Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164995" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 217 -</strong></p><p>Điền Tử Thành</p><p>(Điền Tử Thành)</p><p></p><p>Điền Tử Thành ở huyện Giang Ninh (tỉnh Giang Tô) qua hồ Động Đình, bị đắm thuyền chết. Con là Tiến sĩ Lương Tự cuối thời Minh, lúc ấy còn ẳm ngữa, vợ là Đỗ thị nghe tin uống thuốc độc tự tử. Lương Tự được bà nội thứ nuôi nấng nên người. Sau đi làm quan ở Hồ Bắc, hơn một năm vâng lệnh quan trên đi công vụ tới Hồ Nam. Lương Tự tới hồ Động Đình thì khóc lớn quay về, tự trình là không đủ tài năng, bị giáng làm Huyện thừa huyện Hán Dương, rất không vui bèn chối từ không nhận chức. Các quan trên bắt ép thôi thúc mãi mới chịu đi, nhưng cứ rong chơi trong chốn sông hồ, không vì đang làm quan mà giữ gìn câu nệ. Một đêm ghé thuyền bên bờ sông, nghe thấy tiếng tiêu dìu dặt rất hay, bèn nhân có trăng lên bộ đi khoảng nửa dặm thì thấy giữa bãi đất trống có vài gian nhà tranh lập lòe ánh đèn.</p><p></p><p>Tới gần nhìn vào cửa sổ thấy ba người đang uống rượu bên trong, ghế trên là một người Tú tài tuổi khoảng ba mươi, ghế dưới là một ông già, ghế bên cạnh chính là người thổi tiêu, trẻ tuổi nhất. Dứt khúc tiêu, ông già vỗ tay khen hay, người Tú tài thì nhìn vào vách trầm tư tựa hồ không hề nghe thấy. Ông già nói "Lô Thập huynh ắt đã có thơ hay, xin ngâm lớn lên cho ta được nghe với", người Tú tài bèn ngâm:</p><p></p><p><em>Mãn giang phong nguyệt lãnh thê thê,</em></p><p><em>Sấu thảo linh hoa hóa tác nê.</em></p><p><em>Thiên lý vân sơn phi bất đáo,</em></p><p><em>Mông hồn dạ dạ Trúc Kiều tê (tây)</em></p><p>(Trăng gió đầy sông lạnh tịch liêu</p><p>Hoa rơi cỏ úa cảnh tiêu điều</p><p>Quê nhà ngàn dặm bay không tới</p><p>Hồn mộng đêm đêm cạnh Trúc Kiều)</p><p></p><p>Tiếng ngâm rất ai oán, ông già cười nói "Lô Thập huynh cứ làm ra vẻ buồn rầu” rồi lấy chén lớn rót rượu, nói "Lão phu không thể họa thơ, xin hát để đưa cay vậy”. Liền hát bài “Rượu ngon Lan Đình..."<strong>*</strong>, hát xong mọi người đều vui vẻ. Thiếu niên đứng lên nói "Ta ra xem trăng lặn tới đâu rồi”, rồi sấn sổ bước ra, nhìn thấy khách vỗ tay nói "Ngoài này có người, bọn ta ngông cuồng bị bắt gặp rồi”. Liền kéo khách vào, Lương Tự chào hỏi mọi người xong, ông già bảo ngồi đối diện với thiếu niên. Lương Tự nâng chén rượu nhắp thử thấy lạnh ngắt, từ chối không uống. Thiếu niên biết ý lập tức đứng dậy, vơ cỏ rơm hâm nóng bưng lên, Lương Tự cũng sai người hầu lấy tiền đi mua rượu nhưng họ cố ngăn lại.</p><p></p><p>*Rượu ngon Lan Đình..": nguyên văn là "Lan Đình mỹ tửu” tức "Lan Đình mỹ tửu uất kim hương", câu trong bài Khách trung hành của Lý Bạch thời Đường. </p><p></p><p>Nhân hỏi tên họ quê quán, Lương Tự nói hết về mình, ông già kính cẩn nói “Đó là quê cha mẹ ta, ta họ Giang tên Thiếu Quân, sinh trưởng ở đây", kế chỉ thiếu niên nói “Đây là Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây". Lại chỉ người Tú tài nói "Lô Thập huynh đây là đồng hương với ông”. Lô nhìn Lương Tự có vẻ ngạo nghễ vô lễ, Lương Tự nhân hỏi "Nhà ông ở làng nào, thi tài như thế mà sao ta không được nghe ai nói?”. Tú tài đáp "Xa nhà đã lâu, họ hàng cũng không ai biết, nghĩ thật đáng buồn, không muốn nói ra”. Ông già xua tay rối lên nói "Gặp được khách quý, không có tửu lệnh thì cứ ăn nói lằng nhằng như thế, nghe chán lắm". Rồi nâng chén uống một mình, kế nói "Ta có một cái lệnh xin mọi người cùng làm theo, ai không làm được sẽ bị phạt. Cứ gieo ba hột xúc xắc, lấy chữ "Tương phùng" làm lệnh, lại phải có một khúc hát cổ phù hợp".</p><p>Rồi gieo được ba mặt nhất nhị tam, bèn đọc "Tam thêm nhị nhất cũng tương đồng. Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công<strong>*</strong> mừng bè bạn tương phùng". Kế tới thiếu niên gieo được hai mặt nhị một mặt tứ, nói "Người không đọc sách thì chỉ hát khúc dân dã, xin chớ cười. Tứ thêm hai nhị cũng tương đồng, Bốn người gặp gỡ ở thành đông<strong>**</strong>, mừng huynh đệ tương phùng”. Lô gieo được hai mặt nhất một mặt nhị, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Lữ Hướng hai tay ôm lão ông<strong>***</strong>, mừng phụ tử tương phùng". Lương Tự gieo cũng được như Lô, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông (<strong>4*</strong>) mừng chủ khách tương phùng”.</p><p></p><p>*Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công: lấy tích Trương Thiệu thời Hán vào nhà Thái học, chơi thân với Phạm Thúc. Khi về, Thúc hẹn ba năm sẽ tới làm lễ ra mắt mẹ Thiệu. Gần đến ngày hẹn, Thiệu thưa với mẹ xin giết gà đồ xôi để đợi, mẹ nói “Xa cách ba năm, hẹn nhau ngàn dặm, sao con tin quá thế!”. Đến ngày hẹn quả nhiên Thúc tới. Đây ông già có ý nói Lương Tự là bạn quý của mình.</p><p></p><p>** Bốn người gặp gỡ ở thành đông: lấy tích ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thời Hán thua trận lạc nhau mỗi người một nơi, sau Quan Vũ biết anh còn sống bèn từ giã Tào Tháo di tìm anh, cuối cùng ba người gặp nhau ở Cổ Thành, lại được thêm Triệu Vân. Đây thiếu niên có ý nói Lương Tự là anh em với mình.</p><p></p><p>*** Lữ Hướng hai tay ôm lão ông: lấy tích Lữ Hướng thời Tấn có cha đi xa mấy năm không về, sau nghe đồn cha còn sống nhưng Hướng đi tìm kiếm khắp nơi suốt mấy năm không gặp. Sau Hướng thi đỗ làm quan, một hôm từ triều ra gặp một ông già, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội xuống ngựu ôm chân cha khóc ròng rồi đón về nhà. Đây Lô có ý nói Lương Tự là con mình.</p><p></p><p>4* Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông: lấy tích Mao Dung thời Hán chơi với Quách Thái tự Lâm Tông, Thái tới nhà Dung chơi ngủ lại, sáng ra thấy Tông giết gà làm cơm, nghĩ rằng là để đãi mình, kế Dung bưng thịt gà lên mời mẹ, còn mình dọn rau ăn chung với Thái, Thái phục là hiền. Đây Lương Tự có ý nói tuy mình với ba người kia là bạn, nhưng còn có phận sự của kẻ làm con nên phải ra về.</p><p></p><p>Xong lệnh Lương Tự cáo từ ra về, Lô mới đứng lên nói "Là người quê cũ, chưa kịp trò chuyện gì nhiều, sao từ biệt sớm thế. Ta còn có chuyện muốn hỏi, xin nán lại thêm một lúc". Lương Tự bèn ngồi xuống, hỏi chuyện gì, Lô đáp "Ta có người bạn già chết đuối ở hồ Động Đình, có họ hàng gì với ông không?", Lương Tự đáp “Đó là cha ta, sao ông biết được?". Lô đáp “Lúc trẻ chơi thân với nhau, lúc ông ấy chết chỉ có ta nhìn thấy nên đã thu hài cốt chôn ở bờ sông". Lương Tự rơi lệ quỳ lạy xin chỉ mộ ở đâu, Lô nói “Sáng mai tới đây ta sẽ chỉ cho, cũng dễ nhận thôi, cứ ra cách đây mấy quãng, cứ thấy trên mộ có khóm lau rậm gồm mười cây là đúng". Lươug Tự khóc ròng cáo từ mọi người, về tới thuyền cả đêm không ngủ được. Lại sực nhớ tới lời lẽ thái độ của Lô như đều có duyên do, sốt ruột không chờ được, mờ sáng trở lại chỗ đó thì không thấy nhà cửa gì cả, vô cùng khiếp sợ.</p><p></p><p>Kế ra chỗ Lô nói tìm quả nhiên thấy một ngôi mộ trên có khóm lau rậm, đếm thì đúng có mười cây, sực hiểu rằng cái tên Lô Thập huynh là có ngụ ý, người mình gặp chính là hồn cha. Hỏi kỹ dân ở đó thì hai mươi năm trước vùng này có ông họ Cao giàu có hay làm điều lành, ai chết đuối đều tìm vớt thây chôn cất cho, nên có mấy ngôi mộ ở đây. Bèn quật mộ thu lượm hài cốt trở lại thuyền, về nói với bà nội, hỏi lại nét mặt tướng mạo thì đều đúng. Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây chính là anh con cô con cậu với Lương Tự, năm mười chín tuổi chết đuối trên sông, sau đó người cha tới lưu ngụ ở Giang Tây. Lại chợt nghĩ ra rằng sau khi Đỗ phu nhân chết thì chôn ở phía tây Trúc Kiều, nên trong bài thơ của cha mới có câu cuối như vậy, chỉ không rõ ông già kia là ai mà thôi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 218 -</strong></p><p>Vương Quế Am</p><p>(Vương Quế Am)</p><p></p><p>Vương Cao tự Quế Am là con nhà thế gia ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), đi chơi xuống miền nam, ghé thuyền vào bờ sông. Trong thuyền bên cạnh có cô gái ngồi thêu giày, xinh đẹp tuyệt trần. Vương nhìn chằm chằm hồi lâu mà nàng như vẫn không hay biết. Vương ngâm nga "Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa"<strong>*</strong> cố ý để nàng nghe, cô gái như hiểu là vì mình, khẽ ngẩng đầu liếc qua rồi cúi xuống thêu như cũ. Vương tâm thần càng điên đảo, lấy một thoi vàng từ xa thảy tới trúng vạt áo cô gái, nàng cầm lên ném đi như không biết đó là vàng. Thoi vàng rơi lên bờ, Vương nhặt về rồi lại thảy một cái vòng vàng rơi xuống dưới chân cô gái, nàng vẫn tiếp tục thêu không nhìn tới. Không bao lâu người nhà thuyền trở về, Vương sợ ông ta nhìn thấy cái vòng cân vặn con gái, vô cùng nóng ruột, nhưng cô gái ung dung nhấc đôi hài giẫm lên che đi. Người nhà thuyền cởi dây thuận dòng chèo đi, Vương tâm tình chán nản ngồi ngẩn ra nghĩ vẩn vơ. Lúc ấy Vương vừa cưới vợ thì vợ chết nên hối hận vì không lập tức nghĩ tới việc nhờ người mai mối. Bèn hỏi thăm các thuyền chung quanh nhưng họ đều không biết họ tên cô gái, liền cho quay thuyền đuổi gấp theo, nhìn ngó mỏi mắt mà thuyền kia mất hút không biết đi về đâu. Vương bất đắc dĩ phải cho quay thuyền xuôi nam, việc xong trở ra bắc, dọc đường hỏi thăm hai bên bờ rất kỹ nhưng không hề có tin tức gì, về tới nhà rồi lúc ăn lúc ngủ đều tơ tưởng tới nàng.</p><p></p><p>*Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa: nguyên văn là “Lạc Dương nữ nhi đối môn cư” câu trong bài Lạc Dương nữ nhi hành của Vương Duy thời Đường.</p><p></p><p>Qua năm sau Vương lại đi xuống phía nam, mua một chiếc thuyền ở hẳn trên đó, ngày ngày nhìn ngó những thuyền bè qua lại, thuộc cả cánh buồm bánh lái nhưng chiếc thuyền năm xưa vẫn bặt tăm. Được nửa năm hết tiền đành quay về, ra tưởng vào nhớ không buồn làm việc gì cả. Một đêm nằm mơ thấy tới một làng ven sông, đi qua mấy ngõ thấy một căn nhà cánh cổng bằng tre quay về hướng nam, phía trong có giậu trúc thưa, cho là vườn hóng mát liền lần vào. Thấy có một gốc dạ hợp đầy dây tơ hồng phủ kín, nghĩ thầm thật đúng với câu thơ "Mã anh trước cổng gốc đầy hoa”<strong>*</strong>. Đi thêm vài chặng, thấy giậu tường vi tươi tốt lại lần vào, thấy phía bắc có căn nhà ba gian, hai cánh cửa khép kín, phía nam có gian nhà nhỏ, lá chuối che khuất cửa sổ, thò đầu vào nhìn thấy ngay cửa có cái giá áo trên treo chiếc quần hoa, biết là phòng đàn bà con gái vội vàng lui ra. Nhưng bên trong đã biết, có một người chạy ra nhìn khách, môi son má phấn, chính là cô gái trong thuyền năm xưa.</p><p></p><p>*Mã anh trước cổng gốc đầy hoa: nguyên văn là “Môn tiền nhất thụ mã anh hoa", câu trong bài Bàn Đường giang thượng thị nùng gia của Thủy Tiên Thần thời Thanh.</p><p></p><p>Vương quá mừng rỡ bật kêu lên "Cũng còn có lúc gặp nhau sao?”, đang định bước tới ôm lấy thì cha nàng vừa về tới, giật mình tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Nhưng vẫn nhớ rõ ràng cảnh vật đã thấy, giữ kín sợ nói ra cho người khác biết thì hỏng mất giấc mộng đẹp. Hơn năm sau Vương lại tới Trấn Giang, phía nam quận có quan Thái bộc họ Từ vốn là thế giao mời Vương tới uống rượu. Vương phóng ngựa đi, lạc vào một thôn nhỏ, thấy đường sá cảnh vật quen quen như từng tới rồi, trong một cánh cổng cũng có một gốc mã anh sờ sờ, phát hoảng vứt roi xuống ngựa lần vào thì cảnh sắc chung quanh không khác gì trong giấc mơ năm trước. Lại đi vào nữa thì nhà cửa phòng ốc cũng giống hệt, biết giấc mơ đã nghiệm bèn không nghĩ ngợi gì nữa, đi thẳng vào gian nhà phía nam. Cô gái trong thuyền năm xưa quả đang ở đó, vừa nhìn thấy Vương từ xa đã giật mình đứng lên núp sau cánh cửa quát hỏi là đàn ông ở đâu? Vương rụt rè bước tới, vẫn còn ngờ là đang nằm mơ, cô gái nghe tiếng bước chân tới gần liền đóng sầm cửa lại. Vương nói “Nàng không nhớ người ném cái vòng sao?”, rồi kể lể nỗi khổ nhớ nhung, thuật lại cả giấc mơ. Cô gái bên trong cánh cửa hỏi vọng ra về gia thế, Vương nói rõ hết. Cô gái nói "Đã là dòng dõi nhà quan thì thiếu gì giai nhân, cần gì tới thiếp?” Vương đáp "Nếu không vì nàng thì ta đã cưới vợ lâu rồi". Cô gái nói “Nếu đúng như thế thì đủ biết lòng chàng rồi. Nông nỗi này thiếp không thể thưa với cha mẹ, nhưng thật ra cũng đã cãi lời mà chối từ mấy người tới dạm hỏi rồi. Cái vòng vàng vẫn còn đây, vẫn nghĩ nếu là người chung tình ắt sẽ tìm hỏi cho ra tin tức. Hiện nay cha mẹ qua thăm bên ngoại cũng sắp về, chàng cứ về nhờ mai mối tới hỏi, chắc chắn là được. Còn nếu muốn nên đôi lứa trái lễ thì tính sai rồi đấy".</p><p></p><p>Vương thảng thốt quay ra, cô gái gọi với theo nói "Vương lang, thiếp tên Vân Nương, họ Mạnh, cha thiếp tự là Giang Ly". Vương ghi nhớ rồi đi. Xong tiệc ở nhà Thái bộc, Vương vội quay về xin gặp ông Giang Ly, ông đón vào mời ngồi bên giậu trúc. Vương kể gia thế, kế ngỏ ý rồi đưa ngay ra trăm lượng vàng nộp sính lễ. Ông nói "Con ta đã hứa gả rồi”. Vương nói "Ta đã hỏi đích xác là chưa nhận lời ai, sao ông cự tuyệt thẳng thừng như vậy?”. Ông đáp "Vừa nhận lời xong, thật không dám nói dối”. Vương bàng hoàng thẫn thờ chào về, không biết có đúng thế không, đêm ấy cứ trằn trọc, tiếc là không có ai làm mai mối cho. Trước đã định nhờ Thái bộc, nhưng sợ cưới con nhà thuyền bị ông cười, nay việc đã gấp không biết nhờ ai, sáng ra đành tới gặp Thái bộc thưa thật lại chuyện. Thái bộc nói “Ông ấy có họ hàng với ta, là cháu đích tôn của bà ngoại ta, sao không nói sớm?". Lúc ấy Vương mới kể rõ ẩn tình, Thái bộc ngờ vực nói "Giang Ly tuy nghèo nhưng không làm nghề chèo thuyền để sống, có lầm không đấy?”. Bèn sai con trai là Đại lang tới nhà ông Mạnh, ông Mạnh nói “Ta tuy nghèo nhưng không phải là kẻ bán con gái. Mới rồi công tử đem vàng tới tự làm mối, có lẽ cho rằng ta thấy lợi sẽ động lòng, nên ta không dám hứa gả. Nay đã có lệnh của tiên sinh, ắt không có chuyện sai quấy ngang trái, nhưng con bé bướng bỉnh nhà ta cậy được nuông chiều, từ chối nhiều nhà giàu sang rồi, phải bàn lại với nó để về sau nó khỏi oán là phải lấy chồng xa". Rồi đứng dậy vào nhà trong, giây lát trở ra chắp tay xin nhận lời, hẹn ngày cưới rồi chia tay.</p><p></p><p>Đại lang về báo lại, Vương bèn sửa soạn đồ lễ rất hậu đưa tới nhà Mạnh nộp sính lễ, mượn nhà Thái bộc đón dâu làm lễ cưới. Được ba ngày Vương từ biệt nhạc gia về bắc, đêm ngủ trong thuyền hỏi Vân Nương rằng “Trước đây gặp nàng ở chỗ ấy, ta đã ngờ không phải là con nhà thuyền, hôm ấy nàng ngồi thuyền đi đâu?". Vân Nương đáp "Nhà chú thiếp ở bờ bắc sông, hôm ấy thiếp chỉ tình cờ mượn thuyền đi ngắm cảnh thôi. Nhà thiếp chỉ tạm đủ ăn nhưng không coi trọng loại tiền bạc đột nhiên mà có, thật đáng cười chàng hai mắt chỉ nhỏ bằng hạt đậu, mấy lần đem vàng ra mong làm người ta xiêu lòng. Khi vừa nghe tiếng ngâm thơ đã biết chàng là bậc văn sĩ phong nhã nhưng cũng còn ngờ là kẻ phóng đãng đi tìm loại đàn bà hư hỏng. Nếu để cho cha thấy cái vòng ấy thì chàng cứ gọi là chết không có đất chôn, lòng thiếp mến tài như thế tha thiết đấy chứ”.</p><p></p><p>Vương cười nói “Nàng sâu sắc lắm, nhưng cũng mắc kế của ta rồi". Vân Nương hỏi là chuyện gì, Vương không đáp, nàng hỏi gặng mãi mới nói "Sắp tới nhà rồi, chuyện này không thể giấu được mãi nên nói thật với nàng ta đã có vợ ở nhà, là con gái Thượng thư họ Ngô”. Vân Nương không tin, Vương làm ra vẻ nghiêm trang như thật, nàng biến sắc im lặng hồi lâu rồi chợt vùng dậy lao ra ngoài. Vương lật đật đuổi theo ra thì nàng đã gieo mình xuống sông rồi. Vương la lớn, thuyền bè quanh đó náo động nhưng đêm tối mịt mùng, trên mặt sông chỉ còn toàn là bóng sao lung linh. Vương đau xót khóc lóc suốt đêm, thả thuyền theo ven sông trả tiền thật hậu thuê người tìm kiếm thi hài nhưng không thấy đâu, rầu rĩ về nhà, vừa đau thương vừa buồn tủi. Lại lo cha vợ tới thăm con gái thì không biết ăn nói ra sao, nhân có người anh rể làm quan ở Hà Nam bèn sai đánh xe tới chơi, hơn một năm mới về.</p><p></p><p>Giữa đường gặp mưa, trú lại trong một nhà dân, thấy phòng xá sạch sẽ, có bà già đang chơi với một đứa nhỏ trong phòng. Đứa nhỏ thấy Vương vào lập tức giơ tay đòi bế, Vương lấy làm lạ nhưng thấy kháu khỉnh dễ thương bèn đặt nó lên đầu gối, bà già gọi mà nó không chịu rời ra. Lát sau tạnh mưa, Vương nhấc đứa nhỏ lên đưa cho bà già, bước ra chuẩn bị lên đường, đứa nhỏ khóc kêu "Cha đi mất rồi!". Bà già ngượng ngùng, quát mắng mà nó không chịu nín đành bế xốc đi chỗ khác. Vương đang ngồi chờ sửa soạn xe kiệu, chợt có một cô gái đẹp từ sau bình phong bế đứa nhỏ bước ra, chính là Vân Nương. Vương đang sửng sốt thì Vân Nương mắng “Gã bạc tình kia! Để lại một cục thịt này làm gì?". Lúc ấy Vương mới biết đó là con mình, trong lòng chua xót áy náy, chưa hỏi việc nàng vừa qua lưu lạc thế nào, cứ phân trần rằng trước đây chỉ là nói đùa, thề độc để bày tỏ, Vân Nương mới đổi tức giận thành buồn thương, nhìn nhau rơi nước mắt.</p><p></p><p>Trước là ông Mạc chủ nhà này sáu mươi tuổi mà không có con trai, đưa vợ tới chùa Quan âm cầu tự trở về, trên đường ghé vào bờ sông, vừa gặp lúc Vân Nương bị sóng cuốn chạm vào thuyền. Ông Mạc sai người vớt lên cứu chữa suốt đêm mới tỉnh lại. Hai ông bà thấy nàng xinh đẹp mừng lắm, coi như con ruột, đưa luôn về nhà. Được vài tháng định gả chồng cho nhưng nàng không chịu, qua mười tháng nàng sinh được một con trai đặt tên là Ký Sinh, lúc Vương vào nhà ấy trú mưa thì Ký Sinh mới được đầy năm. Vương lập tức cởi hành lý vào lạy ông bà Mạc, nhận nhau làm cha mẹ vợ và con rể. Ở lại vài ngày Vương mới đưa cả gia đình về, tới nhà thì ông Mạnh tới đợi đã hai tháng. Khi ông mới tới, thấy bọn tôi tớ trong nhà ấp úng sợ sệt rất lạ lùng ngờ vực, gặp con rồi mới vui vẻ khoan khoái, đến khi nghe kể lại mọi việc mới biết sở dĩ họ có vẻ khác lạ là vì như thế.</p><p></p><p></p><p><strong>Phụ : Ký Sinh</strong></p><p><strong>(Ký Sinh - Phụ)</strong></p><p></p><p>Ký sinh tự Vương Tôn là danh sĩ trong quận. Cha mẹ thấy lúc còn nằm tã mà biết nhận ra cha, cho rằng có trí tuệ trời cho nên rất yêu thương. Lớn lên càng tuấn tú, tám chín tuổi đã biết làm văn, mười bơn tuổi được vào học trường huyện, thường có ý tự mình chọn vợ. Cha là Quế Am có em gái tên Nhị Nương, gả cho Tú tài Trịnh Tử Kiều sinh được một gái là Khuê Tú, thông minh xinh đẹp không ai sánh kịp. Vương Tôn trông thấy thầm yêu, ngày càng thiết tha nhung nhớ, lâu ngày bỏ cả ăn uống, cha mẹ lo lắng gạn hỏi mãi mới chịu nói thật. Cha nhờ người mai mối qua gặp Trịnh, nhưng Trịnh tính mực thước khuôn phép, ngại là con cô con cậu ruột nên từ chối<strong>*</strong>. Nhưng Vương Tôn bệnh càng nặng thêm, mẹ không biết làm sao bèn ngầm ngỏ ý với Nhị Nương, chỉ xin cho Khuê Tú tới thăm một lần để con đỡ bệnh, Tnnh nghe thế càng tức giận, nói ra những lời không hay, cha mẹ đã tuyệt vọng nên chỉ đành chịu trận mà thôi.</p><p></p><p>*Ngại là... từ chối: tục Trung Hoa ngày xưa con cô con cậu có thể được cưới nhau vì khác họ, nhưng thường là đã qua một đời (con cô con cậu họ).</p><p></p><p>Trong quận có họ Trương là nhà vọng tộc, có năm con gái đều xinh đẹp, nàng nhỏ nhất tiểu đanh là Ngũ Khả đẹp nhất còn chưa gả chồng. Một hôm nàng đi tảo mộ giữa đường gặp Vương Tôn, ngồi trong kiệu nhìn ra, về kể cho mẹ. Mẹ dò biết ý tìm gặp bà mối họ Vu úp mở nói chuyện, bà mối bèn tới nhà Vương. Lúc ấy Vương Tôn đang bệnh, bà ta hỏi han biết chuyện bèn cười nói "Bệnh ấy thì già này chữa được". Vân Nương hỏi sao nói thế, bà ta kể ý họ Trương, lại tán tụng Ngũ Khả xinh đẹp. Vân Nương mừng rỡ, bảo bà ta qua thăm Vương Tôn. Bà ta vào vỗ về Vương Tôn kể lại, Vương Tôn lắc đầu nói “Thầy thuốc ấy không hợp với chứng bệnh này, làm sao được". Bà ta cười nói "Chỉ cần hỏi thầy thuốc giỏi hay không thôi, nếu là thầy giỏi thì dùng phương hòa hoãn cũng được, chứ cứ nhất định mời cho được thầy nào đó rồi thà chết để đợi thì há không phải là ngây sao?”. Vương Tôn thở dài nói “Nhưng thầy thuốc trên đời không ai kê được phương hòa hoãn cho ta đâu”. Bà ta nói "Sao mà kiến văn hẹp hòi thế”, rồi thì mắt mũi tóc da, thần thái dáng điệu của Ngữ Khả đều khoa tay múa chân tả lại. Vương Tôn lại lắc đầu nói "Thôi bà đừng nói nữa, người ấy thì ta không mong ước tới", rồi quay mặt vào vách không nghe nữa, bà ta thấy không lay chuyển được bèn bỏ về.</p><p></p><p>Một hôm Vương Tôn đang nằm thiêm thiếp chợt một tỳ nữ bước vào nói "Người công tử mơ ước tới đây này?", mừng quá nhảy chồm dậy, vội vàng bước ra khỏi phòng thì giai nhân đã vào tới trong sân nhưng nhìn kỹ lại thì không phải Khuê Tú. Thấy nàng mặc áo khoác màu vàng, quần thêu gấp nếp nhỏ, hé lộ hai mũi giày cong vút chẳng khác gì thần tiên. Vái chào hỏi tên họ, nàng đáp "Thiếp là Ngũ Khả. Chàng có tình sâu nặng mà chỉ hướng về một mình Khuê Tú khiến người khác bất bình". Vương Tôn tạ lỗi, nói “Bình sinh chưa thấy dung nhan nên trong mắt chỉ có một mình Khuê Tú, nay đã biết lỗi rồi”, rồi định cùng nhau thề thốt, vừa nắm tay đắm đuối thì mẹ vào vỗ về, sực tỉnh, thì ra là nằm mơ.</p><p></p><p>Nhớ lại nét mặt tiếng cười vẫn như rành rành trước mắt, thầm nghĩ nếu quả Ngũ Khả đúng như trong giấc mộng thì cần gì phải mong ước người khó gặp gỡ kia nữa. Nhân đó kể lại giấc mơ cho mẹ nghe, mẹ mừng thấy con đã hơi bỏ ý cũ vội định nhờ người làm mối. Vương Tôn sợ là nằm mơ thấy đẹp khác hơn người thật, bèn nhờ bà già láng giềng vốn quen họ Trương tìm cớ tới nhà, dặn ngầm nhìn mặt Ngũ Khả. Bà già tới thì Ngũ Khả đang ốm, tựa gối chống cằm, dáng vẻ yêu kiều không ai sánh kịp. Bà già tới gần hỏi thăm đau ốm thế nào, nàng chỉ im lặng mân mê thắt lưng không nói một tiếng, người mẹ đáp thay "Có bệnh gì đâu, suốt sáng giận hờn cha mẹ đấy". Bà già hỏi duyên cớ, người mẹ đáp "Ai tới dạm hỏi cũng không ưng, cứ đòi phải được như Ký Sinh nhà họ Vương mới chịu lấy, mẹ thấy nóng ruột khuyên nhủ thì hờn dỗi bỏ cơm mấy hôm nay".</p><p></p><p>Bà già cười nói "Cô nương đây mà lấy Vương lang thì đúng là người ngọc thành đôi, mà nếu Vương lang không gặp được Ngũ nương e cũng sẽ khô héo mà chết. Ta về rồi sẽ nhờ người mai mối tới ngay, có được không?". Ngũ Khả ngắt lời nói "Bà đừng làm thế, sợ không thành thì ta càng bị chê cười thêm". Bà già hăng hái tự nhận quyết sẽ làm cho việc phải thành, Ngũ Khả mới mỉm cười. Bà già về tả lại, nhất nhất đều như bà mối đã nói. Vương Tôn hỏi kỹ về y phục thì đều ăn khớp với giấc mơ, cả mừng, tâm tình thư thái dần nhưng rốt lại vẫn chưa dám tin chắc vào lời người khác nói. Vài hôm sau đỡ bệnh, ngầm gọi bà mối họ Vu tới bảo tìm cách cho mình được nhìn thấy Ngũ Khả một lần, bà ta thấy khó nhưng cũng vâng dạ rồi về. Lâu không thấy tới, đang định đi tìm thì bà ta chợt hớn hở tới nói “Có cơ hội rồi đây. Vài hôm nay Ngũ Khả khó ở, ngày nào cũng sai đám tớ gái dìu ra sân đi dạo, công tử cứ tới núp chờ. Ngũ nương đi rất chậm, có thể nhìn kỹ được".</p><p>Vương Tôn mừng rỡ theo lời, sáng hôm sau sai thắng ngựa đi sớm, tới nơi thì bà mối đã đứng chờ sẵn, bảo buộc ngựa vào gốc cây trong thôn rồi dẫn vào một nhà gần đường, thu xếp chỗ cho ngồi rình xong, đóng cửa bỏ đi. Giây lát quả nhiên Ngũ Khả dựa tỳ nữ bước ra, Vương Tôn từ trong khe cửa nhìn chằm chằm, cô gái đi ngang qua cửa, bà mối lại cố ý chỉ cho xem cảnh vật này nọ để giữ chân nàng. Vương Tôn nhìn lén thấy rõ cả, mường tượng như lại đang nằm mơ, mừng quá run lên không kìm được. Lát sau bà mối tới hỏi “Thấy Khuê Tú được chứ?”, Vương Tôn cảm tạ rồi về. Lúc ấy mới thưa với cha mẹ, nhờ mai mối qua dạm hỏi, nhưng qua tới thì Ngũ Khả đã hứa gả cho người khác rồi. Vương Tôn thất ý, rầu rĩ muốn chết, lập tức trở bệnh lại. Cha mẹ lo quá, trách con nông nổi.</p><p></p><p>Vương Tôn không đáp, mỗi ngày chỉ hớp một ngụm cháo, được vài tháng chỉ còn da bọc xương, so với trước kia càng nặng hơn. Bà mối chợt tới, kinh ngạc hỏi "Sao yếu đến thế?”. Vương Tôn sa lệ kể lại sự tình. Bà mai cười nói “Công tử đúng là ngây, hôm trước người ta theo thì nhất định chối từ, hôm nay muốn mong cầu người ta là được toại nguyện ngay sao? Nhưng cũng còn có thể cố sức làm được, chỉ cần bàn tính với già này sớm, thì cho dù đã hứa gả cho hoàng tử con vua ta cũng giành lại được mà!". Vương Tôn cả mừng hỏi cách, bà ta bảo viết thư sai người đưa đi, hẹn hôm sau sẽ tới chờ ở nhà họ Trương. Quế Am sợ đường đột sẽ bị cự tuyệt, bà ta nói "Hôm trước ông Trương đã nói ưng thuận rồi, vì dằng dai mấy hôm nên ông ta đổi ý, nhưng tuy hứa gả cho nhà khác vẫn chưa có thư làm bằng. Lời ngạn có câu Nấu trước được ăn sớm, còn ngần ngại gì nữa", Quế Am bèn nghe theo.</p><p>Hôm sau sai hai người gia nhân đưa thư qua không thấy nói gì khác, được thưởng hậu trở về. Vương Tôn mừng, lập tức khỏi bệnh, từ đó hết nhớ nhung Khuê Tú. Trước kia Trịnh Tử Kiều từ chối sính lễ, Khuê Tú đã bực tức, đến khi nghe việc cưới gả với họ Trương đã thành, lòng càng uất ức, thẫn thờ như bị bệnh, càng ngày càng võ vàng, cha mẹ hỏi thì không dám nói. Đứa tỳ nữ biết ý lén nói với bà mẹ, Trịnh biết chuyện tức giận, không mời thầy thuốc, định bỏ cho chết. Nhị Nương bực tức nói “Cháu trai ta cũng không có gì xấu, sao cứ khư khư giữ thói hủ nho mà giết chết con gái cưng của mình?". Trịnh giận dữ nói "Con gái của bà chết sớm càng tốt, khỏi bị chê cười", từ đó vợ chồng bất hòa. Nhị Nương cố nói với con gái rằng thế nào cũng gả nàng cho Vương Tôn, coi như vợ lẽ cũng được. Cô gái cúi đầu không đáp, như rất bằng lòng. Nhị Nương bàn với Trịnh, Trịnh nghe càng nổi nóng, mặc kệ cho Nhị Nương lo coi con gái như chết rồi, không cần biết tới nữa.</p><p>Nhị Nương rất thương con, nhất định làm như đã nói, cô gái vui mừng mới dần dần khỏi bệnh. Bèn ngầm hỏi dò ngày Vương Tôn đón dâu, tới hôm ấy lấy cớ sắp đám cưới cháu trai, giả về thăm nhà. Trời chưa sáng đã sai người qua nhà anh mượn xe kiệu, Quế Am rất yêu quý em gái, lại vì hai nhà cũng gần nên sai lấy xe ngựa chuẩn bị để rước dâu đi đón Nhị Nương trước. Xe kiệu tới nơi, Nhị Nương trang điểm cho con gái rồi bảo lên xe, sai hai người tớ trai và hai bà già đưa đi, tới nơi thì trải thảm lông từ cổng mà vào. Lúc ấy đàn sáo đã tề tựu đông đủ, người tớ trai cao giọng sai cử nhạc, mọi người huyên náo cả lên một lượt. Vương Tôn nhào ra xem thì cô gái đã lấy khăn hồng che kín mặt, khiếp sợ toan bỏ chạy thì hai người tớ trai nhà họ Trịnh xốc nách đỡ ra bảo làm lễ giao bái. Vương Tôn chẳng hiểu vì sao nhưng cũng lập tức vái lạy, kế hai bà già dìu cô gái đi thẳng vào phòng tân hôn, lúc ấy mới biết đó là Khuê Tú. Cả nhà phát hoảng không biết làm sao, trời đã xế chiều, Vương Tôn không dám làm lễ rước dâu nữa.</p><p></p><p>Quế Am sai đầy tớ qua kể sự tình với Trương, Trương nổi giận muốn tuyệt hôn luôn, Ngũ Khả không chịu, nói "Người kia tuy tới trước nhưng chưa có mai mối sính lễ, chi bằng cứ nhắn bên kia qua rước dâu” Cha cho là đúng, nói với người đầy tớ, người ấy về thưa lại nhưng Quế Am vẫn không dám theo lời, nhăn nhó nhìn nhau không biết nên mừng hay nên giận. Trương chờ đợi hồi lâu biết họ Vương không rước dâu, bèn cũng đem xe kiệu đưa Ngũ Khả tới. Vì vậy phải bày một phòng tân hôn khác, mà Vương Tôn ở giữa muốn chu toàn cứ qua lại cả hai nơi không biết ngủ đâu. Mẹ bèn đứng giữa điều đình, sai lấy tuổi lớn nhỏ mà sắp vai vế, hai nàng đều vâng lời. Đến khi Ngũ Khả nghe Khuê Tú hơi lớn hơn, phải gọi bằng chị thì tỏ vẻ khó chịu, mẹ rất lo lắng. Ba hôm sau cùng tới phòng mẹ, thấy Khuê Tú dung mạo đẹp đẽ, thái độ đường hoàng lấy làm kính trọng, từ đó vai vế mới định. Tuy nhiên cha mẹ vẫn lo lâu ngày sẽ không hòa thuận được với nhau, nhưng hai nàng không hề có điều tiếng gì, áo quần giày dép cũng dùng chung, yêu mến nhau như chị em ruột vậy.</p><p></p><p>Vương Tôn bấy giờ mới hỏi Ngũ Khả vì sao từ khước mai mối, nàng cười đáp "Chẳng vì sao cả, chỉ là để trả thù chàng cự tuyệt bà Vu thôi. Lúc chưa gặp thiếp, thì trong lòng chỉ biết có Khuê Tú, lúc thấy rồi thiếp cũng làm khó một chút xem ý chàng đối với thiếp và Khuê Tú hơn kém nhau thế nào. Nếu chàng bệnh vì người ta mà chẳng bệnh vì thiếp thì cũng không nên ép uổng phải sum họp”. Vương Tôn cười nói "Trả thù như thế cũng thảm độc đấy. Nhưng nếu không có bà Vu thì làm sao ta được thấy mặt hoa một lần". Ngũ Khả nói "Đó là tự thiếp muốn cho chàng thấy, chứ bà ta làm sao tính được. Lúc đi ngang căn nhà ấy thiếp há lại không biết người đang ở trong nhìn ra chằm chằm là ai sao? Từng hẹn nhau trong mộng rồi, thì còn gì mà chưa tin nữa chứ?". Vương Tôn kinh ngạc hỏi sao biết, nàng đáp "Lúc bệnh nằm mơ thấy tới nhà chàng, vẫn nghĩ là mộng mị quàng xiên, sau nghe nói chàng cũng nằm mơ, thiếp mới biết hồn phách có thể làm được như vậy, Vương Tôn lấy làm lạ, nàng bèn kể lại giấc mơ, ngày giờ đều đúng cả. Mối lương duyên của hai cha con đều nhờ chiêm bao mà thành, cũng là chuyện tình kỳ lạ nên chép lại cả hai.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Cha ngây vì tình, còn con thì mấy lần suýt chết vì tình, chữ “Nặng tình" có lẽ là chỉ Vương Tôn chăng? Không có người cha khéo nằm mơ như thế thì làm sao sinh được đứa con xuất hồn trong giấc mơ.</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 219 - 220 -</strong></p><p>Chử Toại Lương</p><p>(Chử Toại Lương)</p><p></p><p>Huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) có người dân là Triệu Mỗ, thuê nhà của người hào phú, mắc bệnh có khối u không tiêu mà cô đơn, nghèo khổ không đủ ăn, dần dần bệnh càng nặng. Một hôm cố sức lết ra ngoài cho mát, nằm ngủ dưới thềm, khi tỉnh dậy thấy một mỹ nhân tuyệt thế ngồi bên cạnh bèn hỏi. Cô gái đáp "Ta đến đây để làm vợ ngươi". Mỗ hoảng sợ nói “Chưa nói tới chuyện kẻ nghèo không dám mong bậy, chỉ nói tới chuyện đang mắc bệnh sắp chết thì cưới vợ làm gì?". Cô gái tự nói là có thể chữa được, Mỗ nói "Bệnh của ta không phải một ngày một buổi mà chữa được, mà cho dù có phương thuốc hay cũng không có tiền mà mua". Cô gái nói "Ta chữa bệnh không cần dùng thuốc”, rồi xoa mạnh lên bụng Triệu, Triệu thấy nóng như lửa, hồi lâu khối u trong bụng có tiếng ùng ục, giây lát thấy muốn đi đại tiện, vội vùng dậy chạy ra ngoài tuột quần ngồi xuống ỉa tung tóe, khối u cũng theo ra hết, thấy trong người dễ chịu bèn quay lại nói với cô gái “Nương tử là người thần ở đâu xin cho biết tên họ để ta thờ cúng”. Cô gái đáp "Ta là hồ tiên, chàng là Chử Toại Lương thời Đường<strong>*</strong> vốn có ơn với nhà thiếp, thường ghi nhớ muốn báo đáp, từ bấy đến nay tìm khắp nơi, hôm nay mới gặp được, thật là thỏa nguyện".</p><p></p><p>*Chử Toại Lương thời Đường: tức Chử Toại Lương, tự Thiện Đăng, người Tiền Đường, làm quan dưới các triều Thái tông, Cao tông dần tới chức Lại bộ Thượng thư Đồng Tam phẩm, vì can Cao tông lập Vũ hậu không được nên từ chức, bị giáng làm Đô đốc Đàm Châu, kế làm Thứ sử ái Châu rồi chết.</p><p></p><p>Mỗ thẹn mình xấu xí nhơ bẩn, lại lo nhà tranh bếp đất làm bẩn xiêm y nhưng cô gái cứ xin vào. Triệu bèn đưa vào nhà, thì giường đất không có chiếu, bếp lạnh không có lửa, nói “Chưa nói tới tình cảnh thế này không dám làm nhục nhau, cho dù là nàng cam lòng theo thì xin nhìn trên giường không chiếu, dưới bếp không lửa, ta lấy gì mà nuôi vợ con?". Cô gái chỉ nói đừng lo, nói xong quay nhìn thì thấy trên giường đã đủ cả chăn nệm. Đang còn kinh ngạc hỏi han, thì chớp mắt lại thấy cả phòng sáng quắc rực rỡ, mọi đồ vật đều đổi khác, bàn ghế sạch sẽ, rượu thịt đã bày đầy ra, bèn cùng nhau uống rượu rồi kết làm vợ chồng. Chủ nhân nghe chuyện lạ xin được gặp một lần, cô gái lập tức ra gặp, không có vẻ gì là khó chịu. Vì vậy khắp nơi đồn đại, người tới thăm làm quen đông nghẹt ở cửa, cô gái đều tiếp đón không chối từ một ai, có ai mở tiệc mời nàng cũng theo chồng tới.</p><p></p><p>Một hôm có viên Cử nhân trong tiệc nảy ý tà dâm, cô gái biết ngay, buông lời mỉa mai, lấy tay xô vào đầu y, y chúi ra ngoài, đầu lọt qua chấn song mà người còn vướng bên trong, giãy giụa lăn lộn không sao thoát ra được, mọi người cùng van xin nàng mới tới kéo ra cho. Hơn một năm khách khứa càng đông đúc phiền nhiễu, cô gái phát chán, những kẻ bị nàng chối từ không gặp đều đổ tội cho Triệu. Đến ngày Đoan ngọ mọi người đang cùng nhau uống rượu, chợt có một con thỏ nhảy vào, cô gái đứng lên nói "Ông Thung Dược<strong>*</strong> tới mời", rồi nói với con thỏ "Xin mời cứ đi trước". Con thỏ phóng nhanh ra xa mất hút, nàng bảo Triệu lấy thang, Triệu ra sau nhà lấy chiếc thang dài lên, thấy cao mấy trượng, trước sân có cây đại thụ bèn gác vào, đầu thang còn cao hơn ngọn cây. Cô gái leo lên trước, Triệu cũng theo sau, nàng quay đầu nói "Các vị bạn bè khách khứa ai muốn theo xin lập tức bước lên”. Mọi người nhìn nhau không ai dám trèo lên, chỉ có một đứa tiểu đồng của chủ nhân hăm hở leo theo, càng lên chiếc thang càng cao, dần dần vào hẳn trong mây không thấy đâu nữa. Mọi người cùng nhìn lại thì chiếc thang là cánh cửa lâu năm mục nát bỏ đi làm tấm ván. Bèn kéo nhau vào xem thì thấy nhà tranh vách đất như cũ, ngoài ra không có vật gì khác, cũng muốn chờ đứa tiểu đồng quay về hỏi han, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm.</p><p></p><p>*Ông Thung Dược: Thần dị ký chép trong mặt trăng có con thỏ ngọc cầm chày giã thuốc, nên "thung dược" (giã thuốc trong cối) đây chỉ con thỏ.</p><p></p><p><strong>220. Công Tôn Hạ</strong></p><p><strong>(Công Tôn Hạ)</strong></p><p></p><p>Huyện Bảo Định (tỉnh Hà Bắc) có viên Giám sinh Mỗ định vào kinh nộp tiền mua chức Tri huyện. Đang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được. Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa "Có khách tới", Mỗ cũng quên cả bệnh, rảo bước ra đón. Khách ăn mặc sang trọng như người quyền quý, Mỗ vái chào mấy lần rồi mời vào, hỏi từ đâu tới. Khách đáp "Ta là Công Tôn Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe nói ông sắp vào kinh mua chức Huyện doãn, đã có ý ấy thì mua hẳn chức Thái thú có hơn không?". Mỗ từ tạ, chỉ nói ít tiền không dám ước vọng quá cao. Khách xin ra sức giúp đỡ, nói chỉ cần đưa trước nửa tiền, xong việc sẽ tới nhiệm sở lấy nốt. Mỗ mừng rỡ hỏi cách thức, khách nói "Các quan Tổng đốc, Tuần phủ đều là bạn thân của ta, chỉ cần đưa tạm năm ngàn quan là mọi việc sẽ xong. Hiện phủ Chân Định đang khuyết chức Thái thú, phải lo cho gấp". Mỗ ngại vì ở ngay tỉnh nhà, khách cười nói "Ông ngây thơ quá, đã có tiền đấy rồi thì ai hỏi chuyện quê quán ở đất Ngô hay đất Việt làm gì". Mỗ rốt lại vẫn ngần ngừ, ngờ là trái phép, khách nói "Không cần nghi ngại, xin nói thật đây là chức Thành hoàng dưới âm ty bị khuyết. Ông nay tuổi thọ đã hết, tên họ đã ghi vào sổ ma rồi, phải nhân dịp này chạy chọt mới có thể thành bậc quan lớn dưới cõi âm được". Kế đứng lên từ biệt, nói “Ông cứ tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại", rồi ra cổng lên ngựa đi.</p><p></p><p>Mỗ chợt mở mắt tỉnh dậy, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền bạc cất giấu ra chợ mua một vạn thoi vàng giấy, vét sạch mặt hàng ấy trong quận, chất đống trong sân với ngựa cỏ lo đốt ngày đêm, tro cao như núi. Ba ngày sau khách quả tới, Mỗ đem tiền ra đưa, khách lập tức đưa Mỗ tới công thự. Thấy một vị quan lớn ngồi trên điện, Mỗ bèn sụp lạy, vị quan hỏi qua tên họ, kế khuyên Mỗ phải thanh liêm cẩn thận này nọ rồi lấy văn bằng ra, gọi tới trước án đưa cho. Mỗ lạy tạ trở ra, tự nghĩ chức Giám sinh vốn thấp hèn, nếu không có xe kiệu quần áo rực rỡ thì không đủ để trấn áp bọn thuộc lại. Vì thế mua thêm xe ngựa, lại sai bọn quỷ tốt khiêng kiệu kết hoa về đón người thiếp yêu, vừa sắp đặt xong thì nghi trượng từ Chân Định đã tới đón, kéo dài hơn một dặm, thấy suốt đường đi người ta tranh nhau đưa tiễn, vô cùng đắc ý.</p><p></p><p>Bỗng toán quân mở đường ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt, đang lúc ngờ sợ thì thấy quân kỵ mã đều xuống ngựa phủ phục cạnh đường, người bé khoảng một thước, ngựa nhỏ như con chồn. Toán quân trước xe kinh hãi nói "Quan Đế tới”. Mỗ hoảng sợ xuống xe, cũng phủ phục dưới đất, từ xa nhìn thấy Đế quân đi với bốn năm kỵ sĩ buông lỏng dây cương chậm rãi đi tới, râu rậm trùm cả gò má, không giống như trong tranh người ta vẽ nhưng thần thái rất uy nghi dũng mãnh, mắt dài gần tới tai. Đế quân ngồi trên ngựa hỏi đây là quan nào, đám tùy tùng thưa là Thái thú Chân Định. Đế quân nói “Một chức quận thú nhỏ nhoi sao dám phô trương như thế”. Mỗ nghe thấy sởn gai ốc co rúm người, nhìn lại mình thấy chỉ lớn bằng đứa nhỏ sáu bảy tuổi. Đế quân bảo đứng lên đi bộ theo ngựa, cạnh đường có ngôi đền, Đế quân vào ngồi quay mặt về hướng nam, sai lấy giấy bút đưa Mỗ bảo khai họ tên quê quán. Mỗ viết xong trình lên, Đế quân xem nổi giận nói "Viết chữ sai bét, nguệch ngoạc không ra chữ, là thằng cò mồi ngoài chợ làm sao coi việc dân!". Lại sai tra lại sổ ghi chép việc làm lúc sinh thời, một người bên cạnh quỳ xuống tâu bày, không rõ nói những gì. Đế quân lớn tiếng nói “Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, buôn quan bán tước là tội nặng”. Lập tức thấy người ấy bị thần Kim giáp xích lại giải đi. Lại có hai người bắt Mỗ ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi tuột hết thịt ở mông đít rồi tống ra cổng.</p><p></p><p>Mỗ nhìn quanh thì xe ngựa đâu mất hết, đau quá không đi được, chỉ nằm thở dốc trong đám cỏ. Nhìn kỹ chỗ ấy thì cách nhà chưa xa lắm, may mà thân thể nhẹ như chiếc lá nên mất một ngày một đêm mới về được tới nhà, chợt tỉnh cơn mơ rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han, chỉ nói rằng bắp đùi đau lắm, té ra đã mê man như chết suốt bảy ngày, lúc ấy mới tỉnh lại. Lại hỏi sao A Lân không tới, đó là tên tự người thiếp. Trước đó A Lân đang ngồi trò chuyện, chợt nói “Ông ấy đã làm Thái thú Chân Định, sai lính về đón ta đấy", rồi vào phòng trang điểm thật đẹp, vừa xong thì chết, cũng mới trong đêm trước. Người nhà kể lại chuyện lạ xong, Mỗ hối hận đấm ngực sai để xác đó đừng chôn, mong rằng nàng tỉnh lại. Nhưng mấy ngày sau vẫn không thấy gì, đành đưa đi chôn cất. Bệnh Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại loét to ra, nửa năm mới dậy được, thường tự nhủ "Tiền mua chức quan đã hết sạch, lại còn bị hình phạt tai bay vạ gió dưới âm ty, bấy nhiêu còn chịu được, nhưng người thiếp yêu không biết đã đi đâu, những lúc khuya vắng mới là khốn khổ đây!”</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Than ôi, chuyện mua bán vốn không chỉ trong quan trường trên thế gian sao! Cõi âm đã có chuvện ấy, nếu ngựa của Đế quân không kịp tới, thì kẻ tác oai tác phúc đâu có bị trị tội! Nghe đồn tiên sinh Quách Hoa Dã ở hương ta cũng có một chuyện tương tự, cũng là thần trong đám người vậy. Tiên sinh nhờ trong sạch cứng cỏi được vua biết tới, mấy lần cất nhắc lên tới chức Tống chế Kinh Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), lên đường phó nhiệm hành lý sơ sài, chỉ có bốn năm người theo hầu, quần áo đều xoàng xĩnh, người đi đường không ai biết là bậc quan lớn.</em></p><p><em></em></p><p><em>Trên đường gặp viên Tri huyện đi nhậm chức cùng đi một đường, thấy có hơn hai mươi chiếc xe lớn, quân dẹp đường tới vài ngàn kỵ mã, quân tùy tùng cũng có hàng trăm người. Tiên sinh cũng không rõ là quan gì, cứ lúc đi trước, lúc theo sau, lúc lại mấy người cưỡi ngựa chen vào hàng ngũ của họ, bị quân tiền khu giận dữ quát tháo xua đuổi nhưng tiên sinh cũng không sợ hãi. Không bao lâu tới một trấn lớn, hai bên cùng ghé vào nghỉ chân, tiên sinh sai tùy tùng dò hỏi thì ra đó là một viên Giám sinh nộp tiền được làm quan đang tới Hồ Nam phó nhiệm.</em></p><p><em></em></p><p><em>Bèn sai một người qua tự giới thiệu, viên Tri huyện nghe xong vừa ngờ vừa sợ, đến khi hỏi lai lịch thì biết đúng là tiên sinh, run rẫy không biết làm sao, mặc áo đội mũ khúm núm tới gặp. Tiên sinh hỏi "Ngươi là Tri huyện huyện Mỗ phải không?”, viên ấy thưa phải. Tiên sinh nói "Một huyện bé tí tẹo làm sao nuôi nổi bấy nhiêu quân tùy tùng? Ngươi mà tới nơi thì một vùng sẽ phải lầm than, không thể để dân khổ cực được thôi cứ về đi đừng tới phó nhiệm nữa". Viên Tri huyện dập đầu nói "Hạ quan còn có văn bằng bổ nhiệm", tiên sinh lập tức bảo đưa văn bằng lên, xem xong nói "Đây là chuyện vặt, ta có thể xin miễn nhiệm thay cho ngươi”, viên Tri huyện đành lạy chào lui ra. Dọc đường y về người ta đều không hiểu vì sao, nhưng đó là do tiên sinh vậy. Trên đời có nhiều kẻ chưa làm quan đã được thăng chức, nghe rất chướng tai, nhưng tiên sinh là bậc kỳ nhân nên mới có được chuyện khoái ý như thế. </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 220 - 221 -</strong></p><p>Nân Châm (Nân Châm)</p><p></p><p>Ngu Tiểu Tư người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn bán. Vợ là Hạ thị đi thăm cha mẹ trở về, thấy ngoài cửa có người đàn bà dắt đứa con gái nhỏ khóc lóc rất bi ai. Hạ hỏi thì gạt lệ trả lời, mới biết chồng bà ta tên Vương Tâm Trai, cũng là con cháu nhà quan, nhà sa sút không đủ ăn, nhờ người làng bảo chúng vay tiền nhà giàu họ Hoàng để tập đi buôn, giữa đường gặp cướp, tai bay vạ gió mất sạch cả tiền, may mà không chết. Về tới nhà, Hoàng qua đòi nợ, tính cả vốn lẫn lãi không dưới ba mươi lượng vàng, thật không sao trả nổi. Hoàng thấy con gái là Nân Châm xinh đẹp, định lấy làm thiếp, sai người bảo chứng tới đòi nợ rồi tỏ ý, nếu chịu sẽ tiếp tục cho thiếu, ngoài ra vẫn đúng giá cô gái mà trả tiền. Vương bàn với vợ, vợ khóc nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng vốn là dòng dõi trâm anh, kẻ kia là tiện dân mới giàu lên, sao dám cưới con gái ta làm thiếp? Vả lại Nân Châm vốn đã hứa gả rồi, chàng đâu thể làm chủ được nữa?".</p><p></p><p>Trước có Cử nhân họ Phó người cùng huyện chơi thân với Vương, sinh được một trai là A Mão, lúc còn bồng ẳm đã hứa làm thông gia với nhau. Sau Phó vào đất Mân (vùng Phúc Kiến) làm quan, hơn năm thì chết, vợ con không về được, tin tức qua lại thưa dần, nhưng vì cớ ấy nên Nân Châm mười lăm tuổi vẫn chưa lấy chồng. Nghe vợ nhắc lại chuyện ấy Vương không biết nói gì, chỉ tính cách làm sao trả nợ. Vợ nói "Bất đắc dĩ thì thiếp phải bàn với hai đứa em". Đại khái vợ Vương họ Phạm, ông nội từng làm quan trong kinh, hai cháu trai còn nhiều ruộng vườn. Hôm sau vợ Vương dắt con về nói với hai em trai, hai người mặc cho khóc lóc, không nói một lời an ủi giúp đỡ. Phạm gào khóc trở về, vừa lúc gặp Hạ hỏi han bèn vừa kể vừa khóc.</p><p></p><p>Hạ thương xót, nhìn tới cô gái thì thấy mặt mũi sáng sủa đáng yêu, càng thêm mủi lòng bèn mời vào nhà cho ăn uống, an ủi rằng "Hai mẹ con đừng lo, thiếp xin hết sức giúp đỡ”. Phạm còn chưa kịp cám ơn, cô gái đã khóc lớn lạy phục xuống đất, Hạ càng thêm xót xa. Hạ ngẫm nghĩ rồi nói "Tuy nhà có chút của cải, nhưng ba mươi lượng vàng cũng không phải dễ, phải cầm bán mới có”. Hai mẹ con lạy chào ra về, Hạ hẹn ba ngày sẽ có tiền. Chia tay xong tính toán đủ cách, cũng chưa dám nói với chồng, qua ba ngày cũng vẫn chưa đủ số, sai người qua hỏi mượn mẹ thì mẹ con Phạm đã tới, bèn kể thật rồi hẹn lại hôm sau. Tối mịt thì gia nhân đem tiền mẹ cho mượn về, Hạ dồn cả vào túi đặt dưới gối.</p><p></p><p>Đến khuya có tên trộm khoét vách theo ánh đèn mò vào, Hạ tỉnh giấc hé mắt nhìn, thấy một người tay cầm đoản đao, mặt mũi hung dữ sợ quá không dám kêu, cứ giả vờ ngủ say. Tên trộm tới gần cái rương, đã toan mở nắp nhưng nhìn thấy bên gối Hạ có cái túi bèn cầm lấy tới cạnh đèn mở ra xem, kế giắt vào lưng rồi không mở rương lục lọi nữa, bỏ đi luôn. Hạ bèn vùng dậy la lớn, trong nhà chỉ có một đứa tớ gái nhỏ đập vách láng giềng báo, láng giềng họp lại đuổi theo thì tên trộm đã chạy xa rồi. Hạ ngồi trước đèn sụt sùi khóc lóc không bao lâu đứa tớ gái thiếp đi, Hạ thắt dây vào song cửa sổ treo cổ tự tử. Đứa tớ gái tỉnh dậy trời đã sáng bạch, mới gọi người vào cởi dây thì thân thể đã lạnh ngắt. Ngu hay tin vội chạy về, hỏi đứa tớ gái mới biết sự tình, sợ hãi khóc lóc lo chôn cất mà thôi.</p><p></p><p>Lúc ấy mùa hè nhưng xác Hạ không cứng cũng không thối, qua hơn bảy ngày mới liệm. Chôn cất xong, Nân Châm lén ra khóc lóc cạnh mộ, chợt có cơn mưa rào đổ tới, sấm sét ầm ầm đánh xuống vỡ mộ, cô gái cũng bị chấn động chết luôn. Ngu hay tin vội tới xem thì quan tài đã bật nắp, vợ đang rên rĩ ở trong bèn bế ra, thấy xác cô gái không rõ là ai, Hạ nhìn kỹ mới biết, vô cùng kinh ngạc. Không bao lâu Phạm thị tới, thấy con gái đã chết gào khóc nói “Vốn đã ngờ là nó ở đây, quả đúng thế! Từ hôm nghe phu nhân tự tử, nó cứ kêu khóc suốt ngày đêm, đêm nay mới nói với ta là muốn ra thăm mộ, mà ta chưa cho”. Hạ cảm vì nghĩa bèn nói với chồng, bèn lấy quan tài chôn mình để chôn cất cô gái, Phạm lạy tạ. Ngu cõng vợ về. Phạm cũng về kể với chồng.</p><p>Chợt nghe nói phía bắc thôn có một người bị sét đánh chết giữa đường, trên xác có hàng chữ "Thằng giặc trộm tiền của Hạ thị", kế nghe láng giềng có tiếng đàn bà khóc, mới biết người chết là chồng chị ta, tên Mã Đại. Người trong thôn lên báo quan, quan sai bắt người đàn bà lên hỏi cung, thì ra Phạm thấy Hạ vay tiền giúp mình cứu con gái nên cảm động khóc lóc kể cho người ta nghe, Mã Đại là kẻ cờ bạc vô lại nghe thấy nổi dạ bất lương. Quan bèn sai giải người đàn bà về nhà lục soát, chỉ còn hai mươi lượng, lại tìm trên xác Mã Đại được bốn lượng nữa, quan phán bán người đàn bà đi bù vào chỗ thiếu trả cho Ngu. Hạ càng mừng rỡ, đưa hết số tiền cho Phạm trả nợ. Chôn cô gái được ba ngày, đêm đến mưa gió sấm sét lại nổi lên đánh vỡ mộ, cô gái cũng sống lại nhưng không chạy về nhà mà tới gõ cửa nhà Hạ thị, đại khái vì nhận ra ngôi mộ, ngờ là Hạ đã sống lại. Hạ nghe tiếng gọi hoảng sợ vùng dậy, cách cánh cửa hỏi vọng ra, cô gái nói "Phu nhân quả nhiên đã sống lại rồi, con là Nân Châm đây”.</p><p></p><p>Hạ sợ cho rằng là ma, gọi người đàn bà láng giềng cùng ra hỏi han, đến khi biết là nàng sống lại, mừng rỡ mở cửa đưa vào nhà. Cô gái nói xin theo hầu hạ phu nhân, Hạ nói "Như thế là nói ta mất tiền để mua tớ gái sao? Chôn ngươi rồi thì nợ cũng đã trả xong, đừng ngờ vực gì!”. Cô gái càng cảm động khóc lóc, xin thờ như mẹ, Hạ chưa ưng thuận, nàng lại nói “Con biết làm lụng, cũng không đến nỗi ngồi ăn không đâu”. Sáng ra báo cho Phạm thị biết, Phạm mừng rỡ vội tới, cũng chiều lòng con gái, lập tức gởi gắm luôn cho Hạ. Phạm đi rồi, Hạ ép đưa cô gái về nhà, cô gái cứ khóc lóc nhớ Hạ. Vương Tâm Trai bèn đích thân dắt nàng tới đưa vào cổng rồi về. Hạ nhìn thấy kinh ngạc hỏi han mới biết nguyên do, bèn mới để nàng ở lại. Ngu vừa tới, cô gái vội quỳ lạy, gọi là cha. Ngu vốn không có con, thấy cô gái dịu dàng khiến người ta thương xót, cũng rất vui mừng. Cô gái học kéo sợi vá may, không nề vất vả. Hạ ốm mấy lần suýt chết, nàng sớm tối hầu hạ, Hạ không ăn cũng không ăn, trên mặt lúc nào cũng có ngấn lệ, thường nói với người ta rằng "Mẹ mà có bề gì thì ta thề không sống nữa", Hạ hơi đỡ mới thấy nàng cười. Đến khi Hạ khỏi bệnh, nghe kể lại rơi nước mắt nói "Ta bốn mươi tuổi mà chưa có con, chỉ cần sinh được một đứa con gái như Nân Châm là đủ”. Hạ từ trẻ không sinh nở, nhưng qua năm sau chợt sinh được một con trai, người ta cho là ở hiền gặp lành.</p><p></p><p>Được hai năm cô gái càng lớn, Ngu bàn với Vương là không thể giữ lời hứa cũ mãi. Vương nói "Con gái ở nhà ông, việc gả chồng là tùy ý ông". Cô gái đã mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song, nên lời ấy truyền ra thì những kẻ dạm hỏi nối gót nhau tới cổng, song vợ chồng chỉ trả lời qua quít. Nhà giàu họ Hoàng cũng sai người mối tới, nhưng Ngu ghét giàu mà bất nhân nên ra sức chối từ mà chọn họ Phùng. Phùng là học trò giỏi trong quận, cũng thông minh giỏi văn chương, Ngu báo với Vương thì Vương đi buôn chưa về, bèn cứ ưng thuận. Hoàng vì Ngu từ chối cũng giả đi buôn, tìm tới chỗ Vương trọ bày tiệc mời mọc, lại giúp tiền bạc làm vốn, dần dần quen thuộc thân mật mới nói con trai mình thông minh lanh lợi, xin hỏi cưới Nân Châm, Vương cảm động vì ân cần lại hâm mộ vì giàu có, bèn hẹn ước với nhau. Trở về tới nói với Ngu, thì hôm trước Ngu vừa nhận thư đính ước của họ Phùng, nghe lời Vương nói rất không thích, gọi cô gái ra kể lại mọi việc. Cô gái bực tức nói “Chủ nợ ấy là kẻ thù, bắt con lấy kẻ thù, thì chỉ còn một cách chết thôi” Vương tái mặt, nhờ người nói lại với Hoàng là đã hứa gả con gái cho họ Phùng, Hoàng tức giận nói “Cô kia họ Vương chứ không phải họ Ngu, ta đính ước trước họ Phùng, sao lại bội ước". Bèn đâm đơn kiện lên quan huyện, quan huyện có ý muốn xử cho người đính ước trước, bắt gả cô gái cho Hoàng. Phùng nói "Họ Vương đã gởi gắm con cho ông Ngu, lại nói không dự bàn chuyện cưới gả nữa, vả lại ta đã có thư đính ước còn họ Hoàng chẳng qua chỉ là hẹn ước bên chén rượu mà thôi". Quan huyện đổi ý, phán cho tùy ý cô gái.</p><p></p><p>Hoàng về đem tiền đút lót xin quan xử cho mình được, vì thế hơn một tháng không xử xong. Một hôm có viên Cử nhân lên kinh, đi ngang Đông Xương sai người hỏi thăm Vương Tâm Trai, tới hỏi đúng Ngu, Ngu hỏi lại thì viên Cử nhân ấy họ Phó, tức là A Mão vậy. Sau khi nhập tịch ở Phúc Kiến, mười tám tuổi thi đỗ Cử nhân, vì đã có đính ước trước đây nên chưa cưới vợ, mẹ dặn tiện đường ghé thăm Vương xem cô gái đã lấy chồng chưa. Ngu cả mừng, mời Phó tới nhà kể hết những chuyện đã qua, nhưng vì cưới gả ngoài ngàn dặm nên sợ không có gì làm bằng. Phó bèn lấy ra tờ đính ước hôn nhân của Vương ngày trước, Ngu mời Vương tới xem lại quả đúng, tất cả cùng mừng rỡ. Hôm ấy chính là ngày xét xử lại, Phó đưa danh thiếp ra mắt quan huyện, vụ kiện mới thôi. Phó hẹn ngày làm lễ cưới rồi đi. Thi hội xong, Phó mua lễ vật quay về, ở trong nhà cũ làm lễ rước dâu xong thì có tin thi đỗ Tiến sĩ từ Phúc Kiến đưa tới té ra Phó lại đỗ luôn kỳ thi hội. Bèn vào kinh nhận chức trở về cô gái không muốn xuống nam, Phó cũng vì nhà cửa mồ mả ông bà còn đó bèn một mình trở về Phúc Kiến bốc mộ cha rồi đón mẹ cùng về. Vài năm sau Ngu chết, con trai mới có bảy tám tuổi, cô gái chăm sóc còn hơn em ruột, cho đi học, thi đỗ vào trường huyện rất sớm, nhà nổi tiếng giàu có, đều là nhờ Phó cả.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Trong đám thần long cũng có bậc hiệp khách ư? Trừng trị kẻ ác làm rõ điều thiện, cứu người giết người đều bằng sấm sét, đó là điệu múa Tiền Đường phá trận<strong>*</strong> vậy. Ầm ầm giáng xuống mấy lần, đều vì một người, biết đâu Nân Châm lại chẳng phải là Long nữ bị đày xuống trần?</em></p><p></p><p>*Tiền Đường phá trận: xem Truyện Long nữ sau truyện Chúc Thành, quyển III.</p><p> </p><p><strong>222. Hoàn Hầu</strong></p><p><strong>(Hoàn Hầu)</strong></p><p></p><p>Bành Hiếu Sĩ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Nam) uống rượu nơi khác về nhà, dọc đường xuống ngựa đi tiểu. Con ngựa cúi xuống ngoạm cỏ bên đường, có một bụi cỏ nhỏ xanh tốt rất đáng yêu vừa trổ hoa vàng rực rỡ chói mắt, con ngựa ăn mất quá nửa. Bành nhổ chỗ còn lại ngửi thấy có mùi hương lạ bèn cất vào túi lại lên ngựa đi tiếp, thấy ngựa phi như bay thích chí cũng không tính đường về, cứ để mặc cho nó chạy. Chợt thấy mặt trời lặn xuống sau núi mới kéo cương nhìn quanh thì thấy núi non chập chùng, không biết là chỗ nào. Chợt có một người áo xanh tới, thấy con ngựa đang hí vang, bèn nắm dây cương nói “Trời đã xế rồi, chủ ta mời ông ghé lại". Bành hỏi đây là nơi nào, người ấy đáp "Là đất Lãng Trung (tỉnh Tứ Xuyên)". Bành cả sợ té ra trong nửa ngày đã đi hơn ngàn dặm, nhân hỏi chủ nhân là ai, người kia đáp “Tới nơi sẽ biết". Lại hỏi nhà ở đâu, đáp cũng gần đây thôi, rồi dắt ngựa kéo đi mau.</p><p>Bành thấy người ngựa cùng như bay, qua một rặng núi thì có nhà cửa phòng ốc trùng điệp ở lưng chừng núi che khuất lẫn nhau. Từ xa nhìn thấy một đám người áo mũ chỉnh tề như đang chờ ai, Bành tới nơi xuống ngựa thì họ đều vái chào rất cung kính. Kế chủ nhân bước ra, khí thế oai mãnh, y phục đều khác người trần, chắp tay nhìn khách nói "Khách hôm nay không có ai xa như Bành quân", rồi vái chào mời Bành đi trước. Bành từ tạ không chịu bước lên, chủ nhân bèn nắm tay kéo đi, Bành thấy tay như bị cùm siết chặt, đau như sắp gãy, không dám tranh cãi nữa bèn đi. Những người còn lại bèn nhường nhau đi trước, chủ nhân đẩy người này kéo người kia, khách đều xuýt xoa rên rĩ muốn quỵ xuống như không chịu nổi, cùng theo lời chủ nhân vào. Tới sảnh đường thấy trần thiết hoa lệ, cứ hai người vào ngồi một bàn. Bành hỏi nhỏ người ngồi với mình rằng chủ nhân là ai, đáp là Hoàn hầu<strong>*</strong>, kinh ngạc không dám ho hắng, mọi người cũng đều ngồi im.</p><p></p><p>*Hoàn hầu: tức Trương Phi, tướng và là em kết nghĩa của Thục chủ Lưu Bị thời Tam quốc, nổi tiếng dũng mãnh, trấn thủ Lãng Trung, bị bộ tướng làm phản ám sát, thụy là Hoàn hầu.</p><p></p><p>Rượu được vài tuần, Hoàn hầu nói "Hàng năm cứ quấy quả các vị, nên có tiệc mọn để tỏ lòng. Lại được khách từ xa tới, có thể nói là hạnh ngộ, ta muốn xin một vật, nếu thương thì cho, không thì không dám ép”. Bành đứng dậy hỏi vật gì, chủ nhân đáp "Con ngựa của ông đã có tiên cốt, không phải người trần cuỡi được , xin đổi con khác cho ông, có được không?". Bành đáp "Xin kính cẩn dâng lên, không dám đánh đổi”, Hoàn hầu nói “Ta sẽ đền một con ngựa thật tốt, lại tặng thêm vạn lượng vàng”. Bành rời ghế lạy tạ, Hoàn hầu sai kéo đứng lên. Giây lát rượu thịt bày ra la liệt, mặt trời lặn lại sai thắp đèn uống tiếp. Mọi người đều đứng dậy xin thôi, Bành cũng xin cáo từ. Hoàn hầu hỏi “Ông từ xa tới, tối nay về đâu?". Bành nhìn người ngồi cùng bàn với mình nói “Đã xin ông đây cho ngủ nhờ tối nay". Hoàn hầu bèn sai lấy chén lớn rót rượu tiễn khách, nói với Bành rằng "Bụi cỏ mà ông cất, tươi thì có thể giúp người ta thành tiên, khô thì có thể dùng để điểm kim, bảy cọng là được một vạn lượng vàng". Rồi lập tức sai tiểu đồng chỉ cách cho Bành, Bành lại lạy tạ. Hoàn hầu nói "Ngày mai xin ra chợ tới chỗ bán ngựa tùy ý lựa lấy một con, không cần phải trả giá đưa tiền, ta sẽ tính cho". Lại nói với mọi người rằng “Ông khách ở xa, lúc trở về nên giúp đỡ ít nhiều tiền đi đường", mọi người vâng dạ, cạn chén rồi cáo biệt.</p><p></p><p>Trên đường Bành hỏi họ tên thì người ngồi cùng bàn với mình tên Lưu Tử Vựng, cùng đi hai ba dặm, qua rặng núi thì thấy thôn xóm, mọi người cùng đưa Bành về nhà Lưu rồi kể cho nghe chuyện lạ. Vốn là trong làng hàng năm có tế Hoàn hầu trong miếu, giết bò múa hát để cúng đã thành lệ. Lưu là người chủ tế, vừa cúng xong ba hôm trước, trưa nay chợt có người tới từng nhà mời mọi người vào núi, hỏi ai mời thì đều trả lời qua quít nhưng hối thúc rất gấp. Qua khỏi rặng núi thấy lầu gác, mọi người nhìn nhau kinh ngạc, sắp tới cổng người kia mới nói thật, mọi người cũng không ai dám từ chối lui về. Người đi mời nói "Xin cứ họp lại ở đây chờ ta đi mời một người khách xa", tức là Bành vậy. Bành nghe kể rất lấy làm lạ lùng. Trong bọn có người bị Hoàn hầu nắm tay đau quá sợ gãy xương, cởi áo thắp đèn lên nhìn thì thấy da thịt bầm tím, Bành nhìn lại mình cũng thấy thế. Mọi người ra về, Lưu liền mang chăn chiếu ra ngủ chung với Bành.</p><p></p><p>Sáng hôm sau trong làng tranh nhau mời cơm, lại theo Bành vào chợ tìm ngựa, hơn mười ngày chọn qua mấy mươi con mà không có ngựa hay, Bành cũng quyết ý tìm bằng được. Hôm sau lại vào chợ, thấy có một con dáng vẻ rất khỏe mạnh, cưỡi thử thấy đúng là tuấn mã bèn trở vào làng đợi người bán nhưng trở lại thì đã bỏ đi mất. Bành bèn từ biệt người làng trở về, mọi người đều mang tiền tới tiễn tặng, ngựa đi một ngày được gần năm trăm dặm, Bành về tới nhà kể lại chuyện, mọi người đều không tin, đến khi Bành lấy những sản vật ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) ra cho xem mới cùng ngạc nhiên kinh sợ. Mớ cỏ lâu ngày khô dần, còn được bảy cọng, Bành theo cách đã được chỉ dẫn làm phép điểm kim, trong nhà vụt giàu hẳn lên. Bèn tìm tới nơi ấy vào miếu Hoàn hầu cúng tế tạ ơn, chơi với người làng ba ngày rồi về.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Xem Hoàn hầu mời khách mới tin rằng việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình<strong>*</strong> là có thật. Nhưng chủ nhân kính khách, tỏ tình thân ái mà khiến người ta như bị gãy tay thì có thể biết năm xưa khỏe mạnh tới mức nào.</em></p><p><em>Ngô Mộc Hân kể có Lý sinh môi không che kín miệng, răng vẩu chìa ra ngoài cả đốt ngón tay. Một hôm tới dự tiệc ở nhà nọ, có hai người khách nhường nhau chỗ trên chỗ dưới đến khổ, một người cứ ra sức đẩy lên, một người cứ hết sức trằn lại, dùng sức mạnh quá vung khuỷu tay ra, đúng lúc Lý đứng phía sau bị khuỷu tay thúc trúng miệng rơi luôn hai chiếc răng cửa, máu tuôn như suối. Mọi người ngạc nhiên, hai người kia mới thôi không tranh cãi nữa. Chuyện ấy cũng buồn cười như chuyện Hoàn hầu nắm tay làm khách muốn gãy xương vậy.</em></p><p></p><p>*Việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình: Chư tiên ký chép năm Thủy Hoàng thứ 2 thần núi Vũ Di là Vũ Di quân mời dân làng tới ăn tiệc vào ngày rằm tháng tám trên đỉnh núi, kết lán giăng màn rực rỡ, người ta nhân thế gọi đất ấy là Mạn Đình. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 224 - 225 -</strong></p><p>Phấn Điệp</p><p>(Phấn Điệp)</p><p></p><p>Dương Viết Đán là học trò đất Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông). Tình cờ qua quận khác về nhà, đi thuyền qua biển gặp bão, thuyền sắp đắm, chợt có chiếc thuyền không giạt tới vội nhảy qua, nhìn lại thì những người cùng thuyền đều đã chìm cả. Bão càng mạnh, sinh đành nhắm mắt phó mặc cho gió thổi, không bao lâu trời lặng, mở mắt ra nhìn chợt thấy một hòn đảo nhà cửa san sát, liền chèo vào bờ, đi thẳng tới cổng làng. Thấy trong làng yên ắng, ngồi đó hồi lâu mà không nghe một tiếng gà kêu chó sủa. Thấy có một cánh cổng quay về hướng bắc, tùng trúc hun hút, lúc ấy đang đầu mùa đông, thấy trong tường có gốc cây không biết tên gì mà hoa nở dày đặc, trong lòng thích lắm, lân la lần vào.</p><p></p><p>Chợt nghe tiếng đàn cầm văng vẳng bèn dừng bước, có người tỳ nữ từ trong bước ra, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, phong tư tiêu sái, dung mạo xinh đẹp, vừa thấy Dương vội quay ngay vào. Kế nghe tiếng đàn ngừng lại, kế có một thiếu niên bước ra ngạc nhiên hỏi khách từ đâu tới, Dương kể lại sự tình. Thiếu niên lại hỏi họ tên quê quán, Dương cũng đáp rõ, thiếu niên mừng rỡ nói “Hóa ra là họ hàng bên vợ ta", liền vái chào mời vào, thấy nhà trần thiết rất tinh khiết đẹp đẽ, lại nghe tiếng đàn, vào tới trong phòng thấy một thiếu phụ ngồi trên cao gảy đàn, tuổi khoảng mười tám mười chín, phong tư lộng lẫy, thấy khách vào buông đàn định đi. Thiếu niên ngăn lại nói "Đừng đi, đây là họ hàng bên nàng đấy!”, rồi kể lại lời sinh. Thiếu phụ nói "Thì ra là cháu ta!", kế hỏi bà nội có khỏe không, cha mẹ bao nhiêu tuổi rồi. Dương đáp “Cha mẹ cháu đều hơn bốn mươi, vẫn còn khỏe mạnh, bà nội thì đã sáu mươi, bệnh nặng đã lâu, đi đâu cũng phải có người dìu. Cháu thật không biết cô là thế nào trong gia đình, xin cho biết rõ để về kể lại". Thiếu phụ nói “Đường xa diệu vợi, không được tin tức lâu rồi, về cứ nói vơi cha là cô Thập Nương hỏi thăm, cha cháu sẽ biết". Dương hỏi dượng họ gì, thiếu niên đáp "Ta họ Ân tên Hải Dự. Nơi đây có tên là đảo Thần Tiên, cách Quỳnh Châu ba ngàn dặm, ta tới ngụ ở đây cũng chưa lâu lắm".</p><p></p><p>Thập Nương vào trong sai tỳ nữ làm cơm đãi khách, thấy rau cỏ tươi ngon, cũng không biết tên gọi là gì. Ăn xong dẫn ra ngắm cảnh, thấy đào mận trong vườn vừa có nụ, Dương lấy làm lạ. Ân nói "Ở đây mùa hè không quá nóng, mùa đông không quá lạnh nên lúc nào cũng có hoa nở". Dương mừng nói "Như thế quả là cõi tiên, cháu về sẽ nói với cha mẹ dời nhà tới đây ở với cô dượng", Ân chỉ mỉm cười. Trở vào phòng sách thắp đèn lên, Dương thấy chiếc đàn cầm đặt ngang trên bàn, xin được nghe một khúc. Ân bèn vặn phím so dây, Thập Nương từ trong ra, Ân nói “Lại đây! Lại đây! Nàng gảy cho cháu nó nghe đi". Thập Nương liền ngồi xuống hỏi “Cháu muốn nghe khúc nào?”. Dương đáp “Cháu chưa từng học đàn, nên thật không biết khúc nào cả”. Thập Nương nói “Cháu cứ tùy ý ra đề, ta đều có thể gảy thành điệu”.</p><p></p><p>Dương cười hỏi “Thế gió biển xô thuyền, có thể gảy thành một khúc được không?". Thập Nương đáp "Được!", rồi búng dây như gảy theo bản đàn có sẵn, tình ý lên xuống theo khúc điệu, Dương ngưng thần lắng nghe, thấy mình như đang trong thuyền, bị gió bảo xô đẩy lôi kéo. Dương khâm phục sợ hãi, hỏi có học được không, Thập Nương đưa đàn sai gảy thử rồi nói "Có thể dạy được, vậy cháu muốn học gì?”, Dương nói "Bản <em>Gió bão</em>cô vừa gảy không biết học mấy ngày thì xong? Xin cho chép lại để học thuộc trước". Thập Nương nói "Bản đàn ấy không có văn tự, ta chỉ lấy ý mà phổ thành khúc điệu thôi". Rồi lấy ra một chiếc đàn khác, chỉ các thế tay bấm phím búng dây bảo Dương tập theo. Dương tập đến hơn canh một thì âm thanh tiết tấu đã hơi thành khúc điệu, vợ chồng Thập Nương mới đi nghỉ.</p><p></p><p>Dương ngưng thần chăm chú một mình tập gảy trước đèn, hồi lâu chợt hiểu thấu chỗ ảo diệu, bất giác vùng dậy múa may. Chợt ngẩng lên thấy người tỳ nữ đang đứng trước đèn, giật mình hỏi “Nàng vẫn chưa đi nghỉ sao?", nàng cười đáp "Cô Mười sai chờ chàng đi nghỉ rồi thì đóng cửa tắt đèn". Nhìn kỹ thấy nàng mắt tựa hồ thu, thần thái say người, Dương động lòng khẽ khêu gợi, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười. Dương càng say mê, đứng vụt dậy ôm chầm lấy, nàng ngăn lại nói "Đừng làm thế. Đã qua canh tư chủ nhân sắp dậy rồi. Nếu có lòng với nhau, đêm mai cũng chưa muộn". Đang lúc ôm ấp nhau chợt nghe Ân gọi Phấn Điệp, nàng biến sắc nói “Chết rồi” rồi vội vàng chạy đi. Dương lén vào nghe ngóng, thấy Ân nói "Ta đã nói đứa tỳ nữ này chưa dứt lòng trần, mà mình cứ nhất định thu nhận, nay thì sao nào? Phải đánh nó ba trăm roi”. Thập Nương nói “Cái ý ấy đã nảy sinh thì không thể dùng được nữa, chẳng bằng cho luôn thằng cháu ta cho xong". Dương vô cùng thẹn thùng sợ sệt, trở lại phòng tắt đèn đi ngủ.</p><p></p><p>Sáng ra có đứa tiểu đồng mang nước rửa mặt tới chứ không thấy Phấn Điệp đâu, trong lòng nơm nớp lo bị quở trách. Lát sau Ân và Thập Nương cùng tới, thái độ bình thường như không có chuyện gì, chỉ khảo khúc đàn mới tập. Dương gảy lại một lượt, Thập Nương nói "Tuy chưa đạt tới chỗ thần diệu nhưng mười phần đã được chín, cố tập cho thành thục thì hay". Dương lại xin dạy khúc khác, Ân dạy cho khúc <em>Thiên nữ trích giáng</em>, thủ thức mới lạ khó khăn, tập mất ba ngày mới gảy rõ tiếng. Ân nói “Những cái khó thế là đã học qua hết. từ nay về sau chỉ cần tập cho thành thực thôi. Nếu thuộc được hai khúc này thì trong nghề đàn không còn khúc nào là khó nữa”. Dương nhớ nhà quá, nói với Thập Nương "Cháu ở đây được cô chăm sóc dạy dỗ rất vui, nhưng vẫn canh cánh nhớ nhà, có điều đường xa ba ngàn dặm không biết ngày nào mới về tới được". Thập Nương nói “Chuyện đó không khó. Thuyền cũ còn đó, chỉ cần giúp cháu một cơn gió đưa buồm về. Cháu không có gia thất, ta đã cho Phấn Điệp rồi". Rồi lấy chiếc đàn tặng cho, lại trao cho thuốc, dặn "Về đưa bà nội uống, không những khỏi bệnh mà còn kéo dài được tuổi thọ”. Kế tiễn Dương ra bờ biển lên thuyền, Dương tìm mái chèo, Thập Nương nói “Không cần đâu!”, rồi cởi xiêm làm buồm, căng lên cho Dương. Dương lo lạc đường, Thập Nương nói "Đừng lo, cứ để cánh buồm đưa đi". Căng buồm xong, đẩy thuyền ra, Dương buồn rầu đang định bái biệt thì gió nam thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ rồi.</p><p></p><p>Nhìn lại thuyền thấy đã sẵn lương khô nhưng chỉ đủ ăn một ngày, thầm oán trách cô bủn xỉn, đói bụng mà không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Nhưng cắn một cái bánh thì thấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái cẩn thận cất lại thì cũng không thấy đói nữa. Chợt thấy mặt trời sắp lặn, đang hối là lúc lên đường không hỏi lấy đèn đuốc thì trong chớp mắt đã thấy khói cơm chiều xa xa, nhìn kỹ lại thì đã tới Quỳnh Châu. Dương mừng quá chèo vào bờ, tháo tấm xiêm làm buồm, ôm bọc bánh về nhà. Vào tới cổng, cả nhà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, té ra đã xa nhà mười sáu năm, lúc ấy Dương mới biết mình đã gặp tiên. Vào thăm bà nội thấy già yếu bệnh tật hơn trước, bèn lấy ra đưa bà uống, chứng bệnh lâu ngày lập tức tiêu tan. Mọi người đều lạ lùng, Dương kể lại chuyện mình đã gặp, bà nội rơi nước mắt nói "Đó là cô ruột cháu đấy!".</p><p>Xưa bà có người con gái út tên Thập Nương, vừa sinh ra đã có phong tư thần tiên, hứa gả cho họ Ân nhưng con rể năm mười tuổi vào núi không trở về. Thập Nương chờ đến năm hơn hai mươi tuổi thì chợt không bệnh mà chết, chôn cất đã hơn ba mươi năm. Mọi người nghe Dương kể chuyện xong đều ngờ là Thập Nương chưa chết. Dương đưa tấm xiêm ra thì đúng là vật trước đây cô vẫn mặc ở nhà. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một cái thôi thì cả ngày không thấy đói, mà tinh thần còn phấn chấn hẳn lên. Bà nội sai đào mộ Thập Nương lên xem thì chỉ có chiếc quan tài không. Trước kia Dương đã dạm hỏi cô gái họ Ngô mà chưa cưới, nhưng mấy năm không về nàng ấy đã lấy người khác. Lúc ấy Dương mới tin lời Thập Nương, chờ Phấn Điệp tới nhưng hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, mới bàn tìm cưới người khác. Tú tài họ Tiền ở huyện Lâm có con gái tên Hà Sinh xinh đẹp nổi tiếng xa gần, mười sáu tuổi chưa lấy chồng vì ba người vừa dạm hỏi chưa cưới đã chết. Dương bèn nhờ mai mối định hôn, chọn ngày tốt cưới về. Nàng vào cổng rồi, thấy xinh đẹp tuyệt thế, nhìn kỹ thì là Phấn Điệp. Dương kinh ngạc hỏi chuyện cũ, nàng quên sạch không biết gì cả, thì ra khi bị đuổi cũng là lúc nàng đầu thai xuống trần. Cứ những lúc Dương đàn khúc <em>Thiên nữ trích giáng</em>cho nghe thì nàng liền chống má trầm tư như có chỗ hiểu được vậy.</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>224. Cẩm Sắt </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Cẩm Sắt)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Vương sinh ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) mồ côi từ nhỏ, nhà nghèo nhưng phong tư đẹp đẽ, quần áo tươm tất hơn người. Có nhà giàu họ Lan gặp Vương thích lắm, gả con gái cho, hứa sẽ xây nhà mua ruộng cho làm sản nghíệp. Cưới không bao lâu thì ông Lan chết, anh em vợ đều khinh thường sinh, vợ thì càng lên mặt, coi chồng như đầy tớ. Thường một mình ăn uống ngon lành, sinh tới thì đem cơm hẩm rau già, đũa tre chén đất bày ra trước mặt, nhưng sinh đều nhịn nhục. Năm mười chín tuổi sinh đi thi khoa Đồng tử bị đánh rớt, từ quận về nhà gặp lúc vợ không có trong phòng, thấy trong nồi có miếng thăn dê ninh chín múc định ăn, vợ bước vào không nói câu nào, bưng luôn nồi thịt cất đi. Sinh xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói "Thế này thì thà chết còn hơn”. Vợ tức tối hỏi chừng nào chết, rồi đưa cho sợi dây nói cầm lấy mà treo cổ. Sinh uất ức, đập tô canh vỡ trán vợ, căm hờn bỏ ra, tự nghĩ đúng là thà chết còn hơn bèn đem theo dây lưng vào chỗ khe sâu trong núi.</p><p></p><p></p><p></p><p>Tới dưới một gốc cây lớn, đang chọn cành thắt thòng lọng chợt thấy trên gò đất thấp thoáng bóng xiêm đàn bà. Chớp mắt có một người tỳ nữ bước ra, nhìn thấy sinh vội quay ngay lại như cái bóng mất hút, trên vách đất cũng không có dấu vết gì. Sinh biết là yêu quái nhưng đang muốn chết nên không hề sợ hãi, bèn bỏ sợi dây đấy ngồi rình xem. Giây lát lại có ra nửa khuôn mặt lộ ra, vừa thoáng thấy đã rút trở vào, sinh nghĩ là ma quỷ, theo nó ắt tìm được cái chết sung sướng, liền vớ hòn đá đập vào vách đất, kêu “Ai dưới đất đấy, chỉ đường cho với, ta không cần vui mà muốn chết thôi". Hồi lâu không nghe thấy gì, sinh lại kêu nữa thì nghe bên trong đáp "Người muốn chết xin cứ tạm lui, tối hãy tới!", âm thanh trong trẻo rõ ràng nhưng nhỏ như tiếng muỗi vo ve. Sinh nói “Vâng” rồi ngồi chờ tối.