Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 185 - 190 -
Mắt Dương Sẹo
(Dương Ba Nhãn)
Một người thợ săn đêm vào trong núi, thấy một người lùn cao khoảng hai thước nhảy nhót đi dưới khe. Lúc sau lại một người nữa tới, cũng cao như thế, gặp nhau cùng trò chuyện, hỏi nhau đi đâu. Người tới trước nói "Ta định đi xem mắt Dương sẹo, lần trước gặp thấy khí sắc tối tăm, dữ nhiều lành ít". Người tới sau nói "Ta cũng nghĩ thế, ngươi nói không sai". Người thợ săn biết không phải là người bèn quát lớn, hai người lập tức biến mất. Đêm ấy săn được một con chồn, mắt bên trái có một cái sẹo lớn, to bằng đồng tiền.
186. Rồng Giả Nhện
(Long Hý Thù)
Từ công làm Huyện lệnh Tế Đông (tỉnh Sơn Đông), trong công thự có ngôi lầu, dùng để chứa thức ăn, liên tiếp bị ăn vụng, vung vãi cả ra trên đất, bọn gia nhân nhiều lần bị quở trách, bèn rình bắt. Thấy một con nhện to bằng cái đấu, sợ hãi chạy đi báo với ông, ông lấy làm lạ, bèn sai bọn thị tỳ hàng ngày vứt mồi cho ăn. Con nhện quen dần, lúc đói thì ra tìm người, ăn no thì bỏ đi. Hơn mấy năm, ông ngẫu nhiên đang duyệt văn án, con nhện chợt đến nằm mọp dưới bàn. ông cho rằng nó đói, vừa mới sai người nhà mang mồi cho ăn, đã thấy hai con rắn nhỏ bằng chiếc đũa nằm cạnh con nhện, con nhện co chân rút bụng, dáng vẻ rất sợ hãi. Trong chớp mắt rắn to ra bằng quả trứng ông sợ hãi bỏ chạy. Chợt một tiếng sấm lớn vang lên, cửa nẻo đổ sập, ông ngất đi, phu nhân và tôi tớ hoảng sợ chết mất bảy người, ông cũng bệnh hơn tháng thì chết. Ông là người liêm chính thương dân, ngày chôn cất, nhân dân tới phúng điếu khóc than đầy đường.
Dị Sử thị nói: Rồng giả làm nhện, thường nghĩ rằng là lời đồn đại ngoa truyền trong dân gian, chẳng lẽ lại có thật sao? Nghe nói sấm sét nổ vang là để đánh kẻ hung dữ, sao lại đánh vào người làm quan thanh liêm, thảm độc tới mức ấy, trời kia sao quá huyền bí như thế?
187. Sai Khiến Ma Quỷ
(Dịch Quỷ)
Thầy thuốc họ Dương ở Sơn Tây giỏi thuật châm cứu, lại có thể sai khiến ma quỷ, mỗi lần ra khỏi nhà thì cưỡi lừa cầm roi, đều là ma quỷ. Một đêm cùng bạn đi từ nơi khác về, trên đường gặp hai người to lớn dị thường, bạn cả kinh. Dương hỏi ai, hai người nói là Vương chân dài, Lý đầu to ra đón chủ nhân. Dương nói "Đi lên trước dẫn đường!", hai người cung cúc đi lên trước, Dương đi chậm thì đứng lại chờ, như là nô lệ vậy.
188. Nguyên 1ão Ba Triều
(Tam Triều Nguyên Lão)
I.
Quan Tể tướng nọ vốn làm quan triều Minh, từng hàng giặc, sĩ phu đều chê cười. Lúc già về nhà, dựng miếu thờ tổ tiên, có mấy người ghé vào ngủ đêm ở đó. Sáng ra, thấy trong miếu có một tấm biển đề “Nguyên lão ba triều” và một đôi câu đối viết "Một hai ba bốn năm sáu bảy, Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm", không biết treo lúc nào, lấy làm lạ nhưng không hiểu ý nghĩa. Có người đoán rằng "Vế đầu ngầm ý là Vương Bát. vế sau ngầm nói là vô sỉ"*, có lẽ đúng thế.
* Vế đầu vô sĩ: Ở đây có chỗ chơi chữ, vì vế đầu chỉ đếm tới số bảy, vế sau còn thiếu chữ "sỉ" (Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm sỉ). Vương Bát nguyên văn là “vong bát", nhưng trong Hán ngữ chữ "vong" (quên) được coi là đồng âm với chữ "vương" (họ Vương). Người Trung Quốc xưa hay dùng từ Vương Bát với ý nghĩa như quân khốn khiếp.
II.
Quan Kinh lược họ Hồng đánh phương nam khải hoàn, về ngang Kim Lăng, lập đàn tế tướng sĩ chết trận. Có người môn nhân cũ tới yết kiến, lạy xong xin trình bài văn tế. Hồng vốn ghét văn chương, lấy cớ mắt kém từ chối. Người ấy nói vậy xin cảm phiền cố nghe cho ta được đọc qua một lượt. Rồi rút bài văn tế trong tay áo ra cất giọng sang sảng đọc lớn, thì ra là bài văn của vua Sùng Trinh triều Minh cũ ngự chế tế Kinh lược họ Hồng*. Đọc xong khóc lớn bỏ đi.
*Kinh lược họ Hồng: tức Hồng Thừa Trù, cuối đời vua Sùng Trinh nhà Minh làm Tổng đốc Hà Bắc Liêu Dưong, đánh nhau với quân Thanh ở Tùng Sơn thua trận đầu hàng, sau giúp nhà Thanh đàn áp phong trào phản Thanh phục Minh, làm tới chức Vũ Anh điện Đại học sĩ của triểu Thanh. Sau trận Tùng Sơn có lời ngoa truyền Hồng đã tử trận nên vua Sùng Trinh đích thân làm bài văn tế Hồng.
189. Ánh Sáng Nửa Khuya
(Dạ Minh)
Có người khách buôn đi buôn ở Nam Hải, nửa đêm trong thuyền chợt sáng rực, trở dậy xem thì thấy có một con vật to lớn, nửa người nhô lên khỏi mặt nước sừng sững như núi, mắt như hai vầng dương mới mọc, ánh sáng soi khắp bốn phía, cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày. Y hoảng sợ hỏi nhà thuyền, không ai biết là gì, đều nằm rạp xuống nhìn trộm. Giây lát con vật ấy từ từ lặn xuống nước. Về sau y tới Mân Trung (vùng Phúc Kiến) người ở đó nói đêm ấy trời chợt sáng bừng rồi tối lại ai cũng cho là lạ lùng, tính lại thì đúng vào đêm y thấy sự quái lạ trên thuyền.
190. Tiếng Chim
(Điểu Ngữ)
Ở Trung Châu có đạo sĩ đi xin ăn trong làng xóm, ăn no rồi nghe tiếng quạ kêu, bèn nói với chủ nhân coi chừng cháy nhà. Chủ nhân hỏi duyên do, đáp “Chim vừa nói Cháy nhà khó cứu, sợ lắm!”. Mọi người đều cười, không ai đề phòng. Hôm sau, quả nhiên bị cháy, lan ra luôn mấy nhà, mới phục ông ta là thần. Có người hiếu sự theo hỏi, gọi ông ta là tiên. Đạo sĩ nói "Ta bất quá là nghe hiểu được tiếng chim thôi, đâu phải là tiên”. Lúc ấy có con chim sẻ kêu trên cây, mọi người hỏi nó nói gì, đạo sĩ đáp "Chim sẻ nói: Mừng sáu nuôi mừng sáu nuôi, mười bốn mười sáu thì chôn. Chắc là nhà nào có con sinh đôi, hôm nay là mùng mười, không quá năm sáu ngày nữa thì đều chết". Hỏi ra quả có hai đứa bé tự nhiên mà chết, ngày tháng đều đúng. Quan huyện nghe chuyện lạ, gọi đạo sĩ tới, đãi làm khách.
Gặp lúc có bầy vịt đi ngang sân, quan hỏi chúng nói gì, đạo sĩ đáp "Nội thất của minh công ắt đang có chuyện tranh cãi, vịt nói Bãi bãi, hỏi ông ta, hỏi ông ta". Quan huyện rất phục, đại khái vì thê thiếp cãi nhau, ông ta bực mình nên bỏ ra ngoài. Một hôm khác đang ngồi, bầy vịt lại đi ngang, quan huyện lại hỏi. Đạo sĩ đáp "Lời nói hôm nay khác với hôm trước, đại khái là chuyện minh công đang tính toán thôi". Hỏi tính toán chuyện gì, đáp “Chúng nói Sáp một trăm tám, tiền một ngàn tám”. Quan huyện thẹn, ngờ là đạo sĩ nói mỉa, đạo sĩ xin đi, quan huyện không cho. Qua mấy ngày, quan huyện tiếp khách chợt nghe tiếng chim cuốc kêu, khách hỏi, đạo sĩ đáp "Nó nói là Bãi quan về bãi quan về". Mọi người đều ngạc nhiên biến sắc, quan huyện cả giận, đuổi đạo sĩ đi. Không bao lâu, quả nhiên việc quan huyện ăn hối lộ bị phát giác. Than ôi, vị tiên kia đã răn trước rồi, mà tiếc cho người tham lam không chịu tỉnh ngộ!
Tục đất Tế (tỉnh Sơn Đông) gọi ve là “Sảo thiên", loại màu xanh là "Đô liễu”.Trong huyện ta có hai cha con, cùng là học trò hạng thanh xã* đi khảo khóa hàng năm. Chợt có con ve bay tới đậu vào áo, người cha mừng nói "Sảo thiên là điềm tốt". Một đứa nhỏ thấy thế cãi "Sảo thiên đâu mà sảo thiên, đô liễu đấy". Hai cha con không vui, kế quả nhiên đều thi rớt, bị truất về làm dân**.
* Hạng thanh xã: Học chính toàn thư chép thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lại thi rớt sẽ bị truất làm dân.
** Quả nhiên... làm dân: ở đây có chỗ chơi chữ. “Sảo thiên” nghĩa đen là hơi khác đi, nên người cha mới mừng, cho là điềm thi đỗ, sẽ được lên hạng, nhưng “Đô liễu” nghĩa đen là đều thôi rồi, đây ý nói đó là điềm báo cả hai cha con cùng bị truất.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển XI - 191 - 193-
Lăng Giác
(Lăng Giác)
Hồ Đại Thành là người đất Sở (tỉnh Hồ Nam). Mẹ vốn thờ Phật, trên đường Thành đi học tới trường có miếu thờ Quan âm, mẹ dặn đi qua là phải vào làm lễ. Một hôm vào miếu, thấy có cô gái dắt theo đứa nhỏ đùa giỡn bên trong, tóc xõa che hết trán nhưng phong thái rất yêu kiều. Năm ấy Thành mười bốn tuổi, trong lòng ưa thích bèn hỏi tên họ, cô gái đáp "Ta là con gái của người thợ vẽ họ Tiêu nhà ở phía tây miếu này, tên Lăng Giác. Anh hỏi làm gì vậy?". Thành lại hỏi đã có chồng chưa, cô gái bẽn lẽn đáp "Chưa". Thành hỏi “Ta làm rể nhà em có được không?", cô gái thẹn thùng nói "Chuyện đó ta không làm chủ được" nhưng đưa mắt long lanh nhìn Thành từ trên xuống dưới, có ý vui mừng, Thành bèn trở ra. Cô gái theo sau dặn với "Cha ta vốn quý trọng ông Thôi Nhĩ Thành, cứ nhờ ông mai mối chắc là được". Thành đáp "Được rồi". Vì thấy nàng thông minh lại đa tình nên càng hâm mộ, về nói hết với mẹ. Mẹ chỉ có Thành là con nên ít khi trái ý, lập tức nhờ ông Thôi làm mai. Nhưng họ Tiêu đòi sính lễ nhiều nên việc không thành, Thôi ra sức thuyết phục rằng Thành là con nhà tử tế lại có tài, Tiêu mới ưng thuận.
Thành có ông bác già mà không con, làm học quan ở Hồ Bắc, vợ chết tại nhiệm sở, mẹ Thành sai con tới giúp việc tang. Mấy tháng sau Thành định về thì ông bác lại chết, phải ở lại ít lâu nữa. Gặp lúc có toán giặc lớn cướp phá Hồ Nam, tin nhà đứt hẳn. Thành trốn lánh trong dân gian, sống thui thủi một mình một bóng mà thôi. Một hôm có bà già khoảng bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi tới đi quanh làng đến tận trưa, nói rằng gặp lúc loạn lạc không có nhà cửa mà về, định tự bán mình. Có người hỏi giá, bà đáp "Không thèm làm đầy tớ, cũng không muốn làm thê thiếp, chỉ cần có kẻ chịu nhận làm mẹ thì ta sẽ theo về không cần giá cả", ai nghe thấy cũng cười. Thành tới nhìn diện mạo thì thấy có hai ba phần giống mẹ mình, động lòng thương xót. Lại thầm nghĩ rằng mình lẻ loi một thân, không ai may vá cho bèn đón về, đối xử như kẻ làm con. Bà già vui mừng, từ đó nấu cơm khâu giày cho Thành, ân cần như mẹ, Thành làm việc gì trái ý thì trách mắng, song hơi có điều gì buồn khổ thì vỗ về an ủi như con đẻ.
Một hôm chợt nói với Thành "Sống ở đây yên ổn nhưng may mắn mà không được vui vẻ, có điều con đã lớn, dẫu là ở nơi đất khách quê người nhưng nhân luân không thể bỏ phế. Hai ba ngày nữa mẹ sẽ cưới vợ cho con". Thành khóc nói "Con đã có vợ rồi, chỉ là nam bắc đôi nơi cách trở thôi". Bà già nói “Thời loạn ly thì việc người cũng đổi thay, làm sao chờ được?". Thành lại khóc nói “Chưa nói tới việc vợ chồng đã hẹn ước với nhau thì không thể phụ bạc, cứ nghĩ xem ai lại đem con gái cưng gả cho kẻ rày đây mai đó?". Bà già không đáp, chỉ lo may sắm rèm màn chăn gối, chuẩn bị rất đầy đủ chu đáo, Thành cũng không biết vợ ở đâu ra. Một hôm trời vừa tối, bà dặn Thành "Ở nhà một mình đừng có ngủ, để mẹ đi xem cô dâu mới tới chưa”, rồi ra cửa đi. Đến hết canh ba vẫn chưa về, Thành rất đỗi ngờ vực lo lắng, chợt nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, ra nhìn thì thấy có một cô gái ngồi trong sân, tóc tai rối bời đang khóc nức nở.
Thành ngạc nhiên hỏi han nhưng cô ta không đáp, hồi lâu mới nói "Anh cưới ta về đây không phải là điều may đâu, ta chỉ có chết thôi". Thành hoảng sợ không biết chuyện gì, cô gái nói "Ta lúc trẻ đã lấy Hồ Đại Thành, không ngờ chàng đi Hồ Bắc không có tin tức gì, cha mẹ ép ta về với anh, thân ta thì còn bắt về được chứ lòng ta thì không bắt theo được đâu”. Thành nghe thấy òa khóc, nói "Ta là Hồ Đại Thành đây, nàng là Lăng Giác đấy ư?". Cô gái hoảng sợ nín bặt, đầu tiên còn không tin, kế theo vào nhà thắp đèn nhìn kỹ mới nói "Không phải là nằm mơ chứ?". Rồi đổi buồn làm vui, cùng nhau kể lễ nỗi niềm xa cách nhớ nhung. Vốn trước đó trong cơn loạn lạc thì đất Hồ Nam hàng trăm dặm không có bóng người, họ Tiêu dắt gia đình chạy tới phía đông Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam), lại hứa gả con gáỉ cho Chu sinh, nhưng đang loạn lạc không thể làm đám cưới nên đên ấy đưa con gái tới nhà Chu. Cô gái khóc không chịu sửa soạn gì cả, người nhà cứ ép đẩy lên kiệu, trên đường đi cô gái lăn ra khỏi kiệu rơi xuống đất, chợt có bốn người khiêng kiệu tới nói là người của nhà họ Chu đón dâu, đỡ nàng lên kiệu, đi nhanh như bay, tới đây mới dừng. Có một bà già kéo vào sân nói "Đây là nhà chồng cô, cứ vào đừng có khóc, mẹ chồng cô thì vài hôm nữa sẽ gặp thôi", rồi đi mất.
Thành hỏi rõ mọi việc mới biết bà già là thần, hai vợ chồng bèn thắp hương cùng khấn khứu xin cho mẹ con được đoàn tụ. Mẹ Thành từ khi binh lửa dấy lên, cùng các bạn bè phụ nữ chạy vào hang núi ẩn náu. Một đêm nghe đồn ầm lên là giặc tới, mọi người kinh hoàng chạy trốn tứ tán. Chợt có một đồng tử đưa ngựa cho mẹ Thành cưỡi, đang lúc gấp rút bà cũng không kịp hỏi là ai. Đồng tử đỡ bà lên ngựa, ngựa phi rất nhanh, chớp mắt đã tới bên hồ*. Ngựa đạp trên mặt nước phóng như bay, dưới vó không hề nổi sóng. Không bao lâu đồng tử đỡ bà xuống, chỉ một căn nhà nói "Trong đó ở được đấy". Mẹ Thành lạy tạ, ngẩng đầu nhìn thì thấy ngựa đã biến thành con Kim mao hẩu** cao hơn trượng, đồng tử nhảy lên dong đi. Mẹ Thành vừa gõ cổng thì thấy cánh cổng đã mở, có người bước ra hỏi, nghe giọng nói quen thuộc lấy làm lạ, nhìn kỹ thì té ra là Thành. Mẹ con ôm nhau khóc, vợ Thành cũng kinh ngạc choàng dậy, cả nhà vô cùng mừng rỡ. Ngờ rằng bà già là Quan âm đại sĩ*** hiện thân, vì vậy càng chuyên cần tụng kinh Quan âm, từ đó ở luôn lại Hồ Bắc, dựng nhà làm ruộng ở đó.
* Hồ: tức hồ Động Đình, ngăn cách hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.
**Kim mao hẩu: thần thú lông vàng, vẫn được gọi là sư tử lông vàng. Chữ "hẩu” theo âm Việt Hán là "khổng", đây đọc theo Thanh âm. Ở nhiều chùa chiền và trong các lễ hội của người Nam Bộ thường có thờ cúng và nghi lễ "múa hẩu”, chính là xuất phát từ các truyện tích về con Kim mao hẩu này.
***Quan âm đại sĩ: tức Quan Thế âm Bồ tát.
192. Hình Tử Nghi
(Hình Tử Nghi)
Huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông) có Dương Mỗ theo đảng Bạch Liên giáo học được phép thuật tả đạo. Sau khi Từ Hồng Nho bị giết Dương may mắn lọt lưới, bèn đem phép thuật ngao du khắp nơi, trong nhà thì vườn ruộng lầu gác đủ cả, nổi tiếng giàu có. Tới nhà thân hào ở Tứ Thượng (thuộc tỉnh Sơn Đông), dùng ảo thuật làm trò vui, đàn bà con gái trong nhà đều ra xem, Dương liếc thấy con gái nhà ấy xinh đẹp, khi về nhà mưu bắt cóc. Vợ kế Dương là Chu thị cũng phong vận, Dương bèn cho nàng ăn mặc lộng lẫy giả làm tiên nữ, đưa cho con chim gỗ dạy cách sử dụng, rồi dắt lên lầu đẩy ra. Chu thấy thân thể nhẹ như chiếc lá lãng đãng theo mây bay đi, không bao lâu đám mây dừng lại không bay nữa, biết là đã tới nơi. Đêm ấy trăng sáng vằng vạc, từ trên nhìn xuống thấy rõ cả, Chu bèn cầm con chim gỗ ném xuống, con chim xòe cánh bay thẳng tới phòng cô gái. Cô gái thấy con chim màu sặc sỡ bay vào, gọi tỳ nữ bắt lấy thì nó đã tung rèm cửa lướt ra ngoài. Cô gái đuổi theo, con chim rơi xuống đất đập cánh phành phạch, vừa tới gần thì nó vọt lên đũng quần, giãy giụa rồi đội cô gái bay lên, xông thẳng vào trong mây. Cô gái kêu gào, Chu đứng trong mây nói "Người hạ giới đừng sợ, ta là Hằng Nga trong Nguyệt điện đây. Ngươi là con gái thứ chín của Vương mẫu ngẫu nhiên bị đày xuống trần, Vương mẫu hàng ngày nhớ nhưng nên tạm gọi lên gặp một lần, rồi sẽ đưa về ngay thôi", rồi buộc tay áo vào nhau mà đi.
Vừa tới địa giới huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) thì gặp người ta bắn pháo hoa trúng cánh chim, con chim hoảng sợ sa xuống kéo cả Chu theo, rơi vào nhà một người Tú tài. Người Tú tài tên Hình Tử Nghi, nhà rất nghèo nhưng tính cương trục. Có người đàn bà láng giềng đang đêm qua khêu gợi, Hình cự tuyệt không cho vào, người đàn bà căm tức bỏ đi, đặt điều với chồng là Hình dụ dỗ. Ngươì chồng vốn là kẻ vô lại, sáng chiều tới trước cổng chửi mắng, Hình vì vậy bán nhà qua ở thôn khác. Nghe nói có thầy tướng họ Cố giỏi đoán phúc thọ của người, bèn tới gặp. Cố vừa nhìn thấy cười nói “Ông giàu có ngàn chung, sao lại mặc áo rách tới gặp người, định nói ta có mắt không tròng sao?". Hình chê nói sai, Cố nhìn kỹ rồi nói "Đúng thế, tuy còn nghèo khổ nhưng hầm vàng không còn xa đâu”. Hình lại chê nói sai, Cố nói “Không những hoạnh tài giàu có mà còn được vợ đẹp nữa kia". Hình vẫn không tin, Cố đẩy ra cửa nói "Cứ đi đi, cứ đi đi, khi nghiệm rồi ta mới tới lấy tiền tạ on mà”. Đêm ấy Hình ngồi một mình dưới trăng, chợt có hai cô gái trên không rơi xuống, nhìn thấy đều xinh đẹp, sợ hãi cho là yêu quái bèn gặng hỏi.
Ban đầu họ không chịu nói, Hình toan kêu lớn gọi láng giềng tới, Chu sợ mới nói thật, lại xin đừng lộ chuyện ra, hứa sẽ theo hầu hạ suốt đời. Hình nghĩ con gái nhà thế gia không cùng loại với với vợ kẻ yêu nhân bèn sai người báo cho gia đình cô gái. Cha mẹ cô gái từ khi con gái bay đi cùng khóc lóc lo sợ, chợt được thư báo tin, mừng rỡ quá đỗi, lập tức sắp sửa xe kiệu tới ngay, tạ ơn Hình trăm lượng vàng rồi đưa con gái về. Hình được vợ đẹp đang lo nhà nghèo chỉ có bốn bức vách, được vàng rất khoan khoái, qua tạ ơn Cố, Cố lại nhìn mặt nói “Chưa phải đâu, chưa phải đâu, vận may đã tới, trăm lượng vàng có đáng gì?”, rồi không nhận tiền tạ ơn. Vốn là họ Thân về rồi bèn xin quan trên bắt Dương, Dương đoán biết nên đã bỏ trốn không biết đi đâu, quan bèn tịch biên gia sản, phát lệnh bắt Chu. Chu sợ hãi kéo áo Hình khóc lóc, Hình cũng hết cách, chỉ tạm hối lộ cho đám công sai rồi thuê xe kiệu chở Chu tới nhà Thân năn nỉ xin cứu giúp. Thân cảm vì có nghĩa nên hết sức chạy chọt, được nộp tiền chuộc tội cho Chu, bèn giữ cả hai vợ chồng ở lại trong nhà, vui vẻ như thân thích.
Con gái Thân lúc nhỏ đã nhận sính lễ của họ Lưu, Lưu nhất thời làm quan vinh hiển, nghe nói cô gái từng ngủ lại nhà Hình, cho là nhục nhã bèn gởi thư tuyệt hôn. Thân bàn gả cho người khác, cô gái nói với cha mẹ thề theo Hình. Hình nghe rất mừng, Chu cũng mừng, tình ngưyện xin làm vợ lẽ, nhưng Thân còn lo là Hình nghèo khổ. Lúc ấy nhà cửa của Dưong được quan dem bán đấu giá, Hình mua rồi hai vợ chồng cùng về, bỏ tiền túi ra mua đồ đạc thuê tôi tớ, trong mươi ngày đã hết sạch tiền, chỉ mong cô gái tới để được Thân giúp đỡ. Một đêm Chu nói với Hình rằng “Người chồng tội lỗi của thiếp là Dương Mỗ có chôn ngàn lượng vàng dưới lầu, chỉ có thiếp biết, mới rồi ra chỗ đó xem thấy gạch đá vẫn còn nguyên, có khi hầm vàng chôn cất vẫn còn nguyên chưa biết chừng". Bèn cùng nhau tới đó đào lên, quả tìm được vàng, vì thế tin Cố xem tướng hay, tạ ơn rất hậu. Sau đó cô gái vu quy, mang về rất nhiều tiền bạc, chỉ trong vài năm Hình trở nên giàu có đứng đầu một quận.
Dị Sử thị nói:Bạch Liên bị diệt mà họ Dương không chết, lại còn giàu lên làm người ta suýt cho rằng lưới trời lồng lộng kia thưa nên gần lọt, nhưng nào biết sở dĩ trời lưu Dương lại chỉ là vì Hình. Nếu không thì Hình tuy bỉ cực thái lai nhưng làm sao trong chớp mắt xây lầu gác, có ngàn vàng được? Không yêu một người đẹp mà trời đền đáp cho hai người, than ôi, tạo vật không nói gì, nhưng ý tứ có thể thấy được vậy.
193. Lục Áp Quan
(Lục Áp Quan)
Ông Triệu ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Quảng làm quan tới chức Cung chiêm thì trí sĩ về nhà, chợt có một thiếu niên tới cổng xin giúp việc giấy tờ. Ông cho gọi vào, thấy nho nhã như học trò, hỏi họ tên thì nói là Lục áp Quan, không cần tiền công, ông bèn giữ lại. Lục thông tuệ hơn đám tôi tớ bình thường, thư từ của ông gởi đi đều cho y tùy ý mà viết, lá nào cũng văn hoa. Lại những lúc chủ nhân chơi cờ với khách, Lục liếc qua rồi chỉ nước là thắng, Triệu vì thế càng yêu mến. Bọn tôi tớ thấy y được chủ nhân coi trọng, hùa nhau trêu chọc, đòi phải mời tiệc. Áp Quan ưng thuận, nhân hỏi tất cả có bao nhiêu người, vừa lúc tá điền các nơi về tính sổ, khoảng hơn ba mươi người, họ tính luôn cả vào để làm khó. Áp Quan nói "Bấy nhiêu thì rất dễ, nhưng khách đông, lúc bất ngờ không lo liệu kịp, xin mời ra quán rượu”. Rồi mời tất cả ra quán rượu ngoài phố.
Ngồi yên xong, rượn vừa bày ra, có người cầm bầu đứng lên nói "Các anh khoan hãy rót. Xin hỏi hôm nay ai đứng ra mời? Nên đưa tiền ra làm tin trước mới có thể yên tâm nhậu nhẹt, nếu không uống một hồi vài ngàn chén rồi tan về thì lấy đâu mà trả?". Mọi người đều nhìn Áp Quan, Áp Quan cười nói "Các vị nói ta không có tiền chắc? Ta có đủ đây!”, rồi đứng lên vói vào mâm nắm lấy một vắt mì ướt bằng nắm tay, ngắt ra ném lên bàn, đều biến thành chuột nhắt chạy rối rít đầy bàn. Áp Quan chụp bừa một con xé làm đôi, kêu chóe một tiếng thì bụng toác ra, lấy được một thỏi vàng nhỏ. Bắt tiếp con nào cũng thế, phút chốc hết chuột thì vàng vụn chất đầy trước mặt, rồi nói “Bấy nhiêu mà không đủ cho bọn mình uống rượu à!”, mọi người đều kinh lạ, kế cùng nhau uống thả sức.
Tan tiệc, tính ra hơn ba lượng vàng, mọi người đem cân mớ vàng vụn thì vừa đủ số. Có kẻ định bẩm lại chuyện lạ cho chủ nhân biết nên xin một mẩu nhỏ bỏ túi, về tới nhà kể lại cho Triệu nghe, Triệu bảo đưa mẩu vàng cho xem, tìm lại thì đã mất. Quay lại hỏi chủ quán thì vàng đều hóa ra gai góc, về bẩm với Triệu. Triệu căn vặn, Áp Quan nói “Anh em bạn đòi ta phải đãi tiệc, nhưng thật tình túi rỗng không tiền, lúc nhỏ học được trò mua vui, nên làm thử thôi”. Mọi người lại bắt trả tiền rượu, Áp Quan nói "Ta không phải là kẻ ăn quịt đâu ở thôn Mỗ có mớ rơm đem ra đập lại có thể được hai thạch lúa mì, thừa sức trả tiền rượu”, rồi mượn một người đi theo. Sẵn dịp người tá điền thôn ấy về, bèn đi cùng. Tới nơi thấy lúa mì đã giê sạch, đổ đống trên sân tới mấy hộc, mọi người vì vậy càng lấy làm lạ lùng. Một hôm Triệu tới nhà bạn dự tiệc, thấy giữa phòng có chậu lan rất tươi tốt thích lắm, về nhà cứ khen ngợi mãi. Áp Quan nói "Nếu quả thật ông thích thứ lan ấy thì cũng không khó!".
Triệu còn chưa tin, sáng sớm vào phòng sách chọt ngửi thấy mùi hương lạ thơm phức, nhìn lại thì có một chậu lan, cành lá chỗ thưa chỗ dày đều giống hệt như chậu lan mình đã thấy, nghi là y ăn cắp về bèn căn vặn. Áp Quan nói "Hoa cỏ nhà ta gom trồng có hàng trăm hàng ngàn loại, cần gì phải ăn cắp!", Triệu cho là y nói dối, vừa gặp lúc người bạn kia tới chơi, nhìn thấy chậu lan, giật mình nói "Sao mà giống hệt chậu lan nhà ta!". Triệu nói "Ta vừa mua được, nhưng cũng không biết vì sao họ có mà bán, mà lúc ra khỏi nhà, ông còn nhìn thấy chậu lan không?". Người bạn đáp "Ta không vào phòng sách nên không biết là còn hay mất, nhưng làm sao mà nó tới đây được!" Triệu nhìn Áp Quan, Áp Quan nói "Chuyện này không có gì khó, cái chậu nhà ông bị vỡ, có vá một chỗ, còn cái chậu này thì lành", kế xem lại mới tin là đúng.
Tối đến Áp Quan nói với chủ rằng “Trước nay ta nói ở nhà ta có nhiều hoa cỏ ai cũng ngờ là dối trá, nay phiền ông dời gót ngọc, nhân lúc sáng trăng tới xem một chuyến, nhưng mọi người đều không ai theo được, duy A Áp thì không sao”. Áp vốn là tiểu đồng của Triệu, ông bèn theo lời. Ra khỏi nhà đã có bốn người khiêng kiệu chờ bên đường, Triệu bước lên thấy đi nhanh hơn ngựa phi, phút chốc vào tới núi sâu, chỉ ngửi thấy mùi hương lạ thấm vào tận xương tủy. Không bao lâu tới một tòa động phủ, thấy nhà cửa cao ráo sáng sủa khác hẳn nhân gian, nơi nào cũng đặt đá trồng hoa, chậu bồn xinh xắn ngời sáng tỏa hương, loại lan nào cũng có vài mươi chậu, thảy đều tươi tốt đẹp đẽ, Triệu xem xong Áp Quan lại sai kiệu đưa về. Áp Quan theo Triệu hơn mười năm, sau Triệu không bệnh mà chết, Áp Quan bèn dắt A Áp ra cửa không biết là đi đâu.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 194 -
Trần Tích Cửu
(Trần Tích Củu)
Trần Tích Cửu là người huyện Phì (thuộc tỉnh Giang Tô). Cha là Tử Ngôn, là bậc danh sĩ trong huyện, có nhà giàu họ Chu thấy có tiếng tăm bèn đính ước làm thông gia. Trần thi mấy lần không đỗ mà nhà lại nghèo, bèn du học tới đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) mấy năm không có tin tức gì. Chu vì vậy ngầm có ý hối hôn, lại gặp lúc gả con gái út làm vợ kế Hiếu liêm họ Vương, thấy Vương nộp sính lễ rất hậu, người mạnh ngựa khỏe nên càng chán ghét Tích Cửu nghèo hèn, quyết ý tuyệt hôn. Hỏi con gái thì nàng không chịu, Chu tức giận cho ăn mặc xấu xí đưa tới gả cho Tích Cửu, tám chín ngày bếp không nổi lửa, Chu cũng không thương xót gì lắm. Một hôm sai bà già làm thuê mang thức ăn tới cho cô gái, vào nhà nhìn mẹ Tích Cửu nói "Ông chủ sai ta tới xem cô nhà chết đói chưa". Cô gái sợ mẹ chồng xấu hổ, gượng cười nói át đi, nhân dọn thức ăn ra trước mặt mẹ. Bà già kia ngăn lại nói "Không cần làm thế, từ khi cô về đây chưa từng uống qua một chén nước suông của nhà họ, thức ăn của nhà ta chắc lão lão đây không mặt mũi nào mà ăn đâu" Bà mẹ tức xanh cả mặt lạc cả giọng, bà già cũng không sợ, lớn tiếng xỉa xói, đang lúc ầm ĩ thì Tích Cửu từ ngoài vào, hỏi biết chuyện nổi giận túm tóc người đàn bà vả vào mặt rồi tống ra khỏi cửa.
Hôm sau Chu tới đón con gái, nàng không chịu về, hôm sau nữa Chu lại tới, dắt thêm nhiều người chửi bới rầm rĩ như định gây sự đánh nhau, bà mẹ gượng khuyên cô gái về, nàng gạt lệ lạy mẹ rồi lên kiệu đi. Vài hôm sau Chu lại sai người tới bắt Tích Cửu làm tờ tình nguyện ly hôn, mẹ ép Tích Cửu viết, chỉ mong Tử Ngôn trở về sẽ tính cách khác. Họ hàng Chu có người từ Tây An (tỉnh thành Thiểm Tây) tới, biết Tử Ngôn đã chết từ lâu, bà Trần đau thương uất ức thành bệnh rồi chết. Trần lúc tang gia bối rối đợi vợ về nhưng mãi không thấy, càng thêm bi phẫn, có mấy mẫu ruộng xấu bèn đem cầm bán làm đám tang. Chôn cất xong Tích Cửu lên đường, vừa đi vừa xin ăn, tới đất Tần mong tìm hài cốt của cha.
Tới Tây An hỏi thăm khắp nơi, có người nói vài năm trước có một thư sinh chết ở quán trọ, người ta chôn ngoài cửa đông, nay mồ mả đã mất dấu. Tích Cửu không biết làm sao, chỉ còn cách sáng ra chợ ăn xin, tối vào chùa ngủ nhờ để chờ tìm người biết chỗ. Một tối đi ngang đám mả hoang gặp mấy người ra chặn đường đòi trả tiền cơm, Tích Cửu nói "Ta là người xứ khác, ăn xin ở đây, thiếu tiền cơm các vị lúc nào?". Bọn kia cùng nổi giận xúm lại đè Tích cửu xuống đất, lấy cái áo rách của trẻ con chôn ở đó nhét vào miệng rồi đấm đá. Tích Cửu kiệt sức khản tiếng, dần dần nguy cấp, chợt cả bọn hoảng sợ nói “Quan nha ở đâu tới thế này” rồi bỏ Tích Cửu ra biến mất. Giây lát có xe ngựa kéo tới sai xem người nằm là ai, lập tức có mấy người đỡ Tích Cửu lên dắt tới trước xe. Người trong xe nói “Con ta đây mà, lũ quỷ mất dạy kia sao dám thế! Đuổi ngay theo trói chúng nó lại, không được để đứa nào chạy thoát".
