LỜI BÌNH TRÀNG GIANG
Xin bắt đầu từ chữ đời thường nhất, nôm na nhất, chữ củi khô. Làm sao củi còn khô được giữa mấy dòng nước chảy. Làm sao củi thành lửa trong tình trạng ấy!
Cái nhánh củi tìm đường về với lửa cứ bâng khuâng trôi theo dòng thơ, dòng đời để thấm hết vào mình những sầu trăm ngả. Sầu đìu hiu heo hút vãn chợ chiều; sầu lênh đênh bèo giạt; sầu cách trở không đò, không cầu; sầu rợn ngợp bóng chiều sa xuống vai gầy chim nhỏ… để rồi mối sầu ấy lớn hẳn lên mà thách đố với cái sầu vạn cổ đã nhóm từ mặt sông, mái bếp Đường thi: không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…
Mở bằng chữ củi kết bằng chữ khói, mạch thơ liền lạc, nhất khí. Cành củi khô như cái khuy bình dân đã cài được vào lỗ khuyết điển tích khói hoàng hôn, để cấu tứ thật chặt một bài thơ hay.
Nhà thơ TRẦN QUỐC TOÀN
Tràng giang (*), dòng sông đưa "cái tôi" trở về cội nguồn T
ràng giang khơi nguồn từ cảm hứng không gian: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nhớ không gian là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Lửa thiêng. Nhớ làm cho trời đất phân ly, giữa trời rộng và sông dài trở thành hai mảng không gian viễn cách. Huy Cận đã mô hình hóa vũ trụ dưới cái nhìn mới của con người hiện đại:
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong cái ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sáng và tối xuất hiện các chiều đối nghịch của không gian: mặt trời lặn xuống để ánh sáng hắt lên, trời vừa thấp vừa cao thành sâu chót vót; sông dài để đường biên của chân trời thêm rộng, bến bờ mất hút, điểm hẹn của bao cuộc gặp gỡ trở thành hoang vắng, cô liêu. Không gian giãn cách ở mọi chiều kích của nó đã phá vỡ cái mô hình vũ trụ Thiên - Địa - Nhân trong quan niệm của con người thời cổ. Con người không còn ở cái tư thế đầu đội trời chân đạp đất nữa mà trở thành một tinh cầu giá lạnh chơi vơi giữa cõi hư vô.
Tràng giang không còn là bức tranh thiên nhiên để con người hòa nhập cùng trời đất nữa mà trở thành dòng đời với bao xao động trong cái ranh giới nhập nhòa giữa cũ và mới. Cuộc sống cũ đi qua, cuộc sống mới đang hình thành, "cái tôi" chơi vơi giữa biển đời đầy biến động. Những xao động của ngoại cảnh đều chuyển hóa thành những xao động của tâm hồn, "cái tôi" thu nhận vào trong lòng mình mọi âm vang của vũ trụ. Con sóng gợn li ti cộng hưởng thành nỗi buồn điệp điệp, con thuyền xuôi mái với nước song song nhân lên thành nỗi sầu trăm ngả. Củi một cành với thân phận mong manh, vì thế trở thành "cái tôi" xê dịch giữa mấy dòng li tán. Sự sống trong vũ trụ Tràng giang trở nên mờ mịt, gián cách giữa hiện tại và quá khứ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cồn nhỏ lơ thơ như những nấm mồ hoang lạnh vật vờ trong cõi mịt mờ sương khói. Âm vang đìu hiu của con gió như thổi cái hồn của quá khứ vọng về hiện tại, xua sự sống của hiện tại vào hư ảnh của tương lai. Làng của một thời mất rồi, chỉ còn nghe dư âm. Chợ tưởng như đang còn đó nhưng đã muộn màng, chưa sum họp đã ly tan. Sự sống chứa đựng trong cái vũ trụ này có vẻ tiếp liền đấy mà vẫn chia cắt, nối kết đấy mà vẫn đứt đoạn: bèo dạt hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hóa thành không một chiếc đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật. "Cái tôi" cảm thấy bơ vơ, lạc lõng không biết về đâu trong cõi xa khuất nghìn trùng.
Bao nhiêu thanh âm tinh tế, mơ màng của sự sống được biểu đạt qua tiết tấu ngữ âm của thi ca: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót… cuối cùng dồn tụ lại thành âm ba "dợn dợn" có sức mạnh cuộn xoáy trong lòng nhà thơ. Con sông của trời đất hóa thành con sông của trái tim, dòng chảy của cuộc đời biến thành dòng chảy của cảm xúc. Con sóng buồn điệp điệp hóa thành con sóng của khát vọng, dợn dợn lên tưởng chừng như dội ngược về nguồn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tràng giang đưa ta chảy xuôi về biển trời xa xăm cuối cùng lại đẩy ngược ta về với nguồn cội. Giống như củi một cành khô lạc mấy dòng bất giác nhớ về núi rừng, nơi nó đã ra đi. Giống như chim nghiêng cánh nhỏ dưới áp lực của bóng chiều sa mà khao khát tìm về tổ ấm. "Cái tôi" với ảo tưởng tự do sẽ không bao giờ quên được cái ta cộng đồng của mình, dòng chảy trong trái tim của mỗi con người Việt Nam vẫn giữ một lòng quê với cái làng xa dù sau này chỉ còn dư âm trong những huyền thoại.
Nhà là nơi nuôi giữ Lửa thiêng để hồn ta bay về cội nguồn: Đại bàng vỗ cánh muôn năm trước. Ai biết trời xa rộng mấy khơi...
Châu Minh Hùng
(Khoa Ngữ văn - Đại học Quy Nhơn)
Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền thơ hiện đại Việt Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận. Bộ đôi ấy đã hình thành nên một xóm thơ “ Huy – Xuân ” trong phong trào thơ mới. Nhưng điều đó không hề có nghĩa là hai hồn thơ đó giống nhau, mà là ngược lại. Như sau này có người nhận xét : “ Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. “ Chính cảm hứng về vụ trụ bao la lớn rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thuở nhà thơ mới viết tập đầu tay – “ Lửa thiêng”. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập thơ, người ta chắc phải nói đến “Tràng giang”.
Trên ý nghĩa, “Tràng giang” là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Và như thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh âm, bởi cả hai chữ của tựa đề -“tràng” và “giang” đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong các nguyên âm.
Bên ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả câu đề từ :
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà thơ đã thả vào một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác mà chúng ta có thể thấy được qua những từ “nhớ” và “bâng khuâng” mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề - “sóng”. Sóng trên dải “tràng giang “ của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “ sóng vọt đến lưng trời ” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng gợn”. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.
Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền không chèo “xuôi mái”- hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai chữ này đã hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm ra cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, “điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, còn “song song” lại làm nên cảm giác về chiều dài.
Nhưng đến câu thơ thứ ba:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là “thuyền về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư :
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ “ củi một cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là “hiện thực sống sít”, làm nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình ảnh khó có gì thích hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô nghĩa, đơn côi của sự sống một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghĩa ấy dường như thấm vào trong từng chữ một của dòng thơ. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ “cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “.
Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên rộng lớn. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng đã từng nói hai chữ “đìu hiu “ấy đã được mượn trong hai chữ của “Chinh phụ ngâm” :
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu.
Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một “phiên chợ chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan mơ hồ - thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời :
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”, trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.
Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”. Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Nhưng câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba :
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Chữ “không đò” được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước, chữ “không cầu” lại được láy âm với câu trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò đậu. không có cả một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Như vậy hình ảnh “đò” được đặt trước vì động hơn. Nhưng đến chữ “chút niềm thân mật” thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá mênh mông, một chút niềm thân mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù “thân mật” đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những mức độ tình cảm.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối :
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Nhưng cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
( tạm dịch nghĩa : ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay ).
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
“Vời” được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Vì vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn mãi ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, và cũng rung rinh theo dòng nước như thế.Câu thơ đã mượn hình ảnh sóng nước tràng giang mà nói về nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy sâu nặng, thường trực trong lòng nhân vật trữ tình mà không cần được gợi ra bằng một làn khói hoàng hôn nào như trong thơ Thôi Hiệu :
Yên giang ba thượng sử nhân sầu
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Và như thế, nỗi nhớ, tình cảm quê hương cứ lai láng chảy trên khắp bề mặt của khổ thơ cuối cùng.
Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi về một tứ Đường thi quen thuộc. Chính Huy Cận nhận rằng chữ “đùn” của câu thơ thứ nhất là ông học từ bản dịch “Thu hứng” của Nguyễn Công Trứ :
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Còn câu thơ thứ hai lại được viết dưới ảnh hưởng của những câu thơ Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi.
Và hai câu thơ cuối cùng không khỏi làm người đọc nghĩ đến hai câu trong “Hoàng Hạc Lâu” (Thôi Hiệu)
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Điều đó có nghĩa là đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn của thi nhân không chỉ được giăng ra trên các chiều của không gian như ba khổ trước đó, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài dằng dặc trên chiều của thời gian. Bởi vì mỗi câu thơ trong khổ đều được neo đậu vào những nỗi buồn dường như vĩnh hằng trong những câu thơ đã được viết ra nghìn năm trước đó. Và nhờ có khổ thơ này mà mối sầu của “Tràng giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “. Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu “ ( Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối.
Tuy nhiên không vì thế mà có thể coi “Tràng giang” giống như là những vần thơ cổ điển. Huy Cận vẫn cứ hiện diện trong bài thơ như một nhà thơ mới, có thể nhận ra được từ cảm giác bơ vơ, bé nhỏ, một tâm trạng rất phổ biến của một “thời đại thi ca”. Bởi thế cánh chim chiều của Huy Cận mới yếu ớt, đáng thương đến thế, bởi đôi cánh nhỏ nhoi kia không đỡ nổi cả bóng chiều nhẹ nhàng, bảng lảng đến phải chao nghiêng. Nó khác nhiều với cánh cò bình thản trong thơ Vương Bột. Chất thơ mới ấy cũng thể hiện trong những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói “dợn dợn” ,làm nên cảm giác mơ hồ, lung linh không rõ rệt. Thêm vào đó, nhà thơ còn từ chối nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” vốn đã là khuôn mẫu trong thơ cổ. Tình không cần phải được gợi ra từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lý do trên, khổ thơ cuối cùng của “Tràng giang” đã đạt đến những thành công có ý nghĩa về cả hai phương diện : nội dung cảm xúc lẫn hình thức văn chương.
RÀNG GIANG Chu Văn Sơn
Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông hồ , bờ bãi , biển cồn , núi cao , đèo dốc … những không gian trời nước mênh mông . Nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng , vô tận của không gian , cái vô thuỷ vô chung của thời gian . Khi ấy , ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn . Bởi người ta thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người thất là nhỏ nhoi , kiếp người chỉ là thoáng chốc . Đời người sao quá phù du ! Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ lưu lạc giữa cái mênh mông của đất trời , trôi nổi trong cái xa vắng rợn ngợp của dòng thời gian . Ta bỗng thấy chơi vơi giữa thế gian này !... Ấy là lúc có thể đọc thơ Huy Cận . Cái thế giới đang mở ra trước mắt ta kia chính là thế giới thơ Huy Cận , thế giới của Lửa thiêng , thế giới của Tràng giang . Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc , cái nỗi niềm nhân thế đó.
Ngày trước , để bênh vực cho bài Tràng giang ( cũng là bênh vực cho Thơ mới!) người ta đã phải viện ra cái kỉ niệm của một chiến sĩ nào đó mà rằng : một người cách mạng như thế cũng rất yêu hai câu đầu của bài Tràng giang , vậy bài thơ này là lành mạnh , nỗi buồn ở đấy là trong sáng , chứ không có hại gì ! Rồi ngay cả Xuân Diệu cũng phải lập cả một hàng rào che quanh để bênh vực cho lòng yêu thiên nhiên của bài thơ . Không , lòng yêu thiên nhiên tạo vật tự nó là một giá trị , ngang hàng với những tình yêu khác . Lòng yêu thiên nhiên là một cảm xúc thuộc về nhân tính . Tự nó không cần bảo vệ!
“Tràng giang” không nhất thiết phải là sông Hồng , sông Cửu Long , đó có thể là Hoàng Hà , Hằng Hà , Vonga , Dương Tử… cũng được chứ sao . Tràng giang là một tạo vật thiên nhiên . Nó có thể được gợi ý , gợi tứ từ sông Hồng , từ một chỗ đứng xác định là bến Chèm . Nhưng khi đã thành hình tượng Tràng giang thì nó đã khước từ mọi địa danh, địa chỉ cụ thể để trở thành một tạo vật thiên nhiên phổ quát rồi . Lòng yêu của thi sĩ trong đó là một lòng yêu dành cho thiên nhiên tạo vật , một lòng yêu có ở hết thảy con người! Và đó chính là tầm vóc đáng có của bài thơ này !
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời. Không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người . Ấy là một thế giời vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển , vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái Tôi hiện đại , rất đặc trưng cho Thơ mới . Có lẽ vì thế chăng mà Tràng giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu , lớn lao , vừa hoang sơ , vừa cổ kính . Trong đó thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc , lạc loài .
Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên . Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ dẫn vào vô biên rồi ( Xuân Diệu đã rất tinh khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy : “trường” chỉ có nghĩa là dài , còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên được cả dài lẫn rộng . Thế nghĩa là lớn , ứng với hình tượng một con sông lớn ) . Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy miên man giữa trời đất . Và đọc câu đề từ người đọc như thêm một lần nữa vén lên bức rèm , bước qua ngưỡng cửa để đi theo một hành lang mở thông vào vô biên : “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Nhưng dầu sao những hình ảnh sống động của thế giới ấy có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu như thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng , câu thứ hai tả những dòng nước trôi , những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra , lan xa , gối lên nhau , xô đuổi nhau đến tận chân trời , thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song , rong ruổi mãi về cuối trời . Không gian vừa mở ra bề rộng , vừa vươn theo chiều dài . Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng của hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ :
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuộn cuộn trôi)
Cũng là đối xứng , nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi , còn Huy Cận có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả , trong khi tác giả Đăng cao đặt ở giữa câu , thì tác giả Tràng giang lại đẩy xuống cuối câu . Nhờ thế mà hai từ láy nguyên “điệp điệp” và “song song” tạo ra được dư ba . Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên . Dòng sông lớn mang trong lòng nỗi buồn lớn !
Suốt dọc bài thơ , Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa . Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông , vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng . Ấy là hàng trăm ngã sông , những cồn đất , những bờ xanh , bãi vàng , lớp lớp mây cao đùn núi bạc , ấy là một cành củi khô , một bóng chim nhỏ … Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đã đạt đến tận cùng là ở hai câu này :
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu .
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao . Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài . Có một khoảng không gian đang gĩan nở ra trong cụm từ “nắng xuống trời lên” . Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt . Nắng xuống đến đâu , trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót” . Có cái gì như phi lý! Có lẽ không chịu được sự phi lý mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn . Tiếc rằng , chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ . Đấy không phài là sự lạ hoá ngôn từ . Nếu có thì trước hết là sự lạ hoá trong cách nhìn , trong cảm giác . Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao . Mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song , dầu sao , đây vẫn là chiều sâu của cái nhìn lên . Cho nên , mới là “sâu chót vót” .Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao , ở đây bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ . Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất . Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó , mỗi lúc một chót vót hơn . Vừa tương xứng , vừa hô ứng với câu trên , câu thứ hai mở ra bát ngát , tít tắp . Câu thơ được viết giản dị , không chữ nào lạ , ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của Tràng giang , thế thôi ! Vậy mà thấy động . Các trạng thái tĩnh , các tĩnh từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hoá . Trong áp lực của cái nhìn xa hút , “sông dài (ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi)” vậy! Thế mới lạ , không có chữ nào lạ hoá , mà vẫn mới lạ . Thế mới biết chính cảm xúc mới lạ mới làm nên cái mới lạ chân chính cho nghệ thuật .
Là một người thuộc lớp Tây học , nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi . Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường . Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái “tĩnh” của thế giới . Có lẽ vì Tríêt học nơi đây đã quan niệm “tĩnh” là gốc của “động” , “tĩnh” là cội nguồn của thế giới . Cùng với nó , “tĩnh tại” và “thanh vắng” cũng trở thành tiêu chuẩn mỹ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái “tĩnh vắng mênh mông” trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không - một hư không chứa đầy âm nhạc , chứ không phải hư không trống rỗng . Huy Cận cũng tái tạo như thế , nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn . Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại . Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn , bơ vơ . Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu , cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên , trống trải , cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông . Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng .
Đúng ra , con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái” , thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc . Rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông , nghìn luồng sóng :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
.
Cố tìm kiếm âm thanh cuộc sống , chỉ tìm âm thanh xoàng xĩnh thôi , dường như cũng không thấy, hoặc quá ư xa mờ , vô nghĩa :
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều!
Chữ “đâu” ở vị trí này có thể hiểu theo hai cách : vừa là phủ định từ với nghĩa là “đâu có” , vừa là từ chỉ nơi chốn với nghĩa là “đâu đó”. Theo nghĩa thứ nhất thì khớp với cách phủ định hoàn toàn sự có mặt của con người ở những câu sau . Còn theo nghĩa thứ hai thì có “tiếng làng xa…” và đó là âm thanh của cuộc sống đang tan rã , lịm tắt , mờ nhạt , thê lương . Một đằng đã vắng bóng , một đằng đang vắng bóng . Và đằng nào thì cũng quạnh quẽ , cô liêu.
Những phương tiện giao lưu chứng tỏ sự có mặt của con người cũng không hề có:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Và sự phủ định cuối cùng “không khói hoàng hôn…” . Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén . Ngày vắng xem hoa bợ cây” ( Nguyễn Trãi) , “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” ( Bà huyện Thanh Quan ) , hay “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ( Nguyễn Khuyến) nữa . Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ . Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế ! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo . Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối . Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên . Đứng trước cảnh thế này , hơn nghìn năm trước , Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ . Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ . Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu ! Nhớ nhà như là để vượt thoát , để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cổ hữu mà thôi:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác : tiếng sóng của lòng quê ! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất ?
Đứng trước dòng sông lớn , ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn , trường cửu . Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này . Nghìn năm sau , khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này , nó vẫn chảy thế kia . Tràng giang vẫn điềm nhiên , dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người . Sự lặng lẽ cuả tràng giang là miên viễn . Và hình như trong bài thơ , Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ . Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ , nhất là láy nguyên : điệp điệp , song song , lớp lớp , dợn dợn …không chỉ gợi được sự đường bệ , mà còn gợi được nhịp triền miên . Những cặp câu tương xứng như trùng lặp , nối tiếp , đuổi nhau không ngừng nghỉ : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp // Con thuyền xuôi mái nước song song”. Các vế câu vừa cắt rời , vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi , rong ruổi , miên man : “Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót . Sông dài / trời rộng / bến cô liêu” . Rồi những từ , cụm từ chỉ sự trùng điệp , nối tiếp ở cuối các câu : “hàng nối hàng” , “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” … tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau , kết lại với nhau , phụ hoạ lẫn nhau , tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt : có một dòngTràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng Tràng giang không chỉ chảy trong không gian , mà còn chảy trong thời gian - từ thuở khai thiên lập địa , chảy miết qua các thời đại mà về đây ! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang ?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này : mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó ?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ ? Mà dường như cũng là của một người già ? Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng ?
Tràng giang - tạo vật với tâm tình
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
ThS. Đào Đức Doãn
Đại học Sư phạm Hà Nội
Mở đầu bài thơ đã là dòng sông, mặt nước, lòng người. Tạo vật với tâm tình cứ xen lẫn vào nhau làm cho câu thơ có sức gợi hơn là tả:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" - bài thơ là cả một cảnh lớn - tràng giang, và một tấm lòng rộng mênh mang cùng "trời rộng sông dài" ấy. Câu thơ thứ nhất, bốn chữ đầu là tả, ba chữ sau đã là gợi. Tả và gợi cứ xen vào nhau. "Con thuyền xuôi mái nước song song" là hiện thực, là bức tranh trước mắt. Đến "Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả" thì không còn là bức tranh ấy nữa, mà đã là tương lai, là nghĩ suy, là chia ly và tâm tình. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Con thuyền xuôi mái" - mọi cái đều dẫn đến chia ly: "Thuyền về nước lại".
Bức tranh thiên nhiên có tràng giang, sóng nước, con thuyền gợi không khí trang nghiêm cổ kính. Bút pháp cũng là bút pháp của thơ cổ: thiên nhiên rộng rãi khoáng đạt được điểm bằng vài nét chấm phá. Nhưng chấm phá bằng chi tiết kỹ và tinh quá. Đến như "củi một cành khô" cũng được đưa vào thơ thì hơi thơ đã mất đi nhiều âm điệu cổ điển. Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa, thành cái nổi trôi, bất định của một cành củi khô không đáng kể gì giữa sông nước tràng giang mênh mông, rợn ngợp.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn cỏ", những "gió đìu hiu", hay "nắng xuống trời lên", mà thực ra chỉ để tả cái vô tận, không cùng và vắng lặng đến thành rợn ngợp của "Sông dài trời rộng, bến cô liêu". "Bến cô liêu" là một đặc điểm trong không giang cũng như có hồn người. Tả và gợi lại quyện vào nhau, cái tâm tình cứ luôn được toát lên từ tạo vật.