</p><p>Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi chợt biến thành tòa phủ đệ to lớn, hai cánh cổng khẽ mở ra, sinh theo bậc thềm bước vào. Vừa được vài bước thấy có dòng nước chảy ngang, khói bốc nghi ngút như suối nước nóng, nhúng tay xem thử thấy nóng như sôi, cũng không biết sâu bao nhiêu. Sinh ngờ đây là chỗ chết mà quỷ thần chỉ cho, liền nhảy ào xuống, nước nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát bỏng nhưng may mà cứ nổi không chìm, ngoi ngóp một hồi thì quen dần với cái nóng, cố vùng vẫy mới lên được bờ bên kia, toàn thân cũng may không rộp lên. Lại đi tiếp, nhìn thấy dưới mái nhà xa xa có ánh đèn, rảo bước tới thì có con chó dữ xồ ra cắn áo xé vớ. Sinh nhặt đá ném, con chó hơi lùi, nhưng cả bầy chó lại đổ ra sủa ầm lên, con nào cũng to bằng con nghé.</p><p>Đang lúc nguy cấp thì người tỳ nữ bước ra quát đuổi lũ chó rồi nói "Anh chàng muốn chết tới đó phải không? Nương tử nhà ta thương chàng khốn đốn, sai thiếp đưa chàng tới “ổ yên vui", từ đây không còn tai họa gì nữa". Rồi khêu đèn dẫn đường, mở cổng sau im lặng đi, tới một căn nhà thì giơ đèn lên soi vào cửa sổ nói “Chàng cứ vào nhé, thiếp đi đây!”. Sinh vào nhìn quanh thì ra đã trở lại nhà mình, quay ngay ra thì gặp bà già vẫn hầu hạ vợ, bà ta nói “Cả ngày tìm kiếm, lại còn đi đâu?", rồi kéo sinh trở vào. Vợ buộc khăn chỗ bị thương xuống giường ra đón, cười nói "Làm vợ chồng hơn năm, đùa giỡn mà không biết sao, thiếp biết lỗi rồi. Chàng bị trêu chơi mà thiếp bị thương thật, thôi cũng đủ hả giận rồi mà”, rồi lấy ở đầu giường ra hai nén vàng lớn đặt vào lòng sinh nói "Từ nay về sau cái ăn cái mặc xin theo ý chàng, vậy được chưa?". Sinh không đáp, ném vàng lại xô cửa bỏ đi, định vào khe núi tới gõ cửa tòa phủ đệ.</p><p>Ra tới ngoài đồng thì thấy người tỳ nữ đi chậm rãi, ánh đèn vẫn còn thấp thoáng xa xa. Sinh vội chạy theo gọi, ánh đèn bèn dừng lại, chạy tới thì người tỳ nữ nói "Chàng lại tới đây thì thật phụ nỗi khổ tâm của nương tử". Sinh đáp “Ta muốn chết chứ không nhờ nàng giúp cho sống lại. Nương tử nhà cao cửa rộng, dưới đất chắc cũng cần người, ta xin theo phục dịch, chứ thật tình không còn thấy sống là vui nữa". Người tỳ nữ nói “Chết vui cũng không bằng sống khổ, sao chàng nghĩ trái như vậy. Nhà bọn ta không có việc gì khác, chỉ có đào sông hốt phân, nuôi chó chôn xác, mà làm sai thì bị khoét mũi cắt tai, chặt chân cắt gót, chàng làm được không?”, sinh đáp "Làm được!". Kế lại vào qua cổng sau, sinh hỏi "Ta phải làm việc gì? Nàng vừa nói chôn xác, ở đâu mà có nhiều người chết như thế?”. Người tỳ nữ đáp "Nương tử từ bi, lập ra vườn Cấp Cô<strong>*</strong>, gom nuôi các hồn ma chết bất đắc kỳ tử không nhà dưới âm ty, kể có hàng ngàn, ngày nào có người chết là phải đi chôn xác, xin mời xem qua một lần”.</p><p>*vườn Cấp Cô: Kinh Kim cương chép nước Xá Vệ có một trưởng giả tên Tu Đạt Noa thường bố thí cho kẻ nghèo khổ bệnh tật cô độc, về sau xây vườn mời đức Phật thuyết pháp, người ta gọi là vườn Cấp Cô. Đây chỉ nơi trường sở làm việc từ thiện.</p><p>Giây lát tới một cánh cổng đề chữ "Cấp Cô viên”, vào trong thấy nhà cửa ngang dọc chen lẫn, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy đèn xúm cả lại, đều đứt đầu cụt chân trông rất thê thảm. Quay ra định đi thì thấy có cái xác nằm ngang dưới tường, máu thịt bê bết, người tỳ nữ nói "Mới nửa ngày chưa kịp chôn mà đã bị chó xé nát rồi", rồi sai sinh chuyển đi. Sinh có vẻ ngần ngại, nàng nói "Nếu chàng không làm được thì xin mời cứ về chỗ yên vui vậy!". Sinh bất đắc dĩ phải vác xác đưa vào chỗ kín, rồi nhờ người tỳ nữ cố xin cho mình may ra khỏi phải làm công việc nhơ bẩn ấy, nàng bằng lòng. Đi tới gần một căn nhà, nàng nói "Cứ ngồi tạm ở đây để thiếp vào thưa, việc nuôi chó thì nhẹ nhàng hơn, có thể xin cho để chuộc lỗi vừa rồi".</p><p>Vào trong giây lát thì đi nhanh ra nói "Vào đây vào đây nương tử ra đấy!". Sinh theo vào sảnh đường, thấy đèn lồng treo khắp bốn bên, có một cô gái ngồi gần phía trong cùng, khoảng hai mươi tuổi, phong thái như thiên tiên. Sinh lạy rạp dưới thềm, nàng lập tức sai kéo đứng lên, nói "Đây là một người học trò, làm sao nuôi chó nổi, có thể cho ở nhà phía tây trông coi sổ sách". Sinh mừng rỡ lạy tạ, cô gái nói "Người có vẻ thành thật chất phác, hãy làm việc cẩn thận. Nếu có sai phạm thì tội không nhẹ đâu, sinh líu ríu vâng dạ. Người tỳ nữ dẫn sang nhà phía tây, sinh thấy phòng ốc sạch sẽ mừng rỡ tạ ơn rồi hỏi thăm gia thế nương tử. Người tỳ nữ đáp "Nương tử tiểu tự là Cẩm Sắt, con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Thiếp tên Xuân Yến, hàng ngày có cần gì, xin cứ gọi".</p><p>Người tỳ nữ ra đem áo giày chăn nệm vào đặt lên giường, sinh mừng vì được chỗ yên thân. Sáng ra sinh dậy sớm ra làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Tôi tớ trong nhà đều tới yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều nhưng sinh giữ ý đều từ chối, ngày hai bữa cơm đều từ nhà trong đưa ra. Nương tử xét thấy liêm khiết cẩn thận nên đặc cách ban cho mũ nhà nho và áo màu, phàm có ban thưởng gì đều sai Xuân Yến đem tới. Người tỳ nữ cũng rất phong vận, khi đã quen rồi thì nhiều phen liếc mắt đưa tình, nhưng sinh cẩn thận giữ mình không dám sơ suất, chỉ giả làm ra vẻ ngốc nghếch. Qua hơn hai năm tiền thưởng đã tăng gấp bội mà sinh vẫn cẩn thận chăm chỉ như cũ.</p><p>Một đêm đang ngủ, chợt nghe nhà trong có tiếng la thét ầm ĩ, vội vùng dậy cầm đao ra thì thấy lửa đỏ rục trời, lần vào xem thì bọn cướp lố nhố đầy sân, đám tôi tớ sợ hãi chạy trốn. Một người giục cùng chạy trốn, sinh không nghe mà bôi đen mặt, thắt dây lưng chen vào đám cướp kêu to "Đừng làm Tiết nương tử sợ hãi, nhưng phải chia nhau tìm của cải đừng để sót?". Lúc ấy bọn cướp đang tìm kiếm Cẩm Sắt khắp các phòng mà chưa thấy, sinh biết nàng chưa bị bắt liền lén ra sau nhà tìm kiếm, gặp một bà già núp ở đó, mới biết nàng và Xuân Yến đã leo qua tường ra ngoài. Sinh cũng leo qua tường ra, thấy hai chủ tớ núp trong góc tối, liền nói “Chỗ này làm sao núp được?", cô gái đáp "Ta không sao đi được nữa”, Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới vào tới một hang núi sâu, đặt nàng xuống cho ngồi.</p><p>Chợt có một con cọp tới, sinh cả kinh định xông ra chặn thì nó đã ngoạm lấy cô gái. Sinh vội túm chặt tai cọp, hết sức đẩy cánh tay vào miệng nó để thay cho Cẩm Sắt. Con cọp tức giận nhả cô gái ra ngoạm vào tay sinh nghe răng rắc, cánh tay lìa ra rơi xuống đất, con cọp cũng bỏ đi. Cô gái khóc nói “Khổ thân người, khổ thân ngươi!". Sinh đang hăng chưa biết đau, chỉ thấy máu chảy như suối bèn bảo người tỳ nữ xé vạt áo băng bó vết thương. Cô gái ngăn lại, cúi xuống nhặt cánh tay gãy rồi đích thân nối vào cho sinh, buộc chặt lại. Hừng sáng mới từ từ trở về, vào tới nhà thấy vắng tanh, trời sáng hẳn đám tôi tớ mới dần dần tụ tập lại. Cô gái đích thân tới thăm vết thương cho sinh, cởi vải buộc ra thì chỗ xương gãy đã liền lại, lại lấy thuốc ra rịt vào vết thương mới đi.</p><p>Từ đó nàng càng quý trọng sinh, đồ ăn thức dùng đều cho hưởng ngang mình. Khi vết thương lành hẳn, cô gái đặt tiệc ở nhà trong để ủy lạo, bảo ngồi, sinh từ chối mấy lần mới ngồi ghé vào một góc. Cô gái nâng chén mời trân trọng như đối với khách, hồi lâu mới nói "Thân thiếp đã kề cận chàng, muốn học em gái vua Sở theo Chung Kiến<strong>*</strong> nhưng hiềm không có ai mai mối, phải mặt dày tự nói ra”. Sinh hoảng sợ nói "Ta chịu ơn nặng, có chết cũng không đủ đền đáp, nếu làm quá phận thì e trời phạt, thật không dám theo lệnh. Nếu thương ta không có vợ thì ban cho một người tỳ nữ cũng đã là quá rồi”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Chung Kiến: Tả truyện, Định công tứ niên chép quân Ngô đánh tới Sính Đô nước Sở, vua Sở và gia quyến phải tránh nạn, bề tôi của vua Sở là Chung Kiến ghé vai cõng em gái vua Ngô là Ngũ Thiên chạy. Về sau vua Sở định gả chồng cho em gái, Ngũ Thiên không chịu, nói đã kề cận với Chung Kiến lúc được ông ta cõng, vua Sở bèn gả nàng cho Chung Kiến.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Một hôm, chị lớn cô gái là Dao Đài tới, là một giai nhân khoảng bốn mươi tuổi. Đến tối gọi sinh vào Dao Đài bảo ngồi rồi nói "Ta từ ngàn dặm tới đây để làm chủ hôn cho cô em, đêm nay có thể cho thành hôn với bậc quân tử, Sinh lại đứng lên từ tạ, Dao Đài liền gọi rót rượu bảo hai người đổi chén, sinh cố từ chối, Dao Đài giật chén đổi cho nhau, sinh bèn lạy rạp xuống đất tạ tội rồi mới uống. Dao Đài đi ra, cô gái nói "Nói thật với chàng, thiếp là tiên nữ có tội bị đày, tự xin cư ngụ ở cõi âm gom nuôi các oan hồn để chuộc tội. Vừa rồi gặp nạn Thiên ma nên có cái duyên kề cận thân thể với chàng, phải mời chị lớn từ xa tới làm chủ hôn và coi sóc việc nhà giùm để tiện theo chàng về trần". Sinh đứng dậy cung nói "Dưới đất vui lắm, chứ nhà ta có con vợ dữ, vả lại nhà cửa chật chội, không sao bàn cách vẹn tròn để sống với nhau”. Cô gái cười, chỉ nói không sao. Kế uống say cùng đi ngủ, vui vẻ yêu thương nhau rất mực.</p><p>Qua vài hôm nàng nói với sinh “Cõi âm không thể chung sống lâu dài, xin chàng về ngay thu xếp việc nhà, xong rồi thiếp sẽ tự tới”. Rồi sai đem ngựa cho sinh, mở cửa bảo ra, vách núi đất lại liền như cũ. Sinh cưỡi ngựa về làng, người làng đều khiếp hãi, về tới cổng thì thấy nhà cao cửa rộng. Trước là khi sinh bỏ đi, vợ mời hai anh tới chuẩn bị roi gậy để đánh cho một trận trả thù, đến tối không thấy sinh về họ mới bỏ đi. Có người nhặt được chiếc giày của sinh trong khe nên ngờ rằng sinh đã chết, kế hơn năm vẫn không có tin tức gì. Có người lái buôn Mỗ ở Thiểm Tây hỏi cưới Lan thị, bèn tới ở luôn nhà sinh, trong vòng nửa năm xây cất thành tòa ngang dãy dọc. Người lái buôn đi xa buôn bán, lại mua một người thiếp về, từ đó trong nhà lục đục, y có khi cũng hàng mấy tháng không về. Sinh hỏi biết chuyện nổi giận, buộc ngựa bước vào thì gặp bà già hầu hạ vợ ngày trước. Bà già hoảng sợ lạy phục xuống đất, sinh mắng chửi hồi lâu, bắt dẫn tới phòng vợ tìm thì đã trốn đâu mất, kế tìm thấy ở sau nhà thì đã thắt cổ chết rồi. Sinh sai khiêng xác trả cho nhà họ Lan rồi cho gọi người thiếp của người lái buôn ra, thấy tuổi khoảng mười tám mười chín, cũng khá xinh đẹp bèn giữ lại trong phòng ngủ.</p><p>Người lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả lại người thiếp, nhưng nàng kêu khóc không chịu đi. Sinh bèn làm đơn định kiện y về tội chiếm nhà cướp vợ, người lái buôn không dám nói gì nữa, dọn hàng quay về Thiểm Tây. Sinh đang ngờ Cẩm Sắt phụ ước, một tối đang uống rượu với người thiếp thì có xe ngựa tới cổng, cô gái bước vào, chỉ giữ lại xuân Yến còn cho tất cả tùy tùng trở về. Vào tới phòng, người thiếp ra lạy chào, nàng nói "Người này có tướng sinh con trai, có thể chịu khổ thay thiếp", rồi lập tức ban cho quần áo nữ trang. Người thiếp lạy tạ nhận lấy rồi đứng hầu, nàng kéo ngồi xuống cùng chuyện trò rất vui vẻ, hồi lâu nói "Ta say rồi, muốn đi ngủ”. Sinh cũng cởi giày lên giường, người thiếp mới đi ra. Về tới phòng thấy sinh đã nằm trên giường, lấy làm lạ quay lại xem thì đèn trong phòng cô gái đã tắt. Sinh đêm nào cũng ngủ ở phòng người thiếp, nhưng một đêm người thiếp trở dậy tới nhìn trộm vào phòng cô gái thì thấy sinh đang chuyện trò nói cười với nàng, lấy làm lạ lùng vội quay về định nói với sinh thì chỉ thấy có giường không. Sáng ra lén kể cho sinh, sinh cũng không tự biết, chỉ thấy mình lúc thì trong phòng cô gái, lúc thì ngủ phòng người thiếp mà thôi, bèn dặn giấu kín chuyện lạ ấy.</p><p>Lâu sau Xuân Yến có mang, cô gái vẫn như không biết gì, khi người tỳ nữ lâm bồn sinh khó bèn gọi nương tử, nàng bước vào thì sinh được ngay, là con trai. Nàng cắt rốn xong đặt vào lòng người tỳ nữ rồi cười nói "Con nhãi đừng thế nữa nhé, nhiều nghiệp chướng thì lắm tai nạn thôi?", từ đó Xuân Yến không sinh đẻ nữa. Người thiếp thì sinh được năm trai hai gái. Ở đó ba mươi năm, thỉnh thoảng cô gái lại trở về nhà, đi về đều vào lúc ban dêm. Một hôm nàng dắt người tỳ nữ đi không trở lại nữa. Sinh sống đến tám mươi tuổi, chợt một đêm dắt người lão bộc ra đi, cũng không trở về.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 225 - 226 -</strong></p><p>Phòng Văn Thục</p><p>(Phòng Văn Thục)</p><p></p><p>Đặng Thành Đức người phủ Khai Phong (tỉnh thành Hà Nam) du học tới Duyện Châu (tỉnh Sơn Đông), ngụ trong ngôi chùa nát, chép thuê cho người coi việc làm sổ sách hộ tịch ở đó. Cuối năm đám nha dịch đều về nhà, riêng Đặng ở lại nấu cơm ăn một mình trong chùa. Sáng tinh mơ có người thiếu phụ gõ cửa vào, nhan sắc tuyệt đẹp, tới trước bàn thờ Phật thắp hương quỳ lạy rồi ra, hôm sau cũng thế. Đến khuya Đặng trở dậy thắp đèn, đang làm việc thì nàng tới sớm hơn. Đặng hỏi "Sao tới sớm thế?" nàng đáp "Sáng ra thì đông người lộn xộn, chẳng bằng cứ tới sớm, nhưng sớm quá lại sợ quấy rầy giấc ngủ của chàng, vừa rồi nhìn thấy ánh đèn, biết chàng đã dậy nên mới tới thôi". Sinh đùa nói "Trong chùa không có người, tới ở luôn cho khỏi mất công đi lại". Nàng mỉm cười đáp "Trong chùa không có người, thì chàng là ma à?". Đặng thấy có thể tán tỉnh, bèn chờ nàng làm lễ xong kéo ngồi lại đòi giao hoan. Nàng nói "Trước bàn thờ Phật làm thế sao được? Đã không có nhà cửa gì mà còn mong muốn bậy bạ". Đặng nài nỉ mãi không thôi, nàng nói "Cách đây ba mươi dặm, trong làng nọ có sáu bảy đứa nhỏ mời thầy dạy học chưa được. Chàng hãy tới đó hỏi Lý Tiền Xuyên, có thể được nhận, rồi nói là có mang vợ đi cùng, bảo họ xếp cho một gian nhà riêng, thiếp sẽ lo cơm nước cho, như thế mới là kế lâu dài”. Đặng sợ việc lộ ra sẽ bị tội, nàng nói "Không sao đâu, thiếp họ Phòng tên Văn Thục, không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, ai mà biết được!”. Đặng mừng rỡ từ biệt nàng, tới ngay làng nọ yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên như đã bàn tính, hẹn sẽ mang gia quyến tới trước Tết.</p><p>Trở về, sáng ra nói cho cô gái biết, nàng hẹn sẽ chờ dọc đường. Đặng từ biệt bè bạn, thuê ngựa đi, được nửa đường quả nhiên gặp cô gái đứng chờ, bèn xuống ngựa trao dây cương cho nàng dắt rồi cùng đi. Tới nơi dạy học chung sống với nhau rất tương đắc, suốt sáu bảy năm như vợ chồng mà cũng không có ai tìm bắt người đi trốn. Cô gái chợt sinh được một đứa con trai, Đặng vì vợ ở nhà không sinh đẻ nên có con mừng lắm, đặt tên là Duyện Sinh. Cô gái nói “Vợ chồng giả rốt lại cũng khó thành chuyện thật, thiếp đang định từ giã chàng đi, lại sinh ra của nợ này không biết để làm gì?" Đặng nói "Đang tính nếu may mắn để dành được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê, sao lại nói thế?”. Nàng đáp "Cảm ơn! Cảm ơn! Ta không thể nhăn nhở mơn trớn lấy lòng để mong chị cả bao dung, mà làm vú em cho người, trẻ con oe oe khó chịu lắm". Đặng thanh minh rằng vợ mình không ghen, cô gái cũng không nói gì. Hơn một tháng sau, Đặng thôi dạy học, định đi buôn chung với con trai Tiền Xuyên, nói với cô gái "Ta nghĩ làm thầy mở lớp thì không bao giờ giàu được, nay học đi buôn ngõ hầu còn có ngày về được quê”, nàng cũng không đáp. Đến tối, bỗng nàng bế con dậy, Đặng hỏi làm gì, nàng đáp "Thiếp muốn đi". Đặng vội trở dậy đuổi theo hỏi han, nhưng cổng còn chưa mở mà cô gái đã biến mất, sợ quá mới biết nàng không phải là người. Đặng vì thấy lai lịch nàng đáng ngờ nên không dám kể cho ai, chỉ nói thác là vợ về thăm cha mẹ ruột.</p><p>Trước kia, lúc Đặng ra đi có hẹn với vợ là Lâu thị rằng cuối năm sẽ về, nhưng suốt mấy năm không có tin tức gì, người ta đồn là đã chết. Anh trai thấy không có con, muốn nàng lấy chồng khác, Lâu xin đợi ba năm nữa, hàng ngày chỉ lủi thủi ở một mình một nhà, kéo sợi sinh nhai. Một hôm trời vừa tối, nàng ra đóng cổng ngoài thì có một cô gái bước vào, bế theo một đứa bé còn quấn tã, nói “Ta từ nhà mẹ đẻ trở về, tới đây thì vừa tối, biết chị ở có một mình nên xin ngủ nhờ ". Lâu mời vào, tới trong phòng nhìn kỹ thì là một người đẹp khoảng hơn hai mươi tuổi, vui vẻ cho nằm chung giường. Nhân đùa giỡn với đứa nhỏ, thấy nó trắng như quả bầu, than rằng "Mụ góa ta lại không có được một đứa con thế này". Cô gái nói "Ta đang ngại vì nuôi nó phiền quá, nếu cho chị làm con nuôi để nối dõi thì chị thấy sao?” Lâu nói "Chưa nói tới chuyện nương tử không nỡ dứt tình, cho dù có nỡ thiếp cũng không có sữa, làm sao nuôi được?” Cô gái nói "Chuyện đó có gì khó, lúc sinh cháu, ta cũng lo không có sữa, chỉ uống nửa tễ thuốc là có ngay. Nay thuốc thừa vẫn còn đây, xin biếu cho chị”, rồi lấy gói thuốc ra đặt trước cửa sổ. Lâu thị ậm ừ, chưa thấy có gì khác lạ. Kế ngủ đi, khi tỉnh dậy gọi thì đứa nhỏ còn đó mà cô gái đã mở cửa đi rồi, vô cùng khiếp sợ. Rạng sáng đứa nhỏ khát sữa khóc đòi bú, Lâu bất đắc dĩ phải uống thuốc, giây lát sữa chảy ròng ròng bèn cho nó bú.</p><p>Hơn một năm, đứa nhỏ ngày càng bụ bẫm, bắt đầu học nói, nàng thương yêu chẳng khác gì con mình đẻ ra, vì vậy bỏ luôn ý định cải giá. Nhưng sáng ra đã phải bế con, không làm gì được nên ngày càng túng thiếu. Một hôm cô gái chợt tới, Lâu sợ đòi lại con, trước tiên trách ngay về việc lẳng lặng bỏ đi không nói, kế kể tới nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa nhỏ. Cô gái cười nói "Chị kêu ca khó nhọc thì ta không đòi con lại sao?", rồi vẫy gọi con. Đứa nhỏ khóc sà vào lòng Lâu thị, cô gái nói “Con nghé con không nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu trăm lượng vàng cũng khó đổi được, cứ chồng tiền ra để làm giấy tờ". Lâu tưởng nói thật giận tím mặt, cô gái cười nói “Chị đừng sợ, thiếp tới chính vì con mà! Sau khi ra đi, lo chị không có tiền nuôi cháu, nên tìm đủ cách kiếm được hơn mười lượng vàng”, rồi lấy vàng ra đưa Lâu. Lâu sợ nhận vàng xong cô gái sẽ có cớ đòi con nên nhất quyết từ chối, cô gái bèn đặt vàng lên giường rồi ra cửa đi thẳng. Lâu bế con đuổi theo ra thì nàng đã đi xa, gọi cũng không ngoái lại, còn ngờ là có ý ác, nhưng được vàng đem cho vay lấy lời, trong nhà cũng no đủ.</p><p>Ba năm sau Đặng buôn bán có tiền sắm sữa hành trang trở về nhà. Đang cùng hỏi han an ủi nhau, thấy có đứa nhỏ hỏi con nhà ai, vợ kể lại duyên do. Đặng hỏi tên, Lâu đáp "Mẹ nó gọi là Duyện Sinh, thiếp cũng giữ nguyên như cũ. Đặng ngạc nhiên nói "Thế thì đúng là con ta đấy". Hỏi lại ngày giờ thì đúng đêm cô gái bế con đi. Đặng bèn kể lại hết chuyện hợp tan với Phòng Văn Thục, hai vợ chồng càng thêm vui mừng khuây khỏa, vẫn mong cô gái trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm.</p><p></p><p></p><p><strong>226. Nhốt Rắn</strong></p><p><strong>(Khoán Xà)</strong></p><p></p><p>Trong núi ở huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) vốn có ngôi chùa, bốn bề không có thôn xóm, ít người lui tới, chỉ có đạo sĩ trú ngụ. Có người nói rằng trong núi có nhiều rắn lớn, nên những kẻ du ngoạn càng lánh xa. Có một thiếu niên vào núi bắt chim ưng, vào sâu quá không có chỗ nào ngủ đêm, nhìn thấy phía xa có chùa chiền bèn rảo bước tới gõ cửa. Đạo sĩ hoảng sợ nói "Sao cư sĩ lại tới đây? May mà không gặp phải đám trẻ”, rồi vội bảo ngồi, dọn cháo cho ăn. Thiếu niên ăn thưa xong thì có một con rắn lớn bò vào, to hơn mười ôm, ngóc đầu nhìn khách, mắt long lên giận dữ. Khách cả sợ, đạo sĩ đánh vào đầu rắn quát “Ra ngoài!", con rắn mới mọp đầu bò vào gian phòng phía đông, ngoằn ngoèo mãi một lúc mới lọt hẳn vào trong, nằm khoanh tròn chật cả phòng, khách cả sợ run lẩy bẩy. Đạo sĩ nói “Trước nay ta vẫn nuôi nó, nên nếu có ta thì không sao, chỉ sợ có ai một mình gặp nó mà thôi”. Khách vừa ngồi yên, lại có một con rắn khác bò vào, hơi nhỏ hơn con trước, to độ năm sáu ôm, thấy khách thì dừng lại, trợn mắt thè lưỡi giống như con trước. Đạo sĩ lại quát, nó cũng bò vào phòng. Trong phòng không còn chỗ nằm, nó vắt nửa thân lên khoanh vào xà nhà, đất trên vách tường cứ rơi đồm độp. Khách càng sợ hãi, cả đêm không dám ngủ, sáng ra dậy sớm xin về. Đạo sĩ đưa ra cổng chùa, thì thấy trên tường dưới thềm lúc nhúc những rắn to bằng cái vò cái chậu, thấy người lạ đều toan cắn. Khách sợ, cứ nép vào sát người đạo sĩ mà đi, đạo sĩ đưa khách tới cửa núi mới trở về.</p><p>Quê ta có mấy người làm khách ở Trung Châu (tỉnh Phúc Kiến), tới ngủ nhờ trong một ngôi chùa nhốt rắn. Sư trong chùa làm cơm tối mời, có món canh thịt rất ngon nhưng cứ tròn tròn từng khúc từng khúc như cổ gà. Khách lấy làm lạ, hỏi sư giết bao nhiêu gà mà có lắm cổ thế. Sư đáp "Đây là rắn chặt ra đấy!". Khách phát hoảng, có người ra ngoài nôn mửa. Đến lúc nằm ngủ, chợt thấy trên bụng có vật gì mềm mềm động đậy, sờ thử thì là rắn, sợ hãi vùng dậy la ầm lên. Sư tỉnh dậy nói "Đó là chuyện thường, có gì lạ đâu mà!". Nhân đánh lửa soi lên vách cho xem, thì rắn lớn rắn nhỏ đầy trên tường, trên giường dưới sàn cũng toàn là rắn. Hôm sau sư dẫn khách vào điện Phật, dưới tòa Phật có cái giếng lớn, trong có con rắn to như cái chum lớn nghểnh đầu lên miệng giếng nhưng không bò lên. Soi đuốc xuống nhìn thì bên dưới lúc nhúc rắn con rắn cháu, tính ra có tới hàng trăm vạn con, cả một bầy bên dưới. Sư nói "Trước đây rắn lên khỏi giếng gây hại dữ lắm, từ khi xây tòa Phật bên trên để trấn yểm thì mới yên ổn".</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 227 - 233 -</strong></p><p>Thư Sinh Ngông</p><p>(Cuồng Sinh)</p><p></p><p>Học sứ họ Lưu kể ở châu Tế Ninh (tỉnh Sơn Đông) có thư sinh ngông, tính hay rượu. Nhà không có được hai thạch gạo, nhưng kiếm được tiền là mua rượu, không hề lo lắng tới chuyện cùng quẫn. Gặp lúc có quan Thứ sử mới đáo nhiệm, tửu lượng cao chưa gặp ai uống bằng, nghe tiếng sinh bèn mời tới cùng uống rượu, thích lắm, thường uống với nhau. Sinh cậy quen biết, nên cứ có ai kiện tụng chuyện nhỏ muốn được kiện biếu xén món tiền còm lại nói hộ, Thứ sử đều ưng thuận. Sinh quen lệ cứ thế làm mãi, Thứ sử đâm ghét. Một hôm, Thứ sử vừa ra công đường buổi sáng, sinh cầm thiếp bước lên trình. Thứ sử nhìn xong cười khẩy, sinh lớn tiếng nói “Ông thấy được thì cho, không được thì thôi, chứ cười cái gì? Vẫn nghe kẻ sĩ có thể giết chết chứ không thể làm nhục, chuyện khác thì không thể báo hờn, chứ chẳng lẽ một cái cùm lại không báo được à?". Nói xong cười lớn một tràng vang dội cả công đường. Thứ sử nổi giận nói "Ngươi dám vô lễ à? Không nghe tiếng quan Lệnh doãn làm tan nát nhà cửa sao?” Sinh phẩy tay áo bước xuống thềm, lớn tiếng đáp "Thằng học trò này không có nhà cửa gì để tan nát cả” Thứ sử càng tức giận, sai bắt trói lại. Rồi hỏi tới nhà cửa, thì sinh chẳng có nhà đất gì, chỉ dắt vợ tới ở trên tường thành. Thứ sử nghe thế bèn thả ra, nhưng ra lệnh đuổi không cho ở trên tường thành nữa. Bè bạn thương vì ngông, góp tiền mua cho vài thước đất, xây cho một cái lều trong thành. Sinh vào ở, than rằng “Từ nay trở đi thì phải sợ quan Lệnh doãn rồi!".</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Kẻ sĩ quân tử theo pháp luật, giữ lễ nghi, không dám ăn cướp giữa chợ, thì dẫu là nhà vua đi chăng nữa cũng làm gì được mình? Nhưng nếu có kẻ thù oán mà ngày càng ghét thêm, thì đó là vì mình có nhà cửa mà thôi. Còn nếu như chẳng có nhà cửa gì để tan nát, thì kẻ căm ghét tới đâu cũng không có chỗ nào để hại cả. Ôi, người kia chắc như lời người ta nói, là cậy nghèo hèn để khinh người chăng! Song chỉ có bậc quân tử mới có thể tuy nghèo nhưng không khinh suất mà xúc phạm người, thế mà y vì miếng ăn để lụy thân, hò hét ở công đường, cũng mất phẩm giá lắm. Có điều ngông như thế thì không ai bằng được thật.</em></p><p></p><p><strong>228. Tôn Tất Chấn</strong></p><p><strong>(Tôn Tất Chấn)</strong></p><p></p><p>Tôn Tất Chấn qua sông, gặp lúc mưa to gió lớn, thuyền bè nghiêng ngã, người trong thuyền sợ lắm. Chợt thấy một vị thần mặc giáp vàng đứng trong mây cầm một cái bài vàng đưa xuống cho nhìn. Mọi người cùng ngẩng lên xem, thấy ở trên đề ba chữ “Tôn Tất Chấn” rất rõ ràng. Mọi người nói với Tôn Tất Chấn rằng "Ngươi đã phạm tội bị trời phạt, xin mời qua một thuyền riêng, đừng làm lụy cho cả bọn ta". Tôn còn chưa kịp nói gì, họ cũng không đợi là có ưng thuận hay không, thấy cạnh thuyền có chiếc xuồng con, liền xúm vào đẩy Tôn qua đó. Tôn vừa ngồi yên xong, quay nhìn thì chiếc thuyền lớn đã chìm rồi.</p><p></p><p><strong>229. Trương Bất Lượng</strong></p><p><strong> (Trương Bất Lượng)</strong></p><p></p><p>Nhà buôn nọ đi tới ranh giới tỉnh Trục Lệ chợt gặp mưa đá, bèn núp vào đám lúa. Nghe trên không có tiếng nói "Đây là ruộng của Trương Bất Lượng, đừng làm hại lúa của y". Nhà buôn nghĩ thầm không biết họ Trương là ai, mà "bất lương” tại sao còn được trời che chở. Trời tạnh bèn vào thôn hỏi thăm, quả có người tên như thế, liền thuật lại điều mình nghe, lại hỏi cái tên "Bất Lượng" có nghĩa là gì. Thì ra họ Trương giàu có, thóc lúa rất nhiều, cứ đến mùa xuân lại có nhiều người nghèo túng tới vay, lúc trả thường không đủ số, nhưng Trương vẫn nhận cả không hề đong lường tính toán chi ly nên người làng gọi là “Bất Lượng" (không đong). Mọi người ùa ra đồng xem, thấy lúa khắp nơi xơ xác, chỉ riêng ruộng của họ Trương là không tổn hại gì.</p><p></p><p><strong>Phụ: Một Truyện Trong Khoáng Viên Tạp Chí Của Ngô Bảo Nhai (Trần Diệm)</strong></p><p><strong>(Phụ: Ngô Bảo Nhai Trần Diệm Khoáng Viên tạp chí nhất tắc) </strong> </p><p></p><p>Sư Tế Thủy ở Hoa Ổ kể vào năm Thuận Trị thứ 18 (1661) có một người ăn mày ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là thần vâng sắc lệnh làm mưa đá. Có người tránh mưa đá nghe trên không có tiếng nói "Đừng làm tổn hại ruộng của Trương Bất Lượng". Tạnh mưa thì ruộng các nơi đều tan tác, chỉ riêng ruộng của Trương là không tổn hại gì. Thì ra họ Trương nhận thóc người khác trả nợ, bảo cứ tự đem đổ vào vựa, không hề đong lại, nên người ta ca ngợi là "Bất Lượng" (không đong). Chuyện này cũng giống chuyện Tưởng Tự Lượng thời Nam Tống.</p><p></p><p>Họ Tưởng người đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), anh cả tên Sùng Nhân, kế tên Sùng Nghĩa, kế tên Sùng Tín, ba anh em đều nhân đức như nhau. Thường đặt các loại thưng đấu công ở kho, ai tới vay thóc cũng đều bảo tự đong lấy, năm mất mùa cũng thế. Người ta vì thế gọi là Tưởng “Tự Lượng” (tự đong). Năm Hàm Thuần thứ 3 (1267) có chiếu phong ba anh em là Quảng Phúc hầu, nay vẫn còn miếu thờ trên Lam Kiều.</p><p></p><p><strong>230. Tấm Nệm Hồng Mao</strong></p><p><strong> (Hồng Mao Chiên)</strong></p><p></p><p>Nước Hồng Mao trước có hẹn qua buôn bán ở Trung Quốc, chủ tướng ở biên cương thấy họ đông người không cho lên bờ. Người Hồng Mao cố nài, chỉ xin cho được đặt chân lên một khoảnh đất rộng bằng tấm nệm lông thôi. Viên chủ tướng nghĩ một tấm nệm lông thì có được bao nhiêu, bèn cho. Người Hồng Mao đặt tấm nệm lên bờ, thoạt tiên chỉ đủ chỗ cho hai người, kế nở ra đủ chỗ cho bốn năm người, trong chớp mắt tấm nệm nở rộng ra hơn một mẫu đất, đủ chỗ cho mấy trăm người. Họ cùng rút đoản đao ra, nhân lúc bất ngờ cướp phá cả mấy dặm rồi bỏ đi.</p><p> </p><p><strong>231. Quảy Xác Chết</strong></p><p><strong>(Phụ Thi)</strong></p><p></p><p>Có người tiều phu ra chợ bán củi, vác đòn gánh trở về, chợt thấy đầu đòn gánh như có vật nặng máng vào, quay nhìn thấy một cái xác chết không đầu treo lủng lẳng, phát hoảng rẫy đòn gánh ra đập túi bụi, chợt không thấy đâu nữa. Y sợ hãi chạy vào một thôn gần đó, lúc ấy trời đã sập tối, thấy có mấy người đốt đuốc soi trên mặt nước như tìm vật gì. Tới gần hỏi thăm thì ra bọn họ đang ngồi chơi, chợt có cái đầu trên không rơi xuống, râu tóc bòm sờm, trong phút chốc thì biến mất. Người tiều phu kể lại việc mình gặp, tính ra thì đủ một xác người, nhưng nghĩ mãi không biết từ đâu tới. Sau cũng có người quảy sọt muối đi trên đường, người ta thấy trong sọt muối có cái đầu người, lấy làm kỳ quái căn vặn. Y quay nhìn mới phát hoảng đổ ụp cái sọt ra đất, cái đầu người lăn tròn rồi biến mất.</p><p></p><p><strong>232. Cúc Dược Như</strong></p><p><strong>(Cúc Dược Như)</strong></p><p></p><p>Cúc Dược Như là người phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), vợ chết, bỏ nhà đi mất. Mấy năm sau ăn mặc như lối đạo sĩ trở về ngủ lại một đêm rồi định đi. Họ hàng họ hàng ép ở lại, giữ riệt lấy quần áo pháp trượng. Cúc nói thác là đi dạo, ra tới ngoài thôn thì áo quần đồ vật từ trong nhà đều phấp phới bay ra, theo Cúc đi mất.</p><p></p><p><strong>233. Hộ Ăn Cướp</strong></p><p><strong>(Đạo Hộ)</strong></p><p></p><p>Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) ở vùng Đằng, Dịch (tỉnh Sơn Đông) cứ mười người thì có sáu bảy làm cướp, quan không dám nã bắt. Về sau bọn chúng quy thuận, quan huyện biên tên riêng làm "hộ ăn cướp". Nếu chúng có tranh giành kiện tụng với dân thường, thì lại thiên vị xử cho chúng được, đại khái vì sợ chúng lại nổi dậy. Về sau những kẻ thưa kiện cứ nhận bừa là hộ ăn cướp, còn bên kia thì cứ ra sức cãi là mạo nhận. Bên nguyên bên bị ai cũng nhận mình là phải, còn quan thì chưa xét chuyện phải trái, trước hết cứ xét bên nào là hộ ăn cướp thật đã, thưa lên kiện xuống, đám nha lại lục lọi sổ sách hộ khẩu rất vất vả. Lúc ấy trong công thự có nhiều hồ, quan huyện có con gái bị hồ quấy phá, bèn đem lễ vật đón thuật sĩ tới, dùng bùa phép bắt được hồ bỏ vào vò, đặt lên lò lửa. Hồ ở trong vò kêu to "Ta là hộ ăn cướp đây", ai nghe chuyện cũng bật cười.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nay có kẻ đốt nhà cướp của, quan lại không cho là ăn cướp mà cho là kẻ gian, còn có kẻ trèo tường gian dâm lại không tự nhận là kẻ gian mà nhận là ăn cướp, thì thế sự đã thay đổi nhiều rồi. Giả như nay trong dinh quan có hồ, thì ắt cũng kêu to rằng ta đúng là ăn cướp đây.</em></p><p><em>Ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) từ thuế má dao dịch cho tới các khoản trưng thu thì dân thường phải chịu gấp mấy lần so với nhà thân hào. Cho nên những nhà có ruộng đều tranh nhau tới nhờ nhà thân hào đứng tên, tuy không hại gì tới thuế nước nhưng có chỗ tổn thất cho quan lại. Huyện lệnh Chung xin trừ mối tệ ấy, được quan trên ưng thuận. Lúc đầu sai tự thú, kế những dân gian trá lấy đó làm bậy, ruộng đất bán đi đã vài mươi năm cũng nói là nhờ đứng tên để kiện lại người mua. Huyện lệnh đều thiên vị họ, nên những dân lương thiện hiền lành nhiều người bị mất cơ nghiệp. Có Lý sinh bị Mỗ Giáp kiện, cùng lên đối chất, Giáp gọi Lý là Tú tài, Lý lớn tiếng tranh cãi nói mình không phải là Tú tài, ầm ĩ không ngớt. Huyện lệnh hỏi tả hữu, đều nói là Tú tài thật. Quan hỏi tại sao không nhận, Lý nói "Tú tài thì cao quý, nhưng cứ chờ tranh giành đất đai xong sẽ làm cũng chưa muộn". Ôi, danh hiệu ăn cướp thì tranh nhau mà nhận, danh hiệu Tú tài thì tranh nhau mà chối, chuyện đổi đời mới kỳ lạ làm sao. Có người dâng đơn nặc danh kiện về việc làm trái pháp luật thôn tính tài sản, nói "Tuổi già không thể làm lụng đóng thuế, nên có năm mươi mẫu ruộng gần thành, vào năm Lỗ ân công thứ 1 (722 trước công nguyên) tạm nhờ thân hào gian ác là Nhan Uyên đúng tên. Nay lệnh quan nghiêm khắc, theo lẽ phải tự thú. Nhưng tên thân hào gian ác ấy không chịu trả, tới nói lý lẽ thì bị thầy y dắt đồng đảng bảy mươi hai người mang gậy gộc xúm vào đánh đập túi bụi, gãy cả tay chân, lại lôi vào nhốt trong căn nhà dột, mỗi ngày mang cho một giỏ cơm một bầu nước, suýt nữa thì chết đói, có làng xóm làm chứng. Vậy cúi xin nghiêm khắc tra xét, trả lại điền sản mồ hôi nước mắt cho. Nay tố cáo", quả thật có thể nói là theo Liễu Chích mà kiện Di Tề<strong>*</strong>.</em></p><p></p><p>*Có người dâng đơn. Di Tề: Khổng Tử gia ngữ nói Nhan Uyên, một học trò giỏi của Khổng Tử có năm mươi mẫu ruộng gần thành, Luận ngữ nói Nhan Uyên là người hiền, ở nhà dột, một giỏ cơm một bầu nước vẫn vui với đạo. Lá đơn kiện nói trên là trào phúng để châm chọc, như nói thầy của Nhan Uyên dắt bảy mươi hai đồng đảng ra đánh mình là nhân chuyện “Khổng môn thất thập nhị hiền" mà bịa ra. Chuyện Liễu Chích kiện Di Tề cũng tương tự. Kiên biều tập chép đời Minh Mục tông Hải Đoan làm Tuần phủ Trực Lệ, có ý đè nén các nhà giàu nên phong khí dân gian điêu ngoa gian trá, có người dâng đơn kiện nặc danh tố cáo Liễu Hạ Huệ và Đạo Chích cậy thế cướp ruộng của dân, hai con vua Cô Trúc là Bá Di Thúc Tề cậy thế cha đào mộ của dân bị kiện, đút lót cho cận thần của vua là Lỗ Trọng Liên để ỉm chuyện đi vân vân (Liễu Hạ Huệ là cao sĩ nước Tề thời Chiến quốc, Đạo Chích tương truyền là tên cướp nổi tiếng thời thượng cổ. Bá Di Thúc Tề người cuối thời Thương, lúc Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ nhà ân, hai người đón dường can ngăn không được bèn thề "không ăn thóc nhà Chu, lên núi Thú Dương hái rau vi ăn, cuối cùng chết đói. Lỗ Trọng Liên là ẩn sĩ nước Tề thời Chiến quốc).