Tích Cửu thấy có người rút nắm giẻ nhét miệng ra, định thần nhìn kỹ thì đúng là cha mình, khóc lớn nói "Con tìm hài cốt cha khổ quá, nay cha vẫn còn sống sao?". Cha nói "Ta không phải là người mà là Tổng quản Thái Hàng, chuyến này tới đây cũng vì con đấy". Tích Cửu càng khóc lóc thảm thiết, cha dịu ngọt an ủi, Tích Cửu vừa khóc vừa kể chuyện nhạc gia hối hôn. Cha nói "Đừng lo, nay vợ con đang ở chỗ mẹ, mẹ nhớ con lắm, cứ tạm tới đó một lúc đã". Bèn bảo lên xe cùng ngồi đi như mưa bay gió cuốn, khoảnh khắc tới một nơi công thự, xuống xe vào mấy lần cửa thì thấy mẹ ở đó. Tích Cửu sụt sùi khóc nghe dạy, thấy vợ đứng gần mẹ bèn hỏi "Vợ con ở đây thì cũng đã chết rồi sao?". Mẹ đáp "Không phải, đây là cha con đón tới, chờ con về rồi sẽ đưa đi ngay". Tích Cửu nói “Con xin ở lại hầu hạ cha mẹ chứ không muốn về”. Mẹ nói "Con cay đắng lặn lội tới đây chỉ vì tìm hài cốt của cha, nay nếu không về thì chí trước thế nào? Vả lại con hiếu hạnh đã thấu tới Thiên đế, người đã cho con giàu có muôn lượng vàng, vợ chồng còn được huởng nhiều lắm, sao lại nói không về?".
Tích Cửu sa nước mắt, cha hối thúc mấy lần, Tích Cửu khóc lạc cả tiếng, cha tức giận hỏi "Ngươi không đi phải không?”. Tích Cửu sợ hãi nín khóc, mới hỏi mộ cha ở đâu, cha kéo đi nói “Ngươi đi thì ta sẽ nói cho, cứ ra khỏi đám mả hoang hơn trăm thước, có hai cây bạch du một lớn một nhỏ là đúng", rồi kéo đi rất gấp, cũng không kịp từ biệt mẹ. Ngoài cửa có người đầy tớ khỏe mạnh dắt ngựa đứng chờ, Cửu lên ngựa rồi cha dặn thêm "Chỗ con nằm ngủ mọi khi có chút ít tiền đi đường, phải mau mau thu xếp về ngay, tới chỗ ông nhạc đòi vợ lại, chưa đòi được thì đừng thôi". Tích Cửu vâng dạ lên đường, ngựa đi rất mau, lúc gà gáy thì tới Tây An, người đầy tớ đỡ xuống ngựa, Tích Cửu còn đang vái chào nhờ cám ơn cha mẹ thì người ngựa đã biến mất. Bèn lần về chỗ ngủ mọi hôm, dựa vào vách ngồi nghỉ chờ sáng, thấy chỗ ngồi có hòn đá to bằng nắm tay cấn vào đùi, trời sáng nhìn lại thì là một nén bạc. Liền mua quan tài thuê xe tới chỗ hai cây bạch du tìm được hài cốt cha, bốc mộ quay về.
Hợp táng với mẹ xong thì nhà không còn gì, may mà người làng thương là có hiếu đều cho ăn uống. Định đi đòi vợ nhưng tự liệu là không đủ sức đánh nhau, bèn rủ người anh họ là Thập Cửu cùng đi. Tới nhà Chu người giữ cổng chặn lại đuổi đi, Thập Cửu vốn là kẻ vô lại bèn chửi mắng ầm ĩ. Chu sai người ra khuyên Tích Cửu về, hứa sẽ đưa con gái tới ngay, Tích Cửu bèn trở về. Lúc trước cô gái về nhà, Chu trước mặt nàng cứ chửi bới con rể và bà thông gia, cô gái không nói gì chỉ quay vào vách sa nước mắt. Bà Trần chết Chu cũng không cho nàng biết, khi được tờ tình nguyện ly hôn còn ném trước mặt nàng nói “Nhà họ Trần đuổi ngươi rồi đây!". Cô gái nói "Con chưa từng hung dữ ngỗ ngược, sao họ lại đuổi con?", rồi muốn trở về hỏi cho ra lẽ, nhưng Chu cấm cản không cho đi. Sau đó Tích Cửu đi Tây An, Chu lại phao tin Tích Cửu đã chết để con gái hết trông đợi nữa. Chuyện ấy vừa đồn ra, có quan Trung hàn họ Đỗ tới hỏi cưới Chu ưng thuận, sắp tới ngày cưới cô gái mới biết, khóc lóc bỏ ăn, lấy khăn phủ lên mặt, hơi thở chỉ còn như sợi tơ.
Chu đang lúc không biết làm sao thì thấy Tích Cửu tới cổng chửi bới không nể nang gì, nghĩ rằng con gái ắt sẽ chết bèn đưa nàng tới nhà Tích Cửu, định là con gái chết rồi sẽ ra tay cho hả giận. Tích Cửu về tới nhà thì bọn người đưa cô gái cũng tới, còn sợ Tích Cửu thấy nàng bệnh nặng không chịu nhận vào, bèn khiêng vào cửa đặt xuống đó rồi ra về ngay. Láng giềng lo lắng thay, đều bàn táng trả lại cho Chu nhưng Tích Cửu không chịu, đỡ nàng lên giường thì đã tắt hơi, mới cả sợ. Đang lính quýnh thì con Chu dắt mấy người vác khí giới xông vào đập phá hết nhà cửa Tích Cửu chạy trốn, bọn kia lùng sục khắp nơi. Láng giềng ai cũng bất bình, Thập Cửu bèn họp hơn mười người xông vào đánh cứu, anh em con họ Chu đều bị đánh sứt đầu mẻ trán phải bỏ chạy. Chu càng tức giận, kiện lên quan, quan sai bắt bọn Tích Cửu Thập Cửu. Tích Cửu lúc sắp lên quan, nhờ láng giềng trông nom giúp xác vợ, chợt nghe trên giường như có tiếng thở tới gần xem thì nàng đã mở mắt ra, giây lát thì đã xoay người lại được. Tích Cửu mừng quá, lên quan phân trần, quan huyên giận Chu vu cáo, Chu sợ, phải đút lót rất hậu mới khỏi tội.
Tích Cửu trở về, vợ chồng nhìn nhau vừa mừng vừa tủi. Trước là lúc cô gái bỏ ăn nằm yên, đã định bụng quyết chết, chợt có người vào kéo dậy nói "Ta là gia nhân họ Trần đây, mau mau đi theo ta thì vợ chồng được gặp nhau, nếu không thì không kịp đâu”. Nàng bất giác thấy mình đã ra ngoài cổng, có hai người đỡ lên kiệu, khoảnh khắc đã tới một nơi công thự, thấy cha mẹ chồng đều ở đó. Nàng hỏi đây là nơi nào, mẹ chồng đáp “Không cần hỏi, rồi sẽ đưa con về”. Một hôm thấy Tích Cửu tới đã mừng thầm, nhưng vừa gặp đã chia tay, trong lòng lạ lùng ngờ vực. Cha chồng thì không rõ làm việc gì mà mấy ngày không về nhà, đêm sau chợt về nói "Ta ở núi Vũ Di (thuộc huyện Sùng An tỉnh Phúc Kiến) về muộn mất hai hôm, khó lòng giữ gìn cho con trai, phải đưa con dâu về ngay". Rồi lấy xe kiệu đưa cô gái về, nàng chợt thấy nhà cửa, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng. Cô gái và Tích Cửu cùng kể lại việc đã qua, đều ngạc nhiên mừng rỡ, từ đó vợ chồng lại được sum họp, nhưng sớm tối không biết lấy gì mà ăn.
Tích Cửu bèn mở trường dạy trẻ trong thôn, lại ra sức học hành, thường tự nhủ "Cha nói trời cho nhiều tiền lắm, nay thì nhà trơ bốn bức vách, chẳng lẽ dạy trẻ con mà phát tích được sao?". Một hôm từ trường về, gặp hai người hỏi "Ông là Trần Mỗ phải không?". Tích Cửu đáp phải, hai người lập tức rút xích sắt ra xiềng lại, Tích Cửu không hiểu vì sao. Giây lát người làng xúm lại hỏi han, mới biết là bị bọn cướp trên quận khai gian. Mọi người thương là oan, gúp tiền đút lót cho hai người công sai, nhờ thế dọc đường Tích Cửu cũng không bị hành hạ. Tới quận ra mắt Thái thú, Tích Cửu kể lại gia thế, Thái thú ngạc nhiên nói "Đây là con bậc danh sĩ, dáng vẻ nho nhã như thế đời nào lại làm giặc", rồi sai tháo xiềng cho Tích Cửu giải bọn cướp lên tra tấn thật tàn nhẫn, chúng mới cùng khai là do Chu cho tiền dặn làm thế. Tích Cửu thuật lại đầu đuôi chuyện cha vợ chàng rể trở mặt vói nhau, Thái thú càng giận dữ, lập tức ra lệnh bắt Chu rồi bày tlệc mời Tích Cửu, nói chuyện thân thuộc, té ra Thái thú là con Tri huyện cũ đất Phì là Hàn công, từng là học trò của Tử Ngôn.
Kế tặng Tích Cửu một trăm lượng vàng làm tiền nghiên bút, lại đưa hai con ngựa đỡ chân, rồi vì Tích Cửu bất chợt lên quận nên hỏi lấy văn bài gởi tới các quan trên, tán tụng lòng hiếu của Tích Cửu, từ chức Tổng chế trở xuống ai cũng có quà tặng. Tích Cửu từ quận rủng rỉnh tiền bạc trở về, vợ chồng đều được an ủi rất nhiều. Một hôm vợ Chu khóc lóc tới, gặp con gái quỳ rạp xuống không đứng lên, cô gái hốt hoảng hỏi han mới biết là Chu đã bị đóng gông giam vào ngục. Cô gái khóc than tự quy tội về mình, chỉ muốn tìm cái chết. Tích Cửu bất đắc dĩ phải lên quận nài nỉ xin tha cho Chu, Thái thú bèn ra lệnh cho tự chuộc tội, phạt thêm một trăm thạch gạo, phê "Thưởng cho người con hiếu Trần Tích Cửu”. Chu về tới nhà, mở kho xúc gạo lẫn cả trấu chở qua, Tích Cửu nói với cô gái “Cha nàng thật là lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, chẳng lẽ cho rằng ta sẽ nhận nên trộn trấu vào gạo à?" rồi cười từ chối không lấy.
Tích Cửu nhà tuy hơi dư dật nhưng tường cũ rào thưa, một đêm có bọn trộm vào nhà, người đầy tớ chợt tỉnh giấc la lớn nên chỉ bị mất hai con ngựa. Hơn nửa năm sau, Tích Cửu đang đêm ngồi đọc sách nghe có tiếng đập cửa, hỏi thì không thấy ai đáp, bèn gọi đầy tớ dậy cùng ra xem, vừa mở cửa thì có hai con ngựa phóng vào, chính là hai con ngựa bị mất trước đó. Hai con ngựa chạy thẳng vào tàu thở phì phì, mồ hôi ròng ròng, đốt đuốc vào soi thấy mỗi con chở một cái túi da, mở ra xem thì toàn là bạc nén trắng xóa, vô cùng kinh ngạc không biết ở đâu ra. Về sau nghe nói đêm ấy có bọn cướp lớn đến cướp nhà Chu, vơ vét đầy túi trở ra thì gặp quan quân đuổi theo rất gấp nên nhảy lên những con ngựa chở nhẹ bỏ chạy, hai con ngựa này thì nhớ nhà chủ cũ nên phóng về.
Chu từ lúc trong ngục trở về, những vết đòn tra tấn ngày càng nặng thêm, lại bị đánh cướp nên bệnh nặng rồi chết. Cô gái đêm nằm mơ thấy cha mang xiềng xích tới nói "Những việc ta làm lúc bình sinh nay hối không kịp nữa, nay bị hình phạt dưới âm ty, không phải cha chồng con thì không ai cứu được, con hãy vì ta mà xin chồng con gởi một lá thư”. Nàng tỉnh dậy kêu khóc, Tích Cửu hỏi han mới biết chuyện, nhưng từ lâu cũng định tới Thái Hàng một chuyến nên ngay hôm ấy lập tức lên đường. Tới nơi sắm sửa đủ lễ vật tam sinh cúng cha, lập tức có mua sương rơi xuống chỗ ấy, chờ xem còn thấy gì nữa không thì suốt đêm yên ắng, bèn trở về. Chu chết, vợ con càng nghèo thêm, toàn nhờ con rể út chu cấp, nhưng Hiếu liêm họ Vương gặp đợt khảo xét quan huyện mắc tội tham nhũng, cả nhà bị đày đi Thẩm Dương (tỉnh Liêu Ninh) nên càng không biết nhờ cậy ai, Tích Cửu vẫn thường chu cấp cho.
Dị Sử thị nói: Điều thiện không gì lớn bằng hiếu, có thể thấu tới cả quỷ thần, lý đương nhiên là phải thế. Chứ dù kẻ đạt nhân có đức tốt mà có khi cũng nghèo khổ trọn đời, huống chi kẻ còn kém họ thì làm sao nói ráng nhất định sẽ khá được? Cũng có kẻ đem con gái cưng gả cho ông già đầu bạc mà vênh váo nói "Ông quan lớn ấy là rể ta đấy". Than ôi, trông vẫn xinh xẻo nõn nà mà khi ông chồng quan lớn chết đi cũng đã thê thảm lắm rồi, huống hồ là đàn bà trẻ theo chồng đi sung quân sao!
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 195 -
Vu Khử Ác
(Vu Khử Ác)
Đào Thánh Dụ ở huyện Bắc Bình (tỉnh Hà Bắc) là kẻ sĩ có tài Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) lên kinh ứng thí, ở trọ ngoài thành. Tình cờ ra ngoài thấy một người mang tráp sách cứ quanh quẩn như chưa tìm được chỗ ở, hỏi han thì cũng là học trò, trò chuyện thấy có phong thái danh sĩ. Đào thích lắm mời về ở cùng. Khách cả mừng, mang túi vào nhà, từ đó ở chung. Khách tự nói là người phủ Thuận Thiên, họ Vu tên Khử ác, vì Đào lớn hơn nên coi như anh. Tính Vu ưa nhàn nhã, thường ở một mình trong phòng, trên bàn không có quyển sách nào, Đào mà không trò chuyện thì chỉ nằm im lặng mà thôi. Đào ngờ vực, lục lọi rương tráp thấy ngoài nghiên bút ra chẳng có gì đáng giá lấy làm lạ bèn hỏi. Vu cười đáp "Chúng ta là người đọc sách, chẳng lẽ đến lúc khát nước mới lo đào giếng sao!". Một hôm hỏi mượn sách của Đào, về phòng đóng cửa chép rất nhanh, hết ngày được năm mươi tờ. Đào rình xem thấy cứ chép xong bài nào là đốt bỏ bài ấy, càng lấy làm kỳ quái. Hỏi nguyên cớ thì Vu đáp "Ta làm thế để khỏi đọc thôi mà", bảo đọc lại nhũng sách đã sao thì đọc vanh vách một lúc vài thiên, không sai một chữ. Đào thích lắm, muốn học thuật ấy, Vu nói không được, Đào ngờ là bủn xỉn, giận dỗi trách móc.
Vu nói "Ông thật không thể tất cho ta chút nào cả! Nếu không nói ra thì không hả lòng, mà nói ra e ông ngờ sợ, làm sao bây giờ”. Đào bảo cứ nói không hề gì, Vu nói "Ta không phải là người mà chỉ là ma thôi. Nay dưới âm ty cũng theo khoa mục mà trao chức quan, ngày mười bốn tháng bảy vâng chiếu khảo xét quan trường, ngày mười lăm sĩ tử vào trường, cuối tháng ra bảng! . Đào hỏi khảo xét quan trường để làm gì, Vu đáp "Đó là ý thận trọng của Thượng đế, bất kể là quan lại tốt xấu đều phải khảo xét tất, người có văn học thì cho chấm thi, người không hiểu văn chương thì không cho dự vào. Đại khái các thần dưới âm cũng như các quan trên trần, các vị đắc chí có người không đọc kinh sử, chẳng qua chỉ là lúc còn trẻ mượn văn học để cầu công danh, trộm được chút công danh rồi thì bỏ bê việc học, giữ chức mười mấy năm thì những kẻ sĩ văn học còn chữ nghĩa gì trong bụng nữa? Cho nên trên trần gian những kẻ ít học thừa thế hãnh tiến mà kẻ anh hùng lại thất chí, chỉ vì thiếu một lần khảo xét như vậy đấy”.
Đào cho là rất đúng, vì vậy càng kính sợ Vu. Một hôm Vu từ ngoài vào, có vẻ lo lắng, than rằng "Ta sinh ra nghèo hèn, tự nghĩ sau khi chết sẽ khá hơn, không ngờ xuống suối vàng vẫn còn lận đận”. Đào hỏi nguyên do, Vu đáp "Nay Văn Xương* đã được phong làm Đô La quốc vương, việc khảo xét quan lại cũng bỏ luôn, thần linh trôi nổi, ma quỷ xiêu dạt mấy mươi năm đều được chấm văn, bọn ta còn trông mong gì được nữa?”. Đào hỏi đám ấy là những ai, Vu đáp "Có nói ra thì ông cũng không biết, nhưng nêu qua một hai người thì cũng rõ được đại khái, như quan coi nhạc Sư Khoáng, quan giữ kho Hòa Kiểu** vậy. Ta tự nghĩ rằng mình số không thể dựa, tài không thể cậy, chẳng bằng bỏ quách không thi cho xong". Nói xong có vẻ ấm ức, định thu xếp hành lý lên đường, Đào kéo lại an ủi bèn thôi.
*Văn Xương: tức Văn Xương Đế quân, vị thần coi việc văn học khoa cử trong truyền thuyết Trung Hoa.
** Quan coi nhạc... Hòa Kiểu: Sư Khoáng là nhạc quan nước Tấn thời Xuân thu, mù mắt nhưng thẩm âm rất giỏi. Hòa Kiểu là người thời Tấn, nhà giàu nhưng tính rất keo kiệt, làm quan giữ kho của triều đình, bị Đỗ Dự chê là kẻ mê tiền. Sư Khoáng, Hòa Kiểu đây chỉ những kẻ không có đại tài đại chí nên không có độ lượng dung người.
Đến đêm rằm tháng bảy Vu nói với Đào "Ta sắp vào trường thi, phiền ông lúc sáng tinh mơ ra thắp hương ngoài cửa phía đông thành, gọi Khứ ác ba lần, ta sẽ tới", rồi ra cửa đi. Đào mua rượu nấu thức ăn chờ, khi trời vừa sáng làm theo lời dặn. Không bao lâu Vu dắt một thiếu niên tới, Đào hỏi tên họ, Vu đáp "Đây là Phương Tử Tấn, là bạn thân của ta, tình cờ gặp nhau trong trường thi, y nghe tiếng ông rất muốn làm quen". Bèn cùng nhau về chỗ Đào trọ, thắp đèn chào hỏi, thiếu niên phong thái như cây ngọc, thái độ lại rất nhu mì khiêm tốn, Đào rất yêu thích, nhân nói "Bài thi của Tử Tấn chắc rất đắc ý". Vu nói "Nói ra thì buồn cười, chứ trong trường ra bảy đề y đã làm được quá nửa, nhưng khi hỏi tới tên quan Chủ khảo bèn vứt hết bỏ ra, thật là kỳ nhân". Đào quạt lò hâm rượu bày lên, nhân hỏi "Đề thi trong trường ra sao? Khử Ác chắc đỗ đầu chứ?". Vu đáp "Thư nghệ, kinh luận mỗi thứ một đề, ai có khả năng thì làm thêm bài sách vấn”. Từ xưa rất nhiều người ngăn lấp đường tà mà phong tục đến nay đã thành xấu xa tệ hại không thể gọi tên được, không phải chỉ mười tám tầng địa ngục mà đủ trừng trị, mà mười tám tầng địa ngục không đủ để trừng trị thì còn có cách nào để trừng trị? Có kẻ nói nên đặt thêm một hai ngục nữa, nhưng như thế rất trái với ý hiếu sinh của Thượng đế, vậy thì nên thêm hay không? Hay có cách nào khác để làm trong sạch ngay từ cội nguồn không? Kẻ sĩ các ngươi cứ nói hết đừng giấu diếm", bài ta làm tuy không hay nhưng được một phen khoái ý. Bài biểu thì theo đề Tạ ơn nhân dịp diệt sạch Thiên ma, ban cho các bầy tôi long mã và thiên y khác nhau. Kế là bài thơ theo đề Dao Đài ứng chế, bài phú Hoa đào ở Tây trì, ba đề ấy thì ta cho rằng trong cả trường không có bài thứ hai".
Nói xong vỗ tay, Phương cười nói "Bây giờ thì cứ để ông tha hồ khoái trá, vài hôm nữa mà không khóc ròng thì mới thật là đàn ông đấy". Trời sáng Phương muốn chào đi, Đào giữ lại ở cùng, Phương không chịu, hẹn tối sẽ tới nhưng ba ngày không thấy đâu. Đào bảo Vu đi tìm, Vu nói "Không cần, Tử Tấn là người đường đường chứ không phải là kẻ vô tâm". Mặt trời vừa xế, quả nhiên Phương tới, đưa cho Đào một quyển sách, nói "Thất hứa ba ngày là để sao lại các bài làm cũ của ta, tất cả hơn trăm bài kính nhờ ông phẩm bình". Đào mở ra đọc thích lắm, đọc một câu là khen một câu, được một hai bài thì cất vào tráp. Trò chuyện cùng nhau đến khuya, Phương bèn ở lại, ngủ cùng giường với Vu. Từ đó thành lệ, đêm nào Phương cũng tới, Đào cũng không có Phương thì không vui. Một đêm Phương hớt hải bước vào nói với Đào "Bảng đã ra, Vu Ngữ huynh trượt rồi". Vu đang nằm nghe thế hoảng sợ vùng dậy, nước mắt giàn giụa, hai người hết sức an ủi mới thôi khóc nhưng chỉ nhìn nhau im lặng, không khí nặng nề không sao chịu nổi. Phương nói "Nghe nói Đại Tuần hoàn Trương Hoàn hầu* sắp tới tuần sát, e những kẻ thi rớt sẽ đặt vè này nọ, nếu không thì văn trường sẽ có chuyện thay đổi".
*Trương Hoàn hầu: tức Trương Phi. Xem truyện Hoàn hầu.
Vu nghe có vẻ mừng rỡ, Đào hỏi nguyên cớ, Vu đáp "Hoàn hầu Dục Đức cứ ba mươi năm một lần đi tuần sát âm ty, ba mươi lăm năm một lần đi tuần sát dương thế, hai nơi ấy có điều gì bất bình cứ đợi ông ta tới là xong hết". Rồi đứng lên kéo Phương cùng đi, qua hai đêm mới trở về. Phương nói với Đào rằng "Ông không chúc mừng Vu Ngữ huynh sao? Đêm rồi Hoàn hầu tới xé nát bảng cũ, những người có tên trên bảng ba phần chỉ còn có một, lại duyệt cả lại những quyển bị chấm rớt, tìm được Vu Ngũ huynh mừng lắm, tiến cử làm Tuần hải sứ Giao Nam, chỉ sớm tối là có xe ngựa tới đón thôi”. Đào mừng rỡ đặt tiệc chúc mừng, uống được vài chén, Vu hỏi Đào “Nhà ông có chỗ trống không?”. Đào hỏi để làm gì, Vu đáp "Tử Tấn cô đơn không nhà cửa, lại không nỡ rời ông nên tiểu đệ muốn mượn chỗ cho y nương dựa”. Đào mừng rỡ nói "Nếu thế thì quá may mắn, mà cho dù nhà cửa không rộng rãi thì ở chung phòng cũng có hề gì? Có điều nhà còn có cha già, nên ta còn phải thưa trước”. Vu nói “Vốn biết tôn đại nhân nhân từ phúc hậu có thể nương dựa, ông sắp đến ngày vào trường, nếu Tử Tấn không chờ được thì về trước được không?”. Đào bảo Phương cứ ở lại làm bạn ở đất khách, chờ mình thi xong sẽ cùng về.
Hôm sau trời vừa tối thì có xe ngựa tới cổng đón Vu lên đường phó nhiệm. Vu đứng lên nắm tay Đào nói "Từ nay xin vĩnh biệt, có một câu muốn nói nhưng sợ ông nhụt chí tiến thủ”. Hỏi câu gì, Vu đáp "Số ông lận đận sinh không gặp thời, khoa này mười phần chỉ có một phần đỗ, khoa sau Hoàn hầu đi tuần sát dương thế, công đạo bắt đầu sáng tỏ thì mười phần có ba phần đỗ, đến khoa thứ ba mới có hy vọng". Đào nghe thế muốn thôi không thi nữa, Vu nói "Không phải đâu, đó đều là số trời, cho dù không thể biết rõ nhưng số đã khổ thì phải chịu cho hết thôi". Kế nhìn Phương nói "Đừng chần chừ nữa, sáng mai giờ ngày tháng năm đều tốt, xin đem xe lọng đưa ông về, ta cưỡi ngựa đi cũng được". Phương vui vẻ từ biệt, Đào trong lòng rối loạn mờ mịt không hiểu Vu dặn dò Phương những gì, chỉ gạt lệ đưa tiễn, thấy xe ngựa chia đường, trong chớp mắt đã đi hết, mới hối hận là Tử Tấn ra đi chưa có một lời gởi gắm, nhưng đã không kịp nữa. Thi xong ba kỳ không được như ý lắm, lặn lội trở về, vào cổng hỏi Tử Tấn thì trong nhà không ai biết cả. Nhân kể lại với cha, cha mừng rỡ nói "Nếu thế thì khách tới lâu rồi".
Trước là ông Đào ngủ trưa, nằm mơ thấy có xe lọng ngừng ở cổng, một thiếu niên đẹp trai trong xe bước ra, lên thềm vái lạy. Ông kinh ngạc hỏi có việc gì thiếu niên đáp "Đại ca hứa cho ở nhờ nhưng phải vào thi không về cùng được nên con tới trước". Nói xong xin vào lạy mẹ, ông đang ngần ngại chối từ thì bà vú trong nhà ra nói "Phu nhân sinh được công tử", giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ. Hôm ấy Đào kể lại chuyện đều khớp với giấc mộng, mới biết đứa nhỏ chính là hậu thân của Tử Tấn, hai cha con cùng mừng rỡ đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Tấn. Đứa nhỏ sinh ra rất hay khóc đêm, mẹ khổ quá, Đào nói "Nếu đúng là Tử Tấn thì thấy con vào phải nín khóc". Vì phong tục kiêng cho trẻ mới sinh thấy người lạ nên không cho Đào gặp, nhưng mẹ vì đứa nhỏ khóc không biết làm sao bèn gọi Đào vào. Đào gọi đứa nhỏ nói "Tử Tấn đừng khóc nữa, ta tới rồi đây”. Đứa nhỏ đang khóc ngằn ngặt, nghe thế chợt im bặt, mở mắt nhìn Đào chằm chằm như ngắm người quen, Đào xoa đầu nó rồi bước ra, từ đó nó không khóc đêm nữa. Mấy tháng sau thì Đào không dám gặp, vì cứ thấy Đào là nó giơ tay đòi bế, bỏ đi thì khóc không chịu nín, Đào cũng phải bế nó đùa giỡn. Năm bốn tuổi đứa nhỏ rời mẹ, cứ sang ngủ chung với anh, anh đi đâu thì nằm thức đợi đến lúc về. Anh nằm dạy đọc Mao thi*, em trên gối líu lo đọc theo, một đêm thuộc hơn bốn mươi câu. Đào lấy quyển văn cũ của Tử Tấn dạy cho, đứa nhỏ vui thích học theo, đọc qua là nhớ thuộc lòng, nhưng lấy văn người khác cho đọc thử thì không thuộc ngay được.
* Mao thi: tức kinh Thi.
Lên tám chín tuổi thì mặt mày sáng láng, rõ ra là Tử Tấn. Đào hai lần đi thi hương đều rớt, đến khoa năm Đinh dậu chuyện trường thi vỡ lỡ*, các quan Giám khảo nhiều người bị trị tội, đường tiến thân của sĩ tử bắt đầu mở rộng, đó là nhờ Trương Tuần sát. Đào khoa sau thi đỗ Tú tài, kế đi thi hội nhưng nguội lạnh chí tiến thủ nên ở ẩn dạy em, thường nói với mọi người rằng "Ta có niềm vui này, quan chức cũng không thèm đổi”.
*Khoa năm Đinh dậu... vỡ lỡ: theo nội dung câu chuyện thì có lẽ là năm Đinh dậu 1657 trong đời vua Thuận Trị nhà Thanh. Chưa rõ về sự kiện này.
Dị Sử thị nói:Ta thường tới miếu Trương Hoàn hầu chiêm nguỡng dung mạo, thấy lẫm liệt có sinh khí, lại lúc bình sinh thì ăn nói quát tháo như sấm sét, vung mâu thúc ngựa tới đâu cũng làm người ta ngạc nhiên vui thích. Đời cho rằng tướng quân vũ dũng nên chỉ xếp vào hàng Giáng Quán*, đâu biết Văn Xương lắm việc, phải cậy rất nhiều vào người! Than ôi, ba mươi lăm năm mới tới một lần, sao mà muộn thế!
*Giáng Quán: tức Giáng hầu Chu Bột và Quán Anh, võ thần của Hán Cao tổ Lưu Bang, đều là bậc khai quốc công thần của nhà Hán.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 196 -
Phượng Tiên
(Phượng Tiên)
Lưu Xích Thủy người huyện Bình Lạc (tỉnh Quảng Tây), còn nhỏ đã thông minh đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm đâm ra chơi bời bỏ học. Nhà không dư dật mà ưa chải chuốt, quần áo chăn nệm đều là thứ tốt đẹp. Một tối được người ta mời uống rượu, lúc đi quên tắt đèn, uống được vài chén sực nhớ ra vội quay về. Nghe trong phòng có tiếng trò chuyện khe khẽ, núp nhìn vào thấy một thiếu niên ôm một cô gái đẹp nằm trên giường. Nhà Lưu xây trên phủ đệ của một nhà quyền quý bỏ hoang, thường có nhiều chuyện quái dị nên biết ngay là hồ nhưng cũng không sợ, sấn vào quát "Giường ta cho các ngươi nằm ngáy đấy à?”. Hai người hoảng hốt vơ quần áo trần truồng bỏ chạy, trên giường còn sót một cái quần lụa tía, trên dải có đính cái túi con. Lưu thích lắm nhưng sợ bị lấy trộm lại, liền giấu vào trong chăn rồi ôm chặt. Giây lát có một tỳ nữ đầu tóc rối bù bước vào, xin Lưu trả lại, Lưu cười đòi phải báo đáp. Tỳ nữ xin đổi rượu, Lưu không chịu, xin tặng vàng, cũng không chịu, bèn cười quay ra. Lát sau trở lại nói “Cô cả ta nói nếu cho xin lại thì xin đền ơn bằng một người vợ đẹp". Lưu hỏi là ai, đáp "Nhà ta họ Bì, cô cả là Bát Tiên, người cùng nằm lúc nãy là chàng họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên đã gả cho quan nhân họ Đinh ở huyện Phú Xuyên (tỉnh Quảng Tây). Cô ba là Phượng Tiên còn đẹp hơn hai cô lớn nhiều, chắc chắn chàng sẽ vừa lòng”. Lưu sợ nuốt lời, nói xin ngồi chờ tin hay, tỳ nữ đi hồi lâu rồi quay lại nói "Cô cả ta nhắn với quan nhân đây là chuyện tốt lành làm sao vội vã được. Cô ta vừa nói xong thì bị cô Ba chửi mắng, phải chờ vài hôm, chứ nhà bọn ta không phải loại hứa bừa rồi nuốt lời đâu”. Lưu bèn trả lại cái quần.
Qua mấy hôm vẫn không thấy tin tức gì, chập tối Lưu đi chơi về, vừa đóng cửa ngồi xuống chợt hai cánh cổng tự mở toang, có hai người lấy chăn khiêng một nữ lang, nắm lấy bốn góc chăn bước vào nói "Đưa dâu tới rồi đây!", cười đặt lên giường mà đi. Lưu tới nhìn, thấy nàng còn say chưa tỉnh, mùi rượu nồng nặc, mặt mũi đỏ hồng, xinh đẹp tuyệt trần. Lưu mừng quá, cầm chân cởi tất rồi ôm lấy nàng cởi áo xiêm ra. Cô gái hơi tỉnh hé mắt thấy Lưu nhưng không vùng vẫy gì được, chỉ tức tối nói "Con đĩ Bát Tiên bán ta rồi!". Lưu ôm ấp vuốt ve, cô gái thấy người Lưu lạnh quá, cười khẽ đọc "Đêm nay là đêm gì, Gặp chàng trai lạnh giá", Lưu nói “Cứ chờ xem nàng ơi, Thế này mà lạnh hả?", rồi ân ái với nàng. Xong rồi cô gái nói "Con nhãi vô sỉ làm bẩn giường người ta rồi đem thiếp đổi lấy cái quần à! Thế nào cũng phải trả thù”.
Từ đó đêm nào cũng tới, gối chăn rất đằm thắm. Một hôm lấy cái xuyến vàng trong tay áo ra nói với Lưu "Cái này là của Bát Tiên", mấy hôm sau lại đem tới một đôi giày thêu gấm khảm ngọc cực kỳ tinh xảo, dặn Lưu cứ khoe ầm lên. Lưu đem khoe với khắp bạn bè, ai tới xem cũng tặng tiền biếu rượu, Lưu từ đó thành ra có món hàng lạ. Một đêm cô gái tới, chợt nói xin từ giã, Lưu lấy làm lạ hỏi, nàng đáp “Bà chị vì việc đôi giày mà giận thiếp, định dọn nhà đi xa để chia cách hai ta”. Lưu lo lắng xin trả lại đôi giày. Cô gái nói “Không cần phải thế. Bà ấy đang định làm như vậy để ép thiếp, nếu trả lại là trúng kế đấy". Lưu hỏi sao không ở lại một mình, nàng đáp “Cha mẹ đi xa, một nhà hơn mười miệng ăn đều trông vào anh Hồ xoay xở, nếu thiếp không đi theo, sợ con mụ lắm mồm ấy lại bịa đặt này nọ". Từ đó không tới nữa.
Qua hai năm, Lưu nhung nhớ không khuây, tình cờ đi đường gặp một nữ lang cưỡỉ ngựa thong thả đi, có người lão bộc cầm dây cương chen qua sát người, qua rồi lại nhấc tấm khăn che mặt ngoảnh nhìn Lưu, phong tư vô cùng xinh đẹp. Giây lát lại có một thiếu niên phía sau vượt lên, Lưu nói "Không biết nàng ấy là ai mà đẹp quá?", rồi khen nức nở. Thiếu niên chắp tay cười nói "Ông quá lời rồi, đó là người vợ quê của ta đấy". Lưu hoảng hốt ngượng ngùng xin lỗi, thiếu niên đáp "Có gì đâu. Nhưng Nam Dương có ba ông Cát thì ông chiếm được rồng* rồi, ta thì tầm thường có gì đáng nói". Lưu nghe câu nói lấy làm ngờ, thiếu niên lại hỏi "Anh không nhận ra kẻ nằm trộm trên giường sao?", Lưu mới biết đó là chàng họ Hồ, anh em bạn rể với mình, bèn chuyện trò chọc ghẹo nhau rất vui vẻ. Thiếu niên nói “Cha mẹ mới về, ta định tới thăm, ông đi cùng không?". Lưu mừng rỡ, theo vào núi Oanh Sơn trên núi vốn có nhà dân trong huyện lánh nạn tới ở.
