể đã tiếp xúc với B.K hoặc đã chích B.C.G thì da có phản ứng: kết quả dương tính.

Có nhiều cách thử nghiệm: làm trầy một diện tích rất nhỏ da của cháu bé rồi nhỏ một giọt thuốc thử lao lên vết trầy; đắp một lớp pommát (thuốc mỡ) thử lao lên da; dùng kim chích tiêm vào dưới da một lượng nhỏ thuốc thử.

Việc nhận định kết quả của việc thử nghiệm không phải ai cũng làm được, vì phải có chuyên môn và kinh nghiệm. Bởi vậy các bà mẹ cần đưa cháu tới bác sĩ hoặc nơi chuyên môn để bác sĩ hoặc các chuyên viên làm việc. Cần phải đưa cháu tới đúng hẹn, thường là 2 tới 4 ngày sau khi thử. Kết quả dương tính thường có các dấu hiệu như: chỗ chích thử có một vùng đỏ bao quanh, dưới da có một cục sờ thấy cứng hoặc quanh chỗ chích có nhiều điểm nhỏ hơi phồng, màu đỏ.

Có thể có nhiều dấu hiệu tương tự làm người ta lầm là kết quả dương tính. Bởi vậy, muốn chắc chắn, người ta thường tiến hành nhiều cách thử nghiệm, từng đợt cách nhau một khoảng thời gian.

Kết quả dương tính cho biết đứa trẻ đã tiếp xúc với B.K (nếu trước đó, cháu không được tiêm phòng B.C.G).

Nếu kết quả dương tính rất rõ rệt thì cháu vừa bị nhiễm B.K trong thời gian gần đây. Nếu kết quả dương tính không rõ rệt thì khó xác định được thời gian nhiễm bệnh. Bởi vậy, người ta thường thử ít nhất mỗi nǎm một lần cho các cháu, để dự đoán sự tiến triển của bệnh bằng cách so sánh các kết quả của mỗi lần thử với nhau.

NộI DUNG VIệC DùNG B.C.G - Khi dùng B.C.G để ngừa bệnh lao người ta chích vào cơ thể các cháu bé những vi khuẩn lao của bò, đã được làm yếu đi tới mức không gây được bệnh nữa nhưng vẫn kích thích được hệ miễn nhiễm của cơ thể cháu bé sản sinh ra các kháng thể chống lại được vi trùng lao, kể cả các vi trùng lao hoạt động ở người.

CáCH THựC HàNH - Sau khi đã biết rõ cháu bé đã thử lao kết quả âm tính, bác sĩ truyền ngay B.C.G vào người cháu. Có thể truyền bằng phương pháp làm xước da; hoặc chích thuốc vào dưới da; hoặc uống thuốc. Phương pháp tốt nhất là chích thuốc vào dưới da.
3 tháng sau mới kiểm tra kết quả và cháu bé phải có kết quả dương tính. Nếu kết quả âm tính thì việc tiêm ngừa vừa rồi chưa đạt yêu cầu, phải tiêm ngừa lại.

nước ta việc chích ngừa cho các cháu bé đã được thực hiện từ lầu. Việc chích ngừa lao B.C.G cần thực hiện càng sớm càng tốt. Vì vậy, người ta thường chích cho các cháu ngay khi mới sinh.

Tất cả mọi trẻ em đều có thể chích ngừa bệnh lao bằng thuốc B.C.G, trừ trường hợp cháu đang bị bệnh nào đó hoặc vừa tiêm ngừa một bệnh khác thì phải tạm hoãn lại một thời gian.

Việc chích B.C.G không làm cho cháu bé bị sốt hoặc có phản ứng gì khác ngoại trừ hiện tượng sau vài tuần, chỗ chích có một cái vẩy nhỏ, ở dưới vẩy có một cục cứng, chung quanh vẩy có một vùng đỏ. Nếu chích dưới da ở cánh tay, có thể nổi hạch ở nách. Có trường hợp hạch sưng to, có mủ nhưng thường sẽ khỏi nhanh.

Việc chích B.C.G phòng lao đã tỏ ra rất hữu hiệu, kể cả đối với các dạng lao nguy hiểm như lao màng óc. Tuy vậy, việc chích phòng phải thực hiện cẩn thận và có quá trình theo dõi về sau.

Đúng là sau khi đã chích ngừa, nếu kết quả dương tính không rõ rệt chứng tỏ khả nǎng miễn nhiễm yếu, cần phải chích lại. Thật ra, khả nǎng miễn nhiễm này cũng yếu đi theo thời gian. Bởi vậy, thường các cháu phải thử lao mỗi nǎm một lần để thấy nếu cần thì chích ngừa lại.

Thời gian và những nhận xét, theo dõi của mỗi lần chích ngừa cần phải được ghi đầy đủ vào sổ y bạ của các cháu.

50. Bệnh tim bẩm sinh.

Bệnh tim bẩm sinh gồm các chứng tim do sự phát triển bất thường ngay từ khi trong bào thai. Có nhiều nguyên nhân tới nay vẫn chưa được biết.

Có nhiều bệnh tim bẩm sinh khác nhau do có sự cấu tạo không bình thường của tim :

* ở các vách tim hay các van tim.

* ở các động mạch lớn xuất phát từ tim. Các động mạch này có thể bị hẹp bất thường, bị thấy đổi vị trí, bị thông nhau.

Một số trường hợp được phát hiện ngay khi Bé vừa mới ra đời, do thấy Bé bi tím tái, bị suy tim nguy hiểm tới tính mạng.
Một số trường hợp khác diễn ra ngấm ngầm, Bé chịu đựng được nên mãi sau này khi nghe tim bác sĩ mới phát hiện ra. Trong 20 nǎm nay, nền y học đã có nhiều tiến bộ về các mặt chẩn đoán và điều trị bằng phẫu thuật các bệnh tim bẩm sinh. Có thể chẩn đoán cho cả bào thai trong bụng mẹ bằng phương pháp siêu âm.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Những bệnh ngoài da của trẻ em gồm có: Ghẻ, lở loét do nhiễm trùng và chốc, Herpes mảng tròn hay các bệnh nấm khác.
Để đề phòng bệnh ngoài da, cần làm theo những chỉ dẫn về vệ sinh:

- Năng tắm rửa cho trẻ

- Trừ rệp, chấy rận và cái ghẻ

- Không để trẻ bị ghẻ có chấy rận, hoặc lở loét chới và ngủ chung với trẻ khác. Phải chữa sớm.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top