Trả lời chủ đề

158. Bản Án Oan Khuất

(Oan Ngục)


Chu sinh người huyện Dương Cốc (tỉnh Sơn Đông), tuổi trẻ tính hời hợt, ưa đùa cợt. Vì vợ chết nên tới gặp bà mối, nhân thấy vợ người láng giềng của bà ta xinh đẹp bèn nói đùa “Quý hàng xóm đẹp quá, nếu ta cưới được thì hay lắm”. Bà mối cũng đùa rằng "Cứ giết chồng người ta đi, thì ta sẽ tính giùm cho". Sinh cười nói "Được thôi”. Hơn tháng sau, chồng người ấy đi đòi nợ bị giết ngoài đồng. Quan huyện sai bắt chức dịch trong làng, đánh đập tóe máu nhưng rốt lại vẫn không có manh mối gì. Chỉ có bà mối kể lại chuyện sinh nói đùa, quan vì thế nghi là Chu sinh, sai bắt tới hỏi thì nhất quyết không nhận. Quan huyện lại ngờ rằng người đàn bà tư thông với sinh, sai bắt luôn, tra tấn rất tàn khốc, người đàn bà không chịu nổi bèn nhận bừa. Quan lại tra hỏi Chu, Chu nói "Đàn bà yếu ớt không chịu đau nổi nên nhận bừa, có điều đã chết oan còn mang thêm tiếng xấu bất trinh, giả như quỷ thần vô tri thì ta cũng không nỡ. Thôi để ta khai thật, đúng đấy, ta muốn giết chồng để lấy người vợ, chuyện này đều do ta làm, nàng ta không biết gì đâu”.


Hỏi có chứng cớ gì không, sinh đáp là có chiếc áo vấy máu làm bằng. Quan sai tới nhà lục soát thì không thấy, lại tra tấn, Chu chết đi sống lại mấy lần bèn nói "Đây là vì mẹ ta không nỡ đưa ra để ta phải chết thôi, để ta tự đi lấy". Quan cho giải về nhà, sinh nói với mẹ "Đưa áo con ra thì con phải chết, mà không đưa ra thì con cũng chết. Đàng nào con cũng chết, thôi mẹ đưa ngay ra đây đi". Bà mẹ khóc đi vào phòng, lát sau cầm tấm áo đưa ra. Quan khám nghiệm thấy đúng là có vết máu, kết án xử chém sinh, bàn đi xét lại nhiều lần không ai nói gì khác, được hơn một năm thì định ngày hành quyết. Hôm ấy quan huyện vừa mới điểm danh phạm nhân chợt có một người đi thẳng vào công đường, trợn mắt nhìn quan huyện mắng lớn "Ngươi mù mờ như thế làm sao coi việc dân?”. Bọn nha dịch mấy mươi người xúm vào bắt, người ấy gạt tay một cái, cả đám ngã dúi dụi. Quan huyện khiếp sợ toan chạy, người ấy nói lớn "Ta là Chu Tướng quân dưới trướng Quan Đế* đây! Tên quan ngu xuẩn kia mà nhúc nhích thì ta giết chết tươi đấy!". Quan huyện run sợ đứng im, người ấy nói "Kẻ giết người là Cung Tiêu, chứ họ Chu có dính líu gì tới?". Nói xong ngã lăn xuống đất ngất đi, lát sau tỉnh lại, mặt không còn chút máu, hỏi tên họ thì là Cung Tiêu.


*Chu tướng quân... Quan Đế. tức Chu Thương, cận tướng của Quan Vũ nhà Thục Hán, khi Quan Vũ bị Đông Ngô giết thì tự tử chết theo, về sau cũng được thờ cúng chung với Quan Vũ, là người mặt đen cầm thanh long đao đứng hầu vẫn thường được vẽ trong các bức tranh Quan Vũ đọc kinh Xuân thu trước nay.


Bắt lấy tra hỏi thì y nhận hết tội. Té ra Cung vốn là kẻ liều lĩnh, biết là người kia đi đòi nợ về, cho rằng có mang nhiều tiền trong người bèn giết chết, nhưng chẳng được đồng nào. Nghe Chu sinh nhận tội bừa, trong lòng ngầm lấy làm may mắn, nhưng hôm ấy bỗng tự đi vào công đường mà không biết gì cả. Quan huyện hỏi Chu lấy chiếc áo vấy máu ở đâu ra, Chu cũng không rõ, gọi mẹ Chu lên hỏi, thì ra là bà cắt cánh tay lấy máu bôi vào, khám tới cánh tay trái của bà thì thấy có vết dao cắt vào còn chưa lành hẳn. Quan huyện cũng kinh ngạc, sau đó bị hặc tội vì vụ này, kế bị cách chức giam cầm rồi chết. Hơn năm sau mẹ người đàn bà muốn gả chồng cho con, nàng cảm nghĩa của Chu, bèn lấy Chu.


Dị Sử thị nói:Xét án là phận sự hàng đầu của kẻ làm quan, vun bồi âm đức hay vùi lấp lẽ trời đều là ở đó nên không thể không cẩn thận vậy. Nóng nảy dữ tợn, làm trái đức hòa thì không những làm việc xét án kéo dài mà còn khiến cho sinh dân thương tổn. Một kẻ đi kiện thì mấy người bỏ ruộng nương, một vụ xử xong thì mười nhà tan cơ nghiệp, há lại coi là chuyện nhỏ sao! Ta thường nói kẻ làm quan không nhận xử kiện nhiều tức là có đức tốt mà không phải chuyện trọng đại thì chẳng cần tra xét, không phải việc khó khăn thì bất tất lưu tâm. Như có bọn dân quê trên núi trong làng, vì ngẫu nhiên tranh nhau con vịt con gà mà đi thưa đi kiện, thì chẳng qua chỉ cần một câu nói của quan trên là đủ thu xếp yên chuyện thôi. Thế mà không chịu chu toàn cho người ta, đòi cả bên nguyên bên bị tới, lập tức đánh đập tra khảo, tới nỗi roi hèo gãy hết, như vậy đâu phải là quan huyện thần minh? Vẫn thấy có ông quan huyện xử kiện vừa phát trát đòi đi thì hầu như đã quên bẵng, mà kẻ sai dịch đi bắt người túi chưa đầy thì không cho thấy trát quan, kẻ thư lại xếp lịch xử tiền chưa cầm thì không chịu trình án kiện, che giấu dằng dai, kéo dài ngày tháng, dân đen chưa kịp ra tới công đường thì xương thịt đã tan nát cả rồi.


Thế mà kẻ nghiễm nhiên làm cha mẹ dân cứ ngủ kỹ trên giường như là vô sự, nào biết rằng trong chốn ngục tù nguy ngập có vô số oan hồn đang thoi thóp dài cổ trông chờ được cứu ra đâu? Nếu đúng kẻ gian ác bất lương, thật không đáng tiếc, nhưng là người thiện lương vô tội, chịu vậy sao kham? Huống chi trong những kẻ bị liên can thì thường kẻ gian ác ít, người lương thiện nhiều, mà người lương thiện lại thường bị hại nhiều gấp bội kẻ gian ác. Tại sao lại như thế? Vì kẻ gian ác thì khó hành hạ, mà người lương thiện thì dễ khinh khi vậy. Cho nên sai dịch chửi mắng, thư lại vòi tiền, đều nhằm vào người lương thiện mà trút lòng tham bạo. Thường dân đen bước vào cửa công như đi trên lửa đỏ, xử án sớm được một ngày là sống yên sớm được một ngày, nên có chuyện gì lớn thì nhìn lên công đường thẫn thờ như người chết rồi, chỉ lo không đủ tiền để lấp đầy túi tham, đành nghĩ muốn yên thân còn phải nhiều ngày tháng. Như thế thì tuy quan trên không tàn bạo nhưng thật ra cũng có tội ngang bọn sai dịch thư lại vậy. Thường thấy trong các đơn kiện thì kẻ cần phải đòi tới chẳng qua chỉ có vài ba người, còn lại đều là dân đen vô tội bị thêu dệt vu cáo mà thôi. Có khi vì ngày thường hiềm khích nên thành oán thù, có khi là trong nhà có của nên bị ghen ghét, bên nguyên đối với kẻ bị kiện chính thì mới ra sức làm sao cho bị khép tội, chứ đối với số còn lại thì chỉ là để trả thù vặt. Nhưng người bị thưa kiện thì tựa hồ bị ung nhọt trong xương, chịu đủ tội ở cửa công cũng phải muôn ngàn đau đớn, người ta quỳ cũng quỳ, tựa chim theo lũ, người ta bước cũng bước, như khỉ bị xiềng. Nhưng xét lại thì quan trên không hỏi, thư lại không tra, thật ra đều hoàn toàn vô dụng trong việc xét xử, có điều bấy nhiêu cũng đủ khuynh gia bại sản mà nuôi béo lũ thư lại tham lam, bán vợ đợ con để thỏa dạ bọn tiểu nhân thù vặt rồi. Rất mong nhũng người làm quan gặp việc kiện tụng thì xét sơ qua một lượt đã, kẻ cần bắt thì ra lệnh bắt, kẻ không cần bắt thì thôi. Chẳng qua chỉ rung quản bút, động cổ tay mà đã là bảo toàn cho ít nhiều gia đình, bồi bổ vào ít nhiều nguyên khí trong thiên hạ rồi. Người làm chính sự đã không nghĩ tới việc ấy, lại còn chăm chăm dùng gông cùm đao kiếm, để giết người sao?

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 159 - 160 -

Phu Nhân Nhà Họ Lưu

(Lưu Phu Nhân)


Liêm sinh người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ ham học nhưng mồ côi sớm, nhà rất nghèo. Một hôm đi khỏi nhà, tối về lạc đừơng vào một thôn nọ, gặp một bà già đi tới nói "Liêm công tử đi đâu thế, trời tối lắm rồi". Sinh đang lo lắng nên cũng không kịp hỏi là ai, chỉ xin ngủ nhờ. Bà già dẫn sinh đi tới một phủ đệ lớn, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa một người đàn bà ra, thấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, cử chỉ phong thái ra dáng đại gia. Bà già bước lên thưa "Liêm công tử đã tới," Sinh vội rảo bước tới làm lễ, người đàn bà vui vẻ nói "Công tử tuấn tú lắm, đâu phải chỉ là một phú ông". Lập tức bày tiệc đón tiếp, ngồi bên cạnh mời mọc rất ân cần, nhưng riêng mình nâng chén không mấy khi uống, cầm đũa không mấy khi gắp.

Sinh ngại ngùng áy náy, mấy lần hỏi thăm gia thế, bà cười đáp "Cứ uống cạn ba chén lớn ta sẽ nói cho chàng biết". Sinh uống xong, bà nói "Chồng ta họ Lưu, làm khách ở Giang Tả (vùng Giang Tây) gặp tai biến chết rồi. Ta góa bụa sống một mình ở nơi vắng vẻ này, nhà cửa ngày càng sa sút. Tuy có hai đứa cháu nội nhưng nếu không phải lũ ăn tàn phá hại thì cũng là hạng bất tài vô dụng. Công tử tuy khác họ nhưng kiếp trước là ruột thịt, vả lại tính tình thuần hậu cẩn thận nên ta mới ra mặt gặp gỡ. Cũng chẳng có chuyện gì phiền, chỉ là ta có một ít vàng chôn giấu, muốn gởi công tử đem đi buôn bán, có lời thì chia, cũng không tới nỗi chết già không được ai biết". Liêm từ chối, lấy cớ tuổi còn trẻ lại chỉ là kẻ học trò khờ khạo, sợ phụ sự ủy thác lớn lao.


Bà nói "Đọc sách trước hết là để mưu sinh, công tử lại vốn thông minh, chuyện gì mà không làm được”. Rồi sai tỳ nữ mang vàng ra giao, tất cả hơn tám trăm lượng, sinh lo sợ cố từ chối. Bà nói “Ta cũng biết công tử chưa quen giao thiệp buôn bán, nhưng cứ thử xem, chắc chắn không thua lỗ đâu”. Sinh lo rằng số vốn lớn như thế thì một người không đủ sức coi sóc nên bàn họp bạn đi buôn chung. Bà nói “Không cần đâu, chỉ cần tìm một người thành thật tháo vát theo giúp công tử là đủ” lại bấm đốt tay tính toán, nói “Được người họ Ngũ thì rất tốt". Rồi sai đầy tớ thắng ngựa chở vàng đưa sinh về, nói "Đến cuối năm xin chờ làm tiệc tẩy trần", lại ngoảnh lại dặn người đầy tớ rằng "Con ngựa này thuần, có thể cưỡi được, vậy tặng luôn cho công tử, khỏi cần dắt về". Sinh về tới nhà thì đã canh tư người đầy tớ buộc ngựa rồi chào về. Hôm sau sinh đi khắp nơi tìm người giúp việc, quả được một người họ Ngũ, bèn trả công hậu để thuê. Ngũ già đời trong việc đi xa, lại là người ngu tối vụng về song cẩn thận, sinh đưa hết tiền bạc cho giữ, cùng nhau qua lại buôn bán ở Kinh Tương (vùng Hồ Nam).


Cuối năm trở về, tính lại thì vốn đã tăng gấp ba lần, sinh cho rằng nhờ sức của Ngũ nhiều, nên ngoài công xá còn thưởng thêm cho rất hậu, định là không cho chủ nhân biết. Vừa về tới nơi, người đàn bà đã sai người ra đón, hai người cùng vào. Thấy trên sảnh đã bày tiệc sẵn, người đàn bà bước ra, hết lời khen ngợi an ủi. Sinh nộp cả tiền bạc, tính hết sổ sách, nhưng bà không ngó ngàng gì tới. Giây lát mời vào tiệc, có cả ban hát ca múa nhộn nhịp, Ngũ cũng được mời tiệc riêng ở nhà ngoài, say khướt mới về. Sinh thì vì chưa có vợ nên ở lại ăn Tết luôn. Hôm sau lại xin tính toán sổ sách, người đàn bà cười nói "Sau này không cần làm thế nữa, ta đã biên chép từ lâu rồi". Rồi giở sổ cho sinh xem, thấy ghi chép rất rành mạch, ngay cả khoản thưởng thêm cho Ngũ cũng thấy có trong đó, sinh kinh ngạc nói "Phu nhân quả là người thần”. Qua mấy hôm, cho ăn ở rất chu tất, đãi sinh như con cháu trong nhà. Một hôm bày tiệc trên sảnh, đặt một ghế chủ một ghế khách dưới thềm cũng bày một bàn, nói với sinh rằng "Ngày mai là ngày Tài tinh lâm chiếu, đúng dịp nên lên đường, hôm nay ta bày tiệc tiễn chủ tớ công tử cho thêm phần khởi sắc”. Ngũ cũng được gọi tới, cho ngồi ở bàn dưới thềm. Một lát thì ban hát ra diễn, chiêng trống vang tai, người của ban hát bước lên trình danh sách các vở tuồng. Sinh bảo diễn vở Đào Chu giàu có*, người đàn bà cười nói "Đó là điềm báo trước đấy, chắc công tử sẽ được Tây Thi làm nội trợ”.


*Đào Chu giàu có: Đào Chu tức Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, theo giúp Việt Vương Câu Tiễn, sai mỹ nhân là Tây Thi qua dùng sắc đẹp để quyến rũ Ngô vương Phù Sai, ly gián triều dình, làm rối triều chính nước Ngô. Sau khi Câu Tiễn diệt Ngu, Phạm Lãi bỏ quan, đưa Tây Thi rời nước Việt, thay tên đổi họ đi buôn bán khắp nơi, trở thành cự phú, sau cùng ở lại nước Tề, tự xưng là Đào Chu công.


Tan tiệc lấy toàn bộ số vàng đưa sinh, nói "Lần này đi không kể ngày tháng, nếu không thu được vạn lượng vàng xin đừng về. Ta với công tử nương dựa nhau do phúc mệnh, tin cậy nhau như gan ruột, đừng nhọc công làm sổ sách làm gì. Việc bán buôn lời lỗ ở phương xa thế nào tự ta có thể biết được”, sinh vâng dạ lui về. Rồi lên đường tới đất Hoài Thương (huyện Hoài ân tỉnh Giang Tô) xin làm thầu buôn muối, hơn một năm thì vốn đã tăng gấp mấy lần. Nhưng sinh ham học, ngoài những lúc tính toán buôn bán vẫn không quên sách vở, bạn bè cùng giao du đều là kẻ văn sĩ. Lại thấy đã có nhiều tiền nên thầm muốn nghỉ buôn bán, dần dần giao hết công việc cho Ngũ. Sinh chơi thân với Tiết sinh ở huyện Đào Nguyên (tỉnh Hồ Nam), nhân đi ngang ghé thăm, nhưng cả nhà đều đang ở chỗ khác. Trời đã tối không sao gọi về, người giữ cổng giữ sinh lại, dọn giường nấu cơm tiếp đãi. Sinh hỏi kỹ về chủ nhân, thì ra đại để lúc ấy người ta đồn nhảm rằng triều đình muốn tuyển con gái nhà lương dân làm lễ vật hoà thân để yên biên cuơng, dân gian náo động, nghe nói ai trẻ tuổi chưa vợ thì không cần mai mối, cứ đưa con gái tới tận nhà gả cho, tới nỗi có người trong một đêm cưới luôn được hai vợ.


Tiết cũng vừa cưới một người vợ con nhà vọng tộc, nhưng sợ xe ngựa rầm rập quan huyện biết được nên dời về ở trong làng. Gần hết canh một, sinh vừa đi nằm chợt nghe tiếng mấy người gọi cổng vào nhà, không rõ người giữ cổng nói gì, chỉ nghe một người hỏi “Quan nhân đã không có nhà, vậy ai thắp đèn trong kia?". Người giữ cổng đáp là Liêm công tử, khách từ xa tới. Giây lát người vừa hỏi bước vào, áo mũ đẹp đẽ, vừa chào xong đã hỏi ngay tên họ quê quán. Sinh đáp xong, người ấy mừng rỡ nói "Té ra là đồng hương với ta, vậy nhạc gia là ai thế”. Sinh đáp còn chưa có vợ, người ấy càng vui mừng, rảo bước ra gọi một thiếu niên cùng vào, làm lễ chào hỏi rất cung kính rồi nói “Thưa thật với công tử, bọn ta họ Mộ, đêm nay tới đây là đưa cô em tới gả cho Tiết quan nhân, gặp tình cảnh thế này đang không biết làm sao, tiến lui đều khó, lại gặp được công tử há chẳng phải là số phận ư?".


Sinh vì chưa biết họ là ai nên còn ngần ngừ chưa dám ưng thuận, Mộ lại mặc kệ lời từ chối, cứ gọi người đưa cô dâu vào. Phút chốc có hai bà già đưa một cô gái vào ngồi trên giường, sinh liếc nhìn thấy khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng. Sinh mừng rỡ, sửa mũ áo tạ ơn Mộ, lại bảo ngươi giữ cổng dọn rượu tiếp đãi, cùng nhau trò chuyện rất vui vẻ. Mộ nói "Tổ tiên bọn ta vốn là người huyện Chương Đức, dòng họ bên mẹ cũng là thế gia nhưng nay đã sa sút. Nghe nói ông bà ngoại còn có hai người cháu nội, không rõ tình cảnh ra sao". Sinh hỏi họ tên, Mộ đáp "Ông ngoại bọn ta họ Lưu tên Huy Nhược, nghe nói cư ngụ cách huyện thành ba mươi dặm về phía bắc". Sinh nói “Nhà ta ở phía đông nam huyện thành, cách nơi ấy khá xa, lại tuổi còn nhỏ nên giao thiệp chưa nhiều, quen biết cũng ít. Trong huyện có rất nhiều người họ ấy, nhưng nghe nói phía bắc huyện thành có Lưu Kinh Khanh, cũng là bậc văn sĩ nhưng không rõ có đúng không, có điều nhà thì nghèo". Mộ nói "Mồ mả tổ tiên bọn ta vẫn còn ở huyện Chương Đức, vẫn muốn đưa quan tài cha mẹ về ở quê cũ nhưng vì chưa lo đủ tiền bạc nên còn lần lữa. Nay em gái bọn ta được theo công tử về, bọn ta càng quyết ý về quê". Sinh nghe thế, khẳng khái nhận sẽ thu xếp. Hai người họ Mộ rất vui mừng, uống vài chén rượu rồi chào về. Sinh bảo người hầu thay đèn đi ngủ, đêm ấy vợ chồng yêu thương nhau rất đằm thắm.


Hôm sau Tiết nghe tin vội trở vào thành, xây một dãy nhà riêng cho sinh ở. Sinh trở lại đất Hoài, tính toán tiền bạc xong, lưu Ngũ ở lại rồi mang hành trang tiền bạc về lại Đào Nguyên, cùng hai người họ Mộ đưa quan tài cha mẹ và cả hai gia đình về quê. Về tới nhà, sinh thu xếp đâu đó xong, đem tiền bạc tới chỗ chủ nhân thì thấy ngùoi đầy tớ dắt ngựa trước kia đã đứng đón trên đường đưa vào nhà. Người đàn bà ra đón, vui vẻ nói "Đào Chu công đưa được Tây Thi về rồi. Hôm trước là khách, chứ hôm nay là cháu rể của ta rồi đấy nhé". Rồi bày tiệc đón mừng, đối xử càng thêm thân thiết. Sinh khâm phục là có tài biết trước, bèn hỏi phu nhân cùng mẹ vợ mình có họ hàng xa gần thế nào, bà đáp đừng hỏi, về sau sẽ tự biết thôi. Rồi chất vàng lên bàn, chia làm năm phần, tự mình lấy hai phần, nói "Ta thì chẳng dùng gì tới, chỉ giữ lại để cho cháu đích tôn thôi". Sinh thấy phần mình quá nhiều, chối từ không nhận. Bà buồn rầu nói "Nhà ta sa sút, cây cối trong sân bị người ta chặt làm củi, cháu nội lại ở xa quá, cửa nẻo ngày càng tiêu điều, phiền công tử lo giùm". Sinh vâng dạ, nhưng xin chỉ nhận một nửa số vàng. Bà ép cầm cả rồi tiễn sinh ra cổng, gạt lệ quay vào. Sinh lấy làm lạ lùng ngờ vực, ngoảnh lại nhìn toà phủ đệ thì là ngôi mộ lớn, mới hiểu ra rằng phu nhân chính là bà ngoại vợ mình. Về tới nhà bèn xuất tiền mua một khoảnh ruộng quanh mộ, tu bổ dọn dẹp rất đẹp đẽ tươm tất.

Họ Lưu có hai cháu nội, lớn tức Kinh Khanh còn thứ tên Ngọc Khanh, là kẻ rượu chè cờ bạc lêu lổng, cả hai đều nghèo. Hai anh em tới nhà sinh tạ ơn, sinh đều tặng cho rất hậu, từ đó thường qua lại với nhau. Sinh kể đầu đuôi việc mình đi buôn, Ngọc Khanh nghĩ thầm rằng trong mộ ắt có vàng, đêm tối rủ mấy tên cờ bạc tới đào mộ tìm, phá vỡ quan tài phơi cả xương cốt ra nhưng không được chút gì, thất vọng tan đi. Sinh được tin mộ bị phá, báo cho Kinh Khanh, Kinh Khanh tới gặp sinh rồi cùng đi xem. Vào tới huyệt mộ thì thấy số vàng phu nhân giữ lại trước đây vẫn chồng chất trên án, Kinh Khanh muốn chia đôi với sinh. Sinh nói "Phu nhân giữ số vàng này lại vốn là để chờ dịp cho huynh thôi mà", Kinh Khanh bèn chở cả về. Kế báo lên huyện, quan tư lùng bắt rất gấp, sau bắt đước người bán một chiếc trâm ngọc trong mộ, tra hỏi mới biết Ngọc Khanh là kẻ chủ mưu. Quan huyện muốn trị tội Ngọc Khanh thật nặng, Kinh Khanh hết sức kêu xin cho mới được khỏi tội chết. Cả hai nhà cùng ra sức sửa sang trong ngoài ngôi mộ, so ra còn bền chắc đẹp đẽ hơn lúc trước. Từ đó Liêm Lưu cùng giàu có, duy Ngọc Khanh vẫn nghèo như cũ. Sinh và Kinh Khanh thường chu cấp cho, song rốt lại vẫn không đủ cho y cờ bạc. Một đêm có bọn cướp vào nhà sinh trói người khảo của, sinh chôn vàng cứ một ngàn năm trăm lượng vàng là một vò, bèn chỉ chỗ cho chúng đào, bọn cướp lấy được hai vò. Lúc ấy chỉ có con ngựa ma trong tàu, chúng bèn thắng cương vào chở vàng đi, lại bắt sinh theo, ra tới ngoài đồng mới thả cho về.


Người trong thôn thấy ánh đèn đuốc của bọn cướp còn chưa xa lắm, hò hét đuổi theo, chúng hoảng hốt bỏ chạy. Mọi người đuổi tới chỗ ngôi mộ thì thấy vàng rơi tung toé trên đường mà con ngựa thì biến thành tro giấy, mới biết con ngựa cũng là ma. Đêm ấy nhà sinh chỉ mất có một chiếc vòng vàng mà thôi. Vốn trước đó bọn cướp bắt vợ sinh, thấy nàng xinh đẹp toan cưỡng hiếp, nhưng có một tên đeo mặt nạ quát thét bảo thôi, giọng nói giống như Ngọc Khanh. Bọn cướp bèn tha vợ sinh, chỉ lột chiếc vòng vàng nàng đeo ở tay. Sinh vì vậy ngờ đó là Ngọc Khanh, nhưng cũng thầm cám ơn y. Sau bọn cướp bán chiếc vòng vàng đánh bạc, bị công sai bắt được, tra hỏi bè đảng thì quả trong đó có Ngọc Khanh. Quan huyện tức giận, dùng trọng hình trị tội. Kinh Khanh bàn với sinh định đem nhiều tiền lo lót để cứu, nhung chưa kịp làm gì thì Ngọc Khanh đã chết trong ngục, từ đó sinh vẫn cấp dưỡng cho vợ con y. Về sau sinh thi đỗ Cử nhân, con cháu mấy đời đều giàu có. Than ôi, tự dạng chữ “tham" ngang sổ chấm phết rất giống chữ "bần", hạng người như Ngọc Khanh đủ để làm điều răn vậy.

 



 




160. Gái Thần 




(Thần Nữ)





Mễ sinh là ngươi đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), người kể chuyện quên mất tự hiệu quận ấp. Vào quận thành chơi, say đi ngoài phố, nghe trong một tòa nhà lớn có tiếng đàn sáo ầm ĩ, hỏi người ở quanh thì họ đáp nhà ấy mở tiệc mừng thọ, song ngoài cổng  trong sân lại rất vắng vẻ. Lắng tai nghe thấy tiếng sênh phách vang lừng, sinh đang say lấy làm ưa thích, không hỏi là nhà ai, cứ ra đầu phố mua lễ vật chúc mừng rồi đưa thiếp vào, xưng là vãn sinh. Có người thấy sinh ăn mặc tầm thường bèn hỏi có họ hàng thế nào với ông già kia, sinh đáp không có. Người ấy nói nhà ấy là người nơi khác tới đây ngụ cư, không rõ là quan gì nhưng rất kiêu kỳ, không phải là họ hàng thì gặp làm gì? Sinh nghe thấy hối hận, nhưng danh thiếp đã đưa vào rồi. Phút chốc có hai thiếu niên ra đón khách, trang phục rực rỡ, dáng điệu phong nhã, vái chào sinh rồi mời vào. Thấy một ông già ngồi quay mặt về hướng nam, hai bên bày mấy bàn tiệc, khách có sáu bảy người đều như bậc quý quan, thấy sinh vào đều đứng lên làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy.

Sinh đứng hồi lâu đợi đón khách mà ông vẫn không rời khỏi chỗ. Hai thiếu niên đỡ lời, nói "Phụ thân già yếu, vái chào khó khăn, anh em bọn ta xin thay mặt tạ ơn bậc cao hiền hạ cố”. Sinh khiêm tốn đáp tạ xong, họ mời vào một bàn phía trên, bên cạnh ông già. Giây lát ban nhạc ra múa hát ở dưới, sau tiệc bày bình phong lưu ly che đám phụ nữ trong nhà. Tiếng đàn sáo ầm ĩ, khách khứa không thể chuyện trò gì nữa. Sắp tan tiệc, hai thiếu niên đứng lên, đều rót chén lớn mời khách, chén đựng khoảng ba đấu. Sinh ngần ngại nhưng thấy khách nhận cũng nhận. Giây lát nhìn quanh thấy chủ khách đều đã cạn chén, bất đắc dĩ cũng phải cố uống. Thiếu niên lại rót, sinh thấy mệt quá đứng lên cáo lui, thiếu niên nắm áo giữ lại. Sinh say quá gục xuống đất, thấy có người lấy nước lạnh rưới vào mặt, chợt tỉnh dậy nhìn thì khách khứa đã về hết, chỉ còn một thiếu niên xốc cánh tay đưa ra, bèn chào về. Sau đó lại qua ngang cổng, thì thấy đã dời đi ở chỗ khác.





Sinh từ quận về, tới ngang chợ có một người trong quán bước ra mời vào uống rượu. Nhìn thì không quen nhưng cũng theo vào, thấy trong bàn đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì là họ Chư, làm nghề mài gương trong chợ. Hỏi sao biết mình, Chư nói "Ông có biết người khao thọ hôm trước là ai không?". Sinh đáp không biết, Chư nói "Ta ra vào nhà ấy nhiều lần, ông già họ Phó, nhưng không rõ quê quán quan tước. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, ta đang ở dưới thềm nên biết mặt". Chiều tối tan tiệc chia tay về, đêm Bão Trang chết trên đường. Cha Bão không biết Chư, cứ tên sinh mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, sinh bị kết án mưu sát, khép vào tội chết, chịu đủ mùi gông cùm nhưng vì chưa bắt được Chư, không đủ chứng cớ nên còn để đấy.





Hơn năm, quan Trực chỉ đi tuần tra các nơi, xét biết bị oan tha sinh ra. Nhà cửa ruộng vườn đã mất hết mà mũ áo nho sinh cũng bị lột, nhưng sinh nghĩ có thể xin lấy lại được nên lại xách khăn gói lên quận. Trời xế chân mỏi ngồi nghỉ cạnh đường, thấy một chiếc kiệu nhỏ từ xa đi tới, có hai tỳ nữ áo xanh đi kèm hai bên. Kiệu đã đi qua bỗng dừng lại, không biết bên trong nói gì, giây lát một tỳ nữ áo xanh tới hỏi sinh có phải chàng họ Mễ không? Sinh giật mình đứng dậy nói phải. Hỏi sao nghèo túng tới mức này, sinh kể lại duyên do. Lại hỏi đi đâu, sinh lại trả lời. Tỳ nữ áo xanh quay về chiếc kiệu nói chuyện với bên trong, lát sau trở lại mời sinh tới trước kiệu. Trong kiệu có một bàn tay búp măng vén rèm lên, liếc nhìn thì là một giai nhân tuyệt thế. Nàng nói với sinh "Chàng không may gặp chuyện rủi ro, nghe thấy mà buồn. Ngày nay dinh Học sứ không phải là nơi ra vào tay không được, nhưng giữa đường không có gì tặng”. Bèn rút một cành hoa khảm ngọc cài trên tóc đưa sinh, nói "Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy”. Sinh lạy tạ, toan hỏi lai lịch thì kiệu đi rất nhanh đã ra xa rồi, không rõ là ai nữa. Cầm cành hoa ngắm nghía thấy trên khảm ngọc trai, không phải vật tầm thường, liền cất kỹ rồi lên đường.





Tới quận đưa đơn, trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khổ, giở cành hoa ra ngắm, không nỡ bán bèn quay về. Trở về không có nhà ở, phải nương tựa anh trai và chị dâu. May được anh hiền, lo lắng chăm sóc cho nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học. Năm sau sinh lên quận thi khoa Đồng tử, lầm đường lạc vào núi sâu. Lúc ấy đang tiết Thanh minh, người du xuân rất đông, có mấy cô gái cưỡi ngựa đi tới, trong có một nàng, chính là người ngồi trong kiệu năm trước. Thấy sinh nàng dùng cương hỏi đi đâu, sinh trả lời. Cô gái giật mình hỏi "Chàng vẫn chưa lấy lại được khăn áo nho sinh à?”. Sinh thẹn, rút cành hoa khảm ngọc trong áo ra, nói "Không nỡ bỏ vật này nên vẫn còn là Đồng tử". Cô gái đỏ bừng cả mặt, dặn ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa chậm rãi đi. Hồi lâu, một tỳ nữ ruổi ngựa tới đưa sinh một cái gói, nói "Nương tử nói ngày nay cửa quan Học sứ như cái chợ, xin tặng hai trăm lượng bạc làm vốn tiến thủ”. Sinh từ chối, nói "Nương tử làm ơn cho ta đã nhiều rồi! Tự nghĩ thi đỗ không phải là khó, không dám nhận món tiền lớn này. Chỉ xin được biết họ tên để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái nương tử là đủ, Tỳ nữ không nghe, đặt gói tiền xuống đất rồi đi. Từ đó sinh chi dùng đầy đủ, nhưng rốt lại vẫn không thèm cầu cạnh, sau đỗ đầu vào trường huyện. Đưa cả tiền cho anh, anh khéo buôn bán nên trong ba năm khôi phục được hết cơ nghiệp cũ.