*Nam Dương... được rồng: thời Tam quốc anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và em họ là Gia Cát Đản ẩn cư ở Nam Dương, đều có tiếng tài giỏi, trong đó Lượng tức Khổng Minh giỏi nhất, có hiệu là Ngọa Long. Sau Cẩn theo giúp Ngô, Lượng theo giúp Thục, Đản theo giúp Ngụy, người ta vì thế có câu "Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó”. Đây ý nói Lưu lấy được người đẹp nhất trong ba chị em Bát Tiên.
Cô gái xuống ngựa vào, lát sau có mấy người ra đón, nói “Lưu quan nhân cũng tới rồi!”. Vào ra mắt ông bà nhạc thấy một thiếu niên áo giày sang trọng ngồi trước ở đó, ông già nói "Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên", mọi người vái chào nhau rồi cùng ngồi. Lát sau rượu thịt bày lên la liệt, mọi người cười nói râm ran, ông già nói “Hôm nay cả ba chàng rể cùng tới chơi, có thể nói là cuộc gặp gỡ hay đẹp, lại không có người ngoài, cứ gọi cả bọn trẻ ra làm một bữa tiệc đoàn viên”. Giây lát ba chị em kéo nhau ra, ông già sai lấy thêm ghế cùng cho ngồi cạnh chồng. Bát Tiên thấy Lưu cứ che miệng cười. Phượng Tiên cũng theo đà mà đùa giỡn chọc ghẹo, Thủy Tiên thì dung mạo hơi kém hơn hai người, nhưng có vẻ nghiêm trang đường bệ, cả bàn cười nói ầm ĩ mà nàng chỉ cầm chén rượu cười nụ. Rồi đó giày dép lẫn lộn, lan xạ thơm lừng, cùng nhau uống rượu vô cùng vui vẻ.
Lưu nhìn thấy ở đầu giường bày đủ nhạc cụ bèn cầm chiếc sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông già. Ông mừng rỡ, bảo ai rành loại nào thì chơi loại ấy, mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên nói "Đinh lang không rành thì thôi, chứ ngươi sao không chịu động đậy gì cả?", rồi cầm cái phách ném vào lòng Phượng Tiên, tìếng tơ trúc đan vào nhau dìu dặt. Ông già vui vẻ nói “Người nhà ta giỏi nhạc lắm! Các con đều biết múa hát, sao không trổ tài”. Bát Tiên kéo Thủy Tiên đứng lên, nói “Trước nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám làm phiền nó vất vả, còn hai chị em ta có thể hát khúc Lạc Phi". Hai người múa hát vừa xong thì tỳ nữ bưng lên một cái mâm vàng đựng trái cây, không ai biết là trái gì. ông già nói "Đây là từ Chân Lạp đem qua, gọi là trái Điều Bà La", rồi cầm mấy trái đưa cho Đinh.
Phượng Tiên không vui, nói "Chẳng lẽ cha lại thương rể giàu ghét rể nghèo à?”. Ông già nhếch mép chưa trả lời, Bát Tiên đã nói "Vì cha thấy Đinh lang ở huyện khác nên coi như khách đấy thôi, chứ nếu bàn về lớn nhỏ thì đâu phải chỉ em Phượng mới có chồng nghèo”. Phượng Tiên vẫn không vui, cởi áo đẹp ra, đưa trống phách cho tỳ nữ rồi hát một khúc Phá dao, vừa hát vừa sa nước mắt, hát xong phất tay áo bỏ ra, mọi người đều mất vui. Bát Tiên nói "Con nhãi vẫn cao ngạo như xưa”, bèn đuổi theo nhưng thấy đâu. Lưu xấu hổ cũng chào ra về, đi được nửa đường thấy Phượng Tiên ngồi bên vệ đường, gọi cùng ngồi xuống nói "Chàng là đàn ông mà không giúp vợ hả giận được à? Trong sách tự có nhà vàng, xin chàng làm được như thế", rồi đưa chân ra nói "Ra cổng đi mau, gai đâm nát cả giày rồi, vật thiếp tặng có mang theo không?". Lưu lấy ra đưa cho cô gái thay, rồi xin lại đôi đã rách.
Nàng nhoẻn miệng cười nói "Chàng cũng chảng ra sao, mấy lần thấy giữ cả những đồ dùng khi chăn gối. Nếu thương yêu nhau thì xin tặng cho vật này", rồi đưa Lưu một tấm gương, nói "Muốn thấy thiếp thì lúc nào đọc sách mỏi mệt cứ lấy ra nhìn, không thì không bao giờ thấy nhau đâu”. Nói xong biến mất. Lưu buồn rầu trở về, nhìn vào gương thấy Phượng Tiên đứng quay lưng như đi xa ra hàng trăm bước, nhớ lời nàng dặn bèn tạ khách buông màn học hành. Một hôm thấy người trong gương đã quay mặt lại, chúm chím như sắp cười, càng quý tấm gương, lúc không có ai lại lấy ra ngắm nghía. Hơn tháng thì bắt đầu chán nản, đi chơi quên cả giờ về. Trở về nhìn bóng người trong gương thấy vẻ mặt rầu rĩ như muốn khóc, hôm sau lại nhìn thì thấy quay lưng lại như lúc đầu, mới hiểu ra là vì mình bỏ bê việc học hành.
Bèn đóng cửa ra sức dùi mài kinh sử ngày đêm không nghỉ, hơn tháng thì người trong gương quay mặt trở ra. Từ đó nghiệm thấy cứ lúc nào học hành bê trễ thì tỏ vẻ buồn bã, mấy ngày sau chăm chỉ lại thì tỏ vẻ vui mừng, vì vậy treo luôn tấm gương trước mặt như đang đối diện với thầy học vậy. Như thế liền hai năm, Lưu đi thi một lần đỗ ngay, mừng rỡ nói "Nay thì có thể gặp Phượng Tiên của ta rồi". Lấy tấm gương ra nhìn, thấy mày ngài cong cong, răng ngà he hé, dáng vẻ mừng rỡ hiển hiện trước mảt, nhớ quá cứ nhìn chằm chằm không chớp mắt. Chợt người trong gương nhoẻn miệng cười nói "Bây giờ mới biết thế nào là người yêu giữa bóng gương, tình nhân trong bức vẽ". Lưu mừng rỡ nhìn quanh thì Phượng Tiên đã đứng sau ghế, liền nắm tay hỏi thăm ông bà nhạc. Nàng đáp "Sau hôm chia tay thiếp không về nhà lần nào, cứ náu thân trong hang núi, từ xa chia sẻ nỗi vất vả với chàng".
Lưu đi dự tiệc mừng ở quận, cô gái xin cùng đi, cùng ngồi một xe mà không ai thấy nàng. Lúc sắp trở về, nàng bàn với Lưu giả như vừa cưới nàng ở quận, về tới nhà mới hiện thân tiếp khách, coi sóc việc nhà, mọi người đều kinh ngạc vì nàng quá đẹp chứ không biết là hồ. Lưu được cử làm việc dưới quyền quan huyện Phú Xuyên, tới đó yết kiến nên gặp Đinh, Đinh kéo về nhà khoản đãi rất trọng hậu, nói "Cha mẹ mới dời nhà qua chỗ khác, vợ ta tới thăm sắp về rồi, phải gởi thư báo để tất cả cùng tới mừng".
Lưu ban đầu tưởng Đinh cũng là hồ, đến khi hỏi kỹ họ hàng quê quán mới biết là một nhà buôn lớn ở Phú Xuyên. Nguyên một hôm Đinh từ nhà khác trở về, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy nàng đẹp liếc nhìn, nàng xin đi nhờ ngựa, Đinh mừng đưa về phòng sách ăn ở với nhau, thấy lách được qua song cửa vào phòng mới biết là hồ. Nhưng nàng nói "Chàng chớ ngờ vực, thiếp thấy chàng là người thành thực nên nguyện theo nương tựa", Đinh yêu quý nên không lấy ai nữa. Lưu về thuê một căn nhà rộng của nhà quyền quý, sắp đặt nơi ăn chốn ở cho khách, đã quét dọn sạch sẽ nhưng chưa có đủ bàn ghế vật dùng, qua đêm thì thấy phòng ốc đã được bày biện lộng lẫy. Mấy hôm sau quả có hơn ba mươi người giương cờ chở lễ vật tới, xe ngựa đông đúc chật đường. Lưu vái chào rồi đưa ông nhạc cùng Đinh, Hồ vào nhà khách, Phượng Tiên đón mẹ và hai chị vào nhà trong.
Bát Tiên nói "Con nhãi nay đã lên bà rồi, không oán bà mối nữa chứ. Xuyến với giày của ta còn không?”. Phượng Tiên tìm đưa trả, nói "Giày thì còn đây, nhưng hàng ngàn người đã nhìn nát ra rồi". Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng, nói "Đánh cái này để gởi cho Lưu lang?". Rồi ném đôi giày vào lửa, khấn rằng:
Lúc mới như hoa tươi
Khi cũ như hoa rã
Nâng niu chưa dám dùng
Hằng Nga đà mượn đỡ
Thủy Tiên cũng khấn thay rằng:
Từng lồng búp măng ngọc
Bước ra muôn người khen
Nếu để Hằng Nga thấy
Thương bóng nguyệt không tròn
Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:
Tối tối lên trời xanh
Một sớm rời nơi cũ
Lưu lại bóng nho nhỏ
Cho cả thế gian nhìn
Rồi vun tro vào mâm, cao hơn mười phân, thấy Lưu bước vào bưng đưa, nói là Bát Tiên tặng, thấy toàn là giày thêu, hệt như đôi trước. Bát Tiên vội bước ra hất cái mâm xuống đất, chi còn lại một hai chiếc nguyên lành, lại cúi xuống thổi mới tan hết không còn dấu tích. Mấy hôm sau Đinh vì nhà ở xa nên cùng Thủy Tiên về trước, Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông già và Hồ thúc giục mấy lần, mãi đến trưa mới cùng mọi người ra về. Lúc họ mới tới, xe kiệu rầm rộ, người ra xem đông như chợ, có hai tên cướp nhìn thấy người đẹp chết mê chết mệt nên mưu chặn đường cướp lấy, lúc ấy theo dõi thấy họ đã ra khỏi thôn bèn đuổi theo, nhưng chỉ cách có một tầm tên mà giục ngựa phóng nhanh vẫn không theo kịp. Đến một chỗ đường hẹp, hai bên là vách núi, kiệu đi chậm lạỉ, chúng đuổi kịp vung đao hò hét, mọi người bỏ kiệu chạy tứ tán. Một tên xuống ngựa mở rèm thì bên trong chỉ có một bà già, ngờ là bắt lầm bà mẹ, vừa quay nhìn chung quanh thì bị chém vào tay phải rồi bị trói nghiến lại, định thần nhìn lại thấy không phải là đường núi mà là cổng phủ thành Bình Lạc, còn bà già trong kiệu là mẹ Tiến sĩ họ Lý dưới quê lên. Tên cướp tớì sau cũng bị chém chân ngựa bắt trói tại cổng thành. Lý bắt giải nộp quan Thái thú, vừa tra hỏi đã nhận tội. Lúc ấy có một tên cướp khét tiếng đang bị truy nã, hỏi ra thì chính là y. Mùa xuâu năm sau Lưu thi đỗ Tiến sĩ. Phượng Tiên cũng sợ chuốc họa nên từ chối không cho bạn bè thân thích tới chúc mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác, lúc làm quan tới chức Thị lang mới nạp thiếp, sinh được hai trai.
Dị Sử thị nói: Than ôi, thói đời ấm lạnh, người tiên kẻ tục cũng không khác nhau sao? Lúc trẻ không gắng sức, khi già lại đau lòng, tiếc vì không có giai nhân hiếu thắng làm bóng người vui buồn trong gương vậy! Ta mong hằng hà sa số người tiên đều sai con gái cùng xuống lấy người trần cho trong cái biển bần cùng ít đi những chúng sinh khổ sở.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 197 - 198 -
Người Khách Họ Đồng
(Đồng Khách)
Đổng sinh là người Từ Châu (tỉnh Giang Tô), thích kiếm thuật, hay khoe khoang tự phụ. Tình cờ đi đường gặp một người khách, sinh trò chuyện, toàn thở ra giọng anh hùng. Hỏi tên họ, khách nói là họ Đồng người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), lại hỏi đi đâu, đáp "Ta xa nhà đã hai mươi năm, nay vừa từ hải ngoại về! . Đổng nói "Ông ngao du bốn biển, quen biết nhiều người, có thấy ai là bậc dị nhân không?". Đồng hỏi loại dị nhân nào, Đổng bèn nói rõ sở thích của mình, lấy làm hận không được bậc dị nhân nào truyền thụ cho. Đồng nói "Ở đâu mà không có dị nhân, nhưng phải là tôi trung con hiếu thì mới được truyền thụ cho thuật ấy". Đổng hăng hái tự nói mình sẽ làm được như thế, rồi rút ngay kiếm ra, vỗ vào mà hát, lại chém đứt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Đồng vuốt râu mỉm cười, nhân mượn xem, Đổng bèn đưa cho. Đồng xem qua một lượt, nói "Đây là loại thép làm áo giáp đúc ra, còn ám mồ hôi, chỉ là hạng chót. Ta tuy chưa học kiếm thuật nhưng cũng có một thanh dùng được”, rồi rút trong áo ra một thanh đoản kiếm dài khoảng một thước, cầm gọt gươm của Đổng như cắt rau dưa, cắt tới đâu sắt vụn rơi lả tả tới đó. Đổng khiếp quá, cũng xin cầm xem, múa may đâm chém mấy nhát rồi trả lại, mời Đồng ghé lại nhà, khẩn khoản mời ngủ lại, lạy lục xin học kiếm pháp.
Đồng tạ từ nói không biết, Đổng vỗ gối hứa hẹn hùng hồn, Đồng chỉ kính cẩn ngồi nghe. Đến khuya chợt ở nhà bên có tiếng quát tháo đánh trói ầm ỉ. Nhà bên là nơi cha Đổng ở, Đổng giật mình tới bên vách nghe ngóng, chỉ nghe có giọng giận dữ nói "Gọi con ngươi ra mau, ta sẽ tha cho". Giây lát lại có tiếng đánh đập, tiếng rên rỉ không dứt, đúng là tiếng của cha. Đổng cầm ngọn mác muốn xông qua, Đồng cản lại nói "Qua đó sợ không sống được đâu, xin ông nghĩ cách vạn toàn! . Đổng hoảng sợ xin chỉ giáo, Đồng nói "Bọn cướp gọi đích danh thì đã rắp tâm giết ông. ông không có anh em gì khác, hãy trối trăn cho vợ con đã. Ta sẽ mở của giúp ông dọn dẹp đám thối tha này”. Đổng theo lời vào nói với vợ, vợ níu áo khóc, Đổng bao nhiêu hùng tâm chợt tiêu tan, bèn cùng nhau lên lầu, tìm cung kiếm tên đề phòng bọn cướp đánh qua. Còn đang luống cuống thì nghe tiếng Đồng trên nóc lầu cười nói “May là bọn cướp chạy rồi!". Đốt đuốc soi thì khách đã biến mất, rón rén qua xem thì cha uống rượu ở nhà hàng xóm vừa cầm đuốc về tới, mà trước sân chỉ toàn là cọng rơm cháy dở, mới biết Đồng là bậc dị nhân.
Dị Sử thị nói:Trung hiếu là tính người, mà những kẻ làm ta con không thể xả thân vì vua cha xưa nay, buổi đầu há không có lúc hăng hái cầm mác toan xông ra đâu, chỉ vì xoay chuyển ý nghĩ một lần mà thành lầm lạc đó thôi. Xưa Giải Đại Thân đã thề cùng chết với Phương Hiếu Nhu* mà sau lại nuốt lời, có lẽ sau khi thề thốt về nhà lại nghe tiếng vợ kêu khóc ở đầu giường cũng chưa biết chừng? Trong huyện có tên lính trạm là Mỗ, thường cứ đi mấy ngày mới về, vợ tư thông với một gã vô lại trong thôn. Một hôm Mỗ vừa về tới thì gặp một thiếu niên trong phòng vợ đi ra, vô cùng ngờ vực, căn vặn thì vợ khăng khăng chối. Kế tìm được đồ vật của thiếu niên để quên ở đầu giường, vợ cứng họng không sao chối được nữa, chỉ quỳ lạy xin tha tội. Mỗ giận quá, vứt cho cuộn dây bắt tự thắt cổ, vợ xin trang điểm rồi chết, Mỗ ưng thuận. Vợ bèn vào phòng trang điểm, Mỗ ngồi ngoài uống rượn chờ, chủi mắng thúc giục. Lát sau vợ ăn mặc lộng lẫy bước ra, sa lệ lạy nói ! Chàng quả nhẫn tâm bắt em chết sao?", Mỗ làm ra vẻ giận dữ quát tháo, vợ quay vào đang thắt dây thì Mỗ dằn chén gọi “Thôi ra đây, một thằng đội khăn xanh** chắc không thể bắt người khác chết được!", rồi lại ăn ở với nhau như cũ. Đó cũng là loại người như Đại Thân, nghĩ cũng buồn cười.
*Giải Đại Thân... Phương Hiếu Nhu: tức Giải Tấn và Phương Hiếu Nhu thời Minh, đều nổi tiếng văn chương, làm quan dưới triều Huệ đế. Lúc Yên vương (sau là Minh Thành tổ) dấy quân đánh Huệ đế, hai người cùng Chu Thục Tử, Vương Lương, Ngô Bạc, Hồ Hoàng hẹn cùng sống chết giúp Huệ đế. Kế Giải sai người tới nghe ngóng xem Hồ Hoàng động tĩnh ra sao, nghe Hồ hỏi người nhà cho heo ăn chưa. Giải nghe thế cười nói "Một con heo còn không chịu bỏ thì làm sao chịu bỏ tính mạng”, rồi không nghĩ gì tới lời hứa nữa. Sau Yên vương đánh chiếm Nam Kinh, Phương Hiếu Nhu bị bắt không chịu đầu hàng, bị giết cả mười họ giữa chợ, chỉ có Vương Lương đóng cửa kêu khóc rồi uống thuốc độc chết theo, còn còn những người kia đều nuốt lời ra làm quan với Minh Thành tổ.
**Đội khăn xanh: thời Xuân thu có hạng đàn ông cho vợ và con gái làm đĩ, gọi là "xướng phu”, phải đội khăn xanh để phân biệt với người khác.
198. Ái Nô
(Ái Nô)
Từ sinh người huyện Hà Gian (tỉnh Hà Bắc), tới dạy học ở huyện Ân (tỉnh Sơn Đông), đầu tháng chạp về nhà. Trên đường gặp một ông già nhìn kỹ rồi hỏi "Từ tiên sinh nghỉ dạy rồi à, sang năm sẽ mở lớp ở đâu?". Sinh cười đáp "Vẫn chỗ cũ”. Ông già nói "Ta tên Kính Nghiệp họ Thi, có đứa cháu gọi bằng cậu đang tìm thầy giỏi, vừa nhờ người tới Đông Chàng mời ông Lữ Tử Liêm, nhưng ông ta đã nhận tiền dạy ở Tắc Môn (tỉnh Sơn Đông). Nếu tiên sinh nhận dạy cho, thì số lương xin trả gấp đôi ở huyện Ân". Từ lấy cớ đã hứa với chỗ cũ từ chối, ông già nói “Thủ tín như thế thật là quân tử, nhưng từ nay đến năm mới cũng còn khá lâu, xin dâng một lượng vàng bái kiến, mong tiên sinh tạm lưu lại dạy cho cháu, sang năm sẽ bàn lại, được không?” Từ bằng lòng. Ông già xuống ngựa dâng phong bao lễ vật rồi nói "Nhà ta không xa lắm, có điều hơi chật hẹp, khó chứa súc vật. Xin tiên sinh cho ngựa với đầy tớ về, đi bộ với ta cũng hay". Từ nghe theo, đem hành chất lên ngựa của ông già, đi ba bốn dặm, trời sập tối mới tới nhà, thấy cửa đóng đinh đồng nổi, tay nắm chạm thú, rõ ràng là nhà thế gia. Ông già gọi cháu ra vái chào, là một đồng tử khoảng mười ba mười bốn tuổi. Ông già nói "Em rể ta là Tưởng Nam Xuyên, lúc sống làm Chỉ huy sứ, chỉ để lại có đứa con này, cũng không phải ngu độn, chỉ là quen tật lười biếng thôi, nay được tiên sinh đạy đỗ cho một tháng thì hơn học mười năm”.
Không bao lâu dọn tiệc mời rất linh đình, nhưng lên xuống phục dịch toàn là tớ gái, có một tỳ nữ cầm hồ rượu đứng chầu chực, tuổi khoảng mười lăm mười sáu trở lại, rất mực phong vận, khiến Từ thấy xao xuyến. Tiệc tan, ông già sai thu xếp chỗ ngủ cho Từ xong mới cáo từ đi ra. Trời chưa sáng đứa nhỏ đã tới phòng học, Từ vừa dậy đã có tỳ nữ tới hầu khăn lược, chính là nàng cầm hồ rượu tối qua. Ngày ba bữa cơm đều do nàng mang lên, tối đến lại tới dọn giường. Từ hỏi sao không có tớ trai, chỉ cười không đáp, trải nệm xong là đi. Hôm sau lại tới, Từ theo vào trêu cợt, nàng cười không chống cự, rồi ôm ấp nhau, nhân nói "Nhà này không có đàn ông, những việc bên ngoài thì nhờ cậu Thi. Thiếp tên ái Nô, phu nhân kính mến tiên sinh, sợ đám tớ gái không được sạch sẽ nên cho thiếp lại hầu. Nay phải giữ kín việc này, nếu để lộ ra thì cả hai sẽ mất mặt đấy". Một đêm nằm chung rồi ngủ quên đến sáng, bị công tử bắt gặp.
Từ xấu hổ, trong dạ bất an, đến tối, Ái Nô tới nói "May là phu nhân trọng chàng, nếu không thì hỏng cả rồi. Công tử vào kể, phu nhân vội bịt miệng không cho nói, như là sợ chàng nghe được, mà cũng chỉ dặn thiếp đừng ở lâu trong phòng học thôi", nói xong đi ngay. Từ vô cùng biết ơn phu nhân. Nhưng công tử không chăm học, Từ quở trách thì phu nhân cứ tìm cách xin cho, lúc đầu còn sai tỳ nữ, dần dần đích thân ra đứng ngoài cửa nói với thầy, vừa nói vừa khóc, mà cứ tối đến lại hỏi con về bài vở ban ngày. Từ chịu không nổi, tức giận nói "Đã dung túng cho con lười biếng, lại hối thúc ép con siêng năng, làm thầy loại học trò ấy thì ta không quen, xin phép cáo từ". Phu nhân sai tỳ nữ tới tạ lỗi, Từ mới thôi. Từ ngày vào dạy, lần nào muốn ra ngoài ngắm cảnh cũng thấy cửa nẻo khóa chặt, một hôm uống rượu say thấy bực tức gọi tỳ nữ hỏi nguyên cớ, nàng đáp "Không có gì khác đâu, chỉ vì sợ công tử bỏ bê việc học thôi. Nếu tiên sinh nhất định muốn ra ngoài, xin chờ lúc ban đêm”. Từ nổi giận nói "Nhận vài đồng vàng rồi phải chịu cấm cố đến chết à? Bảo ta ban đêm trốn ra, là đi đâu? Lâu nay vẫn xấu hổ vì chỉ ăn không, tiền lương vẫn còn trong túi đây". Bèn lấy vàng ra đặt lên bàn, thu xếp hành trang định đi. Phu nhân bước ra, im lặng không nói câu nào, chỉ lấy tay áo che mặt nghẹn ngào, sai tỳ nữ đưa lại vàng, mở khóa tiễn ra. Từ thấy cửa nẻo chật chội, nghiêng mình lách ra đi vài bước chợt có ánh nắng soi tới, té ra mình vừa dưới mộ chui lên. Nhìn bốn phía thấy hoang vắng tiêu điều, thì là một ngôi mộ cũ, cả sợ nhưng lại cảm vì có nghĩa, bèn bán vàng đắp mộ cao lên, trồng cây chung quanh rồi đi.
Năm sau Từ lại qua ngang chỗ ấy, ghé vào lễ bái rồi lên đường, thấy ông Thi từ xa tới cười nói thăm hỏi rồi khẩn khoản mời mọc. Từ biết là ma nhưng muốn nhân dịp hỏi thăm phu nhân nên theo vào thôn, vào quán gọi rượu cùng uống, trời tối lúc nào không biết. Ông già đứng lên trả tiền rượu rồi nói "Nhà ta không xa mấy, em gái ta cũng vừa về thăm nhà, mong tiên sinh dời gót ngọc tới chơi, để quét sạch rủi ro giùm lão phu”. Ra khỏi làng vài chặng lại có một dãy nhà, ông già gõ cửa vào, cầm đèn dẫn khách vào. Một lát Tưởng phu nhân ra chào, lúc ấy Từ mới nhìn kỹ, thì là một người đẹp khoảng bốn mươi tuổi. Phu nhân lạy tạ nói "Dòng họ sa sút, nhà cửa tiêu điều, ơn đức của tiên sinh thấm tận xương khô, thật không biết lấy gì báo đáp”. Nói xong khóc ròng, kế gọi Ái Nô ra, nhìn Từ nói “Thiếp vốn yên mến đứa tỳ nữ này, nay xin đưa tặng để tiên sinh đỡ vắng vẻ nơi đất khách, mà có cần gì nó cũng hơi biết đón ý", Từ dạ dạ. Lát sau hai anh em đi ra, để Ái Nô ở lại hầu hạ. Gà vừa gáy ông già đã tới đưa tiễn, phu nhân cũng ra dặn tỳ nữ phụng sự tiên sinh cho chu đáo, lại nói với Từ "Từ nay trở đi càng nên kín đáo, chuyện hai người gặp gỡ nhau quá lạ lùng, e những kẻ hiếu sự lại đặt điều nọ kia". Từ dạ rồi cáo từ, cùng Ái Nô cưỡi chung ngựa. Tới nơi dạy chỉ ở một phòng, ăn ngủ với nhau, lúc có khách nàng không tránh đi mà người ta cũng không nhìn thấy. Từ vừa hơi muốn gì là nàng đã làm ngay, lại giỏi môn đồng cốt, bị bệnh gì chỉ xoa bóp một lần là khỏi.
Đến tiết Thanh minh hai người cùng về khu mộ, nàng chào bước xuống, Từ dặn cho gởi lời cám ơn phu nhân, nàng vâng dạ rồi biến mất. Mấy hôm sau Từ quay lại, đang định tìm quanh mộ thì đã thấy nàng ăn mặc lộng lẫy ngồi dưới gốc cây, bèn cùng lên đường, cả năm thường đi lại như thế. Từ muốn cùng nhau về quê, nàng nhất quyết không chịu. Cuối năm từ biệt nơi dạy về đó, hẹn ngày gặp lại, nàng đưa tới chỗ ngồi hôm trước, chỉ đống đá nói "Đây là mộ của thiếp. Lúc phu nhân chưa xuất giá, thiếp đã theo hầu hạ, chết yểu chôn ở đây. Nếu chàng qua ngang, cứ thắp cho một nén hương, sẽ gặp lại nhau”. Sau khi chia tay về quê, Từ vô cùng nhớ nhung, tới đó khấn khứa nhưng tuyệt không thấy tăm hơi, bèn mua hòm quật mộ định mang hài cốt nàng về quê để ghi nhớ một thời yêu dấu. Huyệt vừa mở ra, Từ tự bước xuống, thấy nàng nhan sắc vẫn như còn sống nhưng tuy thịt da chưa nát mà y phục đã mủn ra như tro, trâm ngọc xuyến vàng đều còn mới, lại nhìn tới thắt lưng thấy có cái gói bọc mấy nén vàng bèn cuốn lại giắt vào lưng. Rồi cởi áo ngoài đắp lên xác nàng, ôm đặt vào quan tài, thuê xe chở về mang vào một gian nhà riêng, mặc xiêm áo thêu cho, một mình ăn ngủ bên cạnh để chờ linh ứng.
Bỗng Ái Nô từ ngoài vào cười nói “Tên giặc cướp mộ ở đây à?", Từ ngạc nhiên mừng rỡ hỏi thăm, nàng nói “Hôm trước thiếp theo phu nhân qua phủ Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) ba ngày, trở về thì nhà cửa đã trống không. Nhiều lần bảo cùng về vẫn không nghe là vì thiếp chịu ơn phu nhân từ nhỏ nên không nỡ xa lìa mà thôi. Nay đã cướp xác về đây xin chôn cất sớm cho thiếp được đội ơn sâu”. Từ hỏi "Xưa có người chết đã trăm năm vẫn sống lại được, nay xác nàng còn nguyên, sao không làm theo như thế?”. Nàng than rằng "Chuyện đó là có định số, chứ những sự linh dị mà thế gian đồn đại quá nửa là huyễn hoặc. Nếu thiếp muốn đứng lên đi lại cũng chẳng có gì khó, chỉ hiềm không thể giống như người sống nên không làm thôi”. Rồi mở quan tài bước vào, cái xác liền đứng dậy, rỡ ràng khả ái, nhưng sờ vào người thì thấy lạnh như băng.
Nàng toan nằm lại vào quan tài, Từ cố ngăn cản thì nói "Thiếp được phu nhân yêu mến rất mực, chủ nhân đi làm ăn xa về có mấy vạn lượng vàng, thiếp lấy trộm một ít cũng không tra hỏi ráo nết. Sau lúc ốm nặng sắp chết, lại không có ai là thân thích bèn giấu kỹ trong người để cùng chôn một chỗ. Phu nhân thương thiếp chết yểu, lại liệm thêm nhiều châu báu nên sở dĩ xác thân chưa nát chẳng qua là nhờ chút hơi thừa của vàng bạc châu báu thôi, nếu hiện thân sống ở đời thì làm sao lâu dài được? Như chàng nhất quyết muốn thế thì xin đừng ép thiếp ăn uống, nếu làm linh khí tan mất thì du hồn cũng phải tiêu tan", Từ bèn dựng một gian tịnh xá để ở với nhau. Nàng cười nói như người thường nhưng không ăn không ngủ, không gặp người lạ. Hơn năm sau Từ uống rượu hơi say, cầm chén ép đổ cho nàng, nàng lập tức ngã lăn xuống đất, máu trong miệng chảy ra đầm đìa, hết ngày thì thân xác tan rã. Từ hối hận thì việc đã rồi, bèn chôn cất thật hậu.
Di Sử thị nói:Phu nhân dạy con chẳng khác gì người trần, nhưng đối xử với thầy sao mà hậu như vậy? Há chẳng cũng hiền sao? Ta vẫn nói nhà giàu sang không bằng ma phong nhã, nhưng lại gởi gắm lầm cho gã tục tử thô mãng, để đến nỗi vật linh không sống được lâu dài, tiếc thay!
Chu sinh ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) vốn ngang tàng, dạy học ở nhà Cống sĩ Mỗ. Cứ mỗi lần trách phạt học trò thì người mẹ lại sai tớ gái tới xin tha, nhưng sinh không nghe. Một hôm tự tới ngoài cửa nói với thầy, Chu nổi giận vớ lấy thước mắng lớn xông ra, người đàn bà hoảng sợ bỏ chạy, Chu đuổi theo đánh với trúng vào mông nghe bồm bộp, nghĩ mà buồn cười.
Mỗ ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) mỗi năm rước thầy thì giao hẹn đến cuối năm mới tính toán công xá một lần, cả năm thì tính từng ngày, ngày nào thầy đi vắng đều ghi rõ để cuối năm trừ lại. Mã sinh dạy ở đó, lúc đầu thấy y mang bàn tính tới, biết nguyên do rất sợ, sau nghĩ ra một kế bèn đổi giận làm lành, cứ nghe y tính toán, không cãi vã thêm bớt gì cả. Y vì thế vui lắm, cứ nhất định mời sang năm lại tới dạy, Mã lấy cớ phải về quê để từ chối. Nhưng có Mỗ sinh hiệu là Quai Mậu, Mã giới thiệu dạy thay mình. Mỗ tới dạy thì động một tí lại chửi mắng, y không bỉết làm sao đành cố nhịn. Cuối năm mang bàn tính tới, sinh bừng bừng nổi gỉận nhưng cũng cố nhịn ngồi nghe tính toán. Y tính cả những ngày đi đường cho thầy, sinh không nghe, bắt nhà chủ phải chịu. Hai bên cãi nhau không ai chịu ai, vác gậy đánh nhau, cả hai đều sứt đầu mẻ trán, dắt nhau lên quan thưa kiện.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 199 - 200 -
Tiểu Mai
(Tiểu Mai)
Vương Mộng Trinh ở huyện Mông Âm (tỉnh Sơn Đông) là con nhà thế gia, tình cờ đi chơi Chiết Giang thấy một bà già ngồi khóc trên đường. Hỏi han, bà đáp "Chồng ta đã chết chỉ để lại có một đứa con trai, nay nó phạm tội tử hình, ai mà cứu được?" Vương vốn khẳng khái bèn ghi nhớ họ tên rồi bỏ tiền túi lo lót, kế được tha tội. Người kia ra khỏi ngục nghe nói là Vương cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu vì sao, tìm tới nhà trọ khóc lạy tạ rồi hỏi. Vương đáp "Không có gì khác, chỉ là vì ta thương mẹ ngươi già cả mà thôi". Người kia cả sợ, nói mẹ mình đã chết lâu rồi, Vương cũng lấy làm lạ. Đến tối bà già tới tạ ơn, Vương trách là lừa dối, bà nói "Nói thật ta là con hồ già ở Đông Sơn, hai mươi năm trước có gặp gỡ cha thằng bé một đêm, nên không nỡ để người đã chết đau khổ". Vương rợn người đứng lên tỏ vẻ kính trọng, định hỏi thêm cho rõ thì bà già biến mất.
Trước đó vợ Vương vốn hiền thục, mộ đạo Phật, không uống rượu. Trong nhà dành riêng ra một gian phòng sạch sẽ treo hình Quan âm để cầu con trai nối dõi, hàng ngày thắp hương khấn khứa. Mà Thần Phật lại rất linh thiêng, thường báo mộng dạy những điều cần tránh, nhờ vậy mọi việc trong nhà đều theo dó mà làm. Sau vợ Vương mắc bệnh nặng bèn sai dời giường vào gian thờ, lại đặt riêng một chiếc nệm gấm trong phòng mà thường đóng kín cửa như giấu diếm điều gì. Vương cho là tin nhảm nhưng lại nghĩ rằng vợ bệnh nặng mê sảng nên không nỡ trái ý. Vợ Vương mắc bệnh hai năm, rất ghét tiếng ồn, thường che màn nằm một mình, lắng nghe thì như đang nói chuyện với người nào nhưng mở cửa nhìn thì không có ai. Lúc nằm bệnh không lo lắng điều gì, duy có đứa con gái mười bốn tuổi, chỉ ngày ngày lo sửa soạn quần áo cưới bảo lấy chồng. Con gái lấy chồng rồi, nàng gọi Vương tới cạnh giường cầm tay nói "Nay xin vĩnh biệt. Khi thiếp vừa mắc bệnh, Bồ Tát đã báo mộng nói không còn sống lâu được, nhưng niệm tình còn có chuyện chưa làm xong nên ban cho ít thuốc kéo dài hơi tàn đợi đến lúc gả chồng cho con. Năm ngoái Bồ Tát trở về Nam Hải, lưu lại thị nữ Tiểu Mai săn sóc cho thiếp. Nay sắp chết, người bạc phận không sinh nở được, thiếp rất thương Bảo Nhi, sợ chàng lấy phải vợ ghen thì mẹ con mất nơi nương tựa. Tiểu Mai xinh đẹp lại hiền thục, chàng nên cưới làm vợ kế".
