Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164992" data-attributes="member: 75012"><p><strong>141. Chàng Rể Mới</strong></p><p><strong>(Tân Lang)</strong></p><p></p><p>Hiếu liêm Mai Ngẫu Trường người Giang Nam nói ông Tôn người cùng hương làm Huyện lệnh Đức Châu từng xử một vụ án lạ. Lúc đầu trong thôn có người cưới vợ cho con trai, ngày đón dâu thân thích láng giềng đều tới mừng. Uống rượu đến khuya, chàng rể ra, thấy cô dâu ăn mặc đẹp đẽ đi vòng ra sau nhà, sinh nghi đuổi theo. Sau nhà có khe nước dài, có chiếc cầu nhỏ bắc qua, cô dâu mới bước lên cầu đi luôn. Chàng rể càng ngờ vực, gọi thì cô dâu không đáp, chỉ lấy tay vẫy chồng, chồng vội đuổi theo, chỉ cách gang tấc mà không sao đuổi kịp. Đi vài dặm vào tới một thôn, vợ dừng lại nói "Nhà chàng vắng vẻ, ta không quen ở, xin mời chàng tạm tới ở nhà thiếp, vài ngày sẽ lại về” nói xong giơ tay gõ cửa, có đứa nữ đồng ra mở cửa, vợ bước vào trước, y bất đắc dĩ vào theo. Vào trong thấy cha mẹ vợ đều ngồi trên sảnh, nói với con rể rằng "Con gái ta lúc nhỏ được nuông chiều, chưa từng rời ra một khắc, nay một sớm rời nhà nên trong lòng nhưng nhớ. Nay cùng chồng về đây ta rất thỏa lòng, cứ ở đây vài hôm ta sẽ sai người đưa về". Rồi cắt nhà riêng cho ở, giường gối đều đầy đủ, y bèn ở lại.</p><p></p><p>Khách ở nhà thấy chàng rể lâu quá không tới đổ ra đi tìm, thấy trong phòng chỉ có cô đâu mới mà không biết là chồng đi đâu. Tìm kiếm hỏi han khắp xa gần cũng không có tin tức gì, cha mẹ rơi lệ cho rằng đã chết rồi. Được nửa năm, nhà bên vợ thương con gái không có chồng, bèn xin với cha mẹ chú rể cho con gái mình lấy chồng khác. Người cha càng đau buồn, nói "Không tìm thấy xương cốt quần áo gì, làm sao biết được con ta đã chết? Mà nếu nó chết thì chôn cất xong cũng phải một năm mới được tái giá, nay sao lại gấp gáp như vậy?", cha cô gái càng tức giận bèn kiện lên quan. Ông Tôn lấy làm lạ lùng nhưng không biết làm sao, ra lệnh phải chờ ba năm, giữ lại cái án ấy để xét sau. Chàng rể ở nhà cô gái, người nhà cũng rất chiều chuộng, thường bàn việc trở về, vợ ưng thuận nhưng cứ lần lữa không đi ngay. Được nửa năm y nóng ruột không yên tâm muốn về một mình, nhưng vợ cố giữ lại.</p><p></p><p>Một hôm cả nhà nhớn nhác như có tai họa, cha vợ vội vàng nói với con rể "Vốn định hai ba hôm sẽ đưa vợ chồng về, không ngờ quần áo tư trang còn chưa đủ, nay lại gặp tai họa, bất đắc dĩ xin đưa con về trước". Kế đưa y ra cửa rồi quay ngay vào, có vẻ rất vội vàng. Y đang tìm đường đi, quay lại nhìn thì thấy nhà cửa đều biến mất, chỉ thấy một ngôi mộ cao, cả sợ tìm đường về ngay nhà. Về tới nhà kể lại hết đầu đuôi nhân lại lên quan kể lại, ông Tôn bắt cha cô gái lên khuyên dụ lại đưa cô gái về, lúc ấy mới làm lễ hợp cẩn.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 142 - 143 -</strong></p><p>Đảo Tiên</p><p>(Tiên Nhân Đảo)</p><p></p><p>Vương Miễn tự Mẫn Trai người đất Linh Sơn (thuộc tỉnh Quảng Đông) có văn tài, nhiều lần đỗ đầu văn trường nên tính khí kiêu ngạo, hay chửi mắng làm nhục nhiều người. Tình cờ gặp một đạo sĩ, ông nhìn Vương nói “Tướng ông rất sang, nhưng vì khinh bạc bị chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu sửa mình tu đạo thì còn có thể được ghi tên vào sổ tiên". Vương cười khẩy nói "Phúc trạch thế nào thật không biết được, mà chẳng lẽ trên đời lại có tiên sao?". Đạo sĩ nói "Kiến thức của ông sao lại kém thế? Chẳng cần tìm đâu xa, như ta chính là tiên đây". Vương càng cười là khoác lác, đạo sĩ nói “Ta thì có gì đáng lạ, nếu chịu đi theo ta thì có thể gặp ngay vài mươi vị chân tiên”. Vương hỏi ở đâu, đạo sĩ đáp "Chỉ trong gang tấc”, rồi kẹp gậy vào giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt rồi quát lớn một tiếng "Bay". Vương thấy gậy to ra hơn chiếc túi đựng năm đấu gạo bay lên không, lén sờ vào thấy vẩy cứng xếp lớp, sợ quá không dám động đậy. Giây lát đạo sĩ quát “Dừng lại!", gậy liền thu lại hạ xuống một phủ đệ lớn lầu gác nối nhau liên tiếp như nơi ở của bậc đế vương.</p><p></p><p>Có ngôi đài cao hơn trượng, trên đài có mười một tòa điện tráng lệ đẹp đẽ không đâu sánh được. Đạo sĩ dẫn Vương lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách. Trên điện đặt mấy mươi bàn tiệc, bàn ghế màn trướng nhìn hoa cả mắt, đạo sĩ thay quần áo đẹp đẽ để chờ. Giây lát khách khứa từ trên không đáp xuống, người cưỡi rồng cọp, kẻ cưỡi loan phượng không như nhau, ai cũng mang theo nhạc khí, lại có người là đàn bà, có người là đàn ông, đều để chân trần. Trong đám duy có một người đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu trong cung, có đứa thị nhi ôm một nhạc khí dài khoảng năm thước trở lại, không phải đàn cầm không phải đàn sắt, chẳng biết là đàn gì. Tiệc rượu bắt đầu, món ngon vật lạ đầy bàn, ăn vào thấy thơm ngon khác hẳn thức ăn dưới trần.</p><p></p><p>Vương ngồi im lặng, chỉ chăm chú nhìn người đẹp, trong lòng ưa người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ rốt lại nàng không đàn bản nào. Rượu tàn, một ông già nói lớn "Được Thôi chân nhân có nhã ý gọi tới, hôm nay có thể nói là hội lớn, nên thả sức vui vẻ. Xin những ai mang nhạc khí cùng loại thì họp thành đội để tấu nhạc". Thế là ai vào đội ấy, tiếng tơ trúc dìu dặt vang tới trời cao, duy nàng cưỡi chim phượng thì tài đàn không ai sánh kịp. Khi đàn sáo đều đã im tiếng, đứa thị nhi mới mở túi gấm lấy đàn ra đặt ngang trên ghế, cô gái rung cổ tay ngọc như gảy đàn tranh, tiếng lớn gấp bội đàn cầm, mãnh liệt đủ có thể hởi dạ, êm đềm thì có thể tiêu hồn. Đàn khoảng nửa thời gian nấu chín nồi cơm, cả điện im phăng phắc không có một tiếng ho, hết khúc thì một tiếng ngân lớn vang rền như gõ vào khánh đá. Mọi người cùng khen ngợi, nói "Bản đàn của Vân Hòa phu nhân tuyệt diệu thật", kế đều đứng lên cáo biệt, hạc kêu rồng ngâm cùng lúc tan đi cả.</p><p></p><p>Đạo sĩ bèn đặt giường ngà nệm gấm cho Vương ngủ. Vương vừa gặp người đẹp lòng đã rung động, sau khi nghe nhạc càng thêm tơ tưởng, nghĩ mình có tài năng, muốn hiển đạt công danh dễ như nhổ cỏ, khi đã được phú quý rồi muốn gì chẳng được, khoảnh khắc trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đạo sĩ như đã biết, nói với Vương "Ông kiếp trước là bạn học với ta, sau vì không bền chí nên sa vào lưới tục. Ta vẫn không coi ông là người lạ, thật tình muốn đưa ông ra khỏi vũng nước đục. Không ngờ ông mê muội đã sâu, mờ mịt không gọi tỉnh được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại, nhưng muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau”. Rồi chỉ phiến đá dài dưới thềm bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, dặn kỹ không được nhìn. Kế lấy roi quất đá bay lên, Vương nghe tiếng gió rít ù ù bên tai, không biết đã đi được bao xa, chợt nghĩ chưa nhìn rõ cảnh vật phía dưới xem ra sao bèn lén hé mắt thì thấy biển lớn mênh mông không có bờ bến, cả sợ lập tức nhẳm mắt lại nhưng người đã theo đá cùng rơi xuống bùm một tiếng mất tăm như chim âu lặn. May là vốn ở gần biển nên hơi biết bơi, nghe có người vỗ tay reo “Hụt chân đẹp lắm!". Đang lúc nguy cấp thì có một cô gái kéo lên thuyền, nói “May mắn may mắn, Tú tài trúng nước rồi!", Vương nhìn thì thấy nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp.</p><p></p><p>Vương ra khỏi nước rét run xin đốt lửa hơ áo, cô gái nói "Theo ta về nhà sẽ có cách, nếu được vừa ý xin đừng quên nhau”. Vương nói “Sao lại nói thế? Ta là tài tử ở Trung nguyên, ngẫu nhiên gặp chuyện không may, nếu qua được con quẫn bách này xin lấy thân đền đáp, đâu chỉ không quên mà thôi". Cô gái chống sào đẩy thuyền đi nhanh như bay, chốc lát đã tới bờ, lấy bó hoa sen mới hái trong thuyền lên rồi dẫn Vương cùng đi. Đi được nửa dặm thì vào thôn, tới một ngôi nhà cánh cổng sơn son quay về hướng Nam, qua mấy lần cổng, cô gái vào trước. Lát sau một người đàn ông bước ra, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vái chào mời lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giày tất cho Vương thay, kế hỏi nhà cửa quê quán. Vương đáp “Không dám dối nhau, chắc ông có nghe qua tài danh của ta. Thôi chân nhân rất yêu mến gọi lên trời, nhưng ta tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay nên không muốn ẩn dật”. Người đàn ông đứng lên kính cẩn nói “Nơi đây gọi là Đảo tiên, xa hẳn cõi người. Ta tên Văn Nhược họ Hoàn, mấy đời sống nơi hẻo lánh, may sao lại được gặp bậc tài danh” rồi đặt tiệc ân cần mời mọc.</p><p></p><p>Kế thong thả nói "Ta có hai con gái, đứa lớn là Phương Vân được mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho hầu hạ bậc cao nhân, ông thấy sao?”, Vương nghĩ là cô gái hái sen bèn đứng dậy cảm tạ. Hoàn mời vài người tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi lập tức sai gọi con gái. Không bao lâu nghe có mùi hương lạ sực núc, hơn mười tỳ nữ xinh đẹp đỡ Phương Vân ra, xinh xắn lộng lẫy như hoa sen chiếu nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các tỳ nữ đứug hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu được vài tuần thì một cô gái để tóc bím từ trong ra, mới hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay Phương Vân, ánh mắt long lanh. Hoàn nói "Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?”, rồi quay ra nói “Đây là Lục Vân, con gái nhỏ của ta, cũng khá thông minh, nhớ được nhiều sách vở". Nhân bảo ngâm thơ cho khách nghe, cô gái bèn đọc ba bài Trúc chi từ, giọng ngâm êm ái dễ nghe. Hoàn cho nàng ngồi cạnh chị rồi nói “Vương lang là bậc thiên tài, văn thơ ắt nhiều lắm, có thể cho ta được nghe chỉ dạy không?". Vương hiên ngang đọc một bài thơ cận thể rồi tự đắc nhìn quanh, trong có hai câu "Một thân thừa chút râu mày đó, Nửa hớp cho tan uất hận này", ông già láng giềng đọc đi đọc lại, Phương Vân cúi đầu nói "Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hỏa Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu”<strong>*</strong> cả tiệc vỗ tay cười ầm.</p><p></p><p>*Câu trên... Tử Mẫu: Tây du ký thuật việc Tôn Ngộ Không tới động Hỏa Vân bị yêu ma là Hồng Hài nhi phóng lửa tam muội đốt suýt chết và việc Trư Bát Giới tới nước Tây Lương uống nước sông Tử Mẫu nên có thai, phải uống nước suối Giải thai mới khỏi, đây Phương Vân dẫn ra để xuyên tạc hai câu thơ đầy "khẩu khí anh hùng" của Vương Miễn.</p><p></p><p>Hoàn xin đọc bài khác, Vương bèn đọc bài thơ Chim nước "Đầu đầm kêu kíu kít...", chợt quên mất câu kế, còn đang nhớ lại thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười. Lục Vân thưa với cha “Chị ấy nối câu tiếp theo cho anh rể, là Mông chó vãi bì bùm", cả tiệc lại cười ồ, Vương có vẻ thẹn. Hoàn trừng mắt nhìn Phương Vân, khi Vương đã có vẻ bình tĩnh rồi lại xin Vương đọc văn. Vương cho rằng người ngoài cõi trần không biết văn bát cổ bèn khoe bài làm được chấm hạng nhất ở trường, đầu đề là hai câu "Hiếu thay, Mẫn Tử Khiên...”, câu phá đề là "Thánh nhân khen lòng hiếu của bậc đại hiền...” Lục Vân nhìn cha nói “Thánh nhân không gọi học trò bằng tên tự, câu "Hiếu thay...” ắt là lời của kẻ khác", Vương nghe thấy cụt hứng. Hoàn cười nói "Trẻ con biết gì! Không cốt chuyện ấy, chỉ cần bàn văn thôi".</p><p></p><p>Vương bèn đọc tiếp, cứ được vài câu hai chị em lại nói khẽ vào tai nhau như bình luận nhưng thì thào nên không nghe rõ. Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình của học quan rằng "Chữ chữ đều thống thiết”, Lục Vân nói với cha “Chị nói nên bỏ chữ "thiết” đi”. Mọi người đều không hiểu, Hoàn sợ con ăn nói khó nghe nên không dám gạn hỏi. Vương đọc xong lại thuật lời tổng bình, trong có câu "Trống yết đánh một tiếng thì muôn hoa đều rụng”. Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai người cùng cười không ngẩng lên được. Lục Vân lại nói với cha "Chị nói trống yết phải đánh bốn tiếng", mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân máy miệng định nói, Phương Vân nín cười quát "Con nhãi mà nói thì ta đánh chết!". Mọi người ngờ vực cứ đoán mò này nọ, Lục Vân không nhịn được bèn nói “Bỏ chữ "thiết” đi, nói “thống” tức là “bất thông”<strong>*</strong>. Đánh bốn tiếng trống là “bất thông lại bất thông" vậy”. Mọi người cười ầm, Hoàn nổi giận quát con rồi đứng lên rót rượu xin lỗi mãi.</p><p> </p><p>* "Thống tức là "bất thông”: theo Đông y, nếu trên người có chỗ nào đau thì đó là vì huyết mạch không lưu thông, Phương Vân nhân đó để chê văn của Vương Miễn là bất thông.</p><p></p><p>Vương lúc đầu thị tài kiêu căng, trong mắt không coi ai ra gì, đến lúc ấy hùng khí tiêu tan, mồ hôi đầm đìa. Hoàn xin lỗi an ủi, nói "Vừa nghĩ được một câu xin mọi người cùng đối: Vương tử thân biên, vô hữu nhất điểm bất tự ngọc” (Bên cạnh chàng Vương, chẳng có điểm nào không tựa ngọc). Mọi người chưa kịp đối thì Lục Vân đọc ngay "Mẫn ông đầu thượng, tái trước bán tịch tức thành quy" (Trên đầu ông Mẫn, thêm vào tịch nữa sẽ thành rùa)”<strong>*</strong> Phương Vân cười sặc sụa véo sườn em liền mấy cái. Lục Vân giằng ra bỏ chạy, quay lại nói "Việc gì đến chị? Chỉ mắng anh ấy bao nhiêu thì không thấy là sai, người ta nói một câu lại không cho à?”. Hoàn quát nạt mới cười rồi đi. Các ông già láng giềng cáo từ xong, các tỳ nữ dẫn vợ chồng vào phòng, đèn nến giường màn đã sắp đặt tươm tất. Vương thấy trong phòng tân hôn sách vở đầy giá không thiếu loại nào, hỏi qua những chỗ khó vợ đều trả lời trôi chảy, lúc ấy mới thấy xấu hổ vì hiểu biết của mình còn nông cạn.</p><p></p><p>*Vương tử... thành rùa: đôi vế đối này là chơi chữ. Trong Hán tự chữ vương thêm một chấm bên cạnh thì thành chữ ngọc, đây ông Hoàn có ý tán tụng Vương Miễn cái gì cũng hay, còn chữ Mẫn thêm chữ tịch (đêm) thì thành chữ quy (con rùa), đây Lục Vân có ý chế nhạo Vương Miễn là đến đêm tân hôn sẽ trở thành đần độn luôn như con rùa, vì Vương Miễn tên tự là Mẫn Trai.</p><p></p><p>Phương Vân gọi Minh Đang thì cô gái hái sen chạy tới vâng dạ, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng. Vương mấy lần bị châm chọc, e rằng trong chốn khuê phòng không được coi trọng, may là Phương Vân tuy ác khẩu nhưng trong chốn phòng the lại rất đằm thắm. Vương ở yên rảnh rỗi lại ngâm nga, vợ nói "Thiếp có lời hay, không biết chàng có chịu nghe theo không?”. Hỏi lời gì thì nàng đáp “Từ nay chàng đừng làm thơ nữa, cũng là một cách che giấu cái dở của mình đấy", Vương xấu hổ quá bèn gác bút luôn. Lâu ngày dần thân mật với Minh Đang, bèn nói với Vân rằng "Minh Đang có cái ơn cứu mạng cho tiểu sinh, xin ít nặng lời cau mặt với nàng". Phương Vân ưng thuận, cứ những lúc vợ chồng vui chơi trong phòng cũng gọi nàng, đôi bên càng ưa nhau, thường ngầm tỏ tình ý.</p><p></p><p>Phương Vân hơi biết, nhiều lần trách móc nhưng Vương cứ mồm năm miệng mười ra sức thanh minh. Một đêm cùng uống rượu, Vương cho là vắng vẻ, bảo vợ gọi Minh Đang. Phương Vân không chịu, Vương nói “Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ <em>Độc lạc nhạc</em><strong>*</strong>?”. phương Vân nói "Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết à? Mình cần thì thích người khác cũng cần, nhưng nói tới chuyện vui mà hỏi có cần không thì đáp không<strong>**</strong>", Vương phì cười bèn thôi. Gặp buổi chị em Phương Vân có hẹn với cô gái láng giềng, Vương được dịp liền dẫn Minh Đang vào, ân ái hết mực. Đến tối thấy bụng dưới hơi đau mà dương vật rụt hết vào, cả sợ nói với Phương Vân. Vân cười nói "Chắc vì báo ơn Minh Đang rồi”. Vương không dám giấu bèn khai thật, Phương Vân nói "Chàng tự chuốc họa, thật thiếp không còn cách nào. Nếu không đau ngứa thì để mặc thế cũng được”.</p><p></p><p>*Độc lạc nhạc: lấy từ câu trong Mạnh tử “Độc lạc nhạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?" (Một mình vui nhạc và cùng mọi người vui nhạc, cái nào vui hơn?).</p><p></p><p>**Mình cần... đáp không: nguyên văn là "Độc yếu nãi lạc ư nhân yếu, vấn lạc thục yếu hồ, viết bất"</p><p></p><p>Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui, Phương Vân biết ý nhưng không hỏi gì, chỉ chăm chú nhìn chồng, ánh mắt như nước thu trong vắt, sáng như sao buổi sớm. Vương nói "Nàng có thể nói trong lòng ngay thẳng nên mắt sáng”, Phương Vân cười nói "Còn chàng thì có thể nói trong lòng không ngay thẳng nên mất sáng". Bởi người ta thường nói chữ <em>mất</em> gần như chữ <em>mắt</em> nên nàng lấy đó để đùa. Vương cười ngất năn nỉ xin chữa cho, nàng nói "Chàng không chịu nghe lời nói phải, trước đây chưa chắc đã không nghi là thiếp ghen chứ biết đâu là đứa tỳ nữ ấy vốn không thể gần gũi. Lúc trước thật vì yêu thương mà nói, nhưng chàng cứ như đàn khảy tai trâu nên phát ghét bỏ mặc không hỏi tới, nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy thuốc phải thăm chỗ đau trước". Rồi sờ vào dưới áo Vương niệm chú rằng "Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai", vương bất giác cười lớn, cười xong thì khỏi bệnh. Mấy tháng sau Vương vì còn cha già con nhỏ thường nhớ nhung, tỏ ý với vợ. Nàng nói "Về thì không khó, nhưng không có ngày sum họp nữa mà thôi". Vương sa nước mắt xin cùng về, nàng nghĩ đi nghĩ lại mới ưng thuận.</p><p></p><p>Ông Hoàn bày tiệc tiễn, Lục Vân cầm giỏ vào nói "Chị sắp đi xa mà không có gì tặng, chỉ sợ khi tới Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm giúp chị lầu gác, xin đừng chê là sơ sài". Phương Vân cảm ơn nhận lấy, Vương tới gần xem thì là cỏ nhỏ tết làm lầu gác, ngôi lớn thì bằng quả cam, ngôi nhỏ thì bằng quả quít, khoảng hơn hai mươi gian, kèo cột rui mè đều rõ ràng, bên trong đủ cả giường nằm rèm trướng to bằng hạt vừng. Vương coi như đồ chơi của trẻ con nhưng thầm khen cô nhỏ khéo tay. Phương Vân nói “Nói thật với chàng bọn thiếp đều là địa tiên, vì có túc duyên nên được theo nhau, vốn không có ý bước tới cõi trần nhưng vì chàng còn có cha già nên không nỡ trái lời. Khi nào cha đủ tuổi trời thì phải trở lại đây" Vương kính cẩn xin vâng. Hoàn hỏi muốn đi thuyền hay đi xe, Vương sợ sóng gió nguy hiểm nên xin đi đường bộ. Ra thì thấy ngựa xe đã chờ ngoài cổng bèn từ biệt lên đường. Xe ngựa đi nhanh như bay, chốc lát tới bờ biển, Vương lo không có đường đi. Phương Vân rút ra một tấm lụa trắng ném về phía nam, tấm lụa biến thành con đê dài bề rộng vài trượng, chớp mắt xe ngựa phóng qua, đê cũng rút lại dần. Tới một chỗ nước triều tràn lên, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại rồi xuống xe lấy những lầu gác bằng cỏ ra, cùng mấy người bọn Minh Đang bày biện theo thứ lớp, chớp mắt đã hóa thành một phủ đệ lớn. Mọi người cùng vào cởi bỏ hành lý ra, thấy không khác gì lúc còn trên đảo, những bàn ghế giường tủ trong phòng ngủ cũng giống hệt. Lúc ấy trời đã tối bèn ngủ đêm ở đó.</p><p></p><p>Sáng hôm sau Phương Vân bảo Vương về đón cha mẹ. Vương sai thắng ngựa phóng về làng cũ, tới nơi thì nhà cửa đã thuộc về người khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đều đã chết, chỉ còn cha già. Con trai Vương mê cờ bạc bán sạch nhà cửa ruộng vườn, ông cháu không có chỗ ở phải thuê nhà tại thôn tây trú ngụ. Vương lúc mới trở về vẫn còn ý niệm công danh chưa dứt, khi nghe chuyện nhà như thế trong lòng đau xót, thầm nghĩ nếu được giàu sang cũng chỉ như ảo ảnh. Bèn phóng ngựa qua thôn tây thấy cha ăn mặc rách rưới, mặt mày già sọm rất thương xót, cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng. Hỏi tới thằng con hư đốn thì đi đánh bạc chưa về, Vương bèn chở cha đi. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời cha chồng tắm rồi đưa áo gấm cho ông mặc, dọn phòng sạch cho ông nghỉ, kế lại mời các bạn già cũ tới chơi với cha, phụng dưỡng còn hơn các nhà thế tộc.</p><p></p><p>Một hôm đứa con tìm tới, Vương cấm cửa không cho vào, chỉ cho hai mươi lượng vàng, sai người nhắn rằng "Cầm về cưới vợ rồi lo làm ăn, nếu còn tới nữa thì sẽ đánh cho chết tươi”, đứa con khóc lóc mà đi. Vương từ khi trở về rất ít giao du, nhưng nếu bạn cũ tình cờ tới thăm thì tiếp dãi ân cần, khiêm nhường khác xa ngày trước. Riêng có Hoàng Tử Giới vốn là bạn học thuở trước cũng là bậc danh sĩ mà lận đận thì Vương giữ lại chơi rất lâu, thường kể chuyện kín cho nghe, biếu tặng rất hậu. Được ba bốn năm thì Vương ông mất, Vương bỏ hàng vạn quan tiền chôn cất, tống táng đủ lễ. Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ, vợ kiềm thúc rất chặt chẽ nên cũng bớt cờ bạc. Ngày chôn cất Vương ông nàng mới được ra mắt cha mẹ chồng, Phương Vân vừa gặp đã biết là người giỏi việc nhà bèn cho vợ chồng ba trăm lượng vàng để mua ruộng đất nhà cửa. Hôm sau Hoàng và con Vương tới thăm hỏi thì lầu gác đều biến mất không biết là ở đâu.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Có người đẹp bên cạnh là điều mà người ta mong cầu cả khi ở giữa nơi địa ngục, huống chi là ở cõi hưởng thọ vô cùng sao? Địa tiên gả con gái đẹp xuống trần, chỉ sợ nơi cửa khuyết của Thượng đế sẽ vắng vẻ không còn ai nữa. Nhưng kẻ khinh bạc thì bị tước giảm lộc số, lý vốn là thế, sao người tiên lại không e ngại nhỉ? Song lời lẽ của người vợ đè nén y sao mà tai ác thế?</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 143 - 144 -</strong></p><p>Hồ Tứ Nương</p><p>(Hồ Tứ Nương)</p><p></p><p>Trình Hiếu Ân người đất Kiếm Nam (tỉnh Tứ Xuyên), lúc trẻ rất thông minh, giỏi văn chương. Cha mẹ đều mất sớm, nhà nghèo không có chút của cải, không biết làm gì để sống, tới xin làm thuê giữ việc sổ sách cho quan Thông chính ty họ Hồ. Ông Hồ sai làm văn để thử tài, rất hài lòng, nói "Người này không nghèo mãi được, có thể gả con gái cho”. Ông Hồ có ba trai bốn gái, đều đã hứa cưới gả cho các nhà đại gia ngay từ lúc mới sinh ra, chỉ có con gái út là Tứ Nương là con người thiếp, mẹ mất sớm nên đến tuổi cập kê vẫn chưa hứa gả cho ai, bèn gả cho Trình. Có kẻ chê cười cho rằng ông Hồ già nua lú lẫn, nhưng ông không hề đếm xỉa tới, cắt nhà cho sinh ở, chu cấp rất đầy đủ. Các công tử khinh bỉ không thèm ngồi ăn chung với Trình, bọn tôi tớ cũng về hùa. Sinh im lặng không so hơn kém, chỉ ra sức học hành. Bọn họ dè bỉu chê bai, Trình vẫn học hành không nghỉ, họ làm ầm ĩ cạnh chỗ học thì Trình mang sách vào phòng vợ ngồi đọc. Lúc trước khi Tứ Nương chưa lấy chồng, có người thầy bói giỏi biết số phận sang hèn xem tướng cho cả nhà đều không khen ngợi ai, chỉ khi Tứ Nương tới mới nói "Cô này đúng là bậc quý nhân". Đến khi Tứ Nương lấy Trình, các chị em đều gọi là quý nhân để chế nhạo. Nhưng Tứ Nương đoan chính cẩn trọng ít nói, cứ làm như không nghe thấy, dần dần tới bọn tớ gái cũng gọi như vậy.</p><p></p><p>Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Quế Nhi nghe thế rất bực tức, nói lớn "Biết đâu lang quân nhà ta làm nên bậc quý quan thì sao?". Người chị thứ hai của Tứ Nương nghe thấy khinh bỉ nói "Trình lang mà làm được quý quan thì khoét tròng mắt ta đi". Quế Nhi tức giận nói “Chỉ sợ lúc ấy không móc tròng mắt ra được thôi". Người chị thứ hai của Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Xuân Hương thấy thế nói “Nhị Nương mà nuốt lời ta sẽ móc mắt thay cho". Quế Nhi càng tức tối đập tay Xuân Hương lập lời thề, nói "Đánh cuộc hai tròng mắt đấy". Nhị Nương giận là hỗn láo tát Quế Nhi, Quế Nhi kêu gào rầm rĩ, phu nhân nghe biết chuyện nhưng không biết bênh vực ai, chỉ nhếch mép cười. Quế Nhi về kêu khóc với Tứ Nương, Tứ Nương đang kéo sợi không tức giận cũng không nói gì, chỉ bình thản kéo sợi như không nghe thấy.</p><p></p><p>Gặp ngày sinh nhật của ông Hồ, các con rể đều tới mang quà mừng thọ chất đầy sân. Đại Nương đùa hỏi Tứ Nương “Nhà ngươi mừng thọ vật gì?", Nhị Nương nói “Hai con mắt mang một cái mồm", Tứ Nương thản nhiên không hề tỏ vẻ xấu hổ, mọi người thấy nói gì nàng cũng như không hiểu, càng xúm vào chế nhạo. Chỉ có người thiếp yêu của ông Hồ là Lý thị, mẹ ruột của Tam Nương là coi trọng Tứ Nương, thường quan tâm thương xót nàng, vẫn nói với Tam Nương rằng "Tứ Nương bên trong thông minh mà bề ngoài chất phác, giữ kín khôn ngoan không để lộ ra, bọn ranh con kia đều không tự biết mình đang trong cõi bao la, huống hồ Trình lang ngày đêm ra sức học hành, há lại ở dưới người măi sao? Con đừng có học thói xấu của họ, cứ đối xử với nàng cho tốt, ngày khác còn dễ nhìn mặt nhau”, nên Tam Nương mỗi khi về thăm nhà vẫn trò chuyện vui vẻ với Tứ Nương. Năm ấy Trình nhờ ông Hồ được vào học trường huyện, năm sau quan Học sứ về khảo thí sĩ tử thì ông vừa chết, Trình cư tang như con ruột, chưa được dự thi. Kế mãn tang, Tứ Nương đưa tiền cho bảo lên đường dự thi khoa Di tài, dặn rằng "Trước nay ở đây lâu mà không bị đuổi đi là nhờ có cha già còn sống, nay thì muôn phần không được nữa, nếu chàng thi đỗ thì may ra lúc trở về mới có nhà ở thôi". Lúc Trình lên đường, Lý thị và Tam Nương tặng tiễn rất hậu. Trình vào trường ra sức nghiền ngẫm làm bài, quyết tâm thi đỗ bằng được. Nhưng không bao lâu ra bảng thì bị đánh rớt, rầu rĩ uất ức khó nỗi trở về. May là trong túi còn tiền, bèn lên đường vào kinh. Lúc ấy bên nhà vợ có nhiều người làm quan trong kinh, Trình sợ họ biết được chế nhạo mĩa mai bèn thay tên đổi họ, khai dối quê quán xin náu thân ở nhà bậc quan lớn.</p><p></p><p>Quan Ngự sử họ Lý người Đông Hải (huyện Diệm Thành tỉnh Sơn Đông) gặp Trình rất quý trọng, nhận làm môn khách, giúp cho tiền bạc học hành, nộp tiền mua cho chức Cống sinh bảo ứng thí ở phủ Thuận Thiên. Trình thi mấy kỳ đều đỗ, được trao chức Thứ Cát sĩ, lúc ấy bèn nói thật mọi chuyện. Ông Lý cho mượn ngàn lượng vàng, sai người tới Kiếm Nam mua nhà cho Trình trước. Lúc ấy Hồ Đại Lang vì cha chết nên bán những nhà đẹp ruộng tốt nhân mua lấy, sau đó sai xe ngựa tới đón Tứ Nương. Trước là khi Trình thi đỗ Tiến sĩ có người tới báo tin mừng, cả nhà nghe thấy phát ghét, lại nhìn thấy tên họ không phải là Trình bèn quát đuổi đi. Gặp hôm Tam Lang cưới vợ, khách khứa thân thích tới ăn mừng, các anh chị em đều có mặt, chỉ Tứ Nương là không được anh trai chị dâu gọi tới. Chợt có một người chạy vào dâng thư của Trình gởi Tứ Nương, các anh em mở ra xem, nhìn nhau tái mặt. Khách khứa thân thích trong tiệc đều xin gặp Tứ Nương, các chị em đều lo lắng chỉ sợ Tứ Nương căm hòn không chịu tới.</p><p></p><p>Không bao lâu thấy nàng thong thả bước vào, kẻ thì chúc mừng, kẻ thì mời ngồi, kẻ thì hỏi thăm ầm ĩ cả phòng. Ai nghe cũng nghe Tứ Nương, ai nhìn cũng nhìn Tứ Nương, ai nói cũng nhắc Tứ Nương, nhưng Tứ Nương vẫn bình thản như cũ. Mọi người thấy nàng vẫn thế cũng hơi yên tâm, rồi đó tranh nhau rót rượu mời Tứ Nương. Đang lúc ăn uống vui vẻ, chợt ngoài cửa có tiếng kêu khóc rất gấp, cả tiệc lạ lùng hỏi nhau, chợt thấy Xuân Hương chạy xộc vào, mặt mũi đầy máu. Mọi người cùng hỏi, cô ta chỉ khóc không đáp, Nhị Nương quát hỏi mới mếu máo thưa “Quế Nhi đòi móc tròng mát con, nếu không giảng ra được thì đã bị nó khoét mắt rồi". Nhị Nương sượng ngắt, mồ hôi toát ra chảy trôi hết cả son phấn, Tứ Nương vẫn im lặng. Cả tiệc im lặng không ai nói một câu, khách khứa thấy thế lục tục chào về. Tứ Nương ăn mặc đẹp đẽ, chỉ lạy chào Lý phu nhân và Tam Nương rồi lên xe đi, mọi người mới biết người mua nhà ruộng là Trình. Tứ Nương vừa về tới nhà mới, đồ dùng còn thiếu thốn, phu nhân và các công tử đều tặng đầy tớ vật dùng nhưng Tứ Nương không nhận gì cả, chỉ nhận một tỳ nữ của Lý phu nhân tặng.