Lúc ấy Tuần phủ Phúc Kiến là học trò ông nội sinh, giúp đỡ rất nhiều nên anh em trở nên giàu có. Nhưng sinh vốn là ngươi trong sạch ngay thẳng nên tuy quen thân với quan lớn mà không lần nào tới nhờ vả. Một hôm có khách mặc áo cừu cưỡi ngựa tới cổng, cả nhà đều không biết là ai. Sinh ra xem thì là công tử họ Phó, bèn vái chào mời vào, thăm hỏi trò chuyện, bày rượu khoản đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói tới chuyện ra về. Khi cơm rượu bày lên, công tử đứng dậy xin nói chuyện riêng, mời vào nhà trong thì lạy sụp xuống đất. Sinh kinh ngạc hỏi có chuyện gì, công tử buồn bã nói "Phụ thân mắc vạ lớn có điều muốn nhờ quan Tuần phủ, không phải anh thì không ai nói giúp được". Sinh từ chối, nói "Ông ta tuy là chỗ quen biết lâu đời nhưng trước nay ta chưa bao giờ vì việc riêng mà cầu cạnh xin xỏ ai cả". Công tử phục xuống đất khóc lóc năn nỉ, sinh nghiêm sắc mặt nói "Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ nhân một bữa tiệc mà quen nhau, sao lại đem chuyện mất danh tiết ép buộc nhau thế?". Công tử thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi.





Hôm sau sinh đang ngồi một mình thì có một người áo xanh bước vào, nhìn ra thì là tỳ nữ đưa tiền tặng trong núi trước kia. Sinh giật mình đúng dậy, người ấy hỏi "Chàng quên cành hoa khảm ngọc rồi sao?”, sinh đáp ”Dạ dạ, không dám quên". Người ấy nói “Công tử hôm qua là anh ruột của nướng tử đấy". Sinh nghe thế mừng thầm, vờ nói "Chuyện đó khó tin lắm, nếu được nương tử thân hành tới đây nói cho một câu, thì dù là vạc dầu sôi cũng xin nhảy vào, nếu không thì thật không dám vâng lệnh". Tỳ nữ ra lên ngựa đi, đến khuya trở lại gõ cửa bước vào nói “Nương tử tới rồi". Chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Sinh vái lạy nói "Tiểu sinh không có nàng thì làm sao có ngày nay, nếu có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời?". Cô gái nói "Kẻ được cầu cạnh thường khinh người, kẻ đi cầu cạnh thường sợ người. Nửa đêm lặn lội, trước nay nào biết tới cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn nói gì nữa?". Sinh an ủi, nói "Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc rồi khó được gặp nhau lần nữa thôi. Khiến nàng phải đêm hôm lặn lội sương gió, ta biết tội rồi". Nhân cầm tay áo cô gái vuốt khẽ, nàng nói "Ông thật là người tệ, không nghĩ tới ơn nghĩa trước lại toan nhân lúc người ta nguy cấp. Ta lầm rồi, ta lầm rồi?", rồi tức giận bỏ ra, lên kiệu toan đi. Sinh đuổi theo tạ lỗi quỳ xuống chặn đường. Người tỳ nữ cũng khuyên giải, nàng như nguôi giận, ngồi trong kiệu nói với sinh "Nói thật với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm Đô lý ty ở Nam Nhạc, vô tình thất lễ với địa quan, sắp bị tâu lên Thượng đế, nếu không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không sao gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì lấy một tờ giấy vàng xin đóng ấn cho thiếp", rồi giục kiệu đi.





Sinh quay vào run sợ mãi, rồi thác chuyện trừ ma lên xin. Tuần phủ cho là việc mê tín nhảm nhí không cho, sinh đem nhiều tiền đút cho ngươi tâm phúc của ông ta, y nhận lời nhưng tìm được cơ hội. Về nhà thì người tỳ nữ đã chờ ở cổng, sinh kể lại mọi chuyện, cô ta im lặng đi ra như giận sinh không hết lòng. Sinh đuổi theo tiễn, nói "Xin về thưa với nương tử rằng nếu việc không xong thì ta sẽ liểu mạng chết theo”. Quay vào trằn trọc cả đêm không nghĩ ra được kế gì, gặp lúc trong dinh có người thiếp yêu của Tuần phủ muốn mua ngọc, bèn lấy cành hoa khảm ngọc lên biếu, nàng ta thích lắm, liền trộm ấn đóng cho sinh. Mang về tới nhà thì người tỳ nữ cũng vừa tới. Sinh cười nói "May mà không nhục mệnh, nhưng vật mấy năm nghèo khổ xin ăn không nỡ bán nay đã phải bỏ vì chủ nhân của nó rồi!". Kế kể lại mọi chuyện, nói "Vàng ròng vứt đi ta cũng không tiếc, nhưng nhờ nhắn với nương tử rằng cành hoa khảm ngọc thì phải đền đấy”. Qua mấy hôm, Phó công tử tới tạ ơn, biếu một trăm lượng vàng. Sinh sầm mặt nói “Sở dĩ ta làm thế là vì lệnh muội đã ban ơn cho ta không cầu báo đáp thôi, nếu không thì dù vạn lượng vàng cũng há đủ thay đổi danh tiết sao!". Cố ép thì sinh lời lẽ sắc mặt càng giận dữ, công tử thẹn thùng ra về, nói "Chuyện này chưa xong được". Hôm sau người tỳ nữ vâng mệnh cô gái đem biếu một trăm viên ngọc, hỏi “Bấy nhiêu đủ đền cành hoa khảm ngọc rồi chứ?”, sinh đáp "Ta trọng cành hoa ấy không phải vì quý ngọc trai, nếu không vật báu vạn dật tặng cho ngày trước ta đã bán đi để làm một anh nhà giàu rồi, còn nâng niu giữ gìn cam chịu nghèo khó làm gì? Nương tử là người thần, tiểu sinh nào dám mong gì khác. Nay may đã báo đáp được chút ơn lớn, chết cũng không ân hận". Người tỳ nữ đặt ngọc lên án, sinh vái tạ rồi trả lại.





Qua mấy hôm, công tử lại tới sinh cho bày tiệc khoản đãi, công tử cũng sai người hầu xuống nấu nướng. Hai người đối diện cạn chén, vui vẻ như người nhà. Vừa gặp lúc có ngươi biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, nói với sinh rằng "Ông ngay thẳng thanh cao mà hai anh em ta đều mờ tối không biết sớm, thật vô cùng xấu hổ với kẻ quần thoa. Cha ta cảm đức lớn, không biết lấy gì báo đáp, muốn cho em gái ta kết duyên với ông, chỉ sợ ông hiềm u minh khác nẻo”. Sinh mừng mùng sợ sợ không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt ra về, nói “Đêm mai là mồng chín tháng bảy, lúc trăng vừa lên, có cô cháu gái Thiên tôn lấy chồng, đó là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa”. Đêm sau quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường.





Sau ba ngày, cô gái đối với người trong nhà từ anh chị tới tôi tớ lớn nhỏ đều có quà tặng. Lại rất hiền thục, thờ chị dâu như mẹ chồng. Mấy năm không sinh nở, khuyên chồng lấy vợ lẽ nhưng sinh không nghe. Gặp lúc anh đi buôn ở Giang Hoài mua về cho một người thiếp trẻ tuổi họ Cố tên Bác Sĩ, dung mạo cũng xinh xắn, vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên tóc nàng có cài cành hoa khảm ngọc rất giống vật cũ năm trước, rút xuống xem quả đúng, lấy làm lạ hỏi. Nàng đáp "Trước có người vợ của quan Tuần phủ chết, tỳ nữ của bà ta ăn cắp đem bán ở chợ, cha thiếp mua luôn đem về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ sinh được một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau cha thiếp mất, nhà cửa sa sút, thiếp phải sống nhờ ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai nhiều lần muốn đem bán, vì thiếp nhảy xuống giếng tự tử nên đến nay mới còn”. Vợ chồng mừng nói "Vật qua mười năm lại về chủ cũ, chẳng phải là số sao?". Cô gái lấy ra một cành hoa khảm ngọc khác, nói "Vật này không có đôi lâu lắm rồi!", nhân ban luôn cho ngươi thiếp, tự tay cài lên tóc cho.





Người thiếp lui ra, hỏi gia thế cô gái rất kỹ nhưng người nhà đều không dám nói, bèn lén nói với sinh rằng "Thiếp trông nương nữ không phải là người trần. Trong khoảng mắt và mày có thần khí, hôm qua cài cành hoa cho, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ trong da thịt toát ra, không phải như người thường chỉ hơn nhau ở chỗ xấu dẹp trắng đen thôi đâu”. Sinh cười, nàng nói "Xin chàng đừng nói gì để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì cứ nhân lúc vắng người thắp hương cầu khấn thì họ sẽ biết". Cô gái có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ thích nhưng chưa dám nói, lập tức thắp hương cầu khấn trong phòng. Sáng ra cô gái dậy sớm, chợt mở rương lấy đôi tất sai tỳ nữ đem cho Bác Sĩ. Sinh thấy thế bật cười, cô gái hỏi duyên cớ, bèn kể lại chuyện, nàng nói “Con nhãi mới ranh làm sao!". Nhân thấy Bác Sĩ thông minh càng yêu thưong, mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ mờ sáng là tắm gội tới hầu. Sau Bác Sĩ sinh một lần được hai trai, hai người chia nhau nuôi. Năm sinh tám mươi tuổi, diện mạo cô gái vẫn như lúc chưa lấy chồng. Sinh mắc bệnh, nàng thuê thợ đóng quan tài, bảo làm to gấp đôi bình thường. Lúc sinh chết nàng không khóc, các con vùa ra ngoài thì nàng nằm vào áo quan mà chết, vì vậy cùng chôn chung, đến nay vẫn truyền tụng là Ngôi mộ quan tài to.





Dị Sử thị nói: Cô gái là thần mà Bác Sĩ biết được, là dùng thuật gì vậy? Mà nàng biết được người khác thông minh, thật còn thiêng hơn cả thần nữa.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 161 - 162 -

Tương Quần

(Tương Quần)


Án Trọng là người huyện Diên An tỉnh Thiểm Tây, ở chung với anh là Bá, anh em rất thương yêu nhau. Bá được ba mươi tuổi thì chết, kế đó vợ cũng chết. Trọng rất đau đớn, thường nghĩ nếu có hai con trai sẽ để một đứa làm con nuôi lo việc hương hỏa cho anh. Nhưng vừa sinh được một trai thì vợ Trọng chết. Trọng lo vợ kế không thương con mình nên chỉ định cưới thiếp. Thôn bên có người bán tỳ nữ, Trọng qua xem mặt nhưng không vừa ý, trong lòng chán nản lại bị bạn bè giữ lại uống rượu nên say khướt mới về. Dọc đường gặp bạn học cũ là Lương sinh, Lương nắm tay mời mọc về nhà bằng được, Trọng say quá cũng quên bẵng bạn đã chết nên đi theo. Vào cổng thấy không phải là căn nhà ngày trước, lấy làm lạ hỏi thì bạn đáp mới dời nhà về đây. Vào tới nhà, Lương định lấy rượu ra mời thì rượu trong nhà đã hết, bèn dặn Trọng ngồi đợi rồi xách vò đi mua.


Trọng ra cổng đứng ngóng, thấy một người đàn bà cưỡi ngựa đi qua, có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi theo sau, mặt mũi dáng vẻ giống hệt anh mình, thấy chạnh lòng bèn rảo bước theo. Hỏi đứa nhỏ họ gì, nó đáp là họ Án. Trọng càng kinh ngạc, lại hỏi cha cháu tên gì, nó cười đáp là không biết. Trò chuyện tới đó thì tới nhà, người đàn bà xuống ngựa vào trong. Trọng cầm tay đứa nhỏ hỏi "Vào xem cha cháu có nhà không", nó dạ dạ rồi vào. Giây lát có một người đàn bà bước ra nhìn, thì đúng là chị dâu Trọng. Chị dâu ngạc nhiên hỏi sao chú lạỉ tới đây, Trọng buồn bã theo vào, thấy nhà cửa cũng cao ráo sạch sẽ. Hỏi anh đi đâu, chị dâu đáp "Đi đòi nợ chưa về", lại hỏi người đàn bà cưỡi ngựa là ai, đáp "Đó là thiếp của anh chú, họ Cam, sinh được hai trai. Đứa lớn là A Đại, đi bán hàng chưa về, đứa chú gặp là A Tiểu”. Trọng ngồi một lúc lâu, đỡ say mới biết rằng mình gặp đây toàn là ma, nhưng vì anh em vốn thương yêu nhau nên cũng không sợ hãi gì.


Chị dâu hâm rượu dọn cơm, Trọng nóng ruột muốn gặp anh nên giục A Tiểu đi tìm. Lát sau nó khóc lóc trở vể, nói “Nhà họ Lý thiếu nợ không chịu trả, lại đánh nhau với cha". Trọng nghe thế vội cùng A Tiểu chạy tới nhà họ Lý, thấy hai người đang đè anh xuống đất đấm dá. Trọng tức giận xông vào đánh túi bụi khiến bọn kia dạt cả ra, cứu được anh đứng dậy. Bọn kia đều bỏ chạy, Trọng đuổi theo túm được một người, đánh cho bò lê bò càng. Rồi đứng lên cầm tay anh khóc ròng, anh cũng khóc. Về tới nhà, mọi người kéo lên hỏi han, rồi bày rượu dọn cơm, anh em cùng uống với nhau. Lát sau có một thiếu niên bước vào, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, Bá gọi là A Đại, bảo tới chào chú. Trọng kéo nó tới gần rồi nhìn anh khóc, nói "Đại ca dưới suối vàng có được hai trai nhưng phần mộ trên kia không ai quét dọn, con em thì còn nhỏ lại mồ côi mẹ, biết làm thế nào?” Bá cũng bùi ngùi, chị dâu Trọng bèn nói “Hay là cứ cho A Tiểu đi theo chú?". A Tiểu nghe thế cứ nép vào nách Trọng, có vẻ quyến luyến không muốn rời ra. Trọng vỗ về nó, lòng càng thêm chua xót, hỏi có thích theo chú không? Nó thưa là thích, Trọng nghĩ tuy nó là ma không phải người, nhưng có nó bên cạnh cũng được an ủi hơn không, mới thấy vui vẻ.


Bá nói “Theo chú lên trần gian thì không được lười biếng, cứ ăn nhiều thịt vào, ban ngày phải ra ngoài nắng đến trưa thì thôi. Con mới sáu bảy tuổi, qua xuân sang hạ thì sẽ mọc xương thịt như người, có thể lấy vợ sinh con, chỉ duy không được thọ thôi". Đang khi trò chuyện, thấy ngoài cửa có một cô gái đứng nghe, ý tứ rất đằm thắm. Trọng nghĩ là con gái anh bèn hỏi, anh đáp “Cô ấy tên Tương Quần, là em gái người thiếp của anh, mồ côi cả cha mẹ, ở đây đã mười năm nay". Trọng hỏi có chồng chưa, Bá đáp chưa, nhưng mới rồi có người mai mối tới hỏi cho một nhà làm ruộng ở thôn Đông. Cô gái nói khe khẽ ngoài cửa “Ta không lấy chồng chăn trâu ở nhà quê đâu”. Trọng chợt thấy yêu mến, nhung chưa tiện nói ra. Cơm xong Bá vào dọn giường trong phòng sách, giữ Trọng ngủ lại. Trọng vốn không muốn ở lại nhưng có ý quyến luyến Tương Quần, định tìm cách dò ý anh, nên chào Bá rồi vào phòng.

Lúc ấy mới đầu mùa xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng chẳng có chút than lửa nào, Trọng lạnh run cầm cập ngồi một mình trước đèn, thầm muốn có chút rượu uống. Bỗng A Tiểu đẩy cửa bước vào, đặt một bát canh, một đấu rượu lên bàn. Trọng mừng quá, hỏi ai nấu, nó đáp là dì Tương. Trọng uống rượu xong, nó lại bưng chậu than vào khơi tro thổi lửa đặt xuống dưới giùong. Trọng hỏi "Cha mẹ cháu ngủ chưa?", nó đáp “Ngủ lâu rồi". Lại hỏi "Cháu ngủ ở đâu?", nó đáp “Ngủ chung với dì Tương", rồi chờ chú nhắm mắt mới khép cửa đi. Trọng nghĩ Tương Quần thông minh hiểu ý mình, càng thêm yêu mến, lại thấy nàng chăm sóc được A Tiểu, nên càng quyết ý cưới bằng được, trằn trọc thâu đêm không hề chợp mắt. Sáng ra nói với anh rằng "Em lẻ loi không có vợ, phiền đại ca lưu ý cho”. Bá nói "Nhà ta chẳng phải nghèo khó gì, có tiền thì cưới được vợ, chứ dưới cõi âm này dẫu có ngươi đẹp cũng e chẳng ích lợi gì cho em". Trọng nói "Người xưa cũng có vợ ma, có hại gì đâu , Bá có vẻ hiểu ý, liền nói "Tương Quần cũng đẹp, vả lại nếu lấy chiếc kim lớn đâm vào người mà máu chảy không thôi thì cũng có thể làm vợ người sống, cần gì phải gấp?". Trọng nói “Có Tương Quần chăm sóc cho A Tiểu thì cũng được”. Bá lại lắc đầu Trọng năn nĩ mãi. Chị dâu Trọng nói "Nếu thế thì bắt lấy Tương Quần thử xem, nếu không được thì thôi”. Rồi cầm kim bước ra, gặp Tương Quần ngoài cửa vội chụp lấy cổ tay nàng thì đã thấy có vết máu rõ ràng, té ra nàng nghe Bá nói đã tự đâm kim vào tay để thử rồi, chị dâu Trọng phì cười buông tay nàng ra.


Người thiếp của Bá nghe thế nổi giận sấn tới trước mặt Tương Quần, dí tay vào trán nàng xỉa xói, mắng "Con đĩ không biết thẹn, muốn trốn theo chú nó à? Ta nói cho ngươi biết là đừng có mơ”. Tương Quần vừa thẹn vừa uất, chạy đi định tự tử cả nhà náo loạn. Trọng ngượng quá vội chào anh chị, dắt A Tiểu đi. Anh dặn “Em cứ về đi, đùng đưa A Tiểu xuống đây nữa, sợ làm tổn hại sinh khí của nó”, Trọng vâng dạ. Về tới nhà, nói dốỉ tăng tuổi của A Tiểu lên, bịa chuyện rằng anh có cưới người thiếp, đứa nhỏ này là đứa con của anh, mồ côi từ lúc còn trong bụng mẹ. Mọi người thấy nó giống Bá như đúc, đều tin là thật. Trọng dạy A Tiểu học, bắt cứ mang sách ra nắng ngồi đọc, ban đầu nó khổ lắm, sau dần dần quen. Đến giữa tháng sáu thì bàn ghế cũng nóng như thiêu mà đứa nhỏ vẫn nô đùa đọc sách, không hề kêu ca. Đứa nhỏ lại rất thông minh, đêm đêm nằm với chú gác chân lên nhau, đọc bài thuộc làu làu Trọng được an ủi rất nhiều, lại vì không quên được Tương Quần nên cũng không nghĩ gì tới việc cưới thiếp nữa.

Một hôm có hai bà mối tới bàn chuyện hỏi vợ cho A Tiểu, nhưng trong nhà không có ai lo chuyện cơm nước mời khách, Trọng ngồi mà lòng như lửa đốt. Chợt người chị dâu họ Cam từ ngoài đi vào nói "Chú đừng trách, ta đưa Tương Quần tới cho chú đây. Hôm trước vì nó không biết thẹn nên ta mới chửi cho, chứ người đường đường như chú mà không chịu theo thì còn muốn theo ai!". Trọng thấy Tương Quần đứng phía sau, vô cùng mừng rỡ, mời chị dâu ngồi, nói rõ việc có khách ở nhà trước rồi bước vội ra. Giây lát quay vào thì Cam thị đã đi. Tương Quần xắn tay áo vào bếp, dao thớt khua ran, phút chốc thức ăn dọn lên la liệt, món nào cũng ngon lành. Khách về rồi, Trọng vào thì Tương Quần đã ăn mặc đẹp đẽ ngồi ngay ngắn trong phòng, hai ngươi bèn làm lễ giao bái. Đến tối, nàng muốn ngủ chung với A Tiểu như trước, Trọng nói "Ta lấy khí dương để ủ ấm cho nó, không thể rời ra được". Vì vậy để nàng ở một phòng riêng, chỉ khi chiều tối cùng nhau ăn uống mới cho A Tiểu tới gặp thôi.


Tương Quần chăm sóc con Trọng như con đẻ, Trọng càng khen ngợi nàng là hiền. Một đêm vợ chồng nằm chung, Trọng hỏi đùa rằng cõi âm có người đẹp không. Tương Quần nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp "Chưa thấy, nhưng có cô gái láng giềng là Uy Linh Tiên, nhiều người cho là đẹp, có điều mặt mũi cũng như mọi người nhưng trang điểm khéo lắm. Thiếp quen chị ta đã lâu, nhưng vẫn khinh bỉ là kẻ lẳng lơ. Nếu muốn thì trong chớp mắt là gặp được ngay, nhưng hạng người ấy không đáng mời mọc". Trọng nóng ruột muốn gặp một lần, nàng cầm bút như định viết thư, kế lại buông xuống nói "Không được, không được?". Trọng ép mấy lần, nàng nói "Đừng để bị thị quyến rũ đấy!”, Trọng hứa sẽ theo lời Tương Quần liền vạch mấy nét lên giấy như vẽ bùa rồi đem ra ngoài cửa đốt. Giây lát có tiếng rèm khua rồi tiếng cười khanh khách, nàng ra đón Uy Linh Tiên vào, thấy tóc búi cao, dung mạo như tranh vẽ. Tương Quần kéo cùng ngồi xuống giường, uống rượu trò chuyện. Uy Linh Tiên mới gặp Trọng thì lấy tay áo che miệng, không chịu nói chuyện với chàng, nhưng uống vài chén rồi thì cười đùa ngả ngớn chẳng e ngại gì. Trọng trong lòng mê mẩn như bị hớp hồn, nhưng lại ngại có Tương Quần trước mặt, mà Tương Quần cũng ra sức đề phòng, không lúc nào rời chàng. Chợt Uy Linh Tiên đứug lên, vén rèm bước ra. Tương Quần bước theo, Trọng cũng bước theo, Uy Linh Tiên dắt tay Trọng bước mau vào phòng khác.


Tương Quần hận lắm nhưng không biết làm thế nào, chỉ uất ức quay vào phòng nghe ngóng mà thôi. Lát sau Trọng trở vào, Tương Quần trách "Chàng không nghe lời thiếp, sợ là sắp tới không khước từ được thị đâư . Trọng ngờ là nàng ghen tuông, bực bội quay ra. Đêm sau Uy Linh Tiên không được mời cũng tự tới, Tương Quần tỏ vẻ hằn học, đối xử chẳng có chút gì lễ phép, Tiên lại cùng Trọng đưa nhau qua chỗ khác. Mấy đêm liền như thế, Tương Quần cứ thấy Tiên tới là mắng chửi nhưng cũng không sao ngăn cấm thị được. Hơn tháng thì Trọng ngã bệnh không dậy nổi, rất hối hận bèn gọi Tương Quần qua ngủ cùng phòng để canh chừng. Gần sáng Tương Quần mệt mỏi hơi lơ là, thì người và ma đã lại hành lạc với nhau rồi. Tương Quần vác gậy tới đánh Uy Linh Tiên, con ma căm tức đánh trả, Tương Quần yếu ớt nên tay chân đều bị thương tích.


Trọng bệnh cứ ngày một nặng, Tương Quần khóc nói “Thiếp còn mặt mũi nào nhìn thấy chị thiếp nữa?". Vài hôm sau Trọng mê man rồi chết, vừa nhìn thấy hai người lính lệ cầm trát bước vào, bất giác theo ra. Trên đường đi sợ không có tiền bạc gì, năn nỉ hai người lính lệ tiện đường ghé vào nhà anh. Anh nhìn thấy hoảng sợ tái mặt, hỏi em gần đây đã làm việc gì? Trọng đáp “Có làm gì đâu, chỉ là cái bệnh bị ma làm thôi”, rồi kể thật mọi chuyện. Anh nói "Ra thế", rồi đưa một túi bạc ra nói với hai người lính lệ rằng "Xin cảm phiền cầm cho, tội của em ta không tới nỗi phải chết, xin cứ tha ra, ta sẽ sai thằng con ta đi theo hai vị, chắc chắnkhông có chuyện gì đâu”. Rồi gọi A Đại sai tiếp đãi hai người, trở vào nhà trong kể lại chuyện cho vợ nghe, bảo Cam thị gõ vách gọi Uy Linh Tiên qua. Giây lát Tiên qua, nhìn thấy Trọng định chạy trốn, bị Bá túm lấy tóc mắng “Đồ con đĩ. Sống làm đàn bà bất trinh, chết làm con ma mất nết, đã trăm đứa cưỡi vạn đứa đè rồi lại còn ám em ta à?”. Rồi đánh cho tóc mây rối bù, mặt hoa bầm tím. Hồi lâu có một bà già vào nhà, lạy phục xuống đất năn nỉ. Bá lại trách bà để cho con gái buông tuồng, nhiếc móc một hồi mới bảo đưa con gái về.


Rồi Bá đưa Trọng về, chớp mắt đã tới nhà, vào thẳng trong phòng, Trọng chợt tỉnh dậy mới biết vừa rổi là mình đã chết. Bá trách Tương Quần "Ta với chị cô cho rằng cô hiền thục đảm đang mới sai theo em ta, nay lại muốn giục cho nó chóng chết à? Nếu không hiềm danh phận anh chồng em dâu, thì ta đã đánh cho một trận rồi đấy!". Tương Quần sợ sệt thẹn thùng khóc thút thít, lạy Bá tạ lỗi. Bá quay nhìn A Tiểu mừng rỡ nói "Con đã đúng là người sống rồi”. Tương Quần định đi làm cơm, Bá từ chối nói “Chuyện của em ta còn chưa xong, ta không rảnh được”. A Tiểu năm ấy được mười ba tuổi, đã hơi lớn nên biết quyến luyến cha, thấy cha ra đi, rơi nước mắt đi theo. Bá nói "Theo chú sướng lắm, cha đi rồi sẽ trở lại mà", rồi chớp mắt đã biến mất, từ đó không gặp nhau nữa. Sau A Tiểu cưới vợ sinh dược một con trai, đến ba mươi tuổi thì chết, Trọng chăm chút đứa nhỏ như chăm nom cháu ngày trước. Năm Trọng hơn tám mươi tuổi thì nó hơn hai mươi tuổi, mới cho ra ở nêng. Tương Quần không sinh nở lần nào, một hôm nói với Trọng rằng "Thiếp về nhà trước đuổi chuột được chứ?”, rồi ăn mặc đẹp đẽ vào giường nằm mà chết. Trọng cũng chẳng đau xót gì, nửa năm sau cũng chết.


Dị Sử thị nói:Kẻ thương yêu anh em như Trọng trong thiên hạ có được mấy người? Cho nên mới không chết mà còn được tăng thêm tuổi thọ đấy. Lúc sống không có con mà khi chết có người nối dõi, đó đều là nhờ tấm lòng thương xót người anh đã chết làm cảm động tới thần minh, nên việc người thì không có lý ấy, nhưng việc trời thì chắc phải có phận ấy chứ. Những kẻ dưới cõi âm sinh được con, mong nó nối theo nghiệp trước của mình hẳn cũng không ít, chỉ sợ các anh em ruột thịt được hưởng cả gia tài không chịu nhận về nuôi nấng mà thôi.

 



 




162. La Tổ 




(La Tổ)





La Tổ người huyện Túc Mặc (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ nghèo khổ nhưng thích bay nhảy. Năm ấy trong họ phải cắt một người đi lính thú ngoài biên, bèn cho La đi. La ở ngoài biên vài năm, sinh được một trai, lại được viên Thủ bị chỉ huy yêu mến. Kế viên Thủ bị được thăng làm Tham tướng Thiểm Tây, muốn đem La cùng đi. La bèn gởi gắm vợ con cho người bạn là Lý Mỗ rồi lên đường, suốt ba năm không có dịp về thăm. Gặp lúc Tham tướng muốn gởi thư lên biên ải phía bắc, La thưa xin cầm thư đi để nhân tiện đường ghé thăm vợ con, Tham tướng ưng thuận. La về tới nhà, thấy vợ con đều khoẻ mạnh, cũng được yên lòng, nhưng nhìn thấy dưới gầm giường có đôi giày đàn ông, trong lòng ngờ vực. Kế qua nhà Lý cám ơn, Lý bày rượu khoản đãi rất ân cần, vợ cũng nói Lý giúp đỡ đối xử tử tế, La cảm động lắm. Hôm sau nói với vợ rằng "Ta phải đi đưa thư cho chủ, chắc tối không về kịp đâu, nàng đừng chờ". Rồi ra cửa lên ngựa đi nhưng ngầm núp lại gần đó, đến khuya quay về thì nghe tiếng vợ và Lý uống rượu chuyện trò, nổi giận phá cửa vào. Hai người sợ hãi quỳ xuống van lạy. La đã tuốt đao nhưng lại tra vào vỏ, nói với Lý rằng "Ta vẫn coi ngươi là con người, nay lại như thế này, nếu giết đi chỉ làm bẩn đao của ta thôi. Vậy ta giao hẹn với ngươi, ngươi nhận lấy vợ con ta thì cũng phải ghi tên làm lính thay ta, ngựa nghẽo khí giới ta để cả lại đây cho ngươi, ta đi đây”, rồi bỏ đi.




 

Người làng cùng báo lên quan, quan phạt đánh trượng Lý. Lý bẩm thật mọi chuyện, nhưng việc không có gì làm bằng nên không tra xét được, sai tìm La khắp nơi vẫn không nghe tin tức gì. Quan ngờ rằng Lý tư thông với vợ nên giết chồng, càng giam cầm Lý và vợ La nghiêm ngặt, hơn một năm thì hai người đều chết trong ngục, quan sai lấy ngựa trạm đưa con La về Túc Mặc. Về sau ở dinh Thạch Hạp có dân vào núi kiếm củi gặp một đạo sĩ ngồi trong hang, không thấy ăn uống gì. Mọi người đều lấy làm lạ, đem thức ăn dâng, có người nhận biết nói đó là La. Cơm gạo chất đầy trong hang mà rốt lại La vẫn không ăn, lại tỏ vẻ ghét sự ồn ào, vì thế mọi người cũng dần dần ít tới đó. Vài năm sau ngoài cửa hang cỏ mọc như rừng, có kẻ tới nhòm trộm vào thấy La vẫn ngồi yên chỗ cũ không hề di chuyển. Lại khá lâu sau, người ta thấy La ra khỏi hang đi dạo trên núi, cho là đã bỏ đi, nhung tới nhìn vào hang thì thấy trên áo La vẫn đầy bụi như cũ, càng lấy làm lạ. Vài ngày sau lại tới xem thì thấy da thịt rã xuống, té ra đã tọa hóa từ lâu rồi. Dân vùng ấy lập miếu thờ, cứ cách ba tháng lại thắp hương đất vàng khấn khứa ngoài cổng. Sau con La tới đó, người ta đều gọi là "La Tổ nhỏ” giao hết tiền đèn hương cho. Đến nay con cháu vẫn mỗi năm tới đó một lần thu tiền đèn hương. Lưu Tông Ngọc ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) kể cho ta nghe chuyện này rất rõ ràng, ta cười nói “Những người mộ đạo Phật trên đời hiện nay không mong làm thánh hiền mà chỉ mong thành Phật tổ, xin nói với tất cả bọn họ rằng nếu muốn thành Phật ngay lập tức thì cứ buông đao xuống đất thôi".

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 163 - 168 -

Cây Quýt

(Quất Thụ)


Ông Lưu người Thiểm Tây làm Huyện lệnh Hưng Hóa (tỉnh Giang Tô). Có người đạo sĩ tới hiến một chậu cây cảnh, nhìn ra thì là một cây quýt nhỏ, thân cây vừa bằng ngón tay, ông từ chối không nhận. Nhung ông có cô con gái nhỏ mới sáu bảy tuổi, hôm ấy gặp ngày sinh nhật, đạo sĩ nói "Vật này không đáng biếu đại nhân thưởng ngoạn, chỉ là để chúc tiểu thư được phúc thọ thôi", ông bèn nhận. Cô gái vừa nhìn thấy cây quýt thì mừng quýnh, đem đặt trong phòng ngủ, sớm tối chăm sóc, chỉ sợ nó bị thương tổn. Năm ông Lưu thôi giữ chức Huyện lệnh, cây quýt đã lớn, bắt đầu kết trái. Khi ông thu xếp hành trang lên đường, thấy nó nặng nề cồng kềnh, bèn bỏ lại. Cô gái ôm cây quýt kêu khóc, người nhà nói dối rằng “Chỉ đi một thời gian sẽ trở lại mà", cô gái tưởng thật mới nín khóc. Nhung lại sợ có người khoẻ mạnh vác đi mất, bèn sai người nhà dời ra trồng dưới thềm rồi mới chịu lên đường. Cô gái về nhà, sau được gả cho họ Trang.


Năm Bính tuất Trang thi đỗ Tiến sĩ, được cử làm Huyện lệnh Hưng Hóa. Phu nhân rất mừng, song thầm nghĩ đã hơn mười năm, cây quýt chắc không còn. Tới nơi thì cây quýt đã lớn hơn mười ôm, trái kết từng chùm từng chùm, kể tới hàng ngàn. Hỏi thăm những người sai dịch cũ, họ đều nói sau khi ông Lưu đi, cây quýt rất tươi tốt nhưng không kết trái, đây là lần đầu tiên có trái, phu nhân lấy làm lạ lùng. Trang giữ chức ba năm, cây quýt ra trái rất sai, đến năm thứ tư thì xơ xác không có một cái hoa nhỏ. Phu nhân nói "Chàng không làm quan ở đây lâu nữa đâu”, đến mùa thu quả nhiên Trang được giải nhiệm.