Vương vốn có người thiếp sinh được một trai đặt tên là Bảo Nhi, lúc ấy cho lời vợ là hoang đường, bèn hỏi "Nàng vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói những lời như thế, chẳng cũng bất kính ư?". Vợ đáp “Tiểu Mai săn sóc thiếp hơn một năm nay không nề vất vả, thiếp đã nài nỉ khẩn cầu rồi". Hỏi Tiểu Mai đâu, vợ nói "Không có trong phòng sao?", Vương định hỏi nữa thì nàng nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương thức giữ linh cữu, nghe trong phòng có tiếng nức nở, cả sợ ngờ là ma, gọi đám tớ gái mở khóa vào xem thì thấy là một cô gái xinh đẹp khoảng mười sáu tuổi mặc áo tang. Mọi người cho là thần cùng cúi lạy, cô gái lau nước mắt đỡ dậy. Vương chăm chú nhìn, nàng chỉ cúi đầu. Vương nói “Nếu lời trối của người đã khuất là đúng thì mời nàng lên nhà trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà lạy chào, nếu không thì ta cũng không dám vọng tưởng để mắc phải tội lỗi". Nàng đỏ mặt bước ra, cùng lên nhà trên, Vương sai tớ gái trải chiếu rồi bước vào lạy trước, cô gái cũng lạy trả, kế tới mọi người trong nhà theo thứ tự lớn nhỏ ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, duy đến lượt người thiếp thì đứng lên đỡ dậy.
Từ khi vợ Vương mắc bệnh nằm liệt giường kẻ ăn người làm sinh thói lười biếng ăn cắp, việc nhà đã lâu không có ai coi sóc. Mọi người làm lễ ra mắt xong, xếp hàng đứng hầu, cô gái nói "Ta cảm lòng thành của phu nhân nên lưu lại trần gian, lại được ủy thác cho việc lớn. Các ngươi đều nên tự mình sửa đổi, gắng sức cho chủ, những lỗi lầm trước đây ta không hỏi tới, nếu không thì đừng nói trong nhà không có người". Mọi người cùng nhìn lên thấy nàng giống hệt bức tranh Quan âm lay động lúc có làn gió thổi qua, nghe thế run sợ đều dạ ran. Nàng cắt đặt mọi người lo việc tang đâu vào đấy, từ đó lớn nhỏ trong nhà không ai dám trễ nải. Cô gái cả ngày lo toan công việc trong ngoài, Vương định làm gì cũng hỏi qua nàng mới làm. Tuy một ngày gặp nhau mấy lần, nhưng không nói một câu riêng tư. Sau tang lễ Vương muốn nhắc lời vợ dặn nhưng không dám nói thẳng bèn nhờ người thiếp ngỏ ý. Cô gái nói "Ta đã nhận lời phu nhân dặn dò cặn kẽ, không thể từ chối, nhưng hôn phối là việc lớn, không thể quấy quá. Hoàng tiên sinh là vai bác, ngôi cao đức lớn, xin mời ông làm chủ hôn thì ta xin vâng mệnh".
Lúc bấy giờ quan Thái bộc họ Hoàng ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) đã về trí sĩ, là bạn của cha Vương, vẫn đi lại thân thiết với nhau. Vương lập tức tới thăm kể rõ mọi việc, Hoàng lấy làm lạ bèn cùng tới nhà Vương, cô gái nghe báo liền ra lạy chào. Hoàng vừa trông thấy, kinh ngạc cho là người tiên, không dám nhận lễ, kế tặng quà rất hậu, làm đám cưới xong rồi về. Cô gái đưa tặng gối êm giày ấm, chu đáo như thờ cha mẹ chồng, từ đó hai nhà càng thêm thân thiết. Sau lễ hơp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nên trong lúc yêu đương vẫn có phần cung kính, thỉnh thoảng lại dò hỏi về việc Bồ Tát ăn ở ra sao. Cô gái cười nói "Chàng thật ngốc quá, làm gì có chuyện thần thánh nào lấy người trần thế?”. Vương lại căn vặn nàng từ đâu tới, nàng đáp “Không cần phải hỏi kỹ, nếu cho là thần thì cứ sớm tối thờ phụng, sẽ không mắc tội”. Cô gái với người dưới thường khoan dung, lúc nào nói cũng cười nhưng đám tớ gái đang đùa giỡn với nhau vừa thấy bóng nàng là im bặt. Nàng cười bảo "Chẳng lẽ các ngươi còn cho ta là thần sao? Ta mà là thần thánh gì, thật ra là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại, chị ta ốm nhớ em nên ngầm nhờ bà Vương ở thôn nam gọi ta tới, ở đây sợ ngày đêm gần gũi anh rể có điều không tiện nên nói thác là thần, ở kín trong phòng chứ thật ra có phải là thần thánh gì đâu!”. Mọi người vẫn chưa tin lắm nhưng hàng ngày hầu hạ bên cạnh thấy nàng chẳng khác gì người thường nên những lời bàn tán cũng hết dần.
Nhưng với đám tôi tớ ngu si bướng bỉnh mà Vương đánh mắng vẫn không dạy dỗ được, nàng chỉ nói một câu là ai cũng ngoan ngoãn vâng lời, đều nói “Không rõ vì sao, chứ thật ra không sợ hãi gì nhưng cứ thấy mặt nàng là mềm lòng, không nỡ làm điều gì trái ý". Từ đó mọi việc trong nhà đều tốt đẹp lên, trong vài năm mà ruộng tốt liền bờ, kho thóc đầy ắp. Vài năm sau người thiếp sinh một gái, nàng cũng sinh một trai, đứa nhỏ mới sinh ra đã có một nốt ruồi son trên cánh tay phải, nhân đặt tên là Tiểu Hồng. Lúc đầy tháng, cô gái bảo Vương làm tiệc lớn mời Hoàng, Hoàng gởi quà mừng rất hậu nhưng từ tạ không tới vì già yếu không đi xa được, nàng sai hai bà già qua nài nĩ Hoàng mới tới. Nàng bế đứa nhỏ ra vạch tay trái để giải thích tên con, lại hỏi đi hỏi lại rằng nốt ruồi ấy là tốt hay xấu. Hoàng cười đáp "Đo như thế là tốt, nên thêm một chữ vào tên, gọi là Hỷ Hồng". Nàng mừng lắm bước ra lạy tạ.
Hôm ấy đàn sáo vang nhà, thân thích tới mừng đông nghẹt, Hoàng ở chơi ba ngày mới về. Chợt ngoài cổng có xe ngựa tới đón cô gái về thăm nhà, mọi người vì suốt mười năm không hề thấy nàng có họ hàng gì lui tới nên đều xôn xao bàn tán. Nhưng cô gái làm như không nghe thấy, cứ sửa soạn hành trang bế con đi, bảo Vương theo tiễn. Vương đi theo, được khoảng hai ba mươi dặm tới một chỗ vắng, cô gái dừng xe gọi Vương xương ngựa lên buông rèm trò chuyện, nói “Vương lang, Vương lang! Sum họp ngắn ngủi, chia ly lâu dài, chàng có đau lòng không?” Vương hoảng sợ hỏi nguyên do, nàng nói "Chàng biết thiếp là ai không?”. Vương đáp không biết, nàng hỏi “Trước đây chàng có cứu một người bị tội chết ở Giang Nam, đúng không?”, Vương đáp có. Cô gái nói "Bà già khóc trên đường ấy là mẹ thiếp, vì cảm nghĩa của chàng nên nghĩ cách báo đáp, mới nhân việc phu nhân mộ đạo Phật bảo thiếp giả làm thần, thật ra là để đem thiếp báo ơn chàng. Nay may mắn sinh được đứa con này, thế là toại nguyện. Thiếp thấy chàng sắp đến vận xấu, nếu để đứa nhỏ này ở nhà e không nuôi được, nên phải mang theo để tránh tai ách cho con. Chàng nhớ là lúc nào trong nhà có ai chết thì cứ lúc gà gáy canh đầu phải tới rặng liễu trên bờ đê Tây Hà, chờ người cầm đèn lồng hoa quỳ tới đón đường cầu khẩn mới có thể thoát nạn". Vương hứa sẽ nhớ, lại hỏi ngày trở lại, nàng đáp "Không thể tính trước, nhưng chỉ cần chàng nhớ kỹ lời thiếp thì ngày tái ngộ cũng không xa lắm đâu”. Lúc lên đường cầm tay Vương khóc ròng, kế lên xe đi nhanh như bay, Vương nhìn theo đến khi khuất bóng mới quay về.
Sáu bảy năm sau Tiểu Mai vẫn bặt tăm, chợt bệch dịch lan tràn khắp nơi, người chết như rạ. Một người tớ gái trong nhà bị bệnh ba ngày rồi chết, Vương vẫn nhớ lời cô gái dặn nhưng hôm ấy có khách, uống rượu say ngủ quên, tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy vội tìm ra rặng liễu trên đê, thấy có ánh đèn le lói song đã xa rồi, vội đuổi theo nhưng đi được một bước thì thấy xa thêm trăm bước, càng duổi theo thì ánh đèn càng xa, dần dần không thấy đâu nữa. Vương buồn rầu trở về, vài hôm sau mắc bệnh nặng rồi chết. Họ hàng Vương có nhiều kẻ vô lại, thấy thế cùng ức hiếp con côi vợ góa, lúa ruộng trái vườn công nhiên gặt hái, nhà cửa ngày càng sa sút. Qua năm sau Bảo Nhi lại chết, trong nhà không có ai là chủ, bọn chúng càng ngang ngược, chiếm hết ruộng vườn, bắt hết trâu ngựa. Lại muốn chia nhau cả nhà cửa, vì người thiếp của Vương còn ở đó bèn dắt mấy người tới bắt ép đem bán. Người thiếp thương đứa con gái nhỏ, mẹ con bịn rịn khóc lóc, láng giềng đều thương xót.
Đang lúc nguy cấp chợt nghe ngoài cổng có tiếng xe ngựa đỗ lại, mọi người nhìn ra thì Tiểu Mai dắt con trai bước xuống. Nàng nhìn quanh thấy mọi người đang nhao nhao như cái chợ, bèn hỏi đó là ai, người thiếp khóc lóc kể lại. Cô gái biến sắc mặt, lập tức sai người theo hầu đóng cổng khóa lại. Bọn kia toan chống cự nhưng tay chân tự nhiên nhũn ra, cô gái ra lệnh trói tất cả lại vào cột nhà, mỗi ngày cho ăn ba bát cháo loãng, sai một lão bộc tới báo ngay cho ông Hoàng, kế vào nhà khóc lóc thảm thiết rồi nói với người thiếp rằng "Đó là số trời, ta đã định về từ tháng trước lại vì mẹ ta ốm nặng nên chần chừ đến nay, không ngờ trong chớp mắt chàng đã thành người thiên cổ!". Lại hỏi tới các tôi tớ cũ thì đều bị người trong họ cướp đi, càng thêm thương cảm.
Hôm sau tôi tớ nghe tin nàng tới đều trốn về, gặp lại nhau đều sa nước mắt. Bọn người trong họ bị trói cùng kêu rằng đứa nhỏ kia không phải là con Mộ Trinh, cô gái cũng không thèm tranh cãi. Kế ông Hoàng tới, nàng dẫn con ra đón, Hoàng cầm tay đứa nhỏ kéo tay áo bên trái lên thì nốt ruồi son vẫn còn đó, bèn chỉ cho mọi người thấy chứng cứ đích xác. Liền hỏi kỹ về những vật đã mất, những người đã lấy, biên hết vào sổ báo lên quan huyện. Quan bắt tất cả bọn vô lại lên đánh mỗi tên bốn chục roi giam lại rồi lục soát nhà cửa, ruộng đất trâu ngựa đều trở về chủ cũ. Hoàng sắp về cô gái dắt con ra khóc lạy rồi nói "Thiếp không phải là người trần, chú đã biết rổi. Nay xin đem đứa con côi này gởi gắm cho chú”. Hoàng đáp "Lão phu còn một hơi thở cũng cố lo lắng cho nó”. Hoàng về rồi, cô gái xếp đặt việc nhà xong, gởi con cho người thiếp rồi mang lễ vật ra mộ cúng chồng, nửa ngày không về, ra xem thấy mâm bàn rượu thịt vẫn còn đó mà người đã biến mất.
Dị Sử thị nói: Không để người phải tuyệt tự thì người cũng không để mình phải tuyệt tự, đó là việc người nhưng thật ra cũng là đạo trời. Còn tới như trên tiệc có bạn hiền, áo cừu xe nhẹ có thể cùng hưởng mà lúc nấm mồ xanh cỏ, vợ con sa sút thì người trong xe thản nhiên nhìn qua rồi đi thôi. Bạn chết không nỡ quên, cảm ơn nghĩa thì nghĩ cách báo đáp, có phải chỉ riêng con người đâu. Hồ ơi, nếu ngươi có nhiều tiền bạc thì ta sẽ làm quản gia cho ngươi!
200. Cô Gái Đánh Sợi
(Tích Nữ)
Huyện Thiệu Hưng (tỉnh Chiết Giang) có người quả phụ đêm ngồỉ đánh sợi, chọt có một cô gái đẩy cửa bước vào cười nói “Bà không mệt sao?", nhìn ra thấy khoảng mười tám mười chín tuổi dung nhan đẹp đẽ, áo xiêm lộng lẫy. Bà già kinh ngạc hỏi “Cô ở đâu tới đây?”, cô gái đáp "Thương bà ở một mình, nên tới làm bạn”. Bà già ngờ là thê thiếp nhà giàu sang trốn đi, cứ căn vặn mãi. Cô gái nói “Bà đừng sợ, thiếp dù là hồ, cũng giống bà thôi. Thiếp mến bà là người trong sạch nên tới ở chung, cả hai đều đỡ vắng vẻ, thế không tốt sao?". Bà già lại ngờ là hồ, trầm ngâm do dự, cô gái bèn lên giường đánh sợi giúp, nói "Bà đừng lo việc kiếm sống thế này thiếp giỏi bậc nhất, quyết không làm phiền nhau về cái ăn cái uống đâu”. Bà già thấy nàng dịu dàng khả ái nên bằng lòng. Đến khuya nàng nói với bà già "Có gói chăn gốỉ mang theo còn để ngoài cổng, lúc nào nghỉ phiền bà cầm vào giùm”. Bà già ra, quả thấy một gói y phục liền đem vào cô gái mở ra bày trên giường, không biết là loại gấm lụa gì mà thơm phức mịn màng không gì sánh kịp. Bà già cũng trải chăn đệm ra cùng nàng ngủ chung một giường, nàng vừa cởi quần áo ngoài ra thì có mùi hương lạ thơm nức cả phòng.
Lúc đi nằm, bà già thầm nghĩ gặp người đẹp thế này mà tiếc rằng mình không phải là đàn ông, cô gái đang nằm cười nói “Bà đã bảy mươi tuổi mà còn vọng tưởng à?”. Bà già đáp "Đâu có", nàng nói "Đã không vọng tưởng, sao lại muốn làm đàn ông?". Bà già càng biết chắc là hồ, cả sợ, cô gái lại cười nói "Muốn làm đàn ông để làm gì, sao còn sợ ta chứ?”. Bà già càng khiếp sợ, run bần bật lay động cả giường. Cô gái nói "Mật chỉ lớn có bấy nhiêu mà lại muốn làm đàn ông. Nói thật ta chính là người tiên nhưng không phải là loại gái gây tai họa đâu, chỉ cần bà kín miệng thì tự nhiên đủ cái ăn cái mặc". Sáng ra bà già dậy sớm sụp lạy bên giường, cô gái kéo đứng lên, tay mịn như mỡ đông, tỏa mùi hương ấm, da thịt chạm tới là thấy rạo rực. Bà già động tâm lại suy nghĩ vẩn vơ, cô gái mỉm cười nói “Bà già vừa mới run bần bật đây mà lại nghĩ ngợi gì thế? Nếu bà là đàn ông, chắc sẽ chết vì tình". Bà già nói "Nếu ta là đàn ông thì đêm qua làm sao sống được?".
Từ đó hai người hòa hơp, hàng ngày cùng làm việc, nhìn thấy sợi cô gái đánh ra mịn đều óng ánh, đem dệt thành vải thì sáng ngời như gấm, bán được giá gấp ba. Bà già đi đâu thì đóng cửa, có ai tới thăm thì bà tiếp đãi ở phòng khác, cô gái ở đó nửa năm mà không ai biết. Về sau bà già dần dần nói lộ ra cho láng giềng biết, đám chị em quen biết kéo nhau tới nhờ nói giùm xin cho được gặp cô gái. Nàng trách móc, nói "Bà không giữ gìn lời nói, thì ta không ở đây lâu được đâu”. Bà già hối hận vì đã lỡ lời, vô cùng ăn năn, nhưng những kẻ xin cho được gặp cô gái ngày càng đông, có người còn toan lấy quyền thế ép buộc. Bà già khóc lóc bày tỏ, cô gái nói "Nếu là chị em bạn gái thì gặp mặt cũng không hại gì, sợ đám đàn ông khinh bạc tới gặp rồi giở trò suồng sã". Bà già lại năn nỉ, nàng mới ưng thuận.
Hôm sau đám đàn bà già trẻ cầm hương đèn chen nhau đầy cổng, cô gái ghét phiền rộn nên bất kể là sang hèn đều không trò chuyện, chỉ im lặng ngồi thẳng nghe họ chào hỏi mà thôi. Bọn thiếu niên trong làng nghe đồn nàng đẹp, thần hồn điên đảo nhưng bà già đều cự tuyệt không cho gặp. Có Phí sinh là danh sĩ trong huyện, dốc hết gia sản đem món tiền lớn tới mua chuộc bà già, bà nhận lời xin cho. Cô gái đã biết trước, trách "Bà bán ta à?", bà già quỳ rạp xuống đất tự thú. Cô gái nói “Bà thì tham tiền đút lót, ta thì cảm mối si tình, có thể cho gặp một lần, nhưng thế là hết duyên phận rồi đấy”. Bà già lại dập đầu năn nỉ, nàng bèn hẹn hôm sau.
Sinh nghe tin mừng rỡ, sắm đủ hương đèn tới, vào cửa chắp tay vái dài. Cô gái ngồi trong rèm tiếp chuyện, hỏi "Chàng phá tán gia sản để gặp nhau, có điều gì dạy bảo thiếp?". Sinh đáp "Thật không dám có ý gì khác, chỉ là nghe tiếng Mao Tường, Tây Tử* mà thôi. Nếu không chê là ngu tối ngang bướng, cho được mở rộng tầm mắt một lần thì kẻ hèn này đã thỏa nguyện rồi. Còn chuyện lành dữ đã có số trời, không cần nói tới". Chợt thấy sau tấm rèm vải dung nhan tỏa sáng chiếu ra, mày biếc môi son đều nhìn thấy rõ tựa hồ không bị rèm màn ngăn cách. Sinh ý động thần dao, bất giác lạy sụp xuống. Lạy xong đứng lên thì tấm rèm như dày nặng hơn, chỉ nghe tiếng mà không thấy gì nữa. Đang ngậm ngùi trộm tiếc chưa nhìn thấy được phần dưới bỗng dưới tấm rèm nhô ra hai chiếc hài thêu cong mũi xinh xắn không dài hơn ngón tay. Sinh lại cúi lạy, cô gái trong rèm nói vọng ra "Thôi chàng về nghỉ, thiếp cũng mệt rồi".
* Mao Tường, Tây Tử tức Mao Tường và Tây Thi, người nước Việt thời Chiến quốc, nổi tiếng là giai nhân trong lịch sử Trung Hoa.
Bà già mời sinh qua phòng khác pha trà tiếp đãi, Sinh đề lên vách một bài từ điệu Nam hương tử như sau:
Ẩn ước họa liêm tiền,
Tam thốn lăng ba ngọc duẫn tiêm.
Điểm địa phân minh, liên biện lạc tiêm tiêm.
Tái trước trùng đài cánh khả liên.
Hoa thấn phượng dầu loan,
Nhập ác ưng tri nhuyễn tự miên.
Đãn nguyện hóa vi hồ điệp khứ lộ biên,
Nhất khứu dư hương tử diệc cam.
(Thấp thoáng trước màn là,
Măng ngọc hài thêu mấy tấc hoa.
Chấm đất rỡ ràng cánh sen rụng la đà,
Đài gương gặp lại nghĩ thương ta.
Có hóa được làm trâm,
Vào trong mới biết tóc mây mềm.
Chỉ mong hoá bướm lượn bên nàng,
Ngửi chút hương thừa, chết cũng cam.)
Đề xong ra về. Cô gái xem bài từ không vui, nói với bà già "Ta nói duyên phận đã hết, nay quả không sai". Bà già quỳ rạp xuống đất chịu tội, nàng nói "Không phải chỉ riêng bà có tội. Ta ngẫu nhiên sa vào nghiệp tình, đem sắc đẹp cho người ta thấy nên mới bị lời bậy bạ làm nhơ nhuốc, đều là tự mình chuốc lấy, còn trách ai được? Nếu không đi mau cho xa, sợ sẽ đắm vào vực tình, kiếp sau cũng khó mà thoát ra khỏi". Rồi xách khăn gói đi ra, bà già đuổi theo giữ lại thì trong chớp mắt đã biến mất.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 201 -
Trương Hồng Tiệm
(Trương Hồng Tiệm)
Trương Hồng Tiệm người huyện Vĩnh Bình (tỉnh Hà Bắc) năm mười tám tuổi đã là danh sĩ trong quận. Lúc ấy quan Tri huyện Lư Long (tỉnh Hà Bắc) họ Triệu là kẻ tham bạo, nhân dân đều ta thán. Có Phạm sinh bị đánh đòn mà chết, các bạn đồng học phẫn oán về nỗi sinh bị oan, định kêu lên Pháp ty, mong được người có tài văn chương như Trương làm đơn, mời cùng tham gia, Trương ưng thuận. Vợ Trương là Phương thị xinh đẹp mà hiền thục, nghe chuyện can rằng "Phàm những kẻ văn nhân làm việc lớn chỉ có thể cùng thành chứ không thể cùng bại. Nếu thành thì ai cũng tranh công, chứ nếu bại thì nhao nhao tan lìa, không thể tập hợp được nữa. Đời nay chỉ biết có thế lực, khó mà lấy lý xét chuyện phải trái, chàng lại đơn độc, nếu người ta đổi trắng thay đen thì ai giúp cho khi hoạn nạn?”. Trương phục lời ấy, lấy làm hối, bèn tìm lời mềm mỏng từ tạ với bạn đồng học, chỉ viết hộ đơn rồi thôi. Pháp ty xét hỏi qua một lượt, không có chỗ nào sai, nhưng Triệu đem nhiều vàng đút lót quan trên, khép các Chư sinh vào tội kết bè kết đảng bắt hết, lại tìm bắt người viết đơn. Trương sợ trốn đi, đến ranh giới huyện Phượng Tường (tỉnh Thiểm Tây) thì hết sạch tiền mà trời đã tối, còn đang ngập ngừng trên đồng không biết ngủ đâu chợt thấy có một xóm nhỏ vội rảo bước tới.
Một bà già đang ra đóng cổng nhìn thấy, hỏi muốn gì, Trương kể thật việc mình. Bà già nói "Cái ăn chỗ ngủ chỉ là chuyện nhỏ, chỉ là trong nhà không có đàn ông, không tiện lưu khách". Trương nói "Ta cũng không dám mong gì nhiều, chỉ xin cho được bà cho được ngủ nhờ trong cổng để tránh hùm sói là đủ”. Bà già bèn bảo vào, đóng cổng rồi đưa cho chiếc đệm cỏ, dặn rằng “Ta thương ông khách lỡ đường nên tự ý cho ngủ nhờ, trời chưa sáng nên dậy mà đi cho sớm, kẻo cô chủ biết sẽ trách phạt ta” rồi vào nhà. Trương dựa vào vách thiu thiu ngủ, chợt có ánh đèn lồng sáng rực, thấy bà già đưa một cô gái ra. Trương vội nép vào góc tối nhìn trộm, thấy là một giai nhân khoảng hai mươi tuổi. Tới cổng trông thấy chiếc đệm cỏ, cô gái cật vấn, bà già thưa thật, nàng tức giận nói "Cả nhà toàn là đàn bà yếu ớt, sao lại chứa chấp người lạ?”, rồi hỏi người ấy đi đâu rồi.
Trương sợ hãi, bước ra quỳ sụp xuống thềm. Cô gái hỏi kỹ tên họ quê quán, có vẻ nguôi giận, nói "May là bậc văn sĩ phong nhã, cho ngủ nhờ cũng được, nhưng mụ đầy tớ già không thưa lại, qua loa thế này há phải là lối tiếp đãi bậc quân tử sao?”, rồi sai bà già dẫn khách vào nhà. Giây lát dọn cơm rượu lên, thức ăn đều tinh khiết, kế trải nệm gấm ra giường. Trương rất cảm kích, bèn hỏi tên họ cô gái. Bà già nói "Nhà ta họ Thi. ông bà ta đều đã mất, chỉ để lại ba con gái, người mới rồi là cô lớn, tên Thuấn Hoa". Bà già ra rồi, Trương nhìn trên bàn thấy quyển Nam hoa kinh chú, bèn cầm đặt lên gối, nằm sấp trên giường xem.
Chợt Thuấn Hoa đẩy cửa bước vào, Trương vội buông sách tìm mũ giày. Cô gái tới bên giường vỗ vai sinh nói "Không cần đâu, không cần đâu”, rồi ngồì xuống giường bẽn lẽn nói "Thiếp thấy chàng là bực tài tử phong lưu, muốn đem cửa nhà gởỉ gắm, nhưng e bị ngờ như kẻ qua ruộng dưa sửa giày, ngang giàn bầu sửa mũ, không biết có bị chê bỏ không". Trương lúng túng không biết trả lời thế nào, chỉ nói “Không dám giấu diếm, thật tiểu sinh đã có vợ rồi". Cô gái cười nói “Bấy nhiêu cũng đủ thấy là chàng thành thật, nhưng chuyện đó không sao. Nếu đã không chê bỏ, thì ngày mai sẽ nhờ người làm mai mối”. Nói xong định đi, Trương rướn lên kéo lại, cô gái cũng ở lại. Trời chưa sáng nàng đã dậy, lấy vàng tặng cho Trương, nói “Chàng cầm lấy đi chơi, chiều hãy về, tối tối một chút, kẻo hai bên hàng xóm trông thấy". Trương theo lời, sớm đi tối về, suốt nửa năm như thế thành lệ.
Một hôm Trương về hơi sớm, tới nơi thì không thấy làng xóm nhà cửa gì cả, vô cùng lạ lùng khiếp sợ. Còn đang ngần ngừ, chợt nghe bà già nói "Sao tới sớm thế?", quay nhìn thì thấy nhà cửa như cũ, mà mình thì đã ở trong phòng, càng lấy làm lạ lùng. Thuấn Hoa từ trong bước ra cười nói “Chàng nghi ngờ thiếp phải không? Nói thật với chàng thiếp là hồ tiên, cùng chàng vốn có mối túc duyên. Nếu cho là yêu quái, thì xin lập tức chia tay” Trương mến tiếc vì nàng đẹp nên ở lại, đến đêm nói với cô gái "Nàng đã là tiên thì ngàn dặm cũng vượt qua trong chớp mắt. Tiểu sinh xa nhà đã ba năm, nhớ vợ con không khuây, có thể đưa ta về một lần được không”. Cô gái có vẻ không vui, nói "Trong tình vợ chồng, thiếp thì dốc lòng với chàng, mà chàng thì thân ở nơi này lòng nhớ chốn kia, như vậy đối với kẻ thương yêu mình thì sai lắm". Trương tạ lỗi nói "Sao nàng lại nói thế? Lời ngạn có câu Một ngày làm vợ chồng, trăm ngày nhớ ơn nghĩa, sau này về nhà nhớ nàng thì cũng như hôm nay nhớ vợ nhà, chứ nếu được mới nới cũ thì nàng còn thương yêu được chỗ nào?".
Cô gái bèn cười nói "Thiếp quả hẹp hòi, riêng mình thì muốn chàng đừng quên mà người khác lại muốn chàng quên đi, chứ nếu chàng muốn tạm về thì có khó gì, nhà chàng chỉ trong gang tấc". Rồi nắm tay áo Trương cùng ra cổng, thấy đường đi tối tăm, Trương ngần ngại không chịu bước. Cô gái cứ kéo đi, không bao lâu nói "Tới rồi đấy, chàng về đi, thiếp đi đây". Trương dừng bước nhìn kỹ, thấy quả là nhà mình, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào. Thấy trong phòng đèn đuốc còn sáng choang, bèn tới gần lấy hai ngón tay búng vào cánh của. Bên trong hỏi ai, Trương nói rõ từ đâu tới, người bên trong cầm đèn ra mở cửa, chính là Phương thị. Hai người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nắm tay nhau vào phòng, Trương thấy con nằm trên giường, cảm khái nói “Lúc ta đi con chỉ mới cao bằng đầu gối mà nay đã lớn như thế". Vợ chồng ngồi sát vào nhau, bàng hoàng như trong mộng, Trương kể rõ những chuyện đã trải qua rồi hỏi tới vụ án mới biết các bạn đồng học, người thì chết trong ngục, kẻ thì đi biệt xứ, lại càng phục vợ nhìn xa.
Phương ngã vào lòng chồng nói "Chàng có được tình duyên tốt đẹp, chắc không nghĩ gì tới nơi phòng không gối chiếc có kẻ rơi lệ một mình". Trương nói “Nếu không nghĩ tới thì về đây làm gì? Ta với người kia quả là tình nghĩa sâu nặng có thể chết cho nhau nhưng vẫn không phải là đồng loại, có điều nghĩ tới ơn nghĩa thì khó quên mà thôi". Phương hỏi "Chàng nghĩ thiếp là ai đấy?", Trương nhìn kỹ thì không phải Phương mà là Thuấn Hoa, sờ tới con thì chỉ là một cái gối tre, ngượng quá không nói câu nào. Cô gái nói "Giờ thì rõ được lòng chàng rồi, từ nay phải đoạn tuyệt thôi. May là chàng chưa quên ơn nghĩa, bấy nhiêu cũng tạm đủ để chuộc lỗi vậy”. Qua hai ba hôm cô gái chợt nói “Thiếp nghĩ si tình thương người rốt lại chẳng hay ho gì, nên hàng ngày chàng vẫn oán thiếp không đưa về nhà. Nay gặp dịp muốn lên kinh, tiện đường có thể đưa chàng cùng đi”. Rồi quay lại lấy cái gối tre trên giường cho cùng cưỡi lên, bảo nhắm mắt lại. Trương cảm thấy mình bay lên cách mặt đất không xa, nghe tiếng gió vi vút, giây lát dần dần hạ xuống. Cô gái nói "Từ nay xin giã biệt", Trương đang định căn dặn hẹn hò thì nàng đã biến mất, ngậm ngùi đứng một lúc.
Nghe tiếng chó sủa trong thôn, giữa màn đêm mịt mờ nhìn thấy bóng dáng cây cối nhà cửa đều là cảnh vật cố hương, bèn theo đường về nhà, trèo qua tường vào gõ cửa, làm hệt như hôm trước. Phương giật mình tỉnh dậy, không tin, gạn hỏi chuyện vợ chồng ngày trước mới khêu đèn sụt sùi bước ra, nhìn thấy mặt chồng nước mắt chảy giàn giụa không thôi. Trương vẫn ngờ rằng đây là ảo ảnh mà Thuấn Hoa biến ra, lại nhìn tới đứa con nằm trên giường thấy đều giống hệt tối hôm trước, bèn cười hỏi "Lại mang cái gối tre vào à?". Phương thị không hiểu, biến sắc nói "Thiếp mong chàng năm này tháng khác, vết nước mắt vẫn còn trên gối, thế mà mới gặp được nhau lại không hề tỏ ra thương xót, lòng dạ chàng để đâu?". Trương nhìn lại thái độ mới nắm tay vợ than thở, kể rõ lại mọi việc. Hỏi tới kết quả vụ án thì ra đều như Thuấn Hoa đã nói, đang cùng nhau cảm khái chợt nghe ngoài cửa có tiếng giày nhưng hỏi không thấy ai đáp.
Nguyên là trong làng có một thiếu niên độc ác đã để ý tới sắc đẹp của Phương từ lâu. Tối hôm ấy y từ thôn khác vể, xa xa thấy có người trèo tường vào, cho rằng ắt là kẻ hẹn hò tư thông, bèn lẻn vào theo. Giáp vốn không biết Trương nhiều, chỉ núp nghe trộm, đến khi Phương hỏi gặng mấy lần mới nói “Ai ở trong phòng đấy?” Phương nói tránh là không có ai. Giáp nói “Ta nghe trộm lâu rồi, định lên quan tố giác chuyện thông gian đây". Phương bất đắc dĩ đành thú thật. Giáp nói "Cái án Trương Hồng Tiệm chưa xong, nếu y về nhà cũng phải bắt trói giải lên quan”. Phương lạy lục năn nỉ, Giáp lời lẽ lại càng lấn lướt. Trương bừng bừng nổi giận, không dằn lòng được rút dao xông ra chém Giáp trúng vào đầu Giáp ngã xuống mà còn la lớn, Trương chém liên tiếp đến lúc chết luôn. Phương nói "Việc đã tới nước này, tội càng thêm nặng. Chàng cứ trốn ngay đi, để thiếp chịu tội thay cho". Trương nói “Trượng phu phải chết thì chết, chứ lẽ nào lại để lụy cho vợ con mà cầu sống cho mình? Nàng đừng lo nghĩ gì, chỉ cần đừng để thằng con này làm đứt mạch thư hương, thì ta có chết cũng nhắm mắt".
Trời vừa sáng Trương lên huyện tự thú, Triệu thấy là người đúng ra kiện mình nên chỉ đánh đập qua loa rồi cho giải từ quận lên kinh, cùm trói rất khổ sở. Trên đường gặp một nữ lang cưỡi ngựa đi qua, có bà già cầm cương, thì ra là Thuấn Hoa. Trương gọi bà già muốn nói chuyện mà nước mắt giàn giụa. Cô gái quay ngựa, vén khăn che mặt nhìn rồi kinh ngạc hỏi “Biểu huynh làm sao mà tới nỗi này?”. Trương kể qua đầu đuôi cô gái nói “Cứ theo lối ăn ở của anh thì chỉ đáng ngoảnh mặt đi không nhìn, nhưng ta không nỡ. Nhà ta cách đây không xa, xin mời các vị công sai cùng ghé chơi, ta cũng có thể giúp cho chút ít đi đường". Đi theo hai ba dặm thì tới một sơn trang lầu cao gác rộng, cô gái xuống ngựa vào, sai bà già mở cửa mời khách. Kế dọn rượu thịt ê hề như đã sắp sẵn, lại sai bà già ra nói “Gặp lúc trong nhà không có đàn ông, xin Trương quan nhân cứ mời hai vị công sai uống thêm vài chén, sắp tới trên đường còn phải nhờ vả hai vị nhiều. Đã sai người lo mượn vài mươi lượng vàng để quan nhân làm lộ phí và tặng hai vị, nhưng còn chưa về tới". Hai tên công sai mừng thầm, yên lòng thả sức uống rượu không nói tới việc lên đường nữa, đến lúc sẩm cả hai đều say mèm. Cô gái bước ra chỉ tay vào cái cùm, cùm lập tức rơi xuống, kế kéo Trương lên ngồi chung ngựa phóng như bay, lát sau bảo Trương xuống, nói "Chàng xuống đây được rồi. Thiếp có hẹn với cô em ở Thanh Hải mà vì chàng phải nán lại một buổi, sợ nó đợi lâu”. Trương hỏi lúc nào sẽ gặp lại, nàng không đáp, lại hỏi thì nàng đẩy rơi xuống ngựa rồi bỏ đi.
Đến sáng hỏi thăm thì đó là Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), Trương bèn vào thành thuê nhà dạy học, đổi tên là Cung Tử Thiên. Qua mười năm, hỏi dò biết việc truy nã đã trễ nãi, bèn lần mò về quê. Tới gần cổng làng không dám vào ngay, chờ đến khuya mới vào, tới cổng thì tường cao quá không trèo qua được, lấy roi đập cửa. Hồi lâu vợ mới bước ra hỏi. Trương hạ giọng đáp vợ mừng quá mở cửa kéo vào, giả cất tiếng mắng "Lên kinh ít tiền lẽ ra phải về sớm, sao nửa đêm mới về?". Vào phòng cùng kể lại nhũng việc đã qua, mới biết hai tên công sai đã bỏ trốn chưa trở về. Lúc trò chuyện thấy ngoài rèm có một thiếu phụ qua lại, Trương hỏi là ai, vợ đáp là con dâu, hỏi con đâu thì đáp lên kinh thi hương chưa về. Trương rơi nước mắt nói “Lưu lạc mười năm, nay con đã nên người, không nói tới việc nối mạch thư hương thì nàng cũng đã tốn bao nhiêu tâm huyết". Còn đang chuyện trò thì con dâu đã hâm rượu nấu cơm xong bày ra đầy bàn, Trương vui mừng vì được an ủi quá lòng mong ước.