</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển XIII - 234 - 236</strong></p><p>Trộm Đào</p><p>(Thâu Đào)</p><p></p><p>Lúc còn nhỏ có lần ta lên tỉnh chơi đúng vào dịp tiết Lập xuân. Theo lệ cũ thì trước đó một hôm, các nhà buôn bán trên phố đều kết kiệu hoa trỗi đàn sáo đưa đám rước tới tỉnh đường, gọi là "diễn xuân". Ta cùng bạn bè kéo nhau đi xem, hôm ấy người đông nghẹt, trên sảnh đường có bốn ông quan mặc áo đỏ ngồi đối diện nhau theo hướng đông tây. Lúc ấy ta còn là trẻ con, chẳng biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng cười nói ồn ào, trống chiêng ầm ĩ. Chợt có một người dắt đứa trẻ con xỏa tóc, vác hòm lên thềm, như muốn thưa bẩm. Đang khi ồn ào ầm ĩ, cũng chẳng nghe là thưa gởi những gì, chỉ thấy trên thềm cười rộ. Kế có người lính hầu bước ra lớn tiếng sai diễn trò, người ấy vâng lệnh bắt đầu, hỏi diễn trò gì. Các quan nói với nhau vài câu, rồi người lính hầu lớn tiếng hỏi giỏi trò gì, người ấy đáp giỏi trò đánh tráo vật sống. Người lính hầu vào bẩm quan một lúc, lại trở ra sai diễn trò hái đào. Người diễn trò vâng dạ, cởi áo phủ lên cái hòm, làm ra bộ oán thán nói "Bậc quan trưởng thật chẳng nghĩ cho, băng chưa tan trời còn lạnh, lấy đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, làm thế nào được?". Đứa con nói "Cha đã hứa, sao lại chối từ”. Người diễn trò ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói "Ta nghĩ kỹ rồi, đầu mùa xuân tuyết chưa tan, tìm đâu ra đào ở cõi trần. Chỉ vườn của Tây Vương mẫu bốn mùa cây cỏ đều xanh tươi, may ra thì có, phải lên trời ăn trộm thôi”. Đứa con nói "Ô, trời mà lên được à?”, đáp "Có cách đây". Bèn mở hòm lấy ra một cuộn dây dài vài mươi trượng thắt thòng lọng một đầu rồi ném lên không, sợi dây lơ lửng trên không rủ xuống như mắc vào vật gì vậy.</p><p></p><p>Không bao lâu càng ném càng cao, sợi dây cứ vào dần trong mây ra, khi cuộn dây trong tay đã hết bèn gọi đứa con nói “Con ơi lại đây! Cha già yếu, nặng nề lóng ngóng không leo được, ngươi đi một chuyến!", rồi đưa đầu sợi dây cho đứa con nói "Cứ bám vào mà leo lên". Thằng con cầm dây ra vẻ khó khăn, oán trách “Ông già thật là lẩm cẩm, một sợi dây thế này mà bảo ta bám vào leo lên trời cao muôn trượng, giả như nửa chừng dây đứt, còn gì là xương ta?". Người cha lại thúc ép, nói "Cha đã lỡ miệng hứa rồi, hối cũng không kịp. Con ráng đi một chuyến, đừng ngại khó nhọc, nếu ăn trộm được đào, ắt sẽ được thưởng hàng trăm đồng tiền vàng, cha sẽ cưới cho một con vợ đẹp". Đứa con bèn nắm sợi dây leo lên, tay kéo chân quặp, như con nhện leo tơ, dần dần vào trong mây không thấy đâu nữa. Hồi lâu có một trái đào to bằng cái bát rơi xuống, người diễn trò mừng rỡ nhặt lấy đem dâng lên, các quan trên sảnh đường chuyền tay nhau xem hồi lâu, cũng không biết là giả hay thật. Chợt sợi dây rơi xuống đất, người diễn trò hoảng sợ nói "Chết rồi! Trên trời có người cắt sợi dây của ta, thằng nhỏ biết bám vào đâu?". Giây lát có một vật rơi xuống, nhìn ra là cái đầu của đứa con, người diễn trò ôm lên khóc nói "Đây ắt là nó trộm đào bị người canh bắt được, con ta thế là chết rồi!". Giây lát lại một cái chân rơi xuống không thiếu chút gì. Người diễn trò hết sức bi thương, nhặt tất cả cho vào cái hòm đậy lại, nói "Già này chỉ có một đứa con hàng ngày cùng nhau lên bắc xuống nam, nay vâng nghiêm lệnh, không ngờ chuốc phải tai họa thảm lạ đến như thế, phải mang đi chôn thôi". Rồi lên sảnh đường quỳ xuống nói "Vì chuyện hái đào mà con ta chết rồi? Nếu các quan thương giúp tiền tho tiểu nhân chôn cất nó, sẽ xin kết cỏ ngậm vành để đền ơn". Mọi người ngồi xem kinh sợ, ai cũng cho tiền. Người diễn trò nhận lấy giắt vào lưng, rồi gõ vào cái hòm kêu "Bát Bát ơi, còn chờ gì mà không ra cám ơn?". Chợt một đứa trẻ tóc tai bù xù đầu đội nắp hòm chui ra khom người cúi đầu bái tạ, thì ra là đứa con. Ta lấy làm lạ về thuật ấy nên đến nay vẫn còn nhớ. Về sau nghe nói Bạch Liên giáo có thể làm được thuật ấy, có lẽ ngườỉ diễn trò là dòng dõi của họ chăng?</p><p></p><p><strong>235. Thuật Mồm</strong></p><p><strong> (Khẩu Kỹ)</strong></p><p></p><p>Một cô gái tới làng, tuổi chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm, khoác một túi thuốc đi bán. Có người hỏi xin chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn, bảo đến tối hỏi thần, rồi chiều tối dọn dẹp sạch sẽ một gian phòng nhỏ, vào trong đóng chặt cửa lại. Mọi người xúm xít quanh cửa sổ lắng tai nghe ngóng, chỉ thì thào nóỉ chuyện, không dám ho hắng.</p><p>Đến giữa canh một, chợt nghe thấy tiếng rèm lay động, cô gái bên trong nói "Cô Chín tới phải không?” một cô gái đáp tới rồi. Lại hỏi "Lạp Mai theo cô Chín tới đấy à?", như có một tỳ nữ đáp vâng ạ. Ba người ríu rít trò chuyện không ngớt. Giây lát lại có tiếng rèm cửa lay động, cô gái nói “Cô Sáu tới rồi", mọi người cùng nói "Xuân Mai cũng bế tiểu lang theo đấy à", có tiếng một cô gái đáp "Tiểu ca kêu khóc không chịu ngủ, nhất định đòi đi theo nương tử, nặng như cả trăm cân, cõng mệt gần chết". Rồi nghe tiếng cô gái nựng nịu, tiếng cô Chín hỏi thăm, tiếng cô Sáu chuyện trò, tiếng hai người tỳ nữ dỗ dành, tiếng trẻ con cười giỡn, rộ lên một hồi. Kế lại nghe cô gái cười nói "Cậu ấm cũng nghịch ngợm quá, xa xôi như thế mà ôm cả con mèo theo". Rồi tiếng nói ngớt dần, lại có tiếng rèm cửa lay động, tất cả lại ồn ào nói "Cô Tư sao tới chậm thế?”, có tiếng một cô gái nhỏ lí nhí "Đường xa hàng ngàn dặm, đi với cô mãi mới tới được, cô đi lại chậm". Rồi mọi người lại thăm hỏi nhau, tiếng kéo ghế, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ nhộn nhạo cả lên ầm ĩ trong phòng, hồi lâu mới ngớt. Kế nghe tiếng cô gái hỏi thuốc, cô Chín cho là nên có sâm, cô Sáu cho là phải có kỳ, cô Tư bảo là cần có truật, bàn bạc một lúc lại nghe cô Chín gọi đem bút nghiên ra. Không bao lâu có tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt bút lách cách, tiếng mài mực rin rít, kế đó là tiếng ném bút kéo bàn vang vang, rồi nghe tiếng lấy thuốc trong bao sột soạt. Lát sau cô gái kéo rèm, gọi người bệnh, lấy thuốc nhận đơn rồi quay trở vào.</p><p>Lập tức nghe tiếng ba cô gái chào về, tiếng ba thị tỳ chào về tiếng trẻ con bi bô, tiếng mèo ngoao ngoao lại rộ lên cùng một lúc. Tiếng cô Chín trong mà cao, tiếng cô Sáu chậm mà trầm, tiếng cô Tư dịu mà ấm, cho đến tiếng của ba tỳ nữ đều có âm sắc riêng, nghe có thể phân biệt rõ ràng được. Mọi người tin là thần cho thuốc thật, nhưng uống thử thì không khỏi bệnh. Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc mà thôi, nhưng cũng kỳ lạ thật!</p><p>Vương Tâm Dật kể lúc ở kinh đô ngẫu nhiên đi ngang chợ nghe tiếng ca hát đánh đàn, người xem đông nghẹt. Tới gần nhìn thì thấy một thiếu niên cao giọng ca hát, chỉ lấy một ngón tay đè vào má, vừa đương vừa hát, tiếng nghe vang vang, không khác gì tiếng đàn, cũng là dòng dõi của người biết thuật mồm.</p><p></p><p><strong>236. Vương Lan</strong></p><p><strong>(Vương Lan)</strong></p><p></p><p>Vương Lan người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) bị bạo bệnh chết. Diêm Vương xét lại thì là quỷ tốt bắt lầm, bèn trách phạt bắt đưa hồn Vương về nhập vào xác lại, thì xác đã nát. Quỷ sợ tội, nói với Vương "Người mà chết làm ma thì khổ, ma mà được thành tiên thì sướng, nếu được sướng thì cần gì phải sống lại làm người?". Vương cho là đúng, quỷ nói "Ở đây có một con hồ đã luyện được kim đan, trộm lấy mà nuốt thì hồn không tan, có thể sống mãi, muốn đi đâu làm gì đều được như ý, ông có chịu không?". Vương nghe theo, quỷ bèn dắt đi, tới một phủ đệ lớn, thấy lầu gác nguy nga nhưng vắng vẻ không có một người nào. Có con hồ đứng dưới trăng, ngửa đầu nhìn lên không, thở ra một hơi, trong miệng có vật tròn bay thẳng vào mặt trăng, hít vào một hơi, vật ấy rơi xuống lại há miệng ngậm lấy, rồi lại thở ra, cứ thế làm mãi. Quỷ bèn rón rén tới bên cạnh, chờ lúc hồ thở phun vật ấy ra vội cướp lấy đưa cho Vương nuốt. Hồ giật mình, nổi giận xông tới nhưng thấy họ có hai người, sợ chống không nổi đành căm hờn bỏ đi. Vương chia tay với quỷ, về tới nhà thì vợ con nhìn thấy đều hoảng sợ chạy tan. Vương kể lại mọi chuyện, vợ con dần dần yên tâm, từ đó lại ăn ở trong nhà như lúc trước.</p><p></p><p>Bạn là Trương sinh nghe chuyện tới thăm, gặp nhau cùng trò chuyện. Vương nói “Nhà ta và anh đều nghèo, nay có thuật có thể làm giàu được, anh cùng đi với ta được không?”. Trương vâng dạ, Vương lại nói "Ta có thể không cần thuốc vẫn chữa được bệnh, không cần bói vẫn đoán được mệnh, nhưng nếu ta ra mặt lỡ gặp người quen thì họ hoảng sợ, nên cứ ngầm theo anh thôi được không?”. Trương lại vâng dạ, rồi đó sắp xếp hành trang ngay hôm ấy lên đường. Tới địa giới tỉnh Sơn Tây, có người nhà giàu nọ có con gái đột nhiên bị hôn mê, thuốc thang cầu đảo hết cách vẫn không khỏi. Trương bèn tìm tới, tự xưng là chữa được. Phú ông chỉ có một người con gái ấy, nên rất thương yêu, hứa rằng nếu chữa được sẽ đền ơn ngàn đồng vàng. Trương xin vào xem, theo phú ông vào phòng, thấy cô gái nhắm mắt nằm yên, giở chăn lên vỗ vào người vẫn không hay biết gì.</p><p></p><p>Vương ngầm nói với Trương rằng "Hồn cô này lạc mất rồi, phải đi tìm mới được". Trương bèn nói với phú ông rằng bệnh tuy nguy nhưng vẫn có thể cứu được. Phú ông hỏi cần thuốc gì, Trương đáp rằng đều không cần, hồn con gái ông đi lạc rồi, đã sai thần đi tìm. Khoảng sau một giờ Vương chợt trở lại nói với Trương là đã tìm được. Trương bèn mời ông vào lại trong phòng xem, lại gọi cô gái, giây lát cô ta ngồi dậy, mở mắt nhìn. Phú ông cả mừng vỗ về hỏi han, cô gái nói "Con đang chơi trong vườn thì thấy một thiếu niên cầm cung bắn chim, có mấy người dắt ngựa theo hầu. Con đang muốn chạy thì họ cản đường, chàng thiếu niên ấy đưa cung cho con, bảo con bắn. Con xấu hổ từ chối, y bèn kéo con lên ngựa, thúc ngựa chạy rồi cười nói ‘Ta đang muốn vui vẻ với cô, đừng có xấu hổ’. Được vài dặm thì vào trong núi, con vừa la vừa chửi, y nổi giận xô con ngã xuống cạnh đường. Đang muốn về nhưng không biết đường, chợt thấy có một người tới nắm tay con kéo đi như bay, chớp mắt đã về tới nhà, chợt tỉnh dậy đây".</p><p></p><p>Phú ông cho là thần kỳ, quả tạ ơn Trương một ngàn đồng vàng. Đêm tới Vương bàn với Trương giữ lại hai trăm để ăn đường, còn bao nhiêu mang cả về nhà, gõ cửa đưa cho con, bảo đem ba trăm đồng qua đưa cho vợ Trương, rồi trở lại nhà phú ông. Hôm sau cáo từ, phú ông không thấy Trương cầm tiền bạc gì cả, càng lấy làm lạ, kính cẩn đưa tiễn. Vài hôm sau, Trương gặp người cùng làng là Hạ Tài trên đường. Tài ham uống rượu đánh bài không lo làm ăn nên nghèo mạt, nghe Trương học được phép lạ kiếm được rất nhiều tiền nên đi tìm. Vương khuyên Trương cho y chút ít tiền bảo vệ. Tài không bỏ nết cũ, chơi bời được chục hôm hết sạch tiền, lại đi tìm Trương.</p><p></p><p>Vương đã biết trước, nói "Tài là kẻ bừa bãi, không nên gần gũi, chỉ nên cho tiền bảo đi đi, nếu có tai họa cũng không nguy hiểm". Vài hôm quả nhiên Tài tới, năn nỉ xin đi theo, Trương nói "Ta đã biết ngươi sẽ tìm tới nữa, nhưng ngươi chỉ lo cờ bạc rượu chè, dẫu đưa ngàn đồng vàng cũng như bỏ vào cái túi không đáy. Nếu ngươi thật tâm bỏ thói xấu, thì ta tặng cho một trăm đồng vàng". Tài hứa hẹn thề thốt, Trương bèn dốc hết tiền bạc ra đưa cho. Tài trở về, trong túi có trăm đồng vàng, đánh bạc càng lớn, uống rượu chơi gái lu bù, coi tiền như rác. Chức dịch trong làng nghi ngờ bắt giải lên quan, khảo tra rất nặng. Tài khai rõ tiền bạc ở đâu mà có, quan bèn sai lính giải đi tìm Trương, được vài ngày bị thương nặng chết dọc đường.</p><p></p><p>Hồn Tài không quên Trương lại tìm tới nương tựa, nhân đó gặp Vương. Một hôm cùng uống rượu với nhau. Tài say quá la ầm lên, Vương ngăn lại không nghe. Gặp lúc quan Ngự sử tuần sát đi ngang, nghe tiếng la sai tìm bắt được Trương, Trương nói rõ sự thật. Quan Ngự sử tức giận phạt roi, rồi đốt điệp sớ cáo với thần. Đến đêm nằm mộng thấy một người mặc giáp vàng tới nơi "Đã xét Vương Lan vô tội mà chết đã thành quỷ tiên, làm việc chữa bệnh cũng là sự nhân đức, không thể coi là loại yêu tà quỷ mị. Nay vâng mệnh Thượng đế, đã trao cho y chức Thanh đạo sứ. Hạ Tài càn quấy bừa bãi, đã phạt giam vào núi Thiết Vi. Họ Trương không có tội gì, nên tha y ra". Quan Ngự sử tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn tha cho Trương. Trương khoác gói về làng, trong túi còn mấy trăm đồng vàng, bèn đưa một nửa tới nhà Vương, con cháu Vương từ đó trở nên giàu có.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 237 - 241 -</strong></p><p>Hải Công Tử</p><p>(Hải Công Tử)</p><p></p><p>Đảo cổ Đông Hải (thuộc tỉnh Sơn Đông) có cây hoa nại đông ngũ sắc, thường nở hoa cả bốn mùa, song trong đảo không có ai ở, ít người lui tới. Trương sinh người huyện Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) tính hiếu kỳ, thích du ngoạn, nghe nóí cảnh ở đó đẹp bèn mang rượu thịt, tự chèo thuyền ra đảo chơi. Tới nơi thì gặp lúc hoa đang nở rộ, mùi hương lan khắp mấy dặm, thấy cây nại đông to hơn chục người ôm, cứ qua lại ngắm nghía mãi, lấy làm thích thú. Rồi mở bầu rót rượn, tiếc là không có ai cùng đi chơi. Chợt trong đám hoa có một cô gái đẹp hiện ra, áo hồng mắt sáng, xinh đẹp không ai sánh được, nhìn Trương cười nói "Thiếp tự cho rằng hứng thú của mình không tầm thường, không ngờ đã có kẻ đồng điệu tới trước". Trương ngạc nhiên hỏi là ai, nàng đáp "Thiếp là con hát ở huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), vừa theo Hải Công tử tới đây. Ông ta thích cảnh đẹp đi khắp nơi, thiếp mỏi chân nên nghỉ lại ở đây". Trương đang buồn về nỗi quạnh hiu, gặp được người đẹp rất vui, gọi tới cùng ngồi uống rượu.</p><p></p><p>Cô gái nói năng dịu dàng làm say lòng người, Trương rất yêu thích, nhưng sợ Hải Công tử tới nên không dám mặc tình vui vẻ. Chợt nghe gió thổi ào ào, cây cối gảy răng rắc. Cô gái vội xô sinh dậy nói “Hải Công tử tới rồi”. Trương thắt lại áo kinh ngạc quay nhìn thì cô gái đã biến mất. Kế thấy một con rắn lớn từ đám cây rậm bò ra, to như cái thùng. Trương sợ, núp vào sau cây nại đông, mong là nó không nhìn thấy. Con rắn bò sát tới quấn cả người Trương vào gốc cây, cuốn luôn mấy vòng, hai tay Trương bị đè dưới hông không cục cựa gì được. Rắn ngẩng đầu thè lưỡi chọc vào mũi Trương, máu mũi chảy ra đọng thành vũng dưới đất, nó cúi xuống uống. Trương tự nghĩ ắt là phải chết, chợt nhớ trong lưng có mang gói thuốc độc, bèn lấy hai ngón tay móc thủng cái gói, hứng thuốc vào lòng bàn tay, rồi vươn cổ ra đưa bàn tay hứng máu mũi, giây lát được một bụm. Con rắn quả nhiên quay đầu uống máu trong lòng bàn tay, uống chưa hết chợt duỗi ra, đập đuôi mạnh như sét trúng thân cây, nửa thân cây trên đổ xuống, rắn cũng duỗi ra như cái xà nhà chết lăn trên mặt đất. Trương cũng rủn chân hoa mắt không đứng dậy nổi, lát sau mới tỉnh. Bèn chở xác con rắn về nhà, bệnh nặng mấy tháng, ngờ cô gái cũng là tinh rắn.</p><p></p><p><strong>238. Đinh Tiền Khê</strong></p><p><strong>(Đinh Tiền Khê)</strong></p><p></p><p>Đinh Tiền Khê là người huyện Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), gia tư giàu có, hào hiệp trọng nghĩa, hâm mộ những kẻ du hiệp thời cổ, bị quan tư nã bắt. Đinh bỏ trốn, tới đất An Khâu gặp mưa, vào trú ở một nhà nọ, nhưng mưa suốt cả ngày không ngớt. Có một thiếu niên bước ra mời ăn cơm, cơm nước rất tử tế. Kế trời tối, Đinh nghỉ đêm luôn lại đó, thiếu niên cũng đem rơm cỏ cho ngựa đầy đủ. Đinh hỏi tên họ, thiếu niên đáp "Chủ nhân họ Dương, ta là cháu trong nhà. Chủ nhân ưa giao du, có việc đi vắng rồi, trong nhà chỉ có nương tử, nhà nghèo không tiếp đãi được chu đáo, xin khách tha lỗi". Hỏi tới nghề nghiệp chủ nhân, thì được biết chẳng buôn bán làm lụng gì, chỉ hàng ngày đánh bạc, kiếm ăn cò con.</p><p></p><p>Hôm sau lại mưa dầm dề. Đinh vẫn được lo cơm nước rất chu tất. Tối đến thiếu niên mang cỏ cho ngựa, bó cỏ ướt đẫm mà lại cọng dài cọng ngắn không đều, Đinh lấy làm lạ. Thiếu niên nói “Thưa thật với khách, nhà nghèo không có cỏ cho ngựa, đây là nương tử rút tranh lợp nhà xuống đấy thôi". Đinh lại càng lạ lùng, cho là họ rất thành thật. Sáng ra đưa tiền, thiếu niên không nhận, Đinh ép thiếu niên cầm vào giây lát lại cầm ra trả, nói "Nương tử nói không phải làm nghề bán quán, chủ nhân ra ngoài thường vài ba ngày chẳng mang theo một đồng, nay khách tới nhà sao lại lấy tiền?”, Đinh ca ngợi từ biệt, dặn "Ta là Đinh Mỗ ở Chư Thành, khi nào chủ nhân về nhớ nói lại rằng lúc nào rảnh mời ghé chơi".</p><p>Mấy năm sau chẳng hề qua lại gì, gặp năm đói kém, Dương càng khổ cực, không còn cách nào sinh sống, vợ rụt rè khuyên tìm tới Đinh, Dương nghe theo. Tới nơi, xưng họ tên với người gác cổng, Đinh quên không nhớ, sai hỏi lại mới nhớ ra, vội chạy chân đất ra mời vào. Thấy Dương áo rách giày nát, bèn đưa vào phòng ấm, bày tiệc khoản đãi, cung kính phi thường. Hôm sau may sắm quần áo cho, Dương được ăn no mặc ấm rất cảm kích, nhưng càng lo lắng cho gia đình, cũng mong được chút gì cầm về. Ở mấy ngày liền, chẳng nghe Đinh nói tặng tiền gì cả, Dương nóng ruột nói với Đinh rằng "Thật không dám giấu diếm, lúc ta lên đường tới đây thì trong nhà chỉ còn chưa đầy một thăng gạo, nay ta được quá thương lo cho ăn cho ở, dĩ nhiên vui sướng, nhưng vợ con thì làm sao!”. Đinh nói “Chuyện đó không lo, ta đã sắp xếp thay ông rồi, xin cứ thong thả ở chơi ít hôm, ta sẽ giúp tiền về". Bèn sai người gọi đám con bạc tới, bảo Dương làm cái đánh trọn đêm thắng được trăm đồng vàng, bèn tiễn Dương về Dương về tới nhà thấy phòng ốc bày biện đầy đủ, vợ mặc quần áo mới, có tỳ nữ hầu hạ, ngạc nhiên hỏi. Vợ đáp "Chàng đi được vài hôm thì có người chở vải vóc lúa gạo tới vác vào chất đầy nhà, nói là của ông khách họ Đinh tặng. Lại có thêm mười người tỳ nữ cho thiếp sai bảo” Dương cảm kích vô cùng, từ đó được đủ ăn, không làm nghề cũ nữa.</p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nghèo mà hiếu khách là điều hay ở đám rượu chè cờ bạc, nhưng người vợ của họ Dương là lạ lùng nhất. Còn nhận ơn của người mà không báo sao đáng là người, nhưng Đinh mỗ quả là kẻ cái ơn một bữa cơm cũng không quên vậy.</em></p><p></p><p><strong>239. Con Chuột Có Nghĩa</strong></p><p><strong>(Nghĩa Thử)</strong></p><p></p><p>Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra kiếm ăn một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đứng nhìn, có vẻ rất căm giận. Rắn ăn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột lanh lẹn chạy trốn, rắn đuổi không kịp bèn quay lại, bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt dất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn ta là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này.</p><p></p><p><strong>240. Quỷ Nhập Tràng</strong></p><p><strong>(Thi Biến)</strong></p><p></p><p>Huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông Mỗ ở thôn Thái Điếm. Thôn cách huyện thành năm sáu dặm, cha con ông ta dựng quán cạnh đường cho người buôn bán qua lại nghỉ trọ, có bốn người phu xe chở hàng vẫn vào trọ ở đó. Một hôm trời rất tối bốn người cùng về tới thì quán trọ đã đầy khách. Bốn người không biết làm sao, cứ nài nỉ xin cho trọ lại. ông Mỗ ngẫm nghĩ tìm được một chỗ, nhưng ngần ngại sợ không hợp với khách. Bốn người lại nói chỉ cần có chỗ ngả lưng là đủ chứ không dám chọn lựa khen chê gì cả. Lúc ấy con dâu của ông Mỗ vừa chết, xác còn đặt trong nhà bên kia đường, con trai đi mua quan tài chưa về, ông thấy trong nhà còn rộng bèn dắt khách qua đó nghỉ.</p><p></p><p>Khách vào tới thì thấy trên bàn có ngọn đèn leo lét, phòng trong buông rèm, cái xác được đắp chăn đậy mặt nằm đó, chỗ ngủ bên ngoài thì có bốn cái giường đặt liền nhau. Mọi người đều đã mệt mỏi, lập tức lên nằm ngủ khò, chỉ còn một người mơ mơ màng màng chưa ngủ hẳn. Chợt nghe trong phòng người chết có tiếng cót két, vội mở mắt ra nhìn, thì thấy rõ dưới ánh đèn cái xác người đàn bà đã giở chăn ngồi dậy. Kế đó cái xác bước xuống đất từ từ bước ra chỗ đám khách nằm ngủ, sắc mặt lợt lạt vàng khè, vén tấm vải che mặt lên trán, cúi xuống trước giường lần lượt thổi vào mặt ba người kia. Y hoảng hốt, sợ sẽ thổi tới mình, vội kéo chăn trùm kín đầu nhắm mắt nín thở nghe ngóng.</p><p>Không bao lâu người đàn bà cũng tới thổi vào y rồi đi trở vào. Y nghe tiếng rèm sột soạt, hé chăn ra nhìn trộm thấy cái xác đã nằm lại trên giường như cũ. Y sợ quá không dám lên tiếng, ngầm lấy chân đạp vào mấy người kia thì họ đều nằm yên không động đậy, nghĩ rằng không còn cách nào, chẳng bằng mặc áo trốn đi. Vừa trở dậy mặc áo thì tiếng cót két trong kia lại vang lên, y hoảng sợ vội nằm xuống kéo chăn che kín đầu, thấy người đàn bà lại tới thổi liên tiếp, hồi lâu mới trở về. Giây lát nghe giường trong có tiếng động, biết là cái xác đã nằm xuống, bèn rón rén mặc áo quần trong chăn, rồi nhảy xuống đất bỏ chạy. Cái xác vùng dậy định đuổi, vừa ra khỏi màn thì y đã tung cửa chạy rồi.</p><p></p><p>Cái xác đuổi theo, y vừa chạy vừa la, muốn đập cửa quán gọi ông Mỗ dậy nhưng sợ không kịp, bèn cứ theo đường về phía huyện thành ráng sức chạy. Tới cửa đông huyện thành, thấy có ngôi chùa, nghe thấy tiếng gõ mõ, vội vàng chạy tới đập của. Đạo nhân trong chùa thấy có chuyện lạ, lại không mở cửa ngay, y còn chờ thì cái xác đã đuổi tới còn cách có một thước, y càng hoảng hốt. Ngoài cổng chùa có cây bạch dương chu vi khoảng bốn năm thước, y bèn chạy tới đó ẩn núp, cứ cái xác vòng bên này thì y chạy qua bên kia, cái xác càng giận dữ song khách cũng dần dần thấm mệt. Cái xác dừng lại, y đổ mồ hôi thở hổn hển, nép vào gốc cây. Cái xác chợt lao qua, giơ hai tay từ ngoài nhảy xổ vào chụp, y kinh hãi ngã xuống đất, cái xác chụp hụt, ôm gốc cây đứng sững ra đó.</p><p></p><p>Đạo nhân trong chùa nghe ngóng hồi lâu thấy yên ắng, bèn từ từ mở cửa ra, nhìn thấy y nằm trên mặt đất, nghĩ rằng đã chết, nhưng thấy tim còn đập thoi thóp bèn cõng vào, đến sáng mới tỉnh. Đạo nhân lấy nước cho uống rồi hỏi han, y thuật lại mọi việc. Lúc ấy đã xong hồi chuông sớm, trời đã sáng mờ mờ, đạo nhân ra xem chỗ gốc cây, quả thấy cái thây người đàn bà đứng sững ở đó, cả sợ bèn báo quan. Quan đích thân tới tra hỏi khám nghiệm, sai gỡ tay cái xác ra khỏi gốc cây, mãi vẫn không được. Nhìn kỹ lại thì tám ngón tay đều cong lại như cái móc cắm lút vào thân cây, lại sai mấy người cùng hết sức giật mạnh mới gỡ ra được, nhìn lại thì chỗ ngón tay bấu vào trong gỗ sâu hoắm như lấy dùi đóng vào. Quan sai người tới nhà ông Mỗ dò xét, thì ở đó đang ồn ào rầm rĩ vì xác mất khách chết. Người sai dịch thuật lại chuyện, ông Mỗ bèn đi theo tới chùa, lãnh cái xác về. Người khách khóc nói với quan huyện rằng "Bốn người cùng ra đi với nhau, nay chỉ có một người trở về, kể lại chuyện này làm sao làng xóm tin được?". Quan huyện bèn phát công văn sai người đưa y về quê.</p><p></p><p><strong>241. Phun Nước</strong></p><p><strong>(Phún Thủy)</strong></p><p></p><p>Tiên sinh Tống Thúc Ngọc người huyện Lai Dương (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở kinh, phủ đệ ở một chỗ rất hoang vắng. Một đêm, hai người tỳ nữ cùng mẹ tiên sinh là Thái phu nhân ngủ ở trong phòng, chợt nghe sau viện có tiếng phùn phụt như thợ may phun nước lên vải để cắt áo vậy. Thái phu nhân bảo một người tỳ nữ dậy xem, người tỳ nữ núp sau cửa sổ nhìn ra thì thấy một bà già người thấp lưng gù, tóc bạc phất phơ, đội một cái mũ chụp cao chừng hai thước, đi vòng quanh nhà, co ro như con hạc, vừa đi vừa phun, mãi vẫn không hết nước trong mồm. Người tỳ nữ kinh ngạc trỡ vào bẩm, Thái phu nhân cũng ngạc nhiên dậy xem, hai người tỳ nữ đỡ ra cạnh cửa sổ cùng nhìn.</p><p></p><p>Bà già chợt tới sát cửa sổ, phun thẳng vào trong, giấy dán cửa sổ rách toạch, ba người sợ hãi ngả lăn ra đất, nhưng người trong nhà đều không biết. Mặt trời lên cao, người trong nhà đều tụ họp, gõ cửa phòng không thấy trả lời mới hoảng sợ, vội nhấc cánh cửa lên mà vào, thấy một chủ hai tớ đều nằm chết cứng. Sờ tới thấy một tỳ nữ dưới ngực còn ấm, vội đỡ lên cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh, kể lại mọi việc. Tiên sinh tới, đau đớn phẫn hận muốn chết, bèn sai theo vết nước tìm tới một chỗ. Đào xuống hơn ba thước thì lộ ra mớ tóc trắng, lại đào nữa thì thấy có một cái xác, hình dung giống như người tỳ nữ đã trông thấy, sắc mặt vẫn tươi tắn như còn sống. Tiên sinh sai đánh, thì xương thịt đã nát hết, bên dưới lớp da chỉ toàn là nước trong mà thôi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 242 - 244 -</strong></p><p>Con Quái Trong Núi</p><p>(Sơn Tiêu)</p><p></p><p>Tôn Thái Bạch từng kể ông cố của ông đọc sách trong chùa Liễu Câu ở Nam Sơn, có lần tháng tư về nhà, hơn chục ngày mới trở lại. Mở cửa vào thì thấy bụi bặm đầy bàn, tơ nhện ngập song, bèn sai kẻ hầu quét dọn, đến tối mới xong. Kế dọn giường trải chiếu, gối đầu nằm bên song nhìn ra cửa sổ ngắm trăng. Trằn trọc một lúc thì đêm đã yên ắng, chợt có tiếng gió ào ào nổi lên, cổng chùa rít kèn kẹt. Đang nghĩ một mình rằng chắc sư trong chùa quên cài cổng, thì tiếng gió đã tới cạnh phòng ở, kế đó cửa phòng mở tung. Còn đang ngờ vực chưa biết là gì thì tiếng động đã vào tới phòng, lại có tiếng dép quèn quẹt tới sát phòng ngủ, bắt đầu thấy sợ thì cửa phòng ngủ mở ra. Vội nhìn ra, thì thấy có một con quỷ lớn khom lưng bước vào, tiến tới đứng sừng sũng ở đầu giường, cao ngang xà nhà, mặt vàng như trái dưa già, mắt sáng lóng lánh nhìn khắp bốn vách, há miệng to như cái chậu, răng chơm chởm dài khoảng ba tấc, liếm mép nuốt nước bọt ừng ục, tiếng rền cả phòng. Ông sợ quá, nhưng lại nghĩ nó chỉ đứng cách mình trong gang tấc, không còn cách chạy trốn nữa, chẳng bằng nhân lúc sơ hở mà đâm. Bèn ngầm rút thanh bội đao dưới gối ra chém hết sức trúng vào bụng nó, nghe leng keng như chém vào đá. Con quỷ cả giận, vươn móng vuốt vồ ông, ông co người lại tránh, quỷ vồ trúng cái chăn, giật lấy rồi căm tức bỏ đi. Ông bị kéo rơi xuống giường, nằm dưới đất la ầm lên, người hầu cầm đèn chạy tới thì thấy cửa phòng vẫn đóng như cũ. Trèo cửa sổ vào trông thấy cả sợ, bèn đỡ ông lên giường, ông mới kể lại chuyện. Mọi người cùng đi tìm kiếm thì thấy cái chăn vắt ở của phòng ngủ, đem ra cửa mở xem thì thấy vết móng to như cái rổ, năm dấu ngón tay xuyên suốt từ bên này qua bên kia. Trời sáng ông không dám ở lại nữa, cắp tráp về nhà, sau tới hỏi sư trong chùa, thì không thấy có gì khác lạ nữa.</p><p></p><p><strong>243. Con Quái Trong Đống Lúa (Thu Trung Quái)</strong></p><p></p><p>Ông họ An ở huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) chăm việc đồng áng, gặp vụ lúa thu chín, gặt để thành đống trên bờ ruộng. Lúc ấy ở thôn bên cạnh có kẻ đi trộm lúa, nên ông sai đầy tớ nhân đêm có trăng chở thóc về làng nộp thuế, đong đếm xong thì trở lại, còn tự mình ở lại canh giữ, gối đầu lên cái mác ngủ cạnh đống lúa. Vừa mới thiu thiu, chợt nghe có tiếng người đạp lên lúa sàn sạt đi tới, ngỡ là bọn trộm, vội ngóc đầu dậy nhìn thì thấy một con quỷ cao hơn một trượng, mặt mũi hung dữ tới sát bên cạnh. Ông phát hoảng không biết làm sao, bèn nhảy bật dậy đâm bừa, con quỷ kêu rống như sấm sét bỏ chạy. Ông sợ nó quay trở lại, vác cái mác chạy về, gặp đầy tớ dọc đường, thuật lại chuyện mới rồi bảo họ đừng ra ruộng nữa, song mọi người cũng chưa tin lắm.</p><p>Hôm sau đang phơi thóc, chợt nghe có tiếng gầm vang tới, ông hoảng sợ nói “Con quỷ tới rồi", rồi bỏ chạy, mọi người cũng chạy tán loạn. Một lúc sau mới dần dần tụ họp lại, ông sai mọi người mang cung nỏ để rình. Hôm sau quả nhiên con quỷ tới, mọỉ người cùng bắn tên ra, quỷ sợ chạy mất, hai ba ngày không tới nữa. Khi đưa hết lúa về kho xong, rơm rạ còn vứt bỏ ngổn ngang ngoài ruộng, ông sai đầy tớ đánh thành đống, tự mình trèo lên xem xét, đứng cao hơn mặt đất vài thước, chợt nhìn ra xa hoảng sợ kêu lên "Con quỷ tới rồi!". Mọi người đang vội vàng tìm cung nỏ thì con quỷ đã xông tới sát ông, ông ngã quay ra, nó bèn cắn vào mặt rồi bỏ đi. Mọi người trèo lên cây rơm xem, thì trên mặt ông mất một miếng xương to bằng bàn tay, hôn mê không biết gì nữa, cõng về tới nhà thì chết. Sau đó không thấy nó nữa, không biết đó là loại quỷ quái gì.</p><p></p><p><strong>244. Chàng Sáu Vương</strong></p><p><strong> (Vương Lục Lang)</strong></p><p></p><p>Họ Hứa ở phía bắc thành huyện Truy (tỉnh Sơn Đông) làm nghề đánh cá. Đêm nào cũng mang rượu tới bờ sông, uống rồi mới kéo lưới, uống rượu thì rót một chén xuống đất khấn "Ma da trên sông tới mà uống", cứ thế thành lệ. Người khác đánh cá có khi không được chút gì, chứ riêng Hứa thì đêm nào cũng được đầy giỏ. Một đêm vừa đem rượu ra uống một mình thì có một thiếu niên tới quanh quẩn cạnh đó. Hứa mời cùng uống, vui vẻ với nhau, trọn đêm chờ chẳng được con cá nào, Hứa rất thất vọng. Thiếu niên đứng dậy nói "Xin xuống dưới dòng xua cá lên cho ông", rồi nhẹ nhàng bước đi. Giây lát quay lại nói “Cá tới nhiều rồi đấy!” quả nhiên nghe tiếng cá đớp móng vang dưới sông, cất lưới lên thì được vài con dài cả thước. Hứa mừng quá, cám ơn định về, đưa cá biếu thì thiếu niên không nhận, nói "Nhiều phen được cho uống rượu ngon rồi, bấy nhiêu đâu đã đủ để báo đáp? Nếu như không ghét bỏ, xin cứ cho được uống rượu thế này thôi!". Hứa nói “Mới uống với nhau có một lần, sao lại nói là nhiều phen? Còn nếu chiếu cố tới nhau mãi, thì đó là điều ta rất muốn, chỉ thẹn không có gì để tỏ bày tình cảm thôi". Rồi hỏi họ tên, thiếu niên đáp “Ta họ Vương, không có tên tự, gặp nhau cứ gọi là chàng Sáu Vương được rồi", rồi từ biệt nhau.</p><p>Sáng ngày Hứa bán cá, mua rượu nhiều hơn, tối đến tới bờ sông đã thấy thiếu niên tới trước chờ đó. Lại cùng vui vẻ uống rượu với nhau, được vài chén, vội đứng dậy đi xua cá cho Hứa. Cứ thế được nữa năm, một hôm chợt nói với Hứa "Được quen biết nhau, tình thân còn hơn cả ruột thịt, nhưng sắp phải xa nhau rồi” lời lẽ rất ảo não. Hứa ngạc nhiên hỏi, thiếu niên định đáp lại thôi, mấy lần mới nói “Thân tình như hai người chúng ta, nói ra thì chắc ông không ngờ sợ chăng? Nay sắp chia tay, nói thật cũng chẳng hề gì, ta thật là ma đây. Lúc sống vốn hay rượu, say quá mà chết đuối, mấy năm làm ma ở đây rồi. Trước kia ông đánh cá được nhiều hơn người khác, đều là do ta xua cá vào để đền đáp cái ơn rót rượu xuống đất cho uống đấy. Ngày mai nghiệp căn đã hết, sẽ có người thay, ta sắp đi đầu thai, chỉ còn gặp nhau đêm nay, nên không khỏi bùi ngùi". Hứa thoạt nghe rất sợ, nhưng gần gũi đã lâu nên không khiếp hãi, lại vì thế mà thương cảm, rót rượu mời nói "Chàng Sáu uống chén này đi, đừng đau đớn nữa? Gặp nhau rồi lại chia tay, kể cũng đáng buồn, nhưng thoát khỏi nghiệp chướng chính là điều nên chúc mừng, buồn bã thì không phải lẽ”, bèn cùng nhau uống thật say. Hứa hỏi người thay là ai, đáp “Ông cứ chờ bên sông mà nhìn, trưa mai sẽ có người đàn bà qua sông chết đuối, là kẻ thay ta đấy!". Nghe gà trong làng đã gáy, hai người gạt lệ chia tay.</p><p></p><p>Hôm sau Hứa chờ bên sông để xem chuyện lạ. Quả thấy có người đàn bà bồng con tới, tới bờ sông thì khuỵu chân ngã xuống nước, đứa bé văng lên bờ, giơ tay quẫy chân khóc ầm lên. Người đàn bà trồi lên hụp xuống vài lần, chợt vùng vẫy bám được vào bờ trèo lên, nằm lăn ra đất thở dốc một lúc rồí trở dậy bồng con đi. Lúc người đàn bà rơi xuống sông, Hứa thấy bất nhẫn muốn nhảy xuống cứu, nhưng lại nghĩ đây là kẻ thay cho chàng Sáu được đi đầu thai, nên đứng lại không tới cứu nữa. Đến khi người đàn bà tự lên được bờ sông, Hứa ngờ rằng lời chàng Sáu nói không đúng. Tối đến ra đánh cá ở chỗ cũ, lại thấy thiếu niên tới, nói "Từ nay trở đi lại được gặp nhau, không nói chuyện chia tay nữa". Hứa hỏi tại sao, đáp “Người đàn bà ấy đúng là sắp phải thay ta, nhưng ta thương đứa bé còn đang tuổi phải bồng ẵm, bắt một người thay mà hại hai mạng sống nên tha cho chị ta. Người thay chẳng biết đến bao giờ mới có nữa, có khi cái duyên giữa hai người bọn ta chưa dứt chăng?”. Hứa cảm động than thở khen rằng "Tấm lòng nhân hậu thương người như thế có thể thấu tới Thượng đế", từ đó lại gặp gỡ nhau như trước.</p><p>Vài hôm sau thiếu niên lại tới từ biệt, Hứa nghĩ rằng chắc lại có kẻ thay. Thiếu niên nói “Không phải thế đâu, một ý niệm hôm trước quả làm cảm động lòng trời, nay đã trao cho ta chức thổ thần đất Ô Trấn huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông), sáng mai là ngày phải đi nhậm chức. Nếu ông không quên bạn cũ, xin tới thăm nhau một lần, đừng ngại xa xôi khó nhọc". Hứa chúc mừng nói “Ông ngay thẳng mà làm thần, quá đủ để an ủi lòng người, nhưng thần người khác nẻo, dẫu ta không ngại xa xôi khó nhọc, nhưng làm sao được gặp nhau?”. Thiếu niên đáp "Cứ tới đừng lo", dặn dò mấy lần rồi đi. Hứa về nhà, lập tức sắp xếp hành trang lên đường, vợ cười nói "Cách đây vài trăm dặm thì quả có một chỗ tên gọi như thế thật, có đều e rằng tượng đất không nói chuyện được với nhau thôi". Hứa không nghe, đi tới Chiêu Viễn, hỏi thăm người ở đó quả có đất Ô Trấn, bèn tìm tới đất ấy, vào nghỉ ở quán trọ, hỏi thăm đền thờ Thổ thần ở đâu. Chủ nhân kinh ngạc hỏi "Khách họ Hứa phải không?”. Hứa đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Lại hỏi “Khách ở huyện Truy phải không?", đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Chủ nhân không đáp, vội vã bước ra ngoài. Giây lát thì đàn ông bế con, đàn bà nép ở cửa chen chúc rần rần kéo tới đứng đông đặc phía ngoài.</p><p>Hứa ngạc nhiên, mọi người bèn nói "Mấy đêm trước thần báo mộng rằng có người bạn họ Hứa ở huyện Truy Xuyên sắp tới thăm, phải lo lắng giúp đỡ, bọn ta đã chờ lâu rồi". Hứa cũng lấy làm lạ lùng, bèn tới đền tế, khấn rằng “Sau khi chia tay ông, đêm ngày không quên nên lặn lội đường xa cho trọn lời hứa, lại được ơn báo mộng cho dân biết để tiếp đón, tình nghĩa xin ghi tạc trong lòng, song thẹn lễ vật đơn sơ, chỉ có chén rượu đục, nếu không ghét bỏ, xin như ngày còn uống rượu với nhau bên sông", khấn xong, đất giấy tiền vàng bạc. Lập tức có một cơn gió nổi lên trước bàn thờ vi vút hồi lâu mới tan. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy thiếu niên tới, áo mão rực rỡ khác hẳn ngày trước, cảm tạ nói “Đường xa vất vả tới thăm nhau, thật ta vừa mừng vừa tủi, nhưng hiện đã giữ chức mọn, không tiện hiện thân gặp mặt, gần trong gang tấc mà như cách trở núi sông, rất là đau lòng. Những cư dân ở đây có chút lễ mọn khoản tặng thay ta, lúc nào ông về, cũng xin sẽ theo tiễn".