Khổ thơ tiếp theo lại thêm một nét chấm phá nữa vào bức tranh khung cảnh: "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng". Nếu là "bèo dạt nối hàng" thì chỉ là tả một cách khách quan. "Bèo dạt về đâu", rồi ngắt ra, sau đó mới là "hàng nối hàng". Câu thơ không còn tả nữa, mà đã là hỏi, là tâm trạng "bèo dạt hoa trôi". Không gian trải ba chiều: cao, rộng và dài. Tất cả đều chỉ là quạnh vắng với cô liêu. Tất cả đều chỉ là nhỏ bé, mơ hồ, mỏng manh trước cái vô tận, không cùng của vũ trụ. Vậy thì sao mà không khỏi thốt lên, than thở cho những số kiếp con người trôi dạt trên con sông thời gian. "Bèo dạt về đâu" ấy thế là thành tâm trạng, là số kiếp, là thân phận chứ không đơn thuần dòng sông mặt nước. Hai câu thơ giữa đoạn:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
không phải là sự phủ định, mà là ao ước thiết tha nhưng vô vọng về hình bóng con người. Nếu hiểu đây chỉ là cách nói phủ định để nhằm làm nổi lên cái "dài", "rộng" và "cô liêu" thì ý nghĩa tâm tình mất đi nhiều, còn lại chỉ đơn thuần là thủ pháp, là kỹ thuật mà thôi.
Đến khổ thơ cuối bài, hai câu đầu là tạo vật, hai câu sau lại là tâm tình:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Mây đùn như núi, lớp lớp phía chân trời. Sự liên tưởng thật là độc đáo. Nhìn một cánh chim lẻ loi chao liệng mà thi sĩ tưởng như nó đang chịu sự đè nặng của cả vũ trụ, trời đất. Vũ trụ trời đất ấy lớn lao, không cùng không tận, dồn sức nặng vào bóng chiều làm chim phải nghiêng cánh, lệch cánh. Sự sống thật mỏng manh yếu ớt.
Trở lại cả bài thơ, toàn sự đối lập như thế cả. Cái hữu hạn thì vô nghĩa vô hướng, chỉ là không đáng kể, mơ hồ và nhạt nhòa. Cái vô hạn thì sừng sững, không cùng, trùm lấp và chi phối. Một bên là "Con thuyền xuôi mái"; "Củi một cành khô lạc mấy dòng", "Bèo dạt về đâu" và "chim nghiêng cánh nhỏ"... Bên kia, đối lập hẳn, là "sầu trăm ngả", "buồn điệp điệp", "mây cao đùn núi bạc",... Cái hữu hạn đối diện với cái không cùng như thế, làm sao con người không trở nên lạc loài, vô vọng.
Ai cũng biết hình ảnh cuối bài thơ "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" là tiếp ý thơ Thôi Hiệu: "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Câu thơ Huy Cận cao độ hơn, "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Không khói hoàng hôn nhưng đã có cả trời nước tràng giang vô tận, không cùng. Cái không cùng vời rộng của mây nước tràng giang rợn ngợp đến thành cảm giác da thịt "dờn dợn vời con nước". Bài thơ không cốt tả "hình xác" mà gợi cái "thần xác" của tạo vật. Trên nền "thần xác" ấy, mạch tâm tình tự nhiên đạt đến cao độ, để sự da diết "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" như tự nỗi niềm cất lên thành câu chữ. Cái tứ của bài thơ đến câu thơ cuối mới lộ ra. Cả bài thơ như thế là nỗi lòng bâng khuâng, cô tịch của một lữ khách "thiếu quê hương" đứng trước con sông thời gian, cái tôi bé nhỏ đòi khẳng định mà đành bất lực. Cảm hứng của cả một thời thơ mới trở thành độc đáo, mang cái "sầu thiên cổ" rất riêng của Huy Cận.
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
Bài đọc thêm
TRÀNG GIANG
Điểm cao trong luồng thơ tạo vật với tâm tình này chắc hẳn là bài “Tràng giang”; thiên nhiên tạo vật ở đây là đất nươc rồi, đất nước của ta. Bài thơ hầu như trở thành cổ điển, của một nhà “thơ mới”. Vào một cách dõng dạc đàng hoàng, vì đây là “đại giang”, là sông lớn, ví dụ như sông Hồng; là tràng giang; rộng, bao gồm cả trường giang; dài; sầu trăm ngr chứ không phải ít ngả, vì là sông lớn:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hơi thở cổ điển là đúng, bởi sông lớn là giang san bền bỉ muôn đời. Duy câu thứ tư thì hiện đại; thơ truyền thống của cha ông ta không đưa cái nét hiện thực, thực tế, nôm na, chân thật đến sống sít, là cải một cành trôi đi trên sông.
“lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Tâm lý của thơ trữ tình công khai nói chung trước cách mạng là nói nỗi buồn; Huy Cận cũng muốn làm nổi bật cái “dài”, “rộng” và “cô liêu”, cho nên phủ định, đến cả một chuyến đò ngang, đến cả một chiếc cầu, chỉ có bờ bờ bãi bãi. Và đây là tâm trạng trước cách mạng: “bèo dạt, hoa trôi”, những số kiếp con ngời trôi dạt trên con sông Thời gian:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang,
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Bốn câu kết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
điệp điệp, song song, rồi lớp lớp, lại nhắc cái trang nghiêm của hai câu thơ mở đầu, bởi đây là không khí của sự lớn lao.
“Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa”.
Ở nửa trên bài: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, trưa đã ngả sang chiều, nhưng còn nhiều ánh sáng lắm, có vậy mới thấy được thật xa, mênh mông; đoạng cuối bài thì là càng gần về hoàng hôn, con chim đang xoè cánh bay, bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh, lệnh cánh: cũng là lúc:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Câu thơ Thôi Hiệu: “Yên ba giang thượng sử nhan sầu” (Tản Đà dịch: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”),do đó. Huy Cận nói cao độ hơn: có khói trên sông, đã đành là nhớ nhà; ở đây nhớ nhà cao độ, không cần phải có khói hoàng hôn mới gợi nhớ - Cả bài thơ thúc lại ở hai câu kết này; cái điệp từ cuối cùng “dờn dợn” nói lòng quê bát ngát mênh mông, sông càng vời rộng, càng nhớ quê hương. “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn, Tổ quốc. (Xuân Diệu)
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ - Đây là một hồn thơ buồn,
nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến
những cảnh mênh mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi
lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa.Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách nói trên.
1. Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu
tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, con sông trong thơ tự
nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm
tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn
năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng
giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ -
Lửa thiêng)
2. Khổ một: Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì
tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô
“điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền
xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.
Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự
chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi lìa rừng không biết trôi về
đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Hình ảnh một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng
giang... là hình ảnh của nỗi buồn muôn thuở.
3. Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều
đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy,
nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột ngột
đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành
cô liêu hơn:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
4. Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì
gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước.
Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác, chia lìa.
5. Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng hôn
thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời:
Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chim mỏi về rừng tìm chốn trú
(Hồ Chí Minh)
Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ
mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên
một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa
như một tia nắng chiều rớt xuống.
Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ
để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển
ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa thêm
“khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của
người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
6. Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã đi
qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên
sóng nước mênh mông, ở hình ảnh những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở
một cánh chim chiều.
Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài Tràng
giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ.
Còn “cái tôi Thơ mới” thì tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh không
thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy một niềm
khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân
loại - niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông
nước Tràng giang.
Bài giảng của: Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa
và Luyện thi đại học Vĩnh Viễn
Sưu tầm
Xin bắt đầu từ chữ đời thường nhất, nôm na nhất, chữ củi khô. Làm sao củi còn khô được giữa mấy dòng nước chảy. Làm sao củi thành lửa trong tình trạng ấy!