Ở nhà vài hôm chỉ núp trong phòng, sợ người ngoài biết. Một đêm vừa đi nằm chợt nghe tiếng nói ồn ào đập cửa rất gấp. Hai người hoảng hốt vùng dậy thì nghe họ hỏi nhau "Có cổng sau không?” càng khiếp sợ. Phương vội lấy cánh cửa làm thang bắc qua tường cho Trương leo ra, kế mới ra cổng hỏi chuyện, thì ra là người báo tin con thi đỗ. Phương mừng quá, rất hối hận về việc Trương trốn đi nhưng không sao đuổi theo giữ lại. Đêm ấy Trương tuông bờ lướt bụi, vội vã không chọn đường, đến sáng thì vô cùng mệt mỏi. Vốn định chạy về hướng tây, nhưng lúc ấy hỏi người đi đường thì té ra chỉ cách đường cái lên kinh không xa. Bèn lần vào làng toan bán quần áo lấy tiền ăn, thấy một ngôi nhà lớn có tờ thông cáo dán trên vách, tới gần đọc mới biết là họ Hứa vừa thi đỗ Cử nhân. Giây lát có một ông già bước ra, Trương vái chào thưa chuyện. Ông già thấy dáng vẻ Trương phong nhã, biết không phải là kẻ lừa dối kiếm cơm bèn mời vào nhà khoản đãi. Nhân hỏi đi đâu tới đây, Trương nói thác rằng mình dạy học ở kinh về quê, giữa đường gặp cướp, ông già bèn giữ lại nhờ dạy đứa con trai nhỏ.
Trương hỏi qua về gia thế, thì ra ông già là bậc quan lớn về hưu, người mới thi đỗ Cử nhân kia là cháu gọi bằng chú. Hơn tháng sau, vị Cử nhân và một người bạn thi đỗ cùng khoa cùng về, nói là họ Trương ở huyện Vĩnh Bình, khoảng mười tám mười chín tuổi. Trương thấy cùng quê cùng họ, thầm ngờ chính là con mình, nhưng vì trong huyện cũng có nhiều người họ ấy nên đành im lặng. Tối đến, viên Cử nhân mở khăn gói ra, Trương thấy có danh sách những người đỗ thi hương, vội hỏi mượn xem thì đúng là con mình, bất giác sa nước mắt. Mọi người cùng kinh ngạc hỏi, Trương chỉ vào tên mình nói "Ta chính là Trương Hồng Tiệm đây", rồi kể lại hết mọi chuyện. Cử nhân họ Trương ôm cha khóc lớn, chú cháu họ Hứa an ủi mới đổi buồn làm vui. ông Húa lập tức sắp vàng lụa viết thư sai người đưa tới các quan lớn ở Pháp ty nhờ thu xếp, sau đó cha con Trương cùng về nhà. Phương từ lúc được tin con thi đỗ, hàng ngày vẫn buồn rầu vì Trương còn lưu lạc, nghe nóí con về càng thêm đau lòng. Giây lát cha con cùng bước vào, nàng hoảng sợ như trời sập, hỏi lại duyên do mới cùng nhau mừng mừng tủi tủi. Cha Giáp thấy con Trương quý hiển, không dám manh tâm làm hại nữa, Trương vì vậy càng đối xử tử tế, lại kể rõ lại việc năm xưa.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 202 -
Thường Nga
(Thường Nga)
Tông Tử Mỹ ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) theo cha du học, lưu ngụ ở huyện Quảng Lăng. Cha Tông có quen với bà họ Lâm ở Hồng Kiều, một hôm cha con đi ngang Hồng Kiều gặp nhau trên đường, bà mời vào nhà pha trà tiếp đãi chuyện trò, bên cạnh có cô gái rất xinh đẹp. Cha Tông vô cùng khen ngợi, bà già nhìn Tông nói "Đại lang nhu mì như đồng nam, rất có phúc tướng, nếu không chê là quê mùa, xin dâng về quét dọn hầu hạ, ông thấy sao?”. Cha Tông giục con rời ghế ra lạy tạ, nói “Một lời nói giá đáng ngàn vàng đấy nhé”. Trước là bà già ở một mình, cô gái chợt tự tới, nói là mồ côi khổ cục, hỏi tiểu tự thì tên là Thường Nga, bà già yêu mến giữ lại, thật ra là định lấy làm món hàng quý. Năm ấy Tông mười bốn tuổi, thấy cô gái trong lòng thích lắm, nghĩ là cha ắt sẽ nhờ người mai mối định ngày cưới hỏi, nhưng cha về rồi lại như quên đi, nóng ruột lén kể cho mẹ.
Cha nghe thế cười nói "Hôm trước nói đùa với bà già tham lam ấy thôi, chứ thật không rõ bà ta sẽ đòi bao nhiêu tiền, nói tới chuyện ấy đâu phải dễ?”. Năm sau cha mẹ cùng chết, Tử Mỹ không sao quên được Thường Nga, vừa mãn tang là nhờ người tới dò ý bà Lâm, ban đầu bà ta chối là không có nói như vậy, Tông tức giận nói “Ta bình sinh không dễ mà lạy ai, sao bà coi việc ta lạy không đáng một đồng kẽm thế? Nếu bà trái lời hứa ngày trước, thì phải lạy trả ta". Bà già bèn nói "Có lẽ trước đây hứa đùa với cha ngươi, thì cứ cho là có nhưng không phải là lời thật, nói xong là quên thôi. Nay lại tới nói thế, thì chẳng lẽ ta giữ gả cho vua trời à? Nhưng hàng ngày phải chăm sóc cho nó, thật ra muốn được ngàn vàng, nay xin một nửa số ấy có được không?". Tôn tính thầm thấy khó lo đủ, cũng đành gác đó. Vừa gặp lúc có người đàn bà góa chồng tới ở bên cạnh, có người con gái tuối cập kê, tiểu tự là Điên Đang, Tông tình cờ gặp thấy xinh đẹp không kém gì Thường Nga, trong lòng hâm mộ, thường đưa biếu thức ăn cho bà mẹ. Lâu ngày quen dần, cũng thường liếc mắt đưa tình nhưng chưa có dịp nào nói chuyện. Một đêm nàng qua xin lửa thắp đèn, Tông mừng kéo lại, cùng nhau vui thú. Tông hẹn việc cưới hỏi, nàng từ chối bảo là anh trai đi buôn bán chưa về. Từ đó cứ nhân lúc vắng vẻ là qua lại với nhau, nhưng giữ gìn rất kín đáo.
Có lần Tông tình cờ đi ngang Hồng Kiều, thấy Thường Nga trong cửa vội bước mau qua. Thường Nga nhìn thấy vẫy tay, Tông dừng bước, nàng lại vẫy, bèn vào nhà. Cô gái trách Tông bội ước, Tông kể lại duyên do, nàng bèn vào phòng lấy ra một nén vàng đưa cho. Tông từ chối không nhận, nói “Tự biết mình phải vĩnh viễn xa nàng nên đã có ước hẹn với người khác, nhận vàng lo cưới nàng thì là phụ họ, nhận vàng mà không lo cưới nàng thì là phụ nàng, thật không dám phụ ai cả". Cô gái im lặng hồi lâu rồi nói "Việc chàng ước hẹn với người khác thiếp đã biết, việc ấy nhất định không thành, mà dẫu có thành thiếp cũng không oán chàng phụ lòng đâu. Nên về ngay đi, bà già sắp tới đấy!". Tông hoang mang không tự chủ được, bèn nhận vàng trở về, trong lòng rối loạn nhớ trước quên sau. Qua một đêm kể lại với Điên Đang, Điên Đang rất tin lời, chỉ khuyên Tông nên quyết ý cưới Thường Nga. Tông không chịu, nàng xin làm vợ kế mới vui vẻ, bèn nhờ người mai mối tới nộp sính lễ cho bà Lâm. Bà già không từ chối, gả Thường Nga cho Tông. Nàng về rồi, Tông kể hết lời Điên Đang nói, Thường Nga mỉm cười hối thúc Tông lo gấp. Tông mừng rỡ muốn nói ngay với Điên Đang, nhưng Điên Đang đã đi mất. Thường Nga biết đó là vì mình, bèn lấy cớ về thăm nhà cho hai người có cơ hội gặp nhau, dặn Tông lấy trộm cái túi Điên Đang đeo. Kế đó Điên Đang quả tới, Tông bàn việc cưới xin thì nàng chỉ nói là đừng gấp, rồi cởi áo ôm nhau đùa giỡn, thấy dười bụng nàng có đeo cái túi màu cánh sen bèn lấy luôn.
Cô gái biết được biến sắc vùng dậy nói "Chàng với người ta thì một lòng mà với thiếp thì hai lòng, thật là kẻ phụ lòng, từ nay xin vĩnh biệt". Tông nài nỉ giữ lại giải thích, nàng không nghe, bỏ đi. Một hôm Tông qua cổng dò xét thì đã có một người khách buôn đất Ngô tới ở, còn mẹ con Điên Đang đã dời đi từ lâu, mất tăm tung tích không sao hỏi thăm được, chỉ biết buồn rầu than thở mà thôi. Tông từ khi cưới Thường Nga, nhà giàu có hẳn lên, gác rộng hiên dài kéo ra tận mặt đường. Thường Nga hay đùa giỡn, gặp lúc xem họa phổ về các mỹ nhân, Tông nói "Ta vẫn nghĩ rằng đẹp như nàng thì khắp thiên hạ không có kẻ thứ hai, chỉ còn chưa gặp Phi Yến, Dương phi* thôi". Nàng cười đáp "Nếu chàng muốn gặp chắc cũng không khó". Bèn cầm quyển họa phổ nhìn kỹ qua một lượt rồi bước vào phòng soi gương hóa trang, giả làm Phi Yến múa gió, lại giả làm Dương Phi say nằm, cao thấp béo gầy sửa đổi rất khéo, dáng vẻ phong thái so với các bức họa rất giống. Vừa hóa trang xong có đứa tỳ nữ từ ngoài bước vào không biết là ai, kinh ngạc hỏi chị em bạn, kế nhìn kỹ chợt nhận ra mới phì cười. Tông vui vẻ nói "Ta được một mỹ nhân mà mỹ nhân suốt ngàn năm đều về cả trong khuê phòng”.
* Phi Yến, Dương phi: tức Triệu Phi Yến và Dương Thái Chân tức Dương Quý phi, hai người đẹp nổi tiếng trong nội cung của Đường Minh hoàng.
Một đêm vừa ngủ say, có mấy người nhấc cánh cổng ập vào, đèn đuốc sáng rục. Cô gái vội vùng dậy, hoảng hốt nói ăn cướp vào nhà. Tông vừa tỉnh giấc, đang định hô hoán thì bị một người kề dao vào cổ, khiếp sợ không dám thở mạnh, kế có một người khác bắt Thường Nga cõng lên lưng rồi ồ ạt kéo đi. Tông lúc ấy mới la lớn, gia nhân đều họp lại đủ cả mà những thứ quý giá trong nhà cũng không mất chút gì. Tông vô cùng đau thương, ão não như sắp chết, không còn thiết gì nữa, báo quan truy nã nhưng chẳng có chút tăm hơi. Thấm thoát qua ba bốn năm vẫn cứ buồn bục không vui, nhân rảnh rỗi lên kinh dự thi, ở lại đó nửa năm, tìm đủ mọi cách dò la thăm hỏi. Tình cờ đi ngang kỹ viện, thấy một cô gái mặt mũi lem luốc, áo quần rách rưới bệ rạc như ăn mày, dừng chân nhìn thì ra là Điên Đang, hoảng sợ hỏi "Nàng làm sao mà tiều tụy tới mức này”, nàng đáp “Sau khi chia tay về nam, mẹ già qua đời, thiếp bị kẻ bắt đi bán cho nhà giàu, bị đánh đập chửi mắng đói rét khổ sở thật không muốn nói”. Tông rơi nước mắt, hỏi có thể chuộc nàng ra không, nàng đáp “Khó lắm, e rằng phải tốn kém nhiều, chàng không đủ sức". Tông nói “Nói thật với nàng vài năm nay ta cũng có chút của cải, tức là đang ở đất khách tiền bạc cũng có hạn, nhưng trút tiền bán ngựa thì không dám chối từ. Còn bấy nhiêu không đủ thì phải về nhà lo thêm".
Cô gái hẹn ngày mai ra phía tây thành gặp nhau dưới rạng liễu, nhưng dặn tới một mình đừng cho ai theo, Tông ưng thuận. Hôm sau ra sớm đã thấy cô gái đứng ở đó trước, áo quần lộng lẫy khác xa hôm trước, ngạc nhiên hỏi, nàng cười đáp “Hôm qua là thử lòng chàng thôi, may mà còn cái ý thương xót người xưa, xin mời tới tệ xá, sẽ xin báo đáp”. Đi về phía bắc vài dặm thì tới nhà nàng, kế dọn tiệc cùng trò chuyện vui vẻ, Tông hẹn nàng cùng về. Cô gái nói “Thiếp vương nhiều tục dụng, không thể theo được, nhưng tin tức Thường Nga thì vẫn có nghe". Tông vội hỏi Thường Nga ở đâu nàng đáp "Hành tung của nàng vô định, thiếp cũng không biết chắc, nhưng ở Tây Son có một ni cô già chột mắt, tới hỏi sẽ biết ngay". Tông bèn ngủ lại đó. Sáng ra cô gái chỉ đường cho đi. Tông tới chỗ ấy thấy có ngôi chùa cổ, tường bao quanh đã sụp hết, trong đám tre dày có nửa gian lều tranh, ni cô già mặc áo vá ngồi ở trong, thấy khách tới vẫn ngạo nghễ không chào hỏi gì cả. Tông vái chào, ni cô mới ngẩng lên hỏi chuyện, Tông nói rõ tên họ rồi thưa điều mình muốn nhờ. Ni cô nói “Người già chột mắt tám chục tuổi làm sao biết người đẹp ở đâu?”. Tôn nài nỉ cầu khẩn, lời lẽ càng thêm nhũn nhặn, ni cô bèn nói "Thật tình ta không biết đâu, nhưng có hai ba người quen tới mai sẽ tới, may ra bọn gái nhỏ biết chưa chừng, tới mai ngươi cứ tới đây”.
Tông ra về, hôm sau lại tới thì ni cô đi vắng, bèn dựa vào cánh cổng mục ngồi đợi hồi lâu. Đêm đã khuya, trăng sáng vằng vặc, đang lo lắng không biết về đâu, còn ngần ngừ thì xa xa có mấy nữ lang từ ngoài đi vào, trong đó có Thường Nga. Sinh mừng quá nhảy vọt lên nắm mau lấy áo nàng, Thường Nga nói "Anh chàng thô mãng làm thiếp sợ chết khiếp, thật đáng giận Điên Đang nhạy miệng, xui lấy tình trói buộc người". Tông kéo nàng ngồi xuống, nắm tay kể lể, nói tới những khi buồn bã bất giác sụt sịt. Cô gái nói "Nói thật thiếp là Hằng Nga bị đày xuống trần gian, trôi nổi cùng thế tục, lúc hết hạn bị đày mới làm như bị giặc cướp bắt đi để chàng không còn trông ngóng gì nữa. Ni cô là người giữ cổng của Tây Vương mẫu, lúc thiếp mới bị trừng phạt được đội ơn dung nạp che chở nên lúc rảnh thường tới thăm một lúc. Nếu chàng buông tha cho thiếp, thiếp sẽ ngỏ lời với Điên Đang thay cho”. Tông không chịu, cúi đầu nhỏ lệ, cô gái ngoái nhìn ra xa nói "Các chị em tới cả rồi". Tông vừa mới ngoảnh nhìn bốn phía thì Thường Nga đã biến mất. Tông òa lên khóc thất thanh, không muốn sống nữa bèn cởi dây lưng treo cổ tự tử.
Chợt thấy hồn mình bước ra khỏi gian nhà, rầu rĩ bỏ đi. Chợt Thường Nga tới nắm tay nhấc lên, thấy chân rời khỏi mặt đất trở lại chùa, Thường Nga đỡ cái xác trên cây xuống đẩy vào nói “Chàng ngây ơi, chàng ngây ơi, Thường Nga đây mà” Tông chợt như vừa tỉnh mộng, cô gái tức tối nói "Con tiện tỳ Điên Đang hại thiếp mà giết chàng, ta không thể tha được”. Bèn xuống núi thuê kiệu cùng về. Tông sai gia nhân sắp sửa hành lý rồi sai ra phía tây thành tới tạ ơn Điên Đang, nhưng tới nơi thì chẳng thấy nhà cửa gì, kinh ngạc than thở trở về, trong lòng thầm mừng rằng Thường Nga không biết, nhưng vào cửa thì nàng ra đón cười hỏi “Chàng gặp Điên Đang không?". Tông ngạc nhiên không trả lời được, cô gái nói "Nếu chàng bỏ Thường Nga thì làm sao có được Điên Đang? Xin cứ yên tâm chờ, nàng sẽ tự tới thôi”. Không bao lâu, quả nhiên Điên Đang tới, sợ sệt quỳ xuống dưới giường. Thường Nga co tay búng vào đầu nói "Con ôn dịch, hại người quá lắm rồi". Điên Đang gục đầu, chỉ xin tha chết. Thường Nga nói "Đẩy người ta sa hầm sẩy hang rồi muốn thoát đi nơi xa à? Mười một tiên cô trong cung Quảng Hàn chưa biết lúc nào sẽ lấy chồng, phải có được một trăm chiếc gối thêu, một trăm đôi giày mới, ngươi phải theo ta về cùng cắt may” Điên Đang kính cẩn nói "Chỉ cần giao việc hẹn ngày, đến lúc sẽ tới đưa đủ”. Cô gái không chịu, nói với Tông rằng "Nếu chàng nói là chịu thiếp sẽ tha ngay lập tức". Điên Đang nhìn Tông, Tông cười không nói gì, Điên Đang trừng mắt tức tối rồi xin về nói với người nhà, Thường Nga ưng thuận, bèn đi.
Tông hỏi về lai lịch bình sinh mới biết nàng là hồ tinh ở Tây Sơn, bèn thuê kiệu chờ. Hôm sau quả nhiên nàng tới, bèn cùng nhau về nhà Tông. Có người hỏi han, Tông bịa đặt trả lời qua quít, nhưng Thường Nga trở lại lần này cư xử rất nghiêm nghị, ít khi cười đùa, Tông ép đùa giỡn thì nàng ngầm bảo Điên Đang làm. Điên Đang vô cùng thông minh, khéo chiều chuộng Tông. Thường Nga thích ngủ một mình, hay từ chối không chịu ngủ chung. Một đêm đến canh ba còn nghe trong phòng Điên Đang có tiếng cười khanh khách không dứt, sai tỳ nữ tới nghe ngóng, tỳ nữ quay về không chịu nói, chỉ xin phu nhân tự tới mà xem. Nàng tới cửa sổ nhìn, thấy Điên Đang đang giả trang làm mình, cười khẽ quay về. Giây lát Điên Đang chợt thấy bụng đau buốt, vội vàng khoác áo kéo Tông qua phòng Thường Nga, bước vào liền lạy phục xuống đất. Thường Nga nói “Ta đâu phải là phù thủy mà ếm kẻ bắt chước mình? Chỉ vì ngươi muốn ôm bụng bắt chước Tây Thi đó thôi!"*. Điên Đang khấu đầu, chỉ nói là đã biết tội.
* ôm bụng bắt chước Tây Tht: Tây Thi là mỹ nữ nổi tiếng ở nước Việt thời Xuân thu, lúc chưa được Việt vương Câu Tiễn tuyển cung để dâng Ngô vương Phù Sai thì là con nhà nghèo, làm nghề đập vải, có bệnh đau bụng, mỗi khi lên con đau là ôm bụng nhăn mặt nhưng trông lại càng yêu kiều. Có cô gái láng giểng tên Đông Thi cũng bắt chước nàng ôm bụng nhăn nhó cho đẹp hơn, nhưng xấu xí nên cứ nhăn mặt là người ta phát gớm. Đây Thường Nga có ý nói Điên Đang bắt chước mình cho đẹp thì phải chịu đau bụng.
Cô gái bèn nói "Ngươi khỏi rồi đấy", Điên Đang bèn đứng dậy, cười ngất quay về. Điên Đang nói riêng với Tông rằng “Thiếp có thể khiến nương tử bắt chước Quan âm” Tông không tin, nhân đùa thách để thử xem sao. Thường Nga hay ngồi xếp bằng, nhắm mắt như ngủ. Điên Đang bèn lấy cái bình giả làm bình ngọc cắm nhành dương đặt lên bàn, mình thì xõa tóc chắp tay đứng hầu bên cạnh, khẽ mím môi son, hé lộ răng ngọc, mắt ngó thẳng không chớp. Tông bật cười, Thường Nga mở mắt hỏi, Điên Đang đáp “Ta giả làm Long nữ hầu Quan âm thôi". Thường Nga cười ngồi yên, phạt Điên Đang phải giả làm Đồng tử lạy. Điên Đang buộc tóc lại, lạy lục bốn phía, lăn lộn dưới đất làm đủ mọi vẻ, hết trái sang phải, đầu gối chạm vành tai. Thường Nga bật cười lớn, buông chân đạp lên, Điên Đang ngẩng đầu ngậm vào mũi hài, lấy răng cắn khẽ. Thường Nga đang cười sằng sặc, chợt thấy cảm giác đê mê từ ngón chân lan lên tới người, lửa dục bốc lên như không ngăn được, vội ngưng thần quát "Con chồn tiện tỳ đáng chết, không biết lựa người mà mê hoặc à?”. Điên Đang sợ nhả hài ra lạy phục xuống đất, Thường Nga giận dữ quát mắng, mọi người không ai hiểu gì cả.
Thường Nga nói với Tông rằng “Điên Đang tính hồ không đổi, mới rồi làm thiếp gần như mê muội đi, nếu không có túc căn sâu nặng, thì trụy lạc có khó gì!". Từ đó cứ gặp Điên Đang là nghiêm nghị xét nét, Điên Đang sợ sệt thẹn thùng nói với Tông "Thiếp cùng nương tử như cây liền cành, lúc nào cũng rất thân thiết nên không biết là đã mê hoặc quá đáng, có điều không phải chỉ không dám, mà là không nỡ nữa". Tông thuật lại, Thường Nga bèn đối xử với Điên Đang như trước, nhưng mấy lần khuyên răn Tông về việc đùa giỡn không có chừng mực mà Tông không nghe, vì vậy đám vợ thiếp tỳ nữ đều nhờn, tranh nhau trửng giỡn. Một hôm hai người đỡ một tỳ nữ giả làm Dương Quý phi, lấy mắt ra hiệu bảo tỳ nữ giả làm ra vẻ say rượu, vừa buông tay thì cô ta ngã vật xuống thềm như bức tường sập. Mọi người vừa reo cười vừa tới gần đập dậy, thì Phi tử đã thành cái xác ở Mã Ngôi* rồi.
*Phi tử... Mã Ngôi: Phi tử tức Dương Quý phi. Đời Đường Minh Hoàng, An Lộc Sơn dấy loạn đánh chiếm kinh đô, Minh hoàng mang Dương Quý phi chạy vào Thục, tới Mã Ngôi thì quân sĩ mệt nhọc đói khát không chịu đi nữa, tho rằng vì vua sủng ái Dương Quý phi nên có tai họa này, vua bất đắc dĩ phải sai nàng thắt cổ tự tử để yên lòng quân. Thành cái xác ở Mã Ngôi đây ý nói người tỳ nữ đóng giả Dương Quý phi đã chết.
Mọi người hoảng hốt vội chạy đi báo với chủ nhân, Thường Nga kinh sợ nói "Tai họa tới rồi đấy, ta nói có đúng không?”. Vội tới xem thì không sao cứu được nữa, bèn sai báo cho người cha biết. Cha ngườí tỳ nữ là Giáp, tính vốn vô hạnh, nghe tin gào khóc chạy tới, ôm thây con vào sảnh đường, mắng chửi đủ điều, Tông đóng chặt cửa phòng run rẩy, không biết làm sao. Thường Nga bước ra quát "Ông chủ đánh đập tỳ nữ tới chết thì theo luật cũng không phải đền mạng, huống hồ đây chỉ là ngẫu nhiên đột tử, sao biết là không sống lại được?”. Giáp cãi rằng chân tay con gái lạnh ngắt, lẽ nào còn sống lại được nữa. Thường Nga nói “Phải rồi, nhưng nếu nó không sống lại được thì đã có quan trên”. Rồi vào sảnh đường vỗ vào xác thì người tỳ nữ đã tỉnh, vừa vỗ đã ngồi dậy. Thường Nga quay lại giận dữ nói "May mà nó chưa chết, nhưng không thể cho lão giặc già kia yên thân được, phải trói lại giải lên quan". Giáp không còn lời lẽ nào, chỉ quỳ rạp van xin. Thường Nga nói “Ngươi đã biết tội thì tạm không xét nữa, nhưng đồ tiểu nhân vô lại rất hay lật lọng, giữ con ngươi lại đây là nuôi mầm tai vạ, về mau nhà đem đủ tiền ta mua ngày trước tới đây mà chuộc con". Rồi sai người lôi Giáp ra, mời mấy ông già láng giềng làm chứng viết tờ chuộc, điểm chỉ ký tên xong bèn gọi người tỳ nữ tới trước mặt, bảo Giáp tự hỏi "Con có sao không?”, cô ta đáp “Không sao”, rồi mới giao cho đưa về.
Kế vào họp tất cả đám tớ gái quở trách suốt lượt, lại gọi Điên Đang tới nghiêm khắc ngăn cấm, kế nói với Tông "Nay mới biết người trên thì dù chỉ mỉm cười một cái thôi cũng không thể khinh suất. Chuyện đùa giỡn này do thiếp bày ra, mà thói tệ kéo dài không sao ngăn cấm được. Phàm buồn rầu thuộc âm, vui vẻ thuộc dương, dương cực thì âm sinh, đó là vận trời tuần hoàn. Cái họa tớ gái vừa rồi là quỷ thần mới răn dạy qua loa thôi, nếu còn mê muội không tỉnh ngộ thì việc tan nhà nát cửa tới ngay đấy", Tông kính cẩn nghe theo. Điên Đang khóc lóc xin giúp cho, Thường Nga bèn nắm lấy vành tai một lúc rồi buông ra, Điên Đang sững ra một lúc rồi chợt như vừa tỉnh mộng, lạy phục xuống đất, mừng rỡ ca múa. Từ đó trong khuê các yên ả, không ai dám ồn ào. Người tỳ nữ về tới nhà thì không bệnh mà lăn ra chết, Giáp đem tiền chuộc con tới nhờ mấy ông già láng giềng nói giúp xin thương xót tha thứ cho. Thường Nga ưng thuận, lại nghĩ tình cô ta hầu hạ bèn cho luôn số tiền để chôn cất. Tông thường lo về việc không có con, chợt nghe trong bụng Thường Nga có tiếng trẻ con khóc, nàng bèn lấy dao rạch sườn trái đem ra, quả là con trai. Không bao lâu nàng lại có mang, lại lấy dao rạch sườn phải đem ra một con gái. Con trai rất giống cha, con gái rất giống mẹ, sau đều cưới gả cho nhà thế gia.
Dị Sử thị nói:Dương cực thì âm sinh, lời ấy xác đáng thay? Nhưng trong nhà có người tiên có thể làm ta vô cùng vui sướng, giúp ta tiêu trừ tai họa, nối dài dòng giống cho ta, lại không làm ta chết thì đúng là chốn vui, có thể sống tới già ở đó, mà người tiên còn lo lắng sao! Vận trời tuần hoàn, lý vốn là thế, nhưng trên đời vẫn có kẻ khốn cùng lâu năm không được sung sướng lấy một ngày, thì làm sao giải thích đây? Thời Tống xưa có kẻ mong gặp tiên không được, thường nói "Được làm tiên một ngày rồi chết cũng không tiếc", ta thật không sao cười nổi.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 203 -
Chử Sinh
(Chử Sinh)
Cử nhân họ Trần ở phủ Thuận Thiên, năm mười sáu mười bảy tuổi thường theo thầy học tới đọc sách ở chùa. Ở chùa có rất nhiều người, trong đó có Chử sinh, tự nói là người Đông Sơn (tỉnh Chiết Giang), học hành rất chăm chỉ, không hề nghỉ ngơi, lại ngủ nhờ luôn trong chùa, ít khi thấy về nhà. Trần chơi thân với Chử nhất, nhân hỏi han, Chử đáp "Nhà ta nghèo, lo tiền ăn học không dễ, nếu không bỏ phí thời giờ mà học tới nửa đêm, thì hai ngày của ta bằng ba ngày của người khác”. Trần cảm động vì lời ấy, muốn đem giường tới ở cùng, Chử ngăn lại nói “Khoan đã, khoan đã, ta thấy thầy ở đây không phải là thầy chúng ta được. Ở cửa thành có Lữ tiên sinh tuy già nhưng giỏi, xin cùng tới đó”.
Đại khái những người mở trường dạy học ở kinh đô phần lớn đều thu tiền từng tháng, hết tháng thì hết tiền, ai muốn học nữa hay thôi là tùy. Rồi đó hai người tới chỗ Lữ. Lữ là bậc túc nho ở đất Việt (tỉnh Chiết Giang) lưu lạc không về quê được nên ở đó dạy trẻ con, thật ra không phải là bản ý, nên được hai nguờì làm học trò thì mừng lắm. Mà Chử lại rất thông minh, sách vở đọc qua là không quên, nên Lữ càng quý mến. Hai người ngày càng thân thiết, ban ngày học cùng bàn, ban đêm ngủ cùng giường, vừa hết tháng chợt Chử chào về nhà, hơn mười ngày không quay lại, hai thầy trò đều ngờ vực. Một hôm Trần có việc tới chùa Thiên Ninh, thấy Chử ở hành lang, đang xe dây gai làm bấc đèn. Chử gặp Trần có vẻ áy náy thẹn thùng, Trần hỏi "Sao lại bỏ không học nữa thế?”. Chử cầm tay ngắt lời, buồn rầu nói "Nhà nghèo không có tiền đóng cho thầy, phải làm nửa tháng mới học được một tháng". Trần ngậm ngùi hồi lâu rồi nói "Cứ tới học đi, ta xin hết sức lo cho”. Chử cảm động vì lời ấy bèn cùng Trần trở lại trường của Lữ, nhưng dặn Trần đừng nói lộ ra, tìm cớ để thưa lại với thầy.
Cha Trần vốn là nhà buôn nên giàu có, Trần cứ lén trộm tiền của cha đóng tiền học cho Chử. Cha thấy mất tiền chửi Trần, Trần kể thật lại, cha cho là ngây ngốc, bèn bắt thôi học. Chử xấu hổ quá, chào thầy định đi, Lữ biết chuyện trách rằng "Ngươi đã nghèo, sao không nói sớm”. Rồi lấy hết tiền đã đóng trả lại cho cha Trần, giữ Chử ở lại dạy dỗ như cũ, cho ăn uống như con mình. Trần tuy không vào trường nữa nhưng vẫn tới mời Chử ra quán rượu thết đãi. Chử vì tỵ hiềm không tới, nhưng Trần cứ nằng nặc mời mọc, lần nào cũng khóc, Chữ không nỡ dứt tình nên vẫn qua lại với nhau. Qua hai năm cha Trần chết, Trần lại tới xin học. Lữ cảm động vì chân thành bèn nhận cho học. Nhưng Trần bỏ học lâu quá nên học kém xa Chử. Được nửa năm, con trai lớn của Lữ từ đất Việt tới, phải xin ăn tìm cha.
Học trò góp tiền giúp thầy trở về, Lữ chỉ biết rơi lệ lưu luyến mà thôi. Lúc Lữ lên đường, dặn Trần coi Chử như thầy. Trần nghe theo, đưa Chử về nhà ở. Không bao lâu được vào học trường huyện, dự khoa thi Di tài, Trần lo không viết đủ quyển nổi, Chử xin thi thay. Đến ngày thi, Chử đưa một người tới, nói là biểu huynh tên Lưu Thiên Nhược, bảo Trần tạm đi theo. Trần vừa bước ra, Chử phía sau chợt kéo mạnh, lảo đảo suýt ngã. Lưu vội đỡ rồi cùng đi. Đi một chặng xa, Lưu đưa vào nhà mình, trong nhà không có phụ nữ nên cho khách ngủ nhà trong. Ở đó vài hôm, chợt đã đến ngày Trung thu, Lưu nói “Hôm nay trong vườn của Hoàng thân họ Lý có nhiều người tới du ngoạn, tới đó chơi một phen cho đỡ buồn rồi sẽ đưa ông về”, rồi sai người gánh lò trà bình rượn cùng đi.
Tới đó thì bến nước đình mai đông đúc ồn ào không chen vào được, qua khỏi bến nước thấy dưới gốc liễu già có con thuyền nằm ngang bèn dắt nhau lên. Uống được mấy chén, thấy vắng vẻ quá, Lưu ngoái lại nói với tiểu đồng "Quán mai hoa gần đây có một ca kỹ mới, không biết có nhà không?” Tiểu đồng đi một lát thì đưa nàng ấy về, té ra là nàng Lý Át Vân. Lý là danh kỹ ở kinh đô, làm thơ giỏi, ca hát hay, Trần từng đi với bạn uống rượu chỗ nàng một lần nên có quen. Gặp nhau chuyện trò thăm hỏi, nàng có vẻ buồn rầu lo lắng, Lưu bảo hát thì hát khúc Cảo lý*. Trần không vui nói "Cho dù chủ khách không hợp nhau, nhưng sao nàng lại hát khúc điệu vong trước người còn sống?”. Nàng bèn đứng lên gượng cười nói, hát khúc diễm tình, Trần vui vẻ nắm cổ tay nàng nói “Lần trước nàng hát khúc Cán sa khê, ta đã nhẩm lại mấy lần nhưng nay quên cả rồi", nàng bèn ngâm rằng:
* Cảo lý: tên khúc hát cổ, ngày xưa dùng làm bài hát lúc đưa tang.
Lệ nhãn doanh doanh đối kính đài,
Khai liêm hốt kiến tiểu cô lai.
Đê đầu chuyển trắc khán cung hài,
Cưỡng giải lục nga khai tiếu yểm.
Tần tương hồng tụ thí hương tai,
Tiểu tâm do khủng bị nhân xai.
(Mắt lệ rưng rưng đứng trước gương
Mở rèm chợt thấy bóng cô nương
Cúi đầu ngoảnh lại nhìn xiêm áo
Nhoẻn miệng buồn tênh với phấn hương
Tay áo mấy lần lau nước mắt
Còn e khách giận vẻ sầu thương)
Trần ngâm đi ngâm lại mấy lần rồi ghé thuyền vào bờ, bước lên hành lang thủy đình, thấy trên vách có rất nhiều thơ đề vịnh, lập tức lấy bút ghi bài từ lên đó. Trời đã xế chiều, Lưu nói “Người trong trường thi sắp ra rồi". Bèn đưa Trần về, tới cổng là chào đi ngay. Trần thấy trong nhà tối tăm không có ai, đang định cất tiếng hỏi thì Chử sinh đã bước vào, nhìn kỹ lại thì không phải Chử sinh. Đang còn kinh ngạc thì người kia đã tới sát bên ngã chúi vào, bọn người nhà nói "Công tử mệt quá rồi”, rồi xúm lại đỡ lên, Trần chợt biết người vừa ngã không phải ai khác mà chính là mình. Choàng dậy nhìn thấy Chử sinh bên cạnh, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng, ngồi yên ngẫm nghĩ, Chử nói "Nói thật ông đừng sợ, chứ thật ra ta là ma đây, lẽ ra đã đầu thai lâu rồi, sỡ dĩ còn nấn ná ở đây là vì không quên được bạn tốt, nên mới nhập vào xác ông để thi thay, nay xong cả ba kỳ, đã thỏa nguyện rồi".