</p><p></p><p>Ở được vài hôm, Hứa muốn về, mọi người khẩn khoản lưu lại, sáng rước chiều mời, mọi người báo tin cho nhau, tranh nhau mang lễ vật tặng tiễn, chưa đầy bữa sáng vật tặng đã đầy túi, già trẻ đều tụ họp đưa ra tới ngoài thôn. Chợt có một con gió trốt nổi lên cuốn theo tới hơn mười dặm, Hứa vái dài nói !Xin chàng Sáu tự bảo trọng, đừng vất vả tiễn xa như thế. Lòng ông nhân ái vốn có thể tạo phúc cho dân một phương, cố nhân không phải dặn dò gì nữa". Trận gió còn cuốn quanh hồi lâu mới tan, dân làng cũng kinh ngạc than thở quay về. Hứa về tới nhà cũng hơi dư dật, không phải làm nghề đánh cá nữa. Về sau gặp người ở Chiêu Viễn, hỏi thăm thì được biết Thổ thần ở đó nổi tiếng linh thiêng. Cũng có người nói rằng đó là Thổ thần ở trang Thạch Khanh huyện Chương Khâu, chưa rõ thuyết nào là đúng.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Thân trên đường mây xanh mà lòng không quên bạn nghèo hèn, nhờ thế mới được làm thần đấy. Ngày nay những kẻ quý hiển ngồi xe có mấy ai nhìn nhận bạn nghèo đâu! Quê ta có người tên Lâm Hạ, nhà rất nghèo nhưng có người bạn thuở nhỏ nhận chức quan béo bở, cho rằng tìm tới sẽ được giúp đỡ bèn hết sức kiếm tiền ăn đường, bôn ba ngàn dặm, nhưng người bạn đón tiếp khác hẳn với điều y mong muốn, phải vét túi bán ngựa mới về được tới nhà. Đám em họ hay đùa, nhại thiên Nguyệt lệnh trong Lễ ký đặt lời chọc ghẹo rằng "Đến tháng ấy, ca ca về, mũ lông điêu xơ xác, dù lọng không giương, ngựa cưỡi hóa thành lừa, giày bắt đầu há mõm", nghĩ cũng là một chuyện buồn cười.</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164995, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 217 -[/B] Điền Tử Thành (Điền Tử Thành) Điền Tử Thành ở huyện Giang Ninh (tỉnh Giang Tô) qua hồ Động Đình, bị đắm thuyền chết. Con là Tiến sĩ Lương Tự cuối thời Minh, lúc ấy còn ẳm ngữa, vợ là Đỗ thị nghe tin uống thuốc độc tự tử. Lương Tự được bà nội thứ nuôi nấng nên người. Sau đi làm quan ở Hồ Bắc, hơn một năm vâng lệnh quan trên đi công vụ tới Hồ Nam. Lương Tự tới hồ Động Đình thì khóc lớn quay về, tự trình là không đủ tài năng, bị giáng làm Huyện thừa huyện Hán Dương, rất không vui bèn chối từ không nhận chức. Các quan trên bắt ép thôi thúc mãi mới chịu đi, nhưng cứ rong chơi trong chốn sông hồ, không vì đang làm quan mà giữ gìn câu nệ. Một đêm ghé thuyền bên bờ sông, nghe thấy tiếng tiêu dìu dặt rất hay, bèn nhân có trăng lên bộ đi khoảng nửa dặm thì thấy giữa bãi đất trống có vài gian nhà tranh lập lòe ánh đèn. Tới gần nhìn vào cửa sổ thấy ba người đang uống rượu bên trong, ghế trên là một người Tú tài tuổi khoảng ba mươi, ghế dưới là một ông già, ghế bên cạnh chính là người thổi tiêu, trẻ tuổi nhất. Dứt khúc tiêu, ông già vỗ tay khen hay, người Tú tài thì nhìn vào vách trầm tư tựa hồ không hề nghe thấy. Ông già nói "Lô Thập huynh ắt đã có thơ hay, xin ngâm lớn lên cho ta được nghe với", người Tú tài bèn ngâm: [I]Mãn giang phong nguyệt lãnh thê thê, Sấu thảo linh hoa hóa tác nê. Thiên lý vân sơn phi bất đáo, Mông hồn dạ dạ Trúc Kiều tê (tây)[/I] (Trăng gió đầy sông lạnh tịch liêu Hoa rơi cỏ úa cảnh tiêu điều Quê nhà ngàn dặm bay không tới Hồn mộng đêm đêm cạnh Trúc Kiều) Tiếng ngâm rất ai oán, ông già cười nói "Lô Thập huynh cứ làm ra vẻ buồn rầu” rồi lấy chén lớn rót rượu, nói "Lão phu không thể họa thơ, xin hát để đưa cay vậy”. Liền hát bài “Rượu ngon Lan Đình..."[B]*[/B], hát xong mọi người đều vui vẻ. Thiếu niên đứng lên nói "Ta ra xem trăng lặn tới đâu rồi”, rồi sấn sổ bước ra, nhìn thấy khách vỗ tay nói "Ngoài này có người, bọn ta ngông cuồng bị bắt gặp rồi”. Liền kéo khách vào, Lương Tự chào hỏi mọi người xong, ông già bảo ngồi đối diện với thiếu niên. Lương Tự nâng chén rượu nhắp thử thấy lạnh ngắt, từ chối không uống. Thiếu niên biết ý lập tức đứng dậy, vơ cỏ rơm hâm nóng bưng lên, Lương Tự cũng sai người hầu lấy tiền đi mua rượu nhưng họ cố ngăn lại. *Rượu ngon Lan Đình..": nguyên văn là "Lan Đình mỹ tửu” tức "Lan Đình mỹ tửu uất kim hương", câu trong bài Khách trung hành của Lý Bạch thời Đường. Nhân hỏi tên họ quê quán, Lương Tự nói hết về mình, ông già kính cẩn nói “Đó là quê cha mẹ ta, ta họ Giang tên Thiếu Quân, sinh trưởng ở đây", kế chỉ thiếu niên nói “Đây là Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây". Lại chỉ người Tú tài nói "Lô Thập huynh đây là đồng hương với ông”. Lô nhìn Lương Tự có vẻ ngạo nghễ vô lễ, Lương Tự nhân hỏi "Nhà ông ở làng nào, thi tài như thế mà sao ta không được nghe ai nói?”. Tú tài đáp "Xa nhà đã lâu, họ hàng cũng không ai biết, nghĩ thật đáng buồn, không muốn nói ra”. Ông già xua tay rối lên nói "Gặp được khách quý, không có tửu lệnh thì cứ ăn nói lằng nhằng như thế, nghe chán lắm". Rồi nâng chén uống một mình, kế nói "Ta có một cái lệnh xin mọi người cùng làm theo, ai không làm được sẽ bị phạt. Cứ gieo ba hột xúc xắc, lấy chữ "Tương phùng" làm lệnh, lại phải có một khúc hát cổ phù hợp". Rồi gieo được ba mặt nhất nhị tam, bèn đọc "Tam thêm nhị nhất cũng tương đồng. Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công[B]*[/B] mừng bè bạn tương phùng". Kế tới thiếu niên gieo được hai mặt nhị một mặt tứ, nói "Người không đọc sách thì chỉ hát khúc dân dã, xin chớ cười. Tứ thêm hai nhị cũng tương đồng, Bốn người gặp gỡ ở thành đông[B]**[/B], mừng huynh đệ tương phùng”. Lô gieo được hai mặt nhất một mặt nhị, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Lữ Hướng hai tay ôm lão ông[B]***[/B], mừng phụ tử tương phùng". Lương Tự gieo cũng được như Lô, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông ([B]4*[/B]) mừng chủ khách tương phùng”. *Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công: lấy tích Trương Thiệu thời Hán vào nhà Thái học, chơi thân với Phạm Thúc. Khi về, Thúc hẹn ba năm sẽ tới làm lễ ra mắt mẹ Thiệu. Gần đến ngày hẹn, Thiệu thưa với mẹ xin giết gà đồ xôi để đợi, mẹ nói “Xa cách ba năm, hẹn nhau ngàn dặm, sao con tin quá thế!”. Đến ngày hẹn quả nhiên Thúc tới. Đây ông già có ý nói Lương Tự là bạn quý của mình. ** Bốn người gặp gỡ ở thành đông: lấy tích ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thời Hán thua trận lạc nhau mỗi người một nơi, sau Quan Vũ biết anh còn sống bèn từ giã Tào Tháo di tìm anh, cuối cùng ba người gặp nhau ở Cổ Thành, lại được thêm Triệu Vân. Đây thiếu niên có ý nói Lương Tự là anh em với mình. *** Lữ Hướng hai tay ôm lão ông: lấy tích Lữ Hướng thời Tấn có cha đi xa mấy năm không về, sau nghe đồn cha còn sống nhưng Hướng đi tìm kiếm khắp nơi suốt mấy năm không gặp. Sau Hướng thi đỗ làm quan, một hôm từ triều ra gặp một ông già, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội xuống ngựu ôm chân cha khóc ròng rồi đón về nhà. Đây Lô có ý nói Lương Tự là con mình. 4* Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông: lấy tích Mao Dung thời Hán chơi với Quách Thái tự Lâm Tông, Thái tới nhà Dung chơi ngủ lại, sáng ra thấy Tông giết gà làm cơm, nghĩ rằng là để đãi mình, kế Dung bưng thịt gà lên mời mẹ, còn mình dọn rau ăn chung với Thái, Thái phục là hiền. Đây Lương Tự có ý nói tuy mình với ba người kia là bạn, nhưng còn có phận sự của kẻ làm con nên phải ra về. Xong lệnh Lương Tự cáo từ ra về, Lô mới đứng lên nói "Là người quê cũ, chưa kịp trò chuyện gì nhiều, sao từ biệt sớm thế. Ta còn có chuyện muốn hỏi, xin nán lại thêm một lúc". Lương Tự bèn ngồi xuống, hỏi chuyện gì, Lô đáp "Ta có người bạn già chết đuối ở hồ Động Đình, có họ hàng gì với ông không?", Lương Tự đáp “Đó là cha ta, sao ông biết được?". Lô đáp “Lúc trẻ chơi thân với nhau, lúc ông ấy chết chỉ có ta nhìn thấy nên đã thu hài cốt chôn ở bờ sông". Lương Tự rơi lệ quỳ lạy xin chỉ mộ ở đâu, Lô nói “Sáng mai tới đây ta sẽ chỉ cho, cũng dễ nhận thôi, cứ ra cách đây mấy quãng, cứ thấy trên mộ có khóm lau rậm gồm mười cây là đúng". Lươug Tự khóc ròng cáo từ mọi người, về tới thuyền cả đêm không ngủ được. Lại sực nhớ tới lời lẽ thái độ của Lô như đều có duyên do, sốt ruột không chờ được, mờ sáng trở lại chỗ đó thì không thấy nhà cửa gì cả, vô cùng khiếp sợ. Kế ra chỗ Lô nói tìm quả nhiên thấy một ngôi mộ trên có khóm lau rậm, đếm thì đúng có mười cây, sực hiểu rằng cái tên Lô Thập huynh là có ngụ ý, người mình gặp chính là hồn cha. Hỏi kỹ dân ở đó thì hai mươi năm trước vùng này có ông họ Cao giàu có hay làm điều lành, ai chết đuối đều tìm vớt thây chôn cất cho, nên có mấy ngôi mộ ở đây. Bèn quật mộ thu lượm hài cốt trở lại thuyền, về nói với bà nội, hỏi lại nét mặt tướng mạo thì đều đúng. Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây chính là anh con cô con cậu với Lương Tự, năm mười chín tuổi chết đuối trên sông, sau đó người cha tới lưu ngụ ở Giang Tây. Lại chợt nghĩ ra rằng sau khi Đỗ phu nhân chết thì chôn ở phía tây Trúc Kiều, nên trong bài thơ của cha mới có câu cuối như vậy, chỉ không rõ ông già kia là ai mà thôi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 218 -[/B] Vương Quế Am (Vương Quế Am) Vương Cao tự Quế Am là con nhà thế gia ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), đi chơi xuống miền nam, ghé thuyền vào bờ sông. Trong thuyền bên cạnh có cô gái ngồi thêu giày, xinh đẹp tuyệt trần. Vương nhìn chằm chằm hồi lâu mà nàng như vẫn không hay biết. Vương ngâm nga "Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa"[B]*[/B] cố ý để nàng nghe, cô gái như hiểu là vì mình, khẽ ngẩng đầu liếc qua rồi cúi xuống thêu như cũ. Vương tâm thần càng điên đảo, lấy một thoi vàng từ xa thảy tới trúng vạt áo cô gái, nàng cầm lên ném đi như không biết đó là vàng. Thoi vàng rơi lên bờ, Vương nhặt về rồi lại thảy một cái vòng vàng rơi xuống dưới chân cô gái, nàng vẫn tiếp tục thêu không nhìn tới. Không bao lâu người nhà thuyền trở về, Vương sợ ông ta nhìn thấy cái vòng cân vặn con gái, vô cùng nóng ruột, nhưng cô gái ung dung nhấc đôi hài giẫm lên che đi. Người nhà thuyền cởi dây thuận dòng chèo đi, Vương tâm tình chán nản ngồi ngẩn ra nghĩ vẩn vơ. Lúc ấy Vương vừa cưới vợ thì vợ chết nên hối hận vì không lập tức nghĩ tới việc nhờ người mai mối. Bèn hỏi thăm các thuyền chung quanh nhưng họ đều không biết họ tên cô gái, liền cho quay thuyền đuổi gấp theo, nhìn ngó mỏi mắt mà thuyền kia mất hút không biết đi về đâu. Vương bất đắc dĩ phải cho quay thuyền xuôi nam, việc xong trở ra bắc, dọc đường hỏi thăm hai bên bờ rất kỹ nhưng không hề có tin tức gì, về tới nhà rồi lúc ăn lúc ngủ đều tơ tưởng tới nàng. *Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa: nguyên văn là “Lạc Dương nữ nhi đối môn cư” câu trong bài Lạc Dương nữ nhi hành của Vương Duy thời Đường. Qua năm sau Vương lại đi xuống phía nam, mua một chiếc thuyền ở hẳn trên đó, ngày ngày nhìn ngó những thuyền bè qua lại, thuộc cả cánh buồm bánh lái nhưng chiếc thuyền năm xưa vẫn bặt tăm. Được nửa năm hết tiền đành quay về, ra tưởng vào nhớ không buồn làm việc gì cả. Một đêm nằm mơ thấy tới một làng ven sông, đi qua mấy ngõ thấy một căn nhà cánh cổng bằng tre quay về hướng nam, phía trong có giậu trúc thưa, cho là vườn hóng mát liền lần vào. Thấy có một gốc dạ hợp đầy dây tơ hồng phủ kín, nghĩ thầm thật đúng với câu thơ "Mã anh trước cổng gốc đầy hoa”[B]*[/B]. Đi thêm vài chặng, thấy giậu tường vi tươi tốt lại lần vào, thấy phía bắc có căn nhà ba gian, hai cánh cửa khép kín, phía nam có gian nhà nhỏ, lá chuối che khuất cửa sổ, thò đầu vào nhìn thấy ngay cửa có cái giá áo trên treo chiếc quần hoa, biết là phòng đàn bà con gái vội vàng lui ra. Nhưng bên trong đã biết, có một người chạy ra nhìn khách, môi son má phấn, chính là cô gái trong thuyền năm xưa. *Mã anh trước cổng gốc đầy hoa: nguyên văn là “Môn tiền nhất thụ mã anh hoa", câu trong bài Bàn Đường giang thượng thị nùng gia của Thủy Tiên Thần thời Thanh. Vương quá mừng rỡ bật kêu lên "Cũng còn có lúc gặp nhau sao?”, đang định bước tới ôm lấy thì cha nàng vừa về tới, giật mình tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Nhưng vẫn nhớ rõ ràng cảnh vật đã thấy, giữ kín sợ nói ra cho người khác biết thì hỏng mất giấc mộng đẹp. Hơn năm sau Vương lại tới Trấn Giang, phía nam quận có quan Thái bộc họ Từ vốn là thế giao mời Vương tới uống rượu. Vương phóng ngựa đi, lạc vào một thôn nhỏ, thấy đường sá cảnh vật quen quen như từng tới rồi, trong một cánh cổng cũng có một gốc mã anh sờ sờ, phát hoảng vứt roi xuống ngựa lần vào thì cảnh sắc chung quanh không khác gì trong giấc mơ năm trước. Lại đi vào nữa thì nhà cửa phòng ốc cũng giống hệt, biết giấc mơ đã nghiệm bèn không nghĩ ngợi gì nữa, đi thẳng vào gian nhà phía nam. Cô gái trong thuyền năm xưa quả đang ở đó, vừa nhìn thấy Vương từ xa đã giật mình đứng lên núp sau cánh cửa quát hỏi là đàn ông ở đâu? Vương rụt rè bước tới, vẫn còn ngờ là đang nằm mơ, cô gái nghe tiếng bước chân tới gần liền đóng sầm cửa lại. Vương nói “Nàng không nhớ người ném cái vòng sao?”, rồi kể lể nỗi khổ nhớ nhung, thuật lại cả giấc mơ. Cô gái bên trong cánh cửa hỏi vọng ra về gia thế, Vương nói rõ hết. Cô gái nói "Đã là dòng dõi nhà quan thì thiếu gì giai nhân, cần gì tới thiếp?” Vương đáp "Nếu không vì nàng thì ta đã cưới vợ lâu rồi". Cô gái nói “Nếu đúng như thế thì đủ biết lòng chàng rồi. Nông nỗi này thiếp không thể thưa với cha mẹ, nhưng thật ra cũng đã cãi lời mà chối từ mấy người tới dạm hỏi rồi. Cái vòng vàng vẫn còn đây, vẫn nghĩ nếu là người chung tình ắt sẽ tìm hỏi cho ra tin tức. Hiện nay cha mẹ qua thăm bên ngoại cũng sắp về, chàng cứ về nhờ mai mối tới hỏi, chắc chắn là được. Còn nếu muốn nên đôi lứa trái lễ thì tính sai rồi đấy". Vương thảng thốt quay ra, cô gái gọi với theo nói "Vương lang, thiếp tên Vân Nương, họ Mạnh, cha thiếp tự là Giang Ly". Vương ghi nhớ rồi đi. Xong tiệc ở nhà Thái bộc, Vương vội quay về xin gặp ông Giang Ly, ông đón vào mời ngồi bên giậu trúc. Vương kể gia thế, kế ngỏ ý rồi đưa ngay ra trăm lượng vàng nộp sính lễ. Ông nói "Con ta đã hứa gả rồi”. Vương nói "Ta đã hỏi đích xác là chưa nhận lời ai, sao ông cự tuyệt thẳng thừng như vậy?”. Ông đáp "Vừa nhận lời xong, thật không dám nói dối”. Vương bàng hoàng thẫn thờ chào về, không biết có đúng thế không, đêm ấy cứ trằn trọc, tiếc là không có ai làm mai mối cho. Trước đã định nhờ Thái bộc, nhưng sợ cưới con nhà thuyền bị ông cười, nay việc đã gấp không biết nhờ ai, sáng ra đành tới gặp Thái bộc thưa thật lại chuyện. Thái bộc nói “Ông ấy có họ hàng với ta, là cháu đích tôn của bà ngoại ta, sao không nói sớm?". Lúc ấy Vương mới kể rõ ẩn tình, Thái bộc ngờ vực nói "Giang Ly tuy nghèo nhưng không làm nghề chèo thuyền để sống, có lầm không đấy?”. Bèn sai con trai là Đại lang tới nhà ông Mạnh, ông Mạnh nói “Ta tuy nghèo nhưng không phải là kẻ bán con gái. Mới rồi công tử đem vàng tới tự làm mối, có lẽ cho rằng ta thấy lợi sẽ động lòng, nên ta không dám hứa gả. Nay đã có lệnh của tiên sinh, ắt không có chuyện sai quấy ngang trái, nhưng con bé bướng bỉnh nhà ta cậy được nuông chiều, từ chối nhiều nhà giàu sang rồi, phải bàn lại với nó để về sau nó khỏi oán là phải lấy chồng xa". Rồi đứng dậy vào nhà trong, giây lát trở ra chắp tay xin nhận lời, hẹn ngày cưới rồi chia tay. Đại lang về báo lại, Vương bèn sửa soạn đồ lễ rất hậu đưa tới nhà Mạnh nộp sính lễ, mượn nhà Thái bộc đón dâu làm lễ cưới. Được ba ngày Vương từ biệt nhạc gia về bắc, đêm ngủ trong thuyền hỏi Vân Nương rằng “Trước đây gặp nàng ở chỗ ấy, ta đã ngờ không phải là con nhà thuyền, hôm ấy nàng ngồi thuyền đi đâu?". Vân Nương đáp "Nhà chú thiếp ở bờ bắc sông, hôm ấy thiếp chỉ tình cờ mượn thuyền đi ngắm cảnh thôi. Nhà thiếp chỉ tạm đủ ăn nhưng không coi trọng loại tiền bạc đột nhiên mà có, thật đáng cười chàng hai mắt chỉ nhỏ bằng hạt đậu, mấy lần đem vàng ra mong làm người ta xiêu lòng. Khi vừa nghe tiếng ngâm thơ đã biết chàng là bậc văn sĩ phong nhã nhưng cũng còn ngờ là kẻ phóng đãng đi tìm loại đàn bà hư hỏng. Nếu để cho cha thấy cái vòng ấy thì chàng cứ gọi là chết không có đất chôn, lòng thiếp mến tài như thế tha thiết đấy chứ”. Vương cười nói “Nàng sâu sắc lắm, nhưng cũng mắc kế của ta rồi". Vân Nương hỏi là chuyện gì, Vương không đáp, nàng hỏi gặng mãi mới nói "Sắp tới nhà rồi, chuyện này không thể giấu được mãi nên nói thật với nàng ta đã có vợ ở nhà, là con gái Thượng thư họ Ngô”. Vân Nương không tin, Vương làm ra vẻ nghiêm trang như thật, nàng biến sắc im lặng hồi lâu rồi chợt vùng dậy lao ra ngoài. Vương lật đật đuổi theo ra thì nàng đã gieo mình xuống sông rồi. Vương la lớn, thuyền bè quanh đó náo động nhưng đêm tối mịt mùng, trên mặt sông chỉ còn toàn là bóng sao lung linh. Vương đau xót khóc lóc suốt đêm, thả thuyền theo ven sông trả tiền thật hậu thuê người tìm kiếm thi hài nhưng không thấy đâu, rầu rĩ về nhà, vừa đau thương vừa buồn tủi. Lại lo cha vợ tới thăm con gái thì không biết ăn nói ra sao, nhân có người anh rể làm quan ở Hà Nam bèn sai đánh xe tới chơi, hơn một năm mới về. Giữa đường gặp mưa, trú lại trong một nhà dân, thấy phòng xá sạch sẽ, có bà già đang chơi với một đứa nhỏ trong phòng. Đứa nhỏ thấy Vương vào lập tức giơ tay đòi bế, Vương lấy làm lạ nhưng thấy kháu khỉnh dễ thương bèn đặt nó lên đầu gối, bà già gọi mà nó không chịu rời ra. Lát sau tạnh mưa, Vương nhấc đứa nhỏ lên đưa cho bà già, bước ra chuẩn bị lên đường, đứa nhỏ khóc kêu "Cha đi mất rồi!". Bà già ngượng ngùng, quát mắng mà nó không chịu nín đành bế xốc đi chỗ khác. Vương đang ngồi chờ sửa soạn xe kiệu, chợt có một cô gái đẹp từ sau bình phong bế đứa nhỏ bước ra, chính là Vân Nương. Vương đang sửng sốt thì Vân Nương mắng “Gã bạc tình kia! Để lại một cục thịt này làm gì?". Lúc ấy Vương mới biết đó là con mình, trong lòng chua xót áy náy, chưa hỏi việc nàng vừa qua lưu lạc thế nào, cứ phân trần rằng trước đây chỉ là nói đùa, thề độc để bày tỏ, Vân Nương mới đổi tức giận thành buồn thương, nhìn nhau rơi nước mắt. Trước là ông Mạc chủ nhà này sáu mươi tuổi mà không có con trai, đưa vợ tới chùa Quan âm cầu tự trở về, trên đường ghé vào bờ sông, vừa gặp lúc Vân Nương bị sóng cuốn chạm vào thuyền. Ông Mạc sai người vớt lên cứu chữa suốt đêm mới tỉnh lại. Hai ông bà thấy nàng xinh đẹp mừng lắm, coi như con ruột, đưa luôn về nhà. Được vài tháng định gả chồng cho nhưng nàng không chịu, qua mười tháng nàng sinh được một con trai đặt tên là Ký Sinh, lúc Vương vào nhà ấy trú mưa thì Ký Sinh mới được đầy năm. Vương lập tức cởi hành lý vào lạy ông bà Mạc, nhận nhau làm cha mẹ vợ và con rể. Ở lại vài ngày Vương mới đưa cả gia đình về, tới nhà thì ông Mạnh tới đợi đã hai tháng. Khi ông mới tới, thấy bọn tôi tớ trong nhà ấp úng sợ sệt rất lạ lùng ngờ vực, gặp con rồi mới vui vẻ khoan khoái, đến khi nghe kể lại mọi việc mới biết sở dĩ họ có vẻ khác lạ là vì như thế. [B]Phụ : Ký Sinh[/B] [B](Ký Sinh - Phụ)[/B] Ký sinh tự Vương Tôn là danh sĩ trong quận. Cha mẹ thấy lúc còn nằm tã mà biết nhận ra cha, cho rằng có trí tuệ trời cho nên rất yêu thương. Lớn lên càng tuấn tú, tám chín tuổi đã biết làm văn, mười bơn tuổi được vào học trường huyện, thường có ý tự mình chọn vợ. Cha là Quế Am có em gái tên Nhị Nương, gả cho Tú tài Trịnh Tử Kiều sinh được một gái là Khuê Tú, thông minh xinh đẹp không ai sánh kịp. Vương Tôn trông thấy thầm yêu, ngày càng thiết tha nhung nhớ, lâu ngày bỏ cả ăn uống, cha mẹ lo lắng gạn hỏi mãi mới chịu nói thật. Cha nhờ người mai mối qua gặp Trịnh, nhưng Trịnh tính mực thước khuôn phép, ngại là con cô con cậu ruột nên từ chối[B]*[/B]. Nhưng Vương Tôn bệnh càng nặng thêm, mẹ không biết làm sao bèn ngầm ngỏ ý với Nhị Nương, chỉ xin cho Khuê Tú tới thăm một lần để con đỡ bệnh, Tnnh nghe thế càng tức giận, nói ra những lời không hay, cha mẹ đã tuyệt vọng nên chỉ đành chịu trận mà thôi. *Ngại là... từ chối: tục Trung Hoa ngày xưa con cô con cậu có thể được cưới nhau vì khác họ, nhưng thường là đã qua một đời (con cô con cậu họ). Trong quận có họ Trương là nhà vọng tộc, có năm con gái đều xinh đẹp, nàng nhỏ nhất tiểu đanh là Ngũ Khả đẹp nhất còn chưa gả chồng. Một hôm nàng đi tảo mộ giữa đường gặp Vương Tôn, ngồi trong kiệu nhìn ra, về kể cho mẹ. Mẹ dò biết ý tìm gặp bà mối họ Vu úp mở nói chuyện, bà mối bèn tới nhà Vương. Lúc ấy Vương Tôn đang bệnh, bà ta hỏi han biết chuyện bèn cười nói "Bệnh ấy thì già này chữa được". Vân Nương hỏi sao nói thế, bà ta kể ý họ Trương, lại tán tụng Ngũ Khả xinh đẹp. Vân Nương mừng rỡ, bảo bà ta qua thăm Vương Tôn. Bà ta vào vỗ về Vương Tôn kể lại, Vương Tôn lắc đầu nói “Thầy thuốc ấy không hợp với chứng bệnh này, làm sao được". Bà ta cười nói "Chỉ cần hỏi thầy thuốc giỏi hay không thôi, nếu là thầy giỏi thì dùng phương hòa hoãn cũng được, chứ cứ nhất định mời cho được thầy nào đó rồi thà chết để đợi thì há không phải là ngây sao?”. Vương Tôn thở dài nói “Nhưng thầy thuốc trên đời không ai kê được phương hòa hoãn cho ta đâu”. Bà ta nói "Sao mà kiến văn hẹp hòi thế”, rồi thì mắt mũi tóc da, thần thái dáng điệu của Ngữ Khả đều khoa tay múa chân tả lại. Vương Tôn lại lắc đầu nói "Thôi bà đừng nói nữa, người ấy thì ta không mong ước tới", rồi quay mặt vào vách không nghe nữa, bà ta thấy không lay chuyển được bèn bỏ về. Một hôm Vương Tôn đang nằm thiêm thiếp chợt một tỳ nữ bước vào nói "Người công tử mơ ước tới đây này?", mừng quá nhảy chồm dậy, vội vàng bước ra khỏi phòng thì giai nhân đã vào tới trong sân nhưng nhìn kỹ lại thì không phải Khuê Tú. Thấy nàng mặc áo khoác màu vàng, quần thêu gấp nếp nhỏ, hé lộ hai mũi giày cong vút chẳng khác gì thần tiên. Vái chào hỏi tên họ, nàng đáp "Thiếp là Ngũ Khả. Chàng có tình sâu nặng mà chỉ hướng về một mình Khuê Tú khiến người khác bất bình". Vương Tôn tạ lỗi, nói “Bình sinh chưa thấy dung nhan nên trong mắt chỉ có một mình Khuê Tú, nay đã biết lỗi rồi”, rồi định cùng nhau thề thốt, vừa nắm tay đắm đuối thì mẹ vào vỗ về, sực tỉnh, thì ra là nằm mơ. Nhớ lại nét mặt tiếng cười vẫn như rành rành trước mắt, thầm nghĩ nếu quả Ngũ Khả đúng như trong giấc mộng thì cần gì phải mong ước người khó gặp gỡ kia nữa. Nhân đó kể lại giấc mơ cho mẹ nghe, mẹ mừng thấy con đã hơi bỏ ý cũ vội định nhờ người làm mối. Vương Tôn sợ là nằm mơ thấy đẹp khác hơn người thật, bèn nhờ bà già láng giềng vốn quen họ Trương tìm cớ tới nhà, dặn ngầm nhìn mặt Ngũ Khả. Bà già tới thì Ngũ Khả đang ốm, tựa gối chống cằm, dáng vẻ yêu kiều không ai sánh kịp. Bà già tới gần hỏi thăm đau ốm thế nào, nàng chỉ im lặng mân mê thắt lưng không nói một tiếng, người mẹ đáp thay "Có bệnh gì đâu, suốt sáng giận hờn cha mẹ đấy". Bà già hỏi duyên cớ, người mẹ đáp "Ai tới dạm hỏi cũng không ưng, cứ đòi phải được như Ký Sinh nhà họ Vương mới chịu lấy, mẹ thấy nóng ruột khuyên nhủ thì hờn dỗi bỏ cơm mấy hôm nay". Bà già cười nói "Cô nương đây mà lấy Vương lang thì đúng là người ngọc thành đôi, mà nếu Vương lang không gặp được Ngũ nương e cũng sẽ khô héo mà chết. Ta về rồi sẽ nhờ người mai mối tới ngay, có được không?". Ngũ Khả ngắt lời nói "Bà đừng làm thế, sợ không thành thì ta càng bị chê cười thêm". Bà già hăng hái tự nhận quyết sẽ làm cho việc phải thành, Ngũ Khả mới mỉm cười. Bà già về tả lại, nhất nhất đều như bà mối đã nói. Vương Tôn hỏi kỹ về y phục thì đều ăn khớp với giấc mơ, cả mừng, tâm tình thư thái dần nhưng rốt lại vẫn chưa dám tin chắc vào lời người khác nói. Vài hôm sau đỡ bệnh, ngầm gọi bà mối họ Vu tới bảo tìm cách cho mình được nhìn thấy Ngũ Khả một lần, bà ta thấy khó nhưng cũng vâng dạ rồi về. Lâu không thấy tới, đang định đi tìm thì bà ta chợt hớn hở tới nói “Có cơ hội rồi đây. Vài hôm nay Ngũ Khả khó ở, ngày nào cũng sai đám tớ gái dìu ra sân đi dạo, công tử cứ tới núp chờ. Ngũ nương đi rất chậm, có thể nhìn kỹ được". Vương Tôn mừng rỡ theo lời, sáng hôm sau sai thắng ngựa đi sớm, tới nơi thì bà mối đã đứng chờ sẵn, bảo buộc ngựa vào gốc cây trong thôn rồi dẫn vào một nhà gần đường, thu xếp chỗ cho ngồi rình xong, đóng cửa bỏ đi. Giây lát quả nhiên Ngũ Khả dựa tỳ nữ bước ra, Vương Tôn từ trong khe cửa nhìn chằm chằm, cô gái đi ngang qua cửa, bà mối lại cố ý chỉ cho xem cảnh vật này nọ để giữ chân nàng. Vương Tôn nhìn lén thấy rõ cả, mường tượng như lại đang nằm mơ, mừng quá run lên không kìm được. Lát sau bà mối tới hỏi “Thấy Khuê Tú được chứ?”, Vương Tôn cảm tạ rồi về. Lúc ấy mới thưa với cha mẹ, nhờ mai mối qua dạm hỏi, nhưng qua tới thì Ngũ Khả đã hứa gả cho người khác rồi. Vương Tôn thất ý, rầu rĩ muốn chết, lập tức trở bệnh lại. Cha mẹ lo quá, trách con nông nổi. Vương Tôn không đáp, mỗi ngày chỉ hớp một ngụm cháo, được vài tháng chỉ còn da bọc xương, so với trước kia càng nặng hơn. Bà mối chợt tới, kinh ngạc hỏi "Sao yếu đến thế?”. Vương Tôn sa lệ kể lại sự tình. Bà mai cười nói “Công tử đúng là ngây, hôm trước người ta theo thì nhất định chối từ, hôm nay muốn mong cầu người ta là được toại nguyện ngay sao? Nhưng cũng còn có thể cố sức làm được, chỉ cần bàn tính với già này sớm, thì cho dù đã hứa gả cho hoàng tử con vua ta cũng giành lại được mà!". Vương Tôn cả mừng hỏi cách, bà ta bảo viết thư sai người đưa đi, hẹn hôm sau sẽ tới chờ ở nhà họ Trương. Quế Am sợ đường đột sẽ bị cự tuyệt, bà ta nói "Hôm trước ông Trương đã nói ưng thuận rồi, vì dằng dai mấy hôm nên ông ta đổi ý, nhưng tuy hứa gả cho nhà khác vẫn chưa có thư làm bằng. Lời ngạn có câu Nấu trước được ăn sớm, còn ngần ngại gì nữa", Quế Am bèn nghe theo. Hôm sau sai hai người gia nhân đưa thư qua không thấy nói gì khác, được thưởng hậu trở về. Vương Tôn mừng, lập tức khỏi bệnh, từ đó hết nhớ nhung Khuê Tú. Trước kia Trịnh Tử Kiều từ chối sính lễ, Khuê Tú đã bực tức, đến khi nghe việc cưới gả với họ Trương đã thành, lòng càng uất ức, thẫn thờ như bị bệnh, càng ngày càng võ vàng, cha mẹ hỏi thì không dám nói. Đứa tỳ nữ biết ý lén nói với bà mẹ, Trịnh biết chuyện tức giận, không mời thầy thuốc, định bỏ cho chết. Nhị Nương bực tức nói “Cháu trai ta cũng không có gì xấu, sao cứ khư khư giữ thói hủ nho mà giết chết con gái cưng của mình?". Trịnh giận dữ nói "Con gái của bà chết sớm càng tốt, khỏi bị chê cười", từ đó vợ chồng bất hòa. Nhị Nương cố nói với con gái rằng thế nào cũng gả nàng cho Vương Tôn, coi như vợ lẽ cũng được. Cô gái cúi đầu không đáp, như rất bằng lòng. Nhị Nương bàn với Trịnh, Trịnh nghe càng nổi nóng, mặc kệ cho Nhị Nương lo coi con gái như chết rồi, không cần biết tới nữa. Nhị Nương rất thương con, nhất định làm như đã nói, cô gái vui mừng mới dần dần khỏi bệnh. Bèn ngầm hỏi dò ngày Vương Tôn đón dâu, tới hôm ấy lấy cớ sắp đám cưới cháu trai, giả về thăm nhà. Trời chưa sáng đã sai người qua nhà anh mượn xe kiệu, Quế Am rất yêu quý em gái, lại vì hai nhà cũng gần nên sai lấy xe ngựa chuẩn bị để rước dâu đi đón Nhị Nương trước. Xe kiệu tới nơi, Nhị Nương trang điểm cho con gái rồi bảo lên xe, sai hai người tớ trai và hai bà già đưa đi, tới nơi thì trải thảm lông từ cổng mà vào. Lúc ấy đàn sáo đã tề tựu đông đủ, người tớ trai cao giọng sai cử nhạc, mọi người huyên náo cả lên một lượt. Vương Tôn nhào ra xem thì cô gái đã lấy khăn hồng che kín mặt, khiếp sợ toan bỏ chạy thì hai người tớ trai nhà họ Trịnh xốc nách đỡ ra bảo làm lễ giao bái. Vương Tôn chẳng hiểu vì sao nhưng cũng lập tức vái lạy, kế hai bà già dìu cô gái đi thẳng vào phòng tân hôn, lúc ấy mới biết đó là Khuê Tú. Cả nhà phát hoảng không biết làm sao, trời đã xế chiều, Vương Tôn không dám làm lễ rước dâu nữa. Quế Am sai đầy tớ qua kể sự tình với Trương, Trương nổi giận muốn tuyệt hôn luôn, Ngũ Khả không chịu, nói "Người kia tuy tới trước nhưng chưa có mai mối sính lễ, chi bằng cứ nhắn bên kia qua rước dâu” Cha cho là đúng, nói với người đầy tớ, người ấy về thưa lại nhưng Quế Am vẫn không dám theo lời, nhăn nhó nhìn nhau không biết nên mừng hay nên giận. Trương chờ đợi hồi lâu biết họ Vương không rước dâu, bèn cũng đem xe kiệu đưa Ngũ Khả tới. Vì vậy phải bày một phòng tân hôn khác, mà Vương Tôn ở giữa muốn chu toàn cứ qua lại cả hai nơi không biết ngủ đâu. Mẹ bèn đứng giữa điều đình, sai lấy tuổi lớn nhỏ mà sắp vai vế, hai nàng đều vâng lời. Đến khi Ngũ Khả nghe Khuê Tú hơi lớn hơn, phải gọi bằng chị thì tỏ vẻ khó chịu, mẹ rất lo lắng. Ba hôm sau cùng tới phòng mẹ, thấy Khuê Tú dung mạo đẹp đẽ, thái độ đường hoàng lấy làm kính trọng, từ đó vai vế mới định. Tuy nhiên cha mẹ vẫn lo lâu ngày sẽ không hòa thuận được với nhau, nhưng hai nàng không hề có điều tiếng gì, áo quần giày dép cũng dùng chung, yêu mến nhau như chị em ruột vậy. Vương Tôn bấy giờ mới hỏi Ngũ Khả vì sao từ khước mai mối, nàng cười đáp "Chẳng vì sao cả, chỉ là để trả thù chàng cự tuyệt bà Vu thôi. Lúc chưa gặp thiếp, thì trong lòng chỉ biết có Khuê Tú, lúc thấy rồi thiếp cũng làm khó một chút xem ý chàng đối với thiếp và Khuê Tú hơn kém nhau thế nào. Nếu chàng bệnh vì người ta mà chẳng bệnh vì thiếp thì cũng không nên ép uổng phải sum họp”. Vương Tôn cười nói "Trả thù như thế cũng thảm độc đấy. Nhưng nếu không có bà Vu thì làm sao ta được thấy mặt hoa một lần". Ngũ Khả nói "Đó là tự thiếp muốn cho chàng thấy, chứ bà ta làm sao tính được. Lúc đi ngang căn nhà ấy thiếp há lại không biết người đang ở trong nhìn ra chằm chằm là ai sao? Từng hẹn nhau trong mộng rồi, thì còn gì mà chưa tin nữa chứ?". Vương Tôn kinh ngạc hỏi sao biết, nàng đáp "Lúc bệnh nằm mơ thấy tới nhà chàng, vẫn nghĩ là mộng mị quàng xiên, sau nghe nói chàng cũng nằm mơ, thiếp mới biết hồn phách có thể làm được như vậy, Vương Tôn lấy làm lạ, nàng bèn kể lại giấc mơ, ngày giờ đều đúng cả. Mối lương duyên của hai cha con đều nhờ chiêm bao mà thành, cũng là chuyện tình kỳ lạ nên chép lại cả hai. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Cha ngây vì tình, còn con thì mấy lần suýt chết vì tình, chữ “Nặng tình" có lẽ là chỉ Vương Tôn chăng? Không có người cha khéo nằm mơ như thế thì làm sao sinh được đứa con xuất hồn trong giấc mơ.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 219 - 220 -[/B] Chử Toại Lương (Chử Toại Lương) Huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) có người dân là Triệu Mỗ, thuê nhà của người hào phú, mắc bệnh có khối u không tiêu mà cô đơn, nghèo khổ không đủ ăn, dần dần bệnh càng nặng. Một hôm cố sức lết ra ngoài cho mát, nằm ngủ dưới thềm, khi tỉnh dậy thấy một mỹ nhân tuyệt thế ngồi bên cạnh bèn hỏi. Cô gái đáp "Ta đến đây để làm vợ ngươi". Mỗ hoảng sợ nói “Chưa nói tới chuyện kẻ nghèo không dám mong bậy, chỉ nói tới chuyện đang mắc bệnh sắp chết thì cưới vợ làm gì?". Cô gái tự nói là có thể chữa được, Mỗ nói "Bệnh của ta không phải một ngày một buổi mà chữa được, mà cho dù có phương thuốc hay cũng không có tiền mà mua". Cô gái nói "Ta chữa bệnh không cần dùng thuốc”, rồi xoa mạnh lên bụng Triệu, Triệu thấy nóng như lửa, hồi lâu khối u trong bụng có tiếng ùng ục, giây lát thấy muốn đi đại tiện, vội vùng dậy chạy ra ngoài tuột quần ngồi xuống ỉa tung tóe, khối u cũng theo ra hết, thấy trong người dễ chịu bèn quay lại nói với cô gái “Nương tử là người thần ở đâu xin cho biết tên họ để ta thờ cúng”. Cô gái đáp "Ta là hồ tiên, chàng là Chử Toại Lương thời Đường[B]*[/B] vốn có ơn với nhà thiếp, thường ghi nhớ muốn báo đáp, từ bấy đến nay tìm khắp nơi, hôm nay mới gặp được, thật là thỏa nguyện". *Chử Toại Lương thời Đường: tức Chử Toại Lương, tự Thiện Đăng, người Tiền Đường, làm quan dưới các triều Thái tông, Cao tông dần tới chức Lại bộ Thượng thư Đồng Tam phẩm, vì can Cao tông lập Vũ hậu không được nên từ chức, bị giáng làm Đô đốc Đàm Châu, kế làm Thứ sử ái Châu rồi chết. Mỗ thẹn mình xấu xí nhơ bẩn, lại lo nhà tranh bếp đất làm bẩn xiêm y nhưng cô gái cứ xin vào. Triệu bèn đưa vào nhà, thì giường đất không có chiếu, bếp lạnh không có lửa, nói “Chưa nói tới tình cảnh thế này không dám làm nhục nhau, cho dù là nàng cam lòng theo thì xin nhìn trên giường không chiếu, dưới bếp không lửa, ta lấy gì mà nuôi vợ con?". Cô gái chỉ nói đừng lo, nói xong quay nhìn thì thấy trên giường đã đủ cả chăn nệm. Đang còn kinh ngạc hỏi han, thì chớp mắt lại thấy cả phòng sáng quắc rực rỡ, mọi đồ vật đều đổi khác, bàn ghế sạch sẽ, rượu thịt đã bày đầy ra, bèn cùng nhau uống rượu rồi kết làm vợ chồng. Chủ nhân nghe chuyện lạ xin được gặp một lần, cô gái lập tức ra gặp, không có vẻ gì là khó chịu. Vì vậy khắp nơi đồn đại, người tới thăm làm quen đông nghẹt ở cửa, cô gái đều tiếp đón không chối từ một ai, có ai mở tiệc mời nàng cũng theo chồng tới. Một hôm có viên Cử nhân trong tiệc nảy ý tà dâm, cô gái biết ngay, buông lời mỉa mai, lấy tay xô vào đầu y, y chúi ra ngoài, đầu lọt qua chấn song mà người còn vướng bên trong, giãy giụa lăn lộn không sao thoát ra được, mọi người cùng van xin nàng mới tới kéo ra cho. Hơn một năm khách khứa càng đông đúc phiền nhiễu, cô gái phát chán, những kẻ bị nàng chối từ không gặp đều đổ tội cho Triệu. Đến ngày Đoan ngọ mọi người đang cùng nhau uống rượu, chợt có một con thỏ nhảy vào, cô gái đứng lên nói "Ông Thung Dược[B]*[/B] tới mời", rồi nói với con thỏ "Xin mời cứ đi trước". Con thỏ phóng nhanh ra xa mất hút, nàng bảo Triệu lấy thang, Triệu ra sau nhà lấy chiếc thang dài lên, thấy cao mấy trượng, trước sân có cây đại thụ bèn gác vào, đầu thang còn cao hơn ngọn cây. Cô gái leo lên trước, Triệu cũng theo sau, nàng quay đầu nói "Các vị bạn bè khách khứa ai muốn theo xin lập tức bước lên”. Mọi người nhìn nhau không ai dám trèo lên, chỉ có một đứa tiểu đồng của chủ nhân hăm hở leo theo, càng lên chiếc thang càng cao, dần dần vào hẳn trong mây không thấy đâu nữa. Mọi người cùng nhìn lại thì chiếc thang là cánh cửa lâu năm mục nát bỏ đi làm tấm ván. Bèn kéo nhau vào xem thì thấy nhà tranh vách đất như cũ, ngoài ra không có vật gì khác, cũng muốn chờ đứa tiểu đồng quay về hỏi han, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm. *Ông Thung Dược: Thần dị ký chép trong mặt trăng có con thỏ ngọc cầm chày giã thuốc, nên "thung dược" (giã thuốc trong cối) đây chỉ con thỏ. [B]220. Công Tôn Hạ[/B] [B](Công Tôn Hạ)[/B] Huyện Bảo Định (tỉnh Hà Bắc) có viên Giám sinh Mỗ định vào kinh nộp tiền mua chức Tri huyện. Đang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được. Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa "Có khách tới", Mỗ cũng quên cả bệnh, rảo bước ra đón. Khách ăn mặc sang trọng như người quyền quý, Mỗ vái chào mấy lần rồi mời vào, hỏi từ đâu tới. Khách đáp "Ta là Công Tôn Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe nói ông sắp vào kinh mua chức Huyện doãn, đã có ý ấy thì mua hẳn chức Thái thú có hơn không?". Mỗ từ tạ, chỉ nói ít tiền không dám ước vọng quá cao. Khách xin ra sức giúp đỡ, nói chỉ cần đưa trước nửa tiền, xong việc sẽ tới nhiệm sở lấy nốt. Mỗ mừng rỡ hỏi cách thức, khách nói "Các quan Tổng đốc, Tuần phủ đều là bạn thân của ta, chỉ cần đưa tạm năm ngàn quan là mọi việc sẽ xong. Hiện phủ Chân Định đang khuyết chức Thái thú, phải lo cho gấp". Mỗ ngại vì ở ngay tỉnh nhà, khách cười nói "Ông ngây thơ quá, đã có tiền đấy rồi thì ai hỏi chuyện quê quán ở đất Ngô hay đất Việt làm gì". Mỗ rốt lại vẫn ngần ngừ, ngờ là trái phép, khách nói "Không cần nghi ngại, xin nói thật đây là chức Thành hoàng dưới âm ty bị khuyết. Ông nay tuổi thọ đã hết, tên họ đã ghi vào sổ ma rồi, phải nhân dịp này chạy chọt mới có thể thành bậc quan lớn dưới cõi âm được". Kế đứng lên từ biệt, nói “Ông cứ tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại", rồi ra cổng lên ngựa đi. Mỗ chợt mở mắt tỉnh dậy, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền bạc cất giấu ra chợ mua một vạn thoi vàng giấy, vét sạch mặt hàng ấy trong quận, chất đống trong sân với ngựa cỏ lo đốt ngày đêm, tro cao như núi. Ba ngày sau khách quả tới, Mỗ đem tiền ra đưa, khách lập tức đưa Mỗ tới công thự. Thấy một vị quan lớn ngồi trên điện, Mỗ bèn sụp lạy, vị quan hỏi qua tên họ, kế khuyên Mỗ phải thanh liêm cẩn thận này nọ rồi lấy văn bằng ra, gọi tới trước án đưa cho. Mỗ lạy tạ trở ra, tự nghĩ chức Giám sinh vốn thấp hèn, nếu không có xe kiệu quần áo rực rỡ thì không đủ để trấn áp bọn thuộc lại. Vì thế mua thêm xe ngựa, lại sai bọn quỷ tốt khiêng kiệu kết hoa về đón người thiếp yêu, vừa sắp đặt xong thì nghi trượng từ Chân Định đã tới đón, kéo dài hơn một dặm, thấy suốt đường đi người ta tranh nhau đưa tiễn, vô cùng đắc ý. Bỗng toán quân mở đường ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt, đang lúc ngờ sợ thì thấy quân kỵ mã đều xuống ngựa phủ phục cạnh đường, người bé khoảng một thước, ngựa nhỏ như con chồn. Toán quân trước xe kinh hãi nói "Quan Đế tới”. Mỗ hoảng sợ xuống xe, cũng phủ phục dưới đất, từ xa nhìn thấy Đế quân đi với bốn năm kỵ sĩ buông lỏng dây cương chậm rãi đi tới, râu rậm trùm cả gò má, không giống như trong tranh người ta vẽ nhưng thần thái rất uy nghi dũng mãnh, mắt dài gần tới tai. Đế quân ngồi trên ngựa hỏi đây là quan nào, đám tùy tùng thưa là Thái thú Chân Định. Đế quân nói “Một chức quận thú nhỏ nhoi sao dám phô trương như thế”. Mỗ nghe thấy sởn gai ốc co rúm người, nhìn lại mình thấy chỉ lớn bằng đứa nhỏ sáu bảy tuổi. Đế quân bảo đứng lên đi bộ theo ngựa, cạnh đường có ngôi đền, Đế quân vào ngồi quay mặt về hướng nam, sai lấy giấy bút đưa Mỗ bảo khai họ tên quê quán. Mỗ viết xong trình lên, Đế quân xem nổi giận nói "Viết chữ sai bét, nguệch ngoạc không ra chữ, là thằng cò mồi ngoài chợ làm sao coi việc dân!". Lại sai tra lại sổ ghi chép việc làm lúc sinh thời, một người bên cạnh quỳ xuống tâu bày, không rõ nói những gì. Đế quân lớn tiếng nói “Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, buôn quan bán tước là tội nặng”. Lập tức thấy người ấy bị thần Kim giáp xích lại giải đi. Lại có hai người bắt Mỗ ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi tuột hết thịt ở mông đít rồi tống ra cổng. Mỗ nhìn quanh thì xe ngựa đâu mất hết, đau quá không đi được, chỉ nằm thở dốc trong đám cỏ. Nhìn kỹ chỗ ấy thì cách nhà chưa xa lắm, may mà thân thể nhẹ như chiếc lá nên mất một ngày một đêm mới về được tới nhà, chợt tỉnh cơn mơ rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han, chỉ nói rằng bắp đùi đau lắm, té ra đã mê man như chết suốt bảy ngày, lúc ấy mới tỉnh lại. Lại hỏi sao A Lân không tới, đó là tên tự người thiếp. Trước đó A Lân đang ngồi trò chuyện, chợt nói “Ông ấy đã làm Thái thú Chân Định, sai lính về đón ta đấy", rồi vào phòng trang điểm thật đẹp, vừa xong thì chết, cũng mới trong đêm trước. Người nhà kể lại chuyện lạ xong, Mỗ hối hận đấm ngực sai để xác đó đừng chôn, mong rằng nàng tỉnh lại. Nhưng mấy ngày sau vẫn không thấy gì, đành đưa đi chôn cất. Bệnh Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại loét to ra, nửa năm mới dậy được, thường tự nhủ "Tiền mua chức quan đã hết sạch, lại còn bị hình phạt tai bay vạ gió dưới âm ty, bấy nhiêu còn chịu được, nhưng người thiếp yêu không biết đã đi đâu, những lúc khuya vắng mới là khốn khổ đây!” [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Than ôi, chuyện mua bán vốn không chỉ trong quan trường trên thế gian sao! Cõi âm đã có chuvện ấy, nếu ngựa của Đế quân không kịp tới, thì kẻ tác oai tác phúc đâu có bị trị tội! Nghe đồn tiên sinh Quách Hoa Dã ở hương ta cũng có một chuyện tương tự, cũng là thần trong đám người vậy. Tiên sinh nhờ trong sạch cứng cỏi được vua biết tới, mấy lần cất nhắc lên tới chức Tống chế Kinh Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), lên đường phó nhiệm hành lý sơ sài, chỉ có bốn năm người theo hầu, quần áo đều xoàng xĩnh, người đi đường không ai biết là bậc quan lớn. Trên đường gặp viên Tri huyện đi nhậm chức cùng đi một đường, thấy có hơn hai mươi chiếc xe lớn, quân dẹp đường tới vài ngàn kỵ mã, quân tùy tùng cũng có hàng trăm người. Tiên sinh cũng không rõ là quan gì, cứ lúc đi trước, lúc theo sau, lúc lại mấy người cưỡi ngựa chen vào hàng ngũ của họ, bị quân tiền khu giận dữ quát tháo xua đuổi nhưng tiên sinh cũng không sợ hãi. Không bao lâu tới một trấn lớn, hai bên cùng ghé vào nghỉ chân, tiên sinh sai tùy tùng dò hỏi thì ra đó là một viên Giám sinh nộp tiền được làm quan đang tới Hồ Nam phó nhiệm. Bèn sai một người qua tự giới thiệu, viên Tri huyện nghe xong vừa ngờ vừa sợ, đến khi hỏi lai lịch thì biết đúng là tiên sinh, run rẫy không biết làm sao, mặc áo đội mũ khúm núm tới gặp. Tiên sinh hỏi "Ngươi là Tri huyện huyện Mỗ phải không?”, viên ấy thưa phải. Tiên sinh nói "Một huyện bé tí tẹo làm sao nuôi nổi bấy nhiêu quân tùy tùng? Ngươi mà tới nơi thì một vùng sẽ phải lầm than, không thể để dân khổ cực được thôi cứ về đi đừng tới phó nhiệm nữa". Viên Tri huyện dập đầu nói "Hạ quan còn có văn bằng bổ nhiệm", tiên sinh lập tức bảo đưa văn bằng lên, xem xong nói "Đây là chuyện vặt, ta có thể xin miễn nhiệm thay cho ngươi”, viên Tri huyện đành lạy chào lui ra. Dọc đường y về người ta đều không hiểu vì sao, nhưng đó là do tiên sinh vậy. Trên đời có nhiều kẻ chưa làm quan đã được thăng chức, nghe rất chướng tai, nhưng tiên sinh là bậc kỳ nhân nên mới có được chuyện khoái ý như thế. [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 220 - 221 -[/B] Nân Châm (Nân Châm) Ngu Tiểu Tư người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn bán. Vợ là Hạ thị đi thăm cha mẹ trở về, thấy ngoài cửa có người đàn bà dắt đứa con gái nhỏ khóc lóc rất bi ai. Hạ hỏi thì gạt lệ trả lời, mới biết chồng bà ta tên Vương Tâm Trai, cũng là con cháu nhà quan, nhà sa sút không đủ ăn, nhờ người làng bảo chúng vay tiền nhà giàu họ Hoàng để tập đi buôn, giữa đường gặp cướp, tai bay vạ gió mất sạch cả tiền, may mà không chết. Về tới nhà, Hoàng qua đòi nợ, tính cả vốn lẫn lãi không dưới ba mươi lượng vàng, thật không sao trả nổi. Hoàng thấy con gái là Nân Châm xinh đẹp, định lấy làm thiếp, sai người bảo chứng tới đòi nợ rồi tỏ ý, nếu chịu sẽ tiếp tục cho thiếu, ngoài ra vẫn đúng giá cô gái mà trả tiền. Vương bàn với vợ, vợ khóc nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng vốn là dòng dõi trâm anh, kẻ kia là tiện dân mới giàu lên, sao dám cưới con gái ta làm thiếp? Vả lại Nân Châm vốn đã hứa gả rồi, chàng đâu thể làm chủ được nữa?". Trước có Cử nhân họ Phó người cùng huyện chơi thân với Vương, sinh được một trai là A Mão, lúc còn bồng ẳm đã hứa làm thông gia với nhau. Sau Phó vào đất Mân (vùng Phúc Kiến) làm quan, hơn năm thì chết, vợ con không về được, tin tức qua lại thưa dần, nhưng vì cớ ấy nên Nân Châm mười lăm tuổi vẫn chưa lấy chồng. Nghe vợ nhắc lại chuyện ấy Vương không biết nói gì, chỉ tính cách làm sao trả nợ. Vợ nói "Bất đắc dĩ thì thiếp phải bàn với hai đứa em". Đại khái vợ Vương họ Phạm, ông nội từng làm quan trong kinh, hai cháu trai còn nhiều ruộng vườn. Hôm sau vợ Vương dắt con về nói với hai em trai, hai người mặc cho khóc lóc, không nói một lời an ủi giúp đỡ. Phạm gào khóc trở về, vừa lúc gặp Hạ hỏi han bèn vừa kể vừa khóc. Hạ thương xót, nhìn tới cô gái thì thấy mặt mũi sáng sủa đáng yêu, càng thêm mủi lòng bèn mời vào nhà cho ăn uống, an ủi rằng "Hai mẹ con đừng lo, thiếp xin hết sức giúp đỡ”. Phạm còn chưa kịp cám ơn, cô gái đã khóc lớn lạy phục xuống đất, Hạ càng thêm xót xa. Hạ ngẫm nghĩ rồi nói "Tuy nhà có chút của cải, nhưng ba mươi lượng vàng cũng không phải dễ, phải cầm bán mới có”. Hai mẹ con lạy chào ra về, Hạ hẹn ba ngày sẽ có tiền. Chia tay xong tính toán đủ cách, cũng chưa dám nói với chồng, qua ba ngày cũng vẫn chưa đủ số, sai người qua hỏi mượn mẹ thì mẹ con Phạm đã tới, bèn kể thật rồi hẹn lại hôm sau. Tối mịt thì gia nhân đem tiền mẹ cho mượn về, Hạ dồn cả vào túi đặt dưới gối. Đến khuya có tên trộm khoét vách theo ánh đèn mò vào, Hạ tỉnh giấc hé mắt nhìn, thấy một người tay cầm đoản đao, mặt mũi hung dữ sợ quá không dám kêu, cứ giả vờ ngủ say. Tên trộm tới gần cái rương, đã toan mở nắp nhưng nhìn thấy bên gối Hạ có cái túi bèn cầm lấy tới cạnh đèn mở ra xem, kế giắt vào lưng rồi không mở rương lục lọi nữa, bỏ đi luôn. Hạ bèn vùng dậy la lớn, trong nhà chỉ có một đứa tớ gái nhỏ đập vách láng giềng báo, láng giềng họp lại đuổi theo thì tên trộm đã chạy xa rồi. Hạ ngồi trước đèn sụt sùi khóc lóc không bao lâu đứa tớ gái thiếp đi, Hạ thắt dây vào song cửa sổ treo cổ tự tử. Đứa tớ gái tỉnh dậy trời đã sáng bạch, mới gọi người vào cởi dây thì thân thể đã lạnh ngắt. Ngu hay tin vội chạy về, hỏi đứa tớ gái mới biết sự tình, sợ hãi khóc lóc lo chôn cất mà thôi. Lúc ấy mùa hè nhưng xác Hạ không cứng cũng không thối, qua hơn bảy ngày mới liệm. Chôn cất xong, Nân Châm lén ra khóc lóc cạnh mộ, chợt có cơn mưa rào đổ tới, sấm sét ầm ầm đánh xuống vỡ mộ, cô gái cũng bị chấn động chết luôn. Ngu hay tin vội tới xem thì quan tài đã bật nắp, vợ đang rên rĩ ở trong bèn bế ra, thấy xác cô gái không rõ là ai, Hạ nhìn kỹ mới biết, vô cùng kinh ngạc. Không bao lâu Phạm thị tới, thấy con gái đã chết gào khóc nói “Vốn đã ngờ là nó ở đây, quả đúng thế! Từ hôm nghe phu nhân tự tử, nó cứ kêu khóc suốt ngày đêm, đêm nay mới nói với ta là muốn ra thăm mộ, mà ta chưa cho”. Hạ cảm vì nghĩa bèn nói với chồng, bèn lấy quan tài chôn mình để chôn cất cô gái, Phạm lạy tạ. Ngu cõng vợ về. Phạm cũng về kể với chồng. Chợt nghe nói phía bắc thôn có một người bị sét đánh chết giữa đường, trên xác có hàng chữ "Thằng giặc trộm tiền của Hạ thị", kế nghe láng giềng có tiếng đàn bà khóc, mới biết người chết là chồng chị ta, tên Mã Đại. Người trong thôn lên báo quan, quan sai bắt người đàn bà lên hỏi cung, thì ra Phạm thấy Hạ vay tiền giúp mình cứu con gái nên cảm động khóc lóc kể cho người ta nghe, Mã Đại là kẻ cờ bạc vô lại nghe thấy nổi dạ bất lương. Quan bèn sai giải người đàn bà về nhà lục soát, chỉ còn hai mươi lượng, lại tìm trên xác Mã Đại được bốn lượng nữa, quan phán bán người đàn bà đi bù vào chỗ thiếu trả cho Ngu. Hạ càng mừng rỡ, đưa hết số tiền cho Phạm trả nợ. Chôn cô gái được ba ngày, đêm đến mưa gió sấm sét lại nổi lên đánh vỡ mộ, cô gái cũng sống lại nhưng không chạy về nhà mà tới gõ cửa nhà Hạ thị, đại khái vì nhận ra ngôi mộ, ngờ là Hạ đã sống lại. Hạ nghe tiếng gọi hoảng sợ vùng dậy, cách cánh cửa hỏi vọng ra, cô gái nói "Phu nhân quả nhiên đã sống lại rồi, con là Nân Châm đây”. Hạ sợ cho rằng là ma, gọi người đàn bà láng giềng cùng ra hỏi han, đến khi biết là nàng sống lại, mừng rỡ mở cửa đưa vào nhà. Cô gái nói xin theo hầu hạ phu nhân, Hạ nói "Như thế là nói ta mất tiền để mua tớ gái sao? Chôn ngươi rồi thì nợ cũng đã trả xong, đừng ngờ vực gì!”. Cô gái càng cảm động khóc lóc, xin thờ như mẹ, Hạ chưa ưng thuận, nàng lại nói “Con biết làm lụng, cũng không đến nỗi ngồi ăn không đâu”. Sáng ra báo cho Phạm thị biết, Phạm mừng rỡ vội tới, cũng chiều lòng con gái, lập tức gởi gắm luôn cho Hạ. Phạm đi rồi, Hạ ép đưa cô gái về nhà, cô gái cứ khóc lóc nhớ Hạ. Vương Tâm Trai bèn đích thân dắt nàng tới đưa vào cổng rồi về. Hạ nhìn thấy kinh ngạc hỏi han mới biết nguyên do, bèn mới để nàng ở lại. Ngu vừa tới, cô gái vội quỳ lạy, gọi là cha. Ngu vốn không có con, thấy cô gái dịu dàng khiến người ta thương xót, cũng rất vui mừng. Cô gái học kéo sợi vá may, không nề vất vả. Hạ ốm mấy lần suýt chết, nàng sớm tối hầu hạ, Hạ không ăn cũng không ăn, trên mặt lúc nào cũng có ngấn lệ, thường nói với người ta rằng "Mẹ mà có bề gì thì ta thề không sống nữa", Hạ hơi đỡ mới thấy nàng cười. Đến khi Hạ khỏi bệnh, nghe kể lại rơi nước mắt nói "Ta bốn mươi tuổi mà chưa có con, chỉ cần sinh được một đứa con gái như Nân Châm là đủ”. Hạ từ trẻ không sinh nở, nhưng qua năm sau chợt sinh được một con trai, người ta cho là ở hiền gặp lành. Được hai năm cô gái càng lớn, Ngu bàn với Vương là không thể giữ lời hứa cũ mãi. Vương nói "Con gái ở nhà ông, việc gả chồng là tùy ý ông". Cô gái đã mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song, nên lời ấy truyền ra thì những kẻ dạm hỏi nối gót nhau tới cổng, song vợ chồng chỉ trả lời qua quít. Nhà giàu họ Hoàng cũng sai người mối tới, nhưng Ngu ghét giàu mà bất nhân nên ra sức chối từ mà chọn họ Phùng. Phùng là học trò giỏi trong quận, cũng thông minh giỏi văn chương, Ngu báo với Vương thì Vương đi buôn chưa về, bèn cứ ưng thuận. Hoàng vì Ngu từ chối cũng giả đi buôn, tìm tới chỗ Vương trọ bày tiệc mời mọc, lại giúp tiền bạc làm vốn, dần dần quen thuộc thân mật mới nói con trai mình thông minh lanh lợi, xin hỏi cưới Nân Châm, Vương cảm động vì ân cần lại hâm mộ vì giàu có, bèn hẹn ước với nhau. Trở về tới nói với Ngu, thì hôm trước Ngu vừa nhận thư đính ước của họ Phùng, nghe lời Vương nói rất không thích, gọi cô gái ra kể lại mọi việc. Cô gái bực tức nói “Chủ nợ ấy là kẻ thù, bắt con lấy kẻ thù, thì chỉ còn một cách chết thôi” Vương tái mặt, nhờ người nói lại với Hoàng là đã hứa gả con gái cho họ Phùng, Hoàng tức giận nói “Cô kia họ Vương chứ không phải họ Ngu, ta đính ước trước họ Phùng, sao lại bội ước". Bèn đâm đơn kiện lên quan huyện, quan huyện có ý muốn xử cho người đính ước trước, bắt gả cô gái cho Hoàng. Phùng nói "Họ Vương đã gởi gắm con cho ông Ngu, lại nói không dự bàn chuyện cưới gả nữa, vả lại ta đã có thư đính ước còn họ Hoàng chẳng qua chỉ là hẹn ước bên chén rượu mà thôi". Quan huyện đổi ý, phán cho tùy ý cô gái. Hoàng về đem tiền đút lót xin quan xử cho mình được, vì thế hơn một tháng không xử xong. Một hôm có viên Cử nhân lên kinh, đi ngang Đông Xương sai người hỏi thăm Vương Tâm Trai, tới hỏi đúng Ngu, Ngu hỏi lại thì viên Cử nhân ấy họ Phó, tức là A Mão vậy. Sau khi nhập tịch ở Phúc Kiến, mười tám tuổi thi đỗ Cử nhân, vì đã có đính ước trước đây nên chưa cưới vợ, mẹ dặn tiện đường ghé thăm Vương xem cô gái đã lấy chồng chưa. Ngu cả mừng, mời Phó tới nhà kể hết những chuyện đã qua, nhưng vì cưới gả ngoài ngàn dặm nên sợ không có gì làm bằng. Phó bèn lấy ra tờ đính ước hôn nhân của Vương ngày trước, Ngu mời Vương tới xem lại quả đúng, tất cả cùng mừng rỡ. Hôm ấy chính là ngày xét xử lại, Phó đưa danh thiếp ra mắt quan huyện, vụ kiện mới thôi. Phó hẹn ngày làm lễ cưới rồi đi. Thi hội xong, Phó mua lễ vật quay về, ở trong nhà cũ làm lễ rước dâu xong thì có tin thi đỗ Tiến sĩ từ Phúc Kiến đưa tới té ra Phó lại đỗ luôn kỳ thi hội. Bèn vào kinh nhận chức trở về cô gái không muốn xuống nam, Phó cũng vì nhà cửa mồ mả ông bà còn đó bèn một mình trở về Phúc Kiến bốc mộ cha rồi đón mẹ cùng về. Vài năm sau Ngu chết, con trai mới có bảy tám tuổi, cô gái chăm sóc còn hơn em ruột, cho đi học, thi đỗ vào trường huyện rất sớm, nhà nổi tiếng giàu có, đều là nhờ Phó cả. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Trong đám thần long cũng có bậc hiệp khách ư? Trừng trị kẻ ác làm rõ điều thiện, cứu người giết người đều bằng sấm sét, đó là điệu múa Tiền Đường phá trận[B]*[/B] vậy. Ầm ầm giáng xuống mấy lần, đều vì một người, biết đâu Nân Châm lại chẳng phải là Long nữ bị đày xuống trần?[/I] *Tiền Đường phá trận: xem Truyện Long nữ sau truyện Chúc Thành, quyển III. [B]222. Hoàn Hầu[/B] [B](Hoàn Hầu)[/B] Bành Hiếu Sĩ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Nam) uống rượu nơi khác về nhà, dọc đường xuống ngựa đi tiểu. Con ngựa cúi xuống ngoạm cỏ bên đường, có một bụi cỏ nhỏ xanh tốt rất đáng yêu vừa trổ hoa vàng rực rỡ chói mắt, con ngựa ăn mất quá nửa. Bành nhổ chỗ còn lại ngửi thấy có mùi hương lạ bèn cất vào túi lại lên ngựa đi tiếp, thấy ngựa phi như bay thích chí cũng không tính đường về, cứ để mặc cho nó chạy. Chợt thấy mặt trời lặn xuống sau núi mới kéo cương nhìn quanh thì thấy núi non chập chùng, không biết là chỗ nào. Chợt có một người áo xanh tới, thấy con ngựa đang hí vang, bèn nắm dây cương nói “Trời đã xế rồi, chủ ta mời ông ghé lại". Bành hỏi đây là nơi nào, người ấy đáp "Là đất Lãng Trung (tỉnh Tứ Xuyên)". Bành cả sợ té ra trong nửa ngày đã đi hơn ngàn dặm, nhân hỏi chủ nhân là ai, người kia đáp “Tới nơi sẽ biết". Lại hỏi nhà ở đâu, đáp cũng gần đây thôi, rồi dắt ngựa kéo đi mau. Bành thấy người ngựa cùng như bay, qua một rặng núi thì có nhà cửa phòng ốc trùng điệp ở lưng chừng núi che khuất lẫn nhau. Từ xa nhìn thấy một đám người áo mũ chỉnh tề như đang chờ ai, Bành tới nơi xuống ngựa thì họ đều vái chào rất cung kính. Kế chủ nhân bước ra, khí thế oai mãnh, y phục đều khác người trần, chắp tay nhìn khách nói "Khách hôm nay không có ai xa như Bành quân", rồi vái chào mời Bành đi trước. Bành từ tạ không chịu bước lên, chủ nhân bèn nắm tay kéo đi, Bành thấy tay như bị cùm siết chặt, đau như sắp gãy, không dám tranh cãi nữa bèn đi. Những người còn lại bèn nhường nhau đi trước, chủ nhân đẩy người này kéo người kia, khách đều xuýt xoa rên rĩ muốn quỵ xuống như không chịu nổi, cùng theo lời chủ nhân vào. Tới sảnh đường thấy trần thiết hoa lệ, cứ hai người vào ngồi một bàn. Bành hỏi nhỏ người ngồi với mình rằng chủ nhân là ai, đáp là Hoàn hầu[B]*[/B], kinh ngạc không dám ho hắng, mọi người cũng đều ngồi im. *Hoàn hầu: tức Trương Phi, tướng và là em kết nghĩa của Thục chủ Lưu Bị thời Tam quốc, nổi tiếng dũng mãnh, trấn thủ Lãng Trung, bị bộ tướng làm phản ám sát, thụy là Hoàn hầu. Rượu được vài tuần, Hoàn hầu nói "Hàng năm cứ quấy quả các vị, nên có tiệc mọn để tỏ lòng. Lại được khách từ xa tới, có thể nói là hạnh ngộ, ta muốn xin một vật, nếu thương thì cho, không thì không dám ép”. Bành đứng dậy hỏi vật gì, chủ nhân đáp "Con ngựa của ông đã có tiên cốt, không phải người trần cuỡi được , xin đổi con khác cho ông, có được không?". Bành đáp "Xin kính cẩn dâng lên, không dám đánh đổi”, Hoàn hầu nói “Ta sẽ đền một con ngựa thật tốt, lại tặng thêm vạn lượng vàng”. Bành rời ghế lạy tạ, Hoàn hầu sai kéo đứng lên. Giây lát rượu thịt bày ra la liệt, mặt trời lặn lại sai thắp đèn uống tiếp. Mọi người đều đứng dậy xin thôi, Bành cũng xin cáo từ. Hoàn hầu hỏi “Ông từ xa tới, tối nay về đâu?". Bành nhìn người ngồi cùng bàn với mình nói “Đã xin ông đây cho ngủ nhờ tối nay". Hoàn hầu bèn sai lấy chén lớn rót rượu tiễn khách, nói với Bành rằng "Bụi cỏ mà ông cất, tươi thì có thể giúp người ta thành tiên, khô thì có thể dùng để điểm kim, bảy cọng là được một vạn lượng vàng". Rồi lập tức sai tiểu đồng chỉ cách cho Bành, Bành lại lạy tạ. Hoàn hầu nói "Ngày mai xin ra chợ tới chỗ bán ngựa tùy ý lựa lấy một con, không cần phải trả giá đưa tiền, ta sẽ tính cho". Lại nói với mọi người rằng “Ông khách ở xa, lúc trở về nên giúp đỡ ít nhiều tiền đi đường", mọi người vâng dạ, cạn chén rồi cáo biệt. Trên đường Bành hỏi họ tên thì người ngồi cùng bàn với mình tên Lưu Tử Vựng, cùng đi hai ba dặm, qua rặng núi thì thấy thôn xóm, mọi người cùng đưa Bành về nhà Lưu rồi kể cho nghe chuyện lạ. Vốn là trong làng hàng năm có tế Hoàn hầu trong miếu, giết bò múa hát để cúng đã thành lệ. Lưu là người chủ tế, vừa cúng xong ba hôm trước, trưa nay chợt có người tới từng nhà mời mọi người vào núi, hỏi ai mời thì đều trả lời qua quít nhưng hối thúc rất gấp. Qua khỏi rặng núi thấy lầu gác, mọi người nhìn nhau kinh ngạc, sắp tới cổng người kia mới nói thật, mọi người cũng không ai dám từ chối lui về. Người đi mời nói "Xin cứ họp lại ở đây chờ ta đi mời một người khách xa", tức là Bành vậy. Bành nghe kể rất lấy làm lạ lùng. Trong bọn có người bị Hoàn hầu nắm tay đau quá sợ gãy xương, cởi áo thắp đèn lên nhìn thì thấy da thịt bầm tím, Bành nhìn lại mình cũng thấy thế. Mọi người ra về, Lưu liền mang chăn chiếu ra ngủ chung với Bành. Sáng hôm sau trong làng tranh nhau mời cơm, lại theo Bành vào chợ tìm ngựa, hơn mười ngày chọn qua mấy mươi con mà không có ngựa hay, Bành cũng quyết ý tìm bằng được. Hôm sau lại vào chợ, thấy có một con dáng vẻ rất khỏe mạnh, cưỡi thử thấy đúng là tuấn mã bèn trở vào làng đợi người bán nhưng trở lại thì đã bỏ đi mất. Bành bèn từ biệt người làng trở về, mọi người đều mang tiền tới tiễn tặng, ngựa đi một ngày được gần năm trăm dặm, Bành về tới nhà kể lại chuyện, mọi người đều không tin, đến khi Bành lấy những sản vật ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) ra cho xem mới cùng ngạc nhiên kinh sợ. Mớ cỏ lâu ngày khô dần, còn được bảy cọng, Bành theo cách đã được chỉ dẫn làm phép điểm kim, trong nhà vụt giàu hẳn lên. Bèn tìm tới nơi ấy vào miếu Hoàn hầu cúng tế tạ ơn, chơi với người làng ba ngày rồi về. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Xem Hoàn hầu mời khách mới tin rằng việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình[B]*[/B] là có thật. Nhưng chủ nhân kính khách, tỏ tình thân ái mà khiến người ta như bị gãy tay thì có thể biết năm xưa khỏe mạnh tới mức nào. Ngô Mộc Hân kể có Lý sinh môi không che kín miệng, răng vẩu chìa ra ngoài cả đốt ngón tay. Một hôm tới dự tiệc ở nhà nọ, có hai người khách nhường nhau chỗ trên chỗ dưới đến khổ, một người cứ ra sức đẩy lên, một người cứ hết sức trằn lại, dùng sức mạnh quá vung khuỷu tay ra, đúng lúc Lý đứng phía sau bị khuỷu tay thúc trúng miệng rơi luôn hai chiếc răng cửa, máu tuôn như suối. Mọi người ngạc nhiên, hai người kia mới thôi không tranh cãi nữa. Chuyện ấy cũng buồn cười như chuyện Hoàn hầu nắm tay làm khách muốn gãy xương vậy.[/I] *Việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình: Chư tiên ký chép năm Thủy Hoàng thứ 2 thần núi Vũ Di là Vũ Di quân mời dân làng tới ăn tiệc vào ngày rằm tháng tám trên đỉnh núi, kết lán giăng màn rực rỡ, người ta nhân thế gọi đất ấy là Mạn Đình. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 224 - 225 -[/B] Phấn Điệp (Phấn Điệp) Dương Viết Đán là học trò đất Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông). Tình cờ qua quận khác về nhà, đi thuyền qua biển gặp bão, thuyền sắp đắm, chợt có chiếc thuyền không giạt tới vội nhảy qua, nhìn lại thì những người cùng thuyền đều đã chìm cả. Bão càng mạnh, sinh đành nhắm mắt phó mặc cho gió thổi, không bao lâu trời lặng, mở mắt ra nhìn chợt thấy một hòn đảo nhà cửa san sát, liền chèo vào bờ, đi thẳng tới cổng làng. Thấy trong làng yên ắng, ngồi đó hồi lâu mà không nghe một tiếng gà kêu chó sủa. Thấy có một cánh cổng quay về hướng bắc, tùng trúc hun hút, lúc ấy đang đầu mùa đông, thấy trong tường có gốc cây không biết tên gì mà hoa nở dày đặc, trong lòng thích lắm, lân la lần vào. Chợt nghe tiếng đàn cầm văng vẳng bèn dừng bước, có người tỳ nữ từ trong bước ra, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, phong tư tiêu sái, dung mạo xinh đẹp, vừa thấy Dương vội quay ngay vào. Kế nghe tiếng đàn ngừng lại, kế có một thiếu niên bước ra ngạc nhiên hỏi khách từ đâu tới, Dương kể lại sự tình. Thiếu niên lại hỏi họ tên quê quán, Dương cũng đáp rõ, thiếu niên mừng rỡ nói “Hóa ra là họ hàng bên vợ ta", liền vái chào mời vào, thấy nhà trần thiết rất tinh khiết đẹp đẽ, lại nghe tiếng đàn, vào tới trong phòng thấy một thiếu phụ ngồi trên cao gảy đàn, tuổi khoảng mười tám mười chín, phong tư lộng lẫy, thấy khách vào buông đàn định đi. Thiếu niên ngăn lại nói "Đừng đi, đây là họ hàng bên nàng đấy!”, rồi kể lại lời sinh. Thiếu phụ nói "Thì ra là cháu ta!", kế hỏi bà nội có khỏe không, cha mẹ bao nhiêu tuổi rồi. Dương đáp “Cha mẹ cháu đều hơn bốn mươi, vẫn còn khỏe mạnh, bà nội thì đã sáu mươi, bệnh nặng đã lâu, đi đâu cũng phải có người dìu. Cháu thật không biết cô là thế nào trong gia đình, xin cho biết rõ để về kể lại". Thiếu phụ nói “Đường xa diệu vợi, không được tin tức lâu rồi, về cứ nói vơi cha là cô Thập Nương hỏi thăm, cha cháu sẽ biết". Dương hỏi dượng họ gì, thiếu niên đáp "Ta họ Ân tên Hải Dự. Nơi đây có tên là đảo Thần Tiên, cách Quỳnh Châu ba ngàn dặm, ta tới ngụ ở đây cũng chưa lâu lắm". Thập Nương vào trong sai tỳ nữ làm cơm đãi khách, thấy rau cỏ tươi ngon, cũng không biết tên gọi là gì. Ăn xong dẫn ra ngắm cảnh, thấy đào mận trong vườn vừa có nụ, Dương lấy làm lạ. Ân nói "Ở đây mùa hè không quá nóng, mùa đông không quá lạnh nên lúc nào cũng có hoa nở". Dương mừng nói "Như thế quả là cõi tiên, cháu về sẽ nói với cha mẹ dời nhà tới đây ở với cô dượng", Ân chỉ mỉm cười. Trở vào phòng sách thắp đèn lên, Dương thấy chiếc đàn cầm đặt ngang trên bàn, xin được nghe một khúc. Ân bèn vặn phím so dây, Thập Nương từ trong ra, Ân nói “Lại đây! Lại đây! Nàng gảy cho cháu nó nghe đi". Thập Nương liền ngồi xuống hỏi “Cháu muốn nghe khúc nào?”. Dương đáp “Cháu chưa từng học đàn, nên thật không biết khúc nào cả”. Thập Nương nói “Cháu cứ tùy ý ra đề, ta đều có thể gảy thành điệu”. Dương cười hỏi “Thế gió biển xô thuyền, có thể gảy thành một khúc được không?". Thập Nương đáp "Được!", rồi búng dây như gảy theo bản đàn có sẵn, tình ý lên xuống theo khúc điệu, Dương ngưng thần lắng nghe, thấy mình như đang trong thuyền, bị gió bảo xô đẩy lôi kéo. Dương khâm phục sợ hãi, hỏi có học được không, Thập Nương đưa đàn sai gảy thử rồi nói "Có thể dạy được, vậy cháu muốn học gì?”, Dương nói "Bản [I]Gió bão[/I]cô vừa gảy không biết học mấy ngày thì xong? Xin cho chép lại để học thuộc trước". Thập Nương nói "Bản đàn ấy không có văn tự, ta chỉ lấy ý mà phổ thành khúc điệu thôi". Rồi lấy ra một chiếc đàn khác, chỉ các thế tay bấm phím búng dây bảo Dương tập theo. Dương tập đến hơn canh một thì âm thanh tiết tấu đã hơi thành khúc điệu, vợ chồng Thập Nương mới đi nghỉ. Dương ngưng thần chăm chú một mình tập gảy trước đèn, hồi lâu chợt hiểu thấu chỗ ảo diệu, bất giác vùng dậy múa may. Chợt ngẩng lên thấy người tỳ nữ đang đứng trước đèn, giật mình hỏi “Nàng vẫn chưa đi nghỉ sao?", nàng cười đáp "Cô Mười sai chờ chàng đi nghỉ rồi thì đóng cửa tắt đèn". Nhìn kỹ thấy nàng mắt tựa hồ thu, thần thái say người, Dương động lòng khẽ khêu gợi, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười. Dương càng say mê, đứng vụt dậy ôm chầm lấy, nàng ngăn lại nói "Đừng làm thế. Đã qua canh tư chủ nhân sắp dậy rồi. Nếu có lòng với nhau, đêm mai cũng chưa muộn". Đang lúc ôm ấp nhau chợt nghe Ân gọi Phấn Điệp, nàng biến sắc nói “Chết rồi” rồi vội vàng chạy đi. Dương lén vào nghe ngóng, thấy Ân nói "Ta đã nói đứa tỳ nữ này chưa dứt lòng trần, mà mình cứ nhất định thu nhận, nay thì sao nào? Phải đánh nó ba trăm roi”. Thập Nương nói “Cái ý ấy đã nảy sinh thì không thể dùng được nữa, chẳng bằng cho luôn thằng cháu ta cho xong". Dương vô cùng thẹn thùng sợ sệt, trở lại phòng tắt đèn đi ngủ. Sáng ra có đứa tiểu đồng mang nước rửa mặt tới chứ không thấy Phấn Điệp đâu, trong lòng nơm nớp lo bị quở trách. Lát sau Ân và Thập Nương cùng tới, thái độ bình thường như không có chuyện gì, chỉ khảo khúc đàn mới tập. Dương gảy lại một lượt, Thập Nương nói "Tuy chưa đạt tới chỗ thần diệu nhưng mười phần đã được chín, cố tập cho thành thục thì hay". Dương lại xin dạy khúc khác, Ân dạy cho khúc [I]Thiên nữ trích giáng[/I], thủ thức mới lạ khó khăn, tập mất ba ngày mới gảy rõ tiếng. Ân nói “Những cái khó thế là đã học qua hết. từ nay về sau chỉ cần tập cho thành thực thôi. Nếu thuộc được hai khúc này thì trong nghề đàn không còn khúc nào là khó nữa”. Dương nhớ nhà quá, nói với Thập Nương "Cháu ở đây được cô chăm sóc dạy dỗ rất vui, nhưng vẫn canh cánh nhớ nhà, có điều đường xa ba ngàn dặm không biết ngày nào mới về tới được". Thập Nương nói “Chuyện đó không khó. Thuyền cũ còn đó, chỉ cần giúp cháu một cơn gió đưa buồm về. Cháu không có gia thất, ta đã cho Phấn Điệp rồi". Rồi lấy chiếc đàn tặng cho, lại trao cho thuốc, dặn "Về đưa bà nội uống, không những khỏi bệnh mà còn kéo dài được tuổi thọ”. Kế tiễn Dương ra bờ biển lên thuyền, Dương tìm mái chèo, Thập Nương nói “Không cần đâu!”, rồi cởi xiêm làm buồm, căng lên cho Dương. Dương lo lạc đường, Thập Nương nói "Đừng lo, cứ để cánh buồm đưa đi". Căng buồm xong, đẩy thuyền ra, Dương buồn rầu đang định bái biệt thì gió nam thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ rồi. Nhìn lại thuyền thấy đã sẵn lương khô nhưng chỉ đủ ăn một ngày, thầm oán trách cô bủn xỉn, đói bụng mà không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Nhưng cắn một cái bánh thì thấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái cẩn thận cất lại thì cũng không thấy đói nữa. Chợt thấy mặt trời sắp lặn, đang hối là lúc lên đường không hỏi lấy đèn đuốc thì trong chớp mắt đã thấy khói cơm chiều xa xa, nhìn kỹ lại thì đã tới Quỳnh Châu. Dương mừng quá chèo vào bờ, tháo tấm xiêm làm buồm, ôm bọc bánh về nhà. Vào tới cổng, cả nhà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, té ra đã xa nhà mười sáu năm, lúc ấy Dương mới biết mình đã gặp tiên. Vào thăm bà nội thấy già yếu bệnh tật hơn trước, bèn lấy ra đưa bà uống, chứng bệnh lâu ngày lập tức tiêu tan. Mọi người đều lạ lùng, Dương kể lại chuyện mình đã gặp, bà nội rơi nước mắt nói "Đó là cô ruột cháu đấy!". Xưa bà có người con gái út tên Thập Nương, vừa sinh ra đã có phong tư thần tiên, hứa gả cho họ Ân nhưng con rể năm mười tuổi vào núi không trở về. Thập Nương chờ đến năm hơn hai mươi tuổi thì chợt không bệnh mà chết, chôn cất đã hơn ba mươi năm. Mọi người nghe Dương kể chuyện xong đều ngờ là Thập Nương chưa chết. Dương đưa tấm xiêm ra thì đúng là vật trước đây cô vẫn mặc ở nhà. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một cái thôi thì cả ngày không thấy đói, mà tinh thần còn phấn chấn hẳn lên. Bà nội sai đào mộ Thập Nương lên xem thì chỉ có chiếc quan tài không. Trước kia Dương đã dạm hỏi cô gái họ Ngô mà chưa cưới, nhưng mấy năm không về nàng ấy đã lấy người khác. Lúc ấy Dương mới tin lời Thập Nương, chờ Phấn Điệp tới nhưng hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, mới bàn tìm cưới người khác. Tú tài họ Tiền ở huyện Lâm có con gái tên Hà Sinh xinh đẹp nổi tiếng xa gần, mười sáu tuổi chưa lấy chồng vì ba người vừa dạm hỏi chưa cưới đã chết. Dương bèn nhờ mai mối định hôn, chọn ngày tốt cưới về. Nàng vào cổng rồi, thấy xinh đẹp tuyệt thế, nhìn kỹ thì là Phấn Điệp. Dương kinh ngạc hỏi chuyện cũ, nàng quên sạch không biết gì cả, thì ra khi bị đuổi cũng là lúc nàng đầu thai xuống trần. Cứ những lúc Dương đàn khúc [I]Thiên nữ trích giáng[/I]cho nghe thì nàng liền chống má trầm tư như có chỗ hiểu được vậy. [B]224. Cẩm Sắt [/B] [B](Cẩm Sắt)[/B] Vương sinh ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) mồ côi từ nhỏ, nhà nghèo nhưng phong tư đẹp đẽ, quần áo tươm tất hơn người. Có nhà giàu họ Lan gặp Vương thích lắm, gả con gái cho, hứa sẽ xây nhà mua ruộng cho làm sản nghíệp. Cưới không bao lâu thì ông Lan chết, anh em vợ đều khinh thường sinh, vợ thì càng lên mặt, coi chồng như đầy tớ. Thường một mình ăn uống ngon lành, sinh tới thì đem cơm hẩm rau già, đũa tre chén đất bày ra trước mặt, nhưng sinh đều nhịn nhục. Năm mười chín tuổi sinh đi thi khoa Đồng tử bị đánh rớt, từ quận về nhà gặp lúc vợ không có trong phòng, thấy trong nồi có miếng thăn dê ninh chín múc định ăn, vợ bước vào không nói câu nào, bưng luôn nồi thịt cất đi. Sinh xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói "Thế này thì thà chết còn hơn”. Vợ tức tối hỏi chừng nào chết, rồi đưa cho sợi dây nói cầm lấy mà treo cổ. Sinh uất ức, đập tô canh vỡ trán vợ, căm hờn bỏ ra, tự nghĩ đúng là thà chết còn hơn bèn đem theo dây lưng vào chỗ khe sâu trong núi. Tới dưới một gốc cây lớn, đang chọn cành thắt thòng lọng chợt thấy trên gò đất thấp thoáng bóng xiêm đàn bà. Chớp mắt có một người tỳ nữ bước ra, nhìn thấy sinh vội quay ngay lại như cái bóng mất hút, trên vách đất cũng không có dấu vết gì. Sinh biết là yêu quái nhưng đang muốn chết nên không hề sợ hãi, bèn bỏ sợi dây đấy ngồi rình xem. Giây lát lại có ra nửa khuôn mặt lộ ra, vừa thoáng thấy đã rút trở vào, sinh nghĩ là ma quỷ, theo nó ắt tìm được cái chết sung sướng, liền vớ hòn đá đập vào vách đất, kêu “Ai dưới đất đấy, chỉ đường cho với, ta không cần vui mà muốn chết thôi". Hồi lâu không nghe thấy gì, sinh lại kêu nữa thì nghe bên trong đáp "Người muốn chết xin cứ tạm lui, tối hãy tới!", âm thanh trong trẻo rõ ràng nhưng nhỏ như tiếng muỗi vo ve. Sinh nói “Vâng” rồi ngồi chờ tối. Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi chợt biến thành tòa phủ đệ to lớn, hai cánh cổng khẽ mở ra, sinh theo bậc thềm bước vào. Vừa được vài bước thấy có dòng nước chảy ngang, khói bốc nghi ngút như suối nước nóng, nhúng tay xem thử thấy nóng như sôi, cũng không biết sâu bao nhiêu. Sinh ngờ đây là chỗ chết mà quỷ thần chỉ cho, liền nhảy ào xuống, nước nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát bỏng nhưng may mà cứ nổi không chìm, ngoi ngóp một hồi thì quen dần với cái nóng, cố vùng vẫy mới lên được bờ bên kia, toàn thân cũng may không rộp lên. Lại đi tiếp, nhìn thấy dưới mái nhà xa xa có ánh đèn, rảo bước tới thì có con chó dữ xồ ra cắn áo xé vớ. Sinh nhặt đá ném, con chó hơi lùi, nhưng cả bầy chó lại đổ ra sủa ầm lên, con nào cũng to bằng con nghé. Đang lúc nguy cấp thì người tỳ nữ bước ra quát đuổi lũ chó rồi nói "Anh chàng muốn chết tới đó phải không? Nương tử nhà ta thương chàng khốn đốn, sai thiếp đưa chàng tới “ổ yên vui", từ đây không còn tai họa gì nữa". Rồi khêu đèn dẫn đường, mở cổng sau im lặng đi, tới một căn nhà thì giơ đèn lên soi vào cửa sổ nói “Chàng cứ vào nhé, thiếp đi đây!”. Sinh vào nhìn quanh thì ra đã trở lại nhà mình, quay ngay ra thì gặp bà già vẫn hầu hạ vợ, bà ta nói “Cả ngày tìm kiếm, lại còn đi đâu?", rồi kéo sinh trở vào. Vợ buộc khăn chỗ bị thương xuống giường ra đón, cười nói "Làm vợ chồng hơn năm, đùa giỡn mà không biết sao, thiếp biết lỗi rồi. Chàng bị trêu chơi mà thiếp bị thương thật, thôi cũng đủ hả giận rồi mà”, rồi lấy ở đầu giường ra hai nén vàng lớn đặt vào lòng sinh nói "Từ nay về sau cái ăn cái mặc xin theo ý chàng, vậy được chưa?". Sinh không đáp, ném vàng lại xô cửa bỏ đi, định vào khe núi tới gõ cửa tòa phủ đệ. Ra tới ngoài đồng thì thấy người tỳ nữ đi chậm rãi, ánh đèn vẫn còn thấp thoáng xa xa. Sinh vội chạy theo gọi, ánh đèn bèn dừng lại, chạy tới thì người tỳ nữ nói "Chàng lại tới đây thì thật phụ nỗi khổ tâm của nương tử". Sinh đáp “Ta muốn chết chứ không nhờ nàng giúp cho sống lại. Nương tử nhà cao cửa rộng, dưới đất chắc cũng cần người, ta xin theo phục dịch, chứ thật tình không còn thấy sống là vui nữa". Người tỳ nữ nói “Chết vui cũng không bằng sống khổ, sao chàng nghĩ trái như vậy. Nhà bọn ta không có việc gì khác, chỉ có đào sông hốt phân, nuôi chó chôn xác, mà làm sai thì bị khoét mũi cắt tai, chặt chân cắt gót, chàng làm được không?”, sinh đáp "Làm được!". Kế lại vào qua cổng sau, sinh hỏi "Ta phải làm việc gì? Nàng vừa nói chôn xác, ở đâu mà có nhiều người chết như thế?”. Người tỳ nữ đáp "Nương tử từ bi, lập ra vườn Cấp Cô[B]*[/B], gom nuôi các hồn ma chết bất đắc kỳ tử không nhà dưới âm ty, kể có hàng ngàn, ngày nào có người chết là phải đi chôn xác, xin mời xem qua một lần”. *vườn Cấp Cô: Kinh Kim cương chép nước Xá Vệ có một trưởng giả tên Tu Đạt Noa thường bố thí cho kẻ nghèo khổ bệnh tật cô độc, về sau xây vườn mời đức Phật thuyết pháp, người ta gọi là vườn Cấp Cô. Đây chỉ nơi trường sở làm việc từ thiện. Giây lát tới một cánh cổng đề chữ "Cấp Cô viên”, vào trong thấy nhà cửa ngang dọc chen lẫn, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy đèn xúm cả lại, đều đứt đầu cụt chân trông rất thê thảm. Quay ra định đi thì thấy có cái xác nằm ngang dưới tường, máu thịt bê bết, người tỳ nữ nói "Mới nửa ngày chưa kịp chôn mà đã bị chó xé nát rồi", rồi sai sinh chuyển đi. Sinh có vẻ ngần ngại, nàng nói "Nếu chàng không làm được thì xin mời cứ về chỗ yên vui vậy!". Sinh bất đắc dĩ phải vác xác đưa vào chỗ kín, rồi nhờ người tỳ nữ cố xin cho mình may ra khỏi phải làm công việc nhơ bẩn ấy, nàng bằng lòng. Đi tới gần một căn nhà, nàng nói "Cứ ngồi tạm ở đây để thiếp vào thưa, việc nuôi chó thì nhẹ nhàng hơn, có thể xin cho để chuộc lỗi vừa rồi". Vào trong giây lát thì đi nhanh ra nói "Vào đây vào đây nương tử ra đấy!". Sinh theo vào sảnh đường, thấy đèn lồng treo khắp bốn bên, có một cô gái ngồi gần phía trong cùng, khoảng hai mươi tuổi, phong thái như thiên tiên. Sinh lạy rạp dưới thềm, nàng lập tức sai kéo đứng lên, nói "Đây là một người học trò, làm sao nuôi chó nổi, có thể cho ở nhà phía tây trông coi sổ sách". Sinh mừng rỡ lạy tạ, cô gái nói "Người có vẻ thành thật chất phác, hãy làm việc cẩn thận. Nếu có sai phạm thì tội không nhẹ đâu, sinh líu ríu vâng dạ. Người tỳ nữ dẫn sang nhà phía tây, sinh thấy phòng ốc sạch sẽ mừng rỡ tạ ơn rồi hỏi thăm gia thế nương tử. Người tỳ nữ đáp "Nương tử tiểu tự là Cẩm Sắt, con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Thiếp tên Xuân Yến, hàng ngày có cần gì, xin cứ gọi". Người tỳ nữ ra đem áo giày chăn nệm vào đặt lên giường, sinh mừng vì được chỗ yên thân. Sáng ra sinh dậy sớm ra làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Tôi tớ trong nhà đều tới yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều nhưng sinh giữ ý đều từ chối, ngày hai bữa cơm đều từ nhà trong đưa ra. Nương tử xét thấy liêm khiết cẩn thận nên đặc cách ban cho mũ nhà nho và áo màu, phàm có ban thưởng gì đều sai Xuân Yến đem tới. Người tỳ nữ cũng rất phong vận, khi đã quen rồi thì nhiều phen liếc mắt đưa tình, nhưng sinh cẩn thận giữ mình không dám sơ suất, chỉ giả làm ra vẻ ngốc nghếch. Qua hơn hai năm tiền thưởng đã tăng gấp bội mà sinh vẫn cẩn thận chăm chỉ như cũ. Một đêm đang ngủ, chợt nghe nhà trong có tiếng la thét ầm ĩ, vội vùng dậy cầm đao ra thì thấy lửa đỏ rục trời, lần vào xem thì bọn cướp lố nhố đầy sân, đám tôi tớ sợ hãi chạy trốn. Một người giục cùng chạy trốn, sinh không nghe mà bôi đen mặt, thắt dây lưng chen vào đám cướp kêu to "Đừng làm Tiết nương tử sợ hãi, nhưng phải chia nhau tìm của cải đừng để sót?". Lúc ấy bọn cướp đang tìm kiếm Cẩm Sắt khắp các phòng mà chưa thấy, sinh biết nàng chưa bị bắt liền lén ra sau nhà tìm kiếm, gặp một bà già núp ở đó, mới biết nàng và Xuân Yến đã leo qua tường ra ngoài. Sinh cũng leo qua tường ra, thấy hai chủ tớ núp trong góc tối, liền nói “Chỗ này làm sao núp được?", cô gái đáp "Ta không sao đi được nữa”, Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới vào tới một hang núi sâu, đặt nàng xuống cho ngồi. Chợt có một con cọp tới, sinh cả kinh định xông ra chặn thì nó đã ngoạm lấy cô gái. Sinh vội túm chặt tai cọp, hết sức đẩy cánh tay vào miệng nó để thay cho Cẩm Sắt. Con cọp tức giận nhả cô gái ra ngoạm vào tay sinh nghe răng rắc, cánh tay lìa ra rơi xuống đất, con cọp cũng bỏ đi. Cô gái khóc nói “Khổ thân người, khổ thân ngươi!". Sinh đang hăng chưa biết đau, chỉ thấy máu chảy như suối bèn bảo người tỳ nữ xé vạt áo băng bó vết thương. Cô gái ngăn lại, cúi xuống nhặt cánh tay gãy rồi đích thân nối vào cho sinh, buộc chặt lại. Hừng sáng mới từ từ trở về, vào tới nhà thấy vắng tanh, trời sáng hẳn đám tôi tớ mới dần dần tụ tập lại. Cô gái đích thân tới thăm vết thương cho sinh, cởi vải buộc ra thì chỗ xương gãy đã liền lại, lại lấy thuốc ra rịt vào vết thương mới đi. Từ đó nàng càng quý trọng sinh, đồ ăn thức dùng đều cho hưởng ngang mình. Khi vết thương lành hẳn, cô gái đặt tiệc ở nhà trong để ủy lạo, bảo ngồi, sinh từ chối mấy lần mới ngồi ghé vào một góc. Cô gái nâng chén mời trân trọng như đối với khách, hồi lâu mới nói "Thân thiếp đã kề cận chàng, muốn học em gái vua Sở theo Chung Kiến[B]*[/B] nhưng hiềm không có ai mai mối, phải mặt dày tự nói ra”. Sinh hoảng sợ nói "Ta chịu ơn nặng, có chết cũng không đủ đền đáp, nếu làm quá phận thì e trời phạt, thật không dám theo lệnh. Nếu thương ta không có vợ thì ban cho một người tỳ nữ cũng đã là quá rồi”. *Chung Kiến: Tả truyện, Định công tứ niên chép quân Ngô đánh tới Sính Đô nước Sở, vua Sở và gia quyến phải tránh nạn, bề tôi của vua Sở là Chung Kiến ghé vai cõng em gái vua Ngô là Ngũ Thiên chạy. Về sau vua Sở định gả chồng cho em gái, Ngũ Thiên không chịu, nói đã kề cận với Chung Kiến lúc được ông ta cõng, vua Sở bèn gả nàng cho Chung Kiến. Một hôm, chị lớn cô gái là Dao Đài tới, là một giai nhân khoảng bốn mươi tuổi. Đến tối gọi sinh vào Dao Đài bảo ngồi rồi nói "Ta từ ngàn dặm tới đây để làm chủ hôn cho cô em, đêm nay có thể cho thành hôn với bậc quân tử, Sinh lại đứng lên từ tạ, Dao Đài liền gọi rót rượu bảo hai người đổi chén, sinh cố từ chối, Dao Đài giật chén đổi cho nhau, sinh bèn lạy rạp xuống đất tạ tội rồi mới uống. Dao Đài đi ra, cô gái nói "Nói thật với chàng, thiếp là tiên nữ có tội bị đày, tự xin cư ngụ ở cõi âm gom nuôi các oan hồn để chuộc tội. Vừa rồi gặp nạn Thiên ma nên có cái duyên kề cận thân thể với chàng, phải mời chị lớn từ xa tới làm chủ hôn và coi sóc việc nhà giùm để tiện theo chàng về trần". Sinh đứng dậy cung nói "Dưới đất vui lắm, chứ nhà ta có con vợ dữ, vả lại nhà cửa chật chội, không sao bàn cách vẹn tròn để sống với nhau”. Cô gái cười, chỉ nói không sao. Kế uống say cùng đi ngủ, vui vẻ yêu thương nhau rất mực. Qua vài hôm nàng nói với sinh “Cõi âm không thể chung sống lâu dài, xin chàng về ngay thu xếp việc nhà, xong rồi thiếp sẽ tự tới”. Rồi sai đem ngựa cho sinh, mở cửa bảo ra, vách núi đất lại liền như cũ. Sinh cưỡi ngựa về làng, người làng đều khiếp hãi, về tới cổng thì thấy nhà cao cửa rộng. Trước là khi sinh bỏ đi, vợ mời hai anh tới chuẩn bị roi gậy để đánh cho một trận trả thù, đến tối không thấy sinh về họ mới bỏ đi. Có người nhặt được chiếc giày của sinh trong khe nên ngờ rằng sinh đã chết, kế hơn năm vẫn không có tin tức gì. Có người lái buôn Mỗ ở Thiểm Tây hỏi cưới Lan thị, bèn tới ở luôn nhà sinh, trong vòng nửa năm xây cất thành tòa ngang dãy dọc. Người lái buôn đi xa buôn bán, lại mua một người thiếp về, từ đó trong nhà lục đục, y có khi cũng hàng mấy tháng không về. Sinh hỏi biết chuyện nổi giận, buộc ngựa bước vào thì gặp bà già hầu hạ vợ ngày trước. Bà già hoảng sợ lạy phục xuống đất, sinh mắng chửi hồi lâu, bắt dẫn tới phòng vợ tìm thì đã trốn đâu mất, kế tìm thấy ở sau nhà thì đã thắt cổ chết rồi. Sinh sai khiêng xác trả cho nhà họ Lan rồi cho gọi người thiếp của người lái buôn ra, thấy tuổi khoảng mười tám mười chín, cũng khá xinh đẹp bèn giữ lại trong phòng ngủ. Người lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả lại người thiếp, nhưng nàng kêu khóc không chịu đi. Sinh bèn làm đơn định kiện y về tội chiếm nhà cướp vợ, người lái buôn không dám nói gì nữa, dọn hàng quay về Thiểm Tây. Sinh đang ngờ Cẩm Sắt phụ ước, một tối đang uống rượu với người thiếp thì có xe ngựa tới cổng, cô gái bước vào, chỉ giữ lại xuân Yến còn cho tất cả tùy tùng trở về. Vào tới phòng, người thiếp ra lạy chào, nàng nói "Người này có tướng sinh con trai, có thể chịu khổ thay thiếp", rồi lập tức ban cho quần áo nữ trang. Người thiếp lạy tạ nhận lấy rồi đứng hầu, nàng kéo ngồi xuống cùng chuyện trò rất vui vẻ, hồi lâu nói "Ta say rồi, muốn đi ngủ”. Sinh cũng cởi giày lên giường, người thiếp mới đi ra. Về tới phòng thấy sinh đã nằm trên giường, lấy làm lạ quay lại xem thì đèn trong phòng cô gái đã tắt. Sinh đêm nào cũng ngủ ở phòng người thiếp, nhưng một đêm người thiếp trở dậy tới nhìn trộm vào phòng cô gái thì thấy sinh đang chuyện trò nói cười với nàng, lấy làm lạ lùng vội quay về định nói với sinh thì chỉ thấy có giường không. Sáng ra lén kể cho sinh, sinh cũng không tự biết, chỉ thấy mình lúc thì trong phòng cô gái, lúc thì ngủ phòng người thiếp mà thôi, bèn dặn giấu kín chuyện lạ ấy. Lâu sau Xuân Yến có mang, cô gái vẫn như không biết gì, khi người tỳ nữ lâm bồn sinh khó bèn gọi nương tử, nàng bước vào thì sinh được ngay, là con trai. Nàng cắt rốn xong đặt vào lòng người tỳ nữ rồi cười nói "Con nhãi đừng thế nữa nhé, nhiều nghiệp chướng thì lắm tai nạn thôi?", từ đó Xuân Yến không sinh đẻ nữa. Người thiếp thì sinh được năm trai hai gái. Ở đó ba mươi năm, thỉnh thoảng cô gái lại trở về nhà, đi về đều vào lúc ban dêm. Một hôm nàng dắt người tỳ nữ đi không trở lại nữa. Sinh sống đến tám mươi tuổi, chợt một đêm dắt người lão bộc ra đi, cũng không trở về. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 225 - 226 -[/B] Phòng Văn Thục (Phòng Văn Thục) Đặng Thành Đức người phủ Khai Phong (tỉnh thành Hà Nam) du học tới Duyện Châu (tỉnh Sơn Đông), ngụ trong ngôi chùa nát, chép thuê cho người coi việc làm sổ sách hộ tịch ở đó. Cuối năm đám nha dịch đều về nhà, riêng Đặng ở lại nấu cơm ăn một mình trong chùa. Sáng tinh mơ có người thiếu phụ gõ cửa vào, nhan sắc tuyệt đẹp, tới trước bàn thờ Phật thắp hương quỳ lạy rồi ra, hôm sau cũng thế. Đến khuya Đặng trở dậy thắp đèn, đang làm việc thì nàng tới sớm hơn. Đặng hỏi "Sao tới sớm thế?" nàng đáp "Sáng ra thì đông người lộn xộn, chẳng bằng cứ tới sớm, nhưng sớm quá lại sợ quấy rầy giấc ngủ của chàng, vừa rồi nhìn thấy ánh đèn, biết chàng đã dậy nên mới tới thôi". Sinh đùa nói "Trong chùa không có người, tới ở luôn cho khỏi mất công đi lại". Nàng mỉm cười đáp "Trong chùa không có người, thì chàng là ma à?". Đặng thấy có thể tán tỉnh, bèn chờ nàng làm lễ xong kéo ngồi lại đòi giao hoan. Nàng nói "Trước bàn thờ Phật làm thế sao được? Đã không có nhà cửa gì mà còn mong muốn bậy bạ". Đặng nài nỉ mãi không thôi, nàng nói "Cách đây ba mươi dặm, trong làng nọ có sáu bảy đứa nhỏ mời thầy dạy học chưa được. Chàng hãy tới đó hỏi Lý Tiền Xuyên, có thể được nhận, rồi nói là có mang vợ đi cùng, bảo họ xếp cho một gian nhà riêng, thiếp sẽ lo cơm nước cho, như thế mới là kế lâu dài”. Đặng sợ việc lộ ra sẽ bị tội, nàng nói "Không sao đâu, thiếp họ Phòng tên Văn Thục, không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, ai mà biết được!”. Đặng mừng rỡ từ biệt nàng, tới ngay làng nọ yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên như đã bàn tính, hẹn sẽ mang gia quyến tới trước Tết. Trở về, sáng ra nói cho cô gái biết, nàng hẹn sẽ chờ dọc đường. Đặng từ biệt bè bạn, thuê ngựa đi, được nửa đường quả nhiên gặp cô gái đứng chờ, bèn xuống ngựa trao dây cương cho nàng dắt rồi cùng đi. Tới nơi dạy học chung sống với nhau rất tương đắc, suốt sáu bảy năm như vợ chồng mà cũng không có ai tìm bắt người đi trốn. Cô gái chợt sinh được một đứa con trai, Đặng vì vợ ở nhà không sinh đẻ nên có con mừng lắm, đặt tên là Duyện Sinh. Cô gái nói “Vợ chồng giả rốt lại cũng khó thành chuyện thật, thiếp đang định từ giã chàng đi, lại sinh ra của nợ này không biết để làm gì?" Đặng nói "Đang tính nếu may mắn để dành được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê, sao lại nói thế?”. Nàng đáp "Cảm ơn! Cảm ơn! Ta không thể nhăn nhở mơn trớn lấy lòng để mong chị cả bao dung, mà làm vú em cho người, trẻ con oe oe khó chịu lắm". Đặng thanh minh rằng vợ mình không ghen, cô gái cũng không nói gì. Hơn một tháng sau, Đặng thôi dạy học, định đi buôn chung với con trai Tiền Xuyên, nói với cô gái "Ta nghĩ làm thầy mở lớp thì không bao giờ giàu được, nay học đi buôn ngõ hầu còn có ngày về được quê”, nàng cũng không đáp. Đến tối, bỗng nàng bế con dậy, Đặng hỏi làm gì, nàng đáp "Thiếp muốn đi". Đặng vội trở dậy đuổi theo hỏi han, nhưng cổng còn chưa mở mà cô gái đã biến mất, sợ quá mới biết nàng không phải là người. Đặng vì thấy lai lịch nàng đáng ngờ nên không dám kể cho ai, chỉ nói thác là vợ về thăm cha mẹ ruột. Trước kia, lúc Đặng ra đi có hẹn với vợ là Lâu thị rằng cuối năm sẽ về, nhưng suốt mấy năm không có tin tức gì, người ta đồn là đã chết. Anh trai thấy không có con, muốn nàng lấy chồng khác, Lâu xin đợi ba năm nữa, hàng ngày chỉ lủi thủi ở một mình một nhà, kéo sợi sinh nhai. Một hôm trời vừa tối, nàng ra đóng cổng ngoài thì có một cô gái bước vào, bế theo một đứa bé còn quấn tã, nói “Ta từ nhà mẹ đẻ trở về, tới đây thì vừa tối, biết chị ở có một mình nên xin ngủ nhờ ". Lâu mời vào, tới trong phòng nhìn kỹ thì là một người đẹp khoảng hơn hai mươi tuổi, vui vẻ cho nằm chung giường. Nhân đùa giỡn với đứa nhỏ, thấy nó trắng như quả bầu, than rằng "Mụ góa ta lại không có được một đứa con thế này". Cô gái nói "Ta đang ngại vì nuôi nó phiền quá, nếu cho chị làm con nuôi để nối dõi thì chị thấy sao?” Lâu nói "Chưa nói tới chuyện nương tử không nỡ dứt tình, cho dù có nỡ thiếp cũng không có sữa, làm sao nuôi được?” Cô gái nói "Chuyện đó có gì khó, lúc sinh cháu, ta cũng lo không có sữa, chỉ uống nửa tễ thuốc là có ngay. Nay thuốc thừa vẫn còn đây, xin biếu cho chị”, rồi lấy gói thuốc ra đặt trước cửa sổ. Lâu thị ậm ừ, chưa thấy có gì khác lạ. Kế ngủ đi, khi tỉnh dậy gọi thì đứa nhỏ còn đó mà cô gái đã mở cửa đi rồi, vô cùng khiếp sợ. Rạng sáng đứa nhỏ khát sữa khóc đòi bú, Lâu bất đắc dĩ phải uống thuốc, giây lát sữa chảy ròng ròng bèn cho nó bú. Hơn một năm, đứa nhỏ ngày càng bụ bẫm, bắt đầu học nói, nàng thương yêu chẳng khác gì con mình đẻ ra, vì vậy bỏ luôn ý định cải giá. Nhưng sáng ra đã phải bế con, không làm gì được nên ngày càng túng thiếu. Một hôm cô gái chợt tới, Lâu sợ đòi lại con, trước tiên trách ngay về việc lẳng lặng bỏ đi không nói, kế kể tới nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa nhỏ. Cô gái cười nói "Chị kêu ca khó nhọc thì ta không đòi con lại sao?", rồi vẫy gọi con. Đứa nhỏ khóc sà vào lòng Lâu thị, cô gái nói “Con nghé con không nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu trăm lượng vàng cũng khó đổi được, cứ chồng tiền ra để làm giấy tờ". Lâu tưởng nói thật giận tím mặt, cô gái cười nói “Chị đừng sợ, thiếp tới chính vì con mà! Sau khi ra đi, lo chị không có tiền nuôi cháu, nên tìm đủ cách kiếm được hơn mười lượng vàng”, rồi lấy vàng ra đưa Lâu. Lâu sợ nhận vàng xong cô gái sẽ có cớ đòi con nên nhất quyết từ chối, cô gái bèn đặt vàng lên giường rồi ra cửa đi thẳng. Lâu bế con đuổi theo ra thì nàng đã đi xa, gọi cũng không ngoái lại, còn ngờ là có ý ác, nhưng được vàng đem cho vay lấy lời, trong nhà cũng no đủ. Ba năm sau Đặng buôn bán có tiền sắm sữa hành trang trở về nhà. Đang cùng hỏi han an ủi nhau, thấy có đứa nhỏ hỏi con nhà ai, vợ kể lại duyên do. Đặng hỏi tên, Lâu đáp "Mẹ nó gọi là Duyện Sinh, thiếp cũng giữ nguyên như cũ. Đặng ngạc nhiên nói "Thế thì đúng là con ta đấy". Hỏi lại ngày giờ thì đúng đêm cô gái bế con đi. Đặng bèn kể lại hết chuyện hợp tan với Phòng Văn Thục, hai vợ chồng càng thêm vui mừng khuây khỏa, vẫn mong cô gái trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm. [B]226. Nhốt Rắn (Khoán Xà)[/B] Trong núi ở huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) vốn có ngôi chùa, bốn bề không có thôn xóm, ít người lui tới, chỉ có đạo sĩ trú ngụ. Có người nói rằng trong núi có nhiều rắn lớn, nên những kẻ du ngoạn càng lánh xa. Có một thiếu niên vào núi bắt chim ưng, vào sâu quá không có chỗ nào ngủ đêm, nhìn thấy phía xa có chùa chiền bèn rảo bước tới gõ cửa. Đạo sĩ hoảng sợ nói "Sao cư sĩ lại tới đây? May mà không gặp phải đám trẻ”, rồi vội bảo ngồi, dọn cháo cho ăn. Thiếu niên ăn thưa xong thì có một con rắn lớn bò vào, to hơn mười ôm, ngóc đầu nhìn khách, mắt long lên giận dữ. Khách cả sợ, đạo sĩ đánh vào đầu rắn quát “Ra ngoài!", con rắn mới mọp đầu bò vào gian phòng phía đông, ngoằn ngoèo mãi một lúc mới lọt hẳn vào trong, nằm khoanh tròn chật cả phòng, khách cả sợ run lẩy bẩy. Đạo sĩ nói “Trước nay ta vẫn nuôi nó, nên nếu có ta thì không sao, chỉ sợ có ai một mình gặp nó mà thôi”. Khách vừa ngồi yên, lại có một con rắn khác bò vào, hơi nhỏ hơn con trước, to độ năm sáu ôm, thấy khách thì dừng lại, trợn mắt thè lưỡi giống như con trước. Đạo sĩ lại quát, nó cũng bò vào phòng. Trong phòng không còn chỗ nằm, nó vắt nửa thân lên khoanh vào xà nhà, đất trên vách tường cứ rơi đồm độp. Khách càng sợ hãi, cả đêm không dám ngủ, sáng ra dậy sớm xin về. Đạo sĩ đưa ra cổng chùa, thì thấy trên tường dưới thềm lúc nhúc những rắn to bằng cái vò cái chậu, thấy người lạ đều toan cắn. Khách sợ, cứ nép vào sát người đạo sĩ mà đi, đạo sĩ đưa khách tới cửa núi mới trở về. Quê ta có mấy người làm khách ở Trung Châu (tỉnh Phúc Kiến), tới ngủ nhờ trong một ngôi chùa nhốt rắn. Sư trong chùa làm cơm tối mời, có món canh thịt rất ngon nhưng cứ tròn tròn từng khúc từng khúc như cổ gà. Khách lấy làm lạ, hỏi sư giết bao nhiêu gà mà có lắm cổ thế. Sư đáp "Đây là rắn chặt ra đấy!". Khách phát hoảng, có người ra ngoài nôn mửa. Đến lúc nằm ngủ, chợt thấy trên bụng có vật gì mềm mềm động đậy, sờ thử thì là rắn, sợ hãi vùng dậy la ầm lên. Sư tỉnh dậy nói "Đó là chuyện thường, có gì lạ đâu mà!". Nhân đánh lửa soi lên vách cho xem, thì rắn lớn rắn nhỏ đầy trên tường, trên giường dưới sàn cũng toàn là rắn. Hôm sau sư dẫn khách vào điện Phật, dưới tòa Phật có cái giếng lớn, trong có con rắn to như cái chum lớn nghểnh đầu lên miệng giếng nhưng không bò lên. Soi đuốc xuống nhìn thì bên dưới lúc nhúc rắn con rắn cháu, tính ra có tới hàng trăm vạn con, cả một bầy bên dưới. Sư nói "Trước đây rắn lên khỏi giếng gây hại dữ lắm, từ khi xây tòa Phật bên trên để trấn yểm thì mới yên ổn". [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 227 - 233 -[/B] Thư Sinh Ngông (Cuồng Sinh) Học sứ họ Lưu kể ở châu Tế Ninh (tỉnh Sơn Đông) có thư sinh ngông, tính hay rượu. Nhà không có được hai thạch gạo, nhưng kiếm được tiền là mua rượu, không hề lo lắng tới chuyện cùng quẫn. Gặp lúc có quan Thứ sử mới đáo nhiệm, tửu lượng cao chưa gặp ai uống bằng, nghe tiếng sinh bèn mời tới cùng uống rượu, thích lắm, thường uống với nhau. Sinh cậy quen biết, nên cứ có ai kiện tụng chuyện nhỏ muốn được kiện biếu xén món tiền còm lại nói hộ, Thứ sử đều ưng thuận. Sinh quen lệ cứ thế làm mãi, Thứ sử đâm ghét. Một hôm, Thứ sử vừa ra công đường buổi sáng, sinh cầm thiếp bước lên trình. Thứ sử nhìn xong cười khẩy, sinh lớn tiếng nói “Ông thấy được thì cho, không được thì thôi, chứ cười cái gì? Vẫn nghe kẻ sĩ có thể giết chết chứ không thể làm nhục, chuyện khác thì không thể báo hờn, chứ chẳng lẽ một cái cùm lại không báo được à?". Nói xong cười lớn một tràng vang dội cả công đường. Thứ sử nổi giận nói "Ngươi dám vô lễ à? Không nghe tiếng quan Lệnh doãn làm tan nát nhà cửa sao?” Sinh phẩy tay áo bước xuống thềm, lớn tiếng đáp "Thằng học trò này không có nhà cửa gì để tan nát cả” Thứ sử càng tức giận, sai bắt trói lại. Rồi hỏi tới nhà cửa, thì sinh chẳng có nhà đất gì, chỉ dắt vợ tới ở trên tường thành. Thứ sử nghe thế bèn thả ra, nhưng ra lệnh đuổi không cho ở trên tường thành nữa. Bè bạn thương vì ngông, góp tiền mua cho vài thước đất, xây cho một cái lều trong thành. Sinh vào ở, than rằng “Từ nay trở đi thì phải sợ quan Lệnh doãn rồi!". [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Kẻ sĩ quân tử theo pháp luật, giữ lễ nghi, không dám ăn cướp giữa chợ, thì dẫu là nhà vua đi chăng nữa cũng làm gì được mình? Nhưng nếu có kẻ thù oán mà ngày càng ghét thêm, thì đó là vì mình có nhà cửa mà thôi. Còn nếu như chẳng có nhà cửa gì để tan nát, thì kẻ căm ghét tới đâu cũng không có chỗ nào để hại cả. Ôi, người kia chắc như lời người ta nói, là cậy nghèo hèn để khinh người chăng! Song chỉ có bậc quân tử mới có thể tuy nghèo nhưng không khinh suất mà xúc phạm người, thế mà y vì miếng ăn để lụy thân, hò hét ở công đường, cũng mất phẩm giá lắm. Có điều ngông như thế thì không ai bằng được thật.[/I] [B]228. Tôn Tất Chấn[/B] [B](Tôn Tất Chấn)[/B] Tôn Tất Chấn qua sông, gặp lúc mưa to gió lớn, thuyền bè nghiêng ngã, người trong thuyền sợ lắm. Chợt thấy một vị thần mặc giáp vàng đứng trong mây cầm một cái bài vàng đưa xuống cho nhìn. Mọi người cùng ngẩng lên xem, thấy ở trên đề ba chữ “Tôn Tất Chấn” rất rõ ràng. Mọi người nói với Tôn Tất Chấn rằng "Ngươi đã phạm tội bị trời phạt, xin mời qua một thuyền riêng, đừng làm lụy cho cả bọn ta". Tôn còn chưa kịp nói gì, họ cũng không đợi là có ưng thuận hay không, thấy cạnh thuyền có chiếc xuồng con, liền xúm vào đẩy Tôn qua đó. Tôn vừa ngồi yên xong, quay nhìn thì chiếc thuyền lớn đã chìm rồi. [B]229. Trương Bất Lượng[/B] [B] (Trương Bất Lượng)[/B] Nhà buôn nọ đi tới ranh giới tỉnh Trục Lệ chợt gặp mưa đá, bèn núp vào đám lúa. Nghe trên không có tiếng nói "Đây là ruộng của Trương Bất Lượng, đừng làm hại lúa của y". Nhà buôn nghĩ thầm không biết họ Trương là ai, mà "bất lương” tại sao còn được trời che chở. Trời tạnh bèn vào thôn hỏi thăm, quả có người tên như thế, liền thuật lại điều mình nghe, lại hỏi cái tên "Bất Lượng" có nghĩa là gì. Thì ra họ Trương giàu có, thóc lúa rất nhiều, cứ đến mùa xuân lại có nhiều người nghèo túng tới vay, lúc trả thường không đủ số, nhưng Trương vẫn nhận cả không hề đong lường tính toán chi ly nên người làng gọi là “Bất Lượng" (không đong). Mọi người ùa ra đồng xem, thấy lúa khắp nơi xơ xác, chỉ riêng ruộng của họ Trương là không tổn hại gì. [B]Phụ: Một Truyện Trong Khoáng Viên Tạp Chí Của Ngô Bảo Nhai (Trần Diệm) (Phụ: Ngô Bảo Nhai Trần Diệm Khoáng Viên tạp chí nhất tắc) [/B] Sư Tế Thủy ở Hoa Ổ kể vào năm Thuận Trị thứ 18 (1661) có một người ăn mày ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là thần vâng sắc lệnh làm mưa đá. Có người tránh mưa đá nghe trên không có tiếng nói "Đừng làm tổn hại ruộng của Trương Bất Lượng". Tạnh mưa thì ruộng các nơi đều tan tác, chỉ riêng ruộng của Trương là không tổn hại gì. Thì ra họ Trương nhận thóc người khác trả nợ, bảo cứ tự đem đổ vào vựa, không hề đong lại, nên người ta ca ngợi là "Bất Lượng" (không đong). Chuyện này cũng giống chuyện Tưởng Tự Lượng thời Nam Tống. Họ Tưởng người đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), anh cả tên Sùng Nhân, kế tên Sùng Nghĩa, kế tên Sùng Tín, ba anh em đều nhân đức như nhau. Thường đặt các loại thưng đấu công ở kho, ai tới vay thóc cũng đều bảo tự đong lấy, năm mất mùa cũng thế. Người ta vì thế gọi là Tưởng “Tự Lượng” (tự đong). Năm Hàm Thuần thứ 3 (1267) có chiếu phong ba anh em là Quảng Phúc hầu, nay vẫn còn miếu thờ trên Lam Kiều. [B]230. Tấm Nệm Hồng Mao[/B] [B] (Hồng Mao Chiên)[/B] Nước Hồng Mao trước có hẹn qua buôn bán ở Trung Quốc, chủ tướng ở biên cương thấy họ đông người không cho lên bờ. Người Hồng Mao cố nài, chỉ xin cho được đặt chân lên một khoảnh đất rộng bằng tấm nệm lông thôi. Viên chủ tướng nghĩ một tấm nệm lông thì có được bao nhiêu, bèn cho. Người Hồng Mao đặt tấm nệm lên bờ, thoạt tiên chỉ đủ chỗ cho hai người, kế nở ra đủ chỗ cho bốn năm người, trong chớp mắt tấm nệm nở rộng ra hơn một mẫu đất, đủ chỗ cho mấy trăm người. Họ cùng rút đoản đao ra, nhân lúc bất ngờ cướp phá cả mấy dặm rồi bỏ đi. [B]231. Quảy Xác Chết[/B] [B](Phụ Thi)[/B] Có người tiều phu ra chợ bán củi, vác đòn gánh trở về, chợt thấy đầu đòn gánh như có vật nặng máng vào, quay nhìn thấy một cái xác chết không đầu treo lủng lẳng, phát hoảng rẫy đòn gánh ra đập túi bụi, chợt không thấy đâu nữa. Y sợ hãi chạy vào một thôn gần đó, lúc ấy trời đã sập tối, thấy có mấy người đốt đuốc soi trên mặt nước như tìm vật gì. Tới gần hỏi thăm thì ra bọn họ đang ngồi chơi, chợt có cái đầu trên không rơi xuống, râu tóc bòm sờm, trong phút chốc thì biến mất. Người tiều phu kể lại việc mình gặp, tính ra thì đủ một xác người, nhưng nghĩ mãi không biết từ đâu tới. Sau cũng có người quảy sọt muối đi trên đường, người ta thấy trong sọt muối có cái đầu người, lấy làm kỳ quái căn vặn. Y quay nhìn mới phát hoảng đổ ụp cái sọt ra đất, cái đầu người lăn tròn rồi biến mất. [B]232. Cúc Dược Như[/B] [B](Cúc Dược Như)[/B] Cúc Dược Như là người phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), vợ chết, bỏ nhà đi mất. Mấy năm sau ăn mặc như lối đạo sĩ trở về ngủ lại một đêm rồi định đi. Họ hàng họ hàng ép ở lại, giữ riệt lấy quần áo pháp trượng. Cúc nói thác là đi dạo, ra tới ngoài thôn thì áo quần đồ vật từ trong nhà đều phấp phới bay ra, theo Cúc đi mất. [B]233. Hộ Ăn Cướp[/B] [B](Đạo Hộ)[/B] Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) ở vùng Đằng, Dịch (tỉnh Sơn Đông) cứ mười người thì có sáu bảy làm cướp, quan không dám nã bắt. Về sau bọn chúng quy thuận, quan huyện biên tên riêng làm "hộ ăn cướp". Nếu chúng có tranh giành kiện tụng với dân thường, thì lại thiên vị xử cho chúng được, đại khái vì sợ chúng lại nổi dậy. Về sau những kẻ thưa kiện cứ nhận bừa là hộ ăn cướp, còn bên kia thì cứ ra sức cãi là mạo nhận. Bên nguyên bên bị ai cũng nhận mình là phải, còn quan thì chưa xét chuyện phải trái, trước hết cứ xét bên nào là hộ ăn cướp thật đã, thưa lên kiện xuống, đám nha lại lục lọi sổ sách hộ khẩu rất vất vả. Lúc ấy trong công thự có nhiều hồ, quan huyện có con gái bị hồ quấy phá, bèn đem lễ vật đón thuật sĩ tới, dùng bùa phép bắt được hồ bỏ vào vò, đặt lên lò lửa. Hồ ở trong vò kêu to "Ta là hộ ăn cướp đây", ai nghe chuyện cũng bật cười. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nay có kẻ đốt nhà cướp của, quan lại không cho là ăn cướp mà cho là kẻ gian, còn có kẻ trèo tường gian dâm lại không tự nhận là kẻ gian mà nhận là ăn cướp, thì thế sự đã thay đổi nhiều rồi. Giả như nay trong dinh quan có hồ, thì ắt cũng kêu to rằng ta đúng là ăn cướp đây. Ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) từ thuế má dao dịch cho tới các khoản trưng thu thì dân thường phải chịu gấp mấy lần so với nhà thân hào. Cho nên những nhà có ruộng đều tranh nhau tới nhờ nhà thân hào đứng tên, tuy không hại gì tới thuế nước nhưng có chỗ tổn thất cho quan lại. Huyện lệnh Chung xin trừ mối tệ ấy, được quan trên ưng thuận. Lúc đầu sai tự thú, kế những dân gian trá lấy đó làm bậy, ruộng đất bán đi đã vài mươi năm cũng nói là nhờ đứng tên để kiện lại người mua. Huyện lệnh đều thiên vị họ, nên những dân lương thiện hiền lành nhiều người bị mất cơ nghiệp. Có Lý sinh bị Mỗ Giáp kiện, cùng lên đối chất, Giáp gọi Lý là Tú tài, Lý lớn tiếng tranh cãi nói mình không phải là Tú tài, ầm ĩ không ngớt. Huyện lệnh hỏi tả hữu, đều nói là Tú tài thật. Quan hỏi tại sao không nhận, Lý nói "Tú tài thì cao quý, nhưng cứ chờ tranh giành đất đai xong sẽ làm cũng chưa muộn". Ôi, danh hiệu ăn cướp thì tranh nhau mà nhận, danh hiệu Tú tài thì tranh nhau mà chối, chuyện đổi đời mới kỳ lạ làm sao. Có người dâng đơn nặc danh kiện về việc làm trái pháp luật thôn tính tài sản, nói "Tuổi già không thể làm lụng đóng thuế, nên có năm mươi mẫu ruộng gần thành, vào năm Lỗ ân công thứ 1 (722 trước công nguyên) tạm nhờ thân hào gian ác là Nhan Uyên đúng tên. Nay lệnh quan nghiêm khắc, theo lẽ phải tự thú. Nhưng tên thân hào gian ác ấy không chịu trả, tới nói lý lẽ thì bị thầy y dắt đồng đảng bảy mươi hai người mang gậy gộc xúm vào đánh đập túi bụi, gãy cả tay chân, lại lôi vào nhốt trong căn nhà dột, mỗi ngày mang cho một giỏ cơm một bầu nước, suýt nữa thì chết đói, có làng xóm làm chứng. Vậy cúi xin nghiêm khắc tra xét, trả lại điền sản mồ hôi nước mắt cho. Nay tố cáo", quả thật có thể nói là theo Liễu Chích mà kiện Di Tề[B]*[/B].