Dị Sử thị nói:Cây quýt có túc duyên với cô gái chăng? Sao mà tao ngộ khéo như vậy? Kết trái tựa cảm ơn xưa, không hoa như đau ly biệt. Cây cỏ còn như vậy, huống là con người sao?



164. Người Đẹp Bằng Gỗ

 (Mộc Điêu Mỹ Nhân)


Nhà buôn Bạch Hữu Công kể lúc ở sông Lạc (huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thấy một người mang cái giỏ tre, dắt hai con chó lớn, lấy trong giỏ ra một người đẹp bằng gỗ cao hơn một thước, tay chân có thể cử động được, xinh đẹp như người sống. Kế lấy chiếc nệm gấm nhỏ phủ lên lưng chó, đặt người đẹp bằng gỗ ngồi lên, rồi quát chó chạy mau. Người đẹp bằng gỗ tự cử động, dong ngựa diễn kịch, đứng lên bàn đạp rồi nằm rạp xuống, ưỡn lưng ngã người tựa lên đuôi ngựa, vái lạy đứng ngồi vô cùng linh hoạt. Lại diễn vở Chiêu Quân xuất tái*, lấy ra thêm một người gỗ khác, đội mũ gắn lông trĩ, mặc áo bằng da dê cưỡi chó theo sau, Chiêu Quân cứ nấn ná quay nhìn thì người mặc áo da dê vung roi thúc đi mau, giống hệt như người sống vậy.


*Chiêu Quân xuất tái: Chiêu Quân ra ải. Chiêu Quân là cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị triều đình gả cho chúa Thiền Vu để hòa thân, lúc ra cửa ải vào đất Thiền Vu nàng có gảy khúc đàn tỏ lòng nhớ nước.


165. Kim Vĩnh Niên

(Kim Vĩnh Niên)


Kim Vĩnh Niên người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) tám mươi hai tuổi không có con, vợ thì bảy mươi tám tuổi, tự nghĩ đã hết hy vọng. Chợt nằm mộng thấy thần nói "Lẽ ra ngươi phải tuyệt tự nhưng nghĩ tới ngươi buôn bán lương thiện nên cho một đứa con trai". Kim tỉnh dậy kể với vợ, vợ nói “Thật là mơ mộng hão huyền, hai người đều đã sắp vào quan tài cả rồi, con ở đâu ra?". Không bao lâu người vợ thấy bụng máy động, mười tháng sau sinh được một con trai.


166. Hiếu Tử

(Con Hiếu)


Trước núi Đông Hương ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) có Chu Thuận Đình thờ mẹ rất có hiếu. Mẹ bị cái nhọt lớn ở đùi, đau không chịu nổi, đêm ngày rên rỉ. Chu bưng cơm sắc thuốc hầu hạ quên ăn quên ngủ mà mấy tháng mẹ vẫn không khỏi. Chu lo lắng không biết làm sao, nằm mơ thấy cha về nói “Mẹ con bị bệnh may nhờ được con có hiếu, nhưng bệnh này không có mỡ người thoa vào thì không khỏi được, con vất vả tội nghiệp quá". Tỉnh dậy lấy làm lạ, liển trở dậy lấy dao cắt thịt ở sườn, thịt đứt ra nhưng không đau lắm, vội lấy vải bó quanh bụng, cũng không thấy chảy máu. Rồi rán thịt lấy mỡ thoa cho mẹ, lập tức hết đau ngay. Mẹ mừng rỡ hỏi thuốc gì mà hay thế, Chu tìm lời nói dối. Bệnh mẹ dần dần bớt, Chu vẫn giấu kín vết thương chỗ cắt thịt, vợ con cũng không biết. Đến khi lành hẳn, có cái sẹo to bằng bàn tay, vợ hỏi mới rõ sự tình.


Dị Sử thị nói:Cắt thịt mình là việc làm thương tổn sự sống, người quân tử không coi là hay, nhưng người dân ngu dại nào biết rằng làm thương tổn thân mình không phải là hiếu đâu? Đó cũng là làm theo tấm lòng không lo cho mình mà thôi, có người như thế mới hay hạng con hiếu thật sự là do trời sinh. Những người coi việc phong tục giáo hóa lắm việc quan trọng, bận rộn không thể biểu dương cho họ, thì phải cậy tới cõi u minh làm rõ điều tốt kín đáo của kẻ kiếm củi hái rau vậy.


167. Sư Tử

(Sư Tử)


Nước Tiêm La cống sư tử, tới đâu cũng có người đón xem đông nghẹt. Nhìn hình dáng thì khác hẳn lời đồn hay tranh vẽ, lông đen ánh vàng dài khoảng vài tấc. Có người ném cho con gà nó giơ vuốt chụp lấy rồi thổi, thổi một hơi thì lông gà rụng sạch, về lý kể cũng lạ.



168. Cái Thẻ Tử Chàng

(Tử Chàng Lệnh)


Tiến sĩ Thường Đại Trung là người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây). Tới kinh đô chờ bổ nhiệm, đêm nằm mơ thấy Văn Xương đế quân tới gặp, rút thẻ bói thì được cái thẻ Tử Chàng*, lấy làm lạ. Sau Thường có đại tang trở về, hết tang trở lên kinh chờ bổ nhiệm, lại nằm mơ giống lần trước, tự nghĩ hay là mình đước bổ làm Tri huyện Tử Chàng chăng? Sau quả nhiên đúng thế.


* Văn Xương... Tử Chàng: Văn Xương đế quân theo truyền thuyết 1à họ Trương, sống vào thời Đường, giỏi văn học, chết làm thần coi việc khoa cử công danh. Tử Chàng là tên huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi ở của Văn Xương đế quân nên người ta còn gọi vị thần này là Tử Chàng đế quân. Cái thẻ Tử Chàng dịch chữ "Tử Chàng lệnh", chữ “lệnh" đây còn có nghĩa là quan Tri huyện.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

Quyển X - 169 - 170 -

Giả Phụng Trĩ

(Giả Phụng Trĩ)


Giả Phụng Trĩ người huyện Bình Lương (tỉnh Cam Túc) tài danh đứng đầu một thời nhưng cứ đi thi là rớt. Một hôm đi đường gặp người Tú tài tự xưng là họ Lang, phong thái tiêu sái, nói chuyện đâu vào đấy nên mời cùng về nhà, đưa văn bài ra nhờ sửa cho. Lang đọc xong, không khen ngợi lắm, nói “Văn chương của túc hạ thi khảo khóa thì đỗ đầu có thừa, mà vào trường thi thì đội bảng cũng thiếu”. Giả nói "Vậy thì làm thế nào!", Lang đáp “Chuyện đời nhìn lên thì khó, cúi xuống thì dễ, cần gì ta phải nói nữa", rổi chỉ ra vài bài văn của vài người làm mực thước. Đó đều là những kẻ Giả vốn khinh bỉ, nên nghe thế cười đáp “Kẻ học lập ngôn quý ở chỗ được lời bất hủ, như thức ăn ngon sánh với bát trân mà thiên hạ không cho là xa xỉ chứ ăn cắp công danh như thế thì dẫu có làm tới khanh tướng cũng vẫn hèn hạ”. Lang nói "Không phải thế. Văn chương dẫu hay mà thân phận hèn hạ cũng không được lưu truyền, nếu ông muốn ôm sách vở đến chết thì được, bằng không thì các quan chấm thi đều tiến thân bằng thứ văn chương tầm thường ấy cả, sợ không đọc nổi văn ông thì không lọt được vào mắt họ đâu”. Giả vẫn khăng khăng giữ ý mình, Lang đứng dậy cười nói "Kẻ thiếu niên hào hùng thật!", rồi chào đi.


Mùa thu năm ấy Giả thi hương lại rớt, sầu muộn bất đắc chí, chợt nhớ lời Lang nói bèn tìm những bài văn Lang đã chỉ cho miễn cưỡng đọc. Chưa hết bài thì buồn ngủ díp mắt, trong lòng ngờ vực không rõ là vì sao. Lại qua ba năm, sắp đến kỳ thi thì Lang lại tới, gặp nhau rất vui vẻ, nhân đưa bảy đề bài mình nghĩ ra bảo Giả làm. Qua hôm sau đòi xem, cho là không được, bảo làm lại, làm xong lại chê. Giả đùa, bèn xào xáo những câu văn sáo rỗng không ai nghe được trong các bài thi rớt ghép lại thành bài, chờ Lang tới đưa cho xem. Lang mừng nói “Thế này thì được rồi!", rổi bảo phải học thuộc lòng, dặn đi dặn lại bảo đừng có quên. Giả cười nói "Nói thật với ông, nhũng bài này không phải ta thật lòng viết ra, chớp mắt là quên ngay, có đánh đòn cũng không nhớ nối đâu” Lang ngổi ở đầu bàn, nói cứ cố đọc lại một lượt, kế bảo Giả vén áo lên, lấy bút vẽ một đạo bùa trên lưng rồi đi, nói "Bấy nhiêu là đủ rồi, đọc sách cho lắm cũng chỉ vô dụng". Giả xem lại đạo bùa thì rửa đi không sạch, thấm luôn vào thịt rồi.

Đến khi vào trường thi thì bảy đề bài đều đúng như của Lang, Giả nhớ lại các bài đã làm thì đều quên sạch, chỉ có những bài chắp vá để đùa là nhớ rõ mồn một. Nhưng đặt bút xuống lại thấy xấu hổ, cũng muốn sửa đổi một ít, song nghĩ nát óc mà không thay được chữ nào, mặt trời đã xế đành chép đúng rồi nộp quyển mà ra. Lang chờ đã lâu, hỏi sao muộn thế, Giả kể thật lại rồi xin xóa lá bùa, nhưng nhìn lại thì đã mờ hết. Nhớ lại lúc làm bài trong trường thi, thấy như là sống kiếp khác, vô cùng lạ lùng. Nhân hỏi Lang sao không dùng cách ấy để đi thi, Lang cười đáp "Chỉ vì ta không nghĩ tới việc thi ấy nên cũng không đọc nổi loại văn ấy". Rồi hẹn Giả ngày mai qua chỗ mình chơi, Giả ưng thuận. Lang đi rồi, Giả đem bản thảo bài làm ra xem lại, thấy khác hẳn lòng mình, lấy làm ấy náy, cũng chẳng qua thăm Lang, chán nản về nhà.

Không bao lâu ra bảng, quả Giả đỗ đầu. Lại lấy bản thảo cũ ra xem, đọc tới đâu toát mồ hôi tới đó, đọc xong thì áo ướt đẫm, tự nhủ "Văn chương này mà truyền ra thì làm sao dám gặp kẻ sĩ trong thiên hạ nữa?". Còn đang hổ thẹn thì Lang chợt tới, nói "Muốn thi đỗ thì đã thi đỗ rồi, còn buồn gì nữa?". Giả đáp “Ta đang nghĩ đúng là mâm vàng chén ngọc lại đem đựng phân chó, thật không còn mặt mũi nào gặp người quen, định sẽ vào núi gò mai danh ẩn tích, vĩnh viễn cắt đứt với thế tục đây!". Lang nói "Như thế thì rất cao thượng, chỉ e rằng không làm được thôi. Nếu làm được ta xin đưa ông tới gặp một người, có thể được trường sinh thì cái danh thơm ngàn thuở cũng không đáng tiếc, huống hồ là chuyện giàu sang thoảng qua ư?”. Giả mừng giữ Lang ngủ lại, nói "Cho ta nghĩ kỹ lại đã". Sáng ra nói với Lang rằng "Ý ta đã quyết rồi". Rồi không nói gì với vợ con, theo Lang nhẹ nhàng ra đi, dần dần vào núi sâu, tới một tòa động phủ, bên trong như một cõi trời đất riêng biệt. Thấy có một ông già ngồi trong sảnh đường, Lang dẫn Giả vào ra mắt, gọi là thầy. Ông già hỏi “Sao về sớm thế?", Lang thưa "Ngươi này lòng đạo đã bền, xin thầy thu nạp". Ông già nói “Ngươi đã tới đây, thì phải đặt thân mình ra ngoài thế tục mới đắc đạo được", Giả dạ dạ vâng lời.

Lang đưa tới một phòng, sắp xếp chỗ ngủ rồi, lại đem cơm tới mới đi. Phòng cũng sạch sẽ, có điều cửa lớn không có cánh cửa, cửa sổ không có chấn song, bên trong chỉ có một chiếc giường và một cái bàn. Giả cởi giày lên giường, trăng đã lên chiếu vào phòng. Thấy hơi đói bèn lấy cơm ra ăn, ngon ngọt khác thường. Thầm nghĩ chắc Lang sẽ lại tới, nhưng ngồi chờ hồi lâu vẫn im ắng, chẳng có tiếng động nào, chỉ thấy mùi hương man mác khắp phòng, tâm thần nhẹ nhõm, cảm nhận được cả khí huyết đang vận hành. Chợt có tiếng động lớn như mèo gãi sồn sột, hé mắt nhìn ra thấy có con cọp ngồi dưới thềm, thoáng hoảng sợ nhưng nhớ tới lời thầy dặn, lập tức trấn tĩnh ngồi yên. Cọp như biết có người, dần dần vào tới gần giường, thở khìn khịt ngửi chân Giả. Giây lát trong sân lại có tiếng phành phạch như gà bị trói giãy giụa, con cọp lập tức chạy đi. Giả ngồi một lúc nữa thì có mỹ nhân bước vào, hương thơm sực nức, im lặng lên giường ghé tai Giả nói nhỏ “Thiếp tới rồi đây!”, lúc nói nghe hơi thở cũng thơm phức. Giả vẫn thản nhiên không động đậy, mỹ nhân lại hạ giọng hỏi "Ngủ rồi à?", giọng nói rất giống vợ nhà. Giả hơi động lòng, mở mắt nhìn kỹ thì đúng là vợ mình. Hỏi làm sao tới được đây, vợ đáp ”Lang sinh sợ chàng thấy hiu quạnh muốn về, sai một bà già đưa thiếp tới”.

Vừa nói xong thì nghe tiếng ông già quát tháo, dần dần tới gần phòng, vợ Giả vội vùng dậy nhưng không có chỗ nào trốn núp, bèn leo qua chỗ tường thấp chạy ra ngoài. Giây lát Lang theo ông già vào, ông già cầm trượng đánh Lang ngay trước mặt Giả, rồi sai đuổi khách đi. Lang cũng đưa Giả theo chỗ tường thấp ra ngoài, nói “Ta mong mỏi còn ông viễn vông, không khỏi có chỗ hấp tấp, nhưng không ngờ ông lại chưa dứt được tình duyên làm ta bị trách phạt. Bây giờ hãy tạm về đi, sau này sẽ có ngày gặp lại” Bèn chỉ đường cho về, vái chào rồi chia tay. Giả nhìn xuống núi thấy quê nhà đã trước mắt, nghĩ rằng vợ chân yếu chắc còn trên đường, bèn rảo bước đi, hơn một dặm thì tới cổng nhà. Nhưng thấy tường vách tiêu điều khác hẳn cảnh ngày trước, già trẻ trong thôn chẳng thấy có ai quen, bắt đầu khiếp sợ.

Chợt nhớ đến tình cảnh Lưu Nguyễn từ Thiên Thai trở về cũng đúng như thế này nên không dám vào nhà, ngồi đợi trước cửa nhà đối diện. Hồi lâu trong nhà có ông già chống gậy bước ra, Giả vái chào rồi hỏi nhà Giả Mỗ ở đâu, ông già chỉ đáp "Đúng là nhà ấy đấy, có phải khách muốn hỏi chuyện lạ không? Ta biết rõ lắm. Nghe đồn rằng ông ta được tin thi đỗ thì bỏ trốn, lúc ấy con trai mới bảy tám tuổi, đến năm mười lăm tuổi thì bà mẹ chợt ngủ mãi không tỉnh dậy. Lúc người con còn sống thì hàng ngày vẫn thay áo đổi nệm cho mẹ, khi chết rồi hai người cháu nghèo khổ, phòng ốc hư dột chỉ lấy cành lá che tạm thôi. Tháng trước phu nhân chợt tỉnh dậy, tính lại thì đã hơn trăm năm rồi. Gần xa nghe chuyện lạ tới hỏi thăm nườm nượp, đến nay mới hơi thưa đấy".

Giả chợt hiểu ra, nói "Ông không biết đấy, chứ ta là Giả Phụng Trĩ đây” ông già cả kinh, chạy qua nhà Giả báo tin. Lúc ấy cháu nội đích tôn của Giả đã chết, cháu thứ hai tên Tường đã hơn năm mươi tuổi, thấy Giả mặt mũi còn trẻ ngờ là bịa đặt. Lát sau phu nhân ra mới nhận biết Giả, ứa lệ gọi cùng vào nhà. Khổ nỗi nhà không có phòng ốc gì, mới vào tạm nhà cháu nội, thấy trai gái lớn nhỏ chạy vào xúm xít đầy nhà, đều là chắt chít, tất cả đều nghèo hèn ít học. Cháu dâu trưởng là Ngô thị dọn cơm mời Giả, thức ăn chỉ có rau, lại bảo con thứ hai là Quả cùng vợ qua ở chung phòng với mình, nhường phòng lại cho ông bà. Giả vào nhà cháu nội ở thấy bụi bặm bẩn thỉu, đông đúc ồn ào, mới có vài ngày đã thấy không sao chịu nổi. Nhà hai cháu nội chia nhau đem cơm nước cho ông bà, nhưng nấu nướng rất không vừa miệng. Người làng thấy Giả mới về, ngày ngày còn mời đi uống rướu, chứ phu nhân thì thường không ngày nào được ăn no. Ngô thị vốn là con gái nhà sĩ nhân, được dạy dỗ có khuôn phép nên còn kính trọng ông bà, chứ nhà Tường thì việc cơm nước ngày càng tệ, có hôm còn gọi qua ăn cùng.

Giả nổi giận dắt phu nhân đi, mở trường dạy học ở thôn Đông, thường nói với phu nhân rằng "Ta rất hối hận đã trở về, nhưng không kịp nữa. Nên bất đắc dĩ phải theo nghiệp cũ, nếu trong lòng không có gì xấu hổ thì giàu sang cũng chẳng khó". Như thế hơn năm, Ngô thị vẫn thường cung đốn tiền gạo chứ cha con Tường thì bặt tăm. Năm ấy Giả thi đỗ vào trường huyện, quan huyện trọng văn tài nên tặng cho rất hậu, nhờ vậy trong nhà cũng được dư dật. Tường mon men tới thăm, Giả gọi vào bảo tính hết phí tổn cho mình trước đây, lấy tiền đưa trả rồi cấm cửa không cho gặp nữa. Kế mua nhà mới, gọi Ngô thị về cùng ở. Ngô thị có hai con trai, con lớn vẫn giữ nghề làm ruộng, con thứ là Quả rất thông minh, Giả bảo theo học chung với học trò mình. Giả từ lúc trong núi về, đầu óc càng minh mẫn, không bao lâu liên tiếp thi đỗ Cử nhân rồi Tiến sĩ. Vài năm sau được lấy hàm Thị ngự ra làm Tuần phủ Chiết Giang, oai danh lừng lẫy, trong nhà lầu gác đài tạ, dưới thềm yến ẩm đàn ca, nổi tiếng một thời.


Giả là người cứng cỏi, không sợ kẻ quyền quý nên đụng chạm tới nhiều quan lón trong triều, bèn dâng sớ xin về hưu nhưng chưa có chỉ dụ thì đã gặp tai họa. Nguyên Tường có sáu con trai, đều là hạng vô lại, tuy Giả đã cấm cửa không cho lui tới nhưng vẫn mượn danh Giả tác oai tác phúc, chiếm đoạt nhà cửa ruộng vườn của dân, người làng đều sợ. Có tên Ất vừa cưới vợ, bị con thứ của Tường cướp làm thiếp. Ất vốn là người trí trá nên người làng giúp tiền cho y đi kiện, chuyện tới tai trlều đình, các quan đểu dâng sớ hặc tội Giả. Giả không có cách nào biện hộ nên bị bắt giam. Được một năm thì Tường và đứa con thứ chết trong ngục, Giả được chỉ sung quân ở huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh). Năm ấy Quả vào học trường tỉnh đã lâu, tính rất nhân hậu, nổi tiếng tài giỏi. Phu nhân sinh được một con, năm ấy mười sáu tuổi, gởi gắm cho Giả rồi dắt một lão bộc, một bà già đi với chồng. Giả nói "Giàu sang hơn mười năm cũng không lâu bằng một giấc mộng, nay mới biết trường vinh hoa đều là một cõi địa nguc, hối hận vì Lưu Nguyễn lại gây ra thêm một cái án oan nghiệt vậy”.


Vàỉ hôm tới bờ biển xuống thuyền, thấy xa xa có một chiếc thuyền lớn chèo tới, đàn sáo rộn rã, bọn người hầu đều như thần tiên. Thuyền tới gần thì có một ngừữi bước ra, tươi cười mời quan Thị ngự qua trò chuyện một lúc Giả nhìn thấy người ấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nhảy luôn qua thuyền lớn, bọn lính áp giải không dám ngăn cản. Phu nhân vội vàng bước theo nhưng thuyền lớn đã rời xa, uất ức nhảy luôn xuống biển. Loi ngoi được vài bước thì có một người thả tấm lụa xuống cứu lên. Bọn lính áp giải bảo nhà thuyền chèo mau đuổi theo, vừa đuổi vừa quát tháo. Chợt nghe có tiếng trống thúc vang vang như sấm hòa vào với tiếng sóng ầm ầm, trong chớp mắt thì chiếc thuyền kia biến mất. Người lão bộc của Giả nhận ra người trên thuyền, nói đó là Lang sinh.


Dị Sử thị nói:Nghe dồn Trần Đại Sĩ* đi thi, viết xong bài rồi, đọc đi đọc lại mấy lần, than rằng “Ai cũng viết được thế này”,  bèn bỏ đi viết bài khác nên không đủ mực viết bài thi. Giả sinh xấu hổ bỏ trốn, cũng là có tiên cốt, nhưng lại quay về nhân gian rồi vì miếng cơm manh áo mà tự hạ mình, thật là bần tiện làm sao!


*Trần Đại Sĩ: bản Hương Cảng chú nhân vật này 1à người thời Minh, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh (1634).


170. Ba Kiếp

(Tam Sinh)


Anh Mỗ ở Hồ Nam nhớ được chuyện ba kiếp trước. Kiếp đầu làm quan huyện, được cử làm khảo quan kỳ thi hương. Có danh sĩ tên Hưng Vu Đường bị đánh rớt uất ức mà chết, cầm quyển thi tới âm ty kiện. Đơn kiện vừa đưa lên, những sĩ tử thi rớt mà chết kéo tới hàng vạn người, tôn Hưng đứng đầu, lúc tan lúc họp. Mỗ bị bắt tới đối chất với Hưng, Diêm Vương hỏi Mỗ coi việc cân nhắc văn chương, tại sao lại đánh rớt người tài sĩ mà lấy đỗ kẻ tầm thường. Mỗ phân trần rằng ở trên còn có quan Chủ khảo, mình chẳng qua chỉ là kẻ thừa lệnh mà thôi. Diêm Vương lập tức phát thẻ bài sai đi bắt viên Chủ khảo, hồi lâu giải tới, Diêm Vương thuật lại lới Mỗ, viên Chủ khảo nói “Ta chẳng qua chỉ là người xem lại lần cuối, nếu các quan Giám khảo không đưa bài lên thì làm sao ta đọc được?". Diêm Vương nói “Không được đổ lỗi cho nhau như thế, hai ngươi đều không làm tròn phận sự như nhau thôi", vừa sắp phạt đánh đòn hai người thì Hưng không vừa lòng bước ra gào lớn, đám ma đứng dưới thềm cũng la hét phụ họa.


Hưng nói trừng phạt như vậy quá nhẹ, phải khoét cả hai mắt để trị tội không biết đọc văn. Diêm Vương không chịu, đám ma càng la hét tợn, Diêm Vương nói "Tội của họ không phải là không muốn được văn hay, chỉ là ngu dốt thôi". Đám ma lại xin mổ tim, Diêm Vương bất đắc dĩ sai lột áo hai người, lấy dao bén rạch bụng, hai người đổ máu kêu la, đám ma vô cùng vui sướng, đều nói "Bọn ta uất ức dưới suối vàng chưa lần nào được phát tiết nỗi hận, nay nhờ Hưng tiên sinh mới được hả giận”, vui vẻ tan đi. Mỗ chịu tội mổ bụng xong, bị giải tới Thiểm Tây đầu thai làm con nhà thường dân. Năm hai mươi tuổi thì trong vùng có bọn giặc lớn gây loạn, Mỗ bị ép theo. Quan quân đánh dẹp phá tan, bắt được rất nhiều, Mỗ cũng bị bắt nhưng nghĩ mình bị ép chứ không phải thật lòng làm giặc, còn có thể phân trần được.


Đến khi ra mắt quan trên, thấy cũng chỉ hơn hai mươi tuổi, Mỗ nhìn kỹ thì ra là Hưng, sợ hãi nói "Chắc ta chết rồi". Kế đó Hưng cho tha hết những kẻ bị bắt, duy có Mỗ tới sau thì không cho phân trần gì, sai đem xử chém. Mỗ tới âm ty đưa đơn kiện Hưng, Diêm Vương không cho bắt ngay để chờ Hưng hướng hết lộc số. Ba mươi năm sau Hưng mới tới đối chất, Diêm Vương thấy coi thường mạng người nên phạt làm súc vật. Lại xét lại việc làm của Mỗ thấy lúc trước từng đánh đập cha mẹ, cũng phạt như Hưng. Mỗ sợ kiếp sau Hưng báo thù, nên xin làm con vật lớn. Diêm Vương bèn phạt Mỗ làm chó lớn, Hưng làm chó nhỏ. Mỗ thác sinh ở chợ phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc), một hôm đang nằm ở đầu đường thấy có người khách từ Nam lên, dắt theo một con chó lông vàng to bằng con mèo, nhìn lại thì ra là Hưng. Mỗ khinh là nhỏ xông vào cắn, bị con chó nhỏ táp vào cổ họng, đeo dính như cái lục lạc. Con chó lớn rẫy ra rồi đè con chó nhỏ xuống cắn, người trong chợ xúm lại giằng ra không được. Lát sau cả hai cùng chết, lại xuống âm ty tranh cãi với nhau. Diêm Vương nói "Oan oan tương báo đến bao giờ mới thôi được, nay ta sẽ cởi mối thù oán cho các ngươi", rồi phán kiếp sau Hưng sẽ làm con rể Mỗ.


Mỗ sinh ra tên Khánh Vân, năm hai mươi tám tuổi thi đỗ Cử nhân. Sinh được một gái đoan trang đẹp đẽ, các nhà thế tộc tranh nhau nhờ người tới hỏi, Mỗ đều chối từ. Ngẫu nhiên qua chơi quận bên, gặp lúc quan Học sứ xếp hạng các Chư sinh, người đứng đầu là họ Lý, thật ra là Hưng. Mỗ đưa về nơi trọ, đối xử rất ân cần, hỏi tới gia đình thì chưa có vợ, bèn hứa gả con gái cho. Mọi người đều cho rằng Mỗ quý kẻ có tài, chứ không biết thật ra là số phận. Kế đó Lý cưới con gái Mỗ, vợ chồng rất hòa hợp nhưng chàng rể cậy tài coi thường cha vợ, cả năm không tới thăm một lần, cha vợ cũng nhịn. Sau chàng rể trung niên lận đận, lao đao mãi vẫn không thi đỗ, Mỗ tìm đủ cách giúp đỡ cho mới được đắc chí ở khoa danh, từ đó hai người thương yêu nhau như cha con ruột vậy.


Dị Sử thị nói:Bị đánh rớt một lần mà ba kiếp chưa hết thù oán, căm hận đến thế thật là quá đáng. Diêm Vương thu xếp vốn rất hay, nhưng dưới thềm có hàng ngàn hàng vạn kẻ chen chúc như Hưng, chẳng lẽ những rể hiền trong thiên hạ đều là con ma kêu gào khóc lóc dưới âm ty sao!

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 171 -

Trường Đình

(Trường Đình)


Thạch Đại Phác người Thái Sơn (huyện Thái An tỉnh Sơn Đông) thích thuật nhương quỷ trừ tà. Có vị đạo sĩ gặp mặt khen là thông minh, nhận làm đệ tử, mở tráp lấy hai quyển sách, quyển thượng dạy trừ hồ, quyển hạ dạy trừ ma, đưa quyển hạ cho Thạch, nói “Cứ giữ kỹ sách này sẽ có cơm ngon vợ đẹp". Thạch hỏi tên họ, đạo sĩ đáp "Ta là Vương Xích Thành ở quán Nguyên Đế thôn Bắc Biện Thành (tỉnh thành Hà Nam)", rồi ở lại vài ngày dạy hết cho các ấn quyết. Thạch từ đó rất giỏi bùa phép, những kẻ mang lễ vật nhờ trừ tà ếm quỷ nối nhau tới mời. Một hôm có ông già tới, tự xưng là họ ông, bày đầy tiền lụa ra bàn nói có con gái bị bệnh ma làm gần chết, xin Thạch tới xem. Thạch nghe bệnh đã nguy, chối từ không nhận lễ vật, chỉ tạm tới để xem ra sao. Đi hơn mười dặm vào thôn trong núi, tới nhà thấy phòng ốc hành lang đều hoa lệ đẹp đẽ. Vào phòng thấy cô gái nằm trong màn the, tỳ nữ vén màn lên, Thạch nhìn thấy nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, thoi thóp trên giường, hình dung khô héo. Tới gần xem, chợt nàng mở mắt ra nói "Thầy giỏi đã tới!"


Cả nhà mừng rỡ cho biết rằng nàng đã không nói năng gì đã mấy ngày rồi. Thạch ra ngoài hỏi bệnh tình, ông già đáp cứ tối đến lại thấy một thiếu niên vào ngủ chung với nàng, đuổi bắt thì biến mất, lát sau lại xuất hiện, ngờ là ma. Thạch nói "Nếu là ma thì đuổi không khó, chỉ sợ là hồ thì thật không phải chuyện ta dám biết”. Ông già nói “Không phải đâu, không phải đâu”, Thạch bèn vẽ bùa đưa cho. Đêm ấy Thạch ngủ lại đó khuya thấy một thiếu niên áo mũ chỉnh tề đi vào. Thạch nghĩ là người trong gia đình chủ nhân, bước ra hỏi, thiếu niên đáp “Ta là ma đây, cả nhà họ ông đều là hồ, ta thích nàng Hồng Đình nên tới đây. Ma mà ám hồ thì không hại gì tới âm đức, việc gì ông phải giúp họ chia rẽ nhân duyên của ta? Chị nàng là Trường Đình còn đẹp hơn nhiều, ta xin kính cẩn để lại nguyên vẹn cho bậc cao hiền. Nếu họ hứa gả cho ông thì ông hãy giúp họ, ông cưới xong ta sẽ không tới đây nữa”, Thạch ưng thuận.


Đêm ấy thiếu niên không vào, cô gái hơi khỏe hơn. Sáng ra ông già mừng rỡ kể với Thạch, mời Thạch vào xem bệnh. Thạch đốt lá bùa đi rồi ngồi thăm bệnh, thấy sau tấm màn thêu có một nữ lang xinh đẹp như thiên tiên, biết đó là Trường Đình. Xem bệnh xong bèn đòi nước rửa phòng, nữ lang vội xách nước vào lúc lui tới cùng dọn dẹp, Thạch ngây ngất ngẩn ngơ, chẳng còn nghĩ gì tới việc trừ tà ếm quỷ cả. Thạch ra từ biệt ông già, lấy cớ về nhà chế thuốc, mấy ngày không trở lại. Ma càng lộng hành, trừ Trường Đình ra thì cả nhà từ con dâu tới tỳ nữ đều bị hành dâm. ông già lại sai đầy tớ mang ngựa tới đón, Thạch thác bệnh không đi. Hôm sau ông già tự tới, Thạch giả đau chân chống gậy bước ra. ông già chào xong hỏi thăm, Thạch đáp "Đây là cái khổ của kẻ góa vợ đây. Đêm qua đứa tớ gái dọn giường vấp ngã làm cái lò sưởi rơi vào chân ta". Ông già hỏi sao đã lâu mà không cưới vợ khác, Thạch đáp “Chỉ hận là không gặp được nhà nào thanh cao như nhà ông”.


Ông già im lặng bước ra, Thạch theo tiễn chân, nói "Lúc nào đỡ bệnh sẽ tự tới, đừng nhọc công dời gót ngọc tới đây làm gì". Vài hôm sau ông già lại tới, Thạch khập khiễng ra đón. Ông già hỏi han đôi ba câu rồi nói "Vừa rồi ta bàn với chuyết thê, nếu ông đuổi được ma cho cả nhà yên ổn, thì có tiểu nữ Trường Đình được mười bảy tuổi, xin sai tới phụng sự bậc quân tử". Thạch mừng rỡ lạy phục ngay xuống, rồi nói nếu ông già có nhã ý như vậy thì đâu dám có bệnh mà chần chừ. Lập tức lên đường, cùng cưỡi ngựa đi. Vào nhà xem qua hết những người bị ma làm rồi, lại sợ xong việc bị họ nuốt lời, xin bàn rõ với vợ chồng ông già. Bà già bước ra nói “Tiên sinh còn ngờ sao?", lập tức lấy chiếc trâm cài đầu của Trường Đình đưa Thạch làm tin. Thạch vái lạy xong liền tập hợp tất cả người nhà lại làm phép nhương trừ, riêng Trường Đình không bị gì thì vẽ một tấm bùa sai người nhà đưa tặng cho nàng đeo. Đêm ấy yên ắng, ma quỷ bặt tăm, chỉ có Hồng Đình còn rên rỉ không thôi. Thạch làm nước phép vào rảy cho nàng, bệnh tật lập tức tiêu tan gần hết. Thạch định chào về, ông già níu kéo giữ lại, đến xế chiều dọn rượu thịt lên la liệt, mời mọc rất ân cần, canh hai chủ nhân mới chào khách đi nghỉ.


Thạch vừa đi nằm thì nghe tiếng gõ của rất gấp, trở dậy mở cửa thì Trường Đình bước vào, dáng vẻ hớt hãi, nói là nhà thiếp mài dao muốn giết chàng, nên trốn ngay đi, nói xong vội quay ra. Thạch hoảng sợ không còn hồn vía nào, vội leo qua tường bỏ chạy, thấy xa xa có ánh lửa vội chạy tới, thì ra là người làng đi săn đêm. Thạch chờ họ săn xong cùng về, trong lòng căm túc không biết trút vào đâù, định tới đất Biện tìm Xích Thành nhưng nhà có cha già mắc bệnh đã lâu, nghĩ ngợi đêm ngày chưa biết tính bề nào. Một hôm có hai chiếc kiệu tới dừng ở cửa, thì là bà vợ ông già đưa Trường Đình tới, hỏi Thạch rằng "Đêm trước về rồi sao không tính kế?”. Thạch thấy mặt Trường Đình thì nỗi căm tức đều tiêu tan nên cũng không nói ra chuyện mình tính toán. Bà già giục hai người làm lễ giao bái ngay tại sân, xong rồi Thạch định làm cơm mời, bà nói "Ta đang bận rộn, không thể ngồi yên ăn ngon. Lão già nhà ta đầu óc tối tăm, nếu có gì không phải xin chàng vì Trường Đình mà nghĩ tới già này một chút thì may lắm", rồi lên kiệu đi.


Té ra ông già định giết con rể thì bà già không hay, đến lúc ông ta đuổi theo Thạch không kịp trở về thì bà mới biết, rất lấy làm bất bình, ngày nào cũng cãi vã với chồng. Trường Đình cũng khóc lóc không chịu ăn uống, bà già bèn ép đưa con gái tới cho Thạch, chứ họ ông không muốn. Trường Đình vào nhà rồi, Thạch hỏi han mới rõ sự tình. Được hai ba tháng, họ ông gọi con gái về thăm nhà, nhưng Thạch cho rằng nàng sẽ không được trở lại nên không cho đi, từ đó thỉnh thoảng Trường Đình lại rơi lệ. Hơn một năm nàng sinh con trai, đặt tên là Tuệ Nhi, thuê vú nuôi cho bú nhưng đứa nhỏ hay khóc, đêm nào cũng phải trả về ngủ với mẹ. Một hôm nhà họ ông lại mang kiệú tới, nói bà già nhớ con gái lắm. Trường Đình càng buồn bã, Thạch không nỡ giữ nên để nàng đi.


Nàng định bế con theo nhưng Thạch không cho, nàng bèn về một mình. Lúc ra đi hẹn một tháng sẽ quay về, nhưng nửa năm liền vẫn không có tin tức gì, Thạch cho người đến hỏi dò tin túc thì nhà cũ bỏ không không có ai ở. Được hai năm Thạch không mong đợi nữa, nhưng đứa con nhớ mẹ đêm nào cũng khóc ngằn ngặt, lòng như dao cắt. Kế cha bệnh mất, Thạch càng thêm thương tâm nên thành bệnh nằm liệt giường, việc tang lễ gác đó không sao tiếp đón khách khứa tới viếng. Đang lúc bối rối chợt nghe tiếng đàn bà khóc lóc đi vào, nhìn ra thì là Trường Đình mặc tang phục. Thạch đau lòng quá kêu lên một tiếng rồi ngất đi, người hầu gáỉ hoảng sợ la lớn, Trường Đình mới nín khóc vào chăm sóc. Hồi lâu Thạch mới tỉnh, nghĩ rằng mình đã chết, nói có lẽ đang gặp nhau ở suối vàng. Nàng nói “Không phải đâu. Thiếp bất hiếu không được lòng cha, bị giữ lại ba năm, thành ra phụ lòng chàng.


Gặp lúc dời nhà đi Hải Đông đi ngang đây, nghe tin cha chàng mất, thiếp tuân lệnh cha phải dứt tình nhi nữ nhưng không dám vâng lời sai mà bỏ lễ cha chồng con dâu. Thiếp về đây mẹ biết chứ cha không biết đâu”. Đang nói thì đứa nhỏ tới sà vào lòng, dứt lời nàng vỗ về con, khóc nói "Ta có cha nên con không có mẹ", đứa nhỏ cũng òa khóc, cả nhà đều rơi lệ. Nàng bước ra coi việc nhà, thức ăn mang lên cúng trước linh cửu đều đầy đủ sạch sẽ. Thạch được an ủi rất nhiều, nhung mắc bệnh đã lâu, nhất thời gấp rút không sao đứng dậy, Trường Đình bèn mời người anh họ ngoại của Thạch ra tiếp khách thay. Chôn cất xong Thạch mới đứng dậy được, chống gậy lo việc cúng trăm ngày. Kế Trường Đình từ biệt về để chịu tội trái lệnh cha, nhưng chồng níu con gào đành ẩn nhẫn ở lại.


Không bao lâu có người tới nói bà già mắc bệnh, nàng nói "Thiếp vì cha chàng mà tới, chàng lại không vì mẹ thiếp bị bệnh mà cho thiếp đi sao?", Thạch ưng thuận. Trường Đình bảo người vú bế con đi chơi rồi rơi lệ ra cửa lên đường, suốt mấy năm không trở về, cha con Thạch cũng dần dần quên đi. Một hôm sáng sớm vừa mở cửa thì Trường Đình nhẹ nhàng bước vào, Thạch hoảng sợ hỏi, nàng rầu rĩ ngồi xuống giường than “Thiếp sinh trưởng nơi khuê các, coi một dặm đã là xa, nay chỉ một ngày một đêm mà phải đi cả ngàn dặm, mệt gần chết". Thạch hỏi kỹ, nàng muốn đáp lại thôi, hỏi mãi mới khóc nói "Nay nói ra cho chàng hay, chỉ sợ điều làm thiếp đau lòng lại làm chàng khoái ý thôi. Năm rồi bên nhà tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), ngụ trong nhà thân hào họ Triệu. Chủ khách giao du thân mật, cha mới gả Hồng Đình cho công tử nhà ấy. Công tử vốn phóng đãng, gia đình không yên ấm, em thiếp về kể với cha, cha bèn giữ lại nửa năm không cho về. Công tử tử giận, chẳng biết mời được người ác ở đâu tới, sai thần tướng xiềng khóa cha già giải đi, cả nhà hoảng sợ trong chớp mắt bỏ chạy tứ tán” Thạch nghe thấy không kìm được bật cười ha hả, Trường Đình tức giận nói "Người ta tuy bất nhân cũng vẫn là cha thiếp, thiếp làm vợ chàng mấy năm chỉ có vui vẻ không có hờn oán, nay người mất nhà tan, trăm miệng lưu ly, dẫu chàng không thương cha cũng phải xót cho thiếp chứ. Thế mà nghe chuyện lại vui sướng múa lên, chẳng có lấy nửa lời an ủi, sao mà bất nghĩa đến thế?". Rồi phất tay áo bỏ ra, Thạch chạy theo tạ lỗi thì đã đi xa rồi, nghĩ lại thấy ân hận, trách mình nhẫn tâm.

Qua hai ba hôm thì bà già và con gái cùng tới. Thạch mừng rỡ hỏi thăm an ủi thì mẹ con cùng lạy phục xuống đất. Thạch hoảng sợ hỏi, hai người đều khóc, Trường Đình nói “Thiếp nổi giận bỏ đi, nay lại không thể giữ ý lại định nhờ người, còn mặt mũi nào nữa?". Thạch nói "Tuy cha bất nhân nhưng ơn của mẹ, tình của nàng thì ta không bao giờ quên. Vả lại nghe tai họa mà vui cũng là thói thường của con người, sao nàng không nhịn ta một chút?” Nàng nói “Mới rồi gặp mẹ trên đường, mới biết người bắt cha chính là thầy của chàng”. Thạch nói "Nếu đúng như thế thì cũng rất dễ, có điều nếu cha nàng không về thì cha con nàng chia lìa, nhưng e nếu cha nàng về thì chồng nàng khóc, con nàng khổ mà thôi". Bà già bèn thề độc, Trường Đình cũng thề nhất định sẽ đền ơn. Thạch bèn khăn gói lên đường tới đất Biện, hỏi đường tới quán Nguyên Đế thì Xích Thành mới trở về chưa lâu, bèn vào ra mắt. Xích Thành hỏi sao lại tới đây, Thạch nhìn xuống bếp thấy một con hồ già bị trói hai chân trước treo lên, cười nói "Đệ tử tới đây lần này chỉ vì con quỷ già kia". Xích Thành hỏi, Thành thưa “Đó là cha vợ của con đấy", rồi kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ cho rằng hồ gian trá xảo quyệt không thể khinh suất tha ra, Thạch nài nỉ mãi mới ưng thuận. Nhân lại kể rõ các thủ đoạn gian trá của hồ, hồ nghe thấy nép mình rúc vào lồng, có vẻ hổ thẹn.


Đạo sĩ cười nói "Té ra nó cũng còn biết xấu hổ". Thạch vào bếp xách ra, lấy dao cứa dây, hồ đau quá nghiến răng kèn kẹt. Thạch cứ ỡm ờ không chịu cắt cho đứt hẳn, cười hỏi "Cha đau lắm thì phải, thôi không cắt nữa được không ạ?". Hồ trừng trừng nhìn Thạch, vẻ rất căm hờn, kế được thả, vẫy đuôi ra khỏi quán đi luôn. Thạch chào thầy ra về, thì ba ngày trước đã có người tới báo tin ông già được thả, bà già liền về trước để con gái ở lại chờ Thạch. Thạch về tới, nàng ra đón lạy phục xuống đất, Thạch kéo đứng lên nói "Nếu nàng không quên tình nghĩa vợ chồng thì đừng cám ơn". Nàng nói “Từ nay trở đi bên nhà lại về ở chỗ cũ, làng xóm gần đây tin tức dễ dàng, thiếp muốn về thăm cha, ba ngày sẽ trở lại chàng có tin không?” Thạch đáp "Con sinh ra không có mẹ cũng chưa hề sứt mẻ, ta hàng ngày vắng bóng vợ đã trở thành quen nếp, thế mà không làm như Triệu công tử lại lấy ơn báo oán, như thế là đã hết lòng với nàng rồi. Nếu nàng không trở lại thì đó là bởi nàng phụ nghĩa, nhưng dẫu đạo lý như vậy vẫn không cần nói rõ, có gì mà không tin". Hôm sau Trường Đình đi, hai ngày thì trở về, Thạch hỏi sao đi mau thế, nàng đáp "Cha vì chuyện chàng chọc ghẹo ở đất Biện, tức tối không quên, cứ lải nhải nói mãi, thiếp không muốn nghe nữa nên về sớm” Từ đó hai mẹ con qua lại với nhau luôn, nhưng cha vợ chàng rể vẫn không hề thăm viếng gì nhau.


Dị Sử thị nói:Tính hồ phản phúc, xảo trá quá lắm, việc hối hôn hai con gái đều theo một kiểu, sự giả trá thế nào có thể biết được. Nhưng vì có chuyện cần mà gả con, thì cái ý hối hôn đã nảy sinh ngay từ lúc hứa hôn rồi. Còn chàng rể vì yêu con gái mà cứu ngươi cha, lẽ ra nên bỏ oán thù cũ để lấy lòng nhân đức mà cảm hóa, thế mà lại chọc ghẹo lúc đang nguy cấp, thì trách gì cha vợ đến chết cũng không quên! Nhưng cha vợ chàng rể trong thiên hạ không dung được nhau, đều như thế cả thôi.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 172 -

Tịch Phương Bình

(Tịch Phương Bình)


Tịch Phương Bình là người huyện Đông An (tỉnh Hà Bắc). Cha tên Liêm, thẳng tính nhưng nóng nảy, vì vậy có hiềm khích với nhà giàu họ Dương trong làng. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, nói với mọi người rằng "Lão Dương nay đang lo lót để âm ty sai người bắt ta”, giây lát toàn thân tấy đỏ lên, gào thét rồi chết. Tịch buồn thảm bỏ ăn, nói "Cha ta thật thà chất phác, nay bị quỷ dữ lấn hiếp, ta phải xuống âm phủ rửa hờn cho cha mới được”. Từ lúc ấy không nói năng gì cả, lúc ngồi lúc đứng, dáng vẻ như kẻ ngây ngốc, thì ra hồn đã lìa khỏi xác. Ban đầu Tịch ra khỏi cửa, không biết đi đâu, nhưng thấy trên đường có người bèn hỏi thành ấp. Lát sau vào tới thành, thì cha đã bị hạ ngục. Tới cửa ngục, xa thấy cha đang nằm dưới thềm, có vẻ rất khổ sở, ngước lên thấy con, nước mắt trào ra, kế nói "Bọn ngục lại đều ăn hối lộ, được dặn dò nên ngày đêm đánh đập tra khảo cha, đùi vế dập nát cả rồi". Tịch tức giận mắng bọn ngục tốt "Nếu cha ta có tội cũng đã có phép vua, bọn quỷ chết dịch chúng bay há lại được ngang ngược như thế à?”. Rồi trở ra tìm bút viết đơn, gặp lúc Thành hoàng ra phiên hầu buổi sáng, bèn đệ đơn kêu oan.

Họ Dương sợ, đút lót cả trong ngoài mới ra đối chất. Thành hoàng cho rằng lời tố cáo của Tịch không có bằng cứ, không thèm xét xử. Tịch uất ức mà không có chỗ giãi bày, mò mẫm tới hơn trăm dặm thì tới quận, đem việc quan lại chức dịch riêng tư túi trình với Quận thú, dây dưa nửa tháng mới được xử. Quận thú sai đánh Tịch một trận, phê đơn cho như Thành hoàng đã xét. Tịch về huyện, nếm đủ mùi gông cùm, đau đớn oan ức không sao hả giận. Thành hoàng sợ lại thưa kiện, sai nha dịch giải về nhà, nha dịch đưa tới cổng rồi đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống điện Diêm Vương, tố cáo Quận thú Huyện lệnh tham tàn. Diêm Vương lập tức cho bắt tới đối chất, hai người mật sai kẻ tâm phúc tới thương lượng, hứa biếu ngàn vàng, nhưng Tịch không chịu. Vài hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch "Ông ngang quá, quan trên đã năn nỉ mà còn cố chấp không chịu. Nay nghe đâu ai cũng đều có thư gởi gắm cho Diêm Vương, sợ việc hỏng mất". Tịch cho là lời đồn vu vơ cũng chưa tin lắm. Lát sau có người mặc áo đen gọi vào hầu, lên tới công đường thấy Diêm Vương có vẻ tức giận, không cho nói năng gì, sai đánh ngay hai mươi gậy.

Tịch lớn tiếng hỏi “Tiểu nhân có tội gì?", Diêm Vương im lặng như không nghe thấy. Tịch bị đánh kêu lớn “Bị đòn là đáng lắm! Ai bảo ta không có tiền!". Diêm Vương càng giận, sai đặt lên giường lửa. Bọn quỷ tốt lôi Tịch xuống, nhìn sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt đốt lửa ở dưới, mặt giường đỏ rục. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, đặt nằm lên giường lăn qua lật lại, vô cùng đau đớn, xương thịt cháy đen, khổ vì không chết được . Khoảng hơn một giờ, quỷ nói “Đủ rồi!” rồi đỡ dậy, bảo xuống giường mặc áo, may là còn gượng đi được, lại trở lại trước thềm. Diêm Vương hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp "Oan lớn còn chưa giải thì tấc lòng vẫn chưa thôi, nếu nói không kiện nữa thì là lừa dối đại vương mất, nhất định sẽ kiện nữa!". Lại hỏi lấy lời lẽ gì mà kiện, Tịch đáp "Những điều thân mình phải chịu đây đều là lời lẽ rồi". Diêm Vương lại nổi giận, sai dùng cưa xẻ thân ra, hai tên quỷ tốt liền kéo Tịch đi, thấy một cây gỗ dựng đứng cao hơn tám chín thước, dưới có hai tấm ván đặt ngửa, máu me bê bết từ trên tới dưới. Đang sắp chịu trói, chợt trên thềm có tiếng kêu lớn gọi họ Tịch, hai tên quỷ tốt lập tức điệu trở lại. Diêm Vương lại hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp nhất định sẽ kiện nữa, Diêm Vương sai bắt ra cưa mau.

Tới nơi bọn quỷ tốt lấy hai tấm ván kẹp Tịch lại rồi trói vào cây gỗ, lưỡi cưa vừa kéo xuống đã thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không chịu nổi nhưng cũng cố nhịn không kêu lên, bọn quỷ tốt nói "Gã trai này mạnh mẽ thật!” Lưỡi cưa ken két kéo xuống dần tới ngực, nghe một tên quỷ tốt nói “Người này chí hiếu vô tội, kéo chệch lưỡi cưa một chút, đừng làm thương tổn quả tim của y", liền cảm thấy lưỡi cưa vòng vèo kéo xương, còn đau gấp đôi. Giây lát nửa người tách ra, cởi dây buộc ván ra thì hai mảnh thân đều đổ xuống. Quỷ tốt lên thềm cao giọng trình báo, trên thềm sai chắp thân thể lại rồi giải lên gặp. Hai tên quỷ tốt lập tức xô hai mảnh thân dính lại, Tịch cảm thấy chỗ vết cưa đã liền còn đau rát như muốn xé ra, đi được nửa bước đã quỵ xuống. Một tên quỷ tốt rút sợi dây lưng bằng tơ ra đưa cho Tịch, nói “Tặng cho cái này để đền đáp lòng hiếu của ngươi”. Tịch cầm lấy buộc vào lưng chợt thấy khỏe lại, hết cả đau đớn, bèn lên thềm sụp lạy. Diêm Vương lại hỏi như trước, Tịch sợ lại phải chịu cực hình tàn độc, bèn đáp không kiện nữa, Diêm Vương lập tức sai đưa về dương gian. Lính lệ đưa ra cửa bắc, chỉ đường về rồi quay đi.

Tịch nghĩ âm ty lại còn ám muội hơn trần thế, nhưng không có đường nào để kêu với Thượng đế thì biết làm sao. Thế gian vẫn truyền thần Nhị Lang ở Quán Khẩu là họ hàng bên ngoại của Thượng đế, thông minh chính trực, tới kêu với ông ắt linh ứng phi thường. Thầm mừng vì hai tên lính lệ đã đi, bèn xoay người đi về phía nam. Đang lúc rong ruổi chợt có hai người đuổi tới, nói "Đại vương ngờ rằng ngươi không chịu về, quả đúng". Rồi bắt đưa về gặp Diêm Vương, Tịch nghĩ thắc Diêm Vương sẽ tức giận hơn, tai họa lại càng thảm khốc, nhưng Diêm Vương không hề có sắc giận, nói với Tịch rằng "Ngươi quả thành thực hiếu thảo, nhưug nỗi oan của cha ngươi ta đã rữa sạch cho rồi, nay đã đầu thai vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi phải kêu nài nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi sản nghiệp ngàn vàng, lại cho thêm tuổi thọ, ngươi thỏa nguyện chưa?". Rồi ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, cho nhìn tận mắt.


Tịch tạ ơn lui xuống, quỷ tốt cũng cùng ra, tới đường xua đi, mắng “Thằng giặc gian hoạt cứ tráo trở khiến người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết! Nếu còn giở trò sẽ bắt bỏ vào cối lớn nghiền cho nát vụn ra". Tịch trừng mắt quát “Thằng quỷ định làm gì? Tính ta chịu được dao cưa nhưng không chịu được roi vọt đâu. Cứ quay lại gặp đại vương, nếu ông cho ta tự về thì cần gì ai vất vả đưa tiễn?", rồi quay ngoắt trở lại. Hai tên quỷ tốt sợ ngọt ngào khuyên về, Tịch cố ý đi chậm rãi, cứ được vài bước lại ngồi xuống nghỉ cạnh đường, chúng nuốt giận không dám nói gì nữa. Khoảng nửa ngày thì tới một thôn, có ngôi nhà cánh cổng khép hờ, quỷ tốt kéo vào ngồi nghỉ, Tịch nhân ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ tốt nhân lúc không đề phòng, xô Tịch vào trong cửa, định thần nhìn lại thấy mình đã là đứa trẻ sơ sinh, phẫn uất kêu khóc không chịu bú, ba ngày thì chết, hồn ở nơi xa xôi vẫn chăm chăm tìm về Quán Khẩu.


Đi được vài ngàn dặm chợt gặp một chiếc xe cắm lọng lông chim đi tới, cờ quạt kiếm kích chắn ngang bèn băng qua đường để tránh, đụng vào hàng lỗ bộ nên bị đội kỵ mã dẹp đường bắt trói, giải tới trước xe. Ngẩng nhìn thấy trong xe có một thiếu niên tướng mạo khôi vĩ, hỏi Tịch là ai. Tịch đang lúc lòng đầy oán hờn không nơi phát tiết, lại nghĩ đây ắt là quan lớn, hoặc giả có thể ra oai làm phúc, bèn kể hết nỗi oan khổ. Người trong xe truyền lệnh cởi trói cho, bảo đi theo xe. Giây lát tới một nơi, có hơn mười viên quan ra đón bên đường. Người ngồi trong xe chào hỏi tất cả rồi chỉ Tịch nói với một viên “Đây là người dưới âm ty, đang muốn tới tố cáo, nên xét rõ trắng đen ngay". Tịch hỏi đám tùy tùng mới biết người ngồi trong xe là Cửu Vương Điện hạ, con thứ chín của Thượng đế, còn người đước dặn dò chính là thần Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang thấy mình cao râu rậm, không như thế gian vẫn đồn. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang tới một công thự, thấy cha và họ Dương cùng đám nha lại đều đã có mặt. Phút chốc trong xe lại có tù nhân bước ra, thì là Diêm Vương, quận thú và Thành hoàng. Lập tức lên thềm tra hỏi đối chất, thì lời Tịch khai không có chỗ nào gian dối. Ba viên quan run rẫy như chuột bò mọp dưới đất. Nhị Lang cầm bút phê bản án, giây lát sai đưa xuống cho những kẻ can án cùng xem. Lời phê như sau:


“Kẻ làm vua cõi U minh kia: tước tới bậc vương, chịu ơn Thượng đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch mà thống lĩnh quần thần, chứ không nên nảy ý gian tham để chuốc lời chê trách. Nhưng lại cờ giong lọng mở, khoe mẽ chức quyền, dê độc lang tham, làm nhơ danh tiết. Búa rìu vạc đẽo, thịt da mấy kẻ được còn, kình ngạc nuốt ăn, sâu kiến muôn dân đáng xót. Phải múc nước Tây Giang, cho nước rửa ruột* đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò**.


* Múc nước Tây Giang, cho ngươi rửa ruột: Ngũ đại sử chép Vương Nhân Dụ nhà Chu mơ thấy có người tự mổ bụng lấy nước Tây Giang gột rửa. Đây ý nói trị tội cho bỏ thói xấu cũ.


** Đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò: Tư trị thông giám chép Kim ngô đại tướng quân Khưu Thần Tích có tội bị giết. Có người tố cáo Hữu Thừa tướng Chu Hưng cũng thông mưu với Thần Tích, Thái hậu sai Lai Tuấn Thần hỏi cung. Tuấn Thần và Hưng vừa hỏi cung xong, cùng ăn cơm, Tuấn Thần hỏi “Tù nhân nhiều kẻ không nhận tội, nên làm thế nào?", Hưng nói "Lấy vò lón đặt than chung quanh đốt lên, cho tù nhân vào thì chuyện gì mà không nhận". Tuấn Thần bèn sai đốt vò như Hưng nói, rồi nói với Hưng "Có người tố cáo ông, mời ông vào vò”. Hưng khiếp sợ nhận tội. Đây ý nói dùng cách của kẻ làm quan ác để trị tội họ.


Thành hoàng, Quận thú là cha mẹ con dân, bề tôi Thượng đế. Tuy rằng chức quan không lớn, nhưng kẻ hết lòng không ngại cong lưng, có khi thượng cấp bất công, thì người có chí cũng cần cứng cổ. Thế mà trên dưới phóng tay tàn ác, mặc cho dân chúng khốn cùng, lại cứ ngang tàng thỏa ý gian tham, chẳng kể quỷ ma ốm đói. Vì của đút mà trái phép, thật dạ thú mà mặt người. Phải rửa tủy nhổ lông, theo phép âm ty chịu tội, kế lột da đổi lốt, bắt lên dương thế đầu thai.


Bọn sai nha thì đã ở âm tào, khác xa nhân thế. Lẽ ra phải cửa công rèn tính hạnh, chờ lúc hoàn sinh, sao dám làm bể khổ nổi ba đào, gây thêm tội nghiệt? Ngông nghênh giày xéo, mặt chó ra vẻ lầm lỳ, nhảy nhót thét gào, oai cọp chặn đường hống hách. Lộng quyền ra oai dữ, để U minh biết lính ngục là to, theo đóm để ăn tàn, giúp quan ác giết dân đen cho sướng. Phải đem ra pháp trường, chân tay chặt hết, bỏ vào vạc nóng, gân cốt luộc nhừ.


Họ Dương kia giàu có bất nhân, tinh ma lắm chước. ánh vàng chói đất, khiến điện Diêm La tăm tối mây mù, hơi đồng ngút trời, làm thành Uổng tử mịt mờ nhật nguyệt. Hơi tanh thừa còn sai được quỷ, sức bạc mạnh thông cả tới thần. Nên tịch thu gia sản họ Dương, để ban thướng hiếu tâm chàng Tịch".


Lập tức sai áp giải cả bọn ra núi Đông Nhạc hành quyết. Lại nói "Tịch Liêm, nghĩ tới con ngươi hiếu nghĩa, tính ngươi hiền lành, cho tăng tuổi thọ thêm ba kỷ nữa", rồi sai hai người đưa về làng. Tịch bèn sao lại bản án, dọc đường hai cha con cùng đọc. Về tới nhà Tịch tỉnh lại trước, bảo người nhà mở quan tài xem thì thấy xác cha còn cứng đờ lạnh ngắt, chờ trọn ngày mới ấm dần lên rồi sống lại, tìm tới tờ sao bản án thì không thấy đâu nữa. Từ đó ngày càng giàu có, trong khoảng ba năm ruộng tốt khắp nơi, mà con cháu họ Dương thì trở nên nghèo khổ, bao nhiêu nhà cửa ruộng vườn đều thành của họ Tịch. Trong làng có người mua ruộng nhà ấy, đêm ngủ mơ thấy thần quát "Đó là của họ Tịch, ngươi làm sao có được?". Trước chưa tin lắm, đến khi trồng trọt thì cả năm không thu hoạch được một đấu thóc, vì thế phải bán lại cho Tịch. Cha Tịch sống đến hơn chín mươi tuổi mới mất.


Dị Sử thị nói:Người ta đều nói tới sự giải thoát sau khi chết, mà không biết qua kiếp khác rồi thì ý niệm kiếp trước đều quên, vả lại đã không biết mình từ đâu tới thì làm sao biết mình sẽ về đâu, huống chi là kẻ chết rồi lại chết, sinh rồi lại sinh ư? Dốc lòng trung hiếu, gian khó không sờn, kỳ lạ thay Tịch sinh, sao mà hùng tráng như vậy! 

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 173 -

Tố Thu

(Tố Thu)


Du Thận tự Cẩn Am là con nhà thế gia cũ ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc). Lên kinh ứng thí, trọ ở ngoài thành, thường gặp một thiếu niên ở nhà đối diện, thấy hình dung đẹp đẽ, trong lòng rất thích. Lân la làm quen, chuyện trò thấy phong thái càng hơn người, cả mừng nắm tay đưa về chỗ mình trọ, bày tiệc thết đãi. Hỏi tới tên họ, thiếu niên tự xưng là người Kim Lăng (tỉnh Giang Tô), họ Du tên Sĩ Thầm, tự Tuân Cửu. Công tử nghe nói cùng họ với mình càng thêm quý mến, nhân kết làm anh em. Thiếu niên bèn giảm một chữ trong tên, đổi tên là Thầm. Hôm sau công tử tới thăm, thấy nhà cửa sáng sủa sạch sẽ nhưng vắng vẻ không có người hầu. Thiếu niên đưa công tử vào nhà trong, gọi em gái ra chào, thấy khoảng mười ba mười bốn tuổi, da dẻ mịn mà, bạch ngọc cũng không trắng bằng. Giây lát nàng bưng trà ra mời khách, như là trong nhà không có cả tỳ nữ. Công tử lấy làm lạ, trò chuyện vài câu rồi về, từ đó thương yêu họ như em ruột.


Tuân Cửu ngày nào cũng tới nhà công tử trọ chơi, nhưng nếu giữ lại ngủ thì lấy cớ em gái ở nhà một mình từ chối. Công tử nói “Em làm khách ngoài ngàn dặm, nhà lại không có trẻ sai vặt, hai anh em đều yếu ớt, làm sao mà sống. Tính lại chẳng bằng cứ về chỗ ta, cũng có gian phòng hẹp ở được, em thấy sao?". Tuân Cửu mừng rỡ, hẹn để sau khi công tử thi xong. Hôm công tử thi xong, Tuân Cửu tới mời, nói “Đêm Trung thu trăng sáng như gương, cô em Tố Thu có chén rượu nhạt mời, xin anh đừng làm nó buồn". Rồi kéo vào nhà trong, Tố Thu ra chào, hỏi thăm vài câu rồi trở vào nhà trong buông rèm nấu nướng. Giây lát tự bưng mâm ra, công tử đứng dậy nói "Muội tử vất vả quá, ta thật không đành lòng". Tố Thu cười quay vào, lát sau rèm vén lên, một tỳ nữ áo xanh mang bầu rượu ra, kế lại có một bà già mang cá lên. Công tử kinh ngạc hỏi “Bọn này ở đâu ra thế? Tại sao không ra hầu sớm để làm phiền tới muội tử”. Tuân Cửu mỉm cười nói “Tố Thu lại giở trò ma rồi", chỉ nghe sau rèm có tiếng cười khanh khách, công tử không hiểu đầu đuôi ra sao.


Kế tan tiệc, người tỳ nữ và bà già dọn dẹp mâm chén, công tử bật ho văng nước bọt trúng áo người tỳ nữ, cô ta ngã lăn xuống đất, bát chén vỡ nát. Nhìn lại thì là một hình nhân bằng vải cắt ra, cao chừng bốn tấc. Tuân Cửu phá lên cười, Tố Thu cũng cười bước ra dọn dẹp dưới đất rồi quay vào, lát sau người tỳ nữ lại trở ra, đi lại hầu hạ như cũ. Công tử vô cùng kinh ngạc, Tuân Cửu nói "Đó chẳng qua thuật mọn mời thần Tử Cô* muội tử học được lúc nhỏ đó thôi” Công tử nhân dịp hỏi sao hai em đều đã lớn khôn mà chưa cưới vợ lấy chồng, Tuân Cửu đáp vì sau khi cha mẹ mất hai anh em lưu lạc nay đây mai đó, chưa có chỗ ở nhất định nên mới để chậm như vậy. Rồi bàn bạc định ngày lên đường, kế bán nhà dắt em gái theo về quê công tử. Về tới nhà, công tử dành chỗ cho hai người ở, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Vợ công tử là con gái quan Thị lang họ Hàn, rất yêu thương Tố Thu, ăn uống gì cũng có nhau, công tử với Tuân Cửu cũng thế.


*Tử Cô: nữ thần trong tín ngưỡng dân gian Trung Hoa, tục truyền có thể nhập vào các hình nhân bằng vải hay bằng giấy.


Tuân Cửu rất thông minh, đọc sách chỉ đưa mắt qua là được mười hàng, làm văn thì ngay cả các bậc lão thành cũng không bằng được. Công tử khuyên dự thi khoa Đồng tử*, Tuân Cửu nói "Nếu theo đuổi nghiệp khoa cử thì cũng khổ như anh thôi. Tự xét mình phúc mỏng không kham nổi việc công danh, vả lại theo nghiệp ấy thì phải lo lắng về sự được mất nên không muốn”. Ba năm sau công tử lại thi rớt, Tuân Cửu tức giận hăng hái nói "Thi đỗ thì có gì mà khó đến như vậy? Em lúc đầu không muốn mê đắm trong chuyện thành bại nên cam phận ở yên thôi. Nay thấy đại ca thi không đỗ, bất giác nổi nóng, Đồng tử già mười chín tuổi cũng phải thi mới được". Công tử mừng rỡ, đến kỳ thi đưa Tuân Cửu vào trường, ba kỳ thi ở huyện, ở phủ, ở tỉnh đều đỗ đầu, lại càng ra sức cùng công tử đóng cửa đọc sách. Qua năm sau khảo thí, cả hai đều đứng đầu phủ huyện. Tuân Cửu rất có tiếng tăm, xa gần tranh nhau gả con gái cho nhưng đều chối từ.