Trần lại xin thi hội giùm, Chử nói "Kiếp trước ông ít phúc đức, tính keo kiệt, sợ kiếp này khó thi đỗ làm quan”. Trần hỏi sắp tới sẽ đi đâu, Chử đáp “Lữ tiên sinh với ta có duyên phận cha con, vẫn nghĩ ngợi mà không làm được, biểu huynh coi việc sổ sách dưới âm ty nên ta đã nhờ thưa giùm với Diêm Vương, may ra thì được", rồi chào đi, Trần lấy làm lạ lùng. Sáng ra tới thăm nàng ca kỹ họ Lý, định hỏi han về việc chơi thuyền hôm qua, thì nàng đã chết mấy hôm rồi. Lại tới khu vườn của hoàng thân xem thì bài thơ đề trên vách vẫn còn, nhưng nét mực mờ mờ như sắp phai hết, mới biết kẻ đề là hồn, kẻ làm là ma. Đến đêm Lữ mừng rỡ tới nói "Chuyện ta tính toán may quá đã xong rồi, xin kính cẩn từ biệt ông". Rồi xòe hai bàn tay ra bảo Trần ghi chữ "Chử" vào để ghi nhớ. Trần định sai bày rượu tiễn, Chử xua tay nói “Không cần đâu, nếu ông không quên bạn cũ thì sau khi ra bảng rồi đừng ngại xa xôi".
Trần gạt lệ đưa ra, thấy một người đang chờ ở cổng. Chử đang còn chần chừ, người ấy đã đưa tay nắm vào đầu, Chử theo tay thu người lại còn bé tí, người ấy liền bỏ vào túi vác đi. Qua mấy hôm sau, quả nhiên có tin Trần thi đỗ, bèn thu xếp hành lý tới đất Việt. Vợ Lữ không sinh đẻ gì đã mười năm, đã hơn năm mươi tuổi chợt sinh một con trai, hai tay cứ nắm chặt vào nhau không sao mở ra được. Trần tới xin cho nhìn đứa nhỏ, lại nói trong tay nó phải có chữ "Chử". Lữ chưa tin lắm, nhưng khi đứa nhỏ nhìn thấy Trần chợt xòe mười ngón tay ra, nhìn vào quả đúng. Lữ ngạc nhiên hỏi duyên do, Trần kể lại hết mọi chuyện, mọi người đều kinh ngạc sợ hãi, Trần tặng biếu Lữ rất hậu rồi trở về. Sau Lữ nhờ chân Cống sĩ lên kinh thi đình, tới ở nhà Trần thì đứa nhỏ được mười ba tuổi, đã được vào học ở trường huyện rồi.
Dị Sử thị nói:Già Lữ dạy môn sinh mà không biết đó chính là dạy con mình. Than ôi, làm điều lành cho người thì được điều hay cho mình, chỉ trong chốc lát thôi. Như Chử sinh sau cùng đem thân báo ơn thầy, mà trước tiên đem hồn đền nghĩa bạn, tâm ý cùng hành động đều rạng rỡ với mặt trăng mặt trời, há vì là ma mà lấy làm kỳ dị sao!
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 204 -
Cô Gái Họ Hoắc
(Hoắc Nữ)
Chu Đại Hưng là người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), nhà giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn, ngoài lễ cưới hỏi cho con thì trên bàn không có khách, dưới bếp không có thịt. Nhưng tính tình lại bợm bãi thích nữ sắc, có gái bên cạnh thì tiêu bao nhiêu cũng không tiếc, cứ đêm đến là trèo tường qua thôn bên cạnh ngủ với đám đàn bà phóng đãng. Một đêm gặp người thiếu phụ đi một mình, biết là kẻ trốn nhà bỏ đi, bèn ép dẫn về, thắp đèn lên nhìn thì vô cùng xinh đẹp. Nàng tự nói là họ Hoắc, Chu hỏi kỹ lai lịch thì tỏ vẻ không bằng lòng, nói “Nếu đã thu dung nhau được thì cần gì phải hỏi kỹ. Còn nếu sợ làm lụy cho nhau thì chẳng bằng xin đi ngay". Chu không dám hỏi nữa, giữ lại trong phòng ngủ. Cô gái không thể ăn uống kham khổ, lại rất ghét thịt cá, phải là yến sào, tim gà, bóng cá nấu thang mới chịu ăn nhưng Chu không tiếc, cứ ra sức cung phụng.
Cô gái lại hay bệnh, nói mỗi ngày phải uống một chén sâm, ban đầu Chu không chịu nhưng nàng cứ rên rỉ như sắp chết, Chu bất đắc dĩ phải cắt thuốc cho thì lại như khỏi bệnh khỏe mạnh như thường. Cô gái mặc quần áo phải là gấm vóc, cứ vài ngày lại bỏ thứ cũ sắm thứ mới. Cứ thế hơn tháng, Chu chịu không xiết, dần dần không cung đốn được, cô gái rơi lệ bỏ ăn, nằng nặc xin đi. Chu sợ lại dịu ngọt khuyên lơn chiều chuộng như cũ. Cô gái lại hay buồn rầu, cứ mỗi ngày lại gọi ban hát tới nhà diễn tuồng, lúc diễn Chu đặt chõng bế con ngồi ngoài nhìn, cô gái vì không có khách cứ chữi mắng, Chu cũng ít khi phân biện. Được hai năm, nhà cửa dần dần sa sút, Chu lựa lời nói với cô gái xin nàng chi tiêu dè sẻn hơn, cô gái ưng thuận, từ đó chi dùng chỉ bằng một nửa lúc trước.
Ít lâu sau vẫn không thể cung đốn được, cô gái bất đắc dĩ phải ăn cháo thịt, kế dần dần cũng phải chịu ăn những món thông thường. Chu mừng thầm, chợt một đêm nàng mở cửa bỏ đi mất. Chu rầu rĩ như mất của, tìm hỏi khắp nơi mới biết nàng tới nhà họ Hà ở thôn bên. Hà là con nhà vọng tộc, tính phóng khoáng hiếu khách, thường đốt đèn yến tiệc đến sáng. Hôm ấy chợt có cô gái đẹp nửa đêm bước vào phòng, hỏi ra thì là người thiếp của Chu bỏ trốn. Hà vốn biết rõ Chu là người thế nào, lại thích cô gái xinh đẹp bèn thu nạp, ăn ở được vài ngày càng thêm si mê, cứ để nàng mặc tình hoang phí, cung phụng như Chu trước kia. Chu được tin qua đòi nhưng Hà không hề quan tâm, Chu liền kiện lên quan. Quan hỏi tên họ lai lịch cô gái, Chu đều không biết rõ, quan bèn để đó không xét xử gì nữa.
Chu bán gia sản đút lót mới được xét xử, cô gái nói với Hà "Thiếp về với họ Chu vốn không có mai mối cưới hỏi, có gì phải sợ”. Hà mừng rỡ, kế đối chất xong trong bọn tân khách có Cố sinh cho là không thể làm như vậy, nói với Hà rằng "Thu nạp kẻ trốn nhà bỏ đi là đã phạm pháp, huống chi cô gái này vào nhà hoang phí quá độ, cho dù là gia sản ngàn vàng cũng đã chắc lâu dài được chưa?". Hà chợt tỉnh ngộ xin thôi kiện, đưa trả cô gái về cho Chu, nhưng được hai ba hôm thì nàng lại trốn đi. Có Hoàng sinh vốn là học trò nghèo, không có vợ. Cô gái gõ cửa vào nhà, nói rõ mình ở đâu tới. Hoàng sợ phạm pháp vì đột nhiên có người đẹp tới nhà, sợ hãi không biết làm sao, chỉ cố từ chối nhưng cô gái vẫn không chịu đi. Trong lúc đối đáp nàng tỏ vẻ rất nhu mì trong trắng, Hoàng xiêu lòng bèn giữ lại, nhưng sợ nàng không chịu yên phận nghèo hèn. Cô gái dậy sớm làm lụng việc nhà, vất vả còn hơn vợ thật.
Hoàng là người hiểu nhiều biết rộng, phóng khoáng đa tình mà cô gái lại giỏi chiều chuộng, vì thế hận gặp nhau quá muộn, chỉ sợ tin tức lộ ra không được chung sống lâu dài. Nhưng Chu từ sau vụ kiện càng nghèo, lại cho rằng cô gái nhất định không chịu yên phận nên cũng bỏ qua không tìm nữa. Cô gái ở với Hoàng được vài năm, tình nghĩa rất thắm thiết, một hôm chợt nói muốn về thăm nhà, xin Hoàng đưa tiễn. Hoàng nói “Trước nàng nói rằng không có nhà cửa, tại sao trước sau bất nhất như vậy?". Cô gái đáp “Lúc trước là thiếp nói dối, chứ thiếp là người huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) trước theo kẻ phóng đãng lưu lạc giang hồ nên mới đến nông nỗi này. Nhà thiếp cũng giàu có, chàng cứ cố tìm tới, ắt có báo đáp". Hoàng theo lời, thuê kiệu cùng đi, tới địa phận Dương Châu ghé thuyền vào bờ sông. Cô gái ngồi trong thuyền nhìn ra, có người nhà buôn lớn nhìn thấy ngạc nhiên vì nàng quá đẹp, quay thuyền lại đuổi theo mà Hoàng không hề biết.
Cô gái chợt nói "Nhà chàng nghèo quá, nay có một cách chữa bệnh nghèo, không biết chàng có chịu không?". Hoàng hỏi cách gì, nàng đáp "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng sinh đẻ, đó cũng là một điều không hay. Thiếp tuy quê mùa nhưng may cũng chưa già, nếu có ai đem ngàn lượng vàng mua thiếp đi, thì bấy nhiêu đủ cho chàng có vợ đẹp ruộng tốt, cách đó thế nào?”. Hoàng biến sắc không biết vì sao nàng nói thế, cô gái cười nói "Chàng đừng vội, trên đời vốn có nhiều người đẹp, ai mà chịu bỏ ngàn vàng mua thiếp? Nhưng nói đùa biết đâu cũng có thật, chứ bán hay không bán là tùy chàng thôi". Cô gái bèn nói với vợ người nhà thuyền, người đàn bà nhìn Hoàng, Hoàng ngần ngại chưa lên tiếng, người đàn bà liền đi, giây lát quay về nói thuyền bên có người nhà buôn lớn xin bỏ ra tám trăm lượng. Hoàng cố ý xua tay làm ra vẻ không được, không bao lâu người đàn bà quay lại nói người nhà buôn ưng thuận, xin mời qua ngay thuyền để giao tiền.
Hoàng cười khẽ, cô gái nói "Người ta mời qua làm giấy ký tên đấy, đi hay không thì tùy chàng thôi". Hoàng không chịu, cô gái cứ hối thúc, Hoàng bất đắc dĩ phải qua. Trong giây lát giấy tờ làm xong, tiền bạc giao đủ, Hoàng bảo gói kín lại, nói “Chỉ vì nghèo nên phải dứt tình, nếu vợ ta không chịu theo, thì vẫn có đủ tiền trả lại". Vừa chở tiền về thuyền thì thấy cô gái đã theo người vợ nhà thuyền từ đuôi thuyền leo qua thuyền người nhà buôn, từ xa vẫy tay chào, không hề tỏ vẻ lưu luyến gì cả. Hoàng buồn rầu vì biệt ly, thổn thức không nói nên lời. Giây lát thuyền kia nhổ neo lướt đi như tên bắn, Hoàng gào lớn muốn đuổi theo, nhà thuyền không chịu, nhổ neo đi về phía nam. Trong nháy mắt đã tới Trấn Giang, Hoàng đem tiền lên bờ xong, nhà thuyền vội nhổ neo rời bến. Hoàng ôm hành lý ngồi buồn rầu, không biết về đâu, nhìn sóng nước lăn tăn trên sông thấy như có hàng vạn mũi kim châm vào lòng. Đang còn gạt lệ chợt có tiếng êm ái gọi Hoàng lang, ngạc nhiên nhìn quanh thì cô gái đã đứng trên con đường trước mặt, Hoàng mừng quá xách hành lý đi theo.
Hỏi sao nàng tới mau thế, cô gái cười đáp "Nếu chậm vài khắc nữa chắc chàng sẽ sinh nghi". Hoàng lại ngờ rằng nàng là người phi thường, hết sức gạn hỏi, cô gái cười nói "Thiếp bình sinh gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì lừa bịp, nếu bàn thật ắt chàng sẽ không chịu, thì làm sao có được ngàn vàng? Bây giờ túi đã đầy tiền, lại còn châu về Hiệp Phố, chàng có được đủ cả tiền cả vợ, còn hỏi làm gì?". Bèn cầm giúp hành lý đưa nhau đi, khỏi cửa sông có một căn nhà quay mặt về hướng nam bèn vào. Giây lát cha mẹ anh trai chị dâu nhao nhao ra đón, đều nói "Hoàng lang tới rồi”. Hoàng vào lạy ra mắt cha mẹ vợ, thấy có hai thiếu niên bèn vái chào rồi cùng ngồi trò chuyện, đó là anh trai và em trai của cô gái là Đại lang và Tam lang. Trong bàn tiệc không có nhiều món, chỉ bày có bốn đĩa mà chật cả bàn, gồm gà cua ngỗng cá đầy vun lên. Hai thiếu niên lấy chén lớn mời rượu, trò chuyện phóng khoáng.
Kế dẫn Hoàng vào một gian nhà riêng cho vợ chồng cùng ở, nệm gối đều tinh khiết sạch sẽ nhưng trên giường thì lót da thay nệm, hàng ngày có tớ gái đưa cơm tới ba bữa, nhưng cô gái có khi cả ngày không thấy tới. Hoàng ở một mình thấy buồn khổ quá, mấy lần đòi về, nhưng cô gái cố giữ lại. Một hôm nàng nói với Hoàng "Nay tính toán cho chàng thì xin nên cưới một người vợ để có con nối dõi, nhưng cưới vợ lẽ thì giá cao, chàng nên giả làm anh thiếp, nói cha lo cưới vợ cho thì tìm con nhà lương dân không khó lắm", Hoàng không chịu nhưng nàng không nghe. Có con gái Cống sĩ họ Trương vừa góa chồng, đòi sính lễ trăm quan tiền, cô gái ép Hoàng cưới về. Người vợ mới tên A Mỹ, cũng xinh đẹp, cô gái gọi là chị dâu. Hoàng áy náy không yên lòng nhưng nàng vẫn thản nhiên. Ngày khác nàng nói với Hoàng “Thiếp sắp theo chị cả tới Nam Hải thăm bà dì một lần, hơn một tháng sẽ về, xin hai vợ chồng cứ ở đây", rồi đi.
Hai vợ chồng ở riêng một gian, nhà cô gái vẫn đưa đồ ăn thức uống qua cho, lại càng đầy đủ chu tất. Nhưng từ khi Hoàng tới đó thì không ai bước vào phòng, mỗi sáng A Mỹ qua hầu mẹ chỉ nói một đôi câu là về, chị gái em dâu ngồi cạnh cũng chỉ nhìn nhau cười một cái, cho dù ngồi lâu hơn cũng chẳng trò chuyện gì nhiều. Hoàng thấy cha cô gái cũng vậy, có khi đang ngồi trò chuyện với các con trai, nhưng Hoàng tới thì tất cả đều im lặng. Hoàng nghi ngờ buồn bực nhưng không nói ra được, A Mỹ biết ý hỏi rằng “Chàng là anh em với mấy người kia, tại sao cả tháng nay thấy đối xử với nhau cứ như khách lạ thế?". Hoàng thảng thốt không sao đáp được, ấp úng nói "Ta xa nhà mười năm, nay mới trở về". A Mỹ lại hỏi kỹ từ gia thế cha mẹ chồng tới quê quán các chị em dâu, Hoàng quýnh quáng không thể giấu giếm bèn kể thật hết. Nàng khóc nói "Nhà thiếp tuy nghèo nhưng không ai làm lẽ mọn, chẳng lạ gì các chị em dâu khinh rẻ không coi ngang hàng".
Hoàng sợ hãi lúng túng không biết tính sao, chỉ quỳ rạp trước mặt xin nhất nhất tuân lời, A Mỹ gạt lệ kéo đứng lên, hỏi qua việc định xử sự thế nào. Hoàng đáp "Ta đâu dám có ý gì khác, chỉ còn tùy ý nàng muốn bỏ thì bỏ thôi". Nàng nói “Đã lấy chồng lại bỏ về, nỡ lòng nào làm thế? Người kia tuy theo chàng trước nhưng là do ý riêng, thiếp tuy tới sau nhưng đúng lễ chung, chẳng bằng cứ chờ nàng về hỏi xem đã bày ra cách này thì sẽ đặt thiếp vào đâu?". Được vài tháng cô gái vẫn không về, một đêm nghe ngoài phòng khách có tiếng người uống rượu ồn ào, Hoàng lén dậy ra nhìn xem, thấy hai người khách mặc nhung phục ngồi trên, một người đội khăn da báo, oai mãnh như thiên thần, phía đông là một người lấy da đầu cọp làm mũ đâu mâu, miệng cọp ngoạm vào đỉnh đầu, tai mũi đều còn đủ. Hoàng kinh sợ trở về kể cho A Mỹ, càng không biết cha con họ Hoắc là hạng người nào. Vợ chồng ngờ vực sợ hãi bàn nhau tìm chỗ khác ở, nhưng lại sợ sinh chuyện ngang trái. Hoàng nói "Nói thật với nàng nếu người từ Nam Hải về thì chuyện chia tay nhau cũng đã định rồi, ta cũng không thể ở đây được. Nay muốn đưa nàng đi, lại sợ nhạc phụ đại nhân nói này khác, chẳng bằng cứ tạm chia tay, trong vòng hai năm ta sẽ trở lại, nếu nàng đợi được thì đợi, nếu có ai cưới thì tùy ý nàng". A Mỹ muốn nói cho cha mẹ biết để đi theo, Hoàng không chịu, A Mỹ gạt lệ đòi Hoàng phải thề thốt, sau đó chia tay trở về.
Hoàng vào từ giã cha mẹ cô gái, lúc ấy hai người con trai đi vắng. ông Hoắc giữ lại bảo chờ họ về, Hoàng không nghe cứ ra đi, buồn rầu lên thuyền, lòng dạ tan nát. Đến Qua Châu (thuộc tỉnh Giang Tô) chợt quay nhìn thấy một cánh buồm đuổi tới, lướt nhanh như bay, dần dần tới gần thì người chống kiếm ngồi đầu thuyền là Hoắc Đại lang, từ xa đã nói vọng tới “Ông muốn trở về sao không bàn kỹ lần nữa? Để phu nhân lại mà bỏ đi, hai ba năm thì ai mà chờ được”. Nói xong thì thuyền đã tới sát, A Mỹ từ trong bước ra, Đại lang kéo lên thuyền của Hoàng, rồi nhảy trở lại đi mất. Trước là A Mỹ vừa về tới nhà khóc kể cho cha mẹ, chợt Đại lang đem kiệu tới cổng, chống kiếm uy hiếp bắt nàng đi ngay, cả nhà run sợ nín thở không dám nói một câu cản trở. Nghe nàng kể như thế, Hoàng không hiểu họ Hoắc có ý gì, nhưng được A Mỹ cũng rất mừng, bèn nhổ neo lên đường. Về tới nhà đem tiền ra mua sắm ruộng vườn, nổi tiếng giàu có.
A Mỹ nhớ cha mẹ, muốn Hoàng đi thăm một lần, nhưng lại sợ cô gái họ Hoắc tới thì lại có chuyện tranh giành ngôi thứ. Không bao lâu ông Trương tới thăm, thấy nhà cửa cao ráo cũng được an ủi, nói với con gái rằng "Sau khi con đi, ta cho người tới nhà họ Hoắc hỏi dò nhưng chỉ thấy cửa đóng chặt, chủ nhà cũng chẳng biết gì, nửa năm sau cũng không có tin tức. Mẹ con ngày nào cũng khóc, cho rằng con bị kẻ gian bắt đi bán rồi, không biết lưu lạc tới nơi đâu, nay vẫn may không sao chứ?". Hoàng kể thật lại sự tình, mọi người vì vậy cho rằng họ Hoắc là thần. Về sau A Mỹ sinh con trai, đặt tên là Tiên Tứ, năm hơn mười tuổi mẹ sai đi Trấn Giang.
Tới địa giới Dương Châu vào nghỉ ở nhà trọ, bọn gia nhân đi theo đều ra ngoài, chợt có cô gái tới kéo đứa nhỏ vào phòng khác, buông rèm rồi bế ngồi lên đầu gối, cười hỏi tên gì, đứa nhỏ nói tên. Cô gái lại hỏi tên ấy có ý nghĩa là gì, đứa nhỏ nói không biết, cô gái nói cứ về hỏi cha thì sẽ biết. Rồi búi tóc cho, lấy cành thoa trên đầu cắm vào thay trâm, tháo vòng vàng đeo vào cổ tay, lại lấy vàng cho vào túi áo đứa nhỏ nói "Về rồi mua sách mà đọc". Đứa nhỏ hỏi bà là ai, nàng đáp "Con không biết là còn có một mẹ khác à? Về nói với cha rằng Chu Đại Hưng chết không có quan tài, nên giúp đỡ cho y, đừng có quên đấy". Người lão bộc quay trở về phòng không thấy thiếu chủ đâu, tìm tới phòng ấy nghe đang nói chuyện với người khác bèn nhìn vào thì ra là chủ mẫu cũ, khẽ hắng giọng định chào hỏi thì cô gái đặt đứa nhỏ lên giường rồi biến mất. Hỏi tới người thuê phòng ấy thì không biết là ai. Mấy hôm sau từ Trấn Giang trở về kể lại với Hoàng, lại đưa những thứ cô gái tặng ra cho xem, Hoàng thở than không thôi, khi hỏi tới Chu thì đã chết ba ngày, xác còn đó chưa chôn được, bèn giúp đỡ cho rất hậu.
Dị Sử thị nói:Cô gái là tiên chăng? Ba lần thay chồng quả không thể gọi là trinh, nhưng gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì kìm chế, cô gái không phải là người vô tâm đâu. Nhưng đã phá của thì không cần thương xót nữa, bọn người tham dâm keo kiệt mà chết ở ngòi rãnh thì có gì đáng tiếc chứ?
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 205 -
Khách Buôn Vải
(Bố Thương)
Có người khách buôn vải là Mỗ tới đất Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), tình cờ ghé thăm ngôi chùa bỏ hoang, thấy chùa thiền đổ nát than thở không thôi. Sư đứng bên cạnh nóì “Nếu thí chủ có lòng thiện tín, xây lại sơn môn thì mặt Phật cũng được rạng rỡ”. Khách khảng khái nhận lời, sư mừng rỡ mời vào phương trượng khoản đãi rất ân cần, kế dắt đi khắp phòng ốc trong ngoài, xin sửa sang hết. Khách từ chối là không đủ sức, sư cố ép buộc, giận dữ quát tháo. Khách sợ xin đưa tiền ngay, rồi dốc túi đưa hết tiền bạc ra. Lúc sắp ra về thì sư chặn lại nói "Ông hết sạch cả tiền vốn không phải là tình nguyện, nhất định không cam lòng. Chẳng bằng ta phải tính trước", rồi cầm đao ra. Khách lạy lục năn nỉ cũng không nghe, bèn xin được tự thắt cổ, sư ưng thuận dắt vào phòng kín, ép thắt cổ ngay. Vừa gặp lúc có quan Phòng hải tướng quân đi ngang qua chùa, nhìn vào chỗ tường vỡ thấy có một người con gái áo đỏ chui vào phòng sư lấy làm ngờ vực bèn xuống ngựa vào sai quân tìm kiếm khắp cả trước sau đều không thấy đâu. Tới chỗ phòng kín thấy hai cánh cửa đóng chặt, sư lại không chịu mở, nói thác là bên trong có yêu quái. Tướng quân tức giận sai phá cửa vào, thấy khách đã treo cổ lên xà nhà vội cứu xuống, giây lát thì sống lại. Hỏi han sự tình, lại tra hỏi cô gái ở đâu thì qua thật không có, thắc là thần phật hóa thân ra mà thôi. Bèn giết sư, trả hết tiền bạc lại cho khách. Khách càng dốc lòng sửa sang chùa chiền, từ đó lửa hương không ngớt. Hiếu liêm Triệu Phong Nguyên kể lại chuyện này rất tường tận
206. Bành Nhị Tranh
(Bành Nhị Tranh)
Ông Hàn Phủ ở huyện Võ Thành (tỉnh Sơn Đông) kể có lần đi cùng đường với người trong huyện là Bành Nhị Tranh, chợt quay đầu lại thì không thấy đâu, chỉ còn con ngựa theo sau. Nhưng nghe có tiếng kêu gào rất gấp, lắng nghe thì từ cái túi da trên lưng ngựa phát ra. Tới gần xem thì cái túi vẫn như cũ, tuy rất nặng nhưng vẫn không rơi xuống. Muốn cứu ra thì miệng túi đã bị khâu kín, lấy dao cắt chỉ thấy Bành Nhị Tranh nằm co như con chó ở trong. Cứu ra rồi, hỏi tại sao lại vào được trong bao, Bành củng ngơ ngác không hiểu, chắc là nhà ấy bị hồ quấy phá, những chuyện như thế rất nhiều.
207. Thần Nhảy
(Khiêu Thần)
Tục ở đất Tế (tỉnh Sơn Đông) trong dân gian hễ ai bị bệnh thì vợ con đi bói toán rồi mời bà đồng tới lắc vòng sắt đánh trống con làm như dáng nhảy nhót, gọi là Thần nhảy. Tục ấy ở thành thị lại càng thịnh hành, các thiếu phụ nhà lương dân vẫn thường làm. Trong sảnh đường bày thịt trên giá, chứa rượu trong chậu bày cả lên bàn, đốt đuốc sáng như ban ngày. Bà đồng mặc quần ngắn, đứng co một chân như con cò, có hai người nắm tay đỡ hai bên, miệng lẩm bẩm không ngừng như ca hát mà cũng như khấn khứa. Số người đã có chồng và người góa chồng xấp xỉ như nhau, cùng nhảy nhót theo tiếng kèn. Kế đánh một hồi trống vang rền như sấm điếc cả tai, rồi bà đồng rẽ mọi người ra, vì tiếng trống ầm ĩ nên không nghe rõ là nói gì. Kế bà ta cúi đầu liếc ngang, đứng cả hai chân xuống đất nhưng không có người đỡ nên ngã ngay, chợt lại vươn cổ nhảy dựng lên cách mặt đất cả thước. Đàn bà con gái trong nhà sợ sệt nói với nhau "Ông bà về ăn uống đấy!", rồi thổi một hơi tắt hết đèn đuốc. Trong ngoài tối đen như mực, mọi người nín thở đứng trong bóng tối không dám trò chuyện với nhau một câu nhưng có nói cũng không nghe vì có nhiều tiếng động đang rộn lên.
Khoảng xong bữa cơm thì nghe bà đồng lớn tiếng gọi tên tục của cha mẹ vợ chồng chủ nhà, mọi người mới cùng nhau thắp đèn lên khom lưng hỏi chuyện lành dữ. Thấy rượu thịt trên bàn đã hết sạch, cứ nhìn mặt bà đồng xem mừng giận ra sao mà khép nép thưa gởi, còn bà ta đáp nghe vang rền. Có ai thầm dè bỉu thì thần biết ngay, chỉ vào mặt nói ngươi dám cười ta thì thực là đại bất kính, phải lột quần ngươi. Người dè bỉu nhìn lại mình thì quả nhiên đã bị lột truồng, cứ ra cành cây cao nhất ngoài cổng sẽ tìm thấy quần trên đó. Đàn bà con gái cả vùng thờ phụng rất kính cẩn, có điều gì nghi ngờ hỏi tới thì thần quyết cho ngay. Có lúc bà đồng lại ăn mặc nghiêm trang cỡi cọp giả làm ngựa, cầm binh khí dài múa trên sạp, gọi là Thần cọp nhảy (Khiêu hổ thần). Những người đóng giả cọp thì làm ra vẻ dữ tợn, gầm thét ầm ĩ. Có khi thần xưng là Quan Công Trương Phi hay thần Nguyên Đàn, không có tên gọi nhất định, dáng vẻ khí thế hung dữ làm người ta phải khiếp sợ. Có người đàn ông lẻn vào nhìn trộm, bị binh khí dài đâm qua song cửa xuyên trúng mũ. Khi thần đã nhập thì phụ nữ cả nhà từ mẹ chồng con dâu tới các chị em gái đều kính kính cẩn cẩn đứng xếp hàng ngay ngắn, không dám nghĩ bậy, không dám ngã ngớn.
208. Công Phu Thiết Bố Sam
(Thiết Bố Sam Pháp)
Sa Hồi Tử học được công phu Thiết bố sam, xòe bàn tay ra có thể chém đứt đầu trâu, đâm thủng bụng trâu. Từng ở nhà Cừu công tử và Bành tam gia, treo khúc gỗ trên không, sai hai người đầy tớ khỏe mạnh nắm một đầu hết sức thúc vào bụng, bình một tiếng, khúc gỗ văng ra xa. Lại lấy hết sức thúc vào hạ bộ cũng không hề hấn gì, duy chỉ sợ đao kiếm mà thôi.
209. Đầu Mỹ Nhân
(Mỹ Nhân Thủ)
Có bọn khách thương ngụ ở kinh, nhà trọ liền với hàng xóm, cách một bức vách, vách ván bị mục thủng một lỗ to bằng cái chậu. Chợt có một cô gái thò đầu vào nhìn, búi tóc cài trâm rất lộng lẫy, kế lại đưa một cánh tay qua, thấy trắng như ngọc. Mọi người hoảng sợ cho là yêu quái, toan nắm lấy thì đã rút ra. Giây lát lại thò vào, cách vách nên không thấy người, chạy mau ra xem thì đã biến mất. Một người bèn cầm dao núp dưới vách, giây lát cái đầu thò vào, y vùng dậy chém, cái đầu theo dao rơi xuống, máu bắn tung tóe lên vách. Mọi người phát hoảng báo cho chủ nhà trọ, chủ nhà trọ sợ hãi đem cái đầu lên báo quan. Quan bắt bọn khách thương tới hỏi cung thấy thưa bẩm rất hoang đường bèn giam giữ suốt nửa năm, họ đều kêu van là không biết gì, kế không thấy ai kiện tụng bèn tha ra, sai chôn cái đầu cô gái.
210. Thần Núi
(Sơn Thần)
Lý Hội Đẩu ở Ích Đô (tỉnh Tứ Xuyên) ngẫu nhiên đi ngang qua núi, gặp vài người đang ngồi dưới đất uống rượu, thấy Lý đều cung kính đứng dậy mời cùng ngồi, rót rượu mời mọc. Nhìn vào mâm thấy đủ thứ rau cỏ, uống với nhau một lúc rất vui vẻ, nhưng rượu rất nhạt. Chợt có một người đi tới, mặt hẹp mà dài khoảng hai ba thước, đội mũ cao mà nhỏ. Cả bọn hoảng sợ nói “Thần núi tới rồi", cùng nhao nhao bỏ chạy. Lý cũng nằm rạp xuống núp dưới hố, lát sau dậy xem thì không thấy rượu thịt gì cả chỉ có vài món bát đĩa vỡ đầy cát bụi vứt lăn lóc, trên mảnh ngói có mấy con rắn mối mà thôi.
211. Tướng Quân Họ Khố
(Khố Tướng Quân)
Khố Đại Hữu tự Quân Thục là người huyện Dương ở Hán Trung (tỉnh Tứ Xuyên) đậu Cử nhân võ, theo làm tướng trong quân Tổ Thuật Vũ*. Tổ rất quý trọng, cất nhắc mấy lần, dần thăng tới chức Tổng nhung của nhà ngụy Chu. Sau thấy thế đã nguy, ngầm đem quân đánh Tổ, chém Tổ bị thương ở tay rồi bắt sống giải về nộp cho Tổng đốc Thái. Tới kinh đô, Khố nằm mơ thấy bị giải tới âm ty, Diêm Vương giận là bất nghĩa, sai quỷ tất lấy dầu sôi đổ vào chân. Tỉnh dậy thì chân đau không sao chịu nổi, kế lở ra máu mủ bê bết, các ngón rụng hết, lại thêm bị mê sảng, cứ gào lớn rằng “Ta quả là kẻ bất nghĩa, ta quả là kẻ bất nghĩa!", rồi chết.
* Tố Thuật Vũ: tướng của Bình Tây vương Ngô Tam Quế thời Thanh, theo giúp Ngô Tam Quế làm phản chống lại nhà Thanh, chiếm cứ vùng đất phía nam Trung Quốc, xưng quốc hiệu là Chu, sau bị nhà Thanh đánh bại.
Dị Sử thị nói:Thờ ngụy triều thì vốn không thể nói là trung, nhưng được coi như bậc quốc sĩ hay kẻ tầm thường thì chịu ơn cũng phải báo đáp, chỉ là người hào kiệt thì buộc mình phải báo đáp sao cho xứng đáng mà thôi*. Chuyện này quả cũng có thể để răn những kẻ bầy tôi ăn ở hai lòng trong thiên hạ vậy.
*Được coi như... mà thôi: Dự Nhượng người nước Tấn thời Chiến quốc theo thờ họ Phạm Trung Hàng, họ Phạm không biết tài bèn bỏ theo thờ Trí Bá, được Trí Bá rất kính trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương tử giết, Dự Nhượng nuốt than sơn mặt đổi giọng nói thay vẻ mặt để hành thích Tương tử nhưng bại lộ bị bắt. Tương tử hỏi "Trước ông đã thờ họ Phạm Trung Hàng rồi, sao lại liều chết báo thù cho Trí Bá?", Nhượng đáp "Họ Phạm coi ta là kẻ tầm thường thì ta báo đáp như kẻ tầm thường còn Trí Bá coi ta như bậc quốc sĩ nên ta báo đáp theo kiểu quốc sĩ" Cả câu ý nói kẻ hào kiệt phải đền ơn theo kiểu hào kiệt chứ không thể tính toán so kè là chịu ơn nhỏ hay lớn được.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển XII - 212 -
Tư Văn Lang
(Tư Văn Lang)
Vương Bình Tử người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lên kinh ứng thí, trọ ở chùa Báo Quốc. Trong chùa có thư sinh người Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) tới ở trước, Vương vì là ở liền nhà đưa danh thiếp qua làm quen, sinh không đáp lễ, mà sớm tối gặp nhau còn tỏ vẻ khinh khỉnh, Vương giận vì kiêu căng, không giao du gì nữa. Một hôm có một thiếu niên tới chơi chùa, khăn áo đều màu trắng, dáng vẻ đường đường. Vương tới gần trò chuyện, thấy lời lẽ cao xa, lấy làm yêu kính, bèn hỏi tên họ quê quán, thiếu niên nói là họ Tống, quê ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông). Vương sai đầy tớ bày ghế mời ngồi, cùng nhau trò chuyện vui vẻ.
Chợt thư sinh người Dư Hàng đi ngang, hai người cùng đứng lên mời ngồi, sinh chễm chệ ngồi tót lên cao, cũng không vờ nhũn nhặn, nghênh ngang hỏi Tống "Ngươi cũng đi thi à?”. Tống đáp "Không phải, ta tài năng kém cỏi nên không có chí bay nhảy đã lâu. Sinh lại hỏi quê quán, Tống đáp, sinh nói "Không có ý tiến thủ như thế đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây không có một ai đáng là bậc thông giả". Tống đáp “Người phương Bắc vốn ít kẻ thông tuệ, nhưng kẻ không thông chưa chắc đã là tiểu sinh, người phương Nam vốn nhiều bậc thông tuệ, nhưng bậc thông giả cũng chưa chắc đã là túc hạ". Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa cười ầm lên.