[/I] *Có người dâng đơn. Di Tề: Khổng Tử gia ngữ nói Nhan Uyên, một học trò giỏi của Khổng Tử có năm mươi mẫu ruộng gần thành, Luận ngữ nói Nhan Uyên là người hiền, ở nhà dột, một giỏ cơm một bầu nước vẫn vui với đạo. Lá đơn kiện nói trên là trào phúng để châm chọc, như nói thầy của Nhan Uyên dắt bảy mươi hai đồng đảng ra đánh mình là nhân chuyện “Khổng môn thất thập nhị hiền" mà bịa ra. Chuyện Liễu Chích kiện Di Tề cũng tương tự. Kiên biều tập chép đời Minh Mục tông Hải Đoan làm Tuần phủ Trực Lệ, có ý đè nén các nhà giàu nên phong khí dân gian điêu ngoa gian trá, có người dâng đơn kiện nặc danh tố cáo Liễu Hạ Huệ và Đạo Chích cậy thế cướp ruộng của dân, hai con vua Cô Trúc là Bá Di Thúc Tề cậy thế cha đào mộ của dân bị kiện, đút lót cho cận thần của vua là Lỗ Trọng Liên để ỉm chuyện đi vân vân (Liễu Hạ Huệ là cao sĩ nước Tề thời Chiến quốc, Đạo Chích tương truyền là tên cướp nổi tiếng thời thượng cổ. Bá Di Thúc Tề người cuối thời Thương, lúc Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ nhà ân, hai người đón dường can ngăn không được bèn thề "không ăn thóc nhà Chu, lên núi Thú Dương hái rau vi ăn, cuối cùng chết đói. Lỗ Trọng Liên là ẩn sĩ nước Tề thời Chiến quốc). [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển XIII - 234 - 236[/B] Trộm Đào (Thâu Đào) Lúc còn nhỏ có lần ta lên tỉnh chơi đúng vào dịp tiết Lập xuân. Theo lệ cũ thì trước đó một hôm, các nhà buôn bán trên phố đều kết kiệu hoa trỗi đàn sáo đưa đám rước tới tỉnh đường, gọi là "diễn xuân". Ta cùng bạn bè kéo nhau đi xem, hôm ấy người đông nghẹt, trên sảnh đường có bốn ông quan mặc áo đỏ ngồi đối diện nhau theo hướng đông tây. Lúc ấy ta còn là trẻ con, chẳng biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng cười nói ồn ào, trống chiêng ầm ĩ. Chợt có một người dắt đứa trẻ con xỏa tóc, vác hòm lên thềm, như muốn thưa bẩm. Đang khi ồn ào ầm ĩ, cũng chẳng nghe là thưa gởi những gì, chỉ thấy trên thềm cười rộ. Kế có người lính hầu bước ra lớn tiếng sai diễn trò, người ấy vâng lệnh bắt đầu, hỏi diễn trò gì. Các quan nói với nhau vài câu, rồi người lính hầu lớn tiếng hỏi giỏi trò gì, người ấy đáp giỏi trò đánh tráo vật sống. Người lính hầu vào bẩm quan một lúc, lại trở ra sai diễn trò hái đào. Người diễn trò vâng dạ, cởi áo phủ lên cái hòm, làm ra bộ oán thán nói "Bậc quan trưởng thật chẳng nghĩ cho, băng chưa tan trời còn lạnh, lấy đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, làm thế nào được?". Đứa con nói "Cha đã hứa, sao lại chối từ”. Người diễn trò ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói "Ta nghĩ kỹ rồi, đầu mùa xuân tuyết chưa tan, tìm đâu ra đào ở cõi trần. Chỉ vườn của Tây Vương mẫu bốn mùa cây cỏ đều xanh tươi, may ra thì có, phải lên trời ăn trộm thôi”. Đứa con nói "Ô, trời mà lên được à?”, đáp "Có cách đây". Bèn mở hòm lấy ra một cuộn dây dài vài mươi trượng thắt thòng lọng một đầu rồi ném lên không, sợi dây lơ lửng trên không rủ xuống như mắc vào vật gì vậy. Không bao lâu càng ném càng cao, sợi dây cứ vào dần trong mây ra, khi cuộn dây trong tay đã hết bèn gọi đứa con nói “Con ơi lại đây! Cha già yếu, nặng nề lóng ngóng không leo được, ngươi đi một chuyến!", rồi đưa đầu sợi dây cho đứa con nói "Cứ bám vào mà leo lên". Thằng con cầm dây ra vẻ khó khăn, oán trách “Ông già thật là lẩm cẩm, một sợi dây thế này mà bảo ta bám vào leo lên trời cao muôn trượng, giả như nửa chừng dây đứt, còn gì là xương ta?". Người cha lại thúc ép, nói "Cha đã lỡ miệng hứa rồi, hối cũng không kịp. Con ráng đi một chuyến, đừng ngại khó nhọc, nếu ăn trộm được đào, ắt sẽ được thưởng hàng trăm đồng tiền vàng, cha sẽ cưới cho một con vợ đẹp". Đứa con bèn nắm sợi dây leo lên, tay kéo chân quặp, như con nhện leo tơ, dần dần vào trong mây không thấy đâu nữa. Hồi lâu có một trái đào to bằng cái bát rơi xuống, người diễn trò mừng rỡ nhặt lấy đem dâng lên, các quan trên sảnh đường chuyền tay nhau xem hồi lâu, cũng không biết là giả hay thật. Chợt sợi dây rơi xuống đất, người diễn trò hoảng sợ nói "Chết rồi! Trên trời có người cắt sợi dây của ta, thằng nhỏ biết bám vào đâu?". Giây lát có một vật rơi xuống, nhìn ra là cái đầu của đứa con, người diễn trò ôm lên khóc nói "Đây ắt là nó trộm đào bị người canh bắt được, con ta thế là chết rồi!". Giây lát lại một cái chân rơi xuống không thiếu chút gì. Người diễn trò hết sức bi thương, nhặt tất cả cho vào cái hòm đậy lại, nói "Già này chỉ có một đứa con hàng ngày cùng nhau lên bắc xuống nam, nay vâng nghiêm lệnh, không ngờ chuốc phải tai họa thảm lạ đến như thế, phải mang đi chôn thôi". Rồi lên sảnh đường quỳ xuống nói "Vì chuyện hái đào mà con ta chết rồi? Nếu các quan thương giúp tiền tho tiểu nhân chôn cất nó, sẽ xin kết cỏ ngậm vành để đền ơn". Mọi người ngồi xem kinh sợ, ai cũng cho tiền. Người diễn trò nhận lấy giắt vào lưng, rồi gõ vào cái hòm kêu "Bát Bát ơi, còn chờ gì mà không ra cám ơn?". Chợt một đứa trẻ tóc tai bù xù đầu đội nắp hòm chui ra khom người cúi đầu bái tạ, thì ra là đứa con. Ta lấy làm lạ về thuật ấy nên đến nay vẫn còn nhớ. Về sau nghe nói Bạch Liên giáo có thể làm được thuật ấy, có lẽ ngườỉ diễn trò là dòng dõi của họ chăng? [B]235. Thuật Mồm[/B] [B] (Khẩu Kỹ)[/B] Một cô gái tới làng, tuổi chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm, khoác một túi thuốc đi bán. Có người hỏi xin chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn, bảo đến tối hỏi thần, rồi chiều tối dọn dẹp sạch sẽ một gian phòng nhỏ, vào trong đóng chặt cửa lại. Mọi người xúm xít quanh cửa sổ lắng tai nghe ngóng, chỉ thì thào nóỉ chuyện, không dám ho hắng. Đến giữa canh một, chợt nghe thấy tiếng rèm lay động, cô gái bên trong nói "Cô Chín tới phải không?” một cô gái đáp tới rồi. Lại hỏi "Lạp Mai theo cô Chín tới đấy à?", như có một tỳ nữ đáp vâng ạ. Ba người ríu rít trò chuyện không ngớt. Giây lát lại có tiếng rèm cửa lay động, cô gái nói “Cô Sáu tới rồi", mọi người cùng nói "Xuân Mai cũng bế tiểu lang theo đấy à", có tiếng một cô gái đáp "Tiểu ca kêu khóc không chịu ngủ, nhất định đòi đi theo nương tử, nặng như cả trăm cân, cõng mệt gần chết". Rồi nghe tiếng cô gái nựng nịu, tiếng cô Chín hỏi thăm, tiếng cô Sáu chuyện trò, tiếng hai người tỳ nữ dỗ dành, tiếng trẻ con cười giỡn, rộ lên một hồi. Kế lại nghe cô gái cười nói "Cậu ấm cũng nghịch ngợm quá, xa xôi như thế mà ôm cả con mèo theo". Rồi tiếng nói ngớt dần, lại có tiếng rèm cửa lay động, tất cả lại ồn ào nói "Cô Tư sao tới chậm thế?”, có tiếng một cô gái nhỏ lí nhí "Đường xa hàng ngàn dặm, đi với cô mãi mới tới được, cô đi lại chậm". Rồi mọi người lại thăm hỏi nhau, tiếng kéo ghế, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ nhộn nhạo cả lên ầm ĩ trong phòng, hồi lâu mới ngớt. Kế nghe tiếng cô gái hỏi thuốc, cô Chín cho là nên có sâm, cô Sáu cho là phải có kỳ, cô Tư bảo là cần có truật, bàn bạc một lúc lại nghe cô Chín gọi đem bút nghiên ra. Không bao lâu có tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt bút lách cách, tiếng mài mực rin rít, kế đó là tiếng ném bút kéo bàn vang vang, rồi nghe tiếng lấy thuốc trong bao sột soạt. Lát sau cô gái kéo rèm, gọi người bệnh, lấy thuốc nhận đơn rồi quay trở vào. Lập tức nghe tiếng ba cô gái chào về, tiếng ba thị tỳ chào về tiếng trẻ con bi bô, tiếng mèo ngoao ngoao lại rộ lên cùng một lúc. Tiếng cô Chín trong mà cao, tiếng cô Sáu chậm mà trầm, tiếng cô Tư dịu mà ấm, cho đến tiếng của ba tỳ nữ đều có âm sắc riêng, nghe có thể phân biệt rõ ràng được. Mọi người tin là thần cho thuốc thật, nhưng uống thử thì không khỏi bệnh. Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc mà thôi, nhưng cũng kỳ lạ thật! Vương Tâm Dật kể lúc ở kinh đô ngẫu nhiên đi ngang chợ nghe tiếng ca hát đánh đàn, người xem đông nghẹt. Tới gần nhìn thì thấy một thiếu niên cao giọng ca hát, chỉ lấy một ngón tay đè vào má, vừa đương vừa hát, tiếng nghe vang vang, không khác gì tiếng đàn, cũng là dòng dõi của người biết thuật mồm. [B]236. Vương Lan[/B] [B](Vương Lan)[/B] Vương Lan người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) bị bạo bệnh chết. Diêm Vương xét lại thì là quỷ tốt bắt lầm, bèn trách phạt bắt đưa hồn Vương về nhập vào xác lại, thì xác đã nát. Quỷ sợ tội, nói với Vương "Người mà chết làm ma thì khổ, ma mà được thành tiên thì sướng, nếu được sướng thì cần gì phải sống lại làm người?". Vương cho là đúng, quỷ nói "Ở đây có một con hồ đã luyện được kim đan, trộm lấy mà nuốt thì hồn không tan, có thể sống mãi, muốn đi đâu làm gì đều được như ý, ông có chịu không?". Vương nghe theo, quỷ bèn dắt đi, tới một phủ đệ lớn, thấy lầu gác nguy nga nhưng vắng vẻ không có một người nào. Có con hồ đứng dưới trăng, ngửa đầu nhìn lên không, thở ra một hơi, trong miệng có vật tròn bay thẳng vào mặt trăng, hít vào một hơi, vật ấy rơi xuống lại há miệng ngậm lấy, rồi lại thở ra, cứ thế làm mãi. Quỷ bèn rón rén tới bên cạnh, chờ lúc hồ thở phun vật ấy ra vội cướp lấy đưa cho Vương nuốt. Hồ giật mình, nổi giận xông tới nhưng thấy họ có hai người, sợ chống không nổi đành căm hờn bỏ đi. Vương chia tay với quỷ, về tới nhà thì vợ con nhìn thấy đều hoảng sợ chạy tan. Vương kể lại mọi chuyện, vợ con dần dần yên tâm, từ đó lại ăn ở trong nhà như lúc trước. Bạn là Trương sinh nghe chuyện tới thăm, gặp nhau cùng trò chuyện. Vương nói “Nhà ta và anh đều nghèo, nay có thuật có thể làm giàu được, anh cùng đi với ta được không?”. Trương vâng dạ, Vương lại nói "Ta có thể không cần thuốc vẫn chữa được bệnh, không cần bói vẫn đoán được mệnh, nhưng nếu ta ra mặt lỡ gặp người quen thì họ hoảng sợ, nên cứ ngầm theo anh thôi được không?”. Trương lại vâng dạ, rồi đó sắp xếp hành trang ngay hôm ấy lên đường. Tới địa giới tỉnh Sơn Tây, có người nhà giàu nọ có con gái đột nhiên bị hôn mê, thuốc thang cầu đảo hết cách vẫn không khỏi. Trương bèn tìm tới, tự xưng là chữa được. Phú ông chỉ có một người con gái ấy, nên rất thương yêu, hứa rằng nếu chữa được sẽ đền ơn ngàn đồng vàng. Trương xin vào xem, theo phú ông vào phòng, thấy cô gái nhắm mắt nằm yên, giở chăn lên vỗ vào người vẫn không hay biết gì. Vương ngầm nói với Trương rằng "Hồn cô này lạc mất rồi, phải đi tìm mới được". Trương bèn nói với phú ông rằng bệnh tuy nguy nhưng vẫn có thể cứu được. Phú ông hỏi cần thuốc gì, Trương đáp rằng đều không cần, hồn con gái ông đi lạc rồi, đã sai thần đi tìm. Khoảng sau một giờ Vương chợt trở lại nói với Trương là đã tìm được. Trương bèn mời ông vào lại trong phòng xem, lại gọi cô gái, giây lát cô ta ngồi dậy, mở mắt nhìn. Phú ông cả mừng vỗ về hỏi han, cô gái nói "Con đang chơi trong vườn thì thấy một thiếu niên cầm cung bắn chim, có mấy người dắt ngựa theo hầu. Con đang muốn chạy thì họ cản đường, chàng thiếu niên ấy đưa cung cho con, bảo con bắn. Con xấu hổ từ chối, y bèn kéo con lên ngựa, thúc ngựa chạy rồi cười nói ‘Ta đang muốn vui vẻ với cô, đừng có xấu hổ’. Được vài dặm thì vào trong núi, con vừa la vừa chửi, y nổi giận xô con ngã xuống cạnh đường. Đang muốn về nhưng không biết đường, chợt thấy có một người tới nắm tay con kéo đi như bay, chớp mắt đã về tới nhà, chợt tỉnh dậy đây". Phú ông cho là thần kỳ, quả tạ ơn Trương một ngàn đồng vàng. Đêm tới Vương bàn với Trương giữ lại hai trăm để ăn đường, còn bao nhiêu mang cả về nhà, gõ cửa đưa cho con, bảo đem ba trăm đồng qua đưa cho vợ Trương, rồi trở lại nhà phú ông. Hôm sau cáo từ, phú ông không thấy Trương cầm tiền bạc gì cả, càng lấy làm lạ, kính cẩn đưa tiễn. Vài hôm sau, Trương gặp người cùng làng là Hạ Tài trên đường. Tài ham uống rượu đánh bài không lo làm ăn nên nghèo mạt, nghe Trương học được phép lạ kiếm được rất nhiều tiền nên đi tìm. Vương khuyên Trương cho y chút ít tiền bảo vệ. Tài không bỏ nết cũ, chơi bời được chục hôm hết sạch tiền, lại đi tìm Trương. Vương đã biết trước, nói "Tài là kẻ bừa bãi, không nên gần gũi, chỉ nên cho tiền bảo đi đi, nếu có tai họa cũng không nguy hiểm". Vài hôm quả nhiên Tài tới, năn nỉ xin đi theo, Trương nói "Ta đã biết ngươi sẽ tìm tới nữa, nhưng ngươi chỉ lo cờ bạc rượu chè, dẫu đưa ngàn đồng vàng cũng như bỏ vào cái túi không đáy. Nếu ngươi thật tâm bỏ thói xấu, thì ta tặng cho một trăm đồng vàng". Tài hứa hẹn thề thốt, Trương bèn dốc hết tiền bạc ra đưa cho. Tài trở về, trong túi có trăm đồng vàng, đánh bạc càng lớn, uống rượu chơi gái lu bù, coi tiền như rác. Chức dịch trong làng nghi ngờ bắt giải lên quan, khảo tra rất nặng. Tài khai rõ tiền bạc ở đâu mà có, quan bèn sai lính giải đi tìm Trương, được vài ngày bị thương nặng chết dọc đường. Hồn Tài không quên Trương lại tìm tới nương tựa, nhân đó gặp Vương. Một hôm cùng uống rượu với nhau. Tài say quá la ầm lên, Vương ngăn lại không nghe. Gặp lúc quan Ngự sử tuần sát đi ngang, nghe tiếng la sai tìm bắt được Trương, Trương nói rõ sự thật. Quan Ngự sử tức giận phạt roi, rồi đốt điệp sớ cáo với thần. Đến đêm nằm mộng thấy một người mặc giáp vàng tới nơi "Đã xét Vương Lan vô tội mà chết đã thành quỷ tiên, làm việc chữa bệnh cũng là sự nhân đức, không thể coi là loại yêu tà quỷ mị. Nay vâng mệnh Thượng đế, đã trao cho y chức Thanh đạo sứ. Hạ Tài càn quấy bừa bãi, đã phạt giam vào núi Thiết Vi. Họ Trương không có tội gì, nên tha y ra". Quan Ngự sử tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn tha cho Trương. Trương khoác gói về làng, trong túi còn mấy trăm đồng vàng, bèn đưa một nửa tới nhà Vương, con cháu Vương từ đó trở nên giàu có. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 237 - 241 -[/B] Hải Công Tử (Hải Công Tử) Đảo cổ Đông Hải (thuộc tỉnh Sơn Đông) có cây hoa nại đông ngũ sắc, thường nở hoa cả bốn mùa, song trong đảo không có ai ở, ít người lui tới. Trương sinh người huyện Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) tính hiếu kỳ, thích du ngoạn, nghe nóí cảnh ở đó đẹp bèn mang rượu thịt, tự chèo thuyền ra đảo chơi. Tới nơi thì gặp lúc hoa đang nở rộ, mùi hương lan khắp mấy dặm, thấy cây nại đông to hơn chục người ôm, cứ qua lại ngắm nghía mãi, lấy làm thích thú. Rồi mở bầu rót rượn, tiếc là không có ai cùng đi chơi. Chợt trong đám hoa có một cô gái đẹp hiện ra, áo hồng mắt sáng, xinh đẹp không ai sánh được, nhìn Trương cười nói "Thiếp tự cho rằng hứng thú của mình không tầm thường, không ngờ đã có kẻ đồng điệu tới trước". Trương ngạc nhiên hỏi là ai, nàng đáp "Thiếp là con hát ở huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), vừa theo Hải Công tử tới đây. Ông ta thích cảnh đẹp đi khắp nơi, thiếp mỏi chân nên nghỉ lại ở đây". Trương đang buồn về nỗi quạnh hiu, gặp được người đẹp rất vui, gọi tới cùng ngồi uống rượu. Cô gái nói năng dịu dàng làm say lòng người, Trương rất yêu thích, nhưng sợ Hải Công tử tới nên không dám mặc tình vui vẻ. Chợt nghe gió thổi ào ào, cây cối gảy răng rắc. Cô gái vội xô sinh dậy nói “Hải Công tử tới rồi”. Trương thắt lại áo kinh ngạc quay nhìn thì cô gái đã biến mất. Kế thấy một con rắn lớn từ đám cây rậm bò ra, to như cái thùng. Trương sợ, núp vào sau cây nại đông, mong là nó không nhìn thấy. Con rắn bò sát tới quấn cả người Trương vào gốc cây, cuốn luôn mấy vòng, hai tay Trương bị đè dưới hông không cục cựa gì được. Rắn ngẩng đầu thè lưỡi chọc vào mũi Trương, máu mũi chảy ra đọng thành vũng dưới đất, nó cúi xuống uống. Trương tự nghĩ ắt là phải chết, chợt nhớ trong lưng có mang gói thuốc độc, bèn lấy hai ngón tay móc thủng cái gói, hứng thuốc vào lòng bàn tay, rồi vươn cổ ra đưa bàn tay hứng máu mũi, giây lát được một bụm. Con rắn quả nhiên quay đầu uống máu trong lòng bàn tay, uống chưa hết chợt duỗi ra, đập đuôi mạnh như sét trúng thân cây, nửa thân cây trên đổ xuống, rắn cũng duỗi ra như cái xà nhà chết lăn trên mặt đất. Trương cũng rủn chân hoa mắt không đứng dậy nổi, lát sau mới tỉnh. Bèn chở xác con rắn về nhà, bệnh nặng mấy tháng, ngờ cô gái cũng là tinh rắn. [B]238. Đinh Tiền Khê[/B] [B](Đinh Tiền Khê)[/B] Đinh Tiền Khê là người huyện Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), gia tư giàu có, hào hiệp trọng nghĩa, hâm mộ những kẻ du hiệp thời cổ, bị quan tư nã bắt. Đinh bỏ trốn, tới đất An Khâu gặp mưa, vào trú ở một nhà nọ, nhưng mưa suốt cả ngày không ngớt. Có một thiếu niên bước ra mời ăn cơm, cơm nước rất tử tế. Kế trời tối, Đinh nghỉ đêm luôn lại đó, thiếu niên cũng đem rơm cỏ cho ngựa đầy đủ. Đinh hỏi tên họ, thiếu niên đáp "Chủ nhân họ Dương, ta là cháu trong nhà. Chủ nhân ưa giao du, có việc đi vắng rồi, trong nhà chỉ có nương tử, nhà nghèo không tiếp đãi được chu đáo, xin khách tha lỗi". Hỏi tới nghề nghiệp chủ nhân, thì được biết chẳng buôn bán làm lụng gì, chỉ hàng ngày đánh bạc, kiếm ăn cò con. Hôm sau lại mưa dầm dề. Đinh vẫn được lo cơm nước rất chu tất. Tối đến thiếu niên mang cỏ cho ngựa, bó cỏ ướt đẫm mà lại cọng dài cọng ngắn không đều, Đinh lấy làm lạ. Thiếu niên nói “Thưa thật với khách, nhà nghèo không có cỏ cho ngựa, đây là nương tử rút tranh lợp nhà xuống đấy thôi". Đinh lại càng lạ lùng, cho là họ rất thành thật. Sáng ra đưa tiền, thiếu niên không nhận, Đinh ép thiếu niên cầm vào giây lát lại cầm ra trả, nói "Nương tử nói không phải làm nghề bán quán, chủ nhân ra ngoài thường vài ba ngày chẳng mang theo một đồng, nay khách tới nhà sao lại lấy tiền?”, Đinh ca ngợi từ biệt, dặn "Ta là Đinh Mỗ ở Chư Thành, khi nào chủ nhân về nhớ nói lại rằng lúc nào rảnh mời ghé chơi". Mấy năm sau chẳng hề qua lại gì, gặp năm đói kém, Dương càng khổ cực, không còn cách nào sinh sống, vợ rụt rè khuyên tìm tới Đinh, Dương nghe theo. Tới nơi, xưng họ tên với người gác cổng, Đinh quên không nhớ, sai hỏi lại mới nhớ ra, vội chạy chân đất ra mời vào. Thấy Dương áo rách giày nát, bèn đưa vào phòng ấm, bày tiệc khoản đãi, cung kính phi thường. Hôm sau may sắm quần áo cho, Dương được ăn no mặc ấm rất cảm kích, nhưng càng lo lắng cho gia đình, cũng mong được chút gì cầm về. Ở mấy ngày liền, chẳng nghe Đinh nói tặng tiền gì cả, Dương nóng ruột nói với Đinh rằng "Thật không dám giấu diếm, lúc ta lên đường tới đây thì trong nhà chỉ còn chưa đầy một thăng gạo, nay ta được quá thương lo cho ăn cho ở, dĩ nhiên vui sướng, nhưng vợ con thì làm sao!”. Đinh nói “Chuyện đó không lo, ta đã sắp xếp thay ông rồi, xin cứ thong thả ở chơi ít hôm, ta sẽ giúp tiền về". Bèn sai người gọi đám con bạc tới, bảo Dương làm cái đánh trọn đêm thắng được trăm đồng vàng, bèn tiễn Dương về Dương về tới nhà thấy phòng ốc bày biện đầy đủ, vợ mặc quần áo mới, có tỳ nữ hầu hạ, ngạc nhiên hỏi. Vợ đáp "Chàng đi được vài hôm thì có người chở vải vóc lúa gạo tới vác vào chất đầy nhà, nói là của ông khách họ Đinh tặng. Lại có thêm mười người tỳ nữ cho thiếp sai bảo” Dương cảm kích vô cùng, từ đó được đủ ăn, không làm nghề cũ nữa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nghèo mà hiếu khách là điều hay ở đám rượu chè cờ bạc, nhưng người vợ của họ Dương là lạ lùng nhất. Còn nhận ơn của người mà không báo sao đáng là người, nhưng Đinh mỗ quả là kẻ cái ơn một bữa cơm cũng không quên vậy.[/I] [B]239. Con Chuột Có Nghĩa[/B] [B](Nghĩa Thử)[/B] Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra kiếm ăn một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đứng nhìn, có vẻ rất căm giận. Rắn ăn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột lanh lẹn chạy trốn, rắn đuổi không kịp bèn quay lại, bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt dất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn ta là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này. [B]240. Quỷ Nhập Tràng[/B] [B](Thi Biến)[/B] Huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông Mỗ ở thôn Thái Điếm. Thôn cách huyện thành năm sáu dặm, cha con ông ta dựng quán cạnh đường cho người buôn bán qua lại nghỉ trọ, có bốn người phu xe chở hàng vẫn vào trọ ở đó. Một hôm trời rất tối bốn người cùng về tới thì quán trọ đã đầy khách. Bốn người không biết làm sao, cứ nài nỉ xin cho trọ lại. ông Mỗ ngẫm nghĩ tìm được một chỗ, nhưng ngần ngại sợ không hợp với khách. Bốn người lại nói chỉ cần có chỗ ngả lưng là đủ chứ không dám chọn lựa khen chê gì cả. Lúc ấy con dâu của ông Mỗ vừa chết, xác còn đặt trong nhà bên kia đường, con trai đi mua quan tài chưa về, ông thấy trong nhà còn rộng bèn dắt khách qua đó nghỉ. Khách vào tới thì thấy trên bàn có ngọn đèn leo lét, phòng trong buông rèm, cái xác được đắp chăn đậy mặt nằm đó, chỗ ngủ bên ngoài thì có bốn cái giường đặt liền nhau. Mọi người đều đã mệt mỏi, lập tức lên nằm ngủ khò, chỉ còn một người mơ mơ màng màng chưa ngủ hẳn. Chợt nghe trong phòng người chết có tiếng cót két, vội mở mắt ra nhìn, thì thấy rõ dưới ánh đèn cái xác người đàn bà đã giở chăn ngồi dậy. Kế đó cái xác bước xuống đất từ từ bước ra chỗ đám khách nằm ngủ, sắc mặt lợt lạt vàng khè, vén tấm vải che mặt lên trán, cúi xuống trước giường lần lượt thổi vào mặt ba người kia. Y hoảng hốt, sợ sẽ thổi tới mình, vội kéo chăn trùm kín đầu nhắm mắt nín thở nghe ngóng. Không bao lâu người đàn bà cũng tới thổi vào y rồi đi trở vào. Y nghe tiếng rèm sột soạt, hé chăn ra nhìn trộm thấy cái xác đã nằm lại trên giường như cũ. Y sợ quá không dám lên tiếng, ngầm lấy chân đạp vào mấy người kia thì họ đều nằm yên không động đậy, nghĩ rằng không còn cách nào, chẳng bằng mặc áo trốn đi. Vừa trở dậy mặc áo thì tiếng cót két trong kia lại vang lên, y hoảng sợ vội nằm xuống kéo chăn che kín đầu, thấy người đàn bà lại tới thổi liên tiếp, hồi lâu mới trở về. Giây lát nghe giường trong có tiếng động, biết là cái xác đã nằm xuống, bèn rón rén mặc áo quần trong chăn, rồi nhảy xuống đất bỏ chạy. Cái xác vùng dậy định đuổi, vừa ra khỏi màn thì y đã tung cửa chạy rồi. Cái xác đuổi theo, y vừa chạy vừa la, muốn đập cửa quán gọi ông Mỗ dậy nhưng sợ không kịp, bèn cứ theo đường về phía huyện thành ráng sức chạy. Tới cửa đông huyện thành, thấy có ngôi chùa, nghe thấy tiếng gõ mõ, vội vàng chạy tới đập của. Đạo nhân trong chùa thấy có chuyện lạ, lại không mở cửa ngay, y còn chờ thì cái xác đã đuổi tới còn cách có một thước, y càng hoảng hốt. Ngoài cổng chùa có cây bạch dương chu vi khoảng bốn năm thước, y bèn chạy tới đó ẩn núp, cứ cái xác vòng bên này thì y chạy qua bên kia, cái xác càng giận dữ song khách cũng dần dần thấm mệt. Cái xác dừng lại, y đổ mồ hôi thở hổn hển, nép vào gốc cây. Cái xác chợt lao qua, giơ hai tay từ ngoài nhảy xổ vào chụp, y kinh hãi ngã xuống đất, cái xác chụp hụt, ôm gốc cây đứng sững ra đó. Đạo nhân trong chùa nghe ngóng hồi lâu thấy yên ắng, bèn từ từ mở cửa ra, nhìn thấy y nằm trên mặt đất, nghĩ rằng đã chết, nhưng thấy tim còn đập thoi thóp bèn cõng vào, đến sáng mới tỉnh. Đạo nhân lấy nước cho uống rồi hỏi han, y thuật lại mọi việc. Lúc ấy đã xong hồi chuông sớm, trời đã sáng mờ mờ, đạo nhân ra xem chỗ gốc cây, quả thấy cái thây người đàn bà đứng sững ở đó, cả sợ bèn báo quan. Quan đích thân tới tra hỏi khám nghiệm, sai gỡ tay cái xác ra khỏi gốc cây, mãi vẫn không được. Nhìn kỹ lại thì tám ngón tay đều cong lại như cái móc cắm lút vào thân cây, lại sai mấy người cùng hết sức giật mạnh mới gỡ ra được, nhìn lại thì chỗ ngón tay bấu vào trong gỗ sâu hoắm như lấy dùi đóng vào. Quan sai người tới nhà ông Mỗ dò xét, thì ở đó đang ồn ào rầm rĩ vì xác mất khách chết. Người sai dịch thuật lại chuyện, ông Mỗ bèn đi theo tới chùa, lãnh cái xác về. Người khách khóc nói với quan huyện rằng "Bốn người cùng ra đi với nhau, nay chỉ có một người trở về, kể lại chuyện này làm sao làng xóm tin được?". Quan huyện bèn phát công văn sai người đưa y về quê. [B]241. Phun Nước[/B] [B](Phún Thủy)[/B] Tiên sinh Tống Thúc Ngọc người huyện Lai Dương (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở kinh, phủ đệ ở một chỗ rất hoang vắng. Một đêm, hai người tỳ nữ cùng mẹ tiên sinh là Thái phu nhân ngủ ở trong phòng, chợt nghe sau viện có tiếng phùn phụt như thợ may phun nước lên vải để cắt áo vậy. Thái phu nhân bảo một người tỳ nữ dậy xem, người tỳ nữ núp sau cửa sổ nhìn ra thì thấy một bà già người thấp lưng gù, tóc bạc phất phơ, đội một cái mũ chụp cao chừng hai thước, đi vòng quanh nhà, co ro như con hạc, vừa đi vừa phun, mãi vẫn không hết nước trong mồm. Người tỳ nữ kinh ngạc trỡ vào bẩm, Thái phu nhân cũng ngạc nhiên dậy xem, hai người tỳ nữ đỡ ra cạnh cửa sổ cùng nhìn. Bà già chợt tới sát cửa sổ, phun thẳng vào trong, giấy dán cửa sổ rách toạch, ba người sợ hãi ngả lăn ra đất, nhưng người trong nhà đều không biết. Mặt trời lên cao, người trong nhà đều tụ họp, gõ cửa phòng không thấy trả lời mới hoảng sợ, vội nhấc cánh cửa lên mà vào, thấy một chủ hai tớ đều nằm chết cứng. Sờ tới thấy một tỳ nữ dưới ngực còn ấm, vội đỡ lên cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh, kể lại mọi việc. Tiên sinh tới, đau đớn phẫn hận muốn chết, bèn sai theo vết nước tìm tới một chỗ. Đào xuống hơn ba thước thì lộ ra mớ tóc trắng, lại đào nữa thì thấy có một cái xác, hình dung giống như người tỳ nữ đã trông thấy, sắc mặt vẫn tươi tắn như còn sống. Tiên sinh sai đánh, thì xương thịt đã nát hết, bên dưới lớp da chỉ toàn là nước trong mà thôi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 242 - 244 -[/B] Con Quái Trong Núi (Sơn Tiêu) Tôn Thái Bạch từng kể ông cố của ông đọc sách trong chùa Liễu Câu ở Nam Sơn, có lần tháng tư về nhà, hơn chục ngày mới trở lại. Mở cửa vào thì thấy bụi bặm đầy bàn, tơ nhện ngập song, bèn sai kẻ hầu quét dọn, đến tối mới xong. Kế dọn giường trải chiếu, gối đầu nằm bên song nhìn ra cửa sổ ngắm trăng. Trằn trọc một lúc thì đêm đã yên ắng, chợt có tiếng gió ào ào nổi lên, cổng chùa rít kèn kẹt. Đang nghĩ một mình rằng chắc sư trong chùa quên cài cổng, thì tiếng gió đã tới cạnh phòng ở, kế đó cửa phòng mở tung. Còn đang ngờ vực chưa biết là gì thì tiếng động đã vào tới phòng, lại có tiếng dép quèn quẹt tới sát phòng ngủ, bắt đầu thấy sợ thì cửa phòng ngủ mở ra. Vội nhìn ra, thì thấy có một con quỷ lớn khom lưng bước vào, tiến tới đứng sừng sũng ở đầu giường, cao ngang xà nhà, mặt vàng như trái dưa già, mắt sáng lóng lánh nhìn khắp bốn vách, há miệng to như cái chậu, răng chơm chởm dài khoảng ba tấc, liếm mép nuốt nước bọt ừng ục, tiếng rền cả phòng. Ông sợ quá, nhưng lại nghĩ nó chỉ đứng cách mình trong gang tấc, không còn cách chạy trốn nữa, chẳng bằng nhân lúc sơ hở mà đâm. Bèn ngầm rút thanh bội đao dưới gối ra chém hết sức trúng vào bụng nó, nghe leng keng như chém vào đá. Con quỷ cả giận, vươn móng vuốt vồ ông, ông co người lại tránh, quỷ vồ trúng cái chăn, giật lấy rồi căm tức bỏ đi. Ông bị kéo rơi xuống giường, nằm dưới đất la ầm lên, người hầu cầm đèn chạy tới thì thấy cửa phòng vẫn đóng như cũ. Trèo cửa sổ vào trông thấy cả sợ, bèn đỡ ông lên giường, ông mới kể lại chuyện. Mọi người cùng đi tìm kiếm thì thấy cái chăn vắt ở của phòng ngủ, đem ra cửa mở xem thì thấy vết móng to như cái rổ, năm dấu ngón tay xuyên suốt từ bên này qua bên kia. Trời sáng ông không dám ở lại nữa, cắp tráp về nhà, sau tới hỏi sư trong chùa, thì không thấy có gì khác lạ nữa. [B]243. Con Quái Trong Đống Lúa (Thu Trung Quái)[/B] Ông họ An ở huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) chăm việc đồng áng, gặp vụ lúa thu chín, gặt để thành đống trên bờ ruộng. Lúc ấy ở thôn bên cạnh có kẻ đi trộm lúa, nên ông sai đầy tớ nhân đêm có trăng chở thóc về làng nộp thuế, đong đếm xong thì trở lại, còn tự mình ở lại canh giữ, gối đầu lên cái mác ngủ cạnh đống lúa. Vừa mới thiu thiu, chợt nghe có tiếng người đạp lên lúa sàn sạt đi tới, ngỡ là bọn trộm, vội ngóc đầu dậy nhìn thì thấy một con quỷ cao hơn một trượng, mặt mũi hung dữ tới sát bên cạnh. Ông phát hoảng không biết làm sao, bèn nhảy bật dậy đâm bừa, con quỷ kêu rống như sấm sét bỏ chạy. Ông sợ nó quay trở lại, vác cái mác chạy về, gặp đầy tớ dọc đường, thuật lại chuyện mới rồi bảo họ đừng ra ruộng nữa, song mọi người cũng chưa tin lắm. Hôm sau đang phơi thóc, chợt nghe có tiếng gầm vang tới, ông hoảng sợ nói “Con quỷ tới rồi", rồi bỏ chạy, mọi người cũng chạy tán loạn. Một lúc sau mới dần dần tụ họp lại, ông sai mọi người mang cung nỏ để rình. Hôm sau quả nhiên con quỷ tới, mọỉ người cùng bắn tên ra, quỷ sợ chạy mất, hai ba ngày không tới nữa. Khi đưa hết lúa về kho xong, rơm rạ còn vứt bỏ ngổn ngang ngoài ruộng, ông sai đầy tớ đánh thành đống, tự mình trèo lên xem xét, đứng cao hơn mặt đất vài thước, chợt nhìn ra xa hoảng sợ kêu lên "Con quỷ tới rồi!". Mọi người đang vội vàng tìm cung nỏ thì con quỷ đã xông tới sát ông, ông ngã quay ra, nó bèn cắn vào mặt rồi bỏ đi. Mọi người trèo lên cây rơm xem, thì trên mặt ông mất một miếng xương to bằng bàn tay, hôn mê không biết gì nữa, cõng về tới nhà thì chết. Sau đó không thấy nó nữa, không biết đó là loại quỷ quái gì. [B]244. Chàng Sáu Vương[/B] [B] (Vương Lục Lang)[/B] Họ Hứa ở phía bắc thành huyện Truy (tỉnh Sơn Đông) làm nghề đánh cá. Đêm nào cũng mang rượu tới bờ sông, uống rồi mới kéo lưới, uống rượu thì rót một chén xuống đất khấn "Ma da trên sông tới mà uống", cứ thế thành lệ. Người khác đánh cá có khi không được chút gì, chứ riêng Hứa thì đêm nào cũng được đầy giỏ. Một đêm vừa đem rượu ra uống một mình thì có một thiếu niên tới quanh quẩn cạnh đó. Hứa mời cùng uống, vui vẻ với nhau, trọn đêm chờ chẳng được con cá nào, Hứa rất thất vọng. Thiếu niên đứng dậy nói "Xin xuống dưới dòng xua cá lên cho ông", rồi nhẹ nhàng bước đi. Giây lát quay lại nói “Cá tới nhiều rồi đấy!” quả nhiên nghe tiếng cá đớp móng vang dưới sông, cất lưới lên thì được vài con dài cả thước. Hứa mừng quá, cám ơn định về, đưa cá biếu thì thiếu niên không nhận, nói "Nhiều phen được cho uống rượu ngon rồi, bấy nhiêu đâu đã đủ để báo đáp? Nếu như không ghét bỏ, xin cứ cho được uống rượu thế này thôi!". Hứa nói “Mới uống với nhau có một lần, sao lại nói là nhiều phen? Còn nếu chiếu cố tới nhau mãi, thì đó là điều ta rất muốn, chỉ thẹn không có gì để tỏ bày tình cảm thôi". Rồi hỏi họ tên, thiếu niên đáp “Ta họ Vương, không có tên tự, gặp nhau cứ gọi là chàng Sáu Vương được rồi", rồi từ biệt nhau. Sáng ngày Hứa bán cá, mua rượu nhiều hơn, tối đến tới bờ sông đã thấy thiếu niên tới trước chờ đó. Lại cùng vui vẻ uống rượu với nhau, được vài chén, vội đứng dậy đi xua cá cho Hứa. Cứ thế được nữa năm, một hôm chợt nói với Hứa "Được quen biết nhau, tình thân còn hơn cả ruột thịt, nhưng sắp phải xa nhau rồi” lời lẽ rất ảo não. Hứa ngạc nhiên hỏi, thiếu niên định đáp lại thôi, mấy lần mới nói “Thân tình như hai người chúng ta, nói ra thì chắc ông không ngờ sợ chăng? Nay sắp chia tay, nói thật cũng chẳng hề gì, ta thật là ma đây. Lúc sống vốn hay rượu, say quá mà chết đuối, mấy năm làm ma ở đây rồi. Trước kia ông đánh cá được nhiều hơn người khác, đều là do ta xua cá vào để đền đáp cái ơn rót rượu xuống đất cho uống đấy. Ngày mai nghiệp căn đã hết, sẽ có người thay, ta sắp đi đầu thai, chỉ còn gặp nhau đêm nay, nên không khỏi bùi ngùi". Hứa thoạt nghe rất sợ, nhưng gần gũi đã lâu nên không khiếp hãi, lại vì thế mà thương cảm, rót rượu mời nói "Chàng Sáu uống chén này đi, đừng đau đớn nữa? Gặp nhau rồi lại chia tay, kể cũng đáng buồn, nhưng thoát khỏi nghiệp chướng chính là điều nên chúc mừng, buồn bã thì không phải lẽ”, bèn cùng nhau uống thật say. Hứa hỏi người thay là ai, đáp “Ông cứ chờ bên sông mà nhìn, trưa mai sẽ có người đàn bà qua sông chết đuối, là kẻ thay ta đấy!". Nghe gà trong làng đã gáy, hai người gạt lệ chia tay. Hôm sau Hứa chờ bên sông để xem chuyện lạ. Quả thấy có người đàn bà bồng con tới, tới bờ sông thì khuỵu chân ngã xuống nước, đứa bé văng lên bờ, giơ tay quẫy chân khóc ầm lên. Người đàn bà trồi lên hụp xuống vài lần, chợt vùng vẫy bám được vào bờ trèo lên, nằm lăn ra đất thở dốc một lúc rồí trở dậy bồng con đi. Lúc người đàn bà rơi xuống sông, Hứa thấy bất nhẫn muốn nhảy xuống cứu, nhưng lại nghĩ đây là kẻ thay cho chàng Sáu được đi đầu thai, nên đứng lại không tới cứu nữa. Đến khi người đàn bà tự lên được bờ sông, Hứa ngờ rằng lời chàng Sáu nói không đúng. Tối đến ra đánh cá ở chỗ cũ, lại thấy thiếu niên tới, nói "Từ nay trở đi lại được gặp nhau, không nói chuyện chia tay nữa". Hứa hỏi tại sao, đáp “Người đàn bà ấy đúng là sắp phải thay ta, nhưng ta thương đứa bé còn đang tuổi phải bồng ẵm, bắt một người thay mà hại hai mạng sống nên tha cho chị ta. Người thay chẳng biết đến bao giờ mới có nữa, có khi cái duyên giữa hai người bọn ta chưa dứt chăng?”. Hứa cảm động than thở khen rằng "Tấm lòng nhân hậu thương người như thế có thể thấu tới Thượng đế", từ đó lại gặp gỡ nhau như trước. Vài hôm sau thiếu niên lại tới từ biệt, Hứa nghĩ rằng chắc lại có kẻ thay. Thiếu niên nói “Không phải thế đâu, một ý niệm hôm trước quả làm cảm động lòng trời, nay đã trao cho ta chức thổ thần đất Ô Trấn huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông), sáng mai là ngày phải đi nhậm chức. Nếu ông không quên bạn cũ, xin tới thăm nhau một lần, đừng ngại xa xôi khó nhọc". Hứa chúc mừng nói “Ông ngay thẳng mà làm thần, quá đủ để an ủi lòng người, nhưng thần người khác nẻo, dẫu ta không ngại xa xôi khó nhọc, nhưng làm sao được gặp nhau?”. Thiếu niên đáp "Cứ tới đừng lo", dặn dò mấy lần rồi đi. Hứa về nhà, lập tức sắp xếp hành trang lên đường, vợ cười nói "Cách đây vài trăm dặm thì quả có một chỗ tên gọi như thế thật, có đều e rằng tượng đất không nói chuyện được với nhau thôi". Hứa không nghe, đi tới Chiêu Viễn, hỏi thăm người ở đó quả có đất Ô Trấn, bèn tìm tới đất ấy, vào nghỉ ở quán trọ, hỏi thăm đền thờ Thổ thần ở đâu. Chủ nhân kinh ngạc hỏi "Khách họ Hứa phải không?”. Hứa đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Lại hỏi “Khách ở huyện Truy phải không?", đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Chủ nhân không đáp, vội vã bước ra ngoài. Giây lát thì đàn ông bế con, đàn bà nép ở cửa chen chúc rần rần kéo tới đứng đông đặc phía ngoài. Hứa ngạc nhiên, mọi người bèn nói "Mấy đêm trước thần báo mộng rằng có người bạn họ Hứa ở huyện Truy Xuyên sắp tới thăm, phải lo lắng giúp đỡ, bọn ta đã chờ lâu rồi". Hứa cũng lấy làm lạ lùng, bèn tới đền tế, khấn rằng “Sau khi chia tay ông, đêm ngày không quên nên lặn lội đường xa cho trọn lời hứa, lại được ơn báo mộng cho dân biết để tiếp đón, tình nghĩa xin ghi tạc trong lòng, song thẹn lễ vật đơn sơ, chỉ có chén rượu đục, nếu không ghét bỏ, xin như ngày còn uống rượu với nhau bên sông", khấn xong, đất giấy tiền vàng bạc. Lập tức có một cơn gió nổi lên trước bàn thờ vi vút hồi lâu mới tan. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy thiếu niên tới, áo mão rực rỡ khác hẳn ngày trước, cảm tạ nói “Đường xa vất vả tới thăm nhau, thật ta vừa mừng vừa tủi, nhưng hiện đã giữ chức mọn, không tiện hiện thân gặp mặt, gần trong gang tấc mà như cách trở núi sông, rất là đau lòng. Những cư dân ở đây có chút lễ mọn khoản tặng thay ta, lúc nào ông về, cũng xin sẽ theo tiễn". Ở được vài hôm, Hứa muốn về, mọi người khẩn khoản lưu lại, sáng rước chiều mời, mọi người báo tin cho nhau, tranh nhau mang lễ vật tặng tiễn, chưa đầy bữa sáng vật tặng đã đầy túi, già trẻ đều tụ họp đưa ra tới ngoài thôn. Chợt có một con gió trốt nổi lên cuốn theo tới hơn mười dặm, Hứa vái dài nói !Xin chàng Sáu tự bảo trọng, đừng vất vả tiễn xa như thế. Lòng ông nhân ái vốn có thể tạo phúc cho dân một phương, cố nhân không phải dặn dò gì nữa". Trận gió còn cuốn quanh hồi lâu mới tan, dân làng cũng kinh ngạc than thở quay về. Hứa về tới nhà cũng hơi dư dật, không phải làm nghề đánh cá nữa. Về sau gặp người ở Chiêu Viễn, hỏi thăm thì được biết Thổ thần ở đó nổi tiếng linh thiêng. Cũng có người nói rằng đó là Thổ thần ở trang Thạch Khanh huyện Chương Khâu, chưa rõ thuyết nào là đúng. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Thân trên đường mây xanh mà lòng không quên bạn nghèo hèn, nhờ thế mới được làm thần đấy. Ngày nay những kẻ quý hiển ngồi xe có mấy ai nhìn nhận bạn nghèo đâu! Quê ta có người tên Lâm Hạ, nhà rất nghèo nhưng có người bạn thuở nhỏ nhận chức quan béo bở, cho rằng tìm tới sẽ được giúp đỡ bèn hết sức kiếm tiền ăn đường, bôn ba ngàn dặm, nhưng người bạn đón tiếp khác hẳn với điều y mong muốn, phải vét túi bán ngựa mới về được tới nhà. Đám em họ hay đùa, nhại thiên Nguyệt lệnh trong Lễ ký đặt lời chọc ghẹo rằng "Đến tháng ấy, ca ca về, mũ lông điêu xơ xác, dù lọng không giương, ngựa cưỡi hóa thành lừa, giày bắt đầu há mõm", nghĩ cũng là một chuyện buồn cười.[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top