* Khoa Đồng tử một loại khoa thi sát hạch những người có học trước khi đi thi hương, dành cho người từ 15 tuổi trở xuống, tương tự kỳ thi "thông kinh" ở Việt Nam ngày trước.


Công tử ra sức khuyên nên lấy vợ, bèn hứa là thi hương xong sẽ ưng. Thi xong, những ngướỉ hâm mộ tranh nhau chép văn bài của Tuân Cửu truyền tay đọc, Tuân Cửu cũng tự cho rằng mình không thể đỗ tới thứ hai. Đến khi ra bảng, thì cả hai anh em đều rớt. Lúc bấy giờ đang uống rượu, công tử nghe tin còn gắng gượng cười nói, nhưng Tuân Cửu thì tái mặt đánh rơi luôn chén rượu ngã gục ngay xuống bàn. Đỡ lên giường thì bệnh đã thành nguy kịch rồi. Vội gọi em gái tới, mở to mắt nhìn công tử nói “Hai người chúng ta tình như anh em nhưng thật ra không phải đồng tộc. Nay em tự biết mình có tên trong sổ ma rồi, Tố Thu đã trưởng thành, mong anh thương yêu đùm bọc cho, cưới làm thiếp cũng được". Công tử biến sắc nói "Em ta mê sảng nói bậy rồi đấy, định coi ta là hạng mặt người dạ thú sao?". Tuân Cửu khóc ròng, công tử lập tức bỏ món tiền lớn ra mua quan tài gỗ tốt cho. Tuân Cửu bảo đỡ mình đứng dậy, gắng gượng bước vào nằm trong quan tài, dặn em gái rằng "Ta chết rồi thì đóng ngay nắp lại, đừng để bất cứ ai mở ra nhìn”, công tử còn định hỏi han thì đã tắt thở.


Công tử đau xót như anh em ruột chết, nhưng thầm ngờ về lời trối lạ lùng bèn tìm cớ sai Tố Thu ra ngoài rổi mở quan tài xem. Thấy trong quan tài chỉ có quần áo như xác ve lột, khều lên nhìn thì thấy có con mọt sách dài hơn thước nằm chết cứng ở giữa. Đang lúc hoảng sợ chợt Tố Thu trở vào thê thảm nói "Đã là anh em sao còn ngờ sợ nhau? Đúng là như anh thấy, không dám giấu diếm, nhưng nếu chuyện này mà đồn rộng ra thì thiếp không dám ở đây lâu nữa đâu”. Công tử nói "Lễ là bởi tình mà đặt ra, đã có tình với nhau thì khác loài cũng thế thôi. Chẳng lẽ muội tử không biết lòng ta sao? Cho dù là vợ ta ta cũng không nói đâu, xin đừng lo lắng". Rồi vội chọn ngày lành tháng tốt chôn cất tử tế. Trước kia công tử bàn gả Tố Thu cho nhà thế gia nhưng Tuân Cửu không muốn, khi Tuân Cửu chết rồi công tử lại bàn với Tố Thu, nàng cũng không chịu. Công tử nói "Muội tử nay đã hai mươi tuổi, lớn rồi mà không lấy chồng, mọi người sẽ nói ta thế nào?". Nàng đáp “Nếu thế thì xin tùy ý anh, nhung tự xét mình không có phúc, không muốn lấy chồng giàu sang, học trò nghèo thì được". Công tử nói "Được”.


Không mấy ngày sau, người mai mối nối nhau tới nhưng không có đám nào được như Tố Thu muốn. Trước có Hàn Thuyên là em vợ công tử tới điếu tang Tuân Cửu, nhìn thấy Tố Thu trong lòng yêu thích, muốn hỏi cưới làm thiếp, bàn với chị, chị vội bảo đừng nói ra, sợ công tử biết. Hàn về không sao quên Tố Thu bèn nhờ mai mối bắn tin, hứa sẽ giúp công tử làm quen với quan Chủ khảo kỳ thi hương sắp tới. Công tử nghe nói cả giận, đánh người nhắn tin một trận rồi đuổi ra, từ đó không hề đi lại với Hàn. Gặp lúc có cháu nội quan Thượng thư cũ là Giáp, sắp cưới vợ thì vợ bỗng chết cũng sai người mai mối tới Công tử vốn biết nhà Giáp giàu sang nhưng muốn gặp gỡ một lần, nhân hẹn với người mối, bảo Giáp đích thân tới gặp.


Đến ngày hẹn công tử cho buông rèm phía sau, bảo Tố Thu tự xem mặt. Giáp tới, bọn người hầu mặc áo cừu cưỡi ngựa béo sáng rỡ cả đường làng, nhìn tới người thì thanh tú đẹp đẽ như con gái. Công tử cả mừng, mọi người cũng đều khen ngợi, chỉ có Tố Thu là không vui. Công tử không nghe, thuận cho cưới, sắm sửa nhiều nữ trang, tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc. Tố Thu cố ngăn, chỉ xin cho dắt theo một tỳ nữ già để hầu hạ thôi nhưng công tử không chịu, vẫn tặng cho nàng rất nhiều. Đám cưới xong, vợ chồng rất hòa thuận, nhưng anh và chị dâu thường nhớ nhung nên cứ mỗi tháng nàng lại về thăm một lần. Lần nào về thì trâm vòng nữ trang mang theo cũng lấy cớ đưa chị dâu cất giùm, chị dâu không biết ý nên cũng nhận giữ. Giáp lúc nhỏ mồ côi, mẹ ở góa nuôi con nên vô cùng thương yêu chiều chuộng. Hàng ngày lại giao du gần gũi với kẻ xấu nên bị chúng dụ dỗ trai gái cờ bạc, những cổ vật gia truyền trong nhà đều lấy trộm mang bán để lấy tiền chơi bời.

Hàn Thuyên cùng Giáp có họ hàng, mời Giáp tới uống rượu để dò xét, xin đưa hai người thiếp và năm trăm lượng vàng để đổi lấy Tố Thu. Ban đầu Giáp không chịu, nhung Hàn nài nỉ mãi, Giáp xiêu lòng song cũng sợ công tử không chịu nhịn. Hàn nói "Ta với y rất gần gũi, vả lại Tố Thu không phải là em ruột của y, nếu việc đã rồi thì y cũng thẳng làm sao được. Vạn nhất có thuyện gì ta xin chịu cả, cha ta còn đó, lại sợ một Du Cẩn Am à?". Rồi sai hai người thiếp ăn mặc đẹp đẽ ra hầu rượu, lại nói "Nếu làm được như lời ước thì hai nàng là người của ông đấy". Giáp bị mê hoặc, hẹn ngày đổi vợ rồi ra về. Đến ngày hẹn, Giáp sợ Hàn lừa gạt, tối ra chờ trên đường, quả nhiên có cỗ kiệu tới, mở rèm ra nhìn thì đúng có hai người thiếp của Hàn, liền đưa về giấu trong phòng sách. Đầy tớ của Hàn giao đủ năm trăm lượng vàng xong, Giáp chạy vào nhà trong bịa rằng công tử bệnh thình lình, gọi Tố Thu về. Tố Thu chưa kịp trang điểm gì, vội vàng lên đường.


Kiệu ra khỏi nhà thì đêm đã khuya, lạc đường không biết chỗ nào, đi mãi hồi lâu vẫn không thấy tới. Chợt thấy có hai ngọn đuốc lớn đi tới mọi người mừng rỡ thầm nghĩ có thể hỏi đường. Không bao lâu tới trước mặt, té ra là con mãng xà lớn, hai mắt sáng như đèn. Mọi người phát hoảng bỏ chạy tán loạn, vút chiếc kiệu lại bên đường. Trời gần sáng mới tụ họp nhau quay lại thì chỉ còn có chiếc kiệu không, đều cho rằng Tố Thu đã bị mãng xà nuốt rồi. Quay về báo với chủ nhân, Hàn chỉ còn cách cúi đầu thở dài tíếc rẻ mà thôi. Vài hôm sau, công tử sai người qua thăm em gái, mới biết đã bị người ác cướp đi mất. Ban đầu cũng không ngờ là em rể bịa đặt, đến khi dắt người tỳ nữ trở về, hỏi rõ tình trạng mới biết là có chuyện, vô cùng tức giận lên báo cả phủ huyện. Giáp sợ qua gặp Hàn cầu cứu, nhưng Hàn vì mất cả chì lẫn chài đang buồn bã hối tiếc nên từ chối không giúp.


Giáp thẫn thờ không biết làm sao, trát đòi của phủ huyện gởi đến tới tấp, chỉ còn cách hối lộ cho bọn công sai xin khất lần. Hơn một tháng thì vàng bạc, quần áo cầm bán sạch, công tử lại lên các quan trên đòi tra xét rất gấp, quan huyện cũng tuân lệnh, Giáp biết không thể che giấu được nữa mới ra đầu thú. Lên tới công đường, Giáp khai thật mọi chuyện, xin quan trên bắt Hàn tới đối chất. Hàn sợ, thú thật với cha, lúc ấy cha Hàn vừa về trí sĩ, giận con làm việc phạm pháp, sai trói giải lên quan. Lên tới quan, Hàn nói việc gặp mãng xà, các quan đều cho là bịa đặt vu vơ, bọn gia nhân đi đón Tố Thu đều bị tra tấn. Giáp cũng bị đánh mấy trận, may là mẹ bán cả vườn ruộng lo lót hết cả trên dưới nên bị đòn nhẹ, không tới nỗi chết, còn bọn gia nhân của Hàn đều chết trong ngục. Hàn bị giam giữ lâu ngày trong ngục nên tình nguyện giúp Giáp ngàn lượng vàng hối lộ cho công tử xin bãi nại, công tử không chịu.


Mẹ Giáp lại xin đưa thêm cả hai người thiếp, chỉ xin cứ để vụ án lại để dò tìm Tố Thu. Vợ công tử cũng nghe lời thím dâu, ngày đêm nài nỉ công tử mới ưng thuận. Nhà Giáp sa sút, phải bán nhà cửa để lo tiền, nhưng lúc gấp rút chưa bán được nên đưa hai người thiếp qua trước, xin đưa tiền qua sau. Qua vài hôm, giữa khuya công tử đang ngồi trong phòng sách, chợt Tố Thu dắt một bà già thình lình bước vào. Công tử hoảng sợ hỏi "Muội tử vẫn không sao chứ?”, nàng đáp “Con mãng xà kia là em dùng thuật nhỏ biến ra. Đêm ấy em chạy vào nhà một vị Tú tài, xin mẹ y cho nương tựa. Y nói là có quen anh, hiện đang đứng ngoài cổng, xin anh cho vào". Công tử vội vàng xỏ ngước giày chạy ra, thắp đèn lên nhìn thì không không phải ai khác mà là Chu sinh, danh sĩ ở huyện Uyển Bình (tỉnh Hà Bắc), vốn chơi thân với nhau từ lâu. Bèn nắm tay kéo vào, khoản đãi nồng hậu, trò chuyện hồi lâu mới biết đầu đuôi sự tình. Lúc đầu Tố Thu hớt hãi chạy tới nhà sinh, bà mẹ cho vào nương náu, hỏi thăm biết là em gái công tử đã định qua báo tin ngay nhưng nàng ngăn lại nhân ở chung với bà.


Thấy nàng thông minh hiểu được ý mình bà thích lắm, lấy việc con trai chưa có vợ ra nói riêng với Tố Thu, ngõ ý muốn cưới nàng làm dâu. Tố Thu chối từ nói chưa được lệnh của anh, sinh vì chơi thân với công tử cũng không chịu cưới vợ không có người mai mối. Nên vẫn ngày ngày nghe ngóng, biết chuyện kiện tụng đã xong Tố Thu chào mẹ sinh về, bà sai sinh dắt một bà già đưa nàng vể, nhờ bà ta làm mối luôn. Công tử thấy Tố Thu ở nhà sinh đã lâu chắc có tình ý mà chưa nói ra, nên nghe bà già thưa chuyện rất vui mừng, lập tức đính ước với sinh. Tố Thu trở về giữa khuya là có ý muốn chờ công tử nhận vàng xong mới cho mọi người biết, nhưng công tử không chịu, nói “Trước đây ta căm tức không sao phát tiết, nên mới đòi vàng cho họ nghèo mạt luôn cho bỏ ghét, nay đã gặp lại được muội tử, vạn dật vàng cũng đâu đổi được!”. Rồi sai người báo với hai nhà Giáp và Hàn là thôi không kiện nữa, khỏi đưa vàng qua. Lại nghĩ Chu sinh vốn không giàu có gì, nhà thì xa xôi rước dâu cực khổ, bèn sai đón mẹ sinh dời tới, ở trong nhà cũ của Tuân Cửu. Sinh cũng sắm sửa đủ tiền lụa lễ vật, làm lễ thành hôn.

Một hôm chị dâu đùa hỏi Tố Thu "Nay có chồng mới còn nhớ người chung chăn gối yêu thương nhau mấy năm trước không?”. Tố Thu ngoảnh lại hỏi người tỳ nũ "Còn nhớ không?” Chị dâu không hiểu cứ hỏi mãi, thì ra ba năm làm vợ Giáp nàng đều để người tỳ nữ làm chuyện chăn gối thay mình. Cứ đến đêm nàng lại lấy bút vẽ lại lông mày cho rồi bảo đi, người tỳ nữ có ngồi đối diện trước đèn Giáp cũng tưởng là Tố Thu. Chị dâu càng lạ lùng, xin dạy cho thuật ấy nhưng nàng chỉ cười không đáp. Năm sau tới kỳ thi, Chu sinh định đi cùng với công tử, Tố Thu nói là không cần nhưng công tử cứ ép sinh cùng đi. Khoa ấy công tử đỗ Cử nhân còn sinh trượt, trở về ngầm có ý chán ngán công danh, năm sau mẹ chết, nên từ đó không nhắc tới chuyện khoa cử nữa. Một hôm Tố Thu nói với chị dâu “Trước đây chị muốn học phép thuật, nhưng em không muốn người ta nghe thấy đâm ra ngờ sợ nên mới giữ kín. Nay sắp vĩnh biệt, gần đến ngày lên đường rồi, xin ngầm truyền lại cho chị, cũng tránh được nạn binh lửa”.


Chị dâu hoảng sợ hỏi, nàng đáp "Ba năm nữa chốn này sẽ không còn làng xóm, em yếu ớt không không kham nổi sự lo sợ nên định ra ẩn nơi bờ biển. Đại ca là người trong trường phú quý không thể đi cùng em được, nên xin từ biệt, rồi dạy phép thuật cho chị dâu. Vài hôm sau tới chào công tử, công tử giữ lại không được, chảy nước mắt hỏi đi đâu nhưng nàng không nói. Sáng ra vợ chồng dậy sớm, dắt một người hầu tóc bạc, đem hai cỗ kiệu lên đường. Công tử sai người ngầm theo sau hộ tống, đi tới địa giới huyện Giao phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) chợt có làn hơi mù bốc lên che khuất cả ánh sảng mặt trời, mù tan rồi thì không thấy ba người nữa, không rõ đi về đâu.


Ba năm sau, giặc Sấm* nổi loạn, làng xóm thành đất hoang, Hàn phu nhân cắt vải làm hình nhân đặt trong cửa. Bọn giặc kéo tới thấy có thần Vi Đà đửng giữa đám mây cuồn cuộn, thân cao hơn trượng, khiếp sợ bỏ chạy, gia đình công tử nhờ vậy được yên ổn. Về sau có người đi buôn tới vùng bờ biển, gặp một ông già rất giống người hầu tóc bạc nhưng râu tóc đều đen nhánh nên làm ngơ không dám chào. Ông già dừng chân cười nói “Công tử nhà ta vẫn mạnh khỏe chứ. Nhờ nhắn lại giùm là cô Thu vẫn được yên vui". Ngươi ấy hỏi Tố Thu ở đâu, ông già đáp “Xa lắm, xa lắm!" rồi thoăn thoắt bước đi. Công tử nghe kể lại, sai người tới đó hỏi thăm khắp cả nhưng rốt lại không có manh mối gì.


*Giặc Sấm: tức Lý Sấm (Lý Tự Thành), lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh.


Dị Sử thị nói: Ngòi bút không có tướng được ăn thịt* xưa nay vẫn thế. Kẻ kia lúc đầu suy nghĩ rất sáng suốt, nhưng lại không giữ bền chí được, không biết rằng đám quan trường gà mờ chỉ chấm mệnh không chấm văn sao? Ra đòn một lần không trúng thì căm tức mà chết, sự ngây ngốc của con mọt sách kia thật đáng thương vậy. Con trống bay lại không bằng con mái nằm, thật đau xót thay!


*Ngòi bút... ăn thịt: nguyên văn là "Quản Thành tử vô thực nhục tướng", câu trong thơ của Hoàng Đình Kiên, đây dùng chỉ kẻ không may trong việc thi cử công danh.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 174 -

Kiều Nữ

(Kiều Nữ)


Kiều sinh ở huyện Bình Nguyên (tỉnh Sơn Đông) có người con gái đen đúa xấu xí, sút mũi thọt chân, hăm lăm hăm sáu tuổi chưa ai dạm hỏi. Ở huyện có Mục sinh hơn bốn mươi tuổi, góa vợ mà nghèo quá không cưới được ai mới hỏi cưới nàng. Sau ba năm nàng sinh một trai, không bao lâu Mục sinh chết, nhà càng nghèo túng, khốn quẫn quá thì về xin mẹ cho ăn. Mẹ không lo nổi, nàng cũng tức giận không về nữa, dệt thuê sinh sống qua ngày. Có Mạnh sinh vợ chết để lại con trai là Ô Đầu mới đầy năm, không có người chăm sóc con nên nóng lòng muốn cưới vợ khác, nhưng người mối chỉ cho mấy đám vẫn chưa vừa ý. Chợt gặp Kiều thị mừng lắm, nhờ người đánh tiếng. Nàng từ chối, nói "Đói rét thế này, nếu theo quan nhân sẽ được ấm no, lẽ nào không muốn. Nhưng tật nguyền xấu xí không được như người ta, chỉ còn tự tin ở chỗ có đức thôi, nếu thờ hai chồng thì quan nhân còn yêu thương chỗ nào?". Mạnh càng cho là hiền, lại thêm mến mộ, nhờ người mối đem tiền bạc vải lụa tới nói với bà mẹ. Bà mừng rỡ tới nhà con gái cố khuyên nhủ, nhưng nàng thề không lấy chồng khác.


Bà hổ thẹn, xin gả con gái út cho Mạnh, người nhà đều mừng nhưng Mạnh không chịu. Không bao lâu Mạnh bất ngờ bị bệnh chết, Kiều thị tới viếng tang, khóc lóc hết sức thảm thiết. Mạnh vốn không có thân thích nên chết rồi thì bọn vô lại trong thôn đều làm càn, lấy hết cả vật dụng trong nhà, lại toan chia nhau chiếm đoạt ruộng vườn nhà cửa, tôi tớ cũng đều trộm cắp lặt vặt bỏ trốn, chỉ còn một bà vu bế đứa nhỏ khóc lóc trong phòng. Kiều thị hỏi biết chuyện rất bất bình, nghe Lâm sinh chơi thân với Mạnh bèn tới nhà nói "Vợ chồng bè bạn là giềng mối lớn của con người, thiếp vì quá xấu xí nên bị coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh biết, trước đây tuy cố từ thối nhưng trong lòng đã ưng thuận. Nay người đã chết mà con còn nhỏ, tự nghĩ mình phải đền đáp ơn tri kỷ. Nhưng nuôi đứa con côi còn dễ chứ chống bọn cướp ngày mới khó, nếu thấy không có cha mẹ anh em mà ngồi nhìn con chết nhà tan không giúp thì trong ngũ luân không còn có bạn bè nữa. Thiếp không mong ông làm gì nhiều, chỉ cần làm một lá đơn thưa lên quan, còn việc chăm sóc đứa con côi thì thiếp không dám từ chối".


Lâm nói "Vâng", nàng chào vể. Lâm định làm theo lời nàng, bọn vô lại căm tức toan giết. Lâm sợ quá, đóng cửa không dám ra khỏi nhà. Kiều thị đợi mấy ngày không thấy tin tức gì, khi tới hỏi thì gia sản của họ Mạnh đã bị cướp sạch. Nàng giận quá xăm xăm lên thưa với quan, quan hỏi nàng là người thế nào với Mạnh, nàng đáp "Ông là quan coi một huyện, cứ dựa vào lý thôi, nếu nói sai thì kẻ thân thích cũng không thể chối tội, nếu nói đúng thì dù là người qua đường cũng phải nghe". Quan giận lời lẽ ngang tàng, thét đuổi ra, nàng căm giận không có nơi giãi bày, khóc lóc tố cáo với một vị thân sĩ. Tiên sinh Mỗ nghe chuyện cho là có nghĩa khí, nói giúp với quan huyện, quan tra xét quả đúng, liền trị tội bọn vô lại, trả hết tài sản lại cho nhà họ Mạnh. Có người bàn khuyên Kiều thị ở lại nhà Mạnh chăm sóc đứa con mồ côi nhưng nàng không chịu, khóa cửa nhà Mạnh, bảo bà vú bế Ô Đầu về nhà mình, cho ở riêng một gian. Những khoản chi dùng cho Ô Đầu thì đều cùng bà vú tới nhà Mạnh mở cửa lấy thóc bán, còn mình không hề đụng tới chút gì vẫn nghèo khổ nuôi con như trước.


Vài năm sau Ô Đầu lớn lên, nàng mời thầy về dạy học, còn con mình thì bắt tập làm lụng. Bà vú khuyên cho hai đứa cùng học, nàng nói "Ô Đầu học hành tốn kém là tiền của nó, còn nếu ta làm hao tốn tiền bạc của người cho con mình học thì làm sao tỏ rõ được lòng này?". Lại mấy năm nữa, nàng dành dụm cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc, liền hỏi cưới con gái nhà thế tộc cho, sửa sang nhà Mạnh bảo về mà ở. Ô Đầu khóc xin nàng về ở cùng, nàng cũng nghe theo nhưng vẫn dệt thuê kiếm sống như trước. Vợ chồng Ô Đầu giằng lấy khung cửi con thoi mang cả đi, nàng nói "Mẹ con ta chỉ ngồi ăn không thì làm sao yên lòng được?”. Rồi sớm tối coi sóc việc trong nhà, sai con trai ra canh ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Nhưng vợ chồng Ô Đầu có chút lỗi lầm là nàng trách mắng không hề bỏ qua, mà nếu hơi có vẻ bỏ ngoài tai thì nàng buồn rầu muốn đi, vợ chồng quỳ xuống ăn năn mới chịu ở lại.


Không bao lâu Ô Đầu vào học ở trường quận, nàng từ biệt đòi về, Ô Đầu không cho, lại góp tiền cưới vợ cho con Mục. Nàng bảo con về nhà riêng ở, Ô Đầu giữ lại không được bèn sai người ngầm mua một trăm mẫu đất ở thôn bên cạnh, sau đó tặng cho. Sau Kiều thị bị bệnh đòi về, Ô Đầu không chịu, lúc bệnh nặng dặn "Thế nào cũng phải đưa ta về chôn ở nhà". Ô Đầu vâng dạ nhưng khi nàng chết lại đem vàng nói với con Mục xin cho hợp táng với Mạnh sinh. Lúc chôn cất, quan tài chợt nặng chình chịch, ba mươi người không nhấc lên nổi, còn con Mục chợt ngã lăn ra đất, bảy khiếu đổ máu, tự nói "Thằng con mất nết kia, tại sao lại bán mẹ ngươi như thế hả!". Ô Đầu sợ, vào lạy lục khấn khứa con Mục mới khỏi. Rồi hoãn việc chôn cất lại vài hôm, sửa sang phần mộ Mục sinh hợp táng nàng vào đó.


Dị Sử thị nói:Cảm nghĩa kẻ tri kỷ mà hiến cả thân mình, đó là việc làm của bậc nam tử nghĩa liệt. Nhưng người đàn bà kia có hiểu biết gì đâu mà việc làm cao cả lạ lùng như thế, nếu Cửu Phương Cao gặp được ắt sẽ nói là ngựa đực*.


* Nếu Cửu Phương Cao... ngựa đực: Liệt tử chép Tần Mục công nói với Bá Nhạc “Ngươi giỏi xem tướng ngựa nhưng đã già rồi, trong họ hàng có ai thay ngươi được không", Nhạc nói có Cửu Phương Cao. Mục công sai Cao đi tìm ngựa hay, Cao đi ba tháng trở về nói đã tìm được, ở Sa Khâu, là ngựa cái màu vàng, đến khi sai nguời dắt về thì là ngựa đực màu đen. Mục công trách Bá Nhạc tiến cử một kẻ không phân biệt được cả ngựa cái với ngựa đực, Bá Nhạc nói "Cao xem tướng ngựa là xem chỗ thiên phú, coi trọng cái tinh mà bỏ qua cái thô, cốt ở thần chứ không ở hình”, sau quả đó là con ngựa hay. Đây ý nói nếu xét về tinh thần thì Kiều thị cũng hào hùng như kẻ trượng phu.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 175 -

Mã Giới Phủ

(Mã Giới Phủ)


Dương Vạn Thạch là Chư sinh ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), bình sinh có tật sợ vợ. Vợ là Doãn thị, tính hung dữ lạ thường, cứ có chuyện gì trái ý là đánh đập nguời ăn kẻ ở trong nhà. Cha Dương hơn sáu mươi tuổi lại góa vợ, Doãn thị coi như đầy tớ. Dương và em là Vạn Chung thường lén mang thức ăn cho cha không dám để Doãn thị biết, song quần áo cha rách nát, sợ bị chê cười nên không cho ông gặp mặt khách khứa. Vạn Thạch bốn mươi tuổi vẫn không có con trai, cưới thiếp là Vương thị nhưng cả ngày không dám trò chuyện với nàng một câu. Hai anh em lên quận thi gặp một thiếu niên tướng mạo thanh tú, trang phục phong nhã, cùng trò chuyện thích lắm, hỏi tới họ tên thì tự xưng là Giới Phủ, họ Mã. Từ đó giao du với nhau ngày càng thân thiết, kết nghĩa làm anh em. Đến khi chia tay, hẹn nửa năm sau sẽ gặp lại, nhưng Mã chợt dắt tiểu đồng tới nhà Vương. Gặp Dương ông đang cởi áo bắt rận ngoài cổng, Mã tưởng là đầy tớ bèn xưng tên họ nhờ vào thưa với chủ nhân. Dương ông khoác áo rách đi vào, có nguời nói cho Mã biết đó là cha Dương. Mã đang giật mình ngạc nhiên thì anh em Dương để đầu trần ra đón, vào tới sảnh đường vái chào nhau xong, Mã xin ra mắt cha. Vạn Thạch từ chối nói cha vừa ngẫu nhiên bị bệnh, giục ngồi xuống cùng trò chuyện vui vẻ, chiều tối lúc nào cũng không hay.


Vạn Thạch mấy lần ra bảo dọn cơm nhưng mãi chẳng thấy mang lên, hai anh em thay nhau ra vào gọi mãi mới có một người đầy tớ gầy ốm mang bầu rượu vào. Trong chốc lát ba người uống hết rượu, ngồi chờ một lúc lâu, Vạn Thạch đứng lên gọi mấy lần, toát cả mồ hôi trán, người đầy tớ mới bưng mâm lên, thức ăn còn chưa chín mà cũng chẳng có món nào ngon lành. Ăn xong, Vạn Thạch vội vã trở vào, Vạn Chung mang chăn ra ngủ chung với khách. Mã trách nói "Trước đây ngờ hai ông là bậc cao nghĩa mới kết làm anh em, nay thấy cha già không được ăn no mặc ấm, người ngoài cũng phải xấu hổ". Vạn Chung sa nước mắt đáp "Chuyện đau lòng này rất khó nói ra. Nhà ta không may gặp phải người chị dâu hung dữ, cha anh đều nhu nhược, có khi cũng bị đánh đập mắng nhiếc. Nếu không phải là anh em kết nghĩa, thật ta không dám nói ra chuyện xấu xa này đâu”. Mã than thở hồi lâu rồi nói "Lúc đầu ta tính ở chơi vài hôm rồi đi, nay nghe chuyện lạ lùng này thật không thể không mắt thấy tai nghe cho rõ. Vậy ông xếp một gian phòng trống cho ở, cơm nước ta sẽ tự lo". Vạn Chung nghe lời, lập tức nhường phòng mình cho Mã ở. Khuya tới lén đem cơm sang mời khách mà còn sợ Doãn thị biết. Mã biết ý, hết sức từ chối không ăn, lại xin mời Dương ông tới cùng ăn ở với mình. Hôm sau ra chợ mua vải may áo quần cho Dương ông, cha con anh em đều cảm kích rơi nước mắt.

Vạn Chung có đứa con tên Hỷ Nhi mới bảy tuổi, đến ngủ với ông nội. Mã vỗ về nó, nói “Đứa nhỏ này phúc thọ nhiều hơn cha, nhưng phải mồ côi khổ cực sớm đây". Doãn thị nghe Dương ông được ăn no mặc ấm cả giận chửi mắng, nói Mã vô cớ dây vào chuyện nhà người khác. Ban đầu còn rủa lằm bằm trong phòng, sau dần dần tới gần phòng Mã mắng lớn tiếng cho Mã nghe. Anh em họ Dương sợ toát mồ hôi không biết làm sao ngăn cản, song Mã vẫn làm như không nghe thấy gì. Người thiếp Vương thị có thai được năm tháng Doãn thị mới biết, lột áo quần đánh đập tàn nhẫn rồi bắt Vạn Thạch quỳ xuống đội khăn buộc yếm đàn bà vào người, lấy roi đánh đuổi đi. Lúc ấy Mã đang có mặt ngoài cổng, Vạn Thạch xấu hổ không chịu ra, sau bị đánh đau quá phải chạy ra, Doãn thị cũng đuổi theo, xoa tay giẫm chân chửi rủa, người ta xúm lại xem đông nghịt. Mã chỉ vào Doãn thị quát "Đi ngay", thị lập tức quay người chạy mau trở lại như bị ma đuổi, bỏ cả giày tất, tụt cả vải bó chân trên đường, chạy chân trần vào nhà, mặt không còn chút máu. Lát sau lại hồn, tỳ nữ đưa giày tất tới, mang vào xong chợt khóc nức nở, gia nhân không ai dám hỏi.

Mã giục Vạn Thạch cởi khăn yếm ra, Vạn Thạch co người nín thở như sợ khăn yếm rơi xuống, Mã phải ép cởi ra cho mà vẫn lo lắng không yên, sợ mắc tội tự cởi. Nghe ngóng chờ vợ nín khóc mới dám vào nhà, rón rén tới trước mặt, vợ lại không nói câu nào, đứng lên đi vào phòng ngủ. Vạn Thạch lúc ấy mới đỡ lo lắng, cùng em thầm lấy làm lạ lùng. Gia nhân cũng đều cho là chuyện kỳ quái, họp nhau xì xào bàn tán, Doãn thị nghe loáng thoáng càng xấu hổ tức tối, lại vác roi đánh đầy tớ suốt lượt. Gọi tới người thiếp, người thiếp bị thương nặng không dậy nổi, Doãn thị cho là giả vờ, tới tận giường đánh đập mắng nhiếc, người thiếp băng huyết trụy thai. Vạn Thạch nhân lúc không người khóc lóc kể với Mã, Mã an ủi khuyên nhủ rồi bảo tiểu dồng bày rượu thịt cùng uống tới khuya, không cho Vạn Thạch về phòng. Doãn thị trong phòng, giận chồng không về, đang lúc căm tức chợt nghe có tiếng lay khung cửa, vội gọi tỳ nữ thì cửa phòng đã bật tung, một người to lớn bước vào, bóng che trùm cả phòng, mặt mũi hung ác như quỷ. Kế lại có vài người theo vào, ai cũng cầm dao sắc. Doãn thị hoảng sợ suýt ngất, định la lên thì người to lớn kề dao vào cổ nói “La lên thì ta giết ngay”. Doãn thị vội vàng đưa tiền lụa ra xin chuộc mạng, người to lớn nói "Ta là sứ giả của âm ty, không cần lấy tiền, chỉ muốn lấy quả tim của mụ đàn bà hung dữ thôi", Doãn thị càng sợ. Người to lớn bèn lấy dao sắc rạch ngực Doãn thị, vừa kể vừa hỏi "Như chuyện này có đáng giết không?", mỗi việc lại rạch một nhát. Tất cả những việc hung ác đều kể ra mà rạch, không dưới vài mươi nhát, sau cùng lại nói “Người thiếp có con trai cũng là nối dõi cho ngươi, sao lại nhẫn tâm đánh cho tới trụy thai? Chuyện này thì không tha được". Rồi gọi mấy người kia tiếp tay để mổ bụng xem gan ruột của mụ đàn bà ác độc, Doãn thị dập đầu xin tha mạng, chỉ nói là đã biết tội rồi. Chợt nghe cửa giữa mớ toang, có tiếng nói “Dương Vạn Thạch tới rồi, nếu đã biết tội thì tạm tha cho một lần", rồi ào ào tan đi.