Cái nhánh củi tìm đường về với lửa cứ bâng khuâng trôi theo dòng thơ, dòng đời để thấm hết vào mình những sầu trăm ngả. Sầu đìu hiu heo hút vãn chợ chiều; sầu lênh đênh bèo giạt; sầu cách trở không đò, không cầu; sầu rợn ngợp bóng chiều sa xuống vai gầy chim nhỏ… để rồi mối sầu ấy lớn hẳn lên mà thách đố với cái sầu vạn cổ đã nhóm từ mặt sông, mái bếp Đường thi: không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà…
Mở bằng chữ củi kết bằng chữ khói, mạch thơ liền lạc, nhất khí. Cành củi khô như cái khuy bình dân đã cài được vào lỗ khuyết điển tích khói hoàng hôn, để cấu tứ thật chặt một bài thơ hay.
Nhà thơ TRẦN QUỐC TOÀN
Tràng giang (*), dòng sông đưa "cái tôi" trở về cội nguồn T
ràng giang khơi nguồn từ cảm hứng không gian: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nhớ không gian là cảm hứng chủ đạo của tác phẩm Lửa thiêng. Nhớ làm cho trời đất phân ly, giữa trời rộng và sông dài trở thành hai mảng không gian viễn cách. Huy Cận đã mô hình hóa vũ trụ dưới cái nhìn mới của con người hiện đại:
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Trong cái ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sáng và tối xuất hiện các chiều đối nghịch của không gian: mặt trời lặn xuống để ánh sáng hắt lên, trời vừa thấp vừa cao thành sâu chót vót; sông dài để đường biên của chân trời thêm rộng, bến bờ mất hút, điểm hẹn của bao cuộc gặp gỡ trở thành hoang vắng, cô liêu. Không gian giãn cách ở mọi chiều kích của nó đã phá vỡ cái mô hình vũ trụ Thiên - Địa - Nhân trong quan niệm của con người thời cổ. Con người không còn ở cái tư thế đầu đội trời chân đạp đất nữa mà trở thành một tinh cầu giá lạnh chơi vơi giữa cõi hư vô.
Tràng giang không còn là bức tranh thiên nhiên để con người hòa nhập cùng trời đất nữa mà trở thành dòng đời với bao xao động trong cái ranh giới nhập nhòa giữa cũ và mới. Cuộc sống cũ đi qua, cuộc sống mới đang hình thành, "cái tôi" chơi vơi giữa biển đời đầy biến động. Những xao động của ngoại cảnh đều chuyển hóa thành những xao động của tâm hồn, "cái tôi" thu nhận vào trong lòng mình mọi âm vang của vũ trụ. Con sóng gợn li ti cộng hưởng thành nỗi buồn điệp điệp, con thuyền xuôi mái với nước song song nhân lên thành nỗi sầu trăm ngả. Củi một cành với thân phận mong manh, vì thế trở thành "cái tôi" xê dịch giữa mấy dòng li tán. Sự sống trong vũ trụ Tràng giang trở nên mờ mịt, gián cách giữa hiện tại và quá khứ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cồn nhỏ lơ thơ như những nấm mồ hoang lạnh vật vờ trong cõi mịt mờ sương khói. Âm vang đìu hiu của con gió như thổi cái hồn của quá khứ vọng về hiện tại, xua sự sống của hiện tại vào hư ảnh của tương lai. Làng của một thời mất rồi, chỉ còn nghe dư âm. Chợ tưởng như đang còn đó nhưng đã muộn màng, chưa sum họp đã ly tan. Sự sống chứa đựng trong cái vũ trụ này có vẻ tiếp liền đấy mà vẫn chia cắt, nối kết đấy mà vẫn đứt đoạn: bèo dạt hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hóa thành không một chiếc đò ngang, không cầu gợi chút niềm thân mật. "Cái tôi" cảm thấy bơ vơ, lạc lõng không biết về đâu trong cõi xa khuất nghìn trùng.
Bao nhiêu thanh âm tinh tế, mơ màng của sự sống được biểu đạt qua tiết tấu ngữ âm của thi ca: điệp điệp, song song, lơ thơ, đìu hiu, chót vót… cuối cùng dồn tụ lại thành âm ba "dợn dợn" có sức mạnh cuộn xoáy trong lòng nhà thơ. Con sông của trời đất hóa thành con sông của trái tim, dòng chảy của cuộc đời biến thành dòng chảy của cảm xúc. Con sóng buồn điệp điệp hóa thành con sóng của khát vọng, dợn dợn lên tưởng chừng như dội ngược về nguồn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tràng giang đưa ta chảy xuôi về biển trời xa xăm cuối cùng lại đẩy ngược ta về với nguồn cội. Giống như củi một cành khô lạc mấy dòng bất giác nhớ về núi rừng, nơi nó đã ra đi. Giống như chim nghiêng cánh nhỏ dưới áp lực của bóng chiều sa mà khao khát tìm về tổ ấm. "Cái tôi" với ảo tưởng tự do sẽ không bao giờ quên được cái ta cộng đồng của mình, dòng chảy trong trái tim của mỗi con người Việt Nam vẫn giữ một lòng quê với cái làng xa dù sau này chỉ còn dư âm trong những huyền thoại.
Nhà là nơi nuôi giữ Lửa thiêng để hồn ta bay về cội nguồn: Đại bàng vỗ cánh muôn năm trước. Ai biết trời xa rộng mấy khơi...
Châu Minh Hùng
(Khoa Ngữ văn - Đại học Quy Nhơn)
Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền thơ hiện đại Việt Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận. Bộ đôi ấy đã hình thành nên một xóm thơ “ Huy – Xuân ” trong phong trào thơ mới. Nhưng điều đó không hề có nghĩa là hai hồn thơ đó giống nhau, mà là ngược lại. Như sau này có người nhận xét : “ Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. “ Chính cảm hứng về vụ trụ bao la lớn rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thuở nhà thơ mới viết tập đầu tay – “ Lửa thiêng”. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập thơ, người ta chắc phải nói đến “Tràng giang”.
Trên ý nghĩa, “Tràng giang” là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Và như thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh âm, bởi cả hai chữ của tựa đề -“tràng” và “giang” đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong các nguyên âm.
Bên ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả câu đề từ :
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà thơ đã thả vào một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác mà chúng ta có thể thấy được qua những từ “nhớ” và “bâng khuâng” mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề - “sóng”. Sóng trên dải “tràng giang “ của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “ sóng vọt đến lưng trời ” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng gợn”. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.
Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền không chèo “xuôi mái”- hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai chữ này đã hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm ra cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, “điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, còn “song song” lại làm nên cảm giác về chiều dài.
Nhưng đến câu thơ thứ ba:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là “thuyền về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư :
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ “ củi một cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là “hiện thực sống sít”, làm nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình ảnh khó có gì thích hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô nghĩa, đơn côi của sự sống một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghĩa ấy dường như thấm vào trong từng chữ một của dòng thơ. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ “cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “.
Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên rộng lớn. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng đã từng nói hai chữ “đìu hiu “ấy đã được mượn trong hai chữ của “Chinh phụ ngâm” :
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu.
Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một “phiên chợ chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan mơ hồ - thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời :
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”, trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.
Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”. Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Nhưng câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba :
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Chữ “không đò” được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước, chữ “không cầu” lại được láy âm với câu trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò đậu. không có cả một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Như vậy hình ảnh “đò” được đặt trước vì động hơn. Nhưng đến chữ “chút niềm thân mật” thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá mênh mông, một chút niềm thân mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù “thân mật” đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những mức độ tình cảm.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối :
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Nhưng cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
( tạm dịch nghĩa : ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay ).
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
“Vời” được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Vì vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn mãi ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, và cũng rung rinh theo dòng nước như thế.Câu thơ đã mượn hình ảnh sóng nước tràng giang mà nói về nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy sâu nặng, thường trực trong lòng nhân vật trữ tình mà không cần được gợi ra bằng một làn khói hoàng hôn nào như trong thơ Thôi Hiệu :
Yên giang ba thượng sử nhân sầu
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Và như thế, nỗi nhớ, tình cảm quê hương cứ lai láng chảy trên khắp bề mặt của khổ thơ cuối cùng.
Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi về một tứ Đường thi quen thuộc. Chính Huy Cận nhận rằng chữ “đùn” của câu thơ thứ nhất là ông học từ bản dịch “Thu hứng” của Nguyễn Công Trứ :
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Còn câu thơ thứ hai lại được viết dưới ảnh hưởng của những câu thơ Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi.
Và hai câu thơ cuối cùng không khỏi làm người đọc nghĩ đến hai câu trong “Hoàng Hạc Lâu” (Thôi Hiệu)
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Điều đó có nghĩa là đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn của thi nhân không chỉ được giăng ra trên các chiều của không gian như ba khổ trước đó, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài dằng dặc trên chiều của thời gian. Bởi vì mỗi câu thơ trong khổ đều được neo đậu vào những nỗi buồn dường như vĩnh hằng trong những câu thơ đã được viết ra nghìn năm trước đó. Và nhờ có khổ thơ này mà mối sầu của “Tràng giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “. Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu “ ( Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối.
Tuy nhiên không vì thế mà có thể coi “Tràng giang” giống như là những vần thơ cổ điển. Huy Cận vẫn cứ hiện diện trong bài thơ như một nhà thơ mới, có thể nhận ra được từ cảm giác bơ vơ, bé nhỏ, một tâm trạng rất phổ biến của một “thời đại thi ca”. Bởi thế cánh chim chiều của Huy Cận mới yếu ớt, đáng thương đến thế, bởi đôi cánh nhỏ nhoi kia không đỡ nổi cả bóng chiều nhẹ nhàng, bảng lảng đến phải chao nghiêng. Nó khác nhiều với cánh cò bình thản trong thơ Vương Bột. Chất thơ mới ấy cũng thể hiện trong những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói “dợn dợn” ,làm nên cảm giác mơ hồ, lung linh không rõ rệt. Thêm vào đó, nhà thơ còn từ chối nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” vốn đã là khuôn mẫu trong thơ cổ. Tình không cần phải được gợi ra từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lý do trên, khổ thơ cuối cùng của “Tràng giang” đã đạt đến những thành công có ý nghĩa về cả hai phương diện : nội dung cảm xúc lẫn hình thức văn chương.
RÀNG GIANG Chu Văn Sơn
Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông hồ , bờ bãi , biển cồn , núi cao , đèo dốc … những không gian trời nước mênh mông . Nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng , vô tận của không gian , cái vô thuỷ vô chung của thời gian . Khi ấy , ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn . Bởi người ta thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người thất là nhỏ nhoi , kiếp người chỉ là thoáng chốc . Đời người sao quá phù du ! Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ lưu lạc giữa cái mênh mông của đất trời , trôi nổi trong cái xa vắng rợn ngợp của dòng thời gian . Ta bỗng thấy chơi vơi giữa thế gian này !... Ấy là lúc có thể đọc thơ Huy Cận . Cái thế giới đang mở ra trước mắt ta kia chính là thế giới thơ Huy Cận , thế giới của Lửa thiêng , thế giới của Tràng giang . Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc , cái nỗi niềm nhân thế đó.
Ngày trước , để bênh vực cho bài Tràng giang ( cũng là bênh vực cho Thơ mới!) người ta đã phải viện ra cái kỉ niệm của một chiến sĩ nào đó mà rằng : một người cách mạng như thế cũng rất yêu hai câu đầu của bài Tràng giang , vậy bài thơ này là lành mạnh , nỗi buồn ở đấy là trong sáng , chứ không có hại gì ! Rồi ngay cả Xuân Diệu cũng phải lập cả một hàng rào che quanh để bênh vực cho lòng yêu thiên nhiên của bài thơ . Không , lòng yêu thiên nhiên tạo vật tự nó là một giá trị , ngang hàng với những tình yêu khác . Lòng yêu thiên nhiên là một cảm xúc thuộc về nhân tính . Tự nó không cần bảo vệ!
“Tràng giang” không nhất thiết phải là sông Hồng , sông Cửu Long , đó có thể là Hoàng Hà , Hằng Hà , Vonga , Dương Tử… cũng được chứ sao . Tràng giang là một tạo vật thiên nhiên . Nó có thể được gợi ý , gợi tứ từ sông Hồng , từ một chỗ đứng xác định là bến Chèm . Nhưng khi đã thành hình tượng Tràng giang thì nó đã khước từ mọi địa danh, địa chỉ cụ thể để trở thành một tạo vật thiên nhiên phổ quát rồi . Lòng yêu của thi sĩ trong đó là một lòng yêu dành cho thiên nhiên tạo vật , một lòng yêu có ở hết thảy con người! Và đó chính là tầm vóc đáng có của bài thơ này !
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời. Không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người . Ấy là một thế giời vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển , vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái Tôi hiện đại , rất đặc trưng cho Thơ mới . Có lẽ vì thế chăng mà Tràng giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu , lớn lao , vừa hoang sơ , vừa cổ kính . Trong đó thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc , lạc loài .
Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên . Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ dẫn vào vô biên rồi ( Xuân Diệu đã rất tinh khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy : “trường” chỉ có nghĩa là dài , còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên được cả dài lẫn rộng . Thế nghĩa là lớn , ứng với hình tượng một con sông lớn ) . Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy miên man giữa trời đất . Và đọc câu đề từ người đọc như thêm một lần nữa vén lên bức rèm , bước qua ngưỡng cửa để đi theo một hành lang mở thông vào vô biên : “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Nhưng dầu sao những hình ảnh sống động của thế giới ấy có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu như thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng , câu thứ hai tả những dòng nước trôi , những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra , lan xa , gối lên nhau , xô đuổi nhau đến tận chân trời , thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song , rong ruổi mãi về cuối trời . Không gian vừa mở ra bề rộng , vừa vươn theo chiều dài . Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng của hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ :
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuộn cuộn trôi)
Cũng là đối xứng , nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi , còn Huy Cận có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả , trong khi tác giả Đăng cao đặt ở giữa câu , thì tác giả Tràng giang lại đẩy xuống cuối câu . Nhờ thế mà hai từ láy nguyên “điệp điệp” và “song song” tạo ra được dư ba . Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên . Dòng sông lớn mang trong lòng nỗi buồn lớn !
Suốt dọc bài thơ , Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa . Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông , vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng . Ấy là hàng trăm ngã sông , những cồn đất , những bờ xanh , bãi vàng , lớp lớp mây cao đùn núi bạc , ấy là một cành củi khô , một bóng chim nhỏ … Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đã đạt đến tận cùng là ở hai câu này :
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu .
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao . Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài . Có một khoảng không gian đang gĩan nở ra trong cụm từ “nắng xuống trời lên” . Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt . Nắng xuống đến đâu , trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót” . Có cái gì như phi lý! Có lẽ không chịu được sự phi lý mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn . Tiếc rằng , chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ . Đấy không phài là sự lạ hoá ngôn từ . Nếu có thì trước hết là sự lạ hoá trong cách nhìn , trong cảm giác . Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao . Mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song , dầu sao , đây vẫn là chiều sâu của cái nhìn lên . Cho nên , mới là “sâu chót vót” .Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao , ở đây bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ . Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất . Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó , mỗi lúc một chót vót hơn . Vừa tương xứng , vừa hô ứng với câu trên , câu thứ hai mở ra bát ngát , tít tắp . Câu thơ được viết giản dị , không chữ nào lạ , ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của Tràng giang , thế thôi ! Vậy mà thấy động . Các trạng thái tĩnh , các tĩnh từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hoá . Trong áp lực của cái nhìn xa hút , “sông dài (ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi)” vậy! Thế mới lạ , không có chữ nào lạ hoá , mà vẫn mới lạ . Thế mới biết chính cảm xúc mới lạ mới làm nên cái mới lạ chân chính cho nghệ thuật .
Là một người thuộc lớp Tây học , nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi . Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường . Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái “tĩnh” của thế giới . Có lẽ vì Tríêt học nơi đây đã quan niệm “tĩnh” là gốc của “động” , “tĩnh” là cội nguồn của thế giới . Cùng với nó , “tĩnh tại” và “thanh vắng” cũng trở thành tiêu chuẩn mỹ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái “tĩnh vắng mênh mông” trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không - một hư không chứa đầy âm nhạc , chứ không phải hư không trống rỗng . Huy Cận cũng tái tạo như thế , nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn . Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại . Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn , bơ vơ . Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu , cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên , trống trải , cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông . Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng .
Đúng ra , con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái” , thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc . Rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông , nghìn luồng sóng :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
.
Cố tìm kiếm âm thanh cuộc sống , chỉ tìm âm thanh xoàng xĩnh thôi , dường như cũng không thấy, hoặc quá ư xa mờ , vô nghĩa :
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều!
Chữ “đâu” ở vị trí này có thể hiểu theo hai cách : vừa là phủ định từ với nghĩa là “đâu có” , vừa là từ chỉ nơi chốn với nghĩa là “đâu đó”. Theo nghĩa thứ nhất thì khớp với cách phủ định hoàn toàn sự có mặt của con người ở những câu sau . Còn theo nghĩa thứ hai thì có “tiếng làng xa…” và đó là âm thanh của cuộc sống đang tan rã , lịm tắt , mờ nhạt , thê lương . Một đằng đã vắng bóng , một đằng đang vắng bóng . Và đằng nào thì cũng quạnh quẽ , cô liêu.
Những phương tiện giao lưu chứng tỏ sự có mặt của con người cũng không hề có:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Và sự phủ định cuối cùng “không khói hoàng hôn…” . Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén . Ngày vắng xem hoa bợ cây” ( Nguyễn Trãi) , “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” ( Bà huyện Thanh Quan ) , hay “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ( Nguyễn Khuyến) nữa . Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ . Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế ! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo . Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối . Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên . Đứng trước cảnh thế này , hơn nghìn năm trước , Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ . Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ . Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu ! Nhớ nhà như là để vượt thoát , để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cổ hữu mà thôi:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác : tiếng sóng của lòng quê ! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất ?
Đứng trước dòng sông lớn , ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn , trường cửu . Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này . Nghìn năm sau , khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này , nó vẫn chảy thế kia . Tràng giang vẫn điềm nhiên , dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người . Sự lặng lẽ cuả tràng giang là miên viễn . Và hình như trong bài thơ , Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ . Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ , nhất là láy nguyên : điệp điệp , song song , lớp lớp , dợn dợn …không chỉ gợi được sự đường bệ , mà còn gợi được nhịp triền miên . Những cặp câu tương xứng như trùng lặp , nối tiếp , đuổi nhau không ngừng nghỉ : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp // Con thuyền xuôi mái nước song song”. Các vế câu vừa cắt rời , vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi , rong ruổi , miên man : “Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót . Sông dài / trời rộng / bến cô liêu” . Rồi những từ , cụm từ chỉ sự trùng điệp , nối tiếp ở cuối các câu : “hàng nối hàng” , “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” … tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau , kết lại với nhau , phụ hoạ lẫn nhau , tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt : có một dòngTràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng Tràng giang không chỉ chảy trong không gian , mà còn chảy trong thời gian - từ thuở khai thiên lập địa , chảy miết qua các thời đại mà về đây ! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang ?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này : mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó ?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ ? Mà dường như cũng là của một người già ? Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng ?
Tràng giang - tạo vật với tâm tình
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
ThS. Đào Đức Doãn
Đại học Sư phạm Hà Nội
Mở đầu bài thơ đã là dòng sông, mặt nước, lòng người. Tạo vật với tâm tình cứ xen lẫn vào nhau làm cho câu thơ có sức gợi hơn là tả:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" - bài thơ là cả một cảnh lớn - tràng giang, và một tấm lòng rộng mênh mang cùng "trời rộng sông dài" ấy. Câu thơ thứ nhất, bốn chữ đầu là tả, ba chữ sau đã là gợi. Tả và gợi cứ xen vào nhau. "Con thuyền xuôi mái nước song song" là hiện thực, là bức tranh trước mắt. Đến "Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả" thì không còn là bức tranh ấy nữa, mà đã là tương lai, là nghĩ suy, là chia ly và tâm tình. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Con thuyền xuôi mái" - mọi cái đều dẫn đến chia ly: "Thuyền về nước lại".
Bức tranh thiên nhiên có tràng giang, sóng nước, con thuyền gợi không khí trang nghiêm cổ kính. Bút pháp cũng là bút pháp của thơ cổ: thiên nhiên rộng rãi khoáng đạt được điểm bằng vài nét chấm phá. Nhưng chấm phá bằng chi tiết kỹ và tinh quá. Đến như "củi một cành khô" cũng được đưa vào thơ thì hơi thơ đã mất đi nhiều âm điệu cổ điển. Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa, thành cái nổi trôi, bất định của một cành củi khô không đáng kể gì giữa sông nước tràng giang mênh mông, rợn ngợp.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn cỏ", những "gió đìu hiu", hay "nắng xuống trời lên", mà thực ra chỉ để tả cái vô tận, không cùng và vắng lặng đến thành rợn ngợp của "Sông dài trời rộng, bến cô liêu". "Bến cô liêu" là một đặc điểm trong không giang cũng như có hồn người. Tả và gợi lại quyện vào nhau, cái tâm tình cứ luôn được toát lên từ tạo vật.