</p><p></p><p>Không bao lâu Trình về dự đám giỗ, xe ngựa tùy tùng đông đặc như mây, tới nhà nhạc gia vào lạy linh cữu ông Hồ, kế lạy chào Lý phu nhân, các công tử vừa đội mũ mặc áo xong ra chào thì Trình đã lên kiệu đi rồi. Ông Hồ chết, các công tử hàng ngày cứ lo tranh giành gia tài không ngó ngàng gì tới linh cữu, qua mấy năm chỗ quàn quan tài hư dột, chỉ tạm lấy nhà rộng làm lăng mộ mà thôi. Trình thấy thế đau xót, cũng không bàn bạc với các công tử, chọn ngày chôn cất, mọi nghi lễ đều lo liệu đầy đủ. Ngày tống táng mũ lọng chen chúc tới thăm viếng, xóm giềng đều ca ngợi. Hơn mười năm sau Trình làm quan lớn, phàm gặp những người làng có chuyện nguy cấp đều hết sức giúp đỡ. Kế Nhị Lang giết người bị bắt, việc đưa tới quan Tuần phương là bạn đồng khoa với Trình, tin tức rất gấp. Đại Lang nhờ cha vợ là Quan sát họ Vương viết thư nhờ vả nhưng không thấy trả lời, càng thêm sợ hãi, muốn tới nhờ em gái nhưng thấy xấu hổ. Bèn xin Lý phu nhân viết thư cầm đi, tới kinh không dám vào ngay, rình lúc Trình đi chầu mới tìm vào nhà, mong Tứ Nương nghĩ tình anh em mà quên hiềm khích cũ.</p><p>Người giữ cổng vừa báo tin, lập tức có bà vú cũ ra đưa Đại Lang vào sảnh đường, bày rượu thịt ra mời qua loa. Đại Lang ăn uống xong thì Tứ Nương ra, mặt mày tươi tắn hỏi "Đại ca nhiều việc bận rộn, sao lại ngàn dặm vất vả tới đây”. Đại Lang lạy phục xuống đất khóc lóc kể lể nguyên do, Tứ Nương đỡ đứng lên cười nói "Đại ca đường đường là đàn ông thì chuyện đó có gì là lớn sao lại làm thế. Em đây chỉ là một người đàn bà nhưng anh đã thấy kêu khóc với ai bao giờ chưa?". Đại Lang liền đưa thư của Lý phu nhân ra, Tứ Nương nói "Nương tử ở nhà các anh đều là người trời, cứ nhờ cha anh các nàng là lập tức xong việc ngay, sao lại bôn ba tới đây?”. Đại Lang không biết nói sao, chỉ năn nỉ lạy lục. Tứ Nương giận dữ nói "Ta tưởng là anh trai lặn lội tới thăm em gái, té ra là vì có tội lớn nên tới cầu xin bậc quý nhân à?", rồi phẩy tay áo bỏ vào. Đại Lang thẹn thùng uất ức ra về, tới nhà kể lại tường tận, cả nhà lớn nhỏ ai cũng chửi rủa, Lý phu nhân cũng cho rằng Tứ Nương tàn nhẫn.</p><p></p><p>Qua vài hôm Nhị Lang được tha về nhà, mọi người cả mừng, càng cười nhạo Tứ Nương chuốc lấy sự hờn oán chê bai. Chợt có người bẩm Tứ Nương sai người tới hầu. Lý phu nhân, bèn gọi vào. Người ấy dâng vàng lụa xong, nói phu nhân gởi thư về việc cậu hai, công việc gấp quá chưa có thư trả lời, xin dâng chút lễ mọn thay thư phúc đáp. Lúc ấy mọi người mới biết Nhị Lang được tha về là nhờ sức của Trình. Về sau Tam Nương dần dần sa sút, Trình giúp đỡ báo đáp rất hậu, lại vì Lý phu nhân không có con trai nên đón bà về phụng dưỡng như mẹ ruột.</p><p></p><p></p><p><strong>144. Phép Thuật Nhà Sư</strong></p><p><strong> (Tăng Thuật)</strong></p><p></p><p>Hoàng sinh là con nhà thế gia cũ, tài cao chí lớn. Ở ngôi chùa ngoài thôn có nhà sư Mỗ chơi thân với sinh. Kế sư đi vân du, hơn mười năm mới trở về, gặp Hoàng than rằng "Ta cứ nghĩ là ông đã thành đạt lâu rồi, thế mà nay vẫn là chân bạch đinh sao? Chắc là phúc mệnh mỏng Iắm. Ta xin vì ông lo lót với Diêm Vương, ông có thể lo được mười ngàn đồng không?”. Hoàng đáp không được. Sư nói "Vậy xin ông cố lo một nửa, còn bao nhiêu ta sẽ vay mượn cho ông", hẹn sau ba ngày phải có, Hoàng ưng thuận. Qua ba ngày sư quả nhiên đem năm ngàn đồng tới đưa cho Hoàng. Nhà Hoàng vốn có cái giếng rất sâu, nước không bao giờ cạn, nghe nói là thông ra với sông lớn. Sư bảo đem tiền ra đặt cạnh giếng, dặn rằng "Khoảng chừng nào ta về tới chùa rồi phải lập tức ném tiền xuống giếng, chờ khoảng nửa bữa cơm sẽ có một đồng tiền nổi lên thì vái lạy", rồi đi.</p><p></p><p>Hoàng không hiểu là thuật gì, lại nghĩ rằng chưa biết kết quả ra sao mà vứt cả mười ngàn đồng tiền xuống giếng thì rất đáng tiếc, bèn chỉ ném xuống một ngàn. Giây lát thấy bọt nước rất lớn sủi lên rồi có tiếng leng keng, liền có một đồng tiền nổi lên, to như cái bánh xe. Hoàng cả kinh vội vàng vái lạy rồi lấy bốn ngàn đồng còn lại ném xuống, trúng đồng tiền lớn kêu thành tiếng nhưng bị đồng tiền lớn cản lại nên không chìm xuống được. Chiều tối sư tới trách, nói "Sao không ném xuống hết?", Hoàng đáp đã ném xuống hết rồi. Sư nói "Sứ giả của Diêm Vương chỉ đem được một ngàn đồng về, sao dám dối trá?", Hoàng bèn thú thật. Sư than "Kẻ keo kiệt ắt không làm được chuyện lớn, đó cũng là mệnh của anh, suốt đời cũng chỉ đỗ được khoa Minh kinh, chứ không thì đã đỗ Tiến sĩ ngay rồi". Hoàng hối hận lắm, xin cầu đảo lần nữa, nhà sư chối từ bỏ đi. Hoàng nhìn xuống giếng thấy tiền vẫn còn nổi liền thả dây xuống kéo lên, đồng tiền lớn bèn chìm xuống. Năm ấy Hoàng nhờ đậu Tú tài được sung Cống cử, rốt lại đúng như lời sư nói.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Chẳng lẽ dưới âm ty cũng mở khoa thi quyên tiền hay sao? Mười ngàn đồng mà được một chân Tiến sĩ thì giá cũng rẻ lắm, nhưng một ngàn mà được sung Cống cử kể cũng đắt. Những kẻ không đậu Minh kinh thật không đáng giá một đồng!</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 145 - 146 -</strong></p><p>Liễu Sinh</p><p>(Liễu Sinh)</p><p></p><p>Chu sinh là dòng dõi nhà quan ở phủ Thuận Thiên (kinh đô ở tỉnh Hà Bắc), chơi thân với Liễu sinh. Liễu được dị nhân dạy cho thuật xem tướng, thường nói với Chu rằng "Ông không có phận làm quan, còn sự giàu có muôn chung thì sức người cũng lo được, nhưng tôn phu nhân tướng bạc sợ không thể giúp ông dựng được cơ nghiệp". Không bao lâu quả vợ Chu chết, nhà cửa tiêu điều không ai coi sóc, Chu bèn tới nhà Liễu sinh nhờ bói về hôn nhân. Vào phòng khách cùng ngồi hồi lâu thì Liễu bỏ vào trong mãi không ra, gọi hai ba lần mới trở ra nói “Ta hàng ngày vẫn tìm cho ông một người vợ giỏi, hôm nay mới tìm được, mới rồi là ở nhà trong thi thố chút thuật mọn, xin Nguyệt lão xe sợi tơ hồng cho ông đấy thôi". Chu mừng rỡ hỏi han, Liễu đáp “Mới rồi có một người xách cái bị ở đây ra, ông có gặp không?". Chu nói "Có gặp, thấy rách rưới như thằng ăn mày". Liễu nói “Đó là cha vợ của ông, nên kính lễ". Chu nói "Vì thân thiết với nhau mới tới bàn chuyện riêng, sao đùa cợt nhau quá thế? Ta tuy nghèo hèn cũng là dòng dõi nhà quan, sao đến nỗi phải cưới con nhà đầu đường xó chợ”. Liễu nói "Không phải thế, con bò lang còn sinh được bê đẹp, có hại gì đâu”. Chu hỏi "Ông gặp con gái y chưa?”. Liễu đáp "Chưa, ta với y không từng quen biết, ngay cả tên họ cũng mới hỏi mà biết đây thôi". Chu cười nói “Bò lang còn chưa biết, làm sao biết được bê?", Liễu nói “Ta lấy số mệnh mà tin thôi, người ấy hung dữ mà hèn hạ nhưng ắt sinh được con gái có phúc lớn. Nhưng nếu miễn cưỡng tác hơp bừa thì ắt có nạn lớn, nên mới phải cầu đảo".</p><p>Chu về cũng chưa tin hẳn vào lời Liễu, tìm đủ cách mai mối lấy vợ, nhưng không cưới được đám nào. Một hôm Liễu chợt tới nói "Có một người khách, ta đã thay ông gởi thư mời". Chu hỏi là ai, Liễu đáp "Đừng hỏi han gì cả, cứ lo cơm nước cho mau”. Chu không hiểu chuyện gì, cứ theo lời chuẩn bị cơm rượu. Giây lát khách tới thì ra là họ Phó, làm lính trong doanh. Chu trong lòng không thích nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ vồn vã trò chuyện, còn Liễu sinh thì một dạ hai thưa rất mực cung kính. Giây lát rượu thịt bày lên, có lẫn cả cỏ dại trong mâm. Liễu sinh đứng dậy nói với khách "Công tử đây hâm mộ ông đã lâu, thường nhờ ta đi mời, nhưng lần trước mới được gặp, lại nghe không mấy bữa nữa lại đi chinh phạt nơi xa nên ta lập tức mời ngay khiến chủ nhân bị bất ngờ”. Trong lúc uống rượu, Phó lo ngựa bị bệnh không cưỡi được, Liễu cũng gật gù cùng tính toán này nọ. Kế khách ra về, Liễu trách Chu “Có ngàn vàng cũng không mua được người bạn như thế, sao ông lại im lặng ngồi nhìn rồi mượn ngựa Chu để về, nhân đó giả lời Chu dắt ra cổng đưa dây cương tặng luôn cho Phó. Chu biết được bực lắm nhưng chẳng biết làm sao. Qua năm sau Chu định đi Giang Tây làm mạc khách ở ty Niết, tới nhà Liễu nhờ xem giùm một quẻ. Liễu nói chuyến này đi là đại cát, Chu cười nói “Ta không có ý gì khác, chỉ là có ít tiền định cưới người vợ đẹp, may mà lời nói trước kia của ông không nghiệm, thì có được không?”. Liễu nói "Tất cả đều như ông muốn mà".</p><p></p><p>Chu tới Giang Tây thì vừa gặp lúc có bọn giặc lớn nổi loạn, ba năm không về được. Sau mới hơi yên bèn chọn ngày lên đường về, giữa đường bị bọn cướp bắt, bảy tám người cùng gặp nạn bị cướp hết tiền rồi thả ra, duy Chu bị giải về tận sào huyệt của bọn cướp. Tên đầu đảng hỏi kỹ gia thế của Chu rồi nói "Ta có đứa con gái muốn dâng ông lo việc hầu hạ quét dọn, xin đừng chối từ". Chu không đáp, tên cướp tức giận liền sai đem Chu ra chém. Chu sữ, nghĩ rằng cứ tạm vâng lời y rồi thong thả sẽ tìm cách trốn đi, bèn nói "Sở dĩ tiểu sinh còn chần chừ vì thấy mình là học trò yếu ớt không thể theo việc binh, chỉ e càng làm lụy cho trượng nhân thôi. Chứ nếu được cho vợ chồng dắt nhau đi khỏi nơi này, thì còn ơn đức nào lớn bằng". Tên cướp nói "Ta đang lo con gái làm phiền lụy, chuyện đó có gì mà không nghe theo được". Bèn dẫn Chu vào trong, cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp, thấy nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, xinh đẹp như tiên. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, nàng đằm thắm hơn cả lòng Chu mong mỏi, hỏi kỹ họ tên mới biết cha nàng chính là người xách cái bị ở nhà Liễu sinh năm trước. Nhân thuật lại lời Liễu cho nàng nghe, hai người cùng than thở.</p><p></p><p>Qua bốn hôm, tên cướp định đưa hai người đi, chợt đại quân bất ngờ kéo tới, cả nhà đều bị bắt trói. Có ba vị quan tướng giám trảm, đem cha vợ Chu ra chém xong, lần lượt tới Chu, Chu đã nghĩ phen này ắt phải chết thì một viên tướng nhìn kỹ nói "Có phải Chu mỗ không?", té ra đó là người lính họ Phó nhờ có quân công đã được thăng tới chức Phó tướng quân. Phó nói với hai người kia rằng "Đây là danh sĩ dòng dõi thế gia ở quê ta, lẽ nào lại đi làm giặc?", rồi cởi trói cho Chu, hỏi từ đâu tới. Chu bịa đặt nói "Vừa ở ty Niết tỉnh Giang Tây cưới vợ về, không ngờ bị bọn cướp bắt, may được ông cứu vớt cho, ơn tái sinh lớn như trời đất, nhưng vợ chồng chia lìa, xin nhờ oai lớn giúp cho được ngói lành". Phó liền sai giải hết tù nhân ra cho Chu nhận mặt vợ. Chu tìm được cô gái rồi, Phó cho ăn uống, giúp đỡ tiền bạc, nói "Trước đây nhờ cái ơn cho ngựa, sớm tối vẫn không quên, nhưng việc quân bận rộn không rảnh rỗi tới tham kiến đươc, nay xin giúp ông hai cỗ ngựa tất, năm mươi lượng vàng để về quê", lại sai hai tên quân kỵ đi hộ tống.</p><p></p><p>Trên đường cô gái nói với Chu "Cha ngu dại không chịu nghe lời nói thẳng, mẹ lúc chết đã biết có ngày hôm nay lâu rồi. Sở dĩ còn nương náu sớm tối vì lúc nhỏ từng được ông thầy tướng xem cho, nói rằng ngày sau có thể thu lượm được hài cốt của cha mẹ mà thôi. Chỗ ấy có số tiền lớn chôn giấu, có thể đào lên chuộc xác cha, còn thừa đem về cũng đủ mưu sinh". Bèn dặn hai tên quân kỵ đợi trên đường, hai người quay về chỗ cũ, thấy nhà cửa đã cháy sạch, lấy bội đao đào đống tro, xương dưới một thước quả được vàng, gói vào hành lý rồi quay trở lại. Đem một trăm lượng đút lót hai tên quân kỵ nhờ họ chôn cất xác cha cô gái, nàng lại đưa Chu tới lạy trước mộ mẹ xong mới lên đường. Tới địa giới tỉnh Trực Lệ, hai người thưởng cho hai tên quân kỵ rất hậu rồi chia tay.</p><p></p><p>Chu lâu ngày không về, gia nhân đều cho rằng đã chết, thả sức trộm cắp, thóc gạo vải lụa vật dùng trong nhà không còn chút gì. Đến lúc nghe chủ nhân về, sợ hãi kéo nhau trốn sạch, chỉ còn một bà già, một người tỳ nữ và một lão bộc ở lại. Chu vì ra khỏi chỗ chết được sống mà trở về nên cũng không hỏi gì tới, qua thăm Liễu thì không rõ đã đi đâu mất rồi. Cô gái coi sóc việc nhà còn hơn cả đàn ông, chọn những người thành thật siêng năng đưa vốn cho buôn bán, lời lãi chia đôi. Mỗi khi các bạn buôn họp nhau tính toán ở nhà, nàng buông rèm ngồi trong lắng nghe, ai lầm một con số là chỉ ngay ra chỗ sai, vì thế trong ngoài không ai dám lừa dối. Vài năm có tới hàng trăm bạn buôn, nhà giàu có hàng mấy mươi vạn lượng vàng, mới sai người bốc mộ cha mẹ đem về hậu táng.</p><p></p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nguyệt lão cũng có thể đút lót, nên không lạ gì mà những kẻ mai mối cũng giống như người buôn bán. Nhưng tên cướp kia lại có người con gái như thế sao? Gò đất nhỏ không có tùng bách lớn, đó là lời luận bàn của kẻ quê mùa dốt nát mà thôi. Đàn bà con gái mà còn để mất, huống hồ đem kiến thức ấy xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ ư?</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p><strong>146. Nhiếp Chính</strong></p><p><strong>(Nhiếp Chính)</strong></p><p></p><p>Lộ vương ở Hoài Khánh (tỉnh Hà Nam) có đức tối, cứ dạo chơi ra dân gian thấy con gái đẹp là bắt về. Có vợ Vương sinh bị vương nhìn thấy, sai xe ngựa vào tới tận nhà bắt đi. Cô gái khóc lóc kêu gào, bị bắt lên kiệu khiêng ra. Vương bỏ chạy, núp sau mộ Nhiếp Chính chờ vợ đi qua để vĩnh biệt. Không bao lâu vợ tới, nhìn thấy chồng khóc lớn gieo mình xuống đất. Vương trong lòng đau đớn bất giác khóc thất thanh, bọn gia nhân của vương biết là Vương sinh bèn túm lấy đánh đập túi bụi. Chợt trong mộ có người đàn ông bước ra, tay cầm đao sắc, khí thế rất oai mãnh, lớn tiếng quát “Ta là Nhiếp Chính đây, sao các ngươi dám bắt ép con gái nhà lương dân. Nghĩ bọn ngươi chỉ là kẻ thừa lệnh nên tạm tha cho lần này, về nhắn với ông chủ vô đạo của các ngươi rằng nếu không sửa nết xấu thì có ngày ta sẽ lấy đầu đấy”. Đám gia nhân nhà vương hoảng sợ bỏ xe kiệu chạy, người đàn ông lại bước thẳng vào mộ biến mất. Vợ chồng Vương tới lạy trước mộ rồi về, vẫn còn sợ là vương lại tới nhưng hơn mười ngày cũng không thấy gì mới yên lòng. Từ đó vương cũng bớt dâm đãng hống hách.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ta thường đọc Truyện Thích khách chỉ khâm phục có người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ<strong>*</strong> mà thôi. Xả thân để báo đáp tri kỷ thì nghĩa khí như Dự Nhượng<strong>**</strong> giữa ban ngày giết chết khanh tướng thì vũ dũng như Chuyên Chư<strong>***</strong> bằng đầu gối tới trước mặt Liêu, lấy tay xé đôi con cá ra, rút ngọn chủy thủ giấu sẵn trong bụng cá đâm chết Liêu, lột da mặt hủy hình dung tự tử để không làm liên lụy tới người thân thì mưu trí như Tào Mạt (<strong>4*</strong>). Còn như Kinh Kha không đủ sức để ám sát vua Tần mà lại dứt áo ra đi, tự chuốc lấy diệt vong, khinh suất mượn cái đầu của Phàn tướng quân (<strong>5*</strong>) gặp Tần Thủy Hoàng nhưng đâm không trúng, bị giết chết, biết ngày nào mới trả lại được, đó là mối hận của ngàn đời, chắc bị Nhiếp Chính chê cười. Đọc dã sử thấy nói mộ Kinh Kha bị hồn ma của Dương Giác Ai, Tả Bá Đào quật lên (<strong>6*</strong>) nếu quả thế thì Kinh Kha sống không thành danh, chết còn mất nghĩa, so với Nhiếp Chính ôm lòng nghĩa mà trừng trị kẻ hoang dâm thì hay dở khác nhau ra sao? Ôi, Nhiếp Chính là người hiền, xem chuyện này lại càng tin là đúng.</em></p><p></p><p>* Người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ: tức Nhiếp Chính, người nước Hàn thời Chiến quốc, giết người nên dắt mẹ và chị qua trốn tránh ở nước Tề. Quan khanh nước Hàn là Nghiêm Trọng Tử có thù oán với Tướng quốc Hiệp Lũy nên tìm người báo thù, tới Tề nghe tiếng Chính là người dũng cảm bèn đem lễ vật rất hậu tới ra mắt, nhưng Chính không nhận. Sau bà mẹ chết, Chính chôn cất xong bèn tới gặp Trọng Tử hỏi han rồi không nhận xe ngựa tráng sĩ giúp đỡ, một mình lên đường vào thẳng phủ Tướng quốc lên tận thềm giết chết Hiệp Lũy, kế tự lột da mặt khoét tròng mắt, mổ bụng móc ruột tự tử để khỏi liên lụy tới người chị.</p><p></p><p>**Dự Nhượng: người nước Tấn thời Xuân thu, theo họ Phạm Trung Hàng nhưng không được biết tới, bèn bỏ theo Trí Bá, rất được Trí Bá coi trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương Tử diệt, Nhượng trốn vào núi, nói “Kẻ sĩ xả thân cho người biết mình, đàn bà điểm trang cho người yêu mình, nay Trí Bá biết ta, nếu vì báo thù cho Trí Bá mà chết thì hồn phách ta cũng không thẹn", bèn đổi tên họ cải trang để ám sát Tương Tử nhưng bị bắt, Tương Tử khen là nghĩa khí nên tha cho. Nhượng lại sơn mặt nuốt than thay đổi diện mạo thanh âm núp dưới cầu chờ Tương Tử đi qua mà đâm nhưng lại bị bắt, bèn xin cái áo của Tương Tử tuốt kiếm nhảy lên đâm vào ba lần rồi tự sát.</p><p></p><p>*** Chuyên Chư người nước Ngô thời Xuân thu, có tiếng là dũng sĩ, được Ngữ Tử Tư tiến cử cho Công tử Quang (tức vua Ngô Hạp Lư). Lúc ấy Quang muốn giết Ngô vương Liêu là anh con bác để giành ngôi, dò biết Liêu thích ăn chả cá bèn sai Chư tới Thái Hồ học làm món chả cá. Kế mở tiệc mời Liêu, nửa chừng giả đau chân vào nhà trong băng lại sai Chư đem chả cá lên dâng. Giáp sĩ của Liêu lục soát trong người Chư không thấy gì lạ bèn cho vào, Chư bưng mâm chả cá đi...</p><p> </p><p>4* Tào Mạt: người nước Lỗ thời Xuân thu, tướng của Lỗ Trang công. Tề Hoàn công đánh Lỗ, nước Lỗ thua liền mấy trận bèn xin giảng hòa. Tề Hoàn công buộc Lỗ Trang công phải tới hội minh, cắt đất cho Tề. Tào Mạt theo Lỗ Trang công tới hội minh, sấn lên đài rút chủy thủ uy hiếp bắt Tề Hoàn công phải trả hết những đất đai của nước Lỗ, Hoàn công sợ hãi ưng thuận, Mạt buông chủy thủ lui xuống đứng lại vào chỗ các quan nước Lỗ, sắc mặt vẫn không thay đổi.</p><p></p><p>5* Kinh Kha... Phàn tướng quân: Kinh Kha là người đất Vệ thời Chiến quốc nổi tiếng can đảm, kiếm thuật tuyệt luân, được thái tử Đan nước Yên mời về làm thượng khách, nhờ đi ám sát Tần Thủy hoàng. Lúc bấy giờ có Phàn Ư Kỳ là phản tướng nước Tần chạy qua nước Yên, gia quyến đều bị Tần Thủy Hoàng giết, Kinh Kha tới gặp Ư Kỳ nói nếu có được đầu Ư Kỳ thì có thể tới gần vua Tần để nhân cơ hội ám sát báo thù cho Ư Kỳ. Ư Kỳ khảng khái tự chặt đầu đưa cho Kinh Kha. Sau Kinh Kha qua Tần, vào điện...</p><p></p><p>6*Mộ Kinh Kha... quật lên: Quan Trung lưu ngụ chí chép Tả Bá Đào ở Tây Khương nghe tiếng Sở Nguyên vương hiền bèn cùng bạn là Dương Giác Ai tìm tới. Tới núi Lương Sơn gặp tuyết lớn, không đủ lương thực áo rét cho cả hai người, Bá Đào bèn cởi áo trút lương cho Giác Ai đi tiếp còn mình thì vào rừng chịu chết. Giác Ai tới Sở, được phong làm Trung Đại phu, sau về quê mơ thấy Bá Đào nói "Mộ ta gần mộ Kinh Kha, cùng với y có thù hằn, ông nên bó cỏ làm hình người cho cầm binh khí đốt trước mộ ta". Giác Ai theo lời, hôm sau mơ thấy Bá Đào tới nói "Đám quân sĩ ông đốt cho đều vô dụng, Kinh Kha rất hung hãn, lại có Cao Tiệm Ly giúp đỡ, không bao lâu nữa ta sẽ bị họ quật mộ". Giác Ai bèn tự sát, người làng chôn cạnh mộ Bá Đào. Đêm hôm sau trời nổi mưa to gió lớn, sấm sét vang dội, ở khu mộ Bá Đào có tiếng đánh nhau vang xa mấy mươi dặm. Đến sáng người làng ra xem, thấy mộ Kinh Kha bị quật lên, xương trắng rải khắp mặt đất. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 147 - 148 -</strong></p><p>Anh Em Họ Thương</p><p>(Nhị Thương)</p><p></p><p>Có nhà họ Thương ở huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông), anh giàu mà em nghèo, ở liền vách nhau. Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mất mùa lớn, người em sớm tối không lo được hai bữa. Một hôm trời đã trưa mà chưa nổi lửa nấu cơm, bụng đói sôi òng ọc, không biết làm sao. Vợ bảo tới nói với anh, Thương đáp "Vô ích, nếu anh thương ta nghèo thì đã sớm có cách giúp đỡ rồi". Vợ ép mãi, Thương sai con đi, giây lát tay không quay về, Thương nói "Thế nào nào?". Vợ hỏi lại con cho rõ, đứa con nói "Bác ngần ngừ rồi nhìn bác gái, bác gái nói Anh em đã ở riêng thì cơm ai nấy ăn, ai mà lo cho nhau được". Vợ chồng im lặng đem những bát mẻ giường nát cầm bán đổi chút tấm cám sống qua ngày. Trong làng có ba bốn gã vô lại, thấy Thương anh giàu có trèo tường vào cướp, vợ chồng Thương anh giật mình tỉnh dậy đập nồi đập chảo kêu gào nhưng người làng đều ghét không ai tới cứu. Bất đắc dĩ phải gọi em, Thương nghe tiếng chị dâu kêu cứu muốn xông qua ngay, vợ ngăn lại, lớn tiếng nói vọng qua "Anh em đã ở riêng thì họa ai nấy chịu, ai mà lo cho nhau được".</p><p></p><p>Kế bọn cướp phá cửa bắt vợ chồng Thương anh đốt thịt tra tấn, hai người kêu gào thảm thiết. Thương nói "Tuy anh không có tình nghĩa nhlmg chẳng lẽ ta lại ngồi yên nhìn anh chết mà không cứu sao!", rồi dắt con nhảy tường qua lớn tiếng quát tháo. Cha con Thương vốn khỏe mạnh, người ta đều sợ, bọn cướp lại sợ có người khác cùng tới cứu bèn tháo chạy. Thương nhìn tới anh chị thì hai vế đều bị đốt cháy sém, bèn đỡ lên giường, gọi bọn gia nhân tới trông coi rồi về. Thương anh tuy bị thương nhưng của cải không mất mát tí gì, bèn nói với vợ “Nay mà còn được của cải là nhờ chú nó, phải chia ra giúp đỡ cho chú ấy". Vợ nói "Nếu anh có anh em tốt thì đã không phải chịu khổ như thế”, Thương anh cũng im lặng. Thương trong nhà hết cả cái ăn, nghĩ rằng ắt anh sẽ báo đáp chút ít nhưng lâu quá vẫn không thấy tăm hơi gì. Vợ không chờ được, sai con mang túi qua vay, mang được một đấu gạo về, vợ Thương tức giận muốn đem trả, Thương cản lại.</p><p></p><p>Qua hai tháng thì nghèo túng không còn cách nào xoay xở nữa, Thương nói "Nay không còn cách nào mưu sinh, chẳng bằng bán nhà cho anh, anh sợ ta đi chỗ khác có khi không nhận giấy tờ mà cấp cho tiền gạo chưa biết chừng. Còn nếu không thế thì được chút ít tiền cũng còn sống được". Vợ cho là đúng, sai con cầm giấy tờ nhà qua nói với Thưong anh, Thương anh nói với vợ "Cho dù chú nó bất nhân thì cũng là anh em của ta, chú ấy đi thì ta còn một mình, chẳng bằng trả lại giấy tờ nhà mà giúp đỡ cho chú ấy”. Vợ nói "Không phải thế, chú ấy nói đi là để dọa ta thôi, mà nếu đi thật thì chẳng lẽ những kẻ không có anh em trên đời đều chết ráo à? Ta cứ đắp tường cho cao cho chắc để tự giữ, chẳng bằng cứ nhận giấy tờ nhà, cho chú ấy muốn đi đâu thì đi, cũng có thể mở rộng thêm nhà cửa". Bàn định xong, bảo Thương làm giấy bán nhà rồi đưa tiền cho đi, từ đó Thương dời qua ở nơi khác.</p><p>Có bọn vô lại nghe tin Thương đã đi lại tới cướp nhà Thương anh, tra tấn đủ cách vô cùng thê thảm, có bao nhiêu tiền bạc đều phải dốc cả ra để chuộc mạng. Bọn cướp ra, mở kho thóc gọi những nhà nghèo trong thôn tới xúc, trong khoảnh khắc đã hết sạch. Hôm sau Thương mới nghe tin, chạy về xem thì anh đã hôn mê không nói gì được nữa, lát sau mở mắt nhìn em, lấy tay cào lên chiếu rồi tắt thở. Thương phẫn uất thưa lên quan huyện nhưng bọn cướp đã trốn mất không thể truy tìm, những người cướp thóc thì có tới hàng trăm mà đều là nhà nghèo trong làng, quan cũng không biết làm sao. Thương anh còn để lại một đứa con trai năm tuổi, lúc nhà đã nghèo thường tự tìm qua nhà chú ở, mấy ngày liền không chịu về, đưa về thì khóc ròng. Vợ Thương rất không ưa, Thương nói “Cha mẹ nó bất nghĩa, chứ thằng nhỏ có tội gì?", rồi mua cho vài cái bánh chưng dắt nó về. Vài hôm sau lại lén giấu vợ con mang gạo đem cho chị dâu nuôi cháu, dần dần thành lệ thường. Vài năm sau chị dâu bán nhà cũ của Thương anh được tiền cũng đủ sống nên Thương không lui tới nữa. Sau gặp năm mất mùa, người ta chết đói đầy đường, nhà Thương lại thêm đông người nên không thể giúp đỡ ai được. Năm ấy đứa cháu mười lăm tuổi, yếu ớt không làm ăn gì được, Thương sai xách giỏ theo anh bán bánh gai.</p><p></p><p>Một hôm Thương nằm mơ thấy anh tới, vẻ mặt thê thảm nói "Ta bị đàn bà mê hoặc làm mất tình anh em, mà em không nghĩ tới oán cũ khiến ta càng thêm xấu hổ. Ngôi nhà cũ đã bán nay vẫn còn gian bên trái, em nên về đó ở, phía sau nhà có đám cỏ gai, bên dưới có hố vàng chôn, đào lên cũng đủ làm nhà giàu nhỏ. Cho con ta theo sống với em, còn con mụ lắm điều kia thì ta rất ghét, đừng ngó ngàng gì tới". Thương tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn đem món tiền lớn tới nói với chủ nhà xin thuê ở, đào hố vàng chôn lên quả được năm trăm lượng, từ đó bỏ nghề nghiệp thấp hèn, sai cháu và con mở cửa hiệu buôn bán. Đứa cháu rất thông minh, tính toán sổ sách không bao giờ lầm lẫn, tính lại thật thà phàm thu chi thì một đồng cũng thưa rõ, Thương càng thêm yêu mến. Một hôm cháu vào khóc xin gạo cho mẹ, vợ Thương định không cho, Thương thấy cháu có hiếu bèn cấp gạo cho hàng tháng. Vài năm nhà càng giàu lên, vợ Thương anh bị bệnh chết, Thương cũng già bèn chia gia sản làm đôi, cho cháu một nửa.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nghe nói Thương anh không khinh suất nhận một chút gì của kẻ khác, cũng là người trong sạch giữ mình vậy. Nhưng vợ nói gì nghe nấy, líu ríu không dám cãi lại một câu, nhẫn tâm dứt tình anh em, rốt lại vì keo kiệt mà chết. Than ôi cũng có gì lạ đâu! Thương em thì trước nghèo sau giàu, cũng có phải là người có tài cán gì đâu, chỉ là nhờ không quá nghe lời vợ đó thôi. Than ôi, chỉ một việc làm không như nhau mà nhân phẩm liền khác hẳn.</em></p><p></p><p></p><p><strong>148. Số Hưởng Lộc</strong></p><p><strong>(Lộc Số)</strong></p><p></p><p>Mỗ giàu sang, thường làm những việc vô đạo. Vợ thường lấy chuyện quả báo để khuyên can nhưng vẫn không nghe. Gặp lúc có người thầy bói có thể biết số hưởng lộc của người, bèn tới gặp. Người thầy bói nhìn kỹ rồi nói “Ông còn được ăn hai mươi thạch gạo, hai mươi thạch miến nữa thì hết lộc trời cho". Y về nói với vợ, tính ra mỗi người một năm chỉ ăn hết hai thạch miến, mình còn được hai mươi năm hưởng lộc trời cho, há vì làm điều không tốt mà dứt được sao? Rồi vẫn bậy bạ như cũ. Được hơn một năm chợt mắc bệnh tiêu khát, ăn rất nhiều mà vẫn đói, một ngày ăn cả chục bữa cơm, chưa đầy một năm thì chết.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển IX - 149 -</strong></p><p>Anh Em Họ Thương</p><p>(Nhị Thương)</p><p></p><p>An Đại Nghiệp người Lư Long (huyện Vĩnh Bình tỉnh Hà Bắc), sinh ra đã biết nói, mẹ phải đổ máu chó cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai chẳng ai bằng, lại thông minh học giỏi, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Lúc đầu mẹ nằm mộng thấy thần báo “Con bà sẽ lấy công chúa", rất tin. Nhưng khi An đã mười lăm mừơi sáu tuổi vẫn chưa thấy linh nghiệm, bà dần dần ăn năn mình tin mộng mị quàng xiên. Một hôm, An đang ngồi một mình, chợt nghe thấy mùi huơng lạ, kế có một tỳ nữ xinh đẹp chạy vào nói "Công chúa tới". Rồi lập tức trải thảm trên đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà tới cạnh giường sinh ngồi. An còn kinh ngạc hốt hoảng, đã thấy một nữ lang vịn vai tỳ nữ bước vào, y phục dung nhan sáng rực cả nhà. Người tỳ nữ lót gối thêu nệm gấm lên giường rồi đỡ nữ lang ngồi xuống. An kinh hoàng không biết làm sao, khom lưng nói "Người là thần tiên nơi nào giáng lâm?". Nữ lang mỉm cười lấy tay áo che miệng không đáp, người thị nữ nói "Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh hậu. Vì Thánh hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự tới xem nhà cửa đó".</p><p></p><p>An vừa mừng vừa sợ không biết nói gì, nữ lang cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau im lặng. An vốn thích đánh cờ vây, bàn cờ thường để bên cạnh. Một tỳ nữ lấy khăn hồng lau bụi, đặt lên bàn nói "Thường ngày công chúa thích trò chơi này, không biết so với Phò mã thì ai hơn?”. An dời ghế tới gần bàn. Công chúa cười ưng thuận, đi được độ ba chục nuớc, tỳ nữ xóa bàn cờ nói “Thôi Phò mã thua rồi”. Rồi nhặt con cờ cất vào hộp, nói "Phò mã đúng là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ nhường được sáu con thôi”. Liền bỏ sáu con cờ đen ra khỏi bàn, công chúa cũng ưng thuận. Lúc công chúa ngồi đánh cờ, sai tỳ nữ ngồi dưới đưa lưng cho nàng gác chân, chân trái thòng xuống đất thì một tỳ nữ khác phục xuống đỡ, lại có hai a hoàn nhỏ đứng hầu. Lúc An ngẫm nghĩ nước cờ thì nàng co tay gác lên vai ngồi đợi. Ván cờ chưa phân thắng phụ, a hoàn nhỏ cười nói “Phò mã thua một con". Người tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã mệt, nên nghỉ thôi”.