Giây lát Vạn Thạch vào, thấy vợ bị cởi trần trói thúc ké, trước ngực bị dao rạch ngang dọc nát bét, vội cởi trói hỏi. Biết nguyên do cả sợ, ngờ là do Mã. Hôm sau kể lại với Mã, Mã cũng sợ. Từ đó Doãn thị hơi bớt hung dữ, suốt mấy tháng không dám chửi mắng một câu. Vạn Thạch cả mừng nói với Mã, Mã nói "Nói thật với ông nhưng xin đừng để lộ ra, chuyện hôm trước là ta dùng thuật mọn để dọa đấy, nay gia đình đã yên ấm, xin tạm chia tay”, rồi chào đi. Doãn thị cứ đến chiều tối là giữ Vạn Thạch làm bạn, cười nói rất vui vẻ. Vạn Thạch bình sinh không đưọc hưởng thú vui như vậy nên lại lấy làm ngượng nghịu không biết ngồi đứng thế nào. Một đêm Doãn thị nhớ lại diện mạo người to lón, lấy làm run sợ, Vạn Thạch muốn lấy lòng vợ bèn hơi lộ ra đó là giả. Người đàn bà lập tức vùng dậy căn vặn đầu đuôi, Vạn Thạch biết đã lỡ lời nhưng hối không kịp đành phải kể thật hết. Doãn thị đùng đùng nổi giận chửi lón, Vạn Thạch sợ quá quỳ rạp dười giường, người đàn bà không ngó ngàng gì tới. Vạn Thạch lạy lục năn nỉ đến canh ba, Doãn thị nói "Muốn tha thì phải rạch dao vào ngực đủ số, hận này mới tiêu tan được". Rồi vùng dậy vào bếp xách dao lên, Vạn Thạch cả sợ bỏ chạy, người đàn bà đuổi theo, chó sủa gà kêu náo động, tôi tớ đều thức dậy đổ ra. Vạn Chung không biết chuyện gì vội lấy thân mình che cho anh. Người đàn bà đang chửi mắng chợt thấy Dương ông tới, nhìn tới quần áo càng sôi giận lập tức sấn tới xé nát quần áo mới của ông, tát vào mặt rồi nắm râu giật. Vạn Chung thấy thế nổi giận, vớ đá ném trúng trán Doãn thị, Doãn thị ngã lăn ra chết ngất. Vạn Chung nói "Ta chết mà cha và anh ta được sống, thì có tiếc gì!", rồi nhảy xuống giếng tự tử, vớt lên thì đã chết. Lát sau ngữời đàn bà tỉnh lại, nghe nói Vạn Chung đã chết cũng hả giận. Chôn cất xong, người em dâu thương con thề không lấy chồng khác, Doãn thị chửi mắng không cho ăn uống, gọi người gả đi. Còn lại đứa con mồ côi sớm tối bị đánh đập, phải theo tôi tớ xin cơm thừa canh cặn mà ăn, qua vài năm gầy guộc võ vàng, hơi thở thoi thóp.


Một hôm Mã chợt tới, Vạn Thạch dặn gia nhân không được nói cho Doãn thị biết. Mã thấy Dương ông rách rưới như cũ, vô cùng kinh ngạc, lại nghe nói Vạn Chung đã chết, giẫm chân than thở. Đứa con Vạn Chung nghe Mã tới ra chào, đầu tiên gọi là chú Mã, Mã không biết là ai, nhìn kỹ mới nhận ra, hoảng sợ nói "Sao cháu lại tiều tụy đến thế này?", Dương ông bèn úp mở kể lại mọi chuyện. Mã căm tức nói với Vạn Thạch “Trước đây ta vẫn nói ngươi không phải con người, quả không sai. Nhân duyên hai người chỉ có bấy nhiêu, giết đi thì đã làm sao?”. Vạn Thạch không đáp, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc lóc. Vừa ngồi trò chuyện được một lúc thì Doãn thị biết Mã tới, không dám ra đuổi khách, chỉ gọi Vạn Thạch vào, tát tai bắt phải tuyệt giao với Mã. Vạn Thạch rưng rưng nước mắt trở ra, trên mặt còn vết tát rõ ràng, Mã nổi giận nói "Ngươi đã không thể ra oai, cũng không thể dứt tình đuổi đi à? Người ta đánh cha giết em mà còn nhịn nhục, sao đáng gọi là người?”. Vạn Thạch co người lại như chạnh lòng, Mã lại nói khích "Nếu như không đuổi đi thì cũng phải dằn mặt, nếu có chết cũng không sợ. Ta có vài người bạn thân đều làm quan lớn, nhất định sẽ ra sức giúp đỡ, chắc chắn không việc gì đâu”. Vạn Thạch nghe theo hùng hổ rảo bước vào trong, nhưng vợ vừa quát định làm gì thì cả kinh thất sắc, quỳ rạp chống tay xuống đất nói "Mã sinh bảo ta bỏ". Người đàn bà càng căm tức, ngoái nhìn quanh tìm dao gậy, Vạn Thạch hoảng sợ lại chạy ra. Mã thóa mạ, nói "Ngươi thật là hết dạy đưọc rồi", rồi mở tráp lấy thuốc ra hòa vào nước đưa Vạn Thạch uống, nói "Đây là Trượng phu tái tạo tán, không thể khinh suất mà dùng, vì có thể làm người ta bị bệnh, nhưng nay bất đắc dĩ phải cho ông dùng thử”. Vạn Thạch uống xong, giây lát thấy khí tức đầy bụng như lửa cháy bùng bừng không thể nhịn được thêm một phút, xăm xăm đi vào phòng vợ, quát tháo như sấm. Doãn thị chưa kịp hỏi, Vạn Thạch đã đá cho ngã lăn ra rồi đấm túi bụi. Người đàn bà thân thể không còn chỗ nào lành lặn nhưng đầu tiên còn chửi bới. Vạn Thạch rút dao trong lưng ra, người đàn bà hỏi "Người rút dao có dám giết ta không?", Vạn Thạch không đáp, cắt một miếng thịt trên đùi vợ ném xuống đất, vừa định cắt thêm miếng nữa, người đàn bà kêu khóc xin tha. Vạn Thạch không nghe, lại cắt nữa. Tôi tớ thấy Vạn Thạch hung dữ quá vội xúm vào liều mạng giật dao kéo ra ngoài. Mã đứng lên đón, cầm tay khen ngọi, Vạn Thạch còn chưa hết giận, mấy lần lại định xông vào nhà trong, Mã phải ngăn lại, giây lát dược lực tan dần mới ngồi rũ ra như sắp chết.


Mã dặn "ông đừng lo, làm chồng chỉ cần ra oai một lần như thế thôi. Phu nhân khiếp sợ rồi, không phải là sớm tối lại dám xử sự như trước đâu, cũng như trước thì chết mà nay được sống, từ nay về sau thế nào cũng bỏ cũ đổi mới, nếu ông lại sợ sệt một lần nữa thôi thì không làm thế nào được đâu”. Rồi bảo Vạn Thạch vào nhà trong xem, vợ run sợ nhịn đau bảo tỳ nữ đỡ dậy định bò tới lạy, ngăn lại mới thôi. Ra nói lại với Mã, cha con cùng chúc mừng nhau, Mã chào đi, hai cha con cùng giữ lại. Mã nói "Ta có việc đi qua Đông Hải, lúc nào trở về sẽ gặp nhau”. Hơn một tháng sau Doãn thị gượng dậy được, thờ chồng rất kính cẩn, nhưng lâu ngày biết chồng không có tài gì khác dần khinh nhờn, dần cười nhạo, dần mắng chửi, thói cũ lại bộc lộ. Dương ông không chịu nổi, nhân đêm trốn tới Hà Nam, vào miếu làm đạo sĩ, Vạn Thạch cũng không dám đi tìm về. Hơn một năm Mã tới, biết chuyện ngậm ngùi trách móc, lập tức gọi đứa con Vạn Chung ra đặt lên lưng ngựa chở đi. Từ đó người làng đều không nể trọng gì Vạn Thạch, quan Học sứ về khảo xét vì thế truất bỏ chức Chư sinh của Vạn Thạch. Lại bốn năm năm sau, nhà bị cháy, tiền bạc trong nhà đều thành tro, lửa bén qua nhà láng giềng, người trong thôn lên quận kiện cáo, quan lại phạt bắt Vạn Thạch phải đền tiền.  Từ đó gia sản khánh kiệt, đến nỗi không có nhà mà ở, người quanh vùng bảo nhau đừng cho Vạn Thạch ở nhờ.


Anh em Doãn thị ghét người đàn bà hung dữ, cũng từ chối không giúp đỡ. Vạn Thạch cùng khốn bán thiếp cho nhà giàu, dắt vợ xuống nam, tới địa giới Hà Nam thì hết tiền ăn đường, vợ không chịu theo, lải nhải đòi tái giá, gặp lúc có người đồ tể vừa chết vợ bỏ ra ba trăm đồng mua về. Vạn Thạch còn một mình, ăn xin quanh quẩn vùng ấy, tới cổng một nhà giàu bị người gác quát tháo đuổi đi không cho đứng trước cổng. Giây lát có một vị quan nhân bước ra, Vạn Thạch quỳ rạp xuống đất khóc lóc năn nỉ, vị quan nhân nhìn kỹ hồi lâu rồi hỏi qua tên họ, kinh ngạc nói "Là bác đây mà, tại sao lại nghèo tới mức này?". Vạn Thạch nhìn kỹ lại thì ra là Hỷ Nhi, bất giác khóc rống lên rồi theo vào nhà, thấy trong sảnh đường vàng ngọc lóa mắt. Giây lát tiểu đồng đỡ Dương ông ra, gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Vạn Thạch mới thuật lại hết nhũng việc đã qua. Đầu tiên Mã dắt Hỷ Nhi tới đó, vài hôm ra tìm Dương ông về cho ông cháu ở chung, lại rước thầy dạy Hỷ Nhi học, đến năm mười lăm tuổi được vào trường huyện, năm sau thi đỗ Cử nhân, vừa lấy vợ xong thì Mã từ biệt muốn đi ông cháu cùng khóc lóc giữ lại, Mã nói "Ta không phải là người mà là hồ tiên thôi, các bạn đồng đạo chờ đã lâu rồi", rồi đi.


Hỷ Nhi nói tới đó bất giác rơi lệ, nhân nghĩ tới người thiếp của Vạn Thạch trước đây cũng bị hành hạ như mình, càng thêm thương xót, bèn lấy xe kiệu mang tiền đi chuộc Vương thị về cho Vạn Thạch, hơn một năm sinh được một con trai, vì thế coi là vợ đích. Doãn thị theo người đồ tể nửa năm, lại hung hăng dữ tợn như trước, chồng tức giận lấy dao mổ heo đâm xuyên qua vế, xỏ dây vào treo lên xà nhà, thịt cứ toác ra. Doãn thị kêu gào đứt hơi láng giềng mới hay, qua đỡ xuống rút dây ra, rút tới đâu đau đớn la thét tới đó, bốn bên láng giềng đều nghe. Từ đó cứ thấy mặt người đồ tể là run lẩy bẩy, về sau vết thương lành lại nhưng chỗ ấy bị mất thịt, đi đứng rất khó khăn, chỉ biết sớm tối hầu hạ, không dám hó hé. Người đồ tể lại càng hung dữ, cứ uống rượu say về là đánh đập chửi mắng, lúc ấy Doãn thị mới biết nỗi khổ của nhũng người bị mình hành hạ trước kia. Một hôm, Dương phu nhân cùng bà bác lên dâng hương ở chùa Phổ Đà, nhũng phụ nữ nhà thường dân ở quanh đó đều tới làm lễ ra mắt chào hỏi, Doãn thị cũng có trong đám nhưng cứ núp phía sau không dám bước lên. Vương thị cố ý hỏi người ấy là ai, gia nhân bước lên thưa là vợ đồ tể họ Trương, nhân quát gọi bước lên bảo lạy Thái phu nhân.


Vương thị cười nói "Người đàn bà này làm vợ đồ tể thì lẽ ra không thiếu thịt ăn, sao lại bị xẻo một miếng thế?”. Doãn thị vừa thẹn vừa tức, về nhà định treo cổ tự tử nhưng dây đứt không chết, người đồ tể vì vậy càng ghét. Hơn một năm người đồ tể chết, Doãn thị đi trên đường gặp Vạn Thạch, từ xa nhìn thấy đã quỳ xuống, nước mắt ròng ròng, Vạn Thạch vì có gia nhân nên không dám nói câu nào, trở về nói với cháu, muốn đón về lại nhưng cháu nhất định không chịu. Người đàn bà bị dân làng khinh ghét nên lâu không có ai lấy, phải theo bọn ăn mày kiếm sống. Vạn Thạch có lần hẹn gặp trong chùa, cháu biết được, cho là nhục nhã bèn ngầm xúi bọn ăn mày phá đám, Vạn Thạch bèn thôi. Chuyện này ta không biết kết cục ra sao, đoạn đưới đây là do ông Tất soạn.


Dị Sử thị nói:Thiên hạ có kẻ thế này người thế khác, nhưng không ngờ trong khoảng trời đất lại có chàng Dương, há chẳng phải là lạ lùng sao! Ta từng làm một bài Tục Diệu âm kinh, xin chép phụ vào đây để mua một trận cười.

Trộm nghĩ: Trời đất hóa sinh muôn vật, vẫn cậy đạo Khôn, nam nhi chí ở bốn phương, càng cần có vợ. Cùng sướng mà riêng khổ, mệt sao mười tháng nặng nề, lúc ướt lại khi khô, khổ lắm ba năm vất vả. Nghĩ muốn nối dài dòng giống, nên quân tử phải cầu duyên, toan lo thu xếp gia đình, mà cổ nhân đành cưới vợ. Ban đầu lời lẽ không hay, vợ chửi chồng còn chồng nhịn vợ, kế tới kính cung như khách, chồng trọng vợ mà vợ khinh chồng. Chỉ vì nhi nữ tình sâu, đến nỗi anh hùng râu quặp. Đầu giường Dạ Xoa chễm chệ, dẫu Kim Cương cũng phải cụp mày, trong nồi khói độc tuôn hơi, tuy La Hán khó lòng cứng cổ. Chày giặt áo mùa thu mà nắm, thì không đập áo đêm trăng, tay Ma Cô móng sắc mà quào, thì chẳng vuốt sen bến nước.

Roi cố chịu mà gậy thì chạy, quả là thay mẹ Mạnh tử ném thoi, vợ đã nói thì chồng liền nghe, kể cũng đúng vợ Chu công định lễ. Múa may dức lác, người xem bao kẻ đông dầy, xỉa xói thét gào, đầy tớ cả bầy nháo nhác. Ác làm sao! chỉ trời vạch đất, thoắt vào xõa tóc thét bên giường, xấu thật đấy! đưa mắt nghiêng đầu, kế lại thắt vòng tròng lấy cổ. Gặp những lúc ấy thì dưới đất lắm người mất mật, bên trời có kẻ bay hồn. Bắc Cung Ảo chưa chắc không chuồn, Mạnh Thi Xá* dễ gì chẳng trốn. Tướng quân oai ran sấm sét, vào tới sân là lạc phách bay hồn, đại nhân mặt lạnh băng sương, bước vào cửa cũng im hơi lặng tiếng. Chẳng lẽ son phấn không nổi nóng mà oai, sao lại mày râu lúc thái bình mà sợ.


*Bắc Cung ảo, Mạnh Thi Xá: tên hai dũng sĩ thời cổ, nổi tiếng khỏe mạnh can đảm.


Việc còn có chỗ nói được, thì ma nữ cài trâm chơi dưới nguyệt, có ngại gì cúi lạy quy y, sự dẫu mười phần oan đi, nhưng quỷ bà xõa tóc xuống trần gian, cũng hãy cứ nhang đèn cung kính. Nghe sư tử gầm gào dữ tợn, thì hai mũi hếch trời, thấy gà mái phành phạch gáy vang, thì tứ chi rạp đất. Kẻ hiếu sắc đam mê quên nhục nhã, điệu Hồi ba* thương xót bị chê cười. Giả như làm rể công hầu, nhà họ hiển vinh, thì lạy lục nàng còn có cớ, hoặc cưới con nhà giàu có, thân trai hèn kém, thôi nịnh nọt vợ cũng chẳng sao. Ấy quỷ nghèo tự biết chẳng oai phong, đành mặc cho túm đầu tóc giật vành tai, chỉ mong rủ lòng tha thứ, nhưng thần tiền vẫn khoe thừa sức mạnh, mà nếu lỡ vuốt râu hùm sờ dái ngựa, cũng khó dựa thế cậy nhờ.


*Điệu Hồi ba: tức "Hồi ba từ", tên một điệu từ khúc, đây 1ấy ý bài Hồi ba từ của Thù nhu Tang Phụng thời Đường trêu ghẹo Trung tông bạc nhược nên bị vợ là Vi Hoàng hậu lấn lướt.


Đem hẻm núi để trói lòng du tử, mượn Hồng Câu làm nhụt chí Bá Vương*. Nhưng chết cùng huyệt sống cùng chăn, đâu từng thấy ngâm thơ Bạch thủ (**), mà mây buổi sáng mưa buổi tối, lại muốn riêng chiếm cõi Vu Sơn (***). Hận bấy "Nước ao trong", để lỡ đàn vàng phách ngọc (4*) gậy vào gáy, rèm màn rơi xuống làm tắt hết đèn đuốc, Thân hoảng sợ chui vào gầm giường trốn, về sau bạn bè đùa gọi Thân là "Nước ao trong". Đây ý nói vợ dữ ngăn cấm chồng chơi bời, thương sao "Phận thiếp mỏng", luống đau đêm vắng canh dài (5*).


*Mượn Hồng Câu... Bá vương: lấy tích thời Hán Sở tranh hùng, Tây Sở Bá vương Hạng Vũ bị Hán vương Lưu Bang đánh bại phải giảng hòa, lấy Hồng Câu làm ranh giới giữa đôi bên. Đây ý nói vợ dữ khiến chồng phải “giữ phận".


**Thơ Bạch thủ: tức bài Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân tỏ ý trách chồng là Tư Mã Tương Như không chung thủy. Đây ý nói người vợ dữ không nghĩ gì tới việc vợ chồng còn phải chung sống với nhau lâu dài.

 

***Mây buổi sáng... Vu Sơn: lời tựa bài Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua nước Sở ra chơi đầm Vân Mộng, nằm mơ thấy một cô gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nói “Thiếp là thần nữ ở Vu Sơn, sáng làm mây tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, người sau nhân đó dùng chữ “mây mưa" để chỉ việc ái ân trai gái. Đây ý nói vợ dữ muốn giữ chồng không cho ăn nằm với tỳ thiếp.


4* Hận bấy... phách ngọc: 1ấy tích Hàn Thân thích rượu chè cờ bạc bỏ nhà đi chơi cả năm trời, một hôm cùng đám bạn cờ bạc vào thanh lâu uống rượu ca hát, vợ dắt con gái và đầy tớ tới cầm gậy rình trong góc tối. Thân đang cao giọng hát bài "Trì thủy thanh” (Nước ao trong) thì bất ngờ bị đánh một


5* Thương sao... canh dài: Ý nói vợ lớn ghen tuông làm đám tỳ thiếp phải chịu phòng không gối chiếc.


Ve sầu thoát xác, cò lẻ vượt ghềnh, mừng nỗi ly long đang ngủ*, đầy tớ dong xe, phất trần đánh ngựa, hờn vì ngựa yếu không phi**. Thấy người ngủ với chồng, tới đánh mới hay anh ruột***, buộc chân chồng vào cửa, kéo ra đã hóa dê xồm (4*). Thương mà tử tế chỉ một lúc, ác mà hành hạ thật không bờ. Gây tội nghiệt mua vui ở lầu xanh, Thái Giáp ắt rằng khó tránh, chịu oan uổng cụp tai theo ý vợ, Lý Dương cũng nói không nên (5*) chỉ ta mà cả Lý Dưong cũng nói là nàng không nên làm thế", Quách sợ hãi mới bớt vơ vét. Đây ý nói vợ dữ làm chồng phải lo sợ thay cho... Gió ghen nóng rát, ý xuân trên lầu gác vụt tàn, bể giấm mênh mông, ánh trăng dưới cầu Lam đã lấp. Lại có khi dịp tốt gặp nhau, bạn thân đầy tiệc, mà đấu rượu giấu chẳng đưa ra thết, lá thư đuổi khách viết trong phòng, nên bạn cũ tránh không tìm tới chơi, bài luận Tuyệt giao truyền khắp chốn.


*Ve sầu... đang ngủ: Ve sầu... vượt ghềnh nguyên văn 1à "Thiền xác vụ than" tức "Kim thiền thoát xác” và “Vụ lộ đạp than", đây chỉ việc trốn đi. Ly long đang ngủ lấy điển trong Trang tử, Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu chép có người làm nghề câu cá, đứa con lặn xuống vực mò được viên ngọc giá đáng ngàn vàng, ý nói "Đây là viên ngọc dưới hàm con ly long, ngươi lấy được là nhờ gặp lúc nó đang ngủ đấy thôi”. Cả câu ý nói sở dĩ chồng trốn qua được với tỳ thiếp là nhờ vợ cả đang ngủ.


** Đầy tớ... không phi: Đố ký chép Vương Đạo có vợ là Tào phu nhân tính hay ghen, Đạo sợ nên bí mật cho xây một căn nhà riêng, đem hết các tỳ thiếp về đó ở. Tào phu nhân biết được, sai đầy tớ sắp sẵn xe ngựa, chờ Đạo vừa ra đi thì lên xe đuổi theo, đích thân cầm cái phất trần đánh ngựa giúp người dong xe, vượt qua ngựa Đạo tới chỗ ấy trước. Đây ý nói vợ ghen theo dõi để bắt quả tang chồng.


***Thấy người ngủ... anh ruột: lấy tích Vũ Tử có vợ cả ghen, Vũ Tử gọi anh vợ tới cùng ngủ chung, lấy một cái xiêm đàn bà màu đỏ máng lên bình phong. Vợ thấy thế hùng hổ vác dao vào định đánh ghen, tốc chăn ra thì thấy anh ruột, xấu hổ lui ra.


4*Buộc chân chồng... dê xồm: lấy tích sĩ nhân họ Tế có vợ rất hung dữ, chồng làm điều gì trái ý, nhỏ thì chửi bới, lớn thì đánh đập, thường lấy dây dài buộc chân chồng. Tế bàn với một bà đồng buộc sẵn con dê ngoài tường, đang đêm nhân lúc vợ đi tiểu Tế leo ra tường trốn, cởi dây buộc vào con dê rồi ném đầu dây vào trong. Vợ trở vào thấy mất Tế vội nắm đầu dây kéo thì được con dê, cả sợ gọi bà đồng tới hỏi, bà ta đáp vì nương tử làm nhiều điều ác nên cha ông trừng trị, biến lang quân thành dê.


5*Lý Dương cũng nói không nên: Thế thuyết chép vợ Vương Di Phủ 1à Quách thị tính tham lam, cậy chồng làm quan vơ vét rất nhiều tiền bạc. Di Phủ lo lắng can ngăn mà vợ không nghe. Lúc ấy Thứ sử U Châu Lý Dương là người cùng làng nổi tiếng là bậc hiệp khách, Quách vẫn sợ. Di Phủ nhân đó nói "Không


Thậm chí khiến anh em rẽ lối, cây gai khô trước cửa ngậm ngùi*, cầm sắt tục huyền, áo lau mỏng trong lòng tê tái**. Cho nên Dương Thành uống rượu, khắp một nhà chỉ có anh em***lạt lẽo nên ta không nỡ”, em cảm động, cũng không lấy vợ. Thành khi làm Gián nghị Đại phu khi gặp việc lớn thì dám thẳng thừng can gián, nhưng lúc bình thời thì cả ngày chỉ uống rượu, Thương tử thổi tiêu, bảy mươi tuổi không thành gia thất (4*). Than ôi! Trăm năm duyên số, lại trở thành mụn ghẻ trong xương, năm lượng lộc bì (5*), hóa chuốc lấy nỗi đau trên gối. Râu cứng tựa kích đều như thế, mật lớn như đấu có mấy người? Đã chẳng dám chôn vợ nơi chuồng ngựa (6*), để dứt mầm tai, nào ai liều thiến dái tại phòng tằm (7*), mà trừ gốc nghiệt! Quân nương tử kiêu rông bạo ngược, hết cách diệt trừ, cọp phấn son tàn hại sinh linh, ai người tế độ? Hương trời đêm rớt, cho yên sóng dậy trong nồi, mưa nhỏ sáng rơi, dập tắt lửa nồng dưới chiếu. Cõi cực lạc xây đôi tòa gác đẹp, lưỡi đa đoan bàn một cuống sen xanh (8*). Diệt khổ não cho kiếp người, dựng đạo trường bên bến ái. Ôi! Mong vài chương kinh văn lá bối, làm một phen giọt nước cành dương...


* Anh em... ngậm ngùi: Tục Tề hài ký chép ở kinh đô có ba anh em họ Điền chia đều gia sản cha mẹ để lại làm ba phần, nhưng còn một cây gai trước sân không sao chia được, bàn đốn xuống chia ba, sáng ra mang búa tới định chặt thì cây gai đã chết khô rồi. Đây ý nói vì vợ dữ mà anh em ruột phải chia lìa.


** Cầm sắt... tê tái. lấy tích cha Mẫn Tử Khiên góa vợ tục huyền, sinh thêm được hai con trai. Mẹ kế thương con mình ghét con chồng nên mùa đông cho con mình mặc áo độn bông, bắt Mẫn Tử Khiên mặc áo độn hoa lau. Đây ý nói vì vợ kế dữ mà con cái bị hành hạ.


*** Dương Thành... anh em: Trác hạnh truyện chép Dương Thành thời Đường và em trai ở ẩn trong núi Trung Điều, không chịu lấy vợ, nói với em rằng "Ta và em mồ côi nuôi nhau, nếu lấy vợ thì bị người ngoài ngăn cách, tuy có ở chung tình nghĩa cũng


4* Thương tử... gia thất: Liệt tiên truyện chép Khưu Tử Tư thời Thương thích chăn heo thổi sáo, bảy mươi tuổi vẫn không lấy vợ.


5* Lộc bì: tức da hươu, thời cổ dùng làm tiền, nên cũng dùng làm lễ vật cưới hỏi.


6* Chôn vợ nơi chuồng ngựa: Tề sách chép mẹ Khuông Chương hỗn láo, cha Chương bèn giết chết chôn dưới chuồng ngựa.


7* Thiến dái tại phòng tằm: ngày xưa những người bị tội cung hình (thiến) hay các hoạn quan tình nguyện tự thiến để vào phục vụ trong nội cung sau khi thiến xong được đưa vào phòng nuôi tằm (tàm thất) cho kín gió để chờ lành hẳn.


8* Lưỡi đa đoan ... sen xanh: lưỡi đa đoan nguyên văn là "Trường thiệt chi đoan (mối lưỡi dài), ý nói lắm chuyện, đây chỉ phụ nữ. Một cuống sen xanh nguyên văn là "Thanh liên tịnh đế" (Hai đóa sen có chung một cuống) lấy tích trong Tình sử kể chuyện vợ chồng Tào Bích ôm nhau chết đuối trong ao, về sau trong ao nảy ra hai đóa sen có chung một cuống. Câu này ý nói mong muốn sao cho phụ nữ chỉ bàn tới việc vợ chồng thương yêu nhau.


Hiếu liêm họ Lý ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) tính thích đi xa, lúc trẻ lại phóng túng không chịu bị trói buộc, các môn đàn hát đều giỏi. Hai anh đều đã thi đỗ Tiến sĩ mà Lý vẫn còn lông bông. Lấy phu nhân là họ Tạ, dần dần bị kìm chế bèn bỏ đi ba năm không về, tìm kiếm khắp nơi không thấy. Mãi về sau mới tìm được trong một kỹ viện ở huyện Lâm Thanh (tỉnh Sơn Đông), người nhà vào thấy Lý đang ngồi quay mặt về phía nam, có mười mấy kỹ nữ trẻ đẹp đứng hầu hai bên, té ra họ nhờ Lý dạy đàn sáo cho. Lúc lên đường về, từ quần áo tới tiền ăn đường đều là của các kỹ nữ tặng. Về tới nhà, phu nhân nhốt vào một gian phòng, đặt sách đầy bàn, lấy dây dài buộc vào chân giường thòng một đầu ra chỗ then cửa, treo cái lục lạc lớn để gọi nhà bếp, cần gì thì giật dây, dây động lục lạc rung sẽ có người hầu hạ. Phu nhân tự mở gian hàng, buông rèm định giá, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm quản bút, đầy tớ chỉ đi lại dọn dẹp. Nhờ thế nhà dần dần giàu lên nhưng phu nhân vẫn lấy làm nhục không được sang như các chị dâu. Lý bị nhốt kín ba năm, đi thi đỗ Cử nhân, phu nhân mừng nói "Ba quả trứng có hai đã nở, ta cho rằng ông là trứng ung, nay cũng nở được à?"


Tiến sĩ Cảnh Tung Sinh cũng là người huyện Chương Khâu, phu nhân thường thắp đèn kéo sợi giúp chồng đọc sách, người kéo sợi không nghỉ, người dọc sách cũng không dám thôi. Nếu có bạn chồng tới chơi thì rình nghe trộm, nếu bàn chuyện văn chương thì lo trà rượu cơm nước tiếp đãi tử tế, còn nếu nói chuyện chơi bời thì ra quát tháo đuổi khách. Lần nào Cảnh đi khảo thí được hạng trung bình thì không dám vào phòng, được hạng cao vợ mới tươi cười ra cổng đón. Cảnh đi dạy học được bao nhiêu tiền đưa cả cho vợ, không dám giấu diếm một đồng. Nhà chủ cung đốn trả lương thì tính toán chi ly, có người chê cười nhưng không biết Cảnh phải tính toán lại với vợ. Sau cha vợ mời về dạy cho em vợ, ngay năm ấy người em vợ thi đỗ vào trường quận, cha vợ tạ mười lượng vàng, Cảnh nhận cái hộp mà trả lại vàng. Phu nhân biết chuyện trách "Bên nhà tuy là rất thân thiết, nhưng dạy học để làm gì nào?", rồi bảo tới nhà cha mình nhận lại vàng. Cảnh không dám cãi nhưng trong lòng thấy xấu hổ, nghĩ cách lén trả lại. Từ đó hàng năm dạy học được tiền cứ giấu lại một ít, tích cóp hai năm đã gần đủ số. Một đêm chợt mơ thấy một người tới nói “Ngày mai cứ lên chỗ cao sẽ được đủ tiền". Hôm sau Cảnh lên chỗ cao nhìn thử, quả nhiên nhặt được tiền người ta đánh rơi, vừa đủ chỗ còn thiếu, bèn đem về đưa lại cho cha vợ. Sau Cảnh đỗ Tiến sĩ, phu nhân vẫn còn la mắng, Cảnh nói "Nay ta đã làm quan, sao có thể nghe lời bà được?”. Phu nhân đáp "Lời ngạn có câu Nước lên thì thuyền cũng lên, cho dù ông làm Tể tướng cũng đã là lớn à?".

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 176 -

Vân Thúy Tiên

(Vân Thúy Tiên)


Lương Hữu Tài vốn là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), lưu lạc tới đất Tế (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán hàng rong, không có vợ con điền sản, theo người trong thôn lên Thái Sơn chơi. Lúc ấy đang tháng tư, người ta lên núi dâng hương rất đông, lại có nhiều tăng ni dắt hàng chục hàng trăm đệ tử quỳ la liệt trước bàn thờ thần, cứ theo nén hương cháy làm cỡ, gọi là quỳ hương. Tài thấy trong đó có một nữ lang xinh đẹp khoảng mười bảy mười tám tuổi, thích lắm bèn giả làm khách dâng hương tới quỳ bên cạnh. Lại làm ra vẻ quỳ lâu mỏi gối, vịn tay vào chân nàng. Cô  gái giận dữ quay nhìn rồi xích ra. Tài lại xích tới gần, lát sau lại làm như trước. Cô  gái đứng phắt lên không quỳ nữa bỏ ra, Tài cũng đứng lên theo chân nhưng không biết nàng đi đàng nào, thất vọng buồn bực ra về. Dọc đường thấy cô gái đi theo một bà già, hình như là mẹ, vội rảo bước theo. Mẹ con vừa đi vừa nói chuyện, bà già nói "Con đi lễ Bà là hay lắm. Con không có em trai em gái, chỉ cần Bà phù hộ cho lấy được người chồng tốt miễn hiếu thuận là được, chẳng cần gì phải là con vua cháu chúa". Tài mừng thầm, mon men bắt chuyện hỏi thăm, bà già nói mình họ Vân, cô gái là con ruột, tên Thúy Tiên, nhà ở phía tây núi, cách bốn mươi dặm. Tài nói "Đường núi gập ghềnh mà bác thì già yếu, em thì ẻo lả thế này làm sao về kịp?", bà đáp "Trời đã xế, mẹ con ta định ghé nhà cậu cháu ngủ nhờ". Tài nói “Lúc nãy nghe bác nói kén rể không kể nghèo hèn, vậy cháu chưa có vợ, bác thấy được không?". Bà hỏi cô gái, nàng im lặng, hỏi mấy lần mới nói "Y ít phúc, lại phóng đãng vô hạnh, tâm tính khinh bạc mà hay tráo trở, con không thể làm vợ một gã vô lại được". Tài nghe thế vội tỏ ra chân thành, chỉ trời thề thốt.