Khổ thơ tiếp theo lại thêm một nét chấm phá nữa vào bức tranh khung cảnh: "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng". Nếu là "bèo dạt nối hàng" thì chỉ là tả một cách khách quan. "Bèo dạt về đâu", rồi ngắt ra, sau đó mới là "hàng nối hàng". Câu thơ không còn tả nữa, mà đã là hỏi, là tâm trạng "bèo dạt hoa trôi". Không gian trải ba chiều: cao, rộng và dài. Tất cả đều chỉ là quạnh vắng với cô liêu. Tất cả đều chỉ là nhỏ bé, mơ hồ, mỏng manh trước cái vô tận, không cùng của vũ trụ. Vậy thì sao mà không khỏi thốt lên, than thở cho những số kiếp con người trôi dạt trên con sông thời gian. "Bèo dạt về đâu" ấy thế là thành tâm trạng, là số kiếp, là thân phận chứ không đơn thuần dòng sông mặt nước. Hai câu thơ giữa đoạn:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
không phải là sự phủ định, mà là ao ước thiết tha nhưng vô vọng về hình bóng con người. Nếu hiểu đây chỉ là cách nói phủ định để nhằm làm nổi lên cái "dài", "rộng" và "cô liêu" thì ý nghĩa tâm tình mất đi nhiều, còn lại chỉ đơn thuần là thủ pháp, là kỹ thuật mà thôi.
Đến khổ thơ cuối bài, hai câu đầu là tạo vật, hai câu sau lại là tâm tình:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Mây đùn như núi, lớp lớp phía chân trời. Sự liên tưởng thật là độc đáo. Nhìn một cánh chim lẻ loi chao liệng mà thi sĩ tưởng như nó đang chịu sự đè nặng của cả vũ trụ, trời đất. Vũ trụ trời đất ấy lớn lao, không cùng không tận, dồn sức nặng vào bóng chiều làm chim phải nghiêng cánh, lệch cánh. Sự sống thật mỏng manh yếu ớt.
Trở lại cả bài thơ, toàn sự đối lập như thế cả. Cái hữu hạn thì vô nghĩa vô hướng, chỉ là không đáng kể, mơ hồ và nhạt nhòa. Cái vô hạn thì sừng sững, không cùng, trùm lấp và chi phối. Một bên là "Con thuyền xuôi mái"; "Củi một cành khô lạc mấy dòng", "Bèo dạt về đâu" và "chim nghiêng cánh nhỏ"... Bên kia, đối lập hẳn, là "sầu trăm ngả", "buồn điệp điệp", "mây cao đùn núi bạc",... Cái hữu hạn đối diện với cái không cùng như thế, làm sao con người không trở nên lạc loài, vô vọng.
Ai cũng biết hình ảnh cuối bài thơ "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" là tiếp ý thơ Thôi Hiệu: "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Câu thơ Huy Cận cao độ hơn, "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Không khói hoàng hôn nhưng đã có cả trời nước tràng giang vô tận, không cùng. Cái không cùng vời rộng của mây nước tràng giang rợn ngợp đến thành cảm giác da thịt "dờn dợn vời con nước". Bài thơ không cốt tả "hình xác" mà gợi cái "thần xác" của tạo vật. Trên nền "thần xác" ấy, mạch tâm tình tự nhiên đạt đến cao độ, để sự da diết "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" như tự nỗi niềm cất lên thành câu chữ. Cái tứ của bài thơ đến câu thơ cuối mới lộ ra. Cả bài thơ như thế là nỗi lòng bâng khuâng, cô tịch của một lữ khách "thiếu quê hương" đứng trước con sông thời gian, cái tôi bé nhỏ đòi khẳng định mà đành bất lực. Cảm hứng của cả một thời thơ mới trở thành độc đáo, mang cái "sầu thiên cổ" rất riêng của Huy Cận.
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
Bài đọc thêm
TRÀNG GIANG
Điểm cao trong luồng thơ tạo vật với tâm tình này chắc hẳn là bài “Tràng giang”; thiên nhiên tạo vật ở đây là đất nươc rồi, đất nước của ta. Bài thơ hầu như trở thành cổ điển, của một nhà “thơ mới”. Vào một cách dõng dạc đàng hoàng, vì đây là “đại giang”, là sông lớn, ví dụ như sông Hồng; là tràng giang; rộng, bao gồm cả trường giang; dài; sầu trăm ngr chứ không phải ít ngả, vì là sông lớn:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hơi thở cổ điển là đúng, bởi sông lớn là giang san bền bỉ muôn đời. Duy câu thứ tư thì hiện đại; thơ truyền thống của cha ông ta không đưa cái nét hiện thực, thực tế, nôm na, chân thật đến sống sít, là cải một cành trôi đi trên sông.
“lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Tâm lý của thơ trữ tình công khai nói chung trước cách mạng là nói nỗi buồn; Huy Cận cũng muốn làm nổi bật cái “dài”, “rộng” và “cô liêu”, cho nên phủ định, đến cả một chuyến đò ngang, đến cả một chiếc cầu, chỉ có bờ bờ bãi bãi. Và đây là tâm trạng trước cách mạng: “bèo dạt, hoa trôi”, những số kiếp con ngời trôi dạt trên con sông Thời gian:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang,
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Bốn câu kết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
điệp điệp, song song, rồi lớp lớp, lại nhắc cái trang nghiêm của hai câu thơ mở đầu, bởi đây là không khí của sự lớn lao.
“Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa”.
Ở nửa trên bài: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”, trưa đã ngả sang chiều, nhưng còn nhiều ánh sáng lắm, có vậy mới thấy được thật xa, mênh mông; đoạng cuối bài thì là càng gần về hoàng hôn, con chim đang xoè cánh bay, bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh, lệnh cánh: cũng là lúc:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Câu thơ Thôi Hiệu: “Yên ba giang thượng sử nhan sầu” (Tản Đà dịch: “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”),do đó. Huy Cận nói cao độ hơn: có khói trên sông, đã đành là nhớ nhà; ở đây nhớ nhà cao độ, không cần phải có khói hoàng hôn mới gợi nhớ - Cả bài thơ thúc lại ở hai câu kết này; cái điệp từ cuối cùng “dờn dợn” nói lòng quê bát ngát mênh mông, sông càng vời rộng, càng nhớ quê hương. “Tràng giang” là một bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn, Tổ quốc. (Xuân Diệu)
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ - Đây là một hồn thơ buồn,
nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến
những cảnh mênh mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi
lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa.Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách nói trên.
1. Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu
tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, con sông trong thơ tự
nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm
tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn
năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng
giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ -
Lửa thiêng)
2. Khổ một: Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì
tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô
“điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền
xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.
Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự
chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi lìa rừng không biết trôi về
đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Hình ảnh một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng
giang... là hình ảnh của nỗi buồn muôn thuở.
3. Khổ hai: Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều
đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy,
nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột ngột
đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành
cô liêu hơn:
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
4. Khổ ba: Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì
gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước.
Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác, chia lìa.
5. Khổ bốn: Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng hôn
thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời:
Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
(Bà Huyện Thanh Quan)
Chim mỏi về rừng tìm chốn trú
(Hồ Chí Minh)
Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ
mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên
một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa
như một tia nắng chiều rớt xuống.
Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ
để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển
ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa thêm
“khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của
người lữ thứ trước cảnh tràng giang.
6. Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã đi
qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên
sóng nước mênh mông, ở hình ảnh những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở
một cánh chim chiều.
Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài Tràng
giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ.
Còn “cái tôi Thơ mới” thì tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh không
thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy một niềm
khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân
loại - niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông
nước Tràng giang.
Bài giảng của: Trung tâm Bồi dưỡng văn hóa
và Luyện thi đại học Vĩnh Viễn
Sưu tầm