Sinh xấu hổ tức giận, trợn mắt giữ áo lớn tiếng hỏi "Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?". Tống không thèm nhìn, nhếch mép cười nhạt nói “Có gì mà không dám", rồi lấy sách đưa Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu "Ở Khuyết Lý, trẻ con đem mệnh". Sinh đứng dậy tìm giấy bút, Tống kéo lại, bảo "Đọc miệng cũng được. Ta đã làm xong câu phá đề thế này “Ở chỗ tân khách qua lại mà gặp một kẻ không biết gì”. Vương ôm bụng cười sằng sặc, sinh tức giận nói "Toàn là bọn không biết làm văn, chỉ bày trò để xỏ xiên, không đáng là người!". Vương ra sức can ngăn, xin tìm đề khác hay hơn. Lại lật trang khác đọc "Thời Ân có ba người nhân". Tống ứng khẩu đọc luôn "Ba vị tuy đạo bất đồng nhưng cùng theo một điều. Điều ấy là gì? Là điều nhân vậy. Bậc quân tử chỉ cần làm điều nhân là được rồi, cần gì phải đồng". Sinh bèn không làm nữa, đứng dậy nói "Cũng là hạng có tài vặt" rồi bỏ đi.
Vương vì thế càng trọng Tống, mời vào trong phòng, chuyện trò đến tối, đưa hết văn bài ra hỏi Tống. Tống đọc rất nhanh, hơn một khắc đã hết trăm bài, nói “Ông cũng là kẻ đã sâu sắc trong nghiệp này, nhưng lúc làm văn vẫn không có cái chí nhất định phải hơn người mà còn cái lòng cầu may, nên đã rơi xuống hạng kém". Rồi lấy những bài đã đọc qua bình phẩm tường tận, Vương thích lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía nấu chè xôi nước mời. Tống ăn khen ngon, nói "Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm khác lại làm cho", từ đó hai người càng thân thiết. Tống cứ năm ba ngày lại tới một lần, Vương lại sai nấu chè xôi nước.
Thư sinh người Dư Hàng thỉnh thoảng cũng gặp, tuy không trò chuyện thân mật nhưng dần dần cũng bớt ngạo nghễ, một hôm đem văn bài đưa Tống xem, trong đó bè bạn đã khuyên son chi chít, Tống chỉ liếc mắt nhìn qua rồi đẩy ra góc bàn không nói một câu. Sinh ngờ Tống chưa đọc lại giục, Tống nói đọc rồi, sinh lại ngờ là không hiểu, Tống nói "Có gì khó hiểu đâu, chỉ là không hay thôi”. Sinh hỏi "Mới nhìn qua những chỗ khuyên son, sao biết là không hay?". Tống liền đọc to lên như đã học thuộc lòng, đọc xong lại chê. Sinh sợ toát mồ hôi, im lặng bỏ đi. Lát sau Tống về rồi sinh lại vào, nài nỉ Vương cho xem văn, Vương không chịu. Sinh cứ lục bừa tìm được quyển văn của Vương, thấy có nhiều chỗ khuyên son, cười nói "Những cái này to như viên xôi nước". Vương cố nén giận chỉ trừng mắt nhìn.
Hôm sau Tống tới, Vương kể lại mọi chuyện, Tống nổi giận nói "Ta cứ cho rằng y đã chịu thua, mà sao thằng ngu ấy còn dám như thế? Thế nào cũng phải cho biết tay". Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên Tống, Tống cảm phục lắm. Kế thi xong, Vương đem văn bài đưa Tống, Tống hẹn sẽ đọc, tình cờ cùng dạo xem điện gác trong chùa, thấy một nhà sư mù ngồi dưới hành lang bày thuốc ra bán. Tống kinh ngạc nói "Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi xét văn, không thể không thỉnh giáo một lần, rồi bảo Vương về nhà lấy văn, gặp thư sinh người Dư Hàng bèn đưa nhau cùng tới.
Vương gọi nhà sư rồi lạy chào, nhà sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh. Vương thưa rõ ý xin thỉnh giáo, nhà sư cười nói “Ai mà nhiều chuyện thế? Ta không có mắt, làm sao bàn luận văn chương”. Vương xin dùng tai thay mắt, nhà sư nói “Ba bài hơn hai ngàn chữ, ai mà nghe nổi? Thôi cứ đốt lên, ta ngửi bằng mũi cũng được". Vương theo lời, cứ đốt bài nào nhà sư lại ngửi rồi gật gù nói “Ông bắt đầu học theo các bậc đại gia, tuy chưa đúng hệt nhưng cũng gần giống, ta đang nhận bằng dạ dày". Vương hỏi "Có được không?”, nhà sư đáp "Cũng tạm được". Thư sinh người Dư Hàng chưa tin lắm, lấy văn của bậc đại gia cổ đốt lên trước để thử, nhà sư hít mấy lần rồi nói "Hay quá! Văn này thì ta phải nhận bằng tâm, không phải là Quy Hồ* thì ai mà làm nổi”. Sinh cả sợ, lúc ấy mới đốt văn mình. Nhà sư nói "Mới thấy được một phần, chưa biết được toàn thể, sao bỗng có văn người khác chen vào đây?". Sinh nói thác rằng "Đó là văn của bạn bè, chỉ có một bài ấy, đây mới là văn của tiểu sinh". Nhà sư ngửi lại mớ tro, ho sặc lên mấy tiếng, nói "Thôi đừng đốt nữa? Nó cứ lục cục lòn hòn không sao xuống được, phải gắng gượng nhận bằng lá cách, đốt nữa thì ói mửa ra mất", sinh thẹn thùng chào về.
*Quy Hồ: tức Quy Hữu Quang, Hồ Hữu Tín, hai người nổi tiếng về văn bát cổ thời Thanh.
Mấy hôm sau ra bảng, sinh đỗ Hương cống còn Vương trượt. Tống và Vương tới báo tin, nhà sư than "Ta tuy mù mắt nhưng mũi không mù, còn các vị khảo quan thì mù cả mũi". Lát sau thư sinh người Dư Hàng tới, vênh vang nói "Này hòa thượng mù, người cũng ăn chè xôi nước của người ta hả? Bây giờ tính sao?". Nhà sư cười đáp !Ta bàn về văn chứ không bàn với anh về mệnh. Anh cứ thử tìm văn các quan chấm trường tới đây đốt của mỗi người một bài, ta có thể nói ai là thầy anh”. Sinh và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Sinh hỏi "Nếu đoán sai thì chịu phạt thế nào?”, nhà sư tức tối đáp "Thì cho ngươi móc con mắt thong manh của ta đi!". Sinh bèn đốt văn, hết một bài nhà sư lại nói không phải, tới bài thứ sáu chợt quay vào vách nôn ọe, đánh rắm bồm bộp. Mọi người đều cười ầm, nhà sư lau mắt quay qua sinh nói "Đúng là của thầy anh rồi! Lúc đầu ta không biết nên hít vội quá, nó đâm vào mũi, xói vào bụng, quả cật cũng không sao nhận được nên cứ thẳng theo đường hậu môn mà ra". Sinh cả giận bỏ đi, nói "Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!".
Qua hai ba hôm cũng không thấy tới, xem lại thì đã dọn đi ở chỗ khác, mới biết y đúng là môn sinh của viên quan chấm trường ấy. Tống an ủi Vương, nói "Phàm người đọc sách chúng ta không nên cầu hơn người mà cần nghiêm với mình. Không cầu hơn người thì đức càng rộng, biết nghiêm với mình thì học mới tiến. Mới đây ông thi rớt là vì vận số chưa tới, nhưng công bằng mà bàn thì văn của ông cũng chưa thật chín, cứ theo đó mà rèn luyện thì thiên hạ vẫn có người không mù”. Vương kính cẩn nghe theo, kế nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương nên không về quê mà ở lại học. Tống khuyên "Ở kinh đô gạo châu củi quế nhưng đừng lo chuyện tiền bạc. Sau nhà có hầm vàng, có thể đào lấy mà dùng", rồi chỉ chỗ. Vương từ tạ nói "Xưa Đậu Phạm* nghèo mà vẫn giữ được điều liêm, nay ta may còn đủ ăn, đâu dám tự làm nhơ danh".
*Đậu Phạm: tức Đậu Nghi và Phạm Trọng Yêm thời Tống. Đậu Nghi lúc trẻ nghèo khó, có Kim tinh (tinh vàng bạc) hiện hình đùa cợt nhưng không động tâm. Phạm Trọng Yêm lúc trẻ tới ngụ ở chùa Lễ Tuyền đọc sách, mỗi ngày chỉ ăn một bát cháo, nhưng một hôm tình cờ đào được hầm bạc chôn mà lấp lại không lấy, sau làm Tây súy các sư tới xin làm công đức sửa chùa, bèn chỉ chỗ cho họ đào lên.
Một hôm Vương đang ngủ say, người hầu và người nấu bếp lén ra đào trộm, Vương sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng động rón rén ra xem thì vàng đã chất đống trên mặt đất, hai người thấy đã bị lộ cùng quỳ mọp xin tha tội. Vương đang trách mắng chợt thấy trong đó có nhiều cái chén vàng cùng một kiểu có khắc chữ, nhìn kỹ thì đều là tên húy ông nội mình. Té ra ông nội Vương từng giữ chức Nam bộ lang, lúc vào kinh nhận chức từng ngụ ở đó, bị bệnh nặng mà chết, số vàng ấy là của ông để lại. Vương mừng rỡ, đem cân thử được hơn tám trăm lượng, hôm sau kể lại cho Tống nghe, lại đưa cái chén vàng cho xem, muốn cùng chia với Tống, Tống từ chối mãi mới thôi. Lại đem một trăm lượng tới tặng nhà sư mù, nhưng nhà sư đã đi mất.
Suốt mấy tháng Vương ra sức học hành, đến kỳ thi, Tống nói "Khoa này mà ông không đỗ thì thật đúng là do mệnh", kế Vương phạm trường quy bị đánh rớt. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã không kìm được bật khóc nức nở, Vương lại phải an ủi khuyên giải. Tống nói “Ta bị tạo vật ghen ghét, lận đận suốt đời, nay lại làm lụy cho cả bạn tốt, đó là mệnh vậy, đó là mệnh vậy!". Vương nói "Muôn việc đều là có số, nhưng như tiên sinh là không có chí tiến thủ chứ không phải là mệnh". Tống gạt lệ nói "Lâu nay đã muốn nói ra nhưng chỉ e ông ngờ sợ, chứ thật ra ta không phải là người sống mà là hồn ma phiêu bạt. Lúc trẻ mang tài danh mà không được đắc chí nơi trường ốc nên giả cuồng lên kinh đô, gặp người tri kỷ dạy văn chương cho, gặp nạn năm Giáp thân (1644)*, lưu lạc theo tháng năm. Nay may được thương yêu nên cố gắng giúp rập để mượn sức bạn bè, cái ước nguyện chưa đạt được lúc bình sinh thật ra muốn nhờ bạn hiền thực hiện một lần cho khoái ý thôi. Nay tai ách của nghiệp văn chương lại như thế ai mà cầm lòng cho được". Vương cũng cảm động khóc hỏi sao lâu thế mà còn chưa đầu thai, Tống đáp "Năm rồi Thượng đế có mệnh ủy cho đức Tuyên Thánh và Diêm La vương tra xét các hồn ma, loại khá thì giao về các ty tào bổ dụng, số còn lại cho đi đầu thai. Ta đã được chọn bổ dụng, sở dĩ chưa đi là vì muốn được thấy cái thú tranh chiếm bảng vàng một lần thôi, nay xin từ biệt".
*Nạn năm Giáp thân: tức năm Giáp thân 1644, Mãn tộc đánh chiếm Bắc Kinh, bắt đầu lập ra triều Thanh thay triều Minh thống trị Trung Hoa.
Vương hỏi được khảo xét bổ dụng chức gì, Tống đáp "Phủ Tử Chàng khuyết chức Tư văn lang, ấn triện tạm giao cho nha Tủng Đồng giữ nên văn vận vì thế điên đảo. Nếu ta may mắn được giữ chức ấy thì nhất định sẽ làm cho văn giáo được sáng ngời thịnh vượng". Hôm sau hớn hở tới nói "Được toại nguyện rồi. Đức Tuyên Thánh sai ta làm bài Luận về tính và đạo xem xong có vẻ vui mừng, nói ta có thể coi việc văn chương. Diêm La xem lại sổ toan bỏ không dùng vì tội khẩu nghiệt, đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, ta mới được duyệt. Ta lạy tạ xong người lại gọi tới cạnh bàn dặn "Nay ta thương tài thăng cho giữ chức thanh cao quan trọng, phải sửa lòng nhận chức chớ mắc vào tội lỗi cũ. Xem thế đủ biết cõi âm coi trọng đức hạnh còn hơn cả văn học. Ông tu sửa đức hạnh ắt cũng chưa tới được chỗ trọn vẹn, nhưng đừng xao lãng việc làm điều lành là đủ rồi". Vương nói "Đúng thế, nhưng thư sinh người Dư Hàng kia thì đức hạnh tới mức nào?". Tống đáp "Điều đó ta không rõ, nhưng phải biết âm ty thưởng phạt không sai sót chút nào đâu. Như vị sư mù hôm trước cũng là một hồn ma thôi. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời dùng giấy bút quá hoang phí nên bị phạt mù. Ông ta muốn chữa bệnh cho người để chuộc lỗi trước nên đi khắp các nơi". Vương sai bày tiệc, Tống nói “Không cần đâu, ta đã quấy rầy suốt năm rồi, giờ phút cuối cùng này cứ nấu cho món chè xôi nước là được". Vương buồn rầu không ăn chỉ ngồi mời mọc, giây lát Tống ăn hết ba bát to, ôm bụng nói “Ăn bữa này đủ no ba ngày, ta đã ghi nhớ ơn ông rồi. Những cái trước nay ta ăn đều ở sau nhà, đã mọc nấm cả, cất đi làm thuốc có thể giúp cho trẻ con thông tuệ". Vương hỏi hậu vận, Tống đảp “Đã nhận quan chức nên không tiện nói". Vương lại hỏi "Nếu tới đền thờ Tử Chàng cúng tế khấn khứa, tiên sinh có biết không?”. Tống đáp “Việc đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nhưng nếu ông giữ mình trong sạch, hết sức làm điều lành thì tự nhiên sẽ có tờ tư báo của âm ty, lúc ấy ta sẽ cho biết”. Nói xong từ biệt rồi biến mất.
Vương xem sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi, cạnh đó tự nhiên có nấm đất mọc lên như ngôi mồ mới, mà những viên xôi nước nằm sờ sờ ở đó Vương về quê giữ mình hết sức nghiêm cẩn, một đêm mơ thấy Tống đi kiệu có lọng che tới nói "Trước đây ông có lần vì cơn giận nhỏ lỡ tay giết chết một người tỳ nữ nên bị xóa sổ lộc. Nay gắng sửa mình đã được trừ bớt tội, nhưng phúc mệnh quá mỏng nên không thể làm quan". Năm ấy Vương thi đỗ Hương cống, năm sau lại thi dỗ Tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vương sinh được hai trai, đứa đầu vô cùng ngu độn, cho ăn nấm lại trở nên hết sức thông minh. Về sau Vương có việc đi Kim Lăng, gặp thư sinh Dư Hàng trên đường, cùng Vương chuyện trò thân mật, thái dộ cực kỳ khiêm cung, nhưng râu tóc đã bạc trắng cả.
Dị Sử thị nói: Thư sinh Dư Hàng công nhiên tự phụ là cậy vào văn chương, ắt không phải không có bài nào hay, nhưng kiêu càng khinh người hiện ra nét mặt thì trong giây phút cũng khiến ngườỉ ta không nhịn được. Trời người cùng ghét điều đó đã lâu, nên quỷ thần đều đùa cợt. Nếu sửa được nết xấu ấy thì những quan chấm thi có loại văn chọc vào mũi xóc vào lòng rất dễ gặp, sao lại tao ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi!
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 213 -
Lữ Vô Bệnh
(Lữ Vô Bệnh)
Công tử họ Tôn ở huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) tên Kỳ, cưới con gái quan Thái sử họ Tưởng, vợ chồng rất tương đắc. Năm hai mươi tuổi nàng chết, Tôn đau buồn khôn xiết, rời nhà vào ở một sơn trang trong núi. Một hôm mưa dầm nằm ngủ trưa, trong phòng không có ai khác, chợt thấy dưới màn ngoài giường lộ ra đôi bàn chân đàn bà, ngạc nhiên lên tiếng hỏi. Thấy một cô gái vén màn bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, y phục mộc mạc sạch sẽ, nhưng da hơi đen mà mặt rỗ, có vẻ là con gái nhà nghèo. Tôn cho là người trong thôn tới thuê nhà bèn quát “Cần gì thì nói với bọn gia nhân ngoài kia, chứ đâu có phép đi bừa vào đây?”. Cô gái mỉm cười nói “Thiếp không phải là người trong thôn mà quê ở tỉnh Sơn Đông, họ Lữ, cha là học trò. Thiếp tiểu tự là Vô Bệnh, theo cha tới ngụ ở đất khách nhưng không được cha mẹ nuôi dạy đã lâu. Vì hâm mộ công tử là danh sĩ thế gia, nên nguyện làm tỳ nữ lo việc hầu hạ nghiên bút”. Tôn cười nói “Ý nàng rất hay, nhưng ở đây có đủ hạng tôi tớ ở chung, rất là bất tiện, cứ trở về làng ta sẽ đưa kiệu mang lễ vật tới đón". Cô gái có vẻ không bằng lòng, nói "Thiếp tự biết mình hèn mọn, đâu dám mong nhận lễ trọng, chỉ mong được sai phái trước án thư, chắc cũng không đến nỗi bưng ngược sách". Tôn nói “Thu nạp tỳ nữ cũng cần ngày tốt", rồi chỉ lên giá sách bảo lấy bộ Thông thư, quyển tư để thư tài. Cô gái tìm thấy, giở ra xem trước rồi trình lên cười nói “Hôm nay không có hung tinh Hà Khôi chiếu vào phòng”. Tôn hơi động lòng bèn cho ở lại trong phòng.
Cô gái không có việc gì làm bèn quét bàn xếp sách, đốt trầm lau đỉnh, phòng sách trở nên sáng sủa sạch sẽ Tôn rất vừa lòng. Đến tối bảo qua chỗ khác ngủ, cô gái ngước nhìn rồi chớp mắt, càng ân cần phục dịch. Bảo đi ngủ mới vâng dạ cầm nến bước ra. Nửa đêm Tôn chợt tỉnh thấy cạnh giường như có ai nằm, đưa tay sờ biết là cô gái bèn lay gọi. Cô gái giật mình choàng dậy đứng trước giường, Tôn hỏi "Sao không đi ngủ chỗ khác? Dưới giường đâu phải là chỗ ngươi nằm?". Cô gái nói “Thiếp hay sợ lắm". Tôn thương xót, bảo mang gối lên giường nằm. Chợt nghe hơi thở lan tới thơm ngát như nhụy sen, lấy làm lạ gọi xích lại nằm chung gối, bất giác rung động dần dần kéo vào nằm chung chăn, rất vừa ý. Nhưng lại nghĩ giấu diếm không phải là kế hay, lại ngại nếu cùng về nhà thì miệng đời dị nghị. Tôn có bà dì ở cách đó hơn mười căn, bàn với cô gái bảo tới náu ở đó rồi sau đó sẽ cho kiệu tới đón. Cô gái khen hay, nói "Bà dì thì thiếp quá quen, không cần phải tới thưa trước, thiếp xin đi ngay”. Tôn đưa nàng ra, cô gái leo qua tường mà đi. Dì của Tôn ở góa, sáng sớm hôm ấy ra mở cửa thì cô gái bước vào. Bà già hỏi, nàng đáp "Cháu trai bà sai con tới thăm dì. Công tử muốn về nhà nhưng đường xa thiếu ngựa nên gởi con ở đây vài hôm”. Bà già tin lời bèn giữ cô gái ở đó.
Tôn về nhà, bịa rằng dì có một tỳ nữ muốn tặng, rồi sai người tới đón cô gái về, ăn ngủ gì cũng có nhau, lâu ngày càng khắng khít, nhận làm vợ lẽ. Các nhà thế gia bắn tin gả con gái cho mà Tôn đều chối từ cho rằng có Vô Bệnh là thỏa nguyện rồi. Nàng biết ý, hết lời khuyên Tôn cưới vợ, Tôn bèn cưới con gái nhà họ Hứa song rốt lại vẫn say mê Vô Bệnh. Hứa rất hiền, không bao giờ giành chồng buổi tối, mà Vô Bệnh hầu hạ Hứa ngày càng thêm kính cẩn, nhờ vậy lớn bé đều thuận hòa. Hứa sinh một con trai đặt tên là A Kiên, Vô Bệnh yêu thương bồng bế như con mình. Đứa nhỏ được ba tuổi cứ rời vú nuôi là theo ngủ với Vô Bệnh, Hứa gọi cũng không chịu đi. Không bao lâu Hứa mắc bệnh rồi chết, lúc lâm chung trối với Tôn rằng "Vô Bệnh rất thương con, cho dì ấy nuôi làm con thì được, mà đưa dì ấy lên bậc chính thất cũng được". Chôn cất xong, Tôn định làm theo lời vợ bèn bàn với họ hàng nhưng mọi người đều nói là không nên, Vô Bệnh cũng khăng khăng từ chối, Tôn bèn thôi.
Ở huyện có con gái quan Tể tướng họ Vương vừa góa chồng cho người tới đánh tiếng. Tôn vốn không muốn cưới vợ nữa nhưng họ Vương nói mấy lần, người mối lại khen nàng đẹp, họ hàng bên Tôn cũng thích nhà quyền thế nên cùng khuyên nhủ, Tôn xiêu lòng bèn cưới. Người đàn bà quả rất đẹp nhưng vô cùng kiêu căng, quần áo vật dùng được ít lâu cứ chán là hủy hoại vứt bỏ, Tôn vì nể nang nên không nỡ làm phật ý. Về được vài tháng thì giành cả yêu đương chăn gối về mình, còn cứ thấy Vô Bệnh gặp Tôn thì cười khóc gì cũng kiếm chuyện rồi giận lây qua cả chồng, mấy lần cãi vã đánh nhau. Tôn sợ rầy rà nên nhiều đêm ngủ riêng, người đàn bà lại tức giận. Tôn chịu không nổi, tìm cớ lên kinh đô để tránh nạn vợ dữ, người đàn bà lại lấy việc chồng đi xa đổ lỗi cho Vô Bệnh. Vô Bệnh hết sức hầu hạ, nín hơi im tiếng để lấy lòng mà rốt lại nàng ta vẫn không vừa ý. Đêm bảo Vô Bệnh vào ngủ dưới đất, đứa nhỏ cũng chạy theo vào ngủ chung, cứ gọi Vô Bệnh dậy sai khiến là nó lại khóc. Người đàn bà chửi mắng, Vô Bệnh vội gọi người vú nuôi vào bế đi, đứa nhỏ cưỡng lại kêu gào. Người đàn bà tức giận vùng dậy nắm lấy đánh túi bụi, nó mới chịu để người vú bế đi.
Đứa nhỏ vì vậy sợ hãi thành bệnh bỏ ăn, người đàn bà cấm Vô Bệnh không được để nó thấy mặt, đứa nhỏ kêu khóc cả ngày. Người đàn bà quát chị vú bảo vứt nó xuống đất, đứa nhỏ hết hơi khan tiếng đòi uống nước, người đàn bà cấm không cho. Chiều tối Vô Bệnh chờ lúc người đàn bà không có ở đó, lén ra cho đứa nhỏ uống nước, đứa nhỏ thấy nàng hất nước nắm lấy vạt áo khóc nức nở không thôi. Người đàn bà nghe thấy hằm hằm bước ra, đứa nhỏ nghe tiếng nín bặt, giãy mạnh một cái rồi tắt thở. Vô Bệnh khóc òa lên, người đàn bà nổi giận nói “Con tiện tỳ xấu xí định lấy chuyện con chết mà chẹt ta à? Đừng nói gì là đồ lót tã nhà họ Tôn, cho dù có giết chết thế tử nhà vương gia thì con gái của Tễ tướng họ Vương này cũng dám chịu. Vô Bệnh nén giận gạt nước mắt, xin mua quan tài chôn cất, người đàn bà không cho, sai đem vứt nó đi ngay. Người đàn bà đi rồi, nàng lén vỗ về đứa nhỏ, thấy tứ chi còn ấm, bèn nói thầm với người vú "Ngươi đem nó đi mau ra đồng chờ một lát, ta sẽ tới ngay. Nếu nó chết thì cùng chôn lấp, nếu nó sống thì cùng săn sóc", người vú vâng dạ. Vô Bệnh vào phòng lấy trâm xuyến giắt vào người đi ra, đuổi kịp người vú, cùng nhìn đứa nhỏ thì nó đã sống lại. Hai người mừng rỡ bàn nhau tới sơn trang trong núi nương tựa bà dì của Tôn. Người vú lo nàng chân nhỏ khó đi, Vô Bệnh bèn đi rảo lên trước cho xem, bước nhanh như gió, chị ta hết sức chạy theo mới kịp. Khoảng canh hai, bệnh đứa nhỏ trở nên nguy ngập không thể đi được nữa bèn rẽ vào một thôn cạnh đường, tới nhà một ông già làm ruộng, ngồi dựa vào cổng chờ sáng rồi gõ cửa hỏi mướn phòng, bán trâm xuyến lấy tiền rước đủ thầy cúng thầy thuốc mà rốt lại đứa nhỏ vẫn không khỏi bệnh. Vô Bệnh ôm mặt khóc nói “Vú chịu khó chăm sóc đứa nhỏ này, để ta đi tìm cha nó". Người vú còn đang ngờ là nói bậy thì nàng đã biến mất, vô cùng kinh hãi.
Hôm ấy, Tôn ở kinh đô, vừa thiu thiu ngủ trên giường thì Vô Bệnh lặng lẽ bước vào. Tôn giật mình nhỏm dậy nói "Vừa ngủ mà nàng đã hiện vào giấc mộng sao?” Nàng cầm tay Tôn nghẹn ngào, giẫm chân không nói nên lời, hồi lâu mới thất thanh nói "Thiếp trải trăm cay nghìn đắng, đem con trốn tới đất Dương” chưa dứt lời thì bật tiếng khóc lớn, ngã lăn ra biến mất. Tôn sợ quá nhưng vẫn ngờ là nằm mơ, gọi người hầu cùng tới xem thì quần áo giày tất vẫn còn rõ ràng, lạ lùng không hiểu nhưng lập tức thu xếp hành trang về ngay trong đêm. Về tới nhà nghe việc con chết thiếp trốn, Tôn đấm ngực đau thương, mắng chửi vợ kế. Người đàn bà mồm năm miệng mười cãi lại, Tôn căm tức rút dao ra, bọn tớ gái xúm vào cứu, Tôn không sấn tới gần được, từ xa phóng dao tới, sống dao trúng vào trán người đàn bà. Người đàn bà toác trán phun máu, xõa tóc gào thét chạy ra cổng, định về mách với gia đình. Tôn kéo trở vào, vác gậy đập túi bụi, người đàn bà quần áo rách tả tơi, đau quá không động đậy nổi. Tôn sai khiêng vào phòng chăm sóc, chờ khi nào bình phục sẽ đuổi về. Các anh em trai của người đàn bà nghe tin tức giận kéo người ngựa tới cổng, Tôn cũng họp bọn tôi tớ khỏe mạnh cầm khí giới ra chặn, hai bên chửi mắng nhau đến tối mới tan.
Họ Vương chưa vừa ý bèn thưa kiện, Tôn đem đầy tớ hộ vệ lên huyện, tự tới đối chất, trình bày tội ác của vợ kế. Quan huyện không thể khuất phục bèn đưa tới học quan trừng phạt cho Vương hài lòng. Học quan Chu tiên sinh là con nhà thế gia, tính ngay thẳng không xu phụ, hỏi rõ được sự tình nổi giận nói "Quan trên tuởng ta là thứ học quan tham lam hèn mạt trong thiên hạ, quen đòi loại tiền thương luân bại lý để hút mủ liếm trĩ à? Cái tướng ăn mày ấy ta vốn không làm được nên không dám tuân lệnh! Tôn công nhiên trở về, Vương không làm gì được bèn nhờ bạn bè ngỏ ý điều đình, muốn chàng tới nhà xin lỗi một lần, nhưng Tôn không chịu, bên kia qua lại cả chục lần cũng không đổi ý. Người đàn bà dần dần bình phục, Tôn muốn đuổi về nhưng sợ họ Vương không chịu nhận, lần lữa rồi cũng ở yên.
Tôn vì thiếp mất con chết, sớm tối đau lòng, nghĩ rằng nếu tìm được người vú sẽ rõ hết sự tình, lại nhớ Vô Bệnh đã nói là trốn tới đất Dương. Gần đó có thôn họ Dương trồng đay, Tôn ngờ là ở đó, tìm tới hỏi thăm nhưng không ai biết cả. Có người nói cách đấy năm mươi dặm có một đất Dương Cốc, Tôn sai người cỡi ngựa tới hỏi thăm, quả nhiên tìm ra. Lúc ấy đứa nhỏ đã dần dần bình phục, gặp nhau đều mừng rỡ, cưỡi chung ngựa về. Đứa nhỏ từ xa nhìn thấy cha òa lên khóc lớn, Tôn cũng rơi nước mắt. Người đàn bà nghe đứa nhỏ còn sống, giận dữ chạy ra định chửi mắng. Đứa nhỏ đang khóc, mở mắt nhìn thấy người đàn bà hoảng sợ nhào vào lòng cha như tìm chỗ trốn, bế lên nhìn lại thì đã chết ngất, vội vàng lay gọi, hồi lâu mới tỉnh. Tôn căm tức nói "Không biết là tàn ác tới mức nào mà khiến thằng nhỏ tới nỗi này?". Bèn làm tờ ly hôn đưa về, quả Vương không nhận, sai cáng trả lại Tôn. Tôn không biết làm sao, bèn thu xếp cho hai cha con ở riêng, không gặp gỡ người đàn bà. Người vú thuật lại việc Vô Bệnh, Tôn mới biết rằng nàng chỉ là hồn ma, cảm nghĩa bèn đem chôn áo quần giày tất, đề trên bia rằng “Mộ của người vợ ma Lữ Vô Bệnh”. Không bao lâu người đàn bà sinh được một trai, tự tay bóp cổ đứa nhỏ chết. Tôn càng phẫn uất, lại đuổi về, Vương lại sai cáng trả lại. Tôn không còn cách nào bèn làm đơn tố cáo lên quan trên, nhưng họ đều nể mặt Tễ tướng nên không xét tới. Sau Tễ tướng chết, Tôn cứ thưa kiện không thôi họ mới bắt người đàn bà phải về nhà mẹ.
Tôn từ đó không lấy vợ nữa, chỉ cưới thiếp. Người đàn bà bị đuổi, tiếng dữ ngày càng đồn xa, ba bốn năm không ai dạm hỏi, bắt đầu hối hận nhưng không còn kịp nữa. Có bà tớ cũ nhà Tôn tình cờ ghé qua, người đàn bà tiếp đãi niềm nở, trước mặt bà ta sa lệ, xem tình ý có vẻ như nhớ chồng cũ. Bà già về kể lại với Tôn, Tôn cười làm ngơ. Hơn năm sau mẹ người đàn bà lại chết, trơ trọi không nơi nương tựa, các chị em dâu đều không ưa nên càng bơ vơ, ngày ngày cứ rơi nước mắt. Có một người học trò nghèo chết vợ, anh người đàn bà bàn cho nhiều của hồi môn để tái giá mà người đàn bà không chịu, cứ lén nhờ người đi lại ngỏ ý với Tôn, khóc lóc nói rằng đã hối hận nhưng Tôn không nghe, trước sau vẫn làm ngơ.
Một hôm người đàn bà sai một tỳ nữ dắt trộm lừa cưỡi qua nhà Tôn, Tôn mới từ trong nhà bước ra, người đàn bà bước tới chào hỏi, quỳ xuống dưới thềm khóc lóc không thôi. Tôn muốn bỏ đi, người đàn bà níu áo, lại quỳ xuống. Tôn từ chối, nói "Nếu ở lại với nhau mà không có chuyện gì đã đành, chứ một sáng có chuyện thì anh em của cô dữ như cọp, há lại chịu sao?". Người đàn bà nói "Thiếp trốn tới đây, không có lẽ nào mà quay về, nếu chàng cho thì ở lại, không cho thì chỉ còn cách chết”. Lại nói “Thiếp về với chàng năm hai mươi mốt tuổi, đến hai mươi ba bị đuổi, thật là ác đủ mười phần, nhưng chẳng lẽ không có một phần tình sao?”. Rồi cởi cái vòng vàng trên cổ tay, so hai bàn chân, đút vào cái vòng, lấy tay phủ lên, nói "Lời thề hương lửa lúc trước, chàng nỡ không nhớ tới sao?”. Tôn bèn rưng rưng nước mắt, sai người đỡ lên dìu vào nhà, nhưng vẫn ngờ là họ Vương gian trá, muốn được anh em người đàn bà nói một câu làm bằng.
Người đàn bà nói "Thiếp trốn nhà đi, còn mặt mũi nào cầu cạnh anh em nữa? Nếu không tin nhau thì thiếp có mang sẵn dao để tự sát, xin cắt ngón tay để tỏ lòng". Rồi rút dao sắc trong lưng ra bước lại cạnh giường kê một ngón tay trái lên chặt đứt, máu phun vọt ra. Tôn cả sợ vội băng bó cho, người đàn bà đau tái cả mặt nhưng không hề rên rỉ, cười nói "Thiếp nay đã tỉnh mộng, chỉ muốn mượn một gian phòng nhỏ làm cách tu hành, chàng nghi ngờ làm gì?”. Tôn bèn bảo con trai và người thiếp ở riêng một nơi, mình thì sớm tối qua lại hai bên, hàng ngày tìm thuốc chữa vết thương ngón tay cho vợ, hơn một tháng thì lành. Người đàn bà từ đó không ăn mặn, đóng cửa tụng kinh niệm Phật mà thôi. Lâu sau thấy việc nhà bê trễ bèn nói với Tôn rằng "Thiếp tới đây lần này, vốn muốn gác mọi việc ra không hỏi gì tới, nhưng nay thấy trong nhà ăn tiêu như thế, e rằng con cháu về sau có đứa phải chết đói, không còn cách nào nên phải mặt dày ra coi sóc vậy". Rồi họp đám tớ gái lại giao cho đánh sợi dệt vải, hẹn ngày giao nộp. Đám tôi tớ thấy tự xin về ở nên coi thường, lúc vắng người cứ xúm lại chê cười mai mỉa nhưng người đàn bà làm như không biết gì cả. Đến khi tính công, ai lười nhác thì roi vọt không tha, mọi người mới sợ hãi. Lại buông rèm ngồi bên trong tính toán sổ sách với các người quản sự, rạch ròi chặt chẽ. Tôn bèn cả mừng, bảo con trai và người thiếp sáng sáng qua thăm hỏi.
Năm ấy A Kiên chín tuổi, người đàn bà càng lưu tâm chăm sóc, buổi sáng nó đi học rồi thường để dành quà bánh đợi nó về cho ăn, đứa nhỏ cũng dần đần yêu mến gần gũi. Một hôm nó cầm đá ném chim sẻ, vừa lúc người đàn bà đi ngang, trúng ngay đầu ngã ra đất, hơn một khắc vẫn chưa nói được. Tôn cả giận lấy roi đánh con, người đàn bà tỉnh dậy, hết sức can ngăn, lại mừng rỡ nói “Trước kia thiếp ngược đãi con, trong lòng lúc nào cũng áy náy, nay thì may đã được trừ bớt một tội". Tôn càng yêu dấu, nhưng người đàn bà thường không chịu, bảo tới ngủ chỗ người thiếp. Được vài năm, sinh nở mấy lần đều bỏ cả, nói “Đây là quả báo cái tội giết con ngày trước đấy". Khi A Kiên đã cưới vợ, thì việc ngoài giao con trai, việc nhà giao con dâu. Một hôm nói "Ngày ấy tháng ấy thiếp sẽ chết”, Tôn không tin, người đàn bà bèn tự lo sắm quan tài vải liệm. Đến ngày ấy nàng thay y phục nằm vào quan tài mà chết, sắc mặt vẫn như lúc sống. Có mùi hương lạ thơm ngát cả phòng, khi liệm xong mới dần dần tan hết.