Bà già mừng rỡ nhận lời, cô gái thì không thích, tỏ vẻ vùng vằng, bà mẹ phải cố làm cho nàng vui lên. Tài ân cần xách hộ hành lý, tìm hai chiếc kiệu núi cho hai mẹ con, mình thì đi bộ theo như người hầu, cứ tới đoạn đường nào gập ghềnh lại quát tháo bọn phu kiệu bảo phải cẩn thận không được lắc mạnh, lo lắng ân cần lắm. Không bao lâu tới một xóm, bà già bảo Tài cùng vào. Có ông bà già ra đón, là anh trai và chị dâu bà Vân, bà nói Tài là con rể, vừa đúng ngày tốt không cần chọn lựa nữa, cho làm lễ cưới luôn đêm nay. ông cậu cũng vui vẻ, dọn cơm rượu mời Tài, kế cho Thúy Tiên ăn mặc đẹp đẽ ra làm lễ rồi dọn giường giục đi ngủ. Cô  gái nói "Ta vốn biết ngươi bất nghĩa, nhưng bị mẹ ép buộc nên phải theo, nếu ngươi ăn ở tử tế thì chẳng lo gì đói rét", Tài vâng dạ. Sáng hôm sau thức dậy, bà mẹ bảo Tài cứ về trước, mình và con gái sẽ tới ngay. Tài về quét dọn nhà cửa xong thì bà già đưa con gái tới. Vào nhà thấy trống trơn bèn nói “Thế này thì lấy gì mà sống? Ta sẽ trở lại ngay, giúp thêm chút ít cho đỡ khổ", rồi ra đi.

Hôm sau có mấy người gia nhân trai gái mang dủ thứ áo quần chén bát tới xếp đầy nhà rồi đi ngay không ở lại ăn cơm, chỉ lưu lại một người tỳ nữ hầu hạ. Tài từ đó chỉ ngồi không ăn sẵn, hàng ngày cứ theo bọn vô lại rượu chè cờ bạc, dần dà ăn cắp cả nữ trang của vợ để chơi bời. Cô  gái khuyên nhiều lần không được, hết cách chỉ còn biết giữ kỹ lưỡng hòm như đề phòng giặc cướp. Một hôm đám cờ bạc tới thăm Tài, nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc tấm tắc khen ngợi, nói đùa với Tài "Ông giàu có lớn, lo gì nghèo khó?", Tài hỏi sao nói thế, chúng đáp “Mới rồi thấy mặt phu nhân, thật là người tiên, lại gặp lúc gia đình không hòa thuận, nếu đem bán làm vợ lẽ phải được trăm lượng vàng còn bán cho nhà chứa phải được ngàn lượng, có ngàn lượng vàng trong nhà thì lo gì không tiền uống rượu đánh bạc?”. Tài không đáp nhưng thầm cho là đúng. Về nhà cứ nhìn vợ thở dài, lúc lúc lại than nghèo quá không biết làm sao sống. Cô  gái làm như không nghe, Tài cau có đập bàn ném bát, chửi mắng tỳ nữ, làm đủ trò gây gổ. Một đêm cô gái mua rượu cùng uống, chợt nói "Chàng vì nghèo túng mà lo nghĩ ngày đêm, thiếp cũng chẳng có cách gì lo toan để chia sẻ, há không hổ thẹn, nhưng không có vật gì đáng giá, chỉ có con hầu này, đem bán đi cũng đủ vốn buôn bán lặt vặt”. Tài lắc đầu nói "Nó thì đáng bao nhiêu!". Uống thêm một lúc, nàng nói ! Thiếp có tiếc gì với chàng đâu, khổ cái là đã kiệt lực rồi. Nghĩ lại thấy cứ nghèo túng thế này, cho dù theo nhau tới chết chẳng qua cũng chỉ là khổ sở suốt đời, làm sao mở mày mở mặt được. Không bằng cứ đem thiếp bán cho nhà giàu thì hai người đều có lợi, chắc được giá hơn con hầu nhiều”.

Tài làm ra vẻ kinh ngạc, nói làm gì phải tới nỗi như vậy nhưng nàng cứ nói mãi, vẻ mặt rất nghiêm trang. Tài mừng nói "Để ta tính lại". Liền đánh tiếng với một vị quan lớn đang mua ca kỹ làm con hát, vị quan đích thân tới nhà Tài, thấy cô gái rất thích, sợ không mua được ngay, bèn làm giao kèo mua tám trăm quan, việc thế là xong. Cô  gái nói “Mẹ thường ngày thấy nhà rể nghèo vẫn lo lắng cho, nay đã dứt hết tình nghĩa, thiếp phải về thăm một lần. Vả lại chàng đoạn tuyệt với thiếp thì cũng phải nói cho mẹ biết chứ". Tài lo bà mẹ cản trở, nàng nói "Đây vốn là do thiếp muốn, cam đoan không có việc gì đâu”, Tài bèn theo nàng đi. Gần nửa đêm mới tới nhà mẹ vợ, gõ cổng vào thấy lầu gác hoa lệ, đầy tớ đi lại tấp nập. Tài thường ngày ở với vợ vẫn muốn tới thăm mẹ nhưng cô gái cứ ngăn cản nên làm rể hơn một năm vẫn chưa lần nào tới nhà bà nhạc, lúc ấy cả sợ nghĩ rằng con gái nhà giàu có như thế này ắt không chịu làm nàng hầu con hát. Cô  gái dẫn Tài lên lầu, bà già kinh ngạc hỏi "Sao vợ chồng lại tới đây?”, nàng oán hờn nói "Con vẫn nói y bất nghĩa, nay quả đúng". Rồi lấy trong túi ra hai nén vàng đặt lên bàn, nói "May mà không bị đứa tiểu nhân lừa lấy, nay xin trả cho mẹ".

Mẹ kinh ngạc hỏi duyên cớ, nàng đáp "Y muốn bán con đi, có giữ vàng cũng vô dụng”, rồi chỉ mặt Tài mắng “Đồ chó, ngày trước ngươi gánh hàng bán rong, mặt mũi lem luốc như ma, lúc đầu gần ta mồ hôi còn chua loét, cáu ghét rơi ra muốn sập giường, tay chân thì chai cộm cả tấc khiến người ta suốt đêm lợm mửa, từ khi lấy ta chỉ ngồi ăn không mới lột được lớp da quỷ sứ đi. Có mẹ ở đây, ta có đặt chuyện cho ngươi không?". Tài cúi đầu không dám hó hé, nàng lại nói “Ta biết mình không có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành để làm vợ bậc quý nhân, chứ với hạng đàn ông như ngươi thì dám nói là xứng đôi vừa lứa, mà ta không làm gì lầm lỗi sao ngươi nỡ dứt cả nghĩa vợ chồng không nghĩ tới chút tình hương lửa. Ta há không đủ sức làm nhà lầu mua ruộng tốt sao, chỉ vì thấy ngươi là kẻ ít phúc phận, có tướng ăn mày, không thể sống với nhau trọn đời được thôi”. Nàng nói xong, bọn tớ gái kéo tới vây đặc chung quanh thóa mạ, đều nói cứ giết đi, cần gì phải nói này nọ. Tài khiếp sợ quỳ mọp dưới đất, nói đã ăn năn rồi.

Cô  gái càng tức giận, nói "Bán vợ con đã là đại ác, sao ngươi còn nỡ lòng coi rẻ người bạn đầu gối tay ấp đem bán đi làm đĩ chứ?”. Nàng chưa dứt câu, mọi người đều sôi máu, kẻ rút trâm tóc, người vớ kéo may xúm vào đâm túi bụi. Tài kêu la xin tha mạng, cô gái ngăn mọi người lại, nói "Thôi tạm tha cho hắn, y bất nhân nhưng ta không nỡ thấy y khiếp sợ như thế", rồi dắt mọi người xuống lầu. Tài ngồi nghe ngóng một lúc, thấy không có tiếng người, toan bỏ trốn. Chợt ngẩng nhìn trời thấy sao đêm lặn hết, phương đông đã hừng sáng, trời đất mênh mang. Kế đèn lửa cũng tắt hết, nhìn lại thấy không có nhà cửa gì cả mà mình thì đang ngồi trên vách đá cheo leo, cúi xuống thấy ở dưới là vực sâu thăm thẳm, khiếp đảm sợ rơi xuống. Vừa nhúc nhích thì ầm một tiếng, tảng đá đang ngồi lở ra rơi luôn xuống vực. May vách núi có cây khô đâm ngang nên Tài vướng lại không rơi xuống, nằm vắt bụng trên thân cây, tay chân chẳng có chỗ nào bấu víu, nhìn xương vực thấy mờ mịt không biết sâu bao nhiêu trượng, không dám động đậy. Sợ muốn tắt thở, toàn thân đẫm máu, kiệt sức mê mụ ngất đi luôn. Mặt trời lên cao mới có người tiều phu nhìn thấy, tìm dây dòng xuống cứu lên, đặt trên sườn núi, thấy hơi thở thoi thóp bèn khiêng cho về nhà.

Về tới thấy cửa mở toang, trong nhà trống trơn như ngôi chùa nát, giường chiếu vật dùng đều biến mất, chỉ còn chiếc võng rách và cái bàn mục là vật cũ của mình, lê lết lên nằm, hàng ngày đói  bụng lại qua các nhà láng giềng xin ăn. Kế mắc bệnh lở loét, toàn thân máu mủ bê bết, người làng ghét tính nết khinh bạc đều khạc nhổ đuổi đi. Tài hết cách sống, bán nhà vào ở trong hang núi, hàng ngày ra đường xin ăn, luôn giắt theo lưỡi dao trong mình. Có người bảo đổi dao lấy thức ăn, Tài không chịu, nói "Ở trong núi phòng hùm beo, phải có dao để tự vệ". Sau gặp kẻ khuyên mình bán vợ trên đường, bèn tới gần kể lể rồi rút dao đâm chết. Quan xét biết rõ sự tình nên cũng không nỡ cùm kẹp tra tấn, chỉ giam lại trong ngục, kế đói rét mà chết.


Dị Sử thị nói:Được người đẹp ở núi xa về ở cùng, khác gì được làm vua? Mình đã không ra gì lại oán thù thằng bạn xấu, kẻ làm bạn không thể không biết điều đó để làm răn. Phàm kẻ xấu xa rủ rê người ta rượu chè cờ bạc, làm điều bất nghĩa thì dẫu cho việc thành không bị oán cũng không được biết ơn, nói gì tới cảnh họ thân không quần, vợ không khố, ngàn người đàm tiếu, không bệnh mà chết. Cái đau bần cùng lúc nào cũng day dứt, cái hận bần cùng lúc nào cũng sục sôi, đêm lạnh ổ rơm trằn trọc không ngủ. Kế nhớ tới tình cảnh lúc mình chưa nghèo, nhớ tới tình cảnh khi mình đã nghèo, rồi nghĩ tới nông nỗi vì sao mình nghèo, rồi lại nghĩ tới người gây ra nông nỗi ấy, thì kẻ hiền lành vùng dậy khoác chăn rách ngồi rủa, kẻ hung dữ chịu rét xoay trần ra thắp lửa tìm dao mài xoèn xoẹt không chờ trời sáng. Cho nên lấy điều lành khuyên người như tặng quả trám, đắng trước mà ngọt sau, còn lấy điều xấu dụ người như biếu thịt thiu, ăn xong là mắc bệnh, người nghe vốn nên tự xét, mà kẻ nói lại dám không sợ sao!

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 177 -

Nhan Thị

(Nhan Thị)


Mỗ sinh ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc) nhà nghèo, gặp năm mất mùa theo cha tới đất Lạc (tỉnh Hà Nam) sinh sống. Tính ngu độn, năm mười bảy tuổi mới viết chữ được thẳng hàng nhưng diện mạo tuấn tú, pha trò giỏi, viết thư tài nên không ai biết là trong bụng rỗng tuếch. Được ít lâu cha mẹ nối nhau qua đời, còn trơ trọi một mình, dạy học cho trẻ con ở đất Lạc để sinh sống. Lúc ấy trong thôn có cô gái mồ côi họ Nhan là con một bậc danh sĩ, thông minh từ nhỏ. Khi cha còn sống thường dạy cho học, chỉ đọc qua một lần là nhớ không quên, hơn mười tuổi đã làm được thơ, cha nói "Nhà ta có nữ học sĩ, chỉ tiếc là không được đội mũ thôi”, vì vậy rất yêu quý, muốn tìm rể sang. Cha mất, mẹ nàng vẫn theo ý ấy nhưng ba năm chưa thỏa nguyện, kế cũng mất. Có người khuyên nên lấy học trò giỏi, nàng cho là phải nhưng chưa gặp được ai. Gặp khi người đàn bà hàng xóm qua chơi trò chuyện, có cầm một tờ giấy viết chữ gói chỉ thêu, nàng mở ra xem thì là thư của Mỗ sinh gởi cho chồng chị ta. Cô  gái xem đi xem lại, khen chữ viết đẹp, chị ta biết ý nói nhỏ "Người ấy trẻ tuổi đẹp trai, mồ côi giống cô, tuổi cũng xấp xỉ, nếu bằng lòng thì ta dặn chồng ta nói cho là xong”, nàng im lặng không đáp.


Chị ta về nói với chồng, y vốn chơi thân với sinh bèn kể lại, sinh mừng lắm, nhân có chiếc nhẫn vàng của mẹ để lại bèn nhờ đưa tới làm sính lễ. Rồi chọn ngày cưới luôn, vợ chồng rất hòa hợp, đến lúc đọc thấy văn sinh, nàng cười nói "Văn với chàng tựa hồ như hai ngườí, thế này thì chừng nào mới thi đỗ được?”. Từ đó sóm hôm đốc thúc chàng học hành, nghiêm khắc như thầy trò, buổi tối thì thắp đèn ngồi vào bàn ngâm nga trước cho chồng đọc theo, đến canh ba mới nghỉ. Cứ thế hơn một năm, sinh đã thạo lối văn trường ốc nhưng thi mấy lần đều rớt, nghĩ lại thân danh lận đận, sinh sống khổ cực, tình cảnh buồn tênh, hu hu khóc lóc. Cô  gái mắng "Chàng không phải là đàn ông, đội mũ thật uổng. Nếu ta bỏ khăn yếm đổi làm đàn ông thì đoạt công danh dễ như nhổ cỏ vậy". Sinh đang buồn bực, nghe vợ nói quắc mắt giận dữ đáp “Đàn bà chưa vào trường thi cử lần nào, cứ tưởng đoạt công danh phú quý dễ như đun nước nấu cháo trong bếp. Nếu được làm đàn ông, thì cũng như người ta thôi!". Nàng cười nói “Chàng đừng giận, chờ đến kỳ thi thiếp xin cải trang thay chàng vào trường, nếu cũng thi rớt như chàng thì xin không dám coi thường danh sĩ trong thiên hạ nữa". Sinh cũng cười nói "Nàng vẫn chưa biết nỗi cay cực đâu, xin cứ nếm thử cho biết mùi thi cử, chỉ sợ lộ ra bị láng giềng cười cho thôi”. Nàng nói "Thiếp không nói đùa đâu. Chàng thường nói còn gian nhà cũ ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc), thiếp xin cải trang làm em trai theo chàng về đó ở. Chàng xa quê từ nhỏ, ai biết là giả?”, sinh ưng thuận.

Nàng vào phòng đội khăn mặc áo đàn ông rồi bước ra hỏi "Nhìn xem thiếp có làm con trai được không?". Sinh nhìn quả thật là một thiếu niên đẹp trai, mừng rỡ từ biệt làng xóm, được các bạn thân tặng tiễn cho ít nhiều bèn mua một con ngựa đỡ chân, đưa vợ về quê. Người anh con bác của sinh còn sống, thấy hai em tuấn tú rất vui mừng, sớm hôm chăm nom giúp đỡ. Lại thấy thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành, càng thêm yêu quý, thuê cho một đứa nhỏ để sai vặt, nhưng cứ chiều tối là hai người bảo nó về. Trong làng có đám cưới đám giỗ thì anh tới thăm hỏi chứ em chỉ ngồi nhà học, về làng nửa năm mà ít người thấy mặt, có ai xin gặp thì anh từ chối giùm. Đọc tới văn bài của em ai cũng kinh lạ, có người xô cửa vào gặp thì vái chào qua loa rồi tránh mặt ngay. Khách khứa thấy phong tư lại càng hâm mộ, vì thế rất nổi tiếng, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Người anh con bác bàn tới chuyện ấy thì nhoẻn miệng cười, ép lấy vợ thì nói đã thề quyết chí lập công danh, không thi đỗ thì không lấy vợ.


Gặp lúc quan Học sứ mở kỳ khảo hạch, hai anh em cùng đi thi, anh lại trượt, em đỗ đầu rồi thi hương đỗ Cử nhân thứ tư, qua năm sau thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Đồng Thành (tỉnh An Huy), làm quan có tiếng tốt nên dần được thăng làm Chưởng ấn Ngự sử Hà Nam, giàu có ngang bậc vương hầu. Sau thác bệnh xin nghỉ, được cho về trí sĩ. Khách khứa tới thăm chật cổng, đều từ tạ không tiếp một ai. Từ lúc là Chư sinh đến khi làm quan không hề nói tới chuyện cưới vợ, ai cũng lấy làm lạ. Sau khi trí sĩ mới có tỳ nữ, người ta ngờ có ăn ngủ với họ nhưng người chị dâu để ý dò xét thì không có gì bậy bạ. Nhà Minh mất, thiên hạ đại loạn, mới nói với chị dâu "Nói thật với chị, em là vợ Tiểu lang, vì thấy đàn ông bết bát không lập thân nổi nên tức giận làm cho biết tay, chỉ sợ lộ ra, nhà vua triệu vào tra hỏi bị thiên hạ cười thôi". Chị dâu không tin, cô gái cởi giày đưa bàn chân cho xem, chị mới kinh ngạc, nhìn chiếc giày thấy trong độn đầy vải vụn. Từ đó nàng bảo sinh nhận lấy chức hàm, mình thì đóng cửa trở lại làm đàn bà.


Nhưng bình sinh không chửa đẻ, nên bỏ tiền ra cưới vợ lẽ cho sinh, nói “Người ta làm quan lớn thì mua hầu cưới thiếp tự cung phụng mình, mà ta làm quan mười năm chỉ ở một mình, chàng có phúc trạch gì mà ngồi không hưởng hầu non gái đẹp?". Sinh đáp “Có ba mươi người đẹp trai*, tùy nàng lựa chọn!", người ta kể cho nhau mà cười Lúc ấy cha mẹ sinh đã được phong tặng mấy lần, thân hào nhân sĩ tới thăm viếng đều coi sinh như quan Thị ngự. Sinh thẹn về sự tập tước của vợ nên chỉ yên phận Chư sinh, suốt đời đi đâu cũng không dùng võng lọng.


*Có ba mươi người đẹp trai: Sơn Âm công chúa em gái Tống Phế đế thời Nam triều được anh yêu quý, có lần đi cùng kiệu, hỏi vua rằng "Trong sáu cung của bệ hạ có hàng vạn người mà thiếp chỉ có một Phò mã, sao không công bằng quá thế?”. Vua bèn chọn ra ba mươi người đẹp trai cho nàng tùy ý chọn lựa.


Dị Sử thị nói:Cha mẹ chồng nhờ con dâu mà được phong tặng, có thể nói là việc lạ lùng vậy. Song quan Thị ngự có phu nhân thì đời nào chẳng có, chứ phu nhân làm quan Thị ngự như thế thì ít lắm, những kẻ đội mũ nhà nho, xưng là đàn ông trong thiên hạ đều phải thẹn chết đi được.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 178 -

Tiểu Tạ

(Tiểu Tạ)


Nhà quan Bộ lang họ Khương ở Vị Nam (tỉnh Thiểm Tây) có nhiều ma quỷ hay dọa người nên phải dọn đi, để lại một  người tớ già trông coi. Người ấy chết, thay mấy người khác cũng đều chết, nhà đành bỏ hoang. Trong làng có Đào sinh tên Vọng Tam, tính phong lưu thích gặp gỡ đám ca kỹ, nhưng cứ hơi say thì bỏ về. Bạn bè bảo kỹ nữ đuổi theo kéo lại cũng cười không cưỡng nhưng cả đêm không đụng chạm gì tới. Thường ở trong nhà Bộ lang, nửa đêm có người tỳ nữ tới khêu gợi nhưng sinh kiên quyết cự tuyệt không làm việc trái lễ, Bộ lang vì vậy rất nể trọng. Nhà Đào vốn nghèo, lại góa vợ, có mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không sao chịu nổi, nên xin Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà bỏ hoang. Bộ lang vì nhà có ma nên từ chối, sinh bèn làm bài Tục Vô quỷ luận* đưa xem, lại nói "Ma thì còn làm gì được?", Bộ lang thấy xin mãi đành bằng lòng.


*Tục Vô quỷ 1uận: tức dựa theo nhan đề các bài Vô quỷ 1uận của Nguyễn Chiêm thời Tấn và Lâm Uẩn thời Đường.


Sinh tới quét dọn gian chính sảnh vào ở, chập tối để quyển sách ở đó về lấy đồ dùng, khi trở lại thì không thấy đâu, lấy làm lạ bèn lên giường nằm ngửa im lặng chờ xem động tĩnh. Khoảng ăn xong bữa cơm nghe có tiếng giày dép, hé mắt nhìn thấy hai cô gái ở phòng trong đi ra, đặt trả quyển sách bị mất lên bàn. Một nàng khoảng hai mươi tuổi, một nàng khoảng mười bảy mười tám tuổi, đều rất xinh đẹp, cứ quanh quẩn cạnh giường nhìn nhau cười, sinh vẫn im lặng không động đậy. Nàng lớn nhấc một chân đặt lên bụng sinh, nàng nhỏ bưng miệng cười, sinh thấy tâm thần rạo rục như không kìm được, nhưng lập tức đè nén tà niệm, không đếm xỉa gì tới. Nàng lớn lại tay trái vuốt râu, tay phải tát nhẹ chanh chách vào mặt sinh, nàng nhỏ cười bò ra. Sinh vùng dậy quát "Lũ quỷ dám hỗn thế à?", hai cô gái hoảng sợ bỏ chạy biến mất. Sinh sợ phải khổ sở suốt đêm, định về nhà ngủ nhưng lại xấu hổ vì nói một đàng làm nột nẻo bèn khêu đèn ngồi đọc sách, trong góc tối vẫn có bóng ma chập chờn nhưng không hề đếm xỉa.


Gần nửa đêm để đèn đi nằm, vừa chợp mắt đã có người lấy vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi rất ngứa ngáy, hắt hơi ầm lên, chỉ nghe trong góc tối có tiếng cười khúc khích. Sinh không nói gì, vờ ngủ chờ xem tiếp, giây lát thấy nàng nhỏ vê tờ giấy vào vế, rón rén bước tới gần. Sinh vùng dậy quát lại lủi trốn, vừa chợp mắt lại bị ngoáy vào tai, bị quấy nhiễu suốt đêm không sao chịu nổi, đến lúc gà gáy thì yên ắng, sinh mới được ngủ yên. Cả ngày không nghe thấy gì nhưng mặt trời vừa lặn lại hiện hình, sinh bèn nấu cơm ban đêm để thức luôn đến sáng. Đêm ấy nàng lớn ngồi bó gối trên ghế nhìn sinh đọc một lúc rồi đưa tay che sách, sinh tức giận nắm lấy thì vụt biến mất, giây lát lại giật lấy sách, sinh phải lấy tay đè lên sách mà đọc. Nàng nhỏ thì lẻn ra phía sau lấy hai tay bịt mắt sinh rồi dang ra xa đứng cười. Sinh chỉ tay mắng "Đồ quỷ con! Ta mà bắt được sẽ giết hết”, hai nàng không hề tỏ vẻ sợ hãi. Sinh thấy thế đùa nói "Chuyện gối chăn nghiêng ngửa ta không thích, chọc ghẹo làm gì vô ích". Hai nàng mỉm cười quay vào bếp chẻ củi vo gạo nấu cơm cho sinh. Sinh nhìn vào khen "Hai nàng làm thế chẳng hơn nhảy nhót nghịch ngợm sao?". Phút chốc cơm chín lại tranh nhau lấy đũa bát dọn cơm ra bàn, sinh nói "Cảm ơn hai nàng giúp đỡ, không biết lấy gì báo đáp". Hai nàng cười nói "Trong cơm có trộn thuốc độc đấy". Sinh đáp "Ta với hai nàng không có oán thù, làm gì tới nỗi hại nhau như vậy". Ăn hết bát này hai nàng lại tranh nhau qua lại đơm bát khác, sinh vui vẻ, dần dần thành lệ. Lúc đã thân mật cùng nhau trò chuyện, sinh hỏi họ tên, nàng lớn nói "Thiếp họ Kiều tên Thu Dung, nó họ Nguyễn tên Tiểu Tạ". Lại hỏi từ đâu tới đây ở, Tiểu Tạ cười đáp "Chàng ngốc còn chưa dám để lộ thân thể ra một lần thì ai cần anh hỏi nhà cửa, định hỏi cưới à?". Sinh nghiêm trang đáp “Đối diện với người đẹp làm sao vô tình được, nhưng âm khí mà người trần vương phải ắt chết, nếu không thích ở chung thì ta đi nơi khác cũng được, nếu thích thì ai yên phận nấy. Nếu không yêu thương thì ta đâu dám xúc phạm hai người đẹp, nếu yêu thương thì cần gì giết một gã cuồng sinh?". Hai nàng đổi sắc mặt nhìn nhau, từ đó không đùa nghịch quá quắt nữa, mà nếu thỉnh thoảng thọc tay vào bụng sinh tụt quần xuống đất, sinh cũng không giận.


Một hôm sinh chép bài chưa xong có việc phải ra ngoài, quay vào thấy Tiểu Tạ đang nằm bò ra bàn cầm bút chép thay, thấy sinh thì buông bút ngượng nghịu cười. Tới gần xem, thấy tuy chưa ra chữ nhưng cũng ngay hàng thẳng lối khen rằng "Nàng có khiếu lắm, nếu thích môn này ta sẽ dạy cho”. Rồi ôm nàng vào lòng, cầm cổ tay dạy viết. Thu Dung từ ngoài vào thấy thế biến sắc như có ý ghen, Tiểu Tạ cười nói “Lúc nhỏ thường được cha dạy cho nhưng bỏ lâu rồi, nay cầm bút thấy cứ mơ mơ màng màng”. Thu Dung không nói gì, sinh hiểu ý nhưng làm như không biết, cũng ôm nàng vào lòng, đưa bút cho cầm, nói "Ta xem thử nàng có viết được không", viết vài chữ rồi đứng lên nói "Nét chữ nàng Thu cứng cáp lắm", Thu Dung mới vui vẻ. Sinh liền rọc giấy cho tập viết phóng, bảo hai nàng viết theo còn mình thắp một ngọn đèn riêng ngồi học, mừng thầm vì ai cũng có việc để làm không quấy nhiễu nữa. Viết xong, hai nàng mang tới đứng trước bàn chờ sinh chấm điểm, Thu Dung chưa được đi học nên nguệch ngoạc chưa ra chữ, sinh chấm xong nói không bằng Tiểu Tạ thì có vẻ thẹn, sinh an ủi khích lệ mới mới lấy lại vẻ mặt bình thường.


Từ đó hai cô gái coi sinh như thầy, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp chân, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Hơn tháng sau chữ viết của Tiểu Tạ đã ngay ngắn đẹp đẽ, sinh vô tình khen ngợi, Thu Dung xấu hổ nước mắt ròng ròng, sinh tìm đủ cách an ủi mới nguôi. Kế dạy cho học, cả hai đều thông minh lạ thường, nói qua một lần là hiểu, không bao giờ phải hỏi lại, thường cùng sinh đọc sách suốt đêm. Tiểu Tạ lại dẫn em trai là Tam lang tới xin theo học, khoảng mười lăm mười sáu tuổi, dung mạo tuấn tú, đem cái như ý bằng vàng làm lễ ra mắt, sinh bảo cùng học với Thu Dung, tiếng đọc sách râm ran, sinh từ đó thành ra mở trường dạy ma. Bộ lang nghe tin rất mừng, thỉnh thoảng cấp gạo củi cho sinh. Được vài tháng Thu Dung và Tam lang đã biết làm thơ, thường xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn đừng dạy Thu Dung, sinh ừ, Thu Dung dặn đừng dạy Tiểu Tạ, sinh cũng ừ. Một hôm sinh sắp đi thi, hai cô gái khóc lóc đưa tiễn. Tam lang nói "Chuyến này nên cáo ốm đừng đi, nếu không e gặp chuyện không hay". Sinh cho rằng cáo ốm trốn thi là nhục nên cứ đi.


Vốn trước đó sinh hay làm thơ mỉa mai thời thế, các nhà quyền quý trong huyện ghét lắm, ngày đêm nghĩ cách hãm hại, lúc ấy ngầm hối lộ quan học chính vu cáo là hạnh kiểm không tốt, bắt sinh bỏ ngục. Sinh hết cả tiền, phải xin ăn các bạn tù, tự nghĩ là đã hết đường sống. Chợt có một người lãng đãng bước vào, thì ra là Thu Dung đem cơm vào cho. Nàng nhìn sinh khóc nức nở, nói "Tam lang lo chàng gặp chuyện không lành, nay quả không sai. Tam lang cùng tới đây với thiếp, đang kêu oan ở nha môn", kế nói thêm vài câu rồi quay ra, không ai trông thấy. Hôm sau quan pháp ty ra đường, Tam lang đón kiệu kêu oan, quan nhận đơn, Thu Dung vào ngục báo cho sinh rồi trở ra nghe ngóng tin túc, ba ngày không thấy vào Sinh lòng buồn bụng đói, thấy một ngày dài như một năm. Chợt Tiểu Tạ tới, buồn bã hốc hác như sắp chết, nói "Thu Dung về ngang miếu Thành hoàng bị viên Phán quan mặt đen ở chái tây bắt vào ép làm vợ lẽ. Thu Dung không chịu, hiện đang bị nhốt trong ngục tối. Thiếp lặn lội cả trăm dặm, mỏi mệt gần chết, tới cổng bắc lại bị gai già đâm vào gan bàn chân đau thấu xương, e rằng không thể tới đây được nữa", rồi đưa chân cho xem, máu chảy ròng ròng, kế đưa sinh ba lượng vàng rồi khập khiễng bước ra biến mất.


Quan pháp ty xét việc Tam lang khiếu nại, cho rằng Tam lang không có họ hàng thân thích gì mà kêu oan cho sinh, định đánh đòn thì Tam lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm lạ, xem tới đơn thấy lời lẽ bi thiết, cho giải sinh ra lấy cung, hỏi Tam lang là ai. Sinh giả không biết, quan hiểu là oan bèn tha cho về. Sinh về thì nhà vắng ngắt không có ai, khuya Tiểu Tạ mới tới, buồn rầu nói “Tam lang ở nha môn ra bị thần ở đó bắt giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy có nghĩa khí nên đã cho đầu thai làm con nhà giàu. Thu Dung thì vẫn còn bị giam, thiếp đưa đơn kêu với Thành hoàng lại bị ngăn trở không vào được, làm sao bây giờ?". Sinh tức giận nói "Thằng quỷ già mặt đen, sao dám như thế? Ngày mai ta sẽ xô đổ tượng nó xuống, đạp nát ra thành bùn đất, rồi rạch mặt Thành hoàng hỏi tội tại sao để cho thuộc hạ hoành hành như vậy, y đang ngủ mơ à?". Hai người buồn rầu căm tức ngồi với nhau, bất giác gần hết canh tư, chợt Thu Dung lãng đãng bước vào, hai người vừa mừng vừa sợ vội vàng hỏi han. Thu Dung khóc nói "Nay vì chàng mà phải muôn vàn cay đắng, Phán quan hàng ngày cứ đem dao gậy ra bức bách, đêm nay chợt tha thiếp về nói: Ta làm thế này chỉ vì thường yêu nàng, nay nàng không muốn thì ta cũng không ép buộc, xin nói với quan Hình bộ họ Đào đừng khiển trách ta”, sinh nghe cũng hơi hả dạ, nhân muốn ngủ chung, nói "Hôm nay xin chết vì hai nàng". Hai cô gái buồn rầu nói "Lâu nay được dạy bảo cũng hơi biết nghĩa lý, nỡ nào vì yêu chàng mà giết chàng sao?", nhất định không chịu, nhưng đều ôm đầu bá cổ sinh như vợ chồng, mà hai nàng vì cùng trải qua hoạn nạn nên không còn ghen tức gì nhau nữa.


Gặp lúc có vị đạo sĩ gặp sinh trên đường, nói trên người sinh có tà khí. Sinh thấy lời nói lạ lùng bèn kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ nói "Ma ấy tốt lắm, không nên phụ họ", rồi vẽ hai lá bùa trao cho sinh, dặn "Về đưa cho hai nàng ấy rồi chờ xem phúc mệnh. Nếu nghe ngoài cổng có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt lá bùa chạy mau ra, ai tới trước sẽ được sống lại". Sinh lạy tạ nhận lấy về đưa hai nàng, kể lại lời đạo sĩ dặn. Hơn tháng sau quả nghe có tiếng khóc thương con gái chết, hai nàng tranh nhau chạy ra, Tiểu Tạ vội vàng quên nuốt lá bùa, thấy có chiếc xe tang đi ngang, Thu Dung bước thẳng lên chui luôn vào quan tài biến mất. Tiểu Tạ không vào được, khóc lớn trở về, sinh ra nhìn thì là đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy có một cô gái chui vào quan tài, đang ngờ sợ thì nghe bên trong có tiếng động vội dừng lại mở ra xem thì thấy cô gái đã thoi thóp thở, bèn xin nghỉ lại ngoài phòng học của sinh để săn sóc. Chợt nàng mở mắt hỏi Đào sinh, Hác gặng hỏi, nàng đáp "Ta không phải là con gái ông đâu”, rồi kể rõ sự tình. Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về, nàng không chịu, chạy luôn vào phòng học của sinh nằm không ra nữa, Hác bèn nhận sinh làm con rể rồi về. Sinh vào nhìn thấy dung mạo tuy khác nhưng xinh đẹp không kém Thu Dung, mừng là còn hơn cả điều mình mong muốn, cùng nhắc chuyện cũ. Chợt nghe tiếng ma nức nở, thì ra Tiểu Tạ đang khóc trong góc tối, rất thương xót vội cầm đèn tới, hết lời an ủi nhưng nàng vẫn đau đớn khóc ròng, áo xiêm đẫm lệ, gần sáng mới biến đi.


Sáng ra họ Hác sai tớ gái mang rương hòm của con gái qua chỗ sinh, đối xử như cha vợ chàng rể vậy. Đến tối sinh vào phòng thì Tiểu Tạ lại khóc lóc, cứ thế sáu bảy đêm, vợ chồng đều mủi lòng không sao làm lễ hợp cẩn được. Sinh lo nghĩ nhưng không tìm ra cách nào, Thu Dung nói "Đạo sĩ là người tiên, tìm tới cầu xin lần nữa may ra ông thương mà giúp cho". Sinh cho là phải, tìm tới nơi đạo sĩ ở, lạy lục bày tỏ chuyện mình, nhưng đạo sĩ khăng khăng nói rằng không có phép thuật nào. Sinh van nài mãi, đạo sĩ cười nói "Chàng ngây này làm phiển người ta quá, thôi vì ta có duyên với ông, xin đem hết phép thuật ra vậy”. Rồi theo sinh về, đòi một gian phòng tĩnh mịch, đóng cửa ngồi trong, dặn không được gọi hỏi gì, hơn mười ngày không ăn không uống, lén nhìn vào thì thấy nhắm mắt như đang ngủ. Một hôm vừa rạng sáng, có cô gái trẻ vén rèm bước vào, mắt long lanh răng trắng muốt, kiều diễm rực rỡ, khẽ cười nói "Lặn lội suốt đêm mệt quá, bị các người đeo đẳng quấy rầy phải bôn ba hơn trăm dặm mới tìm được một ngôi nhà tốt, bần đạo mang theo về đây, chờ cô ta nhập hồn vào giao lại là xong”. Chập tối Tiểu Tạ tới, cô gái đứng lên ôm chầm lấy, hòa vào nhau thành một rồi ngã lăn xuống đất nằm cứng đờ. Đạo sĩ trong phòng bước ra, chắp tay chào rồi đi. Sinh vái lạy tiễn chân, trở vào thì cô gái đã tỉnh, đỡ lên giường thấy hơi thở đều đặn, trong người khỏe khoắn nhưng còn ôm chân kêu đau, vài hôm mới đi lại được.


Sau sinh thi đỗ làm quan, có người bạn cùng khoa là Sái Tử Kinh có việc ghé qua nhà sinh, ở lại vài ngày. Tiểu Tạ từ hàng xóm về, Sái nhìn thấy vội đuổi theo sát gót, Tiểu Tạ nép người lánh đi, thầm tức giận là kẻ khinh bạc. Sái nói với sinh "Có một việc vô cùng kỳ quái, không biết nói ra được không?". Sinh hỏi, Sái đáp "Ba năm trước em gái ta chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến mất, đến nay vẫn còn lấy làm ngờ vực. Mới rồi nhìn thấy phu nhân, sao giống em ta quá”, Sinh cười nói "Vợ ta quê mùa, làm sao giống được lệnh muội, nhưng đã là bạn đồng khoa với nhau, tình nghĩa thân thiết, ngại gì không để ra chào". Liền vào trong bảo Tiểu Tạ mặc bộ quần áo liệm ngày trước ra chào khách, Sái cả kinh nói “Đúng là em gái ta mà” rồi khóc ròng. Sinh bèn kể lại đầu đuôi, Sái mừng nói "Vậy thì như em gái chưa chết, ta phải về ngay báo tin mừng cho cha mẹ mới được” rồi ra về. Sau vài hôm cả nhà kéo qua, về sau cũng thường đi lại thăm hỏi như họ Hác vậy.


Dị Sử thị nói:Bậc giai nhân tuyệt thế, cầu được một người đã là khó, nói gì tới việc được hai người! Chuyện này quả là ngàn năm mới thấy một lần, nhưng nhờ không lang chạ mới cưới được hai nàng đấy thôi. Còn đạo sĩ là tiên chăng, sao mà có phép thuật thần diệu như vậy? Nếu có phép thuật ấy thì có thể giao du với đám ma xấu xí được. 

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 179 - 180 -

Huệ Phương

(Huệ Phương)


Mã Nhị Hỗn ở trong cửa đông phủ thành Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán mì, nhà nghèo không có vợ, cùng mẹ vất vả làm ăn. Một hôm bà già ở nhà một mình, chợt có cô gái đẹp tới, tuổi khoảng mười bảy, mười tám, quần áo mộc mạc nhưng dung nhan lộng lẫy. Bà già hoảng sợ căn vặn, nàng cười nói “Con thấy hiền lang thành thật chăm chỉ, nên xin gởi thân vào nhà mẹ". Bà già càng sợ, nói "Nương tử là người tiên mà nói câu ấy, làm mẹ con ta giảm thọ mấy năm". Cô  gái cứ nài nỉ, bà già cho rằng là nàng hầu vợ lẽ của nhà quyền quý trốn đi nên càng ra sức cự tuyệt, cô gái bèn đi. Ba ngày sau lại tới, quanh quẫn mãi không chịu đi. Hỏi họ tên, nàng đáp "Mẹ chịu cho ở thì con mới nói, nếu không thì không cần phải hỏi”. Bà già nói "Con trai ta nghèo thấu xương, được người vợ như thế này nếu không xứng đôi cũng là điều không hay". Cô  gái cười ngồi xuống cạnh giường, ngọt ngào năn nỉ. Bà già khước từ, nói xin nương tử đi ngay cho, đùng gieo họa cho nhau. Cô  gái bèn đi ra, bà già nhìn theo thấy đi về phía tây.


Lại vài ngày sau, có bà Lữ ở hẻm phía tây tới, nói với Mã rằng "Cô gái láng giềng của ta là Đổng Huệ Phương mồ côi không nơi nương tụa, tình nguyện làm vợ hiền lang, sao lại không chịu?”. Mã nói thật điều mình nghi ngờ lo lắng, bà Lữ nói "Làm gì có chuyện đó? Nếu có gì rắc rối cứ bắt tội già này”. Mã mừng rỡ ưng thuận. Bà Lữ đi rồi, mẹ Mã quét nhà dọn giường để chờ con dâu tới làm lễ. Chiều tối cô gái phiêu hốt tự tới, vào nhà lạy mẹ theo đúng nghi lễ rồi nói với bà già rằng "Con có hai tỳ nữ, chưa được lệnh mẹ nên không dám gọi tới". Bà già nói "Mẹ con ta nghèo khó không biết sai khiến tôi tớ, hàng ngày chỉ kiếm được chút lời đủ sống, nay thêm một nàng dâu xinh đẹp yếu ớt chỉ biết ngồi không đã sợ không đủ ăn, còn thêm hai tỳ nữ thì hít gió mà sống à?". Cô  gái cười nói "Bọn tỳ nữ tới đây thì không làm phiền mẹ phải nuôi đâu, tự chúng có cái ăn mà". Hỏi tỳ nữ ở đâu, nàng bèn gọi Thu Nguyệt, Thu Tùng, chưa dứt tiếng thì hai tỳ nữ đã như chim én bay rơi xuống đứng ngay trước mặt, nàng sai quỳ xuống lạy ra mắt mẹ. Kế Mã về, mẹ ra đón kể chuyện, Mã mừng rỡ vào nhà thấy rường chạm cột vẽ lộng lẫy như cung điện, trong thì bàn ghế bình phong rèm màn rực rỡ lóa mắt, sợ hãi không dám vào. Cô  gái tươi cười đứng dậy chào đón, Mã thấy như là thiên tiên càng sợ muốn lui ra. Cô  gái kéo ngồi xuống dịu dàng trò chuyện, Mã mừng rằng còn quá cả điều mong ước, lúng túng không biết làm sao, bèn đứng lên định ra dọn rượn. Cô  gái ngăn lại nói không cần, rồi sai hai tỳ nữ bày tiệc. Thu Nguyệt liền lấy một cái túi da cầm bước ra sau cửa đập bồm bộp rồi luồn tay vào trong lấy rượu thịt ra, đều còn nóng hổi ngon lành. Kế đi ngủ thì gối hoa nệm gấm, mềm mại ấm áp phi thường. Sáng dậy ra cửa thì vẫn là nhà tranh như cũ, hai mẹ con đều lạ lùng.


Bà già định tới chỗ bà Lữ hỏi thăm về cô gái, vào nhà rồi trước tiên tạ ơn làm mối. Bà Lữ ngạc nhiên nói "Lâu lắm không tới thăm bà, làm gì có chuyện cô gái hàng xóm nào nhờ vả làm mối?”. Bà già càng ngờ vực, kể lại hết đầu đuôi câu chuyện. Bà Lữ cả sợ, lập tức cùng bà già tới gặp cô gái. Nàng cười ra đón, hết sức cảm tạ về việc tác hợp cho mình. Bà Lữ thấy nàng xinh đẹp thông tuệ kinh ngạc trợn mắt há miệng hồi lâu, cũng chẳng tranh cãi gì, chỉ vâng vâng dạ dạ mà thôi. Cô  gái tặng một cái như ý bằng gỗ trắng, nói "Không có gì để cảm tạ, chỉ xin dâng vật này để bà bác gãi lưng thôi". Bà Lữ nhận lấy ra về, nhìn lại thì là một chiếc trâm bằng bạc. Mã từ khi có vợ càng mở mang nghề cũ, nhà cửa đều đổi mới. Trong tủ có vô số gấm vóc lụa là cho Mã tùy ý lấy, nhưng ra khỏi nhà cũng chỉ mặc áo vải cốt nhẹ nhàng ấm áp mà thôi, cô gái cũng để cho mặc ý. Được bốn năm năm, chợt nói "Thiếp bị đày xuống trần gian hơn mười năm, vì có duyên với chàng nên tạm lưu lại ở đây, nay xin chia tay". Mã cố giữ lại, nàng nóí "Xin chàng cưới vợ khác để có con nối dõi, hàng năm thiếp sẽ tới" rồi biến mất.


Mã bèn cưới con gái họ Tần. Ba nàm sau, vào đêm Thất tịch, vợ chồng đang trò chuyện thì cô gái chợt bước vào cười nói "Có vợ mới vui vẻ không nhớ người xưa à?”. Mã kinh ngạc đứng dậy bùi ngùi kéo nàng ngồi chuyện trò hỏi han. Cô  gái nói "Thiếp đang đưa Chúc nữ qua sông Ngân, nhân lúc rảnh tới thăm một chút". Hai người ngồi dựa vào nhau chuyện trò không ngớt. Chợt trên không có tiếng người gọỉ “Huệ Phương” cô gái vội đứng lên từ biệt. Mã hỏi ai gọi, nàng đáp “Đó là người chị em bạn của thiếp tới, chị ấy không chịu chờ lâu đâu”. Mã tiễn ra cửa, cô gái nói “Chàng thọ được tám mươi tuổi, đến lúc chết thiếp sẽ tới chôn chàng", nói xong biến mất. Nay Mã hơn sáu mươi tuổi, cũng chỉ là người thành thật chất phác không có gì nổi bật.


Dị Sử thị nói:Mã sinh tên Hỗn*, nghề nghiệp thì thấp hèn, Huệ Phương yêu mến được chỗ nào nhỉ? Từ đó mới thấy người tiên rất quý người chất phác thành thật vậy. Ta vẫn nói với bạn bè rằng như ta và các anh thì hồ quỷ cũng chê, than rằng kẻ không thẹn với người tiên thật chỉ có Hỗn mà thôi.


* Hỗn: nghĩa đen là lộn xộn, không chia rõ trắng đen trong đục, triết học phương Đông xưa dùng chỉ trạng thái nguyên thủy tự nhiên buổi đầu của thế giới. Đây ý nói Mã thành thật chất phác tự nhiên, không biết ác không biết thiện.


180. Cô  Tiêu Thứ Bảy

(Tiêu Thất)


Từ Kế Tường là người huyện Lâm Truy (tỉnh Sơn Đông), ngụ ở trang Ma Phòng tại phía đông huyện thành, theo việc học hành nhưng chưa thi đỗ thì bỏ học làm thư lại. Một hôm đi thăm nhà vợ, đường đi qua khu mộ họ Vu, chiều tối say về, qua ngang thấy lầu chạm gác trổ, có ông già ngồi trước cổng. Từ say rượu khát nước, vái chào ông già xin nước, ông già đứng lên mời khách vào. Vào tới sảnh đường đưa trà ra mời, Từ uống xong, ông già nói "Trời tối khó đi, cứ tạm nghỉ lại đây, sáng mai hãy về được chứ?”. Từ cũng thấy mệt mỏi, vui vẻ nghe theo. ông già bèn sai người nhà dọn rượu đãi khách, rồi nói với Từ “Lão phu có một câu mong ông đừng cho là đường đột. Ông là con nhà gia giáo, có thể lấy thêm vợ lẽ. Ta có đứa con gái nhỏ chưa chồng, muốn cho về hầu hạ phu nhân, mong ông rủ lòng ưng thuận”. Từ đang ngượng nghịu không biết trả lời ra sao, ông già đã sai người báo với họ hàng, lại vào bảo con gái trang điểm. Giây lát có bốn năm bọn ăn mặc đẹp đẽ nối nhau kéo vào, cô gái cũng trang điểm lộng lẫy bước ra, dung nhan tuyệt thế, cùng ngồi vào tiệc. Từ tâm thần điên đảo, chỉ muốn vào ngủ cho mau, rượu được vài tuần đã nằng nặc từ chối không nhận lời mời của ai nữa, ông già bèn sai a hoàn dẫn vợ chồng vào phòng.


Từ hỏi họ tên, cô gái đáp là họ Tiêu, thứ bảy, lại hỏi kỹ gia thế lai lịch, nàng nói "Thiếp tuy hèn mọn nhưng lấy chồng là thư lại thì cũng không làm ai phải xấu hổ, cần gì vất vả dò xét tới  ngọn nguồn?". Từ say mê nhan sắc, nàng lại rất mực ngọt ngào nên không ngờ vực gì nữa. Cô  gáì nói “Nơi đây không thể ở được, thiếp thấy chị nhà hiền hậu, chắc không cản trở đâu, chàng về ngăn cho một gian phòng riêng, thiếp sẽ tự tới", Từ ưng thuận. Rổi ôm choàng lấy nàng dìu lên giường, khi tỉnh dậy thì vòng tay ôm trống không, khi trời sáng hẳn chỉ thấy bóng thông che rợp ánh nắng, dưới mình toàn là rơm rạ dày cả thước, sợ hãi than thở về kể lại cho vợ. Vợ đùa ngăn ra một phòng riêng, đặt giường vào rồi khép cửa bước ra nói "Đêm nay cô dâu mới sẽ tới đấy”, hai vợ chồng cùng cười. Chập tối, vợ đùa kéo Từ tới mở cửa, nói “Chẳng lẽ cô dâu mới chưa có trong này sao?", vào tới thì mỹ nhân ăn vận lộng lẫy đã ngồi trên giường, thấy hai người vào đứng lên đón, vợ chồng rất ngạc nhiên. Cô  gái che miệng cười khúc khích, vái chào rất kính cẩn, vợ Từ líền bày tiệc hợp hoan cho hai người.


Cô  gái hàng ngày dậy sớm làm việc nhà không chờ sai bảo, một hôm nói với Từ rằng bọn chị em đều muốn tới nhà ta chơi một lần. Từ lo lúc vội vàng không có gì đãi khách, nàng nói “Các chị em đều biết nhà ta không giàu, định đưa thức ăn tới trước, chỉ phiền nhờ chị nhà nấu nướng cho thôi". Từ nói với vợ, vợ bằng lòng. Ăn sáng xong quả có người mang rượu thịt tới, đặt gánh xuống đó rổi đi, vợ Từ liền vào bếp nấu nướng. Sập tối có sáu bảy nữ lang tới, người lớn nhất chỉ khoảng bốn mươi tuổi trở lại, cùng ngồi quanh bàn ăn uống, cười nói râm ran cả phòng. Vợ Từ núp ngoài cửa sổ lén nhìn, chỉ thấy chồng và cô Bảy ngồi đối diện với nhau còn bao nhiêu khách khứa đều không thấy hình bóng, đến mãi gần khuya mới vui vẻ ra về. Cô  gái đưa khách chưa trở vào, vợ Từ vào nhìn lên bàn thấy mâm chén đều sạch nhẵn, cười nói "Chắc đám nhãi con này đều đói, nên ăn cứ như chó liếm thớt!". Lát sau cô gái trở vào, hết lời cảm ơn, giằng lấy bát đĩa đem rửa, giục chị đi nghỉ.

Vợ Từ nói "Khách tới chơi nhà mình lại để tự họ chuẩn bị thức ăn, thật là chuyện buồn cười, mai này phải lo liệu mời “Một bữa”. Mấy hôm sau Từ theo lời vợ, bảo cô gái lại mời khách. Khách tới ăn uống rất tự nhiên nhưng chừa lại bốn đĩa không hề động tới, Từ hỏi thì cả bọn cười rộ đáp "Lần trước phu nhân chê bọn ta xấu tính, nên dành lại cho người vất vả nấu nướng". Trong bọn có một nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, hai lần đều mặc xiêm áo trắng, thấy nói vừa góa chồng, cô gái gọi là chị Sáu, dáng vẻ kiều mỵ, khéo nói hay cười, có vẻ thích Từ, cứ tìm lời nói đùa để trêu ghẹo. Rồi đặt tửu lệnh, cử Từ làm giám tửu, cấm không được trêu chọc nhau. Cô  Sáu phạm lỗi nhiều lần, phải uống hơn chục chén liên tiếp, bắt đầu chuếnh choáng, vóc ngọc nghiêng ngã khó lòng ngồi vững. Không bao lâu bỏ ra, Từ thắp đèn vào tìm thì thấy say ngủ trong màn tối, ghé mặt lại gần kề sát vào môi vẫn không hay biết gì, lấy tay sờ dưới quần thấy chỗ kín gồ lên, lòng đang xao xuyến thì trong tiệc nhao nhao gọi Từ lang, vội kéo lại áo cho nàng, thấy trong tay áo có chiếc khăn là, bèn lấy trộm bước ra.


Đến khuya mọi người đều đã rời bàn mà chị Sáu vẫn chưa tỉnh, cô Bảy vào lay gọi mới ngáp dài đứng dậy, sửa quần vuốt tóc theo mọi người về. Từ canh cánh nhớ nhung không sao khuây khỏa, tìm tới chỗ vắng người định lấy chiếc khăn ra ngắm thì đã biến mất, ngờ rằng đánh rơi lúc tiễn khách bèn cầm đèn soi kỹ nhưng trong nhà dưới thềm đều không có, lấy làm bứt rứt. Cô  gái hỏi, Từ nói trớ qua chuyện khác, nàng cười nói "Đừng nói dối, chủ cái khăn đã lấy đi rồi, tìm kiếm làm gì cho vất vả". Từ kinh ngạc kể lại tình thật, lại nói là rất tưởng nhớ. Cô  gái nói "Chị ấy với chàng không có túc phận, duyên số chỉ có bấy nhiêu thôi". Từ hỏi duyên cớ, nàng đáp "Kiếp trước chị ấy là ca kỹ, chàng là sĩ nhân, gặp chị ấy thích lắm nhưng bị cha mẹ ngăn trở, không được toại nguyện nên lâm bệnh nguy kịch, sai người nhắn với chị ấy rằng: Ta không dậy được nữa, chỉ mong nàng tới cho sờ vào da thịt một cái thì chết cũng không tiếc hận gì. Chị ấy chiều theo lời, nhưng thình lình bận việc không đi ngay được, đến tối mới tới thì người bệnh đã chết, nên kiếp trước chị ấy với chàng có duyên được sờ một cái là thế, còn hơn nửa thì đừng có mong".


Sau Từ lại làm tiệc mời các chị em cô gái, riêng chị Sáu không tới, Từ nghi nàng ghen nên oán giận lắm. Một hôm cô gái nói với Từ "Nếu thiếp cản trở chàng với chị Sáu thì đúng là có lỗi, nhưng thật ra chị ấy không chịu tới thì trách gì thiếp chứ?”. Nay cái duyên ân ái tám năm sắp hết, xin hết sức vì chàng mưu tính một phen để chàng hết nghi ngờ. Tuy chị ấy không tới nhưng ai cấm ta sang, cứ vào tận nhà mà gặp, biết đâu nhân định thắng thiên cũng chưa biết chừng". Từ mừng rỡ nghe theo, cô gái nắm tay phơi phới lướt đi như bay trên không, khoảnh khắc đã tới nhà, thấy ngói vàng sảnh rộng, cổng nẻo quanh co chẳng khác gì lần trước. Cha mẹ vợ cùng ra nói "Có đứa con gái vụng về được con đùm bọc đã lâu, nhưng bọn ta tuổi già sức yếu không tới thăm được, chắc con không trách chứ?”. Rồi lập tức bày tiệc thết đãi, cô gái hỏi các chị em dâu, bà mẹ nói đều đã lấy chồng, chỉ còn con Sáu ở đây thôi. Cô  gái lập tức sai tỳ nữ đi mời, lâu quá không thấy tới, nàng vào trong kéo ra. Cô  Sáu ra tớỉ chỉ cúi đầu im lặng, không cười đùa như trước kia. Giây lát ông bà già cáo từ vào nghỉ, cô gái nói với cô Sáu "Chị quá tự trọng, làm người ta oán em". Cô  Sáu cười khẽ nói "Người khinh bạc như y làm sao gần gữi được?". Cô  gái cầm hai chén rượu của hai người đổi cho nhau ép phải uống rồi nói "Môi đã chạm nhau rồi, còn giả vờ làm gì?". Giây lát cô Bảy cũng bỏ đi, trong phòng chỉ còn hai người.


Từ bèn đứng lên định ép buộc, cô Sáu dịu dàng chống cự. Từ níu vạt áo nàng quỳ xuống nài nỉ, nàng dần dần xiêu lòng, đưa nhau vào phòng. Vừa mở dây lưng, chợt nghe tiếng reo hò vang dậy, ánh lửa chiếu vào khe cửa đỏ rực. Cô  Sáu cả kinh xô Từ ra đứng dậy nói "Tai họa tới thình lình, làm sao bây giờ?". Từ đang luống cuống không biết làm gì thì nàng đã trốn mất không thấy đâu nữa. Từ ngậm ngùi ngồi lại một lúc thì nhà cửa đều biến mất, có hơn mười người thợ săn mang ưng cầm đao tràn tới, ngạc nhiên hỏi "Ai mà ban đêm lại núp ở đây?". Từ nói dối là lạc đường rồi xưng tên họ. Một người hỏi "Vừa đuổi theo một con chồn, có thấy không?”, Từ đáp không thấy. Nhìn kỹ chỗ ấy, té ra là khu mộ họ Vu, vội đứng lên ra. về, lòng vẫn mong cô Bảy lại tìm đến. Ngày trông điềm thước, đêm bói hoa đèn, mà không thấy tăm hơi đâu cả. Chuyện này là do Đổng Ngọc Huyền kể lại.

 

Bồ Tùng Linh

Liêu Trai Chí Dị II

Dịch giả: Cao Tự Thanh

- 181 - 184 -

Cố Sinh

(Cố Sinh)


Cố sinh người Giang Nam, làm khách ở huyện Tắc Hạ (tỉnh Sơn Đông) bị đau mắt, ngày đêm rên rỉ, không thuốc men nào chữa được. Hơn mười hôm thì đỡ đau, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy một tòa phủ đệ lớn, bốn năm lần tới chỉ thấy cổng khép hờ, sâu bên trong có người qua lại nhưng nhìn từ xa không thấy rõ gì cả. Một hôm đang chăm chú nhìn ngó chợt thấy mình đã lọt vào bên trong, qua ba lần cửa vẫn không gặp một ai. Có tòa sảnh đường lớn dưới trải thảm lông màu đỏ, nhìn vào thấy bên trong toàn là trẻ con, đứa thì ngồi, đứa thì đứng, đứa thì bò, không biết bao nhiêu mà kể. Đang khi ngạc nhiên thì một người từ nhà trong đi ra nhìn sinh nói "Tiểu vương tử vừa nói có khách xa tới, quả đúng", rồi mời vào.


Cố ngần ngại không dám, người ấy ép mãi mới vào. Hỏi đây là đâu, người ấy đáp "Phủ đệ của vương thế tử thứ chín, thế tử bị sốt rét mới khỏi, hôm nay tân khách tới mừng, tiên sinh thật là có duyên", chưa dứt lời lại có người từ trong chạy ra giục vào mau. Phút chốc tới một nơi đình đài chạm trổ, lan can sơn son, có một ngôi điện quay mặt về hướng bắc, thềm gồm chín bậc, lên tới nơi thì khách đã đông đủ. Thấy một thiếu niên ngồi ngoảnh mặt về phía bắc, Cố biết là vương tử bèn sụp lạy, khách khứa đều đứng cả dậy, vương tử kéo Cố vào dãy bàn phía đông. Uống được vài chén thì đàn sáo trổi lên, các ca kỹ lên thềm diễn vở Hoa Phong chúc*.


* Hoa Phong chúc: sử chép có người đất Hoa Phong tới chúc thọ vua Nghiêu, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc thọ vương tử.


Mới được ba màn thì chủ quán trọ và đầy tớ đưa cơm trưa vào, tới đầu giường gọi, Cố nghe thấy rất rõ ràng, sợ vương tử biết song chẳng ai nghe thấy cả. Bèn nói thác là thay áo bước ra, ngước nhìn thì mặt trời đã xế, thấy đầy tớ đứng ngay đầu giường mới sực hiểu là chưa từng rời khỏi quán trọ. Lòng áy náy muốn quay lại ngay, bèn bảo người đầy tớ đóng cửa ra ngoài. Vừa nhắm mắt lại thì thấy cung điện nhà cửa như cũ, vội vàng theo đường cũ trở vào, tới chỗ đám trẻ con lúc nãy thì không thấy đứa nào nữa mà chỉ có vài mươi người tóc rối lưng gù nằm ngồi bên trong, thấy Cố cùng cất tiếng chửi mắng "Đồ vô lại ở đâu vào đây nhòm ngó thế”. Cố hoảng sợ không dám phân trần, rảo bước ra phía sau, lên điện ngồi lại chỗ cũ, thấy trên cằm vương tử đã mọc thêm bộ râu. Vương tử cười hỏi đi đâu, tuồng đã diễn tới màn bảy rồi, rồi lấy chén lớn ra phạt.

Giây lát diễn xong, đám ca kỹ lại trình danh sách các vở tuồng lên, Cố chấm vở Bành Tổ lấy vợ*. Bọn ca kỹ lập tức lấy chén gáo dừa dâng rượu, phải tới năm đấu. Cố rời chiếu từ tạ, nói thần bị đau mắt, không dám uống say. Vương tử nói "Ông đau mắt thì có quan Thái y ở đây, cứ nhờ khám cho". Trong dãy bàn phía đông lập tức có một người bước tới lấy hai ngón tay vạch mí mắt Cố ra, rồi lấy trâm ngọc chấm thuốc mỡ trắng tra vào, bảo nhắm mắt ngủ một lúc. Vương tử sai tiểu đồng dắt Cố vào phòng trong bảo nằm, thấy chăn nệm êm ấm thơm tho nên ngủ quên luôn. Không bao lâu chợt nghe tiếng chiêng khua ran, giật mình tỉnh dậy, ngờ là bên ngoài còn đang diễn tuồng, mở mắt nhìn thì ra là con chó trong quán trọ đang liếm dầu trong chảo, mà mắt dường như đã khỏi đau hẳn. Vội nhắm mắt lại nhưng không thấy gì nữa cả.


*Bành Tố cưới vợ: Sử ký của Tư Mã Thiên chép Bành Tổ thọ tám trăm tuổi, sống qua ba đời vua, cưới bốn mươi chín người vợ, có năm mươi bốn con trai, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc tụng vương tử sống lâu, có nhiều con nối dõi.



182. Chu Khắc Xương

(Chu Khắc Xương)


Cống sĩ ở đất Hoài Thượng là Chu Thuận Nghĩa tuổi đã năm mươi chỉ sinh được một con trai tên Khắc Xương, rất yêu thương. Năm Xương mười ba mười bốn tuổi, phong tư rất đẹp đẽ nhưng không thích học hành, thường trốn học đi chơi với bọn trẻ con, có khi cả ngày không về, Chu cũng biết. Một hôm đã tối mịt vẫn chưa thấy về, vội đi tìm thì không thấy đâu, vợ chồng kêu khóc cơ hồ không muốn sống nữa. Hơn một năm Xương chợt tự về, nói là bị người đạo sĩ bỏ thuốc mê bắt đi, may mà không làm hại, nhân lúc ông ta đi vắng bèn trốn về. Chu mừng quá cũng chẳng hỏi han gì nhiều, đến khi dạy cho học thì Xương còn thông minh gấp đôi ngày trước. Qua năm sau, Xương học hành càng tấn tới, kế thi đỗ vào trường phủ, tiếng tăm lừng lẫy, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho nhưng Xương không muốn lấy vợ. Có con gái Tiến sĩ họ Tnệu có sắc đẹp, Chu ép con cưới về, nàng ấy về rồi thì vợ chồng cười nói với nhau rất vui vẻ, nhưng Xương vẫn ngủ một mình.


Hơn năm sau, Xương thi hương đậu Cử nhân, Chu càng thỏa dạ, nhưng tuổi ngày càng lớn càng mong có cháu nội để bế nên thường nói móc để chọc ghẹo Xương, nhưng Xương vẫn lờ đi như không hiểu. Bà mẹ thì không nhịn được, cứ sớm tối ngầy ngà, Xương biến sắc bỏ ra, nói "Ta đã muốn bỏ đi lâu rồi, nhưng chưa đi ngay vì nhớ tới ơn cha mẹ chăm sóc nuôi nấng thôi. Chứ thật ta không sao lấy vợ sinh con để thỏa ý cha mẹ đâu. Bây giờ thì xin đi, còn nàng ta xin tùy ý, muốn về nhà thì về". Bà mẹ đuổi theo kéo lại thì Xương đã ngã xuống, chỉ còn mũ áo không như xác ve lột, cả sợ ngờ là Xương đã chết, đó chỉ là hồn ma trở vể, đành ngậm ngùi đau xót mà thôi. Hôm sau, chợt Xương cưỡi ngựa dắt đầy tớ trở về, cả nhà khiếp sợ, tới gần hỏi han thì nói là bị người ác bắt đi bán cho nhà phú thương, phú thương không có con nên coi như con đẻ. Sau khi có Xương chợt sinh được một con trai, thấy Xương nhớ nhà nên cho đưa về.


Hỏi tới chữ nghĩa thì vẫn ngu độn như trước, mới biết đây đúng là xương, còn người vào trường phủ đỗ thi hương chỉ là ma giả làm Xương mà thôi. Nhưng trộm mừng là việc chưa bị tiết lộ, bèn bảo Xương nhận luôn danh hiệu Cử nhân. Vào phòng ngủ thì vợ mơn trớn đùa cợt như rất quen thuộc, mà Xương thì thẹn thò như mới cưới vậy, hơn năm thì sinh được một con trai.


Dị Sử thị nói: Người xưa nói hạng người tầm thường có phúc thì trong khoảng mũi miệng mắt mày khí sắc đều tầm thường, nhưng về sau phúc tới thì tinh quang rục rỡ, ma quỷ gì cũng phải bỏ đi. Đây thì vẻ tầm thường còn đó mà Cử nhân không thi cũng đỗ, vợ đẹp không cưới cũng có, huống hồ kẻ hơi có học hành, cố gắng thêm một chút sao!


183. Thần ở Hồ Phiên Dương (Phiên Dương Thần)


Hoắc Trạm Trì làm Tư lý huyện Nhiêu Châu (tỉnh Giang Tây), đi ngang hồ Phiên Dương, thấy trên hồ có đền thờ thần, dừng lại vào viếng. Trong đền có pho tượng Đinh Tấn Lang bằng gỗ mà nhà họ Hoắc vẫn cho là một vị thần đặt ở sau cùng. Hoắc nói "Đây là bậc tôn quý trong họ ta, sao lại đặt ở sau cùng?", bèn đưa lên ngôi vị phía trên. Kế lên thuyền đi, gặp trận gió lớn thổi gãy cột buồm, thuyền bị đắm, cả nhà kêu khóc. Chợt có một chiếc thuyền nhỏ lướt sóng tới, vòng cạnh thuyền quan kéo nhanh Hoắc lên, kế người nhà đều cùng leo lên, thấy người kia giống hệt vị thần của nhà họ Hoắc. Không bao lâu sóng lặng, nhìn lại thì người ấy đã biến mất.



184. Tiền Chảy

(Tiền Lưu)


Lưu Tông Ngọc người huyện Nghi Thủy (tỉnh Son Đông), có đầy tớ là Đỗ Hòa ngẫu nhiên di trong vườn, thấy tiền chảy như dòng nước, sâu rộng hai ba thước. Đỗ vừa sợ vừa mừng, lấy tay vốc một vốc, rồi nằm đè lên trên. Khi cúi xuống lần nữa thì dòng tiền đã biến mất, nhưng vốc tiền trong tay vẫn còn.


Top