</p><p></p><p>Công chúa nghiêng mình ghé vào tai tỳ nữ nói nhỏ, tỳ nữ bước ra, chốc lát quay vào, đặt ngàn đồng vàng lên giường nói với sinh rằng "Mới rồi Công chúa nói nhà cửa ẩm thấp chật chội, phiền lang quân dùng số tiền mọn này sửa sang, lúc nào xong sẽ gặp nhau”. Một tỳ nữ nói “Tháng này phạm vào sao Thiên hình, không nên xây cất, tháng sau thì tốt". Công chúa đứng dậy, sinh ngăn lại đóng cổng, tỳ nữ lấy ra một vật như cái túi bằng da, đặt xuống đất gõ vào, chợt có hơi mây tỏa ra, trong khoảnh khắc tụ lại che kín bốn bề không nhìn thấy gì cả, khi tan thì mọi người đã biến mất. Mẹ sinh biết chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng sinh mơ tuởng không khuây, vội lo sửa sang nhà cửa không nề việc kiêng kỵ, thúc giục ngày đêm, phòng ốc cổng nẽo mới hẳn.</p><p></p><p>Trước đó có người học trò ở huyện Loan Châu (tỉnh Hà Bắc) tên Viên Đại Dụng tối ngụ ở xóm bên, đưa danh thiếp tới nhà xin ra mắt. Sinh vốn ít giao du nên nói thác là đi vắng, lại chờ lúc Viên không có ở nhà trọ qua thăm đáp lễ. Hơn tháng sau, tình cờ gặp nhau ngoài cổng, thấy là một thiếu niên hơn haì muơi tuổi, áo mỏng giày đen, phong thái nhàn nhã. An trò chuyện qua loa, thấy ôn hòa lễ độ thích lắm bèn mời vào nhà chơi cờ, ván được ván thua. Kế dọn rượu giữ chân, trò chuyện rất vui vẻ. Hôm sau Viên mời sinh tới chỗ mình trọ, dọn đủ thức ngon vật lạ, tiếp đãi ân cần, có đứa tiểu đồng khoảng mười hai muời ba tuổi gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui Sinh say quá đi không nổi, Viên sai nó cõng về. Sinh cho rằng nó nhỏ yếu, sợ không cõng nổi, nhưng Viên cứ ép bảo để nó cõng, quả nhiên nó cõng sinh về tới nhà rất nhẹ nhàng. Sinh lấy làm lạ, hôm sau đem tiền qua thuởng, nó từ chối mấy lần mới nhận.</p><p></p><p>Từ đó An cùng Viên ngày càng thân thiết, vài ngày lại gặp nhau một lần. Viên là người giản dị kín đáo nhưng khẳng khái thích giúp người. Ở chợ có kẻ thiếu tiền phải đem con gái gán nợ, Viên trút túi trả thay không chút tiếc rẻ, sinh vì thế càng thêm kính trọng. Vài hôm sau, Viên tới từ giã sinh, tặng cho các loại đũa ngà chén ngọc, tất cả hơn mười món, lại thêm năm trăm đồng vàng giúp vào việc sửa nhà. Sinh trả vàng nhận vật, rồi đưa vải lụa tặng lại. Hơn tháng sau, huyện Lạc Đình (tỉnh Hà Bắc) có người làm quan về hưu mang theo rất nhiều tiền của, nửa đêm bị cướp vào nhà bắt trói, nung sắt tra khảo cướp sạch cả. Nguời nhà biết là Viên, báo quan phát lệnh đi khắp nơi tróc nã. Láng giềng có họ Đồ vốn xích mích với nhà sinh, thấy sinh xây nhà dựng cửa, bụng thầm ghen tức. Nhân có đứa tiểu đồng của sinh lấy trộm đũa ngà đem tới bán, y biết là vật của Viên tặng liền báo quan huyện. Quan huyện sai lính về vây gặp lúc chủ tớ sinh đều vắng nhà, bèn trói mẹ sinh giải đi. Bà mẹ đã già yếu lại bị cơn hoảng sợ, chỉ còn thở thoi thóp, hai ba ngày liền không ăn uống gì, quan bèn thả về. Sinh nghe tin vội về nhà thì bệnh mẹ đã trở nặng, qua đêm thì mất. Vừa liệm xác xong thì sai dịch đã tới bắt sinh đi.</p><p></p><p>Quan huyện thấy sinh tuổi trẻ văn nhã, thầm nghĩ là bị vu oan, bèn cố ý quát nạt, sinh cũng thật tình khai hết đầu đuôi chuyện kết bạn với Viên. Quan hỏi tại sao đột nhiên trở nên giàu có, sinh đáp "Mẹ ta có ít nhiều tiền của chôn giấu, nay ta sắp lấy vợ nên xây nhà để làm đám cưới thôi". Quan huyện tin lời, viết tờ bẩm sai giải sinh lên quận. Gã họ Đồ biết là sinh sẽ vô sự, đem nhiều tiền đút lót cho lính áp giải để chúng giết sinh trên đường đi. Đường lên quận phải qua núi vắng, chúng kéo sinh tới bờ vực sâu toan xô xuống. Đang lúc nguy cấp chợt có một con cọp trong bụi rậm nhảy ra, vồ chết hai tên lính rồi tha sinh đi. Tới một nơi lâu đài nguy nga, cọp đem sinh vào đặt xuống, thấy công chúa Vân La vịn vai thị nữ ra đón, buồn rầu an ủi, nói "Thiếp muốn giữ chàng ở lại nhưng việc tang lễ của mẹ chưa xong, chàng nên đem tờ bẩm lên quận tự nộp mình, chắc chắn là vô sự". Rồi cầm lấy sợi đai lưng trước bụng sinh, thắt lại hơn mười nút, dặn "Lúc gặp quan, cứ nắm lấy những cái nút này mở ra, tai nạn sẽ tiêu tan". Sinh theo lời, tới quận nộp mình. Quan Thái thú vui vì sinh thành tín, lại xem tờ bẩm, biết là bị oan, bèn tha cho sinh về.</p><p></p><p>Sinh về được nửa đường thì gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình cảnh, Viên nổi giận biến sắc im lặng không nói câu nào. Sinh nói "Phong thái như ông sao lại tự làm chuyện nhơ danh như vậy?". Viên đáp "Ta giết toàn là hạng bất nhân, ta cướp toàn là của phi nghĩa, nếu không thì dù là tiền rơi trên đường cũng không nhặt đâu. Lời ông dạy ta đó vốn rất hay, nhưng hạng người như gã hàng xóm của ông há lại có thể để cho sống trên đời sao?", nói xong lên ngựa đi thẳng. Sinh về chôn cất mẹ xong, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm cướp vào nhà hàng xóm, giết sạch hơn mười cha con, chỉ chừa lại một người tớ gái, lấy hết tiền của, chia cho đứa tiểu đồng cùng xách. Lúc ra đi còn cầm đèn nói với người tớ gái "Ngươi nhìn cho rõ nhé! Kẻ giết người là ta đây, không dính líu gì tới ai cả”. Rồi không mở cửa, phi thân nhảy lên mái nhà, vượt qua tường đi mất. Hôm sau tin báo lên quan, quan ngờ sinh biết chuyện, lại bắt lên quát tháo căn vặn rất dữ tợn. Sinh ra trước công đường nắm lấy sợi đai lưng thắt nút, vừa phân trần vừa mở nút ra, quan không vặn vẹo được gì, lại tha cho về. Về tới nhà sinh lại càng náu hơi kín tiếng, cứ ở nhà đọc sách không ra khỏi cửa, chỉ có một bà già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang xong, ngày ngày sinh quét dọn nhà cửa để đợi tin vui.</p><p></p><p>Một hôm, nghe có mùi hương lạ thơm ngát cả nhà, lên gác xem thì thấy trong ngoài đều trần thiết rực rỡ, cuốn rèm lên thì công chúa đã trang điểm lộng lẫy ngồi đó rồi. Sinh vộỉ vái chào, nàng giữ tay lại nói "Chàng không tin số mệnh, khiến việc xây nhà gây ra tai vạ, lại thêm tang mẹ, làm trễ duyên cầm sắt của chúng ta mất ba năm, đó là gấp gáp lại phải muộn màng, việc đời đại để đều như thế”. Sinh toan lấy tiền đi chợ, nàng nói "Không cần đâu”. Thị nữ lấy trân hào mỹ tửu trong rương ra bày lên, thức ăn còn nóng như vừa nấu nướng xong, rượu cũng thơm lừng nóng hổi. Uống rượu một lúc thì trời tốì, đám thị nữ hầu hạ đều lui ra hết. Nàng nằm soãi hết tay chân, đong đưa vế đùi, như không che đậy gì cả, sinh liền ôm lấy nàng. Nàng nói “Chàng buông tay ra đã. Bây giờ có hai cách, tùy chàng chọn lựa". Sinh ôm cổ nàng hỏi hai cách nào, nàng đáp "Nếu hai ta làm bạn chén rượu cuộc cờ thì được sum vầy ba mươi năm, còn nếu vui thú chăn loan gối phụng thì chỉ được sum họp sáu năm thôi, chàng chọn cách nào?”. Sinh đáp "Sáu năm nữa sẽ bàn tiếp". Nàng im lặng, rồi cùng sinh vui thú. Nàng nói “Thiếp vốn biết chàng không thể tránh được thói trần tục, cũng là số vậy".</p><p></p><p>Rồi bảo sinh nuôi thêm vú già tớ gái, cho ở riêng gian nhà phía nam, nấu cơm hầu chủ, dệt vải nuôi thân. Trong gian nhà phía bắc tịnh không bếp núc, chỉ có bàn cờ bình rượu, cửa thường đóng kín. Sinh đẩy thì tự mở, người khác thì không vào được. Những người ở gian nhà phía nam siêng năng lười nhác ra sao nàng đều biết rõ, mỗi khi bảo sinh qua quở trách thì ai cũng phải nhận lỗi. Nàng không nói nhiều lời, không cười lớn tiếng, cùng sinh nói chuyện chỉ cúi đầu cười khẽ, những khi cùng ngồi, thì thích dựa vào sinh. Có lần sinh bế nàng đặt lên đầu gối, thấy nhẹ như trẻ nít, bèn nói "Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay mà múa được". Nàng đáp "Chuyện đó có gì khó, có điều chỉ là việc của đám gái hầu, thiếp không thèm làm thôi. Như Phi Yến<strong>*</strong> nguyên là thị nữ của chị Chín thiếp, hay lẳng lơ mà có tội, bị đày xuống trần gian, lại không giữ trinh tiết, nên hiện đang bị giam trong ngục tối”.</p><p></p><p>*Phi Yến: tức Triệu Phi Yến, mỹ nhân trong hậu cung của Đường Minh hoàng, vóc ngườí nhỏ nhắn mềm mại, tương truyền có thể đứng trên bàn tay người ta mà múa.</p><p></p><p>Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông không mấy lạnh, mùa hè chẳng mấy nóng, cô gái thì ngay giữa mùa đông lạnh buốt cũng mặc áo nhẹ. Sinh may áo mới ép nàng mặc thì chốc lát lại cởi ra, nói "Vật phàm ô trọc, mặc nữa thì đè vào xương thành bệnh lao mất". Một hôm sinh bế nàng lên gối thấy nặng khác hẳn mọi khi, lấy làm lạ. Nàng cười chỉ vào bụng nói "Trong này có giống phàm tục rồi". Cách mấy hôm sau, nàng cau mày bỏ ăn, nói “Gần đây trong người khó chịu, cứ thèm những thức nấu nướng". Sinh bèn tìm những thức ngon về, từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một hôm nàng nói “Thiếp vốn yếu ớt, không thể sinh nở, con thị nữ Phàn Anh khỏe mạnh, vậy để nó thay". Rồi cởi áo lót mặc cho Phàn Anh, đẩy vào phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ con khóc mở cửa vào xem thì là con trai, mừng nói “Thằng nhỏ này có phúc tướng, là vật quý đây” nhân đó đặt tên là Đại Khí.</p><p>Nàng trao cho sinh bế, bảo đưa người tỳ nữ về ở chung với bà vú ở gian nhà phía nam. Nàng sinh nở xong, eo lưng lại nhỏ lại như trước, không ăn những thức nấu nướng nữa. Bỗng từ biệt sinh về thăm nhà, hỏi đi bao lâu, nàng đáp ba ngày, rồi gõ vào cái túi da tuôn mây biến mất như lần trước. Đến kỳ hẹn không thấy về, hơn năm liền bặt luôn tin tức, sinh đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, kế thi đỗ Cử nhân nhưng vẫn không chịu lấy vợ, hàng đêm vẫn ngủ một mình ở gian nhà phía bắc, ôm ấp hương thừa. Một đêm đang trằn trọc trên giường chợt có ánh đèn soi qua cửa sổ, cửa phòng cũng tự mở, bọn thị nữ xúm xít đỡ công chúa vào. Sinh mừng rỡ vùng dậy trách móc sai hẹn, nàng nói "Thiếp còn chưa đến hẹn đâu, mới ở trên trời có hai ngày rưỡi thôi". Sinh đắc ý khoe chuyện thi đỗ, cho rằng công chúa ắt mừng, nhưng nàng buồn bã nói “Cái danh vọng thoảng qua đó thì có đáng gì? Chẳng đủ bàn chuyện nhục vinh mà còn làm người ta tổn thọ”. Mới ba ngày không gặp mà chàng đã sa vào tục lụy sâu thêm một tầng nữa rồi", sinh vì thế không thi cử gì nữa.</p><p></p><p>Vài tháng sau nàng lại định về thăm nhà, sinh buồn rầu không muốn, nàng nói "Chuyến này nhất định thiếp sẽ về sớm, không để chàng phải mỏi mắt trông chờ đâu. Vả lại kiếp người tan hợp đều có định số, tính toán thì thấy dài, lơ là thì thấy ngắn thôi”. Rồi đi, hơn một tháng trở về, từ đó cứ sáu tháng một năm lại đi một lần, vài tháng lại về, sinh quen lệ cũng không thấy lạ nữa. Kế nàng lại sinh thêm một đứa con trai, bế lên nhìn, nói "Thằng này sài lang", bảo nên vứt đi lập tức, nhưng vì sinh không nỡ nên vẫn giữ lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm nàng đã vội tìm hỏi vợ cho nó, các bà mai mối lui tới nườm nượp, nhung nàng hỏi ngày sinh tháng đẻ đều cho là không hợp, nói "Ta muốn làm sẵn một cái chuồng sắt cho thằng con sài lang này mà không được, phải để nó ăn tàn phá hại sáu bảy năm, âu cũng là số". Rồi dặn sinh rằng “Chàng nhớ bốn năm nữa họ Hầu sẽ sinh một đứa con gái, sườn bên trái có cái bớt nhỏ thì đúng là vợ của thằng nhỏ này đấy, phải hỏi cưới cho nó, đừng so đo chuyện môn đăng hộ đối gì cả", nói xong bắt viết ngay vào giấy cho khỏi quên.</p><p></p><p>Sau nàng về thăm nhà, đi luôn không trở lại nữa. Sinh thường đem lời vợ dặn cậy nhờ bạn bè thân thích dò hỏi, quả có đứa con gái họ Hầu sinh ra đã có cái bớt ở sườn, họ Hầu là người hèn hạ mà hành vi xấu xa, mọi người đều coi thường, nhưng sinh vẫn nhờ người mối lái hỏi cưới đứa con gái ấy cho Khả Khí. Đại Khí mười bảy tuổi đã thi đỗ, cưới vợ họ Vân, vợ chồng đều hiếu hạnh, cha rất yêu thuơng. Còn Khả Khí thì lớn lên không thích học hành, chỉ lén lút dong chơi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để chơi bời. Cha giận đánh nhưng vẫn không chừa, bèn dặn ngườì nhà để ý giữ gìn, Khả Khí không lấy gì được bèn nửa đêm ra khỏi nhà trộm cắp lặt vặt, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện hỏi họ tên, viết danh thiếp cho về nhà, cha và anh cùng trói lại, cha đánh cho một trận gần chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ mới được tha. Cha tức giận sinh bệnh, ăn không thấy ngon, bèn làm giấy tờ chia của cho hai con, những nhà lầu ruộng tốt đều về phần Đại Khí.</p><p></p><p>Khả Khí căm tức nửa đêm cầm dao vào phòng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Trước công chúa có để lại chiếc áo rất nhẹ và mềm, Vân thị lấy làm áo ngủ, Khả Khí chém trúng nảy lửa tung tóe nên hoảng sợ bỏ chạy. Cha biết chuyện, bệnh càng nặng thêm, vài tháng thì chết. Khả Khí nghe tin cha mất mới mò về, anh vẫn đối xử rất tốt nhưng Khả Khí ngày càng buông thả, hơn một năm ruộng vườn nhà cửa được chia cho đã phá tán gần hết, rồi lên phủ kiện anh. Quan hỏi biết là người ra sao nên đuổi về, anh em từ đó dứt hết tình nghĩa. Được hơn năm, Khả Khí hai mươi ba tuổi, con gái họ Hầu thì mười lăm. Anh nhớ lời mẹ, muốn cưới gấp cho em, liền gọi Khả Khí tới cắt gian nhà đẹp cho ở. Khi đón dâu về, lại đem tất cả văn tự những ruộng tốt cha để lại giao cho, nói "Mấy đám ruộng xấu này, bấy lâu ta sống chết cố giữ cho thím, nay giao cả cho đấy. Em ta mất nết, cho nó một cọng cỏ cũng uổng phí. Từ nay về sau, nên hư là do em dâu. Nếu giúp nó sửa nết được thì không lo gì đói rét, bằng không thì anh cũng không thể nào lấp đầy cái vực sâu không đáy kia được”.</p><p></p><p>Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo làm gì cũng không dám trái ý, đi đâu về không đúng giờ thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn chung, Khả Khí vì vậy cũng bớt lêu lổng. Hơn một năm sinh được một trai, vợ nói “Từ nay chẳng phải cầu cạnh gì ai nữa. Có mấy đám ruộng tốt, mẹ con lo gì không no ấm, không có chồng cũng chẳng sao”. Có lần Khả Khí trộm lúa đi đánh bạc, vợ biết được, cầm cung tên chận ở cổng. Khả Khí sợ quá núp trốn, rình lúc vợ vào nhà rồi, lại mon men trở vào. Vợ vung dao xông ra, Khả Khí bỏ chạy, vợ đuổi theo chém trúng mông, máu tuôn ướt cả giày tất, uất quá tới mách anh, nhưng anh tỏ vẻ khinh bỉ, đành hổ thẹn tức tối đi ra. Qua đêm lại tới, quỳ trước mặt chị dâu khóc lóc, nhờ nói giùm với vợ, nhung vợ vân nhất định không cho vào nhà. Khả Khí nổi giận đòi giết vợ, anh im lặng, Khả Khí uất ức chồm dậy xách mác đi thẳng ra cửa. Chị dâu sững sờ, định đuổỉ theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ đi khuất mới nói "Nó làm ra vẻ thế thôi, chứ thật ra không dám về đâu”.</p><p></p><p>Sai người theo xem thì Khả Khí đã vào cổng rồi. Anh hơi biến sắc, vội chạy mau theo thì Khả Khí đã lặng ngắt đi ra. Té ra Khả Khí vào tới nhà thì vợ đang đùa với con, nhìn thấy chồng liền thảy con xuống giường, vớ con dao bổ củi lao ra. Khả Khí sợ hãi kéo lê ngọn mác bỏ chạy, vợ đuổi ra tới ngoài ngõ mới quay vào. Anh biết rõ sự tình nhưng vẫn cố ý hỏi han, Khả Khí chỉ quay đi mà khóc, hai mắt sưng húp. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu cho vào ở. Chờ anh về rồi, phạt Khả Khí phải quỳ, bắt phải thề độc rồi bắt ăn cơm bằng tô sành, từ đó mới bỏ nết cũ làm điều lành. Vợ lại biết tính toán làm ăn, trong nhà ngày càng dư dật, Khả Khí chỉ có việc ngổi ăn mà thôi. Về sau đến năm bảy muơi tuổi, con cháu đầy nhà mà có khi vợ vẫn nắm râu bắt quỳ.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Gặp phải thứ vợ hung dữ ghen tuông thì như có ghẻ trong xương, chết rồi mới hết nợ, thứ đó há không độc sao? Nhưng Thạch tín là vị thuốc độc nhất trên đời mà dùng đúng bệnh thì Nhân sâm Phục linh cũng không bằng được. Có điều nếu không phải là người tiên nhìn thấu gan ruột, thì lại dám lưu thuốc độc lại cho con cháu ư?</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 150 - 151 -</strong></p><p>Chân Hậu</p><p>(Chân Hậu)</p><p></p><p>Lưu Trung Kham ở huyện Lạc Thành (tỉnh Hà Nam) lúc trẻ ngu độn nhưng say mê sách vở, thường đóng cửa học tập, không giao thiệp với người ngoài. Một hôm đang đọc sách, chợt ngửi thấy mùi hương lạ thơm nức cả phòng, kế có tiếng vòng ngọc khua rất gấp, giật mình ngoảnh nhìn thì thấy một mỹ nhân bước vào, trâm vòng sáng rỡ, nguời theo hầu đều ăn mặc lối cung nữ. Lưu hoảng sợ lạy phục xuống đất, mỹ nhân đỡ lên nói “Tại sao chàng lại trước khinh nhờn mà sau cung kính?". Lưu càng sợ hãi, nói "Người là thiên tiên ở đâu ta còn chưa được biết, vậy trước đây ta xúc phạm lúc nào?”. Mỹ nhân cười nói “Chia tay đã được bao lâu? Kẻ bỉ cách chức mải miết ngồi cao mài gạch<strong>*</strong> không phải là chàng sao?”. Rồi mở túi gấm lấy rượu quỳnh tuơng ra bày tiệc, giục Lưu ngồi xuống đối ẩm, cùng bàn chuyện kim cổ, thông tuệ phi thường. Lưu mờ mịt không biết đối đáp ra sao, mỹ nhân nói “Ta chỉ tới dự tiệc ở Dao Trì có một lúc mà chàng đã trảí qua mấy kiếp, hết cả thông minh rồi”. Bèn sai người hầu lấy nước nóng hoà với cao Thủy Xương dâng lên, Lưu nhận lấy uống cạn, chợt thấy tâm thần nhẹ nhõm, đầu óc sáng láng.</p><p></p><p>*Mài gạch: dịch chữ “ma chuyên”, lấy từ tích “Lưu Trinh ma thạch" (Lưu Trinh mài đá). Lưu Trinh là người thời Tam quốc, thông minh mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, làm Tùng sự cho Thế tử Tào Phi, con Tào Tháo. Trước đó Phi theo Tháo đi đánh Viên Thiệu, bát được vợ Viên Hy tức con dâu Thiệu là Chân thị, dung mạo rất xinh đẹp bèn mang về nạp làm Chính phi. Sau Phi cướp ngôi nhà Hán lên làm vua, phong Chân thị làm Hoàng hậu. Khi Phi còn là Thế tử có lần uống rượu cùng các quan say rồi gọi Chân thị ra chào tân khách, mọi người đều quỳ rạp không ai dám ngẩng nhìn, chỉ nêng Lưu Trinh vẫn nghiễm nhiên ngồi ngó. Hôm sau Phi tỉnh rượu nhớ lại, giận Trinh vô lễ bèn cách chức bắt ra quán Thượng Phương mài đá.</p><p></p><p>Lát sau trời tối, người theo hầu tản đi hết, mỹ nhân tắt đèn cởi áo, cùng Lưu vui thú. Trời chưa sáng, đám gái hầu đã tới tụ tập, mỹ nhân trở dậy ăn vận như cũ, riêng đầu tóc vẫn tề chỉnh không phải chải lại. Lưu nằn nì hỏi họ tên, mỹ nhân đáp "Nói ra cũng không hề gì, chỉ e chàng thêm ngờ sợ mà thôi. Thiếp là Chân hậu, chàng là hậu thân của Công Cán. Ngày trước chàng vì thiếp mà bị tội, nên trong lòng thiếp thấy bất nhẫn. Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng tạm gọi là để báo đáp mối tình si vậy". Lưu hỏi Ngụy Văn<strong>*</strong> hiện ở đâu, mỹ nhân đáp "Tào Phi chẳng qua chỉ là đứa con tầm thường của lão cha làm giặc, thiếp ngẫu nhiên gặp kẻ phú quý thì theo chơi đùa vài năm, chuyện qua rồi cũng chẳng lưu luyến gì. Trước đây y vì việc của A Man<strong>**</strong> nên bị giam cầm lâu ngày dưới U minh, hiện nay không rõ ra sao. Nhung Trần Tư<strong>***</strong> thì giữ chức coi sổ sách cho Thượng đế, thỉnh thoảng thiếp cũng có gặp". Kế có cỗ kiệu rồng tới dừng trong sân, mỹ nhân bèn rút chiếc nhẫn ngọc tặng Lưu rồi từ giã lên kiệu, mây đưa mù cuốn mà đi. Lưu từ đó học hành tấn tới nhưng nhớ nhung người đẹp, thẫn thờ như ngây.</p><p></p><p>*Ngụy Văn: tức Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán dựng ra nhà Ngụy thời Tam quốc, được nhà Ngụy tôn là Ngụy Văn đế.</p><p></p><p>**A Man: tên tự của Tào Tháo lúc nhỏ, đây dùng với ý khinh bỉ.</p><p></p><p>***Trần Tư tức Tào Thực, em Tào Phi, rất thông minh tài giỏi. Khi Tào Phi lên ngôi vương thay cha là Tào Tháo, ghét tài Thục nên phong làm Trần Tư vương, bắt phải đi xa kinh đô.</p><p></p><p>Vài tháng sau thì héo hon như sắp chết, mẹ không biết vì sao, lấy làm lo lắng. Chợt có một bà già trong nhà hỏi Lưu “Lang quân đang nhớ nhung ai lắm phải không?". Lưu thấy lời nói hơi đúng, không giấu được nên ậm ừ. Bà già nói “Lang quân cứ viết một phong thư, ta có thể mời tới cho". Lưu vừa sợ vừa mừng, nói "Bà có thuật lạ mà trước nay cứ bị vùi chôn giữa đám người tầm thường, nếu quả mời được tới đây thì ta không dám quên ơn”. Bèn viết thư đưa, bà già ra đi, nửa đêm trở về nói với Lưu "May mà không hỏng việc. Ta vừa tới cổng, người gác cho là yêu quái định bắt trói. Ta bèn đưa thư của lang quân ra, y cầm vào rồi lát sau ra gọi ta vào trong. Phu nhân cũng ngậm ngùi than thở, nói rằng không thể gặp lại, cũng định viết thư trả lời, nhưng ta thưa rằng lang quân ốm nặng, không phải một lá thư mà chữa khỏi được. Phu nhân nghĩ ngợi một lúc rồi buông bút nói “Vậy xin phiền báo trước với chàng Lưu rằng ta sẽ đưa ngay tới cho chàng một người vợ đẹp". Lúc ta ra về lại dặn dò rằng đây là việc trăm năm, không được nói lộ ra mới có thể sống với nhau lâu dài".</p><p></p><p>Lưu mừng rỡ hứa sẽ theo lời. Sáng hôm sau quả có bà lão dắt một cô gái dung nhan tuyệt đẹp tới gặp mẹ Lưu, tự xưng là họ Trần, cô gái là con ruột, tên Tư Hương, xin đem gả cho Lưu. Mẹ Lưu rất thích cô gái, bàn việc sính lễ, nhưng họ Trần không đòi hỏi tiền bạc gì cả, qua đám cưới là đi. Lưu ngầm biết là việc lạ hỏi riêng cô gái là có quan hệ thế nào với phu nhân. Nàng đáp "Thiếp là con hát cũ ở đài Đồng Tước<strong>*</strong>”. Lưu ngờ là ma, nàng nói “Không phải đâu. Thiếp và phu nhân đều có tên trong sổ tiên, nhưng vô tình mắc tội cùng bị đày xuống nhân gian. Phu nhân đã về ngôi cũ, thiếp thì chưa hết hạn bị phạt nhưng phu nhân xin với Thiên tào cho thiếp theo để sai phái, mọi việc đều chỉ phải theo lệnh của phu nhân, vì vậy cũng thường được gần gũi hầu hạ người".</p><p></p><p>*Đài Đồng Tước: cuối thời Hán, Tào Tháo nắm quyền Thừa tướng, khuynh loát triều đình. Có người đào được con chim sẽ bằng đồng dâng lên, Tháo cho là điềm lành nên sai dựng một ngôi đài cao, gọi là đài Đồng Tước, đưa các tỳ thiếp về đó ở. Trước khi chết, Tháo đem những hương liệu quý cất riêng ra chia cho họ làm vốn, dặn là hãy làm nghề khâu giày mà sống, có ý muốn họ không đi lấy chồng khác, giữ lòng chung thủy với mình.</p><p></p><p>Một hôm có bà già mù dắt con chó vàng tới nhà xin ăn, gõ phách ca hát. Cô gái vừa bước ra xem thì con chó giật đứt dây xông vào cắn. Nàng hoảng sợ bỏ chạy thì tà áo đã bị cắn đứt. Lưu vác gậy đuổi theo đập, con chó càng giận dữ nhai xé manh áo dứt được, trong chớp mắt đã nát vụn ra. Bà già mù nắm lông gáy nó rồi buộc lại dắt đi. Lưu vào thăm thấy cô gái vẫn còn đầy vẻ sợ sệt, bèn nói “Nàng là người tiên, sao còn sợ chó?". Nàng đáp “Chàng không biết, chứ con chó ấy là lão A Man hóa thân, giận thiếp không tuân theo lời dặn lúc chia hương đấy”. Lưu định mua con chó để đập chết, nàng nói “Không được đâu. Thượng đế phạt y như vậy, đâu được giết càn". Được hai nãm, ai gặp cô gái cũng kinh ngạc vì thấy nàng quá đẹp, mà hỏi tới lai lịch thì rất mơ hồ, nên đều ngờ nàng là yêu quái. Mẹ hỏi, Lưu cũng nói qua loa về chuyện lạ. Mẹ cả bảo phải bỏ vợ nhưng Lưu không nghe. Mẹ bèn ngầm mời thuật sĩ tới làm phép ở sân, vừa chỉ đất dựng đàn thì cô gái đà buồn bã nói “Vốn hẹn ước sống với nhau đến lúc bạc đầu, nay mẹ già đã ngờ vực thì tự rõ đã hết tình nghĩa rồi. Có điều muốn thiếp tự đi cũng không khó, chứ loại bùa chú ấy mà sai khiến nổi thiếp à!". Rồi bó củi châm lửa ném xuống dưới bậc thềm, trong chớp mắt khói mù toả ra che kín cả phòng ốc, đối diện không nhìn thấy mặt nhau. Kế có tiếng nổ ầm ầm như sấm sét, rồi màn khói tan đi nhìn lại thì thuật sĩ đã bảy khiếu đổ máu chết rồi. Vào phòng tìm thì cô gái đã biến mất, gọi bà già lên hỏi cũng không rõ đã đi đâu rồi. Lúc ấy Lưu mới kể lại cho mẹ biết rằng bà ta là hồ.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Buổi đầu lấy chồng họ Viên, sau về làm vợ họ Tào, cuối cùng lại có tình vơi Công Cán, ngươi tiên lẽ ra không nên như thế. Song bình tâm mà bàn thì đứa con soán ngôi của A Man mà lại có được người vợ trinh tiết sao? Còn con chó nhân thấy người con hát cũ lẽ ra phải hiểu lời dặn thêu giày lúc chia hương là ngu muộí mới đúng, chứ lại còn ghen tuông à! Than ôi, kẻ gian hùng không biết tự thương xót mình, khiến người sau phải thương xót vậy.</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>151. Hoạn Nương</strong></p><p><strong> (Hoạn Nương)</strong></p><p></p><p>Ôn Như Xuân là con nhà thế gia ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây, lúc nhỏ say mê đàn cầm, dù đi xa nhà cũng không rời tay. Có lần tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), đi ngang một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng vào nghỉ chân. Vào trong thì thấy có một vị đạo nhân mặc áo vải ngồi xổm ở hành lang, dựng cây gậy trúc vào vách, đeo một chiếc túi đựng đàn bằng vải bông thêu. Ôn thấy đúng sở thích, nhân hỏi “Đạo sĩ cũng giỏi đàn cầm sao?”. Đạo nhân đáp "Thật rất không giỏi, chỉ mong gặp người giỏi để học thôi". Rồi mở túi lấy đàn ra trao cho Ôn, Ôn nhìn thì thấy vân gỗ rất đẹp, dạo thử một câu thấy tiếng trong vang lạ thường, thích thú đàn luôn một khúc ngắn. Đạo sĩ cười khẽ như có ý chê là chưa giỏi, Ôn bèn trổ hết tài nghệ. Đạo nhân nhếch mép nói “Cũng hay, cũng hay, nhưng chưa đủ để làm thầy của bần đạo”. Ôn cho là có ý khoa trương, bèn trao lại đàn xin được nghe thử. Đạo nhân tiếp lấy đàn đặt lên đầu gối, vừa mới bật vài tiếng đã thấy gió mát thoảng tới, giây lát thì hàng trăm loài chim tới tụ họp, đậu kín trên cây trước sân chùa. Ôn vô cùng kinh ngạc, sụp lạy xin theo học. Đạo nhân đàn lại ba lần, Ôn chăm chú lắng nghe, bắt đầu hiểu được tiết tấu. Đạo nhân bảo đàn lại thử, chỉ thêm những chỗ sai rồi nói "Bấy nhiêu là ở trần gian không ai bằng rồi đấy!".</p><p></p><p>Ôn từ đó chuyên tâm tập luyện, nổi tiếng là tuyệt kỹ. Sau Ôn trở về đất Tần, còn cách nhà vài mươi dặm thì trời tối mưa to, không có chỗ nào nghỉ đêm. Thấy cạnh đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, thấy một cái cổng thì bước thẳng vào, tới tận trong nhà vẫn thấy im ắng như không có người. Giây lát có một nữ lang bước ra, khoảng mười bảy mườí tám tuổi, đẹp như thiên tiên, ngẩng đầu thấy khách thì hoảng sợ chạy trở vào. Ôn lúc ấy chưa có vợ, vừa nhìn thấy nàng đã say mê. Lát sau một bà lão ra hỏi chuyện, Ôn xưng tên họ rồi xin cho ngủ trọ qua đêm. Bà lão nói “Ngủ trọ cũng được, chỉ hiềm nhà thiếu giường chõng, nếu khách không ngại thì xin trải đệm xuống đất mời nghỉ tạm”. Rồi thắp đèn mang ra, đem cỏ khô rải xuống đất, ý tứ rất ân cần. Ôn hỏi họ tên, bà đáp "Già họ Tiêu”. Ôn lại hỏi nữ lang là ai, bà đáp “Đó là Hoạn Nương, con nuôi của già". Ôn nói :Nếu không chê nghèo hèn, thì ta muốn hỏi cưới có được không?”. Bà cau mày đáp “Chuyện đó thì già không thể vâng mệnh được”. Ôn hỏi vì sao, bà chỉ đáp là khó nói rồi im lặng. Bà già vào nhà trong, Ôn nhìn tới bó cỏ trải đệm thì vừa ướt vừa mục không sao nằm được, đành ngồi suông gảy đàn qua đêm, chờ tạnh mưa rồi ra về.</p><p></p><p>Trong huyện có quan Bộ lang đã về hưu họ Cát, rất thích kẻ văn nhân. Ôn ngẫu nhiên tới chơi, vâng lệnh gảy đàn cầm, thấy sau rèm thấp thoáng có bóng phụ nữ nghe trộm. Chợt có cơn gió thổi vẹt bức rèm, thấy là một thiếu nữ đang tuổi cập kê, dung nhan tuyệt thế. Đó là con gái Cát, tiểu tự là Lương Công, giỏi từ phú, nổi tiếng nhan sắc. Ôn động lòng, về thưa với mẹ nhờ người tới hỏi, nhưng Cát chê nhà Ôn nghèo khổ không chịu gả. Nhưng cô gái sau khi nghe tiếng đàn đã thầm hâm mộ, chỉ mong ước được nghe nữa. Song Ôn vì chuyện dạm hỏi không thành nên ý chán tình buồn không lui tới nhà họ Cát nữa. Một hôm cô gái ra vườn chơi, nhặt được một tờ giấy cũ, trên có bài từ theo điệu Tiếc xuân thừa như sau:</p><p></p><p><em>Nhân hận thành si, chuyển tư tác tưởng, nhật nhật vị tình điên đảo. </em></p><p><em>Hai đường đới túy, dương liễu thương xuân, đồng thị nhất ban hoài bão </em></p><p><em>Thậm đắc tân sầu cựu sầu, tiễn tận hoàn sinh, tiện như thanh thảo </em></p><p><em>Tự biệt ly, chỉ tại nại hà thiên lý, độ tương hôn hiểu. </em></p><p><em>Kim nhật cá túc tổn xuân sơn, vọng xuyên thu thủy, đạo khí dĩ phan khí liễu. </em></p><p><em>Phương khâm đố mộng, ngọc lậu kinh hồn, yếu thụy hà năng thụy hảo. </em></p><p><em>Mạn thuyết trường tiêu tự niên, nùng thị nhất niên, ty canh do thiểu. </em></p><p><em>Quá tam canh dĩ thị tam niên, cánh hữu hà nhân bất lão.