Dị Sử thị nói:Trong lòng ưa thích vốn không phải là ở chỗ xấu đẹp Như Mao Tường Tây Thi, biết đâu chỉ có kẻ không tự yêu mình mới cho là đẹp? Nhưng nếu không gặp phải người hung dữ ghen tuông, thì sự hiền thục không thể bộc lộ rõ ràng cho những kẻ ưa thích hâm mộ cùng vui cười được. Đến như người lầu son gác tía kia, túc căn vốn dày nên mới có thể đột nhiên tỉnh ngộ, chứng quả Bồ đề, chứ trong cõi địa nguc kia toàn là kẻ giàu sang nhưng chưa từng trải qua gian khổ vậy.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 214 -
Thôi Mãnh
(Thôi Mãnh)
Thôi Mãnh tự Vật Mãnh là con nhà thế gia ở huyện Kiến Xương (tỉnh Liêu Ninh), tính cương nghị. Lúc nhỏ đi học ở trường, bọn trẻ có đụng chạm gì tới là nắm tay đánh liền, thầy nhiều lần răn dạy vẫn không bỏ, nên tên và tự đều do thầy đặt cho*. Đến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ tuyệt luân, lại có thể chống sào dài nhảy lên mái nhà, thích giúp người rửa sạch nỗi bất bình. Vì vậy người làng đều khâm phục, những người tới nhờ vả kể lể thường chật cả nhà. Thôi đè nén kẻ mạnh, giúp đỡ người yếu không sợ oán thù, ai tỏ ý chống lại thì lập tức lấy gạch đá gậy gộc đánh luôn cho đến lúc toàn thân bầm dập, lúc đã lên cơn giận dữ thì không ai dám khuyên can. Duy thờ mẹ rất có hiếu, mẹ tới là hết giận ngay, mẹ trách mắng bao nhiêu cũng vâng vâng dạ dạ nghe lời, có điều cứ ra khỏi cửa là quên mất.
*Tên và tự đều do thầy đặt cho: “Mãnh" có nghĩa là mạnh bạo, dữ tợn, “Vật Mãnh” có nghĩa là đừng hung dữ, đây người thầy vừa có ý khuyến khích Thôi Mãnh nên mạnh dạn làm điều nghĩa nhưng vừa có ý khuyên dạy đừng hung dữ.
Láng giềng có người đàn bà ác hàng ngày ngược đãi mẹ chồng, mẹ chồng đói gần chết, con trai lén cho ăn, mụ ta biết được chữi mắng đủ điều, bốn bên hàng xóm đều nghe. Thôi giận vượt tường qua cắt hết tai mũi môi lưỡi, mụ chết ngay lập tức. Mẹ Thôi nghe tin cả sợ, gọi người láng giềng qua, hết lời năn nỉ an ủi, cưới cho một nàng hầu trẻ mới yên chuyện. Mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn, Thôi sợ quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa đã hối hận rồi, nhưng mẹ vẫn khóc không thèm nhìn tới. Vợ Thôi là Chu thị cũng quỳ xuống với chồng, mẹ bèn cầm gậy đánh rồi lấy kim thích vào cánh tay Thôi thành hình chữ thập, dùng son bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều chịu cả, mẹ mới chịu ăn cơm.
Mẹ Thôi thích nuôi các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ ăn no. Gặp lúc có vị đạo sĩ đang đứng ở cổng thì Thôi đi ngang, đạo sĩ nhìn Thôi rồi nói “Lang quân tính khí ngang tàng hung dữ, e khó giữ trọn tuổi trời, nhà tích thiện lẽ ra không nên để có chuyện như vậy". Thôi vừa nghe mẹ răn dạy, nghe thế tỏ vẻ cung kính nói “Ta cũng tự biết thế nhưng cứ gặp chuyện bất bình là không sao kìm mình được, không biết gắng sức sửa đổi có tránh được không?”. Đạo sĩ cười đáp “Khoan hãy hỏi tránh được hay không tránh được, xin cứ hỏi sửa được hay không sửa được. Cứ phải ra sức tự kìm chế, nếu thấy có thể làm được trong muôn một thì ta sẽ nói cho ông một phép giải tử”. Thôi bình sinh không tin chuyện bùa chú nên chỉ cười không đáp, đạo sĩ bèn nói "Ta vốn biết là ông không tin, nhưng lời ta nói đây không phải như lời bọn đồng cốt, làm theo cũng là có đức tốt, cho dù không có kết quả cũng không đến nỗi có hại". Thôi xin nghe, đạo sĩ bèn nói "Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cổng, nên kết giao thật hậu, đến lúc phạm tội chết thì người ấy có thể cứu được", rồi gọi Thôi bước ra chỉ cho biết người ấy, thì ra đó là đứa nhỏ con nhà họ Triệu tên Tăng Ca.
Triệu là người huyện Nam Xương (tỉnh Giang Tây), gặp năm mất mùa phải tới ngụ cư ở Kiến Xương. Thôi từ đó chơi thân với Triệu, mời tới ở nhà mình, đãi ngộ rất hậu. Tăng Ca năm ấy mười hai tuổi, lên nhà lạy mẹ Thôi làm mẹ, nhận Thôi làm anh. Đến vụ mùa đầu năm sau, Triệu đưa gia quyến về quê, từ đó không có tin tức gì. Mẹ Thôi từ khi người đàn bà láng giềng chết càng răn dạy con chặt chẽ, có ai tới kêu nài cầu cứu đều gạt đi. Một hôm em mẹ Thôi chết, Thôi theo mẹ qua viếng, dọc đường gặp mấy người trói một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa xô đẩy bắt đi mau, lại đánh đập túi bụi, người ta đứng xem chật đường, kiệu không tiến được. Thôi ra hỏi thì những người quen biết tranh nhau kể, nguyên là có con trai một vị quan lớn tên Mỗ Giáp, ngang tàng nhất vùng, thấy vợ Lý Thân xinh đẹp muốn chiếm đoạt nhưng không có cớ bèn sai người nhà dụ Thân đánh bạc, đưa tiền cho vay nhưng tính lãi rất nặng, bắt ghi cả vợ vào giấy nợ, thua hết lại cho vay tiếp, một đêm mang nợ tới mấy ngàn. Được nửa năm tính cả vốn lẫn lãi đã hơn ba mươi ngàn, Thân không sao trả được, chúng cậy đông người kéo tới bắt vợ Thân đi. Thân tới cổng kêu khóc, Mỗ giận bắt trói treo lên cây đánh đập buộc phải làm giấy cam đoan không kiện tụng.
Thôi nghe chuyện giận điên người, thúc ngựa xông lên định đánh nhau. Bà mẹ vén rèm kiệu gọi lại nói "Chà, lại thế rồi phải không!", Thôi đành thôi. Viếng tang xong về nhà cứ lầm lì không nói chuyện không ăn cơm, chỉ ngồi sững trợn mắt như có điều tức giận, vợ hỏi han gì cũng không đáp, ban đêm thì mặc cả áo ngoài nằm trên giường, trằn trọc đến sáng. Đêm sau cũng thế, mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ thế ba bốn lần, vợ không dám hỏi, chỉ nằm im nghe ngóng. Kế lại đi ra, lâu lắm mới trở vào, đóng cửa lên giường ngủ say. Đêm ấy có người giết Mỗ Giáp trên giường, phanh bụng rút ruột ra ngoài, xác vợ Thân thì trần truồng nằm dưới giường. Quan nghi là Thân, bắt lên tra hỏi, đánh đập cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân ra nhưng vẫn không chịu nhận, hơn một năm không chịu nổi cực hình phải nhận bừa, bị khép tội chết. Vừa lúc ấy mẹ Thôi chết, chôn cất xong, Thôi nói với vợ rằng !Người giết tên Giáp chính là ta, chỉ vì còn mẹ già nên không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, sao lại mình làm nên tội lại bắt kẻ khác chịu tai họa. Ta lên quan nhận tội chết đây”. Vợ sợ hãi níu áo kéo lại, Thôi dứt áo đi, tới công đường tự thú.
Quan ngạc nhiên, cùm lại giam vào ngục rồi tha Thân ra. Thân không chịu, cứ nhất định nhận tội, quan không quyết được bèn nhốt cả hai. Họ hàng đều chê trách Thân, Thân nói "Việc công tử đã làm là việc ta muốn làm mà không thể làm được. Công tử đã làm thay cho ta mà ta lại nỡ ngồi nhìn công tử chết sao? Nay cứ coi như công tử chưa ra thú là được". Rồi không chịu đổi lời khai, cố tranh tội với Thôi. Lâu sau nha môn đều biết duyên do, đuổi Thân ra khỏi ngục để Thôi chịu tội, lúc ấy đã sắp đến ngày hành hình. Vừa gặp khi có quan Bộ lang họ Triệu coi việc giảm án tới xét ngục, điểm lại danh sách tù phạm tới tên Thôi bèn đuổi hết mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào ngẩng nhìn lên thềm thì là Tăng Ca, vừa tủi vừa mừng kể thật hết sự tình. Triệu ngần ngừ hồi lâu rồi sai giam lại vào ngục như cũ, dặn ngục tốt phải đối xử tử tế, kế lấy cớ đã tự thú giảm tội cho, sung làm lính ở Vân Nam, Thân cũng đi theo để hầu hạ.
Chưa đầy một năm, được theo lệ ân xá trở về, đều là nhờ sức của Triệu. Khi Thôi đã về Thân vẫn theo không rời, thay Thôi coi sóc mọi việc làm ăn, trả tiền công thì không lấy, chỉ chú tâm xin học những thuật phi thân đánh đá, Thôi cũng đối xử rất hậu, cưới vợ cấp ruộng cho. Thôi từ đó cố gắng sửa nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay thì ràn rụa nước mắt, vì thế trong làng có ai đánh nhau thì Thân thác lời Thôi can ngăn dàn xếp chứ không cho Thôi hay. Có viên Giám sinh họ Vương là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân khắp nơi thường lui tới, nhiều nhà khá giả trong huyện bị cướp bóc, ai trái ý thì y sai bọn cướp giết ngay ngoài đường, con y cũng dâm đãng tàn bạo. Vương có một bà thím góa chồng, cha con cùng gian dâm với bà ta, vợ là Cừu thị nhiều lần can ngăn, Vương thắt cổ nàng chết. Anh em họ Cừu thưa kiện lên quan, Vương đút lót để quan buộc họ vào tội vu cáo. Họ hàm oan uất ức không có cách nào phát tiết, tới cầu cứu Thôi nhưng Thân chối từ không cho gặp. Vài hôm sau có khách, gặp lúc không có người hầu, Thôi bảo Thân pha trà, Thân im lặng đi ra nói với mọi người rằng "Ta với Thôi Mãnh chỉ là bạn bè mà theo nhau đi đày muôn dặm, không thể nói là không chí tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào còn coi như đầy tớ, thật không chịu nổi", rồi giận dữ bỏ đi.
Có người kể lại với Thôi, Thôi kinh ngạc vì Thân đổi tính nết nhưng cũng chưa lấy làm lạ. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công, Thôi quá lạ lùng, đích thân lên đối chất. Thân căm tức tranh cãi, quan cho là vô lý bèn quát đuổi về. Vài hôm sau Thân chợt đang đêm vào nhà Vương giết cả hai cha con, bà thím và đứa con dâu rồi dán giấy lên vách tự xưng tên họ, cho đuổi bắt thì đã trốn biệt tích. Nhà họ Vương nghi là do Thôi sai khiến, nhưng quan không tin. Thôi mới sực hiểu ra chuyện kiện tụng trước đây là do Thân sợ giết người sẽ làm liên lụy tới mình. Văn thư truy nã gởi khắp các châu huyện chung quanh, tìm bắt Thân rất gấp, nhưng gặp lúc giặc Sấm* chiếm kinh đô, việc ấy chìm luôn. Không bao lâu nhà Minh mất ngôi, Thân đem gia quyến về, lại thân thiết với Thôi như trước.
*Giặc Sấm: xem chú thích truyện Tố Thu.
Lúc ấy giặc cướp tụ tập khắp nơi, Vương có đứa cháu họ là Đắc Nhân tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ chiếm cứ núi non làm giặc, kéo đi cướp phá thôn xóm. Một đêm dốc cả sào huyệt kéo tới, nói là để phục thù. Gặp lúc Thôi vắng nhà, giặc đã phá cửa Thân mới biết, vượt qua tường núp trong bóng tối. Giặc tìm không thấy Thôi bèn bắt vợ Thôi, vơ vét hết của cải kéo đi. Thân trở vào, chỉ còn có một người đầy tớ, vô cùng căm giận, bèn cắt lấy vài mươi đoạn thừng, đưa người đầy tớ những đoạn ngắn còn mình giữ những đoạn dài. Dặn người đầy tớ lên sào huyệt giặc, tới lưng núi thì châm lửa vào dây thừng treo rải rác trên các bụi gai rồi bỏ đó về ngay. Người đầy tớ vâng lời đi, Thân thấy bọn giặc đều thắt dây lưng đỏ và buộc mảnh vải đỏ trên mũ, bèn bắt chước giả trang theo.
Có con ngựa cái già mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa, Thân buộc ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ ngậm tăm ra đi, tới thẳng sào huyệt giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn, Thân buộc ngựa ngoài thôn vượt tường vào, thấy bọn giặc còn nhốn nháo chưa kịp cởi gươm buông giáo, trà trộn vào hỏi han biết vợ Thôi ở chỗ tên Vương. Giây lát nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng một người báo núi phía đông có lửa, giặc cùng ngẩng nhìn, lúc đầu chỉ có một hai đốm, kế nhiều như sao sa. Thân lấy hơi kêu to "Phía đông có động!", Vương cả kinh, nai nịt dẫn quân kéo ra, Thân nhân dịp lủi ra phía sau rồi quay trở vào. Thấy có hai tên giặc canh giữ trong trướng, bèn lừa nói "Vương tướng quân quên thanh bội đao” hai tên tranh nhau tìm, Thân từ phía sau chém một tên ngã xuống, tên kia vừa ngoảnh nhìn, Thân cũng chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường ra, mở ngựa đưa dây cương dặn "Nương tử không biết đường, cứ để ngựa đi là được". Ngựa nhớ con phóng mau trở về, Thân theo sau, ra khỏi một cửa núi hẹp châm lửa vào dây thừng treo khắp nơi rồi chạy về.
Hôm sau Thôi về, cho là điều đại sỉ nhục, tức giận lồng lên, muốn một mình một ngựa tới phá giặc. Thân khuyên đừng đi, họp người làng bàn tính. Mọi người đều khiếp sợ không dám lên tiếng, khuyên lơn giảng giải ba bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi, nhưng lại không có khí giới. Vừa gặp lúc bắt được hai tên gian tế trong nhà họ hàng của Vương, Thôi định giết nhưng Thân không cho, sai hai mươi người cầm gậy gộc dàn ra trước mặt, cắt tai hai tên rồi thả về. Mọi người tức giận nói "Có một nhúm quân thế này, đang sợ giặc nó biết, mà còn khoe cho hai thằng kia thấy, nếu chúng kéo rốc cả tới thì đóng cổng làng cũng không sao giữ được!". Thân đáp “Ta đang muốn chúng kéo tới mà”. Bèn bắt giết bọn chứa giặc trong nhà, sai người ra bốn phía tìm cung nỏ súng đạn, lại lên huyện mượn hai cỗ pháo lớn.
Chập tối dẫn những người khỏe mạnh tới cửa núi, đặt pháo nhắm thẳng vào, sai hai người cầm mồi lửa núp ở đấy, dặn thấy giặc là bắn ngay. Lại qua phía đông cửa núi, chặt cây đặt trên dốc, kế cùng Thôi chia nhau mỗi người suất lĩnh một toán hơn mười người mai phục hai bên. Gần hết canh một thì nghe xa xa có tiếng ngựa hí, lén lên nhìn quả thấy giặc ồ ạt kéo tới, quân mã nối nhau kéo dài không dứt. Chờ chúng lọt hết vào hẻm núi rồi bèn sai lăn cây xuống để chặn đường về. Giây lát pháo nổ ran, tiếng la thét kêu gào vang động khe núi. Giặc vội rút lui, giẫm đạp lên nhau mà chạy, tới cửa núi phía đông không thoát ra được, chen chúc không còn khoảnh đất nào hở. Súng đạn cung nỏ hai bên dốc núi giáp công, bắn xuống như mưa, bọn giặc đứa đứt đầu đứa gãy chân, nằm chất lên nhau ngổn ngang, chỉ còn hơn hai mươi tên quỳ xuống xin tha mạng, bèn sai người trói giải về.
Kế thừa thắng tiến thẳng tới sào huyệt giặc, bọn giữ trại nghe hơi chạy tan tác, bèn tìm kiếm chở hết lương thảo tài vật đem về. Thôi mừng lắm, hỏi về kế đốt lửa, Thân đáp "Đốt lửa ở phía đông vì sợ chúng đuổi theo về phía tây, dùng thừng ngắn cho mau cháy hết vì sợ chúng dò biết là không có ai, lại đốt ở cửa núi vì chỗ đó chật hẹp, một người cũng chặn giữ được, chúng đuổi tới thấy lửa ắt sợ, đều là hạ sách nhất thời mạo hiểm mà dùng thôi”, bắt bọn giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi tới cửa núi thấy có ánh lửa nên sợ hãi rút lui. Bèn xẻo tai cắt mũi hơn hai mươi tên giặc bị bắt rồi thả về từ đó uy danh của Thôi và Thân lừng lẫy, những người lánh nạn xa gần theo về như chợ, tổ chức được hơn ba trăm dân dũng, giặc cướp các nơi không đám nào dám tới cướp bóc, cả vùng nhờ thế được yên ổn.
Dị Sử thị nói:"Nghé mạnh ắt có thể phá xe"* là nói Thôi chăng! Quả là chí khí khảng khái không ai sánh được vậy. Nhưng muốn trong thiên hạ không còn chuyện bất bình, chẳng lẽ còn định hơn cả kẻ thông đạt ư? Lý Thân thì chỉ là một người dân nhỏ mọn mà lại tới được chỗ tốt đẹp trọn vẹn, vượt tường đột nhập, giết cầm thú tại phòng riêng, chặn đường giáp công, trừ giặc cướp trong núi thẳm, nếu trao cho lá đại kỳ năm trượng, vì quốc gia ra sức, chẳng lẽ lại không làm tới tước vương sao?
* Nghé mạnh... phá xe: Thạch Hổ là con vua nhà Hậu Triệu Thạch Lạc thời Tấn, lúc nhỏ khoẻ mạnh bắn giỏi nhưng tính hung dữ, mấy lần bắn chết người. Thạch Lạc tức giận toan giết, vào thưa với mẹ, mẹ nói "Trâu giỏi lúc còn là nghé thì hay phá xe, con cố nhịn một chút". Đây ý nói người làm nên nghiệp lớn thì lúc nhỏ đã có tính nết, tư chất khác người thường.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 215 - 216 -
Đảo An Kỳ
(An Kỳ Đảo)
Quan Tể tướng Lưu Hồng Huấn người huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) cùng viên tướng Mỗ đi sứ Triều Tiên. Nghe nói đảo An Kỳ là nơi thần tiên ở, muốn sai thuyền chở tới đó chơi, nhưng các quan nước ấy đều nói là không được, bảo đợi Tiểu Trương. Đại khái đảo An Kỳ không đi lại với thế gian, chỉ có đệ tử là Tiểu Trương mỗi năm tới đó một lần, ai muốn tới đảo trước hết phải nói rõ với ông ta, nếu ông ta chịu thì một chiếc bè cũng tới nơi, nếu ông ta không chịu ắt sẽ có gió bão đánh chìm thuyền. Qua hai ba hôm, quốc vương gọi Lưu vào bệ kiến, thấy một người đeo kiếm đội nón tre ngồi trên điện, tuổi khoảng ba mươi, tướng mạo thanh kỳ, hỏi ra thì chính là Tiểu Trương. Lưu nhân đó tỏ ý muốn tới đảo, Tiểu Trương ưng thuận, nhưng nói viên Phó sứ không đi được. Lại ra ngoài nhìn ngắm bọn tùy từng suốt một lượt, chỉ có hai người có thể đi cùng Lưu, bèn sai lấy thuyền đưa Lưu đi.
Đường biển không biết xa hay gần, chỉ thấy gió thổi ào ạt, thuyền như lướt mù rẽ mây mà đi. Lúc ấy đang giữa mùa đông, nhưng tới đảo thì thấy khí trời ấm áp, hoa nở đầy núi. Tiểu Trương đưa bọn Lưu vào động phủ, thấy có ba ông già ngồi xếp bằng, hai người hai bên thấy khách vào vẫn thản nhiên như không hay biết, chỉ có người ngồi giữa đứng dậy đón chào thi lễ. Kế mời ngồi gọi lấy trà thì có đứa tiểu đồng cầm cái mâm đi ra, trên khe đá nhỏ ngoài động có cái dùi sắt cắm lút vào đá, tiểu đồng nhổ lên thì nước vọt ra, lấy chén hứng đầy rồi lại nút kín lại. Kế bưng vào, thấy sắc màu xanh nhạt, uống thử thì lạnh tê răng. Lưu sợ lạnh không uống, ông già đưa mắt ra hiệu cho tiểu đồng, tiểu đồng cầm cái chén ra, uống hết nước trong chén rồi tới chỗ cũ nhổ cái dùi lên hứng đầy nước quay vào, thấy nước nóng bốc lên nghi ngút như vừa đun sôi xong, Lưu vô cùng lạ lùng. Hỏi về việc hay dở sắp tới, ông già cười đáp “Người ngoài cõi đời ngay cả năm tháng cũng còn không biết, làm sao biết được việc người?". Hỏi tới thuật trường sinh, ông già đáp "Đó không phải là việc mà người trong trường phú quý làm được đâu.
Lưu cáo từ, Tiểu Trương lại đưa về, tới nơi kể lại mọi chuyện, quốc vương Triều Tiên than rằng “Tiếc là ông chưa uống chén nước lạnh, đó là Tiên thiên ngọc dịch, uống một chén có thể sống thêm trăm tuổi". Khi Lưu về nước, vương tặng một vật gói vải kín mít, dặn còn gần biển thì đừng mở ra xem. Lưu vừa lên tới bờ vội mở ra xem, tháo hết mấy trăm lớp vải bọc mới thấy một tấm gương, cầm lên xem thì Long cung thủy tộc đều rõ ràng trước mắt. Đang còn chăm chú nhìn, chợt có ngọn sóng cao như lầu gác sầm sập đổ tới, cả sợ bỏ chạy, ngọn sóng ầm ầm đuổi theo mau như mưa tuôn gió cuốn, khiếp đảm ném tấm gương lại, ngọn sóng bèn rút ngay.
216. Tiết Ủy Nương
(Tiết Ủy Nương)
Phong Ngọc Quế là nho sĩ ở Liêu Thành, nghèo khổ không có cách mưu sinh. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) gặp năm mất mùa lớn, lẻ loi đi xa kiếm ăn. Hơn một năm định về, tới huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông) thì mắc bệnh, cố sức đi mau được vài dặm, tới một đám mộ hoang phía nam thành thì quá mệt nên nằm xuống cạnh một ngôi mộ. Giây lát mê đi như nằm mơ, thấy tới một nhà nọ, có ông già trong cổng bước ra mời vào, nhà có hai gian đều xoàng xĩnh, trong phòng có một cô gái tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo xinh đẹp ông già sai sắc thuốc, rót vào chén bằng đất đưa lên cho khách rồi hỏi quê quán tuổi tác, sinh đáp xong bèn nói "Ta là Lý Hồng Đô người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lưu ngụ ở đây đã ba mươi hai năm rồi. Xin ông nhớ kỹ nhà này, con cháu của ta nếu có tới hỏi xin làm phiền chỉ cho, lão phu không dám quên ơn. Nghĩa nữ đây tên Ủy Nương cũng không xấu xí lắm, xin gả cho bậc quân tử, hôm nào con thứ ba của ta tới sẽ đính ước".
Sinh mừng rỡ lạy nói "Thân trâu ngựa đã hai mươi hai tuổi vẫn chưa có vợ, được đội ơn cho làm thân thích thì may lắm, có điều không biết con cháu của cha chỗ nào để tìm tới?". Ông già đáp “Ông chỉ cần ở lại trong thôn này, chờ hơn một tháng sẽ có người tới, chỉ cần chúng cầu xin gì thì đừng từ chối thôi”. Sinh sợ là bất tín, đòi ông già phải cam kết, nói "Nói thật với cha, nhà ta chỉ có bốn bức vách, e ngày sau không làm được điều cha mong muốn, nửa chừng bỏ dở không làm được thì cũng không lấy được vợ, nên không dám không xin một lời hứa chắc chắn, chứ không ngại gì chuyện khác". Ông già cười nói "Ông muốn lão phu thề phải không? Ta vốn biết ông nghèo, nhờ việc này không phải để trói buộc ông đâu. Ủy Nương mồ côi không nơi nương tựa, ở với ta đã lâu, không nỡ để cho nó phải lưu lạc nên đem dâng cho bậc quân tử thôi, ông đừng nghi ngờ”. Kế cầm tay đưa sinh ra cửa, chắp tay chào rồi đóng cửa quay vào.
Sinh chợt tỉnh dậy, thấy mình đang nằm cạnh ngôi mộ mà trời đã gần trưa bèn gượng dậy lần vào thôn. Người trong thôn nhìn thấy đều hoảng sợ, nói đã chết cạnh đường hơn một ngày rồi, sinh mới sực hiểu ra rằng ông già tức là người chôn trong mộ, giữ kín không nói ra, chỉ xin họ cho ở trọ. Người trong thôn sợ sinh lại chết nên không ai dám cho ở, trong thôn có người Tú tài cùng họ với sinh nghe thấy tới hỏi gia thế, té ra là chú họ của sinh, mừng rỡ dắt về nhà lo cơm nước thuốc thang cho, vài hôm thì khỏi bệnh. Sinh thuật lại chuyện mình gặp, người chú cũng ngạc nhiên lạ lùng, bèn chờ xem ra sao.
Không bao lâu quả có vị quan nhân tới thôn hỏi thăm mộ cha chôn ở đâu, tự nói là Tiến sĩ Lý Thúc Hướng ở huyện Bình Dương. Trước đó Lý Hồng Đô đi buôn xa với người đồng hương là Giáp, chết ở đất Nghi, Giáp bèn chôn chỗ đám mộ hoang, vừa về tới nhà thì cũng chết. Lúc ấy ba con của Hồng Đô đều còn nhỏ, con lớn là Bá Nhân, sau thi đậu Tiến sĩ, làm Tri huyện Hoài Nam, mấy lần sai người tìm hỏi mộ cha nhưng không ai biết. Con kế là Trọng Đạo, sau thi đỗ Cử nhân. Thúc Hướng là con út cũng thi đỗ Tiến sĩ, lúc ấy đích thân đi tìm mộ cha, tới đất Nghi hỏi thăm khắp cả. Hôm ấy hỏi người trong thôn mà không ai biết, sinh bèn đưa tới chỗ ngôi mộ chỉ cho.
Thúc Hướng thấy sinh trẻ tuổi chưa dám tin hẳn, sinh bèn thuật lại chuyện mình đã gặp, Thúc Hướng lấy làm lạ, nhìn kỹ thì có hai ngôi mộ liền nhau, có người nói ba năm trước có vị quan chôn người thiếp ở đó. Thúc Hướng sợ đào nhầm mộ, sinh bèn chỉ chỗ mình đã nằm. Thúc Hướng liền sai đem quan tài tới để bên cạnh rồi mới cho đào, đào lên thì thấy xác một cô gái, quần áo đã mủn nát nhưng mặt mũi vẫn tươi tắn như còn sống. Thúc Hương thấy lầm, sợ quá không biết làm sao nhưng cô gái đã ngồi dậy nhìn quanh nói “Tam ca tới rồi”. Thúc Hướng ngạc nhiên tới gần hỏi han thì là Ủy Nương, liền cho nàng thay áo đổi giày đưa về nhà trọ, rồi vội đào ngôi mộ bên cạnh, mong cha cũng sống lại, nhưng đào lên thấy da thịt còn nguyên mà vỗ gọi vẫn cứng đờ, thương xót vô cùng, bèn mặc áo mới cho vào quan tài, cúng tế bảy hôm, cô gái cũng chít khăn để tang như con gái ruột.
Chợt nói với Thúc Hướng rằng "Trước cha có hai nén vàng, từng chia cho em một nén làm của hồi môn nhưng vì em yếu ớt không có chỗ cất giấu nên cha lấy vải màu buộc chặt trong lưng chưa từng rời ra, anh có nhặt được không?". Thúc Hướng không biết, bảo sinh quay lại chỗ ngôi mộ, quả nhiên tìm thấy đúng như lời cô gái nói. Thúc Hướng vẫn theo lời cha, chia tặng Ủy Nương một nén rồi hỏi han gia thế của nàng. Trước đây cha cô gái là Tiết Dần Hầu không có con trai, chỉ sinh được Ủy Nương nên rất thương yêu. Một hôm cô gái từ nhà cậu ở Kim Lăng về, cùng bà vú tới bến dò hỏi thuê thuyền, thì nhà thuyền là một người làm mai ở Kim Lăng.
Lúc ấy có vị quan hết hạn về kinh muốn tìm một người thiếp trẻ nhưng y giới thiệu mấy đám đều không vừa ý, nên định đi thuyền tới Quảng Lăng (huyện Giang Đô). Chợt gặp cô gái y nghĩ ra kế lừa gạt, vội gọi thuyền kia tới bên cạnh. Bà vú vốn quen y bèn đi cùng đường, giữa đường y bày tiệc bỏ thuốc độc vào thức ăn, cô gái và bà vú đều mê man, y bèn xô bà vú xuống sông, chở cô gái trở về bán cho vị quan nọ. Tới nơi, vợ cả hay được vô cùng tức giận, cô gái cũng ngơ ngác không biết làm lễ ra mắt, vợ cả đánh đập nhốt lại. Lên bờ đi được ba ngày cô gái mới tỉnh hẳn, đám tỳ nữ kể lại đầu đuôi, nàng òa lên khóc. Một đêm ngủ lại đất Nghi, nàng tự thắt cổ chết, họ bèn chôn ở đám mộ hoang. Cô gái tới bị đám ma ở đó trêu ghẹo ức hiếp, ông Lý ra quát đuổi chúng đi, nàng bèn nhận ông làm cha. Ông nói “Số con chưa phải chết, ta sẽ chọn cho một người chồng vừa ý".
Hôm sinh đã trở ra ông quay vào nói với nàng rằng “Người này nhân phẩm có thể nương dựa, chờ tam ca của con tới làm chủ hôn cho". Một hôm lại nói “Con có thể về, tam ca con sắp tới rồi”, đó là hôm quật mộ vậy. Cô gái thuật lại hết cho Thúc Hướng nghe, Thúc Hướng than thở hồi lâu rồi lập tức nhận nàng làm em gái, đổi theo họ Lý, mua sắm quần áo cho nàng rồi gả cho sinh, nói "Trên đường không có nhiều tiền bạc, không thể mua sắm đầy đủ cho em, muốn tất cả cùng về cho mẹ vui, em nghĩ sao?” Cô gái cũng vui vẻ, rồi đó vợ chồng theo Thúc Hướng đưa linh cửu về. Tới nhà, bà mẹ hỏi biết đầu đuôi, thương yêu Ủy Nương còn hon con ruột, cho ở một căn nhà riêng.
Lúc chôn cất, cô gái khóc thương còn hơn cả con cháu trong nhà, mẹ càng thương yêu, không cho về Sơn Đông, bảo các con trai mua nhà cho nàng. Vừa gặp lúc có họ Phùng bán nhà, ra giá sáu trăm đồng vàng, lúc gấp gáp chưa lo được đủ tiền bèn làm giấy tờ hẹn ngày trả đủ. Đến ngày hẹn, Phùng tới sớm, vừa gặp lúc cô gái cũng từ nhà riêng qua hầu mẹ, bất ngờ gặp nhau, thấy rất giống người nhà thuyền năm trước, Phùng cũng như e sợ cô gái, vội vã đi ra. Hai anh vì thấy mẹ khó ở cũng tới thăm hỏi, cô gái hỏi người thong thả đi trước phòng khách là ai, Trọng Đạo nói "Suýt nữa thì quên, đó ắt là kẻ bán nhà hôm trước”. Rồi lập tức đứng dậy bước ra, cô gái giữ lại nói rõ điều mình nghi ngờ, bảo anh căn vặn thử xem, Trọng Đạo gật đầu bước ra thì Phùng đã đi mất, chỉ còn ông thầy dạy học ở ngõ nam là Tiết tiên sinh ở đó. Nhân hỏi sao lại tới đây, Tiết đáp "Tối qua họ Phùng nhờ ta tới sớm làm chứng ký tên vào giấy bán nhà, vừa rồi gặp nhau trên đường, y nói là quên một việc ở nhà phải về rồi sẽ quay lại ngay, bảo ta cứ ngồi ở đây đợi". Giây lát sinh và Thúc Hướng cùng tới, cùng nhau trò chuyện. Ủy Nương vì việc gặp Phùng cũng núp sau bình phong nhìn trộm khách, nhìn kỹ thì té ra là cha mình bèn chạy ngay ra ôm cha khóc lớn.
Tiết kinh ngạc rơi lệ nói "Con ta sao lại tới đây mọi người mới biết Tiết là Dần Hầu. Trọng Đạo tuy có gặp mấy lần trên đường nhưng cũng chưa từng hỏi tên ông ta, đến lúc ấy rất mừng bèn kể lại chuyện trước, mở tiệc ăn mừng rồi giữ ở lại đó. Tiết kể lại chuyện mình, đại khái sau khi con gái thất tung thì vợ buồn rầu mà chết, ông ta góa vợ không còn ai để nhờ vả nên du học tới đây. Sinh hẹn mua nhà xong sẽ đón ông về ở cùng. Hôm sau đi dò xem thì Phùng đã dắt gia đình trốn mất, mới biết kẻ giết bà vú bán Ủy Nương là y. Lúc đầu Phùng tới Bình Dương buôn bán trở nên giàu có, năm ấy cờ bạc nên dần dần sa sút mới bán nhà, số tiền bán Ủy Nương kể như mất trắng. Ủy Nương được nhà ở cũng không căm hờn gì lắm, chỉ chọn ngày tới ở chứ không sai người tìm bắt y. Mẹ Lý liên tiếp sai mang đồ đạc qua cho, tất cả những thứ vật dụng thường ngày đều chu cấp đủ, sinh bèn ở lại luôn Bình Dương, chỉ về quê dự thi, lấy làm khổ cực nhưng may mắn thi đỗ Cử nhân khoa ấy.
Ủy Nương giàu có, thường nghĩ tới bà vú chết vì mình, vẫn nghĩ cách đền ơn cho con bà ta. Chồng bà vú họ Ân, có một con trai tên Phú, ưa cờ bạc, nghèo không có miếng đất cắm dùi. Một hôm Phú đánh bạc cãi nhau, lỡ tay giết người, chạy trốn tới Bình Dương, tuy không quen sinh nhưng biết Ủy Nương nên tới xin giúp đỡ. Sinh mừng rỡ giữ lại hỏi han cặn kẽ, Phú nói tên họ người bị mình giết, té ra là Phùng Mỗ. Sinh kinh sợ than thở hồi lâu rồi nói rõ, Phú mới biết Phùng là người giết mẹ mình, càng thêm vui mừng, bèn ở lại làm thuê hầu hạ cho nhà sinh, cũng ở gần đó. Tiết Dần Hầu tới ở nhà con rể, con rể cưới vợ cho, sinh được một trai một gái.