</em></p><p>(Vì hận thành ngây, nhớ nhớ thương thương, ngày tháng vì tình bối rối. </p><p>Hải đường say ngủ, dương liễu đau xuân, ấy cũng một lòng tiếc nuối. </p><p>Đến nỗi sầu xưa sầu nay, cắt rồi lại sinh, cứ như cỏ bãi. </p><p>Từ chia ly, ở nơi không biết làm sao, bao phen sớm tối. </p><p>Hôm nay cau mặt non xuân, nhìn suốt nước thu, nói bỏ cũng liều để nói. </p><p>Chăn thơm ghét mộng, giọt lậu bay hồn, muốn ngủ làm sao ngủ nổi. </p><p>Nghe nói đêm dài như một nãm, ta thấy một năm, so một canh còn ngắn ngủi. </p><p>Qua canh ba là đã ba năm, thử hỏi ai người không mỏi)</p><p></p><p>Cô gái ngâm ngợi ba bốn lần, trong lòng thích lắm, đem về lấy giấy văn gấm chép một bản khác đặt ở bàn, nhưng lát sau tìm tới đã không thấy đâu nữa, nghĩ rằng gió thổi bay mất. Gặp lúc Cát đi ngang cửa phòng nhặt được, cho là Lương Công làm ra, rất ghét vì lời lẽ lẳng lơ bèn đốt đi nhưng chưa nỡ nói ra, định bụng sẽ gã chồng cho con sớm. Vừa lúc ấy có công tử con quan Phương bá họ Lưu ở huyện Lâm (tỉnh Sơn Đông) chongười tới dạm hỏi, Cát mừng rỡ, nhưng còn muốn gặp mặt công tử một lần. Công tử bèn ăn mặc sang trọng tới ra mắt, phong tư đẹp đẽ, Cát rất vui lòng, bày tiệc khoản đãi ân cần. Kế công tử chào về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Cát cho rằng tính nết đàng điếm, ghét lắm liền gọi người mai mối tới kể rõ. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng Cát không nghe, nhất quyết tuyệt hôn.</p><p></p><p>Trước đó họ Cát có loại hoa cúc xanh, giữ không cho ai nhân giống, Lương Công đem trồng trong phòng riêng. Vườn cúc nhà Ôn chợt nảy ra hai giò màu xanh, bạn bè nghe thấy đồn đại nhau kéo tới xem, Ôn cũng rất nâng niu quý báu. Sáng sớm ra xem nhặt được bên luống hoa một tờ giấy chép bài từ <em>Tiếc xuân thừa</em>, đọc đi đọc lại, không biết từ đâu tới, thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, càng thêm cảm xúc, đem vào bàn bình phẩm nọ kia, lòi lẽ bậy bạ. Lúc ấy Cát nghe nói cúc nhà họ ôn biến ra màu xanh ngạc nhiên tới xem, vào phòng sách nhìn thấy bài từ bèn cầm lên đọc. Ôn vì lời bình của mình sỗ sàng, vộỉ giằng lại vò nát. Cát chỉ kịp đọc được một hai câu, thì đúng là bài từ đã nhặt được trước phòng con gái, vô cùng nghi ngờ, lại cho rằng cả giống cúc xanh cũng là do Lương Công tặng. Về nhà nói với vợ, bảo căn vặn Lương Công, Lương Công khóc lóc đòi tự tử. Mà việc lại không có chứng cớ gì, không thể biết rõ hư thực, phu nhân sợ tai tiếng đồn ra bèn bàn chẳng bằng cứ gả con gái luôn cho Ôn. Cát cho là phải liền bán tin cho Ôn. Ôn mừng quá, hôm ấy lập tức mời bè bạn tới uống rượu ngắm cúc xanh, đốt trầm gảy đàn đến khuya mới tan.</p><p></p><p>Ôn vào phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng coi phòng sách nghe thấy tiếng đàn tự nhiên vang lên, lúc đầu còn tưởng bọn tôi tớ trong nhà nghịch ngợm, sau thấy không có ai mới vào thưa với Ôn. Ôn đích thân tới xem quả đúng, nghe tiếng đàn ngập ngừng như bắt chước mình mà chưa được, đánh lửa xộc vào thì không thấy ai. Ôn đem đàn đi, từ đó cả đêm yên ắng. Vì thế ngờ là hồ, nghĩ rằng nó muốn học đàn, nên cứ mỗi buổi tối gảy một khúc rồi để đàn lại đấy cho mặc ý tập, như là thầy dạy đàn vậy. Đêm đêm rình nghe, qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã đúng khúc điệu, nghe động lòng người. Ôn làm đám cưới xong, vợ chồng cùng kể lại chuyện bài từ mới biết đầu mối nhân duyên là đó, nhưng vẫn không rõ là từ đâu ra. Lương Công nghe chuyện lạ tiếng đàn tự nhiên kêu, tới nghe rồi nói “Đây không phải là hồ đâu. Âm điệu não nùng ai oán lắm, như là tiếng đàn ma". Ôn chưa tin lắm, Lương Công nhân đó nói nhà mình có chiếc gương cổ có thể soi thấy ma quỷ.</p><p></p><p>Hôm sau sai người về lấy, chờ tiếng đàn vang lên liền cầm gương sấn vào thắp đèn lên, quả có một cô gái đang run rẫy trong góc phòng không trốn núp được, nhìn kỹ thì chính là Hoạn Nương nhà họ Triệu. Ôn cả sợ gặng hỏi, nàng sa nước mắt đáp “Thiếp làm mai mối cho chàng, đâu phải không có ơn đức, sao nỡ bức báth nhau quá vậy?”. Ôn xin cất gương nhưng hẹn đừug biến đi, Hoạn Nương ưng thuận, Ôn bèn cất gương. Cô gái ngồi xa xa, nói “Thiếp là con gái quan Thái thú, chết đã trăm năm nay. Lúc còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh, đàn tranh thì đã tạm biết, còn đàn cầm thì chưa được chân truyền nên vẫn ấm ức chốn suối vàng. Khi chàng có lòng ghé lại nhà, được nghe âm điệu cao nhã đã rất hâm mộ. Chỉ hờn mình khác loài không thể theo sửa túi nâng khăn, nên đã ngấm ngầm tìm cách giúp chàng cưới người giai ngẫu để đền đáp tình thương mến. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi, bài từ Tiếc xuân thừa bay tới, đều là do thiếp làm ra, tạ ơn thầy học như thế không phải không vất vả đâu”. Vợ chồng cảm động lạy tạ, Hoạn Nương nói "Ngón đàn của chàng thiếp đã hiểu được quá nửa, nhưng chưa thấu triệt chỗ tinh thần, xin gảy cho thiếp được nghe một lần nữa”.</p><p></p><p>Xuân theo lời, lại gảy đàn để chỉ rõ cách thức. Hoạn Nương cả mừng, nói "Thiếp đã hiểu cả rồi", rồi đứng lên từ biệt. Lương Công vốn giỏi đàn tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường môn này, xin gảy cho nghe một lần. Hoạn Nương không từ chối, tiếng đàn khúc nhạc đều không phải là người trần sánh kịp. Lương Công khen ngợi, xin dạy lại cho mình. Hoạn Nương lấy bút ghi lại bản đàn, gồm mười tám chương, rồi đứng lên từ biệt. Vợ chồng cố giữ lại, Hoạn Nương buồn bã nói “Chàng được sắt cầm hòa hiệp, vợ chồng mà cũng là tri âm, kẻ bạc phận làm sao có được phúc ấy? Nếu có duyên phận, thì kiếp sau sẽ được gặp nhau”. Rồi lấy ra một cuộn giấy đưa cho Ôn, nói “Đây là chân dung của thiếp, nếu không quên bà mối thì xin đem treo trong phòng ngủ, lúc nào vui vẻ cứ đốt một lò trầm, gảy một khúc đàn, thì là thiếp được hưởng vậy". Nói xong bước ra cửa biến mất.</p><p> </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 152 -</strong></p><p>A Tú (A Tú)</p><p></p><p>Lưu Tử Cố ở huyện Hải Châu (tỉnh Giang Tô), lúc mười lăm tuổi tới đất Cái thăm cậu, gặp một cô gái trong chợ bán tạp hóa, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, bước vào vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi cha, người cha ra, Lưu cụt hứng, cố tình trả giá rẻ rồi bỏ đi. Đứng xa thấy người cha đi nơi khác, liền quay lại, cô gái định tìm gọi cha, Lưu ngăn lại, nói "Không cần, cứ nói giá, ta không trả rẻ đâu”. Cô gái theo lời, cố ý nói giá thật cao, Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại tới, lại như hôm trước, đi được vài bước, cô gái gọi theo "Trở lại đã! Vừa rồi ta nói dối thôi, giá ấy quá đắt”. Rồi trả lại nửa tiền, Lưu càng mến là thành thật, cứ rảnh là tìm tới, vì thế ngày càng quen thuộc. Cô gái hỏi chàng ở đâu, Lưu nói thật, hỏi lại thì cô gái tự nói họ Diêu. Lúc ra về, nàng lấy giấy gói những vật Lưu mua lại cẩn thận, rồi liếm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động tới, sợ mất vết lưỡi của nàng.</p><p>Được nửa tháng, người đầy tớ rình biết, ngầm bàn với cậu bắt phải về. Lưu buồn bực không vui, đem các thứ khăn hương phấn sáp đã mua giấu vào một cái tráp, lúc vắng người lại đóng cửa kiểm lại một lượt, giở tới là ngẩn ngơ. Năm sau lại tới đất Cái, vừa buông hành lý xuống là tìm ngay tới chỗ cô gái, tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt. Thất vọng trở về, cứ nghĩ rằng nàng đi vắng chưa về. Sáng sớm hôm sau lại tới thì cửa vẫn đóng như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết họ Diêu vốn là người huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Đông), vì buôn bán không lời lãi bao nhiêu nên tạm về quê, cũng không biết lúc nào sẽ trở lại. Lưu buồn rầu, ở lại vài ngày rồi chán nản ra về. Bàn tới chuyện lấy vợ thì mấy lần đều không chịu nghe lời mẹ, mẹ vừa tức giận vừa kỳ quái, người đầy tớ liền lén kể chuyện năm trước cho mẹ biết, mẹ càng ráo riết ngăn cấm, không cho lui tới đất Cái nữa.</p><p></p><p>Lưu chợt trở nên rầu rĩ, giảm ăn bỏ học, mẹ lo lắng không biết làm sao, nghĩ thôi chẳng bằng theo ý con, liền lập tức sắm sửa hành trang cho Lưu tới đất Cái, lại dặn nhắn với cậu nhờ làm mối giùm. Cậu theo lời, qua nhà họ Diêu, lát sau trở về nói “Việc không xong rồi. A Tú đã gả cho một người ở Quảng Ninh!". Lưu cúi đầu thẫn thờ, lòng như tro lạnh, hết cả hy vọng. Về nhà rồi, cứ ôm cái tráp rơi lệ, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong trên đời có người giống như thế. Lúc ấy có người mối tới, khen con gái họ Hoàng ở huyện Phục Châu (tỉnh Liêu Ninh) tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, sai đánh xe tới đất Phục. Vào cửa tây huyện thành, thấy phía bắc có một gian nhà, hai cánh cổng khép hờ, có một cô gái rất giống A Tú. Lại chú mục nhìn theo, thấy cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại mà vào, đích thị không sai. Lưu rất ngờ vực, bèn thuê nhà ở liền bên đông, hỏi dò thì đó là nhà họ Lý, nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ trên đời lại có người giống nhau đến thế sao?</p><p></p><p>Ở đó mấy hôm, không nhờ ai được, chỉ ngày ngày trông ngóng ngoài cổng, chờ dịp cô gái đi ra. Một hôm, mặt trời vừa xế, cô gái quả ra, chợt thấy Lưu, liền quay vào đóng cửa, lấy tay chỉ ra phía sau, để bàn tay lên ngang trán rồi vào. Lưu rất mừng nhưng không hiểu ý, ngẫm nghĩ hồi lâu, rảo bước ra sau nhà, thấy vườn hoang vắng vẻ, phía tây có một bức tường thấp khoảng ngang vai, chợt hiểu ra liền ngồi xuống núp trong đám cỏ sương. Hồi lâu có người sau tường thò đầu ra hỏi khẽ “Tới chưa?", Lưu lên tiếng rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì đúng là A Tú, bật khóc lớn, nước mắt chảy ròng ròng. Cô gái cách tường đưa tay vuốt ve Lưu, lấy khăn lau nước mắt cho, ân cần an ủi. Lưu nói "Tìm đủ cách mà không được gặp, tự nghĩ kiếp này thế là thôi, ngờ đâu lại có đêm nay, nhưng nàng vì sao lại tới đây?”, cô gái đáp "Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp”. Lưu xin leo qua tường, cô gái nói "Chàng cứ về trước, bảo người hầu đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự tới”. Lưu theo lời ngồi đợi, giây lát cô gái lặng lẽ bước vào, ãn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước.</p><p></p><p>Lưu kéo ngồi xuống, kể lễ nỗi khổ, rồi hỏi “Nghe nói nàng đã nhận sính lễ của người ta, sao chưa cưới?". Cô gái đáp “Nói thiếp đã nhận sính lễ là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi, không muốn gả thiếp cho công tử, có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng hết mong tưởng mà thôi". Rồi đó cùng lên giường ngủ, thương yêu đằm thắm không sao nói xiết. Đến canh tư, nàng trở dậy trèo qua tường mà về. Lưu từ đó quên cả ý định tới nhà họ Hoàng, trọ lại luôn nửa tháng, tuyệt nhiên không nói tới việc trở về. Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong phòng còn sáng đèn, nhìn vào thấy A Tú sợ lắm nhưng không dám hỏi chủ, chỉ ra chợ hỏi thăm, rồi mới về hỏi Lưu “Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai thế?”.</p><p></p><p>Lưu ban đầu còn giấu diếm, người đầy tớ nói “Nhà này vắng vẻ, là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái nhà họ Diêu kia làm gì mà tới đây?". Lưu mới ngượng nghịu đáp “Nhà hàng xóm phía tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngừ vực". Người đầy tớ nói "Ta đã hỏi kỹ rồi, nhà bên đông chỉ có một bà già cô đơn, nhà bên tây chỉ có một người con trai còn nhỏ, chẳng ai có họ hàng thân thích. Người công tử gặp kia ắt là ma quỷ, không thì lẽ nào cái áo mấy năm vẫn không thay, vả lại da mặt quá trắng, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền, không đẹp bằng A Tú”. Lưu nghĩ lại phát hoảng, nói “Vậy thì làm sao?”. Người đầy tớ bàn đợi cô gái đến, cầm binh khí xông vào đánh. Tối cô gái tới, nói với Lưu rằng "Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn duyên phận với nhau thôi". Chưa dứt lời thì người đầy tớ đạp cửa xông vào, cô gái quát "Bỏ ngay binh khí xuống, mang rượu ra đây mau, để ta từ biệt chủ nhân". Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị cướp mất. Lưu càng sợ, gượng gạo ngồi tiếp rượu, còn cô gái vẫn cười nói như thường, nói với Lưu rằng "Biết tâm sự chàng, vẫn định tìm cách giúp cho chút ít, vất vả đề phòng nhau làm gì? Thiếp tuy không phải A Tú, nhưng cũng thấy mình không kém, chàng nhìn kỹ xem có phải không nào?".</p><p></p><p>Lưu toàn thân nổi gai ốc, ú ớ không đáp đươc. Cô gái thấy đã sang canh ba, cầm chén rượu uống một hớp rồi đứng lên nói "Ta cứ đi đã, đợi sau đêm động phòng hoa chúc sẽ lại tới so sánh với mỹ nhân nhà chàng xem ai hơn kém”, kế quay người biến mất. Lưu tin lời hồ, lại sang đất Cái, giận cậu lừa mình nên không tới ở nhà cậu mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ người qua làm mối, đút cho nhiều tiền. Vợ Diêu nói "Chú nó định gả chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên cha nó tới đó, việc thành hay không chưa thể biết, phải đợi ông ấy về mới bàn được". Lưu nghe nói bàng hoàng không biết làm sao, chỉ còn cách cố đợi. Qua hơn mười ngày, chợt nghe có loạn, ban đầu còn ngờ là đồn nhảm, ít lâu sau tin càng gấp, bèn thu xếp ra đi. Giữa đường gặp giặc, chủ tớ lạc nhau, Lưu bị đội tiền tiêu bắt. Thấy Lưu là học trò yếu đuối nên chúng canh phòng lơ là, Lưu liền trộm ngựa trốn đi.</p><p></p><p>Tới ranh giới Hải Châu, thấy một cô gái đầu tóc rối bù mặt mũi nhem nhuốc, bước cao bước thấp khập khiễng trên đường. Lưu dong ngựa vượt qua, cô gái gọi "Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu không?". Lưu kìm ngựa nhìn kỹ thì ra là A Tú, trong lòng còn ngại là hồ, bèn hỏi "Nàng đúng là A Tú chứ?”. Cô gái hỏi tại sao lại nói thế, Lưu kể lại chuyện mình đã gặp. Cô gái nói “Thiếp là A Tú thật đây, không phải là kẻ mạo danh đâu. Cha dắt thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi nhưng ngã lên ngã xuống. Chợt có một cô gái nắm cổ tay thiếp kéo đi, quanh co giữa đám quân cũng không có ai hỏi. Nàng đi nhanh như bay, thiếp kiệt sức vẫn không theo kịp, được trăm bước đã tụt lại sau mấy lần. Hồi lâu nghe tiếng người ngựa xa dần, nàng mới buông tay thiếp ra nói "Xin chào, đường phía trước đều yên ổn, cứ thong thả mà đi, người yêu của nàng sẽ tới, nên theo chàng cùng về". Lưu biết đó là hồ, rất cảm kích, nhân kể rõ vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói chú định gả nàng cho họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá. Bèn đỡ nàng lên ngựa cùng về, tới cổng nghe nói mẹ già vẫn khoẻ mạnh, cả mừng buộc ngựa vào nhà, kể lại mọi chuyện.</p><p></p><p>Mẹ cũng mừng, bèn sửa soạn cho cô gái tắm gội, nàng trang điểm xong lên ra mắt, dung quang lộng lẫy, mẹ càng vui vẻ nói “Chẳng trách thằng nhỏ ngây kia nằm mơ cũng không quên". Bèn sắp xếp chăn nệm cho nàng ngủ cùng phòng với mình, rồi sai người tới đất Cái báo tin cho họ Diêu. Không bao lâu vợ chồng họ Diêu cùng tới, chọn ngày lành làm lễ cưới cho con gái rồi về. Cái tráp Lưu cất giữ còn nguyên dấu niêm phong, nhưng có hộp phấn mở ra thì toàn là đất đỏ. Lưu lấy làm lạ, cô gái che miệng cười nói "Vụ lừa gạt mấy nãm trước nay bị lộ rồi. Lúc ấy thấy chàng để mặc thiếp gói hàng, không xem lại thật giả, nên làm thế để đùa giỡn thôi”. Đang lúc cười đùa, chợt một người vén rèm bước vào nói "Vui vẻ như thế thì phải tạ ơn bà mối chứ!”. Lưu nhìn thì lại là một A Tú nữa. Vội vàng gọi mẹ, mẹ và người nhà đổ tới mà không ai phân biệt được. Lưu vừa ngoảnh đi cũng lẫn luôn, chăm chú nhìn hồi lâu mới nhận ra, chắp tay vái tạ. Cô gái cầm gương tự soi rồi thẹn thùng rảo bước ra, tìm theo thì đã biến mất.</p><p></p><p>Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong phòng. Một đêm Lưu say rượu về phòng thấy tối tăm không có ai, đang thắp đèn thì A Tú tới. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, nàng cười nói “Hơi rượu sặc sụa chẳng ai chịu được mà còn tra hỏi này nọ. Đã ai đi ngoại tình đâu chứ!". Lưu cười ôm má nàng, cô gái hỏi "Chàng trông thiếp với chị hồ ai đẹp hon?”. Lưu nói "Nàng đẹp hơn, nhưng chỉ biết xem bề ngoài thì không phân biệt được". Kế khép cửa phòng ôm nhau đùa giỡn, lát sau có tiếng gõ cửa, cô gái đứng dậy cười nói “Chàng cũng chỉ là kẻ biết xem bề ngoài mà thôi". Lưu không hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất ngạc nhiên, mới biết người cùng chuyện trò vừa rồi là hồ. Trong bóng tối lại nghe thấy tiếng cười, hai vợ chồng ngẩng lên không khấn khứa, xin nàng hiện hình. Hồ nói "Ta không muốn gặp A Tú”. Hỏi sao không hóa ra dung mạo khác, hồ đáp "Ta không làm được". Hỏi sao không làm được, hồ đáp "A Tú là em gái ta, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng ta theo mẹ lên thiên cung ra mắt Tây Vương Mẫu, lấy làm hâm mộ, lúc về cố gắng bắt chước. Em ta thông tuệ hơn, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, ta bắt chước tới ba năm mới giống mà vẫn không bằng. Nay đã qua kiếp khác, tụ nghĩ đã hơn, không ngờ vẫn như xưa. Ta cam lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ tới thăm, bây giờ thì đi đây", rồi không nghe tiếng nói nữa.</p><p></p><p>Từ đó cứ năm ba ngày lại tới một lần, trong nhà có việc gì khó khãn trở ngại đều quyết cho cả. Khi A Tú về thăm cha mẹ thì tới ở luôn vài ngày không đi, tôi tớ đều sợ hãi lánh mặt. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc đẹp đẽ, cài chiếc trâm đồi mồi dài mấy tấc, gọi tôi tớ lên nghiêm giọng bảo ai lấy trộm vật ấy đêm nay phải đem tới để vào chỗ ấy chỗ ấy, nếu không sẽ bị đau buốt óc thì đừng trách không nói trước, sáng ra quả lấy lại được đúng chỗ nàng đã nói. Ba năm sau không thấy tới nữa, nhưng nếu trong nhà có mất tiền lụa, A Tú bắt chước ăn mặc như nàng để dọa tôi tớ cũng thường lấy lại được.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 153 -</strong></p><p>Tiểu Thúy</p><p>(Tiểu Thúy)</p><p></p><p>Thái thường họ Vương người đất Việt (Chiết Giang), lúc còn là trẻ con có lần nằm ngủ ban ngày trên giường, bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, có con vật to hơn con mèo tới nằm nép bên cạnh, quanh quẩn không rời. Hồi lâu trời tạnh, con vật bỏ đi, nhìn lại thì không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở phòng bên. Anh nghe kể, mừng nói “Em ắt sẽ quý hiển to, đó là hồ tới núp trốn sấm sét đấy". Sau quả Vương tuổi trẻ đã thi đỗ Tiến sĩ, rồi từ chức Tri huyện về kinh làm Thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong rất ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết phân biệt con cái với con đực, quanh vùng vì vậy không ai chịu gả con gái cho, Vương rất lo lắng. Chợt có người đàn bà dắt một cô gái tới nhà xin gả cho Nguyên Phong. Nhìn tới cô gái, thấy nhoẻn miệng tươi cười, xinh đẹp như tiên. Vương mừng rỡ hỏi họ tên, người đàn bà tự nói họ Ngu, con gái tên Tiểu Thúy, vừa mười sáu tuổi. Bàn tới sính lễ, bà ta nói “Trước nay nó ở với ta rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân vào chốn nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa ý mà ta cũng được thỏa lòng, có phải bán rau đâu mà nói giá!". Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu.</p><p></p><p>Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn "Đây là cha chồng, mẹ chồng của ngươi, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại". Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về, bà ta nói làng xóm không xa, không dám làm phiền rồi ra cửa đi. Tiểu Thúy cũng không hề buồn nhớ, lập tức trút đồ trang sức trong rương ra khoe, phu nhân cũng thấy thích. Mấy hôm sau không thấy người đàn bà tới, hỏi quê quán thì nàng cũng ngẩn ngơ không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt một khu nhà riêng cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe Vương cưới bừa con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười, nhưng lúc nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc, từ đó mới thôi dè bỉu. Cô gái lại rất thông minh, biết dò ý tứ mừng giận của cha mẹ chồng. Vợ chồng Vương quý dâu quá thói thường, lại áy náy chỉ sợ cô gái chê con mình ngây, song nàng vẫn vui vẻ không hề bận tâm. ở nhà rất hay đùa giỡn, lấy vải khâu thành quả cầu đá chơi, mang đôi hài da nhỏ đá ra xa vài mươi bước cho công tử chạy theo nhặt, công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi gọi nhau.</p><p></p><p>Một hôm Vương tình cờ đi qua, quả cầu bay tới trúng bốp giữa mặt, cô gái và thị tỳ đều chạy trốn còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận lấy đá ném, công tử mới lăn ra đất gào khóc. Vương kể với vợ, phu nhân qua mắng cô gái, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười, lấy tay xoa mép giường, phu nhân về rồi lại đùa nghịch như cũ. Có lần lấy son phấn vẽ mặt công tử vằn vện như quỷ, phu nhân nhìn thấy giận lắm, gọi nàng tới nhiếc móc, nàng chỉ dựa vào bàn mân mê giải lưng, không sợ hãi cũng không nói gì. Phu nhân không biết làm sao, bèn lấy gậy đánh con trai. Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc quỳ xuống xin tha. Phu nhân nguôi giận ngay, vứt gậy bỏ về. Cô gái cười kéo công tử vào nhà, phủi bụi trên quần áo cho, lau nước mắt, xoa những chỗ bị đánh, lấy táo và hạt dẻ cho ăn, công tử lại nín khóc vui ngay. Cô gái đóng cửa, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương<strong>*</strong>, làm người ngoài sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, đóng vai Ngu mỹ nhân, rồi lả lướt múa may dưới màn. Hoặc cắm lông đuôi chim trĩ lên tóc, gảy đàn tỳ bà, bập bùng tình tang, cười đùa ầm ĩ cả nhà, ngày nào cũng thế.</p><p></p><p>*Bá Vương: tức Tây Sở Bá vương Hạng Vũ thời Hán Sở tranh hùng, có người thiếp là Ngu mỹ nhân, tức Ngu Cơ.</p><p></p><p>Vương vì con mình ngây không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua. Cùng ngõ có nhà quan Cấp gián họ Vương, cách hơn mười căn, nhưng vốn không đi lại với nhau. Gặp lúc triều đình theo lệ ba năm xét công quan lại, Cấp gián ghét ông giữ ấn đạo Hà Nam, rắp tâm hãm hại. Ông biết ý, lo lắm mà không biết làm sao. Một đêm ông đi nằm sớm, cô gái đội mũ đeo đai như Tể tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại bắt hai tỳ nữ cải trang như quan hầu, lén lấy ngựa trong tàu ra cưỡi đi, nói đùa rằng tới thăm Vương tiên sinh. Tới cổng nhà Cấp gián lại lấy roi đánh người hầu, nói "Ta tới thăm Thị ngự họ Vương chứ có tới thăm Cấp gián họ Vương đâu, rồi dong ngựa trở về. Tới nhà, người gác cổng tưởng thật chạy vào báo, ông vùng dậy ra nghênh tiếp mới biết là con dâu đùa, giận lắm nói với phu nhân "Người ta đang tìm chuyện bới móc mình, mà mình lại tự đem cái xấu trong phòng khuê tới tận cổng nhà người ta báo thì tai họa không xa đâu!". Phu nhân giận, qua ngay phòng cô gái mắng nhiếc, nàng chỉ ngu ngơ cười không cãi lại một câu, đánh thì không nỡ mà đuổi thì nàng không cửa không nhà, vợ chồng buồn bực cả đêm không ngủ.</p><p></p><p>Lúc ấy ông Mỗ làm Tể tướng, uy thế lừng lẫy, nghi vệ phong thái xiêm áo quan hầu không khác gì với những cái cô gái giả trang. Cấp gián họ Vương cũng lầm tưởng là thật, mấy lần sai người tới rình ở cổng nhà Vương, đến nửa đêm vẫn chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể tướng với Vương có mưu ngầm. Hôm sau vào chầu sớm gặp nhau bèn hỏi “Đêm qua tuớng công đến nhà ông à?". Vương ngờ là y nói mỉa, ngượng ngùng dạ dạ không trả lời. Cấp gián càng nghi hoặc, bèn bỏ ý trước, từ đó lại cố lấy lòng ông. Ông dò biết sự tình, mừng thầm nhưng ngầm dặn phu nhân khuyên cô gái đừng làm những việc như thế nữa, nàng cười vâng dạ. Qua năm sau, Tể tướng bị bãi chức, kế có thư riêng gởi ông, lại đưa lầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián cả mừng, trước tiên nhờ người quen ông tới hỏi mượn một vạn lượng vàng, ông từ chối. Cấp gián đích thân tới, ông tìm khăn áo mãi mà không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận ông xấc xược, tức tối toan ra về. Bỗng thấy công tử mặc áo cổn đội mũ miện bị một cô gái từ trong cửa xô ra, giật mình hoảng sợ rồi cười, vỗ về công tử, lột lấy áo cổn mũ miện mang đi.</p><p></p><p>Ông vội ra thì khách đã về rồi, nghe chuyện sợ tái mặt, khóc lớn nói "Đây là cái họa nàng dâu đây, không mấy ngày sẽ chết cả họ thôi!". Liền cùng phu nhân vác gậy chạy qua. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa mặc cho chửi mắng. Ông giận, lấy búa phá cửa, cô gái trong phòng cười nụ nói "Cha đừng giận. Có con ở đây, bao nhiêu đao kiếm búa rìu con cũng xin chịu, quyết không để lụy cho cha mẹ. Cha muốn giết dâu để bịt miệng nhân chúng à?", ông bèn thôi. Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, dâng mũ miện áo cổn làm bằng chứng. Hoàng thượng giật mình, xét nghiệm lại thì ra mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, áo cổn khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng, giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thấy dáng vẻ ngây ngô lộ rõ, phì cười nói “Thế này mà cũng làm vua được à?", bèn giao cho Pháp ty xét. Cấp gián lại kiện nhà ông có yêu quái, Pháp ty tra hỏi cả những con cái của tôi tớ trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và đứa con ngây, suốt ngày cười đùa. Láng giềng cũng không khai gì khác, án mới định, Cấp gián bị sung làm lính ở Vân Nam.</p><p></p><p>Vương từ đó cho cô gái là người lạ, lại vì mẹ nàng lâu không thấy tới, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân hỏi dò, nàng chỉ cười không đáp, gặng mãi thì che miệng đáp “Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết sao?”. Không bao lâu, ông được thăng làm quan khanh, đã hơn năm mươi tuổi nên thường lo không có cháu nội. Cô gái ở đó ba năm mà đêm đêm vẫn không ngủ chung với công tử như chưa từng chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng giường đi, dặn công tử ngủ chung với vợ. Được vài hôm, công tử nói với mẹ “Mượn giường của con sao lâu không trả? Tiểu Thúy cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở không được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!”. Đám tớ gái đều phì cười, phu nhân quát, đánh đuổi đi. Một hôm cô gái tắm trong phòng, công tử nhìn thấy đòi tắm chung, nàng cười ngăn lại, bảo chờ một lúc. Tắm xong sai thay nước nóng, cởi hết quần áo cho, gọi thị tỳ cùng đỡ công tử vào thùng tắm. Công tử thấy ngột ngạt khó chịu kêu to đòi ra, cô gái không cho, lấy chăn trùm kín lên. Giây lát không nghe kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở.</p><p></p><p>Nàng vẫn thản nhiên cười nói không sợ hãi gì, kéo công tử ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho. Phu nhân nghe tin, khóc lóc đi vào mắng "Con điên kia, sao lại giết con ta?". Cô gái tươi cười đáp "Con ngây như thế thì thà không có". Phu nhân càng giận, lao vào húc nàng, bọn tỳ nữ xô vào kéo ra khuyên can. Đang giằng co ồn ào thì một tỳ nữ nói “Công tử rên được rồi”, phu nhân gạt lệ tới vỗ về con, thấy hơi thở nhè nhẹ mà mồ hôi như tắm, ướt cả chăn chiếu. Khoảng xong bữa cơm thì mồ hôi không chảy nữa, chợt mở mắt nhìn quanh, ngó khắp gia nhân như không biết ai cả, nói “Bây giờ ta nhớ lại những việc trước đây thấy cứ như nằm mơ, sao thế nhỉ?". Phu nhân thấy lời nói không hề ngây ngô vô cùng lạ lùng, dắt qua chào cha. Hỏi thử mấy lần, quả không còn ngây, mừng rỡ như bắt được của báu, bèn sai khiêng trả giường về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.</p><p>Công tử vào phòng, đuổi hết thị tỳ đi, sáng nhìn tới thì giường vẫn bỏ không. Từ đó không ngây không điên nữa, mà sắt cầm hòa hợp quấn quít như hình với bóng. Được hơn năm, ông lại bị bè đảng Cấp gián hặc tội đòi cách chức, chuyện cũng hơi lôi thôi. Ông có cái bình ngọc quý của quan Trung thừa<strong>*</strong> Quảng Tây trước đây tặng cho, giá đáng ngàn vàng, định đem đút lót quan trên. Cô gái thích cầm lên ngắm, lỡ tay làm rơi vỡ nát, xấu hổ tới tự nhận lỗi. Vợ chồng ông đang buồn về việc bị cách chức, nghe thế tức giận, cùng nhiếc mắng thậm tệ. Nàng uất ức bỏ ra, nói với công tử "Ta ở nhà anh, những cái giữ gìn được không phải chỉ là một cái bình, sao không giữ gìn thể diện cho nhau một chút? Nói thật với ông ta không phải là người, vì mẹ ta gặp nạn sấm sét, được đội ơn cha che chở, lại vì hai ta có năm năm duyên phận nên ta tới đây để đền ơn xưa và trọn duyên trước thôi. Ta bị mắng chửi đã nhiều, nhổ tóc mà tính cũng không đủ, sở dĩ không đi ngay là vì cái tình năm năm chưa hết, giờ đây thì còn làm sao nấn ná được nữa”. Rồi giận dữ bước ra, đuổi theo thì đã biến mất.</p><p></p><p>*Trung thừa: tức Tuần phủ đứng đầu một tỉnh theo quan chế thời Thanh.</p><p></p><p>Ông ngẩn người biết mình lỡ lời nhưng hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào phòng, nhìn phấn thừa thoa cũ, khóc rống đòi chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng tiều tụy. Ông lo lắm, vội lo cưới vợ khác cho con khuây khỏa, nhưng công tử không thích, chỉ tìm thợ giỏi vẽ tranh Tiểu Thúy, ngày đêm thắp hương rưới rượu khấn vái. Gần hai năm sau, công tử tình cờ có việc đi nơi khác trở về, trăng sáng vằng vặc, ngoài thôn có một khu vườn cảnh của nhà, vừa cưỡi ngựa đi qua bỗng nghe bên trong tường có tiếng cười liền dừng cương, sai mã phu nắm hàm thiếc rồi đứng lên yên nhìn vào, thì ra có hai nữ lang đang chơi đùa ở trong. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không nhìn thấy rõ, chỉ nghe một nàng áo xanh nói "Con nhãi này đáng bị đuổi ra khỏi cổng!", một nàng áo đỏ nói “Ngươi đang trong vườn nhà ta, lại còn đòi đuổi ai?”. Nàng áo xanh nói "Con nhãi thật không biết thẹn, làm vợ không nên thân, bị người ta đuổi đi, còn dám nhận bừa sản nghiệp của người ta à?”. Nàng áo đỏ nói "Còn hơn con nhãi già không ai thèm ngó tới!". Công tử nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thúy, vội gọi lớn. Nàng áo xanh bỏ đi, nói "Ta không cãi vã với ngươi nữa, ông chồng ngươi tới rồi kìa". Kế nàng áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thúy, công tử mừng lắm.</p><p>Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói “Hai năm không gặp mà chỉ còn có một nắm xương thôi!”. Công tử cầm tay rơi nước mắt, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói “Thiếp cũng biết thế, nhưng chẳng còn mặt mũi nào quay lại nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, tình cờ lại gặp nhau, mới biết duyên số không thể trốn được”. Công tử nài cùng về, nàng không chịu, xin cứ ở lại trong vườn thì nàng bằng lòng, bèn sai đầy tớ chạy về bẩm với phu nhân. Phu nhân giật mình đứng lên sai thắng kiệu tới ngay, mở khóa vào đình. Cô gái rảo bước ra đón, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm cánh tay nàng sa nước mắt nhận hết lỗi trước, như không tha thứ được cho mình, nói "Nếu con không chấp chuyện cũ thì xin cùng về cho mẹ vui tuổi già”, nàng cương quyết nói không được. Phu nhân lo đình tạ hoang vắng, định cho nhiều người ra hầu hạ. Cô gái nói “Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ cũ theo hầu sớm tối, không thể không thương mến. Ngoài ra chỉ xin một lão bộc gác cổng, chứ không cần gì khác!”. Phu nhân đều theo lời, lại nói thác rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, hàng ngày sai mang thức ăn vật dùng ra mà thôi.</p><p>Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe, hơn một năm sau thì nét mặt giọng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức tranh ra so thấy khác hẳn như là hai người, vô cùng lạ lùng. Nàng hỏi “Trông thiếp bây giờ có đẹp như trước không?”. Công tử đáp “Bây giờ đẹp thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng”. Nàng nói "Chắc thiếp già rồi". Công tử nói "Người hơn hai mươi tuổi, làm gì mà già mau thế?”. Nàng cười đốt bức tranh, giật lại thì đã cháy hết. Một hôm nàng nói với công tử “Lúc trước còn ở nhà, cha thiếp vẫn nói thiếp đến chết cũng không mang thai được. Nay cha mẹ đã già, chàng có một mình, thiếp thật không sinh nở được, sợ lỡ việc nối dõi của chàng. Xin cưới vợ về nhà để sớm tối hầu hạ cha mẹ, còn chàng qua lại hai nơi, cũng không có gì không tiện. Công tử cho là đúng, liền dạm hỏi con gái Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, cô gái đích thân may áo khâu giày cho cô dâu, sai đưa về chỗ phu nhân. Ngày cưới, cô dâu vào nhà thì giọng nói nét mặt, dáng điệu cử chỉ đều giống hệt Tiểu Thúy, công tử rất lấy làm lạ. Trở lại khu vườn thì không thấy nàng đâu, hỏi hai tỳ nữ, họ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói "Nương tử tạm về thăm nhà, để lại vật này cho công tử”. Mở khăn xem, thấy có buộc cái vòng quyết bằng ngọc, biết nàng không trở lại nữa, bèn đưa hai tỳ nữ cùng về, tuy trong phút chốc không quên được Tiểu Thúy nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như nhìn thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cô gái đã biết trước duyên phận giữa công tử với cô gái họ Chung nên thay đổi nét mặt của nàng trước để khuây nỗi nhớ cho chàng ngày sau.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Một con hồ chỉ chịu cái ơn lúc vô tâm mà còn lo báo đáp, thế mà kẻ kia đuợc hưỡng ơn tái tạo lại la thét khản tiếng vì bị vỡ cái bình, sao mà bỏn sẻn đến thế! Còn trăng khuyết lại tròn, thung dung ra đi, mới biết cái tình của người tiên cũng sâu hơn thế tục nhiều.</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 154 -</strong></p><p>Tế Liễu</p><p>(Tế Liễu)</p><p></p><p>Tế Liễu là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc, không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói "Giả như trên đời không có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?". Nàng thưa "Thật tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công, cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ". Lúc ấy có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ. Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi<strong>*</strong>.</p><p> </p><p>*Trường Hỗ... mà thôi: trường hỗ (nương tựa 1âu dài) đây 1ấy ý câu trong kinh Thi Tiểu nhã, Lục nga "Vô phụ hà hỗ” (Không có cha thì nương tựa vào ai). Đây Tế Liễu biết truớc chồng sẽ chết sớm nên đặt tên con như vậy để tỏ ý mong chồng sống lâu.</p><p></p><p>Cô gái về việc nữ công rất vụng về, cũng ít khi để ý tới, nhưng ruộng nương ở đâu, thuế má bao nhiêu thì cứ theo sổ sách mà hỏi, chỉ sợ là không biết rõ. Ít lâu nói với sinh rằng "Việc trong nhà xin chàng đừng nhìn tới nữa, để thiếp lo cho, xem có coi sóc nổi việc nhà không?". Sinh theo lời, được nửa năm thì trong nhà không có việc gì bê trễ, cũng cho vợ là giỏi. Một hôm sinh đi uống rượu ở xóm bên, có kẻ đi thúc thuế thiếu đập cửa hỏi, nàng sai đầy tớ ra nài nỉ xin khất nhưng y không chịu, phải sai trẻ đi gọỉ sinh về. Người thúc thuế đi rồi, Sinh cười nói "Tế Liễu nay đã biết đàn bà khôn không bằng đàn ông ngu chưa?". Cô gái nghe thế cúi đầu bật khóc, sinh hoảng sợ vội tìm lời an ủi nhưng rốt lại nàng vẫn không vui. Sinh không nỡ để nàng phải khó nhọc vì việc nhà, muốn tự mình cáng đáng như cũ nhưng nàng không chịu. Từ đó nàng thức khuya dậy sớm chăm chỉ lo toan, cứ cuối năm là lo sẵn tiền thuế của năm sau, nhờ vậy cả năm ít khi thấy nha lại tới nhà đòi thuế thiếu.</p><p></p><p>Về tiền bạc chi tiêu trong nhà nàng cũng làm theo cách ấy, nhờ vậy chi dùng có chừng mục mà của cải ngày thêm nhiều. Sinh vì thế càng yêu mến, có lần nói đùa với nàng rằng "Tế Liễu mới nhỏ sao? Nét mày nhỏ, eo lưng nhỏ, bàn chân nhỏ, lại mến tâm tư càng tinh tế", nàng đối lại rằng "Cao lang thật cao vậy! Nhân phẩm cao, chí khí cao, văn chương cao, chỉ mong tuổi thọ lại càng cao"<strong>*</strong>. Trong làng có người bán chiếc quan tài bằng gỗ tốt, nàng không tiếc mang món tiền lớn tới hỏi mua, nhưng giá cao quá không đủ tiền, lại tìm đủ cách vay muợn thân thích láng giềng mua bằng được. Sinh cho rằng đó không phải vật cần gấp, cố ngăn cản nhưng nàng không nghe. Mua về hơn năm thì trong làng có người chết, người nhà mang tiền tới xin mua lại với giá gấp đôi, sinh thấy có lãi bèn bàn bán đi, nàng không chịu. Sinh hỏi nguyên cớ, nàng không đáp, lại hỏi nữa thì nàng rơm rớm nước mắt, sinh lấy làm lạ nhưng không nỡ làm nàng buồn, bèn thôi việc ấy.</p><p></p><p>* “Tế Liễu... càng cao”: đôi câu đối này nguyên văn là "Tế Liễu hà tế tai? Mi tế yêu tế lăng ba tế, thả hỉ tâm tư cánh tế, Cao lang thành cao hĩ! Phẩm cao chí cao văn tự cao, đãn nguyện thọ số vưu cao", có chỗ chơi chữ không dịch được vì chữ “tế” ở vế đầu vừa có nghĩa là nhỏ bé, vừa có nghĩa là tỉ mỉ, tinh tế.</p><p></p><p>Lại hơn một năm nữa, sinh vừa hai mươi lăm tuổi, nàng không cho đi xa, mà đi đâu về hơi muộn thì nàng sai đầy tớ nối nhau đi mời gọi về, bạn bè sinh vì vậy có người lấy đó để đùa cợt chế diễu. Một hôm sinh tới nhà bạn uống rượu, thấy trong người mỏi mệt nên ra về, giữa đường ngã ngựa chết. Lúc ấy mới đầu mùa hè, may mà quan tài vải liệm đã chuẩn bị đầy đủ cả, người làng mới bắt đầu khâm phục Tế Liễu. Phúc lên mười tuổi thì bắt đầu đi học, nhưng sau khi cha chết lại đâm ra biếng nhác không chịu đọc sách cứ trốn học đi chơi với đám trẻ chăn trâu. Nàng trách mắng cũng không chừa, kế đánh đòn mà vẫn bướng bỉnh chứng nào tật ấy như cũ. Nàng không biết làm sao, bèn gọi vào răn dạy, nói “Nếu ngươi không muốn học chữ thì làm sao ép được. Nhưng nhà ta nghèo, không ai được ngồi ăn không. Ngươi phải thay quần áo, theo bọn đầy tớ làm lụng, nếu không thì ta đánh đòn đừng trách". Rồi bắt mặc áo rách, sai đi chăn heo, về tới nhà thì phải xách nước nấu cơm, ăn uống như đám tôi tớ.</p><p></p><p>Được vài hôm Phúc thấy khổ quá, tới quỳ trước sân khóc lóc, xin lại đi học. Nàng quay mặt vào vách im lặng như không nghe thấy, Phúc bất đắc dĩ cầm roi khóc lóc đi ra. Đến cuối thu Phúc hết đường xoay xở, mình không áo, thân không giày, mưa lạnh thấu xương, đầu bù tóc rối như ăn mày. Người làng ai thấy cũng thương hại, những kẻ lấy vợ kế đều lấy việc Tế Liễu làm răn, chê bai dè bỉu đủ điều, nàng cũng nghe biết song vẫn thản nhiên không hề để ý. Phúc khổ quá chịu không nổi, bỏ heo trốn đi, nàng cũng mặc kệ không hỏi gì tới. Được vài tháng Phúc không có chỗ nào cho ăn, tiều tụy tự tìm về nhưng không dám vào nhà, năn nỉ người đàn bà láng giềng qua nói giúp với mẹ. Nàng nói “Nếu chịu nổi một trăm gậy thì vào đây gặp ta, còn nếu không thì cứ đi đi cho sớm”, Phúc nghe thế chạy mau vào nhà, khóc rống lên xin chịu đòn. Nàng hỏi "Nay ngươi đã hối lỗi rồi sao?”, Phúc thưa "Con hối lỗi rồi". Nàng nói “Đã biết hối lỗi rồi thì không cần đánh nữa, cứ về yên phận chăn heo, nếu tái phạm sẽ không tha". Phúc khóc lớn thưa "Xin mẹ cứ đánh một trăm gậy nhưng cho con được đi học lại". Nàng không nghe, người đàn bà láng giềng khuyên giải mãi mới ưng thuận. Bèn sai Phúc tắm rửa, cho mặc áo mớì, bắt đi học chung với em là Hỗ, từ đó ra sức học hành, khác hẳn ngày trước.</p><p></p><p>Được vài năm Phúc vào học ở trường tỉnh, có quan Tuần phủ là Dương công đọc thấy văn bài cho là có tài, hàng tháng cấp thêm tiền gạo giúp đỡ việc học. Hỗ thì rất ngu độn, đi học mấy năm vẫn không viết được tên họ. Mẹ bắt bỏ học về làm ruộng, nhưng Hỗ quen sung sướng ngại cực khổ. Mẹ giận nói “Bốn dân ai cũng phải làm việc, ngươi đã không thể học lại không muốn cày, há chẳng chết đói nơi ngòi rãnh à?”. Lập tức đánh cho một trận, từ đó bắt theo đám tôi tớ làm ruộng, sáng nào dậy muộn thì bị chửi mắng. Đồ mặc thức ăn có thứ đẹp cái ngon thì mẹ chọn dành cho anh, Hỗ không dám nói ra nhưng lòng vẫn tức tối. Hết mùa làm ruộng, mẹ xuất tiền đưa cho sai theo học buôn bán, Hỗ lại say mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền nướng sạch cả, rồi về đặt điều là gặp phải trộm cướp, đổ cho số phận để đánh lừa mẹ. Mẹ biết, đánh cho một trận gần chết, Phúc bò rạp xuống năn nỉ xin chịu đòn thay em, Tế Liễu mới nguôi giận.</p><p></p><p>Từ đó mỗi khi Hỗ ra khỏi nhà là mẹ sai người theo dõi gắt gao, nên dần dần cũng tiêu pha dè sẻn hơn, có điều chỉ là bất đắc dĩ chừ không phải thật lòng muốn như vậy. Một hôm xin mẹ cho theo bạn buôn tới huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) buôn bán, thật ra là mượn cớ đi xa để mặc sức chơi bời, nhưng trong lòng lo lắng chỉ sợ mẹ không chịu. Mẹ nghe nói thản nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, đưa ngay cho ba mươi lượng vàng vụn để làm vốn, rồi đưa thêm một đĩnh vàng lớn, nói "Đây là của ông nội ngươi dành dụm lúc làm quan để lại, không được tiêu mất, đưa ngươi dằn túi để phòng lúc cần kíp thôi. Vả lại ngươi mới học đi buôn, ta cũng chẳng dám mong lãi nhiều, chỉ cần không bị hụt vào ba mươi lượng vàng này là được rồi". Lúc Hỗ lên đường còn dặn đi dặn lại, Hỗ dạ dạ ra đi, vui vẻ đắc ý lắm.</p><p></p><p>Tới đất Lạc, Hỗ từ biệt hết các bạn buôn, tới ở nhà ca kỹ họ Lý, chỉ qua hơn mười đêm đã gần hết ba mươi lượng vàng. Nhưng nghĩ trong túi còn đỉnh vàng lớn nên đầu tiên chưa lo lắng gì, đến lúc chặt ra trả tiền mới biết chỉ là vàng giả, hoảng sợ tái cả mặt. Mụ chủ thấy thế buông lời châm chọc mai mỉa, Hỗ vô cùng lo lắng nhưng túi rỗng không biết xoay xở vào đâu, song nàng ca kỹ còn nghĩ tới tình nghĩa chưa trở mặt ngay. Giây lát có hai người mang dây sấn vào trói nghiến Hỗ, Hỗ hoảng sợ không biết vì sao, van vỉ hỏi thăm mới rõ rằng nàng ca kỹ đã ngầm lấy đĩnh vàng giả sai người đem báo quan. Tới công đường, quan không buồn nghe thưa bẩm gì cả, cứ sai cùm kẹp Hỗ chết đi sống lại mấy lần rồi hạ ngục. Hỗ không có tiền bạc gì nên bị bọn ngục tốt đối xử tàn tệ, phải xin cơm của các bạn tù ăn mới không chết đói.</p><p></p><p>Hôm Hỗ lên đường, mẹ nói với Phúc rằng “Nhớ là hai mươi ngày nữa ta sẽ sai ngươi tới đất Lạc, ta nhiều việc chỉ sợ quên mất!”. Phúc hỏi đi để làm gì thì nàng im lặng buồn rầu nên không dám hỏi nữa, lặng lẽ lui ra. Sau hai mươi ngày, Phúc tới hỏi, mẹ than "Em ngươi bê tha ngày nay cũng như ngươi bỏ học ngày trước vậy, ta mà không chịu tiếng xấu thì làm sao ngươi được như ngày nay? Mọi người đều nói rằng ta nhẫn tâm, nhưng việc nước mắt đẫm gối thì họ không biết đó thôi”. Rồi bật khóc, Phúc chĩ kính cẩn đứng im lặng, không dám hỏi han gì. Mẹ khóc xong mới nói "Em ngươi chưa bỏ thói xấu nên ta đưa vàng giả để nó phải chịu khốn khổ, nay chắc đã bị bắt rồi. Quan Tuần phủ đối xử với ngươi rất tốt, ngươi tới cầu khẩn thì nó có thể được thoát chết để sống mà hối lỗi”.</p><p></p><p>Phúc lập tức lên đường, tới đất Lạc thì em đã bị giam ba ngày rồi. Vội vào ngục tìm, thấy Hỗ mặt mũi nhọ nhem như quỷ, gặp anh rơi nước mắt không dám ngước nhìn, Phúc cũng khóc. Lúc ấy Phúc được quan Tuần phủ đối xử rất thân ái, xa gần đều biết tiếng, quan huyện Lạc Thành biết là anh Hỗ, vội tha Hỗ ra. Hỗ về tới nhà sợ mẹ giận, đi bằng đầu gối vào gặp. Mẹ ngoảnh lại hỏi “Ngươi thỏa nguyện rồi chứ?”. Hỗ rơi nước mắt không dám lên tiếng. Phúc cũng quỳ xuống, mẹ mới quát bảo đứng dậy. Từ đó Hỗ dốc lòng tu tỉnh, chăm chỉ việc nhà, nếu có lúc nào bê trễ mẹ cũng không trách hỏi gì tới. Suốt mấy tháng không nói tới chuyện đi buôn, cũng muốn xin với mẹ nhưng không dám, bèn nhờ anh nói hộ. Mẹ nghe thế mừng rỡ, đem hết tiền bạc giao cho, Hỗ đi buôn nửa năm đã lãi gấp hai. Năm ấy Phúc thi hương đỗ Cử nhân, ba năm sau lại đỗ Tiến sĩ, em thì buôn bán trở nên giàu có ức vạn. Trong huyện có người tới đất Lạc, gặp được Thái phu nhân, thấy tuổi đã tứ tuần mà dung mạo chỉ như mới hơn ba mươi, ăn mặc giản dị như nhà thường dân mà thôi.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Sách Hắc tâm phù ra đời thì áo hoa lau thay đổi<strong>*</strong>, xưa nay đều giống nhau, thật đáng buồn vậy. Nhưng mẹ kế sợ bị chê bai thì lại nuông chiều con chồng quá mức, đến nỗi cứ mặc kệ con cái phóng túng không hỏi tới một câu, nên đã có biết bao nhiêu người bị con chồng ngược đãi rồi! Nếu chỉ đánh đập con ruột thì người ngoài không cho là ác độc, nhưng đánh con chồng thì lập tức bị chê trách ngay. Như Tế Liễu không chỉ tàn nhẫn với con chồng mà còn khiến con ruột mình trở thành người giỏi, nhưng làm sao mà đem tấm lòng ấy giải bày với người đời, nên không sợ điều tỵ hiềm, không tránh tiếng ác, rốt lại dạy được hai con trở nên một đứa sang một đứa giàu, rỡ mặt với đời, cứng rắn ngay thẳng như thế thì so ra chẳng kém gì đàn ông, chứ đừng nói so với đàn bà.</em></p><p></p><p>*Sách Hắc tâm phù... thay đổi: Thanh di lục chép "Trưởng sử Lai Châu là Vu Nghĩa Phương có làm một quyển Hắc tâm phù để truyền lại cho đời sau”. Tâm phù là từ dùng chỉ người mẹ kế có đức, nên Hắc tâm phù đây chỉ người mẹ kế tàn ác với con chồng. Áo hoa lau chỉ việc Mẫn Tử Khiên bị mẹ kế ngược đãi, mùa đông cho hai con mình mặc áo bông, cho con chồng là Mẫn Tử Khiên mặc áo hoa lau. Đây ý nói khi chuyện mẹ kế tàn ác với con chồng bị dư luận lên án, thì những bà mẹ kế tàn ác cũng thay đổi thủ đoạn để đối phó với dư luận. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 155 - 156</strong></p><p>Chung Sinh</p><p>(Chung Sinh)</p><p></p><p></p><p></p><p>Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cuỡng trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói "Ông đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính". Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện, nhân hỏi "Có phải ông muốn biết tương lai không?”, sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói "Phúc mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa”. Chung vốn có hiếu, nghe thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói "Nếu bỏ thi lần này thì không bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa”, sinh đáp "Mẹ mất không được thấy mặt, thật không đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?". Đạo sĩ nói "Kiếp trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ".</p><p></p><p>Rồi lấy thuốc trao cho, nói "Cứ sai người ngày đêm đi gấp về dâng cho lệnh đường, thuốc này uống vào có thể sống thêm bảy hôm, ông thi xong trở về mẹ con vẫn còn kịp nhìn thấy mặt nhau”. Sinh nhận thuốc, vội vàng ra về, lòng dạ rối bời, nghĩ rằng sống chết có ngày giờ, mình về sớm được một ngày thì phụng dưỡng mẹ nhiều thêm một ngày, liền gọi đầy tớ thuê ngựa tức khắc lên đường trở về Liêu Đông. Đi được vài dặm bỗng con ngựa quay đầu chạy ngược lại, đánh thì nó đứng ỳ ra, thúc bàn đạp thì nó khuỵu xuống, sinh toát cả mồ hôi cũng không làm sao được. Người đầy tớ bèn khuyên sinh ở lại, sinh không nghe, nhưng thuê con ngựa khác cưỡi thì cũng thế, đến tận chiều tối vẫn không đi được. Người đầy tớ lại khuyên "Ngày mai là thi xong, có gấp gì một ngày một buổi? Ta xin đi ngay mang thuốc về trước thay chủ nhân, thế thì đôi đàng đểu trọn vẹn", sinh bất đắc dĩ đành nghe theo. Hôm sau vào thi, sinh làm bài qua loa cho xong rồi lập tức lên đường trở về ngày đêm không nghỉ. Về tới nhà thì biết bệnh mẹ đang ngặt nghèo nhưng uống thuốc xong cũng hơi giảm. Sinh vào đứng trước giường rơi nước mắt, mẹ ra hiệu bảo nín khóc, rồi cầm tay sinh vui vẻ nói ”Mẹ vừa nằm mộng thấy xuống tới âm ty thấy Diêm Vương nét mặt ôn hòa nói rằng: Xét ngươi bình sinh không phạm tội gì lớn, nghĩ tới con ngươi chí hiếu nên cho ngươi sống thêm một kỷ (mười hai năm) nữa".</p><p></p><p>Sinh cũng mừng, vài ngày sau quả nhiên thấy mẹ khỏe mạnh lại như cũ. Không bao lâu lại có tin báo thi đỗ, sinh chào mẹ tới đất Tế (tức vùng Sơn Đông), đút tiền cho quan Nội giám trong vương phủ xin gặp đạo sĩ. Đạo sĩ vui vẻ ra gặp, sinh bèn lạy tạ. Đạo sĩ nói "ông vừa đậu cao, Thái phu nhân lại được tăng thêm tuổi thọ, đó đều là nhờ ông có đức tốt, chứ bần đạo có tài cán gì đâu?". Sinh càng phục tài tiên tri, lại xin hỏi việc chung thân. Đạo sĩ đáp “Ông không quý hiển lớn được, song được sống lâu là đủ rồi. Kiếp trước ông là đạo hữu với ta, có lần lấy đá ném con chó, lỡ tay giết chết nó, nay nó đã đầu thai làm ngựa rồi. Theo số mệnh mà bàn thì lẽ ra ông phải chết sớm, nhung nhờ lòng chí hiếu làm cảm động tới thần minh nên đã được giải tinh nhập hạn, chắc sẽ không hề gì. Nhưng phu nhân kiếp trước là đàn bà không giữ trinh tiết, lẽ ra kiếp này phải góa chồng sớm, nay ông nhờ có đức được kéo dài tuổi thọ thì lại không xứng đôi nữa, e rằng sang năm đài gương phải đổ”. Sinh bùi ngùi hồi lâu rồi hỏi vợ kế của mình ở đâu, đạo sĩ đáp "Ở Trung Châu (thuộc tỉnh Hà Nam), năm nay được mười bốn tuổi". Khi chia tay lại dặn sinh “Nếu gặp tai họa thì cứ chạy mau về phía đông nam".</p><p></p><p>Hơn năm sau, quả nhiên vợ sinh mắc bệnh chết. Sinh có người cậu làm Huyện lệnh Tây Giang (tỉnh Quảng Đông), mẹ sai đi thăm. Lúc về tiện đường sinh ghé qua Trung Châu xem lời tiên đoán của đạo sĩ về người vợ kế có nghiệm không. Ngẫu nhiên tới một thôn đang có đám diễn tuồng cạnh bờ sông, trai gái chen chúc đứng xem đông nghẹt, sinh vừa thả cương cho ngựa chậm rãi đi vòng qua thì bỗng có con ngựa đực đứt cương đuổi theo làm ngựa của sinh vọt chạy. Sinh ngoảnh lại lấy roi đánh vào đầu con ngựa đực, nó hoảng sợ lồng lên. Lúc ấy thế tử trong vương phủ mới được sáu bảy tuổi, người vú đang bế ngồi chơi trên đê, con ngựa đực xông về phía đó, đám tùy tùng đều không kịp chặn lại nên vương tủ bị xô ngã xuống sông. Đám tùy tùng quát tháo ầm ĩ tranh nhau đuổi bắt, sinh giục ngựa chạy bán sống bán chết, chợt nhớ lời đạo sĩ dặn bèn ra sức chạy về phía đông nam. Được hơn hai mươi dặm thì vào tới một thôn, thấy có ông già đúng trước cổng nhà nọ liền xuống ngựa vái chào. Ông già mời vào, tự xưng là họ Phương rồi hỏi khách từ đâu tới. Sinh quỳ rạp xuấng đất kể lại sự tình, ông già nói "Không hề gì, xin cứ nghỉ lại đây" rồi sai người đi nghe ngóng.</p><p></p><p>Đến tối được tin mới biết là thế tử trong vương phủ, cả sợ nói "Nhà ai khác thì ta còn có thể giúp, chứ cục cưng này thì không làm thế nào được”. Sinh năn nỉ mãi, ông già ngẫm nghĩ rồi nói "Quả thật là không giúp được, nhưng mời khách cứ nghỉ lại qua đêm nay ở đây, nghe ngóng xem tình thế ra sao mới tính tiếp được". Sinh buổn rầu lo lắng, cả đêm không chợp mắt. Hôm sau nghe tin đã có trát nã bắt sinh, ai chứa chấp cũng sẽ bị xử tử. Ông già có vẻ lo lắng im lặng trở vào, sinh nửa sợ nửa ngờ không sao trấn tĩnh được. Nửa đêm, ông già qua gõ cửa phòng, vào ngồi một lúc rồi hỏi vợ sinh bao nhiêu tuổi. Sinh nói là góa vợ, ông già mừng rỡ nói "Kế ta ắt xong!! . Sinh hỏi kế thế nào, ông đáp “Anh rể ta mộ đạo Phật, vào núi Nam Sơn tu hành, chị ta nay đã qua đời, để lại một đứa con gái được người lão bộc chăm sóc cũng khá thông minh, xin gả cho ông, có đưọc không?”. Sinh mừng vì hợp với lời đạo sĩ, lại thành có kẻ thân thích ở nơi xa, có thể thoát nạn, bèn nói "Tiểu sinh thật rất may mắn, nhưng đang là kẻ có tội ở xa nhà, rất sợ làm lụy cả cha vợ”. Ông già nói “Như thế là tính kế cho ông đấy. Anh rể ta đạo thuật thông thần nhưng lâu lắm không hỏi tới việc đời rồi. Có điều đám cưới xong ông cứ bàn với cháu ta, thế nào cũng có cách mà". Sinh càng mừng, liền qua nhà cô gái làm lễ cưới.</p><p></p><p>Cô gái đã mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng, nhưng sinh cứ thấy mặt lại thở dài Cô gái hỏi "Thiếp dù quê mùa xấu xí, nhung chẳng lẽ chàng lại ghét bỏ sao?". Sinh tạ lỗi đáp "Nương tử là người tiên, ta được cưới làm vợ là may lắm, chỉ vì đang có tai họa nên sợ sẽ có chuyện ngang trái cho nhau”, rồi kể thật hết sự tình. Cô gái oán cậu không phải là giống người, tai họa tày trời như vậy mà đã không bàn trước cũng chẳng nói rõ, làm mình sa hầm sẩy hang. Sinh quỳ rạp xuống nói "Đây là vì tiểu sinh cố chết lạy lục cầu khẩn, nên cậu nhân từ nhưng hết cách giúp, chỉ biết nàng có thể cứu sống người đã chết, đắp thịt cho xương khô thôi. Ta thật không xứng đáng sánh duyên với nàng, nhưng may mà nhà cửa cũng không đến nỗi nào, nếu được sống sót thì ngày sau xin lấy hương hoa thờ phụng". Cô gái than "Chuyện đã tới nước này thì còn nói gì nữa! Nhưng cha đã lập chùa để tu, dứt hết lòng yêu thương con cái của người đời, có điều không còn cách nào thì phải cùng tới đó cầu khẩn, sợ là phải quỳ một phen cực khổ đây". Rồi đó nàng thức trắng đêm lấy nệm dày khâu làm đệm độn vào đầu gối cho hai người, lấy áo dài mặc phủ ra bên ngoài, rồi sai gọi kiệu lên núi.</p><p>Vào Nam Sơn hơn mười dặm thì núi cao đường dốc, quanh co hiểm trở không sao đi kiệu nữa, phải xuống đi bộ. Cô gái đi rất khó khăn, sinh kéo tay dìu đỡ, vất vả hồi lâu mới lên tới trên núi. Thấy cổng chùa không còn xa, bèn cùng ngồi xuống nghỉ chân. Cô gái thở hổn hển, mồ hôi ròng ròng, son phấn trôi hết, sinh thấy thế thương xót nói "Vì ta mà nàng phải chịu khổ tới nỗi này". Cô gái vừa thở vừa đáp “Chỉ sợ bấy nhiêu còn chưa phải là khốn khổ đâu”. Hai người nghỉ giây lát rồi đưa nhau vào chùa, lạy Phật rồi vào trong, quanh co một lúc thì tới thiền đường. Thấy một nhà sư già ngồi xếp bằng, mắt nhắm nghiền như người mù, có một tiểu đồng cầm phất trần đứng hầu. Trong phương trượng quét dọn rất sạch sẽ, nhưng trước chỗ sư ngồi lại bày đầy đá sỏi, la liệt như sao trên trời. Cô gáỉ không dám chọn lựa gì, bước tới quỳ ngay xuống, sinh cũng quỳ xuống phía sau. Sư hé mắt nhìn rồi nhắm ngay lại cô gái làm lễ ra mắt rồi nói “Lâu rồi không tới thăm cha, nay con vừa lấy chồng, nên đưa chồng con tới chào". Hồi lâu nhà sư mới mở mắt nói “Con vãi con này chỉ làm khổ ta", rồi lại im lặng. Vợ chồng quỳ hồi lâu chồn cả chân, đá sỏi nghiến vào đầu gối, đau không chịu nổi. Lại một hồi lâu sư mới hỏi “Đã dắt ngựa lại chưa?", cô gái thưa chưa. Sư nói "Vợ chồng về mau đi, dắt nó tới đây ngay". Hai người lạy rồi đứng lên, khập khiễng dìu nhau đi, về tới nhà lập tức cho dắt con ngựa của sinh vào núi, nhưng chỉ làm đúng theo lời sư dặn chứ không rõ ông có ý tứ gì.</p><p></p><p>Vài hôm sau nghe đồn là đã bắt được tội nhân làm vương tử rơi xuống sông đem chém, vợ chồng mừng lắm. Liền sau đó trong núi sai tiểu đồng tới, đưa sinh một đoạn gậy trúc bị chặt đứt, nói "Kẻ chết thay là ông này đấy”, rồi bảo sinh cúng tế để giải oan cho cây trúc. Sinh nhìn thì thấy chỗ bị chặt có vết máu, bèn khấn khứa rồi chôn cất: Nhưng vợ chồng cũng không dám ở đó lâu, nên ngay trong đêm đưa nhau về Liêu Dương.</p><p></p><p><strong>156. Mơ Thấy Chó Sói</strong></p><p><strong>(Mộng Lang)</strong></p><p></p><p>Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau Đinh chỉ một cái cổng nói "Cháu ông ở trong ấy đấy". Lúc ấy ông có đứa cháu con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi "Sao nó lại ở đây?". Đinh đáp "Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết". Ông vào, quả thấy cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói “Còn nha môn của công tử cách đây cũng không xa, ông có muốn tới xem không?", ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa nhà, Đinh bảo "Ông vào đây!". Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ quá không dám bước tới, Đinh lại nói "Ông cứ vào đây!". Qua một lần cổng nữa thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi vào.</p><p></p><p>Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm, mời ngồi rồi gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Chợt có con sói lớn ngoạm một xác người chết vào. Ông run bần bật đứng lên hỏi "Cái đó dùng làm gì?", Giáp đáp “Để làm cơm". Ông vội ngăn cản, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng bị đàn sói cản lại. Đang còn chưa quyết lui tới ra sao chợt thấy lũ sói kêu gào chạy tứ tán, con chui vào gầm giường, con rúc xuống dưới ghế, ngạc nhiên không rõ vì sao. Giây lát có hai lục sĩ mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây sắt ra trói Giáp, Giáp ngã lăn xuống đất hóa thành con cọp, răng nhe lởm chởm. Một người tuốt kiếm sắc toan chặt đầu, người kia ngăn lại nói “Khoan đã, khoan đã! Đó là việc tháng tư năm sau, cứ tạm bẻ răng nó trước”. Rồi rút ngọn chùy lớn ra đập, răng cọp gảy rơi xuống đất, cọp đau quá rống vang. Ông khiếp sợ, chợt tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ, lấy làm lạ cho người mời Đinh nhưng Đinh từ chối không tới.</p><p></p><p>Ông bèn ghi lại giấc mơ, sai con thứ đưa thư tới cho Giáp, răn bảo thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gảy hết, sợ hãi hỏi thăm, thì ra vì say rượu ngã ngựa. Hỏi lại thời gian thì đúng ngày cha nằm mơ, càng sợ hãi, đưa thư của cha ra. Giáp đọc thư tái mặt, một lúc mới nói "Đó là ảo mộng ngẫu nhiên phù hợp, có gì lạ". Lúc ấy Giáp đang hối lộ quan trên để được tiến cử nên không để bụng về giấc mộng gở của cha. Người em ở lại vài hôm thấy lũ nha lại sâu mọt đầy công đường, kẻ hối lộ người chạy chọt nườm nượp ra vào đến khuya vẫn không ngớt, rơi nước mắt can anh. Giáp nói "Em ở nhà quê nên không biết điều cốt yếu của việc làm quan. Quyền thăng hay truất mình là ở quan trên chứ không phải trăm họ, nên cứ quan trên vui lòng tức là quan tốt chứ thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?". Người em biết không thể can ngăn được bèn trở về kể hết cho cha. ông Bạch nghe thế khóc lớn, không biết làm sao, chỉ còn cách bỏ tiền bạc ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần linh, chỉ xin nếu thằng con ngỗ nghịch bị báo oán thì đừng làm lụy cả vợ con.</p><p></p><p>Năm sau, có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người chúc mừng tới chật cổng. Ông chỉ than thở nằm bẹp, thác bệnh không ra tiếp một ai. Không bao lâu nghe tin con trai về kinh gặp cướp, thầy tớ đều bị giết. Ông trở dậy nói với mọi người “Cơn giận của quỷ thần chỉ dành cho riêng nó, ơn che chở cho nhà ta như vậy không phải không sâu nặng đâu”, rồi thắp hương lạy tạ. Người tới an ủi đều cho rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt trên đường, riêng ông tin chắc không hề nghi ngờ, cứ định ngày xây mộ. Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước là tháng tư Giáp thôi chức lên đường, vừa ra khỏi huyện liền gặp cướp, dốc hết rương hòm ra nộp nhưng chúng nói "Bọn ta tới đây để rửa nỗi căm tức của dân cả một huyện, đâu phải chỉ vì bấy nhiêu!", rồi chém đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân rằng Tư Đại Thành là ai? Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp kẻ dữ làm điều ác. Đám gia nhân đều chỉ vào y, bọn cướp cũng chém luôn. Lại có bốn tên nha lại sâu mọt là tay sai vơ vét tiền bạc cho Giáp, được Giáp đưa theo về kinh cũng bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của cải, chất lên ngựa phóng đi.</p><p></p><p>Hồn Giáp nằm bên đường, thấy một vị quan lớn đi ngang hỏi người bị giết là ai, toán quân mở đường bẩm “Là Tri huyện họ Bạch ở huyện mỗ". Vị quan nói "Đó là con họ Bạch, không nên để y cuối đời phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này, cứ chắp đầu lại cho hắn”. Lập tức có một người nhặt đầu Giáp đặt lên cổ, nói "Kẻ gian tà không cần chắp cho ngay ngắn, cứ cho vai đỡ cằm là được", rồi bỏ đi. Lát sau Giáp sống lại, vợ con tới nhặt xác thấy còn thoi thóp bèn chở về, từ từ đổ nước cháo cho, cũng uống được nhưng phải sống nhờ ở quán trọ vì nghèo quá không về được. Khoảng nửa năm, ông Bạch được tin đích xác, sai con thứ tới đón về. Giáp tuy sống lại nhưng mắt nhìn thấy lưng, không giống con người nữa. Con trai người chị ông Bạch thì làm quan có tiếng tốt, năm ấy được tiến cử làm Ngự sử, đều đúng như ông mơ thấy.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Trộm than rằng trong thiên hạ quan là cọp mà lại là sói, ở đâu cũng vậy. Cho dù quan không phải là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói, huống hồ kẻ làm quan còn dữ hơn cả cọp sao? Phàm điều người ta lo là không thể nhìn thấy phía sau mà thôi, đây cho sống lại mà lại còn làm cho nhìn thấy được phía sau, bài học của quỷ thần mới sâu xa làm sao!</em></p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 157 - 158 -</strong></p><p>Cung Trời</p><p>(Thiên Cung)</p><p></p><p>Quách sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười nói "Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay", rồi bỏ đi. Sinh mở bình ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chọt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách, bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái “Nàng là thần gì?", nàng đáp “Ta không phải là thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu tiện". Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mục không biết ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói "Ngày không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?". Cô gái cười nói "Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn đuốc?".</p><p></p><p>Ở vài hôm, Quách vô cùng buồn chán, mấy lần xin về. Cô gái nói “Đêm mai cùng chàng lên Thiên cung chơi một lần rồi sẽ chia tay". Hôm sau chợt có a hoàn nhỏ cầm đèn lồng vào nóí "Nương tử chờ chàng đã lâu”. Quách theo ra, dưới ánh sao đêm vằng vặc chỉ thấy vô số lầu gác. Qua mấy đoạn hành lang chạm vẽ tới một nơi trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bước vào thì thấy một mỹ nhân trang điểm lộng lẫy ngồi quay mặt về hướng nam, tuổi khoảng hai mươi, áo gấm lóa mắt, đầu đính minh châu rủ xuống bốn phía, dưới đất bày đầy đuốc ngắn soi rõ cả gấu quần, đúng là người trời. Quách hoang mang váng vất, bất giác quỳ xuống, cô gái sai tỳ nữ đỡ dậy dìu vào ghế. Phút chốc các món bát trân bày lên la liệt cô gái rót rượu nói "Uống chén này để đưa chàng về”. Quách khom người thưa “Trước giáp mặt mà không biết người tiên, thật rất thẹn thùng, nếu cho chuộc lỗi, xin làm kẻ bầy tôi trung thành suốt đời". Cô gái quay nhìn tỳ nữ mỉm cười rồi sai dọn tiệc vào phòng ngủ. Trong phòng cũng màn gấm tua thêu, chăn là thơm phức, nàng bảo Quách ngồi lên giường. Uống thêm một lúc, mấy lần nói "Chàng xa nhà đã lâu, nay tạm về cũng không sao". Hết canh một Quách vẫn chưa cáo từ, cô gái gọi tỳ nữ cầm đèn lổng tiễn ra. Quách im lặng, giả say lăn ra giường, lay gọi gì cũng không động, nàng bèn sai các tỳ nữ đỡ dậy cỡi quần áo ra, một nàng vuốt chỗ kín của Quách nói “Gã trai này mặt mũi ôn nhã mà sao cái này chẳng có chút gì văn vẻ!", đặt Quách xuống giường rồi cùng cười rộ đi ra.</p><p></p><p>Cô gái cũng lên nằm, Quách trở mình, nàng hỏi "Say lắm không?", Quách đáp "Tiểu sinh có say đâu! Chỉ là mới nhìn thấy người tiên tâm thần đã điên đảo đó thôi”. Cô gái nói "Đây là Thiên cung, trời chưa sáng đã phải ra, nếu vào động phủ thấy buồn chán thì chẳng bằng sớm từ biệt”, Quách nói “Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa, mò cánh ngửi mùi mà không có đèn đuốc, tình cảnh ấy làm sao chịu được?". Nàng cười, sai lấy thêm đèn đuốc. Vừa sang canh tư đã gọi tỳ nữ cầm đèn ôm áo đưa Quách ra. Vào động phủ thấy trần thiết tinh xảo, chỗ ngủ lót nệm da, trải thảm lông dày cả tấc. Quách đã cởi giày khoác chăn mà người tỳ nữ còn bịn rịn chưa đi, để ý nhìn kỹ thấy dung mạo xinh xắn bèn đùa hỏi "Người chê ta không văn vẻ là nàng phải không?". Cô ta cười đá vào cái gối nói "Chàng cứ nằm uỡn ra đi, đừng có lắm lời" Nhìn chiếc giày của cô ta thấy đính viên ngọc trai to bằng hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo cô ta vào lòng, ôm ấp vuốt ve, cô ta không kìm được cứ rên lên. Quách hỏi bao nhiêu tuổi, đáp mười bảy. Hỏi "Xử nữ cũng biết tình sao?”, đáp “Thiếp không còn là xử nữ, nhưng hoang vắng đã ba năm rồi". Quách hỏi dò tên họ quê quán thứ bậc người tiên, cô ta nói "Đừng hỏi! Đây dù không phải thượng giới cũng là cõi trần hiếm có, nếu cứ muốn biết rõ e không có đất mà chôn đâu”, Quách nghe thế không dám hỏi nữa.</p><p></p><p>Đêm sau cô gái quả mang đèn tới cùng nhau ăn ngủ, ngày nào cũng vậy. Một đêm nàng vào nói “Vẫn mong cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, không thể lưu chàng ở đây được nữa, xin cùng chuốc chén từ biệt”. Quách rơi nước mắt, xin cho chiếc áo lót làm kỷ vật. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng ròng, trăm hạt ngọc châu. Uống cạn ba chén, Quách bỗng say lịm. Khi tỉnh dậy thấy tay chân như bị trói chặt, không duỗi chân được, cũng không ngóc đầu lên được. Gắng sức lăn lộn thì nhào xuống giường, mò mẫm thấy mình bị nhét vào cái túi gấm, ngoài có dây buộc chặt. Ngồi lên ngẫm nghĩ, thấy cái giường mờ mờ mới biết đang trong phòng sách nhà mình. Lúc ấy Quách rời nhà đã ba tháng, người nhà đều cho là đã chết. Quách lúc đầu không dám kể rõ chuyện, sợ bị tiên trừng phạt, nhưng lòng vẫn lạ lùng ngờ vực, thỉnh thoảng lại lén kể cho bạn bè, nhưng không ai biết duyên cớ do đâu. Cái túi chăn vẫn để ở đầu giường, mùi hương ngát phòng, xem kỹ thì là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, trân trọng cất đi.</p><p></p><p>Sau có quan lớn Mỗ nghe chuyện, hỏi kỹ rồi cười nói "Đó là người quen của Giả hậu<strong>*</strong>, chứ người tiên nào lại làm thế. Nhưng nên giữ kín chuyện này, lộ ra thì chết cả họ đấy". Có người thầy đồng vẫn ra vào các nhà quyền quý nói rằng hình dáng lầu gác như thế thì rất giống dinh Nghiêm Đông<strong>**</strong>. Quách nghe thế khiếp đảm, đưa cả gia đình đi biệt xứ, không bao lâu Nghiêm bị giết mới trỡ về.</p><p></p><p>*Người quen của Gia hậu: Tấn thư chép vợ Tấn Huệ đế 1à Giả thị hoang dâm, thường bắt cóc đàn ông con trai đẹp trai khỏe mạnh trong dân gian về để hành lạc, nói với họ rằng mình là thần tiên.</p><p>** Nghiêm Đông: tức Nghiêm Thế Phồn, quyền thần triều Minh, nổi tiếng độc ác xa hoa.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Gác cao sáng rỡ, hương nức màn thêu, tỳ nữ trẻ đẹp, giày đính minh châu, nếu không phải nhà quyền gian phóng túng, hào quý kiêu xa thì sao được như vậy? Thẻ tính dâm vừa ném, nhà vàng biến thành lãnh cung, ống nhổ thơm chưa khô, ruộng tình đã tràn cỏ dại<strong>*</strong>. Giường không não ruột, đuốc tắt tiêu hồn, mày cau trước đài vàng, mắt mờ trong trướng gấm. Khiến cho kẻ kia nhân nhờ chén rượu, thẳng lối cung tiên, giữa làng ôn nhu, ngỡ người tiên tử. Mắng kẻ sang dâm loạn, chẳng đủ thẹn người nhưng ruộng tốt bỏ hoang<strong>**</strong>, cũng đủ tự răn vậy.</em></p><p></p><p>* Thẻ tính dâm... cỏ dại: thẻ tính dâm dịch chữ "dâm trù”, ống nhổ thơm dịch chữ "thóa hồ" tức "hương thóa hồ". Sử chép Nghiêm Thế Phồn mỗi lần ngủ với đám tỳ thiếp xong thì lấy khăn lau mồ hôi bằng the trắng lau chùi rồi xếp lại cất ở đầu giường, cuối năm mang ra đếm, gọi là "thẻ tính dâm". Lại khi khạc nhổ thì bắt các tỳ nữ lấy miệng hứng, cứ ho hắng thì đám tỳ thiếp xinh đẹp xúm lại há miệng ra chờ, nhân gọi đó là “ống nhổ thơm". Cả câu ý nói được người giàu sang yêu thương không bao lâu đã bị bỏ rơi không đoái hoài tới nữa.</p><p></p><p>** Ruộng tốt bỏ hoang: chỉ người đàn bà đẹp phải lẻ loi một mình. Câu này ý nói mỹ nhân bắt Quách là một nàng hầu xinh đẹp bị bỏ rơi.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164992, member: 75012"] [B]141. Chàng Rể Mới[/B] [B](Tân Lang)[/B] Hiếu liêm Mai Ngẫu Trường người Giang Nam nói ông Tôn người cùng hương làm Huyện lệnh Đức Châu từng xử một vụ án lạ. Lúc đầu trong thôn có người cưới vợ cho con trai, ngày đón dâu thân thích láng giềng đều tới mừng. Uống rượu đến khuya, chàng rể ra, thấy cô dâu ăn mặc đẹp đẽ đi vòng ra sau nhà, sinh nghi đuổi theo. Sau nhà có khe nước dài, có chiếc cầu nhỏ bắc qua, cô dâu mới bước lên cầu đi luôn. Chàng rể càng ngờ vực, gọi thì cô dâu không đáp, chỉ lấy tay vẫy chồng, chồng vội đuổi theo, chỉ cách gang tấc mà không sao đuổi kịp. Đi vài dặm vào tới một thôn, vợ dừng lại nói "Nhà chàng vắng vẻ, ta không quen ở, xin mời chàng tạm tới ở nhà thiếp, vài ngày sẽ lại về” nói xong giơ tay gõ cửa, có đứa nữ đồng ra mở cửa, vợ bước vào trước, y bất đắc dĩ vào theo. Vào trong thấy cha mẹ vợ đều ngồi trên sảnh, nói với con rể rằng "Con gái ta lúc nhỏ được nuông chiều, chưa từng rời ra một khắc, nay một sớm rời nhà nên trong lòng nhưng nhớ. Nay cùng chồng về đây ta rất thỏa lòng, cứ ở đây vài hôm ta sẽ sai người đưa về". Rồi cắt nhà riêng cho ở, giường gối đều đầy đủ, y bèn ở lại. Khách ở nhà thấy chàng rể lâu quá không tới đổ ra đi tìm, thấy trong phòng chỉ có cô đâu mới mà không biết là chồng đi đâu. Tìm kiếm hỏi han khắp xa gần cũng không có tin tức gì, cha mẹ rơi lệ cho rằng đã chết rồi. Được nửa năm, nhà bên vợ thương con gái không có chồng, bèn xin với cha mẹ chú rể cho con gái mình lấy chồng khác. Người cha càng đau buồn, nói "Không tìm thấy xương cốt quần áo gì, làm sao biết được con ta đã chết? Mà nếu nó chết thì chôn cất xong cũng phải một năm mới được tái giá, nay sao lại gấp gáp như vậy?", cha cô gái càng tức giận bèn kiện lên quan. Ông Tôn lấy làm lạ lùng nhưng không biết làm sao, ra lệnh phải chờ ba năm, giữ lại cái án ấy để xét sau. Chàng rể ở nhà cô gái, người nhà cũng rất chiều chuộng, thường bàn việc trở về, vợ ưng thuận nhưng cứ lần lữa không đi ngay. Được nửa năm y nóng ruột không yên tâm muốn về một mình, nhưng vợ cố giữ lại. Một hôm cả nhà nhớn nhác như có tai họa, cha vợ vội vàng nói với con rể "Vốn định hai ba hôm sẽ đưa vợ chồng về, không ngờ quần áo tư trang còn chưa đủ, nay lại gặp tai họa, bất đắc dĩ xin đưa con về trước". Kế đưa y ra cửa rồi quay ngay vào, có vẻ rất vội vàng. Y đang tìm đường đi, quay lại nhìn thì thấy nhà cửa đều biến mất, chỉ thấy một ngôi mộ cao, cả sợ tìm đường về ngay nhà. Về tới nhà kể lại hết đầu đuôi nhân lại lên quan kể lại, ông Tôn bắt cha cô gái lên khuyên dụ lại đưa cô gái về, lúc ấy mới làm lễ hợp cẩn. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 142 - 143 -[/B] Đảo Tiên (Tiên Nhân Đảo) Vương Miễn tự Mẫn Trai người đất Linh Sơn (thuộc tỉnh Quảng Đông) có văn tài, nhiều lần đỗ đầu văn trường nên tính khí kiêu ngạo, hay chửi mắng làm nhục nhiều người. Tình cờ gặp một đạo sĩ, ông nhìn Vương nói “Tướng ông rất sang, nhưng vì khinh bạc bị chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu sửa mình tu đạo thì còn có thể được ghi tên vào sổ tiên". Vương cười khẩy nói "Phúc trạch thế nào thật không biết được, mà chẳng lẽ trên đời lại có tiên sao?". Đạo sĩ nói "Kiến thức của ông sao lại kém thế? Chẳng cần tìm đâu xa, như ta chính là tiên đây". Vương càng cười là khoác lác, đạo sĩ nói “Ta thì có gì đáng lạ, nếu chịu đi theo ta thì có thể gặp ngay vài mươi vị chân tiên”. Vương hỏi ở đâu, đạo sĩ đáp "Chỉ trong gang tấc”, rồi kẹp gậy vào giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt rồi quát lớn một tiếng "Bay". Vương thấy gậy to ra hơn chiếc túi đựng năm đấu gạo bay lên không, lén sờ vào thấy vẩy cứng xếp lớp, sợ quá không dám động đậy. Giây lát đạo sĩ quát “Dừng lại!", gậy liền thu lại hạ xuống một phủ đệ lớn lầu gác nối nhau liên tiếp như nơi ở của bậc đế vương. Có ngôi đài cao hơn trượng, trên đài có mười một tòa điện tráng lệ đẹp đẽ không đâu sánh được. Đạo sĩ dẫn Vương lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách. Trên điện đặt mấy mươi bàn tiệc, bàn ghế màn trướng nhìn hoa cả mắt, đạo sĩ thay quần áo đẹp đẽ để chờ. Giây lát khách khứa từ trên không đáp xuống, người cưỡi rồng cọp, kẻ cưỡi loan phượng không như nhau, ai cũng mang theo nhạc khí, lại có người là đàn bà, có người là đàn ông, đều để chân trần. Trong đám duy có một người đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu trong cung, có đứa thị nhi ôm một nhạc khí dài khoảng năm thước trở lại, không phải đàn cầm không phải đàn sắt, chẳng biết là đàn gì. Tiệc rượu bắt đầu, món ngon vật lạ đầy bàn, ăn vào thấy thơm ngon khác hẳn thức ăn dưới trần. Vương ngồi im lặng, chỉ chăm chú nhìn người đẹp, trong lòng ưa người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ rốt lại nàng không đàn bản nào. Rượu tàn, một ông già nói lớn "Được Thôi chân nhân có nhã ý gọi tới, hôm nay có thể nói là hội lớn, nên thả sức vui vẻ. Xin những ai mang nhạc khí cùng loại thì họp thành đội để tấu nhạc". Thế là ai vào đội ấy, tiếng tơ trúc dìu dặt vang tới trời cao, duy nàng cưỡi chim phượng thì tài đàn không ai sánh kịp. Khi đàn sáo đều đã im tiếng, đứa thị nhi mới mở túi gấm lấy đàn ra đặt ngang trên ghế, cô gái rung cổ tay ngọc như gảy đàn tranh, tiếng lớn gấp bội đàn cầm, mãnh liệt đủ có thể hởi dạ, êm đềm thì có thể tiêu hồn. Đàn khoảng nửa thời gian nấu chín nồi cơm, cả điện im phăng phắc không có một tiếng ho, hết khúc thì một tiếng ngân lớn vang rền như gõ vào khánh đá. Mọi người cùng khen ngợi, nói "Bản đàn của Vân Hòa phu nhân tuyệt diệu thật", kế đều đứng lên cáo biệt, hạc kêu rồng ngâm cùng lúc tan đi cả. Đạo sĩ bèn đặt giường ngà nệm gấm cho Vương ngủ. Vương vừa gặp người đẹp lòng đã rung động, sau khi nghe nhạc càng thêm tơ tưởng, nghĩ mình có tài năng, muốn hiển đạt công danh dễ như nhổ cỏ, khi đã được phú quý rồi muốn gì chẳng được, khoảnh khắc trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đạo sĩ như đã biết, nói với Vương "Ông kiếp trước là bạn học với ta, sau vì không bền chí nên sa vào lưới tục. Ta vẫn không coi ông là người lạ, thật tình muốn đưa ông ra khỏi vũng nước đục. Không ngờ ông mê muội đã sâu, mờ mịt không gọi tỉnh được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại, nhưng muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau”. Rồi chỉ phiến đá dài dưới thềm bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, dặn kỹ không được nhìn. Kế lấy roi quất đá bay lên, Vương nghe tiếng gió rít ù ù bên tai, không biết đã đi được bao xa, chợt nghĩ chưa nhìn rõ cảnh vật phía dưới xem ra sao bèn lén hé mắt thì thấy biển lớn mênh mông không có bờ bến, cả sợ lập tức nhẳm mắt lại nhưng người đã theo đá cùng rơi xuống bùm một tiếng mất tăm như chim âu lặn. May là vốn ở gần biển nên hơi biết bơi, nghe có người vỗ tay reo “Hụt chân đẹp lắm!". Đang lúc nguy cấp thì có một cô gái kéo lên thuyền, nói “May mắn may mắn, Tú tài trúng nước rồi!", Vương nhìn thì thấy nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp. Vương ra khỏi nước rét run xin đốt lửa hơ áo, cô gái nói "Theo ta về nhà sẽ có cách, nếu được vừa ý xin đừng quên nhau”. Vương nói “Sao lại nói thế? Ta là tài tử ở Trung nguyên, ngẫu nhiên gặp chuyện không may, nếu qua được con quẫn bách này xin lấy thân đền đáp, đâu chỉ không quên mà thôi". Cô gái chống sào đẩy thuyền đi nhanh như bay, chốc lát đã tới bờ, lấy bó hoa sen mới hái trong thuyền lên rồi dẫn Vương cùng đi. Đi được nửa dặm thì vào thôn, tới một ngôi nhà cánh cổng sơn son quay về hướng Nam, qua mấy lần cổng, cô gái vào trước. Lát sau một người đàn ông bước ra, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vái chào mời lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giày tất cho Vương thay, kế hỏi nhà cửa quê quán. Vương đáp “Không dám dối nhau, chắc ông có nghe qua tài danh của ta. Thôi chân nhân rất yêu mến gọi lên trời, nhưng ta tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay nên không muốn ẩn dật”. Người đàn ông đứng lên kính cẩn nói “Nơi đây gọi là Đảo tiên, xa hẳn cõi người. Ta tên Văn Nhược họ Hoàn, mấy đời sống nơi hẻo lánh, may sao lại được gặp bậc tài danh” rồi đặt tiệc ân cần mời mọc. Kế thong thả nói "Ta có hai con gái, đứa lớn là Phương Vân được mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho hầu hạ bậc cao nhân, ông thấy sao?”, Vương nghĩ là cô gái hái sen bèn đứng dậy cảm tạ. Hoàn mời vài người tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi lập tức sai gọi con gái. Không bao lâu nghe có mùi hương lạ sực núc, hơn mười tỳ nữ xinh đẹp đỡ Phương Vân ra, xinh xắn lộng lẫy như hoa sen chiếu nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các tỳ nữ đứug hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu được vài tuần thì một cô gái để tóc bím từ trong ra, mới hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay Phương Vân, ánh mắt long lanh. Hoàn nói "Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?”, rồi quay ra nói “Đây là Lục Vân, con gái nhỏ của ta, cũng khá thông minh, nhớ được nhiều sách vở". Nhân bảo ngâm thơ cho khách nghe, cô gái bèn đọc ba bài Trúc chi từ, giọng ngâm êm ái dễ nghe. Hoàn cho nàng ngồi cạnh chị rồi nói “Vương lang là bậc thiên tài, văn thơ ắt nhiều lắm, có thể cho ta được nghe chỉ dạy không?". Vương hiên ngang đọc một bài thơ cận thể rồi tự đắc nhìn quanh, trong có hai câu "Một thân thừa chút râu mày đó, Nửa hớp cho tan uất hận này", ông già láng giềng đọc đi đọc lại, Phương Vân cúi đầu nói "Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hỏa Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu”[B]*[/B] cả tiệc vỗ tay cười ầm. *Câu trên... Tử Mẫu: Tây du ký thuật việc Tôn Ngộ Không tới động Hỏa Vân bị yêu ma là Hồng Hài nhi phóng lửa tam muội đốt suýt chết và việc Trư Bát Giới tới nước Tây Lương uống nước sông Tử Mẫu nên có thai, phải uống nước suối Giải thai mới khỏi, đây Phương Vân dẫn ra để xuyên tạc hai câu thơ đầy "khẩu khí anh hùng" của Vương Miễn. Hoàn xin đọc bài khác, Vương bèn đọc bài thơ Chim nước "Đầu đầm kêu kíu kít...", chợt quên mất câu kế, còn đang nhớ lại thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười. Lục Vân thưa với cha “Chị ấy nối câu tiếp theo cho anh rể, là Mông chó vãi bì bùm", cả tiệc lại cười ồ, Vương có vẻ thẹn. Hoàn trừng mắt nhìn Phương Vân, khi Vương đã có vẻ bình tĩnh rồi lại xin Vương đọc văn. Vương cho rằng người ngoài cõi trần không biết văn bát cổ bèn khoe bài làm được chấm hạng nhất ở trường, đầu đề là hai câu "Hiếu thay, Mẫn Tử Khiên...”, câu phá đề là "Thánh nhân khen lòng hiếu của bậc đại hiền...” Lục Vân nhìn cha nói “Thánh nhân không gọi học trò bằng tên tự, câu "Hiếu thay...” ắt là lời của kẻ khác", Vương nghe thấy cụt hứng. Hoàn cười nói "Trẻ con biết gì! Không cốt chuyện ấy, chỉ cần bàn văn thôi". Vương bèn đọc tiếp, cứ được vài câu hai chị em lại nói khẽ vào tai nhau như bình luận nhưng thì thào nên không nghe rõ. Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình của học quan rằng "Chữ chữ đều thống thiết”, Lục Vân nói với cha “Chị nói nên bỏ chữ "thiết” đi”. Mọi người đều không hiểu, Hoàn sợ con ăn nói khó nghe nên không dám gạn hỏi. Vương đọc xong lại thuật lời tổng bình, trong có câu "Trống yết đánh một tiếng thì muôn hoa đều rụng”. Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai người cùng cười không ngẩng lên được. Lục Vân lại nói với cha "Chị nói trống yết phải đánh bốn tiếng", mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân máy miệng định nói, Phương Vân nín cười quát "Con nhãi mà nói thì ta đánh chết!". Mọi người ngờ vực cứ đoán mò này nọ, Lục Vân không nhịn được bèn nói “Bỏ chữ "thiết” đi, nói “thống” tức là “bất thông”[B]*[/B]. Đánh bốn tiếng trống là “bất thông lại bất thông" vậy”. Mọi người cười ầm, Hoàn nổi giận quát con rồi đứng lên rót rượu xin lỗi mãi. * "Thống tức là "bất thông”: theo Đông y, nếu trên người có chỗ nào đau thì đó là vì huyết mạch không lưu thông, Phương Vân nhân đó để chê văn của Vương Miễn là bất thông. Vương lúc đầu thị tài kiêu căng, trong mắt không coi ai ra gì, đến lúc ấy hùng khí tiêu tan, mồ hôi đầm đìa. Hoàn xin lỗi an ủi, nói "Vừa nghĩ được một câu xin mọi người cùng đối: Vương tử thân biên, vô hữu nhất điểm bất tự ngọc” (Bên cạnh chàng Vương, chẳng có điểm nào không tựa ngọc). Mọi người chưa kịp đối thì Lục Vân đọc ngay "Mẫn ông đầu thượng, tái trước bán tịch tức thành quy" (Trên đầu ông Mẫn, thêm vào tịch nữa sẽ thành rùa)”[B]*[/B] Phương Vân cười sặc sụa véo sườn em liền mấy cái. Lục Vân giằng ra bỏ chạy, quay lại nói "Việc gì đến chị? Chỉ mắng anh ấy bao nhiêu thì không thấy là sai, người ta nói một câu lại không cho à?”. Hoàn quát nạt mới cười rồi đi. Các ông già láng giềng cáo từ xong, các tỳ nữ dẫn vợ chồng vào phòng, đèn nến giường màn đã sắp đặt tươm tất. Vương thấy trong phòng tân hôn sách vở đầy giá không thiếu loại nào, hỏi qua những chỗ khó vợ đều trả lời trôi chảy, lúc ấy mới thấy xấu hổ vì hiểu biết của mình còn nông cạn. *Vương tử... thành rùa: đôi vế đối này là chơi chữ. Trong Hán tự chữ vương thêm một chấm bên cạnh thì thành chữ ngọc, đây ông Hoàn có ý tán tụng Vương Miễn cái gì cũng hay, còn chữ Mẫn thêm chữ tịch (đêm) thì thành chữ quy (con rùa), đây Lục Vân có ý chế nhạo Vương Miễn là đến đêm tân hôn sẽ trở thành đần độn luôn như con rùa, vì Vương Miễn tên tự là Mẫn Trai. Phương Vân gọi Minh Đang thì cô gái hái sen chạy tới vâng dạ, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng. Vương mấy lần bị châm chọc, e rằng trong chốn khuê phòng không được coi trọng, may là Phương Vân tuy ác khẩu nhưng trong chốn phòng the lại rất đằm thắm. Vương ở yên rảnh rỗi lại ngâm nga, vợ nói "Thiếp có lời hay, không biết chàng có chịu nghe theo không?”. Hỏi lời gì thì nàng đáp “Từ nay chàng đừng làm thơ nữa, cũng là một cách che giấu cái dở của mình đấy", Vương xấu hổ quá bèn gác bút luôn. Lâu ngày dần thân mật với Minh Đang, bèn nói với Vân rằng "Minh Đang có cái ơn cứu mạng cho tiểu sinh, xin ít nặng lời cau mặt với nàng". Phương Vân ưng thuận, cứ những lúc vợ chồng vui chơi trong phòng cũng gọi nàng, đôi bên càng ưa nhau, thường ngầm tỏ tình ý. Phương Vân hơi biết, nhiều lần trách móc nhưng Vương cứ mồm năm miệng mười ra sức thanh minh. Một đêm cùng uống rượu, Vương cho là vắng vẻ, bảo vợ gọi Minh Đang. Phương Vân không chịu, Vương nói “Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ [I]Độc lạc nhạc[/I][B]*[/B]?”. phương Vân nói "Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết à? Mình cần thì thích người khác cũng cần, nhưng nói tới chuyện vui mà hỏi có cần không thì đáp không[B]**[/B]", Vương phì cười bèn thôi. Gặp buổi chị em Phương Vân có hẹn với cô gái láng giềng, Vương được dịp liền dẫn Minh Đang vào, ân ái hết mực. Đến tối thấy bụng dưới hơi đau mà dương vật rụt hết vào, cả sợ nói với Phương Vân. Vân cười nói "Chắc vì báo ơn Minh Đang rồi”. Vương không dám giấu bèn khai thật, Phương Vân nói "Chàng tự chuốc họa, thật thiếp không còn cách nào. Nếu không đau ngứa thì để mặc thế cũng được”. *Độc lạc nhạc: lấy từ câu trong Mạnh tử “Độc lạc nhạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?" (Một mình vui nhạc và cùng mọi người vui nhạc, cái nào vui hơn?). **Mình cần... đáp không: nguyên văn là "Độc yếu nãi lạc ư nhân yếu, vấn lạc thục yếu hồ, viết bất" Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui, Phương Vân biết ý nhưng không hỏi gì, chỉ chăm chú nhìn chồng, ánh mắt như nước thu trong vắt, sáng như sao buổi sớm. Vương nói "Nàng có thể nói trong lòng ngay thẳng nên mắt sáng”, Phương Vân cười nói "Còn chàng thì có thể nói trong lòng không ngay thẳng nên mất sáng". Bởi người ta thường nói chữ [I]mất[/I] gần như chữ [I]mắt[/I] nên nàng lấy đó để đùa. Vương cười ngất năn nỉ xin chữa cho, nàng nói "Chàng không chịu nghe lời nói phải, trước đây chưa chắc đã không nghi là thiếp ghen chứ biết đâu là đứa tỳ nữ ấy vốn không thể gần gũi. Lúc trước thật vì yêu thương mà nói, nhưng chàng cứ như đàn khảy tai trâu nên phát ghét bỏ mặc không hỏi tới, nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy thuốc phải thăm chỗ đau trước". Rồi sờ vào dưới áo Vương niệm chú rằng "Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai", vương bất giác cười lớn, cười xong thì khỏi bệnh. Mấy tháng sau Vương vì còn cha già con nhỏ thường nhớ nhung, tỏ ý với vợ. Nàng nói "Về thì không khó, nhưng không có ngày sum họp nữa mà thôi". Vương sa nước mắt xin cùng về, nàng nghĩ đi nghĩ lại mới ưng thuận. Ông Hoàn bày tiệc tiễn, Lục Vân cầm giỏ vào nói "Chị sắp đi xa mà không có gì tặng, chỉ sợ khi tới Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm giúp chị lầu gác, xin đừng chê là sơ sài". Phương Vân cảm ơn nhận lấy, Vương tới gần xem thì là cỏ nhỏ tết làm lầu gác, ngôi lớn thì bằng quả cam, ngôi nhỏ thì bằng quả quít, khoảng hơn hai mươi gian, kèo cột rui mè đều rõ ràng, bên trong đủ cả giường nằm rèm trướng to bằng hạt vừng. Vương coi như đồ chơi của trẻ con nhưng thầm khen cô nhỏ khéo tay. Phương Vân nói “Nói thật với chàng bọn thiếp đều là địa tiên, vì có túc duyên nên được theo nhau, vốn không có ý bước tới cõi trần nhưng vì chàng còn có cha già nên không nỡ trái lời. Khi nào cha đủ tuổi trời thì phải trở lại đây" Vương kính cẩn xin vâng. Hoàn hỏi muốn đi thuyền hay đi xe, Vương sợ sóng gió nguy hiểm nên xin đi đường bộ. Ra thì thấy ngựa xe đã chờ ngoài cổng bèn từ biệt lên đường. Xe ngựa đi nhanh như bay, chốc lát tới bờ biển, Vương lo không có đường đi. Phương Vân rút ra một tấm lụa trắng ném về phía nam, tấm lụa biến thành con đê dài bề rộng vài trượng, chớp mắt xe ngựa phóng qua, đê cũng rút lại dần. Tới một chỗ nước triều tràn lên, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại rồi xuống xe lấy những lầu gác bằng cỏ ra, cùng mấy người bọn Minh Đang bày biện theo thứ lớp, chớp mắt đã hóa thành một phủ đệ lớn. Mọi người cùng vào cởi bỏ hành lý ra, thấy không khác gì lúc còn trên đảo, những bàn ghế giường tủ trong phòng ngủ cũng giống hệt. Lúc ấy trời đã tối bèn ngủ đêm ở đó. Sáng hôm sau Phương Vân bảo Vương về đón cha mẹ. Vương sai thắng ngựa phóng về làng cũ, tới nơi thì nhà cửa đã thuộc về người khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đều đã chết, chỉ còn cha già. Con trai Vương mê cờ bạc bán sạch nhà cửa ruộng vườn, ông cháu không có chỗ ở phải thuê nhà tại thôn tây trú ngụ. Vương lúc mới trở về vẫn còn ý niệm công danh chưa dứt, khi nghe chuyện nhà như thế trong lòng đau xót, thầm nghĩ nếu được giàu sang cũng chỉ như ảo ảnh. Bèn phóng ngựa qua thôn tây thấy cha ăn mặc rách rưới, mặt mày già sọm rất thương xót, cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng. Hỏi tới thằng con hư đốn thì đi đánh bạc chưa về, Vương bèn chở cha đi. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời cha chồng tắm rồi đưa áo gấm cho ông mặc, dọn phòng sạch cho ông nghỉ, kế lại mời các bạn già cũ tới chơi với cha, phụng dưỡng còn hơn các nhà thế tộc. Một hôm đứa con tìm tới, Vương cấm cửa không cho vào, chỉ cho hai mươi lượng vàng, sai người nhắn rằng "Cầm về cưới vợ rồi lo làm ăn, nếu còn tới nữa thì sẽ đánh cho chết tươi”, đứa con khóc lóc mà đi. Vương từ khi trở về rất ít giao du, nhưng nếu bạn cũ tình cờ tới thăm thì tiếp dãi ân cần, khiêm nhường khác xa ngày trước. Riêng có Hoàng Tử Giới vốn là bạn học thuở trước cũng là bậc danh sĩ mà lận đận thì Vương giữ lại chơi rất lâu, thường kể chuyện kín cho nghe, biếu tặng rất hậu. Được ba bốn năm thì Vương ông mất, Vương bỏ hàng vạn quan tiền chôn cất, tống táng đủ lễ. Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ, vợ kiềm thúc rất chặt chẽ nên cũng bớt cờ bạc. Ngày chôn cất Vương ông nàng mới được ra mắt cha mẹ chồng, Phương Vân vừa gặp đã biết là người giỏi việc nhà bèn cho vợ chồng ba trăm lượng vàng để mua ruộng đất nhà cửa. Hôm sau Hoàng và con Vương tới thăm hỏi thì lầu gác đều biến mất không biết là ở đâu. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Có người đẹp bên cạnh là điều mà người ta mong cầu cả khi ở giữa nơi địa ngục, huống chi là ở cõi hưởng thọ vô cùng sao? Địa tiên gả con gái đẹp xuống trần, chỉ sợ nơi cửa khuyết của Thượng đế sẽ vắng vẻ không còn ai nữa. Nhưng kẻ khinh bạc thì bị tước giảm lộc số, lý vốn là thế, sao người tiên lại không e ngại nhỉ? Song lời lẽ của người vợ đè nén y sao mà tai ác thế?[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 143 - 144 -[/B] Hồ Tứ Nương (Hồ Tứ Nương) Trình Hiếu Ân người đất Kiếm Nam (tỉnh Tứ Xuyên), lúc trẻ rất thông minh, giỏi văn chương. Cha mẹ đều mất sớm, nhà nghèo không có chút của cải, không biết làm gì để sống, tới xin làm thuê giữ việc sổ sách cho quan Thông chính ty họ Hồ. Ông Hồ sai làm văn để thử tài, rất hài lòng, nói "Người này không nghèo mãi được, có thể gả con gái cho”. Ông Hồ có ba trai bốn gái, đều đã hứa cưới gả cho các nhà đại gia ngay từ lúc mới sinh ra, chỉ có con gái út là Tứ Nương là con người thiếp, mẹ mất sớm nên đến tuổi cập kê vẫn chưa hứa gả cho ai, bèn gả cho Trình. Có kẻ chê cười cho rằng ông Hồ già nua lú lẫn, nhưng ông không hề đếm xỉa tới, cắt nhà cho sinh ở, chu cấp rất đầy đủ. Các công tử khinh bỉ không thèm ngồi ăn chung với Trình, bọn tôi tớ cũng về hùa. Sinh im lặng không so hơn kém, chỉ ra sức học hành. Bọn họ dè bỉu chê bai, Trình vẫn học hành không nghỉ, họ làm ầm ĩ cạnh chỗ học thì Trình mang sách vào phòng vợ ngồi đọc. Lúc trước khi Tứ Nương chưa lấy chồng, có người thầy bói giỏi biết số phận sang hèn xem tướng cho cả nhà đều không khen ngợi ai, chỉ khi Tứ Nương tới mới nói "Cô này đúng là bậc quý nhân". Đến khi Tứ Nương lấy Trình, các chị em đều gọi là quý nhân để chế nhạo. Nhưng Tứ Nương đoan chính cẩn trọng ít nói, cứ làm như không nghe thấy, dần dần tới bọn tớ gái cũng gọi như vậy. Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Quế Nhi nghe thế rất bực tức, nói lớn "Biết đâu lang quân nhà ta làm nên bậc quý quan thì sao?". Người chị thứ hai của Tứ Nương nghe thấy khinh bỉ nói "Trình lang mà làm được quý quan thì khoét tròng mắt ta đi". Quế Nhi tức giận nói “Chỉ sợ lúc ấy không móc tròng mắt ra được thôi". Người chị thứ hai của Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Xuân Hương thấy thế nói “Nhị Nương mà nuốt lời ta sẽ móc mắt thay cho". Quế Nhi càng tức tối đập tay Xuân Hương lập lời thề, nói "Đánh cuộc hai tròng mắt đấy". Nhị Nương giận là hỗn láo tát Quế Nhi, Quế Nhi kêu gào rầm rĩ, phu nhân nghe biết chuyện nhưng không biết bênh vực ai, chỉ nhếch mép cười. Quế Nhi về kêu khóc với Tứ Nương, Tứ Nương đang kéo sợi không tức giận cũng không nói gì, chỉ bình thản kéo sợi như không nghe thấy. Gặp ngày sinh nhật của ông Hồ, các con rể đều tới mang quà mừng thọ chất đầy sân. Đại Nương đùa hỏi Tứ Nương “Nhà ngươi mừng thọ vật gì?", Nhị Nương nói “Hai con mắt mang một cái mồm", Tứ Nương thản nhiên không hề tỏ vẻ xấu hổ, mọi người thấy nói gì nàng cũng như không hiểu, càng xúm vào chế nhạo. Chỉ có người thiếp yêu của ông Hồ là Lý thị, mẹ ruột của Tam Nương là coi trọng Tứ Nương, thường quan tâm thương xót nàng, vẫn nói với Tam Nương rằng "Tứ Nương bên trong thông minh mà bề ngoài chất phác, giữ kín khôn ngoan không để lộ ra, bọn ranh con kia đều không tự biết mình đang trong cõi bao la, huống hồ Trình lang ngày đêm ra sức học hành, há lại ở dưới người măi sao? Con đừng có học thói xấu của họ, cứ đối xử với nàng cho tốt, ngày khác còn dễ nhìn mặt nhau”, nên Tam Nương mỗi khi về thăm nhà vẫn trò chuyện vui vẻ với Tứ Nương. Năm ấy Trình nhờ ông Hồ được vào học trường huyện, năm sau quan Học sứ về khảo thí sĩ tử thì ông vừa chết, Trình cư tang như con ruột, chưa được dự thi. Kế mãn tang, Tứ Nương đưa tiền cho bảo lên đường dự thi khoa Di tài, dặn rằng "Trước nay ở đây lâu mà không bị đuổi đi là nhờ có cha già còn sống, nay thì muôn phần không được nữa, nếu chàng thi đỗ thì may ra lúc trở về mới có nhà ở thôi". Lúc Trình lên đường, Lý thị và Tam Nương tặng tiễn rất hậu. Trình vào trường ra sức nghiền ngẫm làm bài, quyết tâm thi đỗ bằng được. Nhưng không bao lâu ra bảng thì bị đánh rớt, rầu rĩ uất ức khó nỗi trở về. May là trong túi còn tiền, bèn lên đường vào kinh. Lúc ấy bên nhà vợ có nhiều người làm quan trong kinh, Trình sợ họ biết được chế nhạo mĩa mai bèn thay tên đổi họ, khai dối quê quán xin náu thân ở nhà bậc quan lớn. Quan Ngự sử họ Lý người Đông Hải (huyện Diệm Thành tỉnh Sơn Đông) gặp Trình rất quý trọng, nhận làm môn khách, giúp cho tiền bạc học hành, nộp tiền mua cho chức Cống sinh bảo ứng thí ở phủ Thuận Thiên. Trình thi mấy kỳ đều đỗ, được trao chức Thứ Cát sĩ, lúc ấy bèn nói thật mọi chuyện. Ông Lý cho mượn ngàn lượng vàng, sai người tới Kiếm Nam mua nhà cho Trình trước. Lúc ấy Hồ Đại Lang vì cha chết nên bán những nhà đẹp ruộng tốt nhân mua lấy, sau đó sai xe ngựa tới đón Tứ Nương. Trước là khi Trình thi đỗ Tiến sĩ có người tới báo tin mừng, cả nhà nghe thấy phát ghét, lại nhìn thấy tên họ không phải là Trình bèn quát đuổi đi. Gặp hôm Tam Lang cưới vợ, khách khứa thân thích tới ăn mừng, các anh chị em đều có mặt, chỉ Tứ Nương là không được anh trai chị dâu gọi tới. Chợt có một người chạy vào dâng thư của Trình gởi Tứ Nương, các anh em mở ra xem, nhìn nhau tái mặt. Khách khứa thân thích trong tiệc đều xin gặp Tứ Nương, các chị em đều lo lắng chỉ sợ Tứ Nương căm hòn không chịu tới. Không bao lâu thấy nàng thong thả bước vào, kẻ thì chúc mừng, kẻ thì mời ngồi, kẻ thì hỏi thăm ầm ĩ cả phòng. Ai nghe cũng nghe Tứ Nương, ai nhìn cũng nhìn Tứ Nương, ai nói cũng nhắc Tứ Nương, nhưng Tứ Nương vẫn bình thản như cũ. Mọi người thấy nàng vẫn thế cũng hơi yên tâm, rồi đó tranh nhau rót rượu mời Tứ Nương. Đang lúc ăn uống vui vẻ, chợt ngoài cửa có tiếng kêu khóc rất gấp, cả tiệc lạ lùng hỏi nhau, chợt thấy Xuân Hương chạy xộc vào, mặt mũi đầy máu. Mọi người cùng hỏi, cô ta chỉ khóc không đáp, Nhị Nương quát hỏi mới mếu máo thưa “Quế Nhi đòi móc tròng mát con, nếu không giảng ra được thì đã bị nó khoét mắt rồi". Nhị Nương sượng ngắt, mồ hôi toát ra chảy trôi hết cả son phấn, Tứ Nương vẫn im lặng. Cả tiệc im lặng không ai nói một câu, khách khứa thấy thế lục tục chào về. Tứ Nương ăn mặc đẹp đẽ, chỉ lạy chào Lý phu nhân và Tam Nương rồi lên xe đi, mọi người mới biết người mua nhà ruộng là Trình. Tứ Nương vừa về tới nhà mới, đồ dùng còn thiếu thốn, phu nhân và các công tử đều tặng đầy tớ vật dùng nhưng Tứ Nương không nhận gì cả, chỉ nhận một tỳ nữ của Lý phu nhân tặng. Không bao lâu Trình về dự đám giỗ, xe ngựa tùy tùng đông đặc như mây, tới nhà nhạc gia vào lạy linh cữu ông Hồ, kế lạy chào Lý phu nhân, các công tử vừa đội mũ mặc áo xong ra chào thì Trình đã lên kiệu đi rồi. Ông Hồ chết, các công tử hàng ngày cứ lo tranh giành gia tài không ngó ngàng gì tới linh cữu, qua mấy năm chỗ quàn quan tài hư dột, chỉ tạm lấy nhà rộng làm lăng mộ mà thôi. Trình thấy thế đau xót, cũng không bàn bạc với các công tử, chọn ngày chôn cất, mọi nghi lễ đều lo liệu đầy đủ. Ngày tống táng mũ lọng chen chúc tới thăm viếng, xóm giềng đều ca ngợi. Hơn mười năm sau Trình làm quan lớn, phàm gặp những người làng có chuyện nguy cấp đều hết sức giúp đỡ. Kế Nhị Lang giết người bị bắt, việc đưa tới quan Tuần phương là bạn đồng khoa với Trình, tin tức rất gấp. Đại Lang nhờ cha vợ là Quan sát họ Vương viết thư nhờ vả nhưng không thấy trả lời, càng thêm sợ hãi, muốn tới nhờ em gái nhưng thấy xấu hổ. Bèn xin Lý phu nhân viết thư cầm đi, tới kinh không dám vào ngay, rình lúc Trình đi chầu mới tìm vào nhà, mong Tứ Nương nghĩ tình anh em mà quên hiềm khích cũ. Người giữ cổng vừa báo tin, lập tức có bà vú cũ ra đưa Đại Lang vào sảnh đường, bày rượu thịt ra mời qua loa. Đại Lang ăn uống xong thì Tứ Nương ra, mặt mày tươi tắn hỏi "Đại ca nhiều việc bận rộn, sao lại ngàn dặm vất vả tới đây”. Đại Lang lạy phục xuống đất khóc lóc kể lể nguyên do, Tứ Nương đỡ đứng lên cười nói "Đại ca đường đường là đàn ông thì chuyện đó có gì là lớn sao lại làm thế. Em đây chỉ là một người đàn bà nhưng anh đã thấy kêu khóc với ai bao giờ chưa?". Đại Lang liền đưa thư của Lý phu nhân ra, Tứ Nương nói "Nương tử ở nhà các anh đều là người trời, cứ nhờ cha anh các nàng là lập tức xong việc ngay, sao lại bôn ba tới đây?”. Đại Lang không biết nói sao, chỉ năn nỉ lạy lục. Tứ Nương giận dữ nói "Ta tưởng là anh trai lặn lội tới thăm em gái, té ra là vì có tội lớn nên tới cầu xin bậc quý nhân à?", rồi phẩy tay áo bỏ vào. Đại Lang thẹn thùng uất ức ra về, tới nhà kể lại tường tận, cả nhà lớn nhỏ ai cũng chửi rủa, Lý phu nhân cũng cho rằng Tứ Nương tàn nhẫn. Qua vài hôm Nhị Lang được tha về nhà, mọi người cả mừng, càng cười nhạo Tứ Nương chuốc lấy sự hờn oán chê bai. Chợt có người bẩm Tứ Nương sai người tới hầu. Lý phu nhân, bèn gọi vào. Người ấy dâng vàng lụa xong, nói phu nhân gởi thư về việc cậu hai, công việc gấp quá chưa có thư trả lời, xin dâng chút lễ mọn thay thư phúc đáp. Lúc ấy mọi người mới biết Nhị Lang được tha về là nhờ sức của Trình. Về sau Tam Nương dần dần sa sút, Trình giúp đỡ báo đáp rất hậu, lại vì Lý phu nhân không có con trai nên đón bà về phụng dưỡng như mẹ ruột. [B]144. Phép Thuật Nhà Sư[/B] [B] (Tăng Thuật)[/B] Hoàng sinh là con nhà thế gia cũ, tài cao chí lớn. Ở ngôi chùa ngoài thôn có nhà sư Mỗ chơi thân với sinh. Kế sư đi vân du, hơn mười năm mới trở về, gặp Hoàng than rằng "Ta cứ nghĩ là ông đã thành đạt lâu rồi, thế mà nay vẫn là chân bạch đinh sao? Chắc là phúc mệnh mỏng Iắm. Ta xin vì ông lo lót với Diêm Vương, ông có thể lo được mười ngàn đồng không?”. Hoàng đáp không được. Sư nói "Vậy xin ông cố lo một nửa, còn bao nhiêu ta sẽ vay mượn cho ông", hẹn sau ba ngày phải có, Hoàng ưng thuận. Qua ba ngày sư quả nhiên đem năm ngàn đồng tới đưa cho Hoàng. Nhà Hoàng vốn có cái giếng rất sâu, nước không bao giờ cạn, nghe nói là thông ra với sông lớn. Sư bảo đem tiền ra đặt cạnh giếng, dặn rằng "Khoảng chừng nào ta về tới chùa rồi phải lập tức ném tiền xuống giếng, chờ khoảng nửa bữa cơm sẽ có một đồng tiền nổi lên thì vái lạy", rồi đi. Hoàng không hiểu là thuật gì, lại nghĩ rằng chưa biết kết quả ra sao mà vứt cả mười ngàn đồng tiền xuống giếng thì rất đáng tiếc, bèn chỉ ném xuống một ngàn. Giây lát thấy bọt nước rất lớn sủi lên rồi có tiếng leng keng, liền có một đồng tiền nổi lên, to như cái bánh xe. Hoàng cả kinh vội vàng vái lạy rồi lấy bốn ngàn đồng còn lại ném xuống, trúng đồng tiền lớn kêu thành tiếng nhưng bị đồng tiền lớn cản lại nên không chìm xuống được. Chiều tối sư tới trách, nói "Sao không ném xuống hết?", Hoàng đáp đã ném xuống hết rồi. Sư nói "Sứ giả của Diêm Vương chỉ đem được một ngàn đồng về, sao dám dối trá?", Hoàng bèn thú thật. Sư than "Kẻ keo kiệt ắt không làm được chuyện lớn, đó cũng là mệnh của anh, suốt đời cũng chỉ đỗ được khoa Minh kinh, chứ không thì đã đỗ Tiến sĩ ngay rồi". Hoàng hối hận lắm, xin cầu đảo lần nữa, nhà sư chối từ bỏ đi. Hoàng nhìn xuống giếng thấy tiền vẫn còn nổi liền thả dây xuống kéo lên, đồng tiền lớn bèn chìm xuống. Năm ấy Hoàng nhờ đậu Tú tài được sung Cống cử, rốt lại đúng như lời sư nói. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Chẳng lẽ dưới âm ty cũng mở khoa thi quyên tiền hay sao? Mười ngàn đồng mà được một chân Tiến sĩ thì giá cũng rẻ lắm, nhưng một ngàn mà được sung Cống cử kể cũng đắt. Những kẻ không đậu Minh kinh thật không đáng giá một đồng![/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 145 - 146 -[/B] Liễu Sinh (Liễu Sinh) Chu sinh là dòng dõi nhà quan ở phủ Thuận Thiên (kinh đô ở tỉnh Hà Bắc), chơi thân với Liễu sinh. Liễu được dị nhân dạy cho thuật xem tướng, thường nói với Chu rằng "Ông không có phận làm quan, còn sự giàu có muôn chung thì sức người cũng lo được, nhưng tôn phu nhân tướng bạc sợ không thể giúp ông dựng được cơ nghiệp". Không bao lâu quả vợ Chu chết, nhà cửa tiêu điều không ai coi sóc, Chu bèn tới nhà Liễu sinh nhờ bói về hôn nhân. Vào phòng khách cùng ngồi hồi lâu thì Liễu bỏ vào trong mãi không ra, gọi hai ba lần mới trở ra nói “Ta hàng ngày vẫn tìm cho ông một người vợ giỏi, hôm nay mới tìm được, mới rồi là ở nhà trong thi thố chút thuật mọn, xin Nguyệt lão xe sợi tơ hồng cho ông đấy thôi". Chu mừng rỡ hỏi han, Liễu đáp “Mới rồi có một người xách cái bị ở đây ra, ông có gặp không?". Chu nói "Có gặp, thấy rách rưới như thằng ăn mày". Liễu nói “Đó là cha vợ của ông, nên kính lễ". Chu nói "Vì thân thiết với nhau mới tới bàn chuyện riêng, sao đùa cợt nhau quá thế? Ta tuy nghèo hèn cũng là dòng dõi nhà quan, sao đến nỗi phải cưới con nhà đầu đường xó chợ”. Liễu nói "Không phải thế, con bò lang còn sinh được bê đẹp, có hại gì đâu”. Chu hỏi "Ông gặp con gái y chưa?”. Liễu đáp "Chưa, ta với y không từng quen biết, ngay cả tên họ cũng mới hỏi mà biết đây thôi". Chu cười nói “Bò lang còn chưa biết, làm sao biết được bê?", Liễu nói “Ta lấy số mệnh mà tin thôi, người ấy hung dữ mà hèn hạ nhưng ắt sinh được con gái có phúc lớn. Nhưng nếu miễn cưỡng tác hơp bừa thì ắt có nạn lớn, nên mới phải cầu đảo". Chu về cũng chưa tin hẳn vào lời Liễu, tìm đủ cách mai mối lấy vợ, nhưng không cưới được đám nào. Một hôm Liễu chợt tới nói "Có một người khách, ta đã thay ông gởi thư mời". Chu hỏi là ai, Liễu đáp "Đừng hỏi han gì cả, cứ lo cơm nước cho mau”. Chu không hiểu chuyện gì, cứ theo lời chuẩn bị cơm rượu. Giây lát khách tới thì ra là họ Phó, làm lính trong doanh. Chu trong lòng không thích nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ vồn vã trò chuyện, còn Liễu sinh thì một dạ hai thưa rất mực cung kính. Giây lát rượu thịt bày lên, có lẫn cả cỏ dại trong mâm. Liễu sinh đứng dậy nói với khách "Công tử đây hâm mộ ông đã lâu, thường nhờ ta đi mời, nhưng lần trước mới được gặp, lại nghe không mấy bữa nữa lại đi chinh phạt nơi xa nên ta lập tức mời ngay khiến chủ nhân bị bất ngờ”. Trong lúc uống rượu, Phó lo ngựa bị bệnh không cưỡi được, Liễu cũng gật gù cùng tính toán này nọ. Kế khách ra về, Liễu trách Chu “Có ngàn vàng cũng không mua được người bạn như thế, sao ông lại im lặng ngồi nhìn rồi mượn ngựa Chu để về, nhân đó giả lời Chu dắt ra cổng đưa dây cương tặng luôn cho Phó. Chu biết được bực lắm nhưng chẳng biết làm sao. Qua năm sau Chu định đi Giang Tây làm mạc khách ở ty Niết, tới nhà Liễu nhờ xem giùm một quẻ. Liễu nói chuyến này đi là đại cát, Chu cười nói “Ta không có ý gì khác, chỉ là có ít tiền định cưới người vợ đẹp, may mà lời nói trước kia của ông không nghiệm, thì có được không?”. Liễu nói "Tất cả đều như ông muốn mà". Chu tới Giang Tây thì vừa gặp lúc có bọn giặc lớn nổi loạn, ba năm không về được. Sau mới hơi yên bèn chọn ngày lên đường về, giữa đường bị bọn cướp bắt, bảy tám người cùng gặp nạn bị cướp hết tiền rồi thả ra, duy Chu bị giải về tận sào huyệt của bọn cướp. Tên đầu đảng hỏi kỹ gia thế của Chu rồi nói "Ta có đứa con gái muốn dâng ông lo việc hầu hạ quét dọn, xin đừng chối từ". Chu không đáp, tên cướp tức giận liền sai đem Chu ra chém. Chu sữ, nghĩ rằng cứ tạm vâng lời y rồi thong thả sẽ tìm cách trốn đi, bèn nói "Sở dĩ tiểu sinh còn chần chừ vì thấy mình là học trò yếu ớt không thể theo việc binh, chỉ e càng làm lụy cho trượng nhân thôi. Chứ nếu được cho vợ chồng dắt nhau đi khỏi nơi này, thì còn ơn đức nào lớn bằng". Tên cướp nói "Ta đang lo con gái làm phiền lụy, chuyện đó có gì mà không nghe theo được". Bèn dẫn Chu vào trong, cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp, thấy nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, xinh đẹp như tiên. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, nàng đằm thắm hơn cả lòng Chu mong mỏi, hỏi kỹ họ tên mới biết cha nàng chính là người xách cái bị ở nhà Liễu sinh năm trước. Nhân thuật lại lời Liễu cho nàng nghe, hai người cùng than thở. Qua bốn hôm, tên cướp định đưa hai người đi, chợt đại quân bất ngờ kéo tới, cả nhà đều bị bắt trói. Có ba vị quan tướng giám trảm, đem cha vợ Chu ra chém xong, lần lượt tới Chu, Chu đã nghĩ phen này ắt phải chết thì một viên tướng nhìn kỹ nói "Có phải Chu mỗ không?", té ra đó là người lính họ Phó nhờ có quân công đã được thăng tới chức Phó tướng quân. Phó nói với hai người kia rằng "Đây là danh sĩ dòng dõi thế gia ở quê ta, lẽ nào lại đi làm giặc?", rồi cởi trói cho Chu, hỏi từ đâu tới. Chu bịa đặt nói "Vừa ở ty Niết tỉnh Giang Tây cưới vợ về, không ngờ bị bọn cướp bắt, may được ông cứu vớt cho, ơn tái sinh lớn như trời đất, nhưng vợ chồng chia lìa, xin nhờ oai lớn giúp cho được ngói lành". Phó liền sai giải hết tù nhân ra cho Chu nhận mặt vợ. Chu tìm được cô gái rồi, Phó cho ăn uống, giúp đỡ tiền bạc, nói "Trước đây nhờ cái ơn cho ngựa, sớm tối vẫn không quên, nhưng việc quân bận rộn không rảnh rỗi tới tham kiến đươc, nay xin giúp ông hai cỗ ngựa tất, năm mươi lượng vàng để về quê", lại sai hai tên quân kỵ đi hộ tống. Trên đường cô gái nói với Chu "Cha ngu dại không chịu nghe lời nói thẳng, mẹ lúc chết đã biết có ngày hôm nay lâu rồi. Sở dĩ còn nương náu sớm tối vì lúc nhỏ từng được ông thầy tướng xem cho, nói rằng ngày sau có thể thu lượm được hài cốt của cha mẹ mà thôi. Chỗ ấy có số tiền lớn chôn giấu, có thể đào lên chuộc xác cha, còn thừa đem về cũng đủ mưu sinh". Bèn dặn hai tên quân kỵ đợi trên đường, hai người quay về chỗ cũ, thấy nhà cửa đã cháy sạch, lấy bội đao đào đống tro, xương dưới một thước quả được vàng, gói vào hành lý rồi quay trở lại. Đem một trăm lượng đút lót hai tên quân kỵ nhờ họ chôn cất xác cha cô gái, nàng lại đưa Chu tới lạy trước mộ mẹ xong mới lên đường. Tới địa giới tỉnh Trực Lệ, hai người thưởng cho hai tên quân kỵ rất hậu rồi chia tay. Chu lâu ngày không về, gia nhân đều cho rằng đã chết, thả sức trộm cắp, thóc gạo vải lụa vật dùng trong nhà không còn chút gì. Đến lúc nghe chủ nhân về, sợ hãi kéo nhau trốn sạch, chỉ còn một bà già, một người tỳ nữ và một lão bộc ở lại. Chu vì ra khỏi chỗ chết được sống mà trở về nên cũng không hỏi gì tới, qua thăm Liễu thì không rõ đã đi đâu mất rồi. Cô gái coi sóc việc nhà còn hơn cả đàn ông, chọn những người thành thật siêng năng đưa vốn cho buôn bán, lời lãi chia đôi. Mỗi khi các bạn buôn họp nhau tính toán ở nhà, nàng buông rèm ngồi trong lắng nghe, ai lầm một con số là chỉ ngay ra chỗ sai, vì thế trong ngoài không ai dám lừa dối. Vài năm có tới hàng trăm bạn buôn, nhà giàu có hàng mấy mươi vạn lượng vàng, mới sai người bốc mộ cha mẹ đem về hậu táng. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nguyệt lão cũng có thể đút lót, nên không lạ gì mà những kẻ mai mối cũng giống như người buôn bán. Nhưng tên cướp kia lại có người con gái như thế sao? Gò đất nhỏ không có tùng bách lớn, đó là lời luận bàn của kẻ quê mùa dốt nát mà thôi. Đàn bà con gái mà còn để mất, huống hồ đem kiến thức ấy xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ ư?[/I] [B]146. Nhiếp Chính[/B] [B](Nhiếp Chính)[/B] Lộ vương ở Hoài Khánh (tỉnh Hà Nam) có đức tối, cứ dạo chơi ra dân gian thấy con gái đẹp là bắt về. Có vợ Vương sinh bị vương nhìn thấy, sai xe ngựa vào tới tận nhà bắt đi. Cô gái khóc lóc kêu gào, bị bắt lên kiệu khiêng ra. Vương bỏ chạy, núp sau mộ Nhiếp Chính chờ vợ đi qua để vĩnh biệt. Không bao lâu vợ tới, nhìn thấy chồng khóc lớn gieo mình xuống đất. Vương trong lòng đau đớn bất giác khóc thất thanh, bọn gia nhân của vương biết là Vương sinh bèn túm lấy đánh đập túi bụi. Chợt trong mộ có người đàn ông bước ra, tay cầm đao sắc, khí thế rất oai mãnh, lớn tiếng quát “Ta là Nhiếp Chính đây, sao các ngươi dám bắt ép con gái nhà lương dân. Nghĩ bọn ngươi chỉ là kẻ thừa lệnh nên tạm tha cho lần này, về nhắn với ông chủ vô đạo của các ngươi rằng nếu không sửa nết xấu thì có ngày ta sẽ lấy đầu đấy”. Đám gia nhân nhà vương hoảng sợ bỏ xe kiệu chạy, người đàn ông lại bước thẳng vào mộ biến mất. Vợ chồng Vương tới lạy trước mộ rồi về, vẫn còn sợ là vương lại tới nhưng hơn mười ngày cũng không thấy gì mới yên lòng. Từ đó vương cũng bớt dâm đãng hống hách. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ta thường đọc Truyện Thích khách chỉ khâm phục có người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ[B]*[/B] mà thôi. Xả thân để báo đáp tri kỷ thì nghĩa khí như Dự Nhượng[B]**[/B] giữa ban ngày giết chết khanh tướng thì vũ dũng như Chuyên Chư[B]***[/B] bằng đầu gối tới trước mặt Liêu, lấy tay xé đôi con cá ra, rút ngọn chủy thủ giấu sẵn trong bụng cá đâm chết Liêu, lột da mặt hủy hình dung tự tử để không làm liên lụy tới người thân thì mưu trí như Tào Mạt ([B]4*[/B]). Còn như Kinh Kha không đủ sức để ám sát vua Tần mà lại dứt áo ra đi, tự chuốc lấy diệt vong, khinh suất mượn cái đầu của Phàn tướng quân ([B]5*[/B]) gặp Tần Thủy Hoàng nhưng đâm không trúng, bị giết chết, biết ngày nào mới trả lại được, đó là mối hận của ngàn đời, chắc bị Nhiếp Chính chê cười. Đọc dã sử thấy nói mộ Kinh Kha bị hồn ma của Dương Giác Ai, Tả Bá Đào quật lên ([B]6*[/B]) nếu quả thế thì Kinh Kha sống không thành danh, chết còn mất nghĩa, so với Nhiếp Chính ôm lòng nghĩa mà trừng trị kẻ hoang dâm thì hay dở khác nhau ra sao? Ôi, Nhiếp Chính là người hiền, xem chuyện này lại càng tin là đúng.[/I] * Người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ: tức Nhiếp Chính, người nước Hàn thời Chiến quốc, giết người nên dắt mẹ và chị qua trốn tránh ở nước Tề. Quan khanh nước Hàn là Nghiêm Trọng Tử có thù oán với Tướng quốc Hiệp Lũy nên tìm người báo thù, tới Tề nghe tiếng Chính là người dũng cảm bèn đem lễ vật rất hậu tới ra mắt, nhưng Chính không nhận. Sau bà mẹ chết, Chính chôn cất xong bèn tới gặp Trọng Tử hỏi han rồi không nhận xe ngựa tráng sĩ giúp đỡ, một mình lên đường vào thẳng phủ Tướng quốc lên tận thềm giết chết Hiệp Lũy, kế tự lột da mặt khoét tròng mắt, mổ bụng móc ruột tự tử để khỏi liên lụy tới người chị. **Dự Nhượng: người nước Tấn thời Xuân thu, theo họ Phạm Trung Hàng nhưng không được biết tới, bèn bỏ theo Trí Bá, rất được Trí Bá coi trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương Tử diệt, Nhượng trốn vào núi, nói “Kẻ sĩ xả thân cho người biết mình, đàn bà điểm trang cho người yêu mình, nay Trí Bá biết ta, nếu vì báo thù cho Trí Bá mà chết thì hồn phách ta cũng không thẹn", bèn đổi tên họ cải trang để ám sát Tương Tử nhưng bị bắt, Tương Tử khen là nghĩa khí nên tha cho. Nhượng lại sơn mặt nuốt than thay đổi diện mạo thanh âm núp dưới cầu chờ Tương Tử đi qua mà đâm nhưng lại bị bắt, bèn xin cái áo của Tương Tử tuốt kiếm nhảy lên đâm vào ba lần rồi tự sát. *** Chuyên Chư người nước Ngô thời Xuân thu, có tiếng là dũng sĩ, được Ngữ Tử Tư tiến cử cho Công tử Quang (tức vua Ngô Hạp Lư). Lúc ấy Quang muốn giết Ngô vương Liêu là anh con bác để giành ngôi, dò biết Liêu thích ăn chả cá bèn sai Chư tới Thái Hồ học làm món chả cá. Kế mở tiệc mời Liêu, nửa chừng giả đau chân vào nhà trong băng lại sai Chư đem chả cá lên dâng. Giáp sĩ của Liêu lục soát trong người Chư không thấy gì lạ bèn cho vào, Chư bưng mâm chả cá đi... 4* Tào Mạt: người nước Lỗ thời Xuân thu, tướng của Lỗ Trang công. Tề Hoàn công đánh Lỗ, nước Lỗ thua liền mấy trận bèn xin giảng hòa. Tề Hoàn công buộc Lỗ Trang công phải tới hội minh, cắt đất cho Tề. Tào Mạt theo Lỗ Trang công tới hội minh, sấn lên đài rút chủy thủ uy hiếp bắt Tề Hoàn công phải trả hết những đất đai của nước Lỗ, Hoàn công sợ hãi ưng thuận, Mạt buông chủy thủ lui xuống đứng lại vào chỗ các quan nước Lỗ, sắc mặt vẫn không thay đổi. 5* Kinh Kha... Phàn tướng quân: Kinh Kha là người đất Vệ thời Chiến quốc nổi tiếng can đảm, kiếm thuật tuyệt luân, được thái tử Đan nước Yên mời về làm thượng khách, nhờ đi ám sát Tần Thủy hoàng. Lúc bấy giờ có Phàn Ư Kỳ là phản tướng nước Tần chạy qua nước Yên, gia quyến đều bị Tần Thủy Hoàng giết, Kinh Kha tới gặp Ư Kỳ nói nếu có được đầu Ư Kỳ thì có thể tới gần vua Tần để nhân cơ hội ám sát báo thù cho Ư Kỳ. Ư Kỳ khảng khái tự chặt đầu đưa cho Kinh Kha. Sau Kinh Kha qua Tần, vào điện... 6*Mộ Kinh Kha... quật lên: Quan Trung lưu ngụ chí chép Tả Bá Đào ở Tây Khương nghe tiếng Sở Nguyên vương hiền bèn cùng bạn là Dương Giác Ai tìm tới. Tới núi Lương Sơn gặp tuyết lớn, không đủ lương thực áo rét cho cả hai người, Bá Đào bèn cởi áo trút lương cho Giác Ai đi tiếp còn mình thì vào rừng chịu chết. Giác Ai tới Sở, được phong làm Trung Đại phu, sau về quê mơ thấy Bá Đào nói "Mộ ta gần mộ Kinh Kha, cùng với y có thù hằn, ông nên bó cỏ làm hình người cho cầm binh khí đốt trước mộ ta". Giác Ai theo lời, hôm sau mơ thấy Bá Đào tới nói "Đám quân sĩ ông đốt cho đều vô dụng, Kinh Kha rất hung hãn, lại có Cao Tiệm Ly giúp đỡ, không bao lâu nữa ta sẽ bị họ quật mộ". Giác Ai bèn tự sát, người làng chôn cạnh mộ Bá Đào. Đêm hôm sau trời nổi mưa to gió lớn, sấm sét vang dội, ở khu mộ Bá Đào có tiếng đánh nhau vang xa mấy mươi dặm. Đến sáng người làng ra xem, thấy mộ Kinh Kha bị quật lên, xương trắng rải khắp mặt đất. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 147 - 148 -[/B] Anh Em Họ Thương (Nhị Thương) Có nhà họ Thương ở huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông), anh giàu mà em nghèo, ở liền vách nhau. Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mất mùa lớn, người em sớm tối không lo được hai bữa. Một hôm trời đã trưa mà chưa nổi lửa nấu cơm, bụng đói sôi òng ọc, không biết làm sao. Vợ bảo tới nói với anh, Thương đáp "Vô ích, nếu anh thương ta nghèo thì đã sớm có cách giúp đỡ rồi". Vợ ép mãi, Thương sai con đi, giây lát tay không quay về, Thương nói "Thế nào nào?". Vợ hỏi lại con cho rõ, đứa con nói "Bác ngần ngừ rồi nhìn bác gái, bác gái nói Anh em đã ở riêng thì cơm ai nấy ăn, ai mà lo cho nhau được". Vợ chồng im lặng đem những bát mẻ giường nát cầm bán đổi chút tấm cám sống qua ngày. Trong làng có ba bốn gã vô lại, thấy Thương anh giàu có trèo tường vào cướp, vợ chồng Thương anh giật mình tỉnh dậy đập nồi đập chảo kêu gào nhưng người làng đều ghét không ai tới cứu. Bất đắc dĩ phải gọi em, Thương nghe tiếng chị dâu kêu cứu muốn xông qua ngay, vợ ngăn lại, lớn tiếng nói vọng qua "Anh em đã ở riêng thì họa ai nấy chịu, ai mà lo cho nhau được". Kế bọn cướp phá cửa bắt vợ chồng Thương anh đốt thịt tra tấn, hai người kêu gào thảm thiết. Thương nói "Tuy anh không có tình nghĩa nhlmg chẳng lẽ ta lại ngồi yên nhìn anh chết mà không cứu sao!", rồi dắt con nhảy tường qua lớn tiếng quát tháo. Cha con Thương vốn khỏe mạnh, người ta đều sợ, bọn cướp lại sợ có người khác cùng tới cứu bèn tháo chạy. Thương nhìn tới anh chị thì hai vế đều bị đốt cháy sém, bèn đỡ lên giường, gọi bọn gia nhân tới trông coi rồi về. Thương anh tuy bị thương nhưng của cải không mất mát tí gì, bèn nói với vợ “Nay mà còn được của cải là nhờ chú nó, phải chia ra giúp đỡ cho chú ấy". Vợ nói "Nếu anh có anh em tốt thì đã không phải chịu khổ như thế”, Thương anh cũng im lặng. Thương trong nhà hết cả cái ăn, nghĩ rằng ắt anh sẽ báo đáp chút ít nhưng lâu quá vẫn không thấy tăm hơi gì. Vợ không chờ được, sai con mang túi qua vay, mang được một đấu gạo về, vợ Thương tức giận muốn đem trả, Thương cản lại. Qua hai tháng thì nghèo túng không còn cách nào xoay xở nữa, Thương nói "Nay không còn cách nào mưu sinh, chẳng bằng bán nhà cho anh, anh sợ ta đi chỗ khác có khi không nhận giấy tờ mà cấp cho tiền gạo chưa biết chừng. Còn nếu không thế thì được chút ít tiền cũng còn sống được". Vợ cho là đúng, sai con cầm giấy tờ nhà qua nói với Thưong anh, Thương anh nói với vợ "Cho dù chú nó bất nhân thì cũng là anh em của ta, chú ấy đi thì ta còn một mình, chẳng bằng trả lại giấy tờ nhà mà giúp đỡ cho chú ấy”. Vợ nói "Không phải thế, chú ấy nói đi là để dọa ta thôi, mà nếu đi thật thì chẳng lẽ những kẻ không có anh em trên đời đều chết ráo à? Ta cứ đắp tường cho cao cho chắc để tự giữ, chẳng bằng cứ nhận giấy tờ nhà, cho chú ấy muốn đi đâu thì đi, cũng có thể mở rộng thêm nhà cửa". Bàn định xong, bảo Thương làm giấy bán nhà rồi đưa tiền cho đi, từ đó Thương dời qua ở nơi khác. Có bọn vô lại nghe tin Thương đã đi lại tới cướp nhà Thương anh, tra tấn đủ cách vô cùng thê thảm, có bao nhiêu tiền bạc đều phải dốc cả ra để chuộc mạng. Bọn cướp ra, mở kho thóc gọi những nhà nghèo trong thôn tới xúc, trong khoảnh khắc đã hết sạch. Hôm sau Thương mới nghe tin, chạy về xem thì anh đã hôn mê không nói gì được nữa, lát sau mở mắt nhìn em, lấy tay cào lên chiếu rồi tắt thở. Thương phẫn uất thưa lên quan huyện nhưng bọn cướp đã trốn mất không thể truy tìm, những người cướp thóc thì có tới hàng trăm mà đều là nhà nghèo trong làng, quan cũng không biết làm sao. Thương anh còn để lại một đứa con trai năm tuổi, lúc nhà đã nghèo thường tự tìm qua nhà chú ở, mấy ngày liền không chịu về, đưa về thì khóc ròng. Vợ Thương rất không ưa, Thương nói “Cha mẹ nó bất nghĩa, chứ thằng nhỏ có tội gì?", rồi mua cho vài cái bánh chưng dắt nó về. Vài hôm sau lại lén giấu vợ con mang gạo đem cho chị dâu nuôi cháu, dần dần thành lệ thường. Vài năm sau chị dâu bán nhà cũ của Thương anh được tiền cũng đủ sống nên Thương không lui tới nữa. Sau gặp năm mất mùa, người ta chết đói đầy đường, nhà Thương lại thêm đông người nên không thể giúp đỡ ai được. Năm ấy đứa cháu mười lăm tuổi, yếu ớt không làm ăn gì được, Thương sai xách giỏ theo anh bán bánh gai. Một hôm Thương nằm mơ thấy anh tới, vẻ mặt thê thảm nói "Ta bị đàn bà mê hoặc làm mất tình anh em, mà em không nghĩ tới oán cũ khiến ta càng thêm xấu hổ. Ngôi nhà cũ đã bán nay vẫn còn gian bên trái, em nên về đó ở, phía sau nhà có đám cỏ gai, bên dưới có hố vàng chôn, đào lên cũng đủ làm nhà giàu nhỏ. Cho con ta theo sống với em, còn con mụ lắm điều kia thì ta rất ghét, đừng ngó ngàng gì tới". Thương tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn đem món tiền lớn tới nói với chủ nhà xin thuê ở, đào hố vàng chôn lên quả được năm trăm lượng, từ đó bỏ nghề nghiệp thấp hèn, sai cháu và con mở cửa hiệu buôn bán. Đứa cháu rất thông minh, tính toán sổ sách không bao giờ lầm lẫn, tính lại thật thà phàm thu chi thì một đồng cũng thưa rõ, Thương càng thêm yêu mến. Một hôm cháu vào khóc xin gạo cho mẹ, vợ Thương định không cho, Thương thấy cháu có hiếu bèn cấp gạo cho hàng tháng. Vài năm nhà càng giàu lên, vợ Thương anh bị bệnh chết, Thương cũng già bèn chia gia sản làm đôi, cho cháu một nửa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nghe nói Thương anh không khinh suất nhận một chút gì của kẻ khác, cũng là người trong sạch giữ mình vậy. Nhưng vợ nói gì nghe nấy, líu ríu không dám cãi lại một câu, nhẫn tâm dứt tình anh em, rốt lại vì keo kiệt mà chết. Than ôi cũng có gì lạ đâu! Thương em thì trước nghèo sau giàu, cũng có phải là người có tài cán gì đâu, chỉ là nhờ không quá nghe lời vợ đó thôi. Than ôi, chỉ một việc làm không như nhau mà nhân phẩm liền khác hẳn.[/I] [B]148. Số Hưởng Lộc[/B] [B](Lộc Số)[/B] Mỗ giàu sang, thường làm những việc vô đạo. Vợ thường lấy chuyện quả báo để khuyên can nhưng vẫn không nghe. Gặp lúc có người thầy bói có thể biết số hưởng lộc của người, bèn tới gặp. Người thầy bói nhìn kỹ rồi nói “Ông còn được ăn hai mươi thạch gạo, hai mươi thạch miến nữa thì hết lộc trời cho". Y về nói với vợ, tính ra mỗi người một năm chỉ ăn hết hai thạch miến, mình còn được hai mươi năm hưởng lộc trời cho, há vì làm điều không tốt mà dứt được sao? Rồi vẫn bậy bạ như cũ. Được hơn một năm chợt mắc bệnh tiêu khát, ăn rất nhiều mà vẫn đói, một ngày ăn cả chục bữa cơm, chưa đầy một năm thì chết. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển IX - 149 -[/B] Anh Em Họ Thương (Nhị Thương) An Đại Nghiệp người Lư Long (huyện Vĩnh Bình tỉnh Hà Bắc), sinh ra đã biết nói, mẹ phải đổ máu chó cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai chẳng ai bằng, lại thông minh học giỏi, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Lúc đầu mẹ nằm mộng thấy thần báo “Con bà sẽ lấy công chúa", rất tin. Nhưng khi An đã mười lăm mừơi sáu tuổi vẫn chưa thấy linh nghiệm, bà dần dần ăn năn mình tin mộng mị quàng xiên. Một hôm, An đang ngồi một mình, chợt nghe thấy mùi huơng lạ, kế có một tỳ nữ xinh đẹp chạy vào nói "Công chúa tới". Rồi lập tức trải thảm trên đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà tới cạnh giường sinh ngồi. An còn kinh ngạc hốt hoảng, đã thấy một nữ lang vịn vai tỳ nữ bước vào, y phục dung nhan sáng rực cả nhà. Người tỳ nữ lót gối thêu nệm gấm lên giường rồi đỡ nữ lang ngồi xuống. An kinh hoàng không biết làm sao, khom lưng nói "Người là thần tiên nơi nào giáng lâm?". Nữ lang mỉm cười lấy tay áo che miệng không đáp, người thị nữ nói "Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh hậu. Vì Thánh hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự tới xem nhà cửa đó". An vừa mừng vừa sợ không biết nói gì, nữ lang cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau im lặng. An vốn thích đánh cờ vây, bàn cờ thường để bên cạnh. Một tỳ nữ lấy khăn hồng lau bụi, đặt lên bàn nói "Thường ngày công chúa thích trò chơi này, không biết so với Phò mã thì ai hơn?”. An dời ghế tới gần bàn. Công chúa cười ưng thuận, đi được độ ba chục nuớc, tỳ nữ xóa bàn cờ nói “Thôi Phò mã thua rồi”. Rồi nhặt con cờ cất vào hộp, nói "Phò mã đúng là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ nhường được sáu con thôi”. Liền bỏ sáu con cờ đen ra khỏi bàn, công chúa cũng ưng thuận. Lúc công chúa ngồi đánh cờ, sai tỳ nữ ngồi dưới đưa lưng cho nàng gác chân, chân trái thòng xuống đất thì một tỳ nữ khác phục xuống đỡ, lại có hai a hoàn nhỏ đứng hầu. Lúc An ngẫm nghĩ nước cờ thì nàng co tay gác lên vai ngồi đợi. Ván cờ chưa phân thắng phụ, a hoàn nhỏ cười nói “Phò mã thua một con". Người tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã mệt, nên nghỉ thôi”. Công chúa nghiêng mình ghé vào tai tỳ nữ nói nhỏ, tỳ nữ bước ra, chốc lát quay vào, đặt ngàn đồng vàng lên giường nói với sinh rằng "Mới rồi Công chúa nói nhà cửa ẩm thấp chật chội, phiền lang quân dùng số tiền mọn này sửa sang, lúc nào xong sẽ gặp nhau”. Một tỳ nữ nói “Tháng này phạm vào sao Thiên hình, không nên xây cất, tháng sau thì tốt". Công chúa đứng dậy, sinh ngăn lại đóng cổng, tỳ nữ lấy ra một vật như cái túi bằng da, đặt xuống đất gõ vào, chợt có hơi mây tỏa ra, trong khoảnh khắc tụ lại che kín bốn bề không nhìn thấy gì cả, khi tan thì mọi người đã biến mất. Mẹ sinh biết chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng sinh mơ tuởng không khuây, vội lo sửa sang nhà cửa không nề việc kiêng kỵ, thúc giục ngày đêm, phòng ốc cổng nẽo mới hẳn. Trước đó có người học trò ở huyện Loan Châu (tỉnh Hà Bắc) tên Viên Đại Dụng tối ngụ ở xóm bên, đưa danh thiếp tới nhà xin ra mắt. Sinh vốn ít giao du nên nói thác là đi vắng, lại chờ lúc Viên không có ở nhà trọ qua thăm đáp lễ. Hơn tháng sau, tình cờ gặp nhau ngoài cổng, thấy là một thiếu niên hơn haì muơi tuổi, áo mỏng giày đen, phong thái nhàn nhã. An trò chuyện qua loa, thấy ôn hòa lễ độ thích lắm bèn mời vào nhà chơi cờ, ván được ván thua. Kế dọn rượu giữ chân, trò chuyện rất vui vẻ. Hôm sau Viên mời sinh tới chỗ mình trọ, dọn đủ thức ngon vật lạ, tiếp đãi ân cần, có đứa tiểu đồng khoảng mười hai muời ba tuổi gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui Sinh say quá đi không nổi, Viên sai nó cõng về. Sinh cho rằng nó nhỏ yếu, sợ không cõng nổi, nhưng Viên cứ ép bảo để nó cõng, quả nhiên nó cõng sinh về tới nhà rất nhẹ nhàng. Sinh lấy làm lạ, hôm sau đem tiền qua thuởng, nó từ chối mấy lần mới nhận. Từ đó An cùng Viên ngày càng thân thiết, vài ngày lại gặp nhau một lần. Viên là người giản dị kín đáo nhưng khẳng khái thích giúp người. Ở chợ có kẻ thiếu tiền phải đem con gái gán nợ, Viên trút túi trả thay không chút tiếc rẻ, sinh vì thế càng thêm kính trọng. Vài hôm sau, Viên tới từ giã sinh, tặng cho các loại đũa ngà chén ngọc, tất cả hơn mười món, lại thêm năm trăm đồng vàng giúp vào việc sửa nhà. Sinh trả vàng nhận vật, rồi đưa vải lụa tặng lại. Hơn tháng sau, huyện Lạc Đình (tỉnh Hà Bắc) có người làm quan về hưu mang theo rất nhiều tiền của, nửa đêm bị cướp vào nhà bắt trói, nung sắt tra khảo cướp sạch cả. Nguời nhà biết là Viên, báo quan phát lệnh đi khắp nơi tróc nã. Láng giềng có họ Đồ vốn xích mích với nhà sinh, thấy sinh xây nhà dựng cửa, bụng thầm ghen tức. Nhân có đứa tiểu đồng của sinh lấy trộm đũa ngà đem tới bán, y biết là vật của Viên tặng liền báo quan huyện. Quan huyện sai lính về vây gặp lúc chủ tớ sinh đều vắng nhà, bèn trói mẹ sinh giải đi. Bà mẹ đã già yếu lại bị cơn hoảng sợ, chỉ còn thở thoi thóp, hai ba ngày liền không ăn uống gì, quan bèn thả về. Sinh nghe tin vội về nhà thì bệnh mẹ đã trở nặng, qua đêm thì mất. Vừa liệm xác xong thì sai dịch đã tới bắt sinh đi. Quan huyện thấy sinh tuổi trẻ văn nhã, thầm nghĩ là bị vu oan, bèn cố ý quát nạt, sinh cũng thật tình khai hết đầu đuôi chuyện kết bạn với Viên. Quan hỏi tại sao đột nhiên trở nên giàu có, sinh đáp "Mẹ ta có ít nhiều tiền của chôn giấu, nay ta sắp lấy vợ nên xây nhà để làm đám cưới thôi". Quan huyện tin lời, viết tờ bẩm sai giải sinh lên quận. Gã họ Đồ biết là sinh sẽ vô sự, đem nhiều tiền đút lót cho lính áp giải để chúng giết sinh trên đường đi. Đường lên quận phải qua núi vắng, chúng kéo sinh tới bờ vực sâu toan xô xuống. Đang lúc nguy cấp chợt có một con cọp trong bụi rậm nhảy ra, vồ chết hai tên lính rồi tha sinh đi. Tới một nơi lâu đài nguy nga, cọp đem sinh vào đặt xuống, thấy công chúa Vân La vịn vai thị nữ ra đón, buồn rầu an ủi, nói "Thiếp muốn giữ chàng ở lại nhưng việc tang lễ của mẹ chưa xong, chàng nên đem tờ bẩm lên quận tự nộp mình, chắc chắn là vô sự". Rồi cầm lấy sợi đai lưng trước bụng sinh, thắt lại hơn mười nút, dặn "Lúc gặp quan, cứ nắm lấy những cái nút này mở ra, tai nạn sẽ tiêu tan". Sinh theo lời, tới quận nộp mình. Quan Thái thú vui vì sinh thành tín, lại xem tờ bẩm, biết là bị oan, bèn tha cho sinh về. Sinh về được nửa đường thì gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình cảnh, Viên nổi giận biến sắc im lặng không nói câu nào. Sinh nói "Phong thái như ông sao lại tự làm chuyện nhơ danh như vậy?". Viên đáp "Ta giết toàn là hạng bất nhân, ta cướp toàn là của phi nghĩa, nếu không thì dù là tiền rơi trên đường cũng không nhặt đâu. Lời ông dạy ta đó vốn rất hay, nhưng hạng người như gã hàng xóm của ông há lại có thể để cho sống trên đời sao?", nói xong lên ngựa đi thẳng. Sinh về chôn cất mẹ xong, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm cướp vào nhà hàng xóm, giết sạch hơn mười cha con, chỉ chừa lại một người tớ gái, lấy hết tiền của, chia cho đứa tiểu đồng cùng xách. Lúc ra đi còn cầm đèn nói với người tớ gái "Ngươi nhìn cho rõ nhé! Kẻ giết người là ta đây, không dính líu gì tới ai cả”. Rồi không mở cửa, phi thân nhảy lên mái nhà, vượt qua tường đi mất. Hôm sau tin báo lên quan, quan ngờ sinh biết chuyện, lại bắt lên quát tháo căn vặn rất dữ tợn. Sinh ra trước công đường nắm lấy sợi đai lưng thắt nút, vừa phân trần vừa mở nút ra, quan không vặn vẹo được gì, lại tha cho về. Về tới nhà sinh lại càng náu hơi kín tiếng, cứ ở nhà đọc sách không ra khỏi cửa, chỉ có một bà già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang xong, ngày ngày sinh quét dọn nhà cửa để đợi tin vui. Một hôm, nghe có mùi hương lạ thơm ngát cả nhà, lên gác xem thì thấy trong ngoài đều trần thiết rực rỡ, cuốn rèm lên thì công chúa đã trang điểm lộng lẫy ngồi đó rồi. Sinh vộỉ vái chào, nàng giữ tay lại nói "Chàng không tin số mệnh, khiến việc xây nhà gây ra tai vạ, lại thêm tang mẹ, làm trễ duyên cầm sắt của chúng ta mất ba năm, đó là gấp gáp lại phải muộn màng, việc đời đại để đều như thế”. Sinh toan lấy tiền đi chợ, nàng nói "Không cần đâu”. Thị nữ lấy trân hào mỹ tửu trong rương ra bày lên, thức ăn còn nóng như vừa nấu nướng xong, rượu cũng thơm lừng nóng hổi. Uống rượu một lúc thì trời tốì, đám thị nữ hầu hạ đều lui ra hết. Nàng nằm soãi hết tay chân, đong đưa vế đùi, như không che đậy gì cả, sinh liền ôm lấy nàng. Nàng nói “Chàng buông tay ra đã. Bây giờ có hai cách, tùy chàng chọn lựa". Sinh ôm cổ nàng hỏi hai cách nào, nàng đáp "Nếu hai ta làm bạn chén rượu cuộc cờ thì được sum vầy ba mươi năm, còn nếu vui thú chăn loan gối phụng thì chỉ được sum họp sáu năm thôi, chàng chọn cách nào?”. Sinh đáp "Sáu năm nữa sẽ bàn tiếp". Nàng im lặng, rồi cùng sinh vui thú. Nàng nói “Thiếp vốn biết chàng không thể tránh được thói trần tục, cũng là số vậy". Rồi bảo sinh nuôi thêm vú già tớ gái, cho ở riêng gian nhà phía nam, nấu cơm hầu chủ, dệt vải nuôi thân. Trong gian nhà phía bắc tịnh không bếp núc, chỉ có bàn cờ bình rượu, cửa thường đóng kín. Sinh đẩy thì tự mở, người khác thì không vào được. Những người ở gian nhà phía nam siêng năng lười nhác ra sao nàng đều biết rõ, mỗi khi bảo sinh qua quở trách thì ai cũng phải nhận lỗi. Nàng không nói nhiều lời, không cười lớn tiếng, cùng sinh nói chuyện chỉ cúi đầu cười khẽ, những khi cùng ngồi, thì thích dựa vào sinh. Có lần sinh bế nàng đặt lên đầu gối, thấy nhẹ như trẻ nít, bèn nói "Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay mà múa được". Nàng đáp "Chuyện đó có gì khó, có điều chỉ là việc của đám gái hầu, thiếp không thèm làm thôi. Như Phi Yến[B]*[/B] nguyên là thị nữ của chị Chín thiếp, hay lẳng lơ mà có tội, bị đày xuống trần gian, lại không giữ trinh tiết, nên hiện đang bị giam trong ngục tối”. *Phi Yến: tức Triệu Phi Yến, mỹ nhân trong hậu cung của Đường Minh hoàng, vóc ngườí nhỏ nhắn mềm mại, tương truyền có thể đứng trên bàn tay người ta mà múa. Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông không mấy lạnh, mùa hè chẳng mấy nóng, cô gái thì ngay giữa mùa đông lạnh buốt cũng mặc áo nhẹ. Sinh may áo mới ép nàng mặc thì chốc lát lại cởi ra, nói "Vật phàm ô trọc, mặc nữa thì đè vào xương thành bệnh lao mất". Một hôm sinh bế nàng lên gối thấy nặng khác hẳn mọi khi, lấy làm lạ. Nàng cười chỉ vào bụng nói "Trong này có giống phàm tục rồi". Cách mấy hôm sau, nàng cau mày bỏ ăn, nói “Gần đây trong người khó chịu, cứ thèm những thức nấu nướng". Sinh bèn tìm những thức ngon về, từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một hôm nàng nói “Thiếp vốn yếu ớt, không thể sinh nở, con thị nữ Phàn Anh khỏe mạnh, vậy để nó thay". Rồi cởi áo lót mặc cho Phàn Anh, đẩy vào phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ con khóc mở cửa vào xem thì là con trai, mừng nói “Thằng nhỏ này có phúc tướng, là vật quý đây” nhân đó đặt tên là Đại Khí. Nàng trao cho sinh bế, bảo đưa người tỳ nữ về ở chung với bà vú ở gian nhà phía nam. Nàng sinh nở xong, eo lưng lại nhỏ lại như trước, không ăn những thức nấu nướng nữa. Bỗng từ biệt sinh về thăm nhà, hỏi đi bao lâu, nàng đáp ba ngày, rồi gõ vào cái túi da tuôn mây biến mất như lần trước. Đến kỳ hẹn không thấy về, hơn năm liền bặt luôn tin tức, sinh đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, kế thi đỗ Cử nhân nhưng vẫn không chịu lấy vợ, hàng đêm vẫn ngủ một mình ở gian nhà phía bắc, ôm ấp hương thừa. Một đêm đang trằn trọc trên giường chợt có ánh đèn soi qua cửa sổ, cửa phòng cũng tự mở, bọn thị nữ xúm xít đỡ công chúa vào. Sinh mừng rỡ vùng dậy trách móc sai hẹn, nàng nói "Thiếp còn chưa đến hẹn đâu, mới ở trên trời có hai ngày rưỡi thôi". Sinh đắc ý khoe chuyện thi đỗ, cho rằng công chúa ắt mừng, nhưng nàng buồn bã nói “Cái danh vọng thoảng qua đó thì có đáng gì? Chẳng đủ bàn chuyện nhục vinh mà còn làm người ta tổn thọ”. Mới ba ngày không gặp mà chàng đã sa vào tục lụy sâu thêm một tầng nữa rồi", sinh vì thế không thi cử gì nữa. Vài tháng sau nàng lại định về thăm nhà, sinh buồn rầu không muốn, nàng nói "Chuyến này nhất định thiếp sẽ về sớm, không để chàng phải mỏi mắt trông chờ đâu. Vả lại kiếp người tan hợp đều có định số, tính toán thì thấy dài, lơ là thì thấy ngắn thôi”. Rồi đi, hơn một tháng trở về, từ đó cứ sáu tháng một năm lại đi một lần, vài tháng lại về, sinh quen lệ cũng không thấy lạ nữa. Kế nàng lại sinh thêm một đứa con trai, bế lên nhìn, nói "Thằng này sài lang", bảo nên vứt đi lập tức, nhưng vì sinh không nỡ nên vẫn giữ lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm nàng đã vội tìm hỏi vợ cho nó, các bà mai mối lui tới nườm nượp, nhung nàng hỏi ngày sinh tháng đẻ đều cho là không hợp, nói "Ta muốn làm sẵn một cái chuồng sắt cho thằng con sài lang này mà không được, phải để nó ăn tàn phá hại sáu bảy năm, âu cũng là số". Rồi dặn sinh rằng “Chàng nhớ bốn năm nữa họ Hầu sẽ sinh một đứa con gái, sườn bên trái có cái bớt nhỏ thì đúng là vợ của thằng nhỏ này đấy, phải hỏi cưới cho nó, đừng so đo chuyện môn đăng hộ đối gì cả", nói xong bắt viết ngay vào giấy cho khỏi quên. Sau nàng về thăm nhà, đi luôn không trở lại nữa. Sinh thường đem lời vợ dặn cậy nhờ bạn bè thân thích dò hỏi, quả có đứa con gái họ Hầu sinh ra đã có cái bớt ở sườn, họ Hầu là người hèn hạ mà hành vi xấu xa, mọi người đều coi thường, nhưng sinh vẫn nhờ người mối lái hỏi cưới đứa con gái ấy cho Khả Khí. Đại Khí mười bảy tuổi đã thi đỗ, cưới vợ họ Vân, vợ chồng đều hiếu hạnh, cha rất yêu thuơng. Còn Khả Khí thì lớn lên không thích học hành, chỉ lén lút dong chơi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để chơi bời. Cha giận đánh nhưng vẫn không chừa, bèn dặn ngườì nhà để ý giữ gìn, Khả Khí không lấy gì được bèn nửa đêm ra khỏi nhà trộm cắp lặt vặt, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện hỏi họ tên, viết danh thiếp cho về nhà, cha và anh cùng trói lại, cha đánh cho một trận gần chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ mới được tha. Cha tức giận sinh bệnh, ăn không thấy ngon, bèn làm giấy tờ chia của cho hai con, những nhà lầu ruộng tốt đều về phần Đại Khí. Khả Khí căm tức nửa đêm cầm dao vào phòng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Trước công chúa có để lại chiếc áo rất nhẹ và mềm, Vân thị lấy làm áo ngủ, Khả Khí chém trúng nảy lửa tung tóe nên hoảng sợ bỏ chạy. Cha biết chuyện, bệnh càng nặng thêm, vài tháng thì chết. Khả Khí nghe tin cha mất mới mò về, anh vẫn đối xử rất tốt nhưng Khả Khí ngày càng buông thả, hơn một năm ruộng vườn nhà cửa được chia cho đã phá tán gần hết, rồi lên phủ kiện anh. Quan hỏi biết là người ra sao nên đuổi về, anh em từ đó dứt hết tình nghĩa. Được hơn năm, Khả Khí hai mươi ba tuổi, con gái họ Hầu thì mười lăm. Anh nhớ lời mẹ, muốn cưới gấp cho em, liền gọi Khả Khí tới cắt gian nhà đẹp cho ở. Khi đón dâu về, lại đem tất cả văn tự những ruộng tốt cha để lại giao cho, nói "Mấy đám ruộng xấu này, bấy lâu ta sống chết cố giữ cho thím, nay giao cả cho đấy. Em ta mất nết, cho nó một cọng cỏ cũng uổng phí. Từ nay về sau, nên hư là do em dâu. Nếu giúp nó sửa nết được thì không lo gì đói rét, bằng không thì anh cũng không thể nào lấp đầy cái vực sâu không đáy kia được”. Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo làm gì cũng không dám trái ý, đi đâu về không đúng giờ thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn chung, Khả Khí vì vậy cũng bớt lêu lổng. Hơn một năm sinh được một trai, vợ nói “Từ nay chẳng phải cầu cạnh gì ai nữa. Có mấy đám ruộng tốt, mẹ con lo gì không no ấm, không có chồng cũng chẳng sao”. Có lần Khả Khí trộm lúa đi đánh bạc, vợ biết được, cầm cung tên chận ở cổng. Khả Khí sợ quá núp trốn, rình lúc vợ vào nhà rồi, lại mon men trở vào. Vợ vung dao xông ra, Khả Khí bỏ chạy, vợ đuổi theo chém trúng mông, máu tuôn ướt cả giày tất, uất quá tới mách anh, nhưng anh tỏ vẻ khinh bỉ, đành hổ thẹn tức tối đi ra. Qua đêm lại tới, quỳ trước mặt chị dâu khóc lóc, nhờ nói giùm với vợ, nhung vợ vân nhất định không cho vào nhà. Khả Khí nổi giận đòi giết vợ, anh im lặng, Khả Khí uất ức chồm dậy xách mác đi thẳng ra cửa. Chị dâu sững sờ, định đuổỉ theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ đi khuất mới nói "Nó làm ra vẻ thế thôi, chứ thật ra không dám về đâu”. Sai người theo xem thì Khả Khí đã vào cổng rồi. Anh hơi biến sắc, vội chạy mau theo thì Khả Khí đã lặng ngắt đi ra. Té ra Khả Khí vào tới nhà thì vợ đang đùa với con, nhìn thấy chồng liền thảy con xuống giường, vớ con dao bổ củi lao ra. Khả Khí sợ hãi kéo lê ngọn mác bỏ chạy, vợ đuổi ra tới ngoài ngõ mới quay vào. Anh biết rõ sự tình nhưng vẫn cố ý hỏi han, Khả Khí chỉ quay đi mà khóc, hai mắt sưng húp. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu cho vào ở. Chờ anh về rồi, phạt Khả Khí phải quỳ, bắt phải thề độc rồi bắt ăn cơm bằng tô sành, từ đó mới bỏ nết cũ làm điều lành. Vợ lại biết tính toán làm ăn, trong nhà ngày càng dư dật, Khả Khí chỉ có việc ngổi ăn mà thôi. Về sau đến năm bảy muơi tuổi, con cháu đầy nhà mà có khi vợ vẫn nắm râu bắt quỳ. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Gặp phải thứ vợ hung dữ ghen tuông thì như có ghẻ trong xương, chết rồi mới hết nợ, thứ đó há không độc sao? Nhưng Thạch tín là vị thuốc độc nhất trên đời mà dùng đúng bệnh thì Nhân sâm Phục linh cũng không bằng được. Có điều nếu không phải là người tiên nhìn thấu gan ruột, thì lại dám lưu thuốc độc lại cho con cháu ư?[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 150 - 151 -[/B] Chân Hậu (Chân Hậu) Lưu Trung Kham ở huyện Lạc Thành (tỉnh Hà Nam) lúc trẻ ngu độn nhưng say mê sách vở, thường đóng cửa học tập, không giao thiệp với người ngoài. Một hôm đang đọc sách, chợt ngửi thấy mùi hương lạ thơm nức cả phòng, kế có tiếng vòng ngọc khua rất gấp, giật mình ngoảnh nhìn thì thấy một mỹ nhân bước vào, trâm vòng sáng rỡ, nguời theo hầu đều ăn mặc lối cung nữ. Lưu hoảng sợ lạy phục xuống đất, mỹ nhân đỡ lên nói “Tại sao chàng lại trước khinh nhờn mà sau cung kính?". Lưu càng sợ hãi, nói "Người là thiên tiên ở đâu ta còn chưa được biết, vậy trước đây ta xúc phạm lúc nào?”. Mỹ nhân cười nói “Chia tay đã được bao lâu? Kẻ bỉ cách chức mải miết ngồi cao mài gạch[B]*[/B] không phải là chàng sao?”. Rồi mở túi gấm lấy rượu quỳnh tuơng ra bày tiệc, giục Lưu ngồi xuống đối ẩm, cùng bàn chuyện kim cổ, thông tuệ phi thường. Lưu mờ mịt không biết đối đáp ra sao, mỹ nhân nói “Ta chỉ tới dự tiệc ở Dao Trì có một lúc mà chàng đã trảí qua mấy kiếp, hết cả thông minh rồi”. Bèn sai người hầu lấy nước nóng hoà với cao Thủy Xương dâng lên, Lưu nhận lấy uống cạn, chợt thấy tâm thần nhẹ nhõm, đầu óc sáng láng. *Mài gạch: dịch chữ “ma chuyên”, lấy từ tích “Lưu Trinh ma thạch" (Lưu Trinh mài đá). Lưu Trinh là người thời Tam quốc, thông minh mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, làm Tùng sự cho Thế tử Tào Phi, con Tào Tháo. Trước đó Phi theo Tháo đi đánh Viên Thiệu, bát được vợ Viên Hy tức con dâu Thiệu là Chân thị, dung mạo rất xinh đẹp bèn mang về nạp làm Chính phi. Sau Phi cướp ngôi nhà Hán lên làm vua, phong Chân thị làm Hoàng hậu. Khi Phi còn là Thế tử có lần uống rượu cùng các quan say rồi gọi Chân thị ra chào tân khách, mọi người đều quỳ rạp không ai dám ngẩng nhìn, chỉ nêng Lưu Trinh vẫn nghiễm nhiên ngồi ngó. Hôm sau Phi tỉnh rượu nhớ lại, giận Trinh vô lễ bèn cách chức bắt ra quán Thượng Phương mài đá. Lát sau trời tối, người theo hầu tản đi hết, mỹ nhân tắt đèn cởi áo, cùng Lưu vui thú. Trời chưa sáng, đám gái hầu đã tới tụ tập, mỹ nhân trở dậy ăn vận như cũ, riêng đầu tóc vẫn tề chỉnh không phải chải lại. Lưu nằn nì hỏi họ tên, mỹ nhân đáp "Nói ra cũng không hề gì, chỉ e chàng thêm ngờ sợ mà thôi. Thiếp là Chân hậu, chàng là hậu thân của Công Cán. Ngày trước chàng vì thiếp mà bị tội, nên trong lòng thiếp thấy bất nhẫn. Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng tạm gọi là để báo đáp mối tình si vậy". Lưu hỏi Ngụy Văn[B]*[/B] hiện ở đâu, mỹ nhân đáp "Tào Phi chẳng qua chỉ là đứa con tầm thường của lão cha làm giặc, thiếp ngẫu nhiên gặp kẻ phú quý thì theo chơi đùa vài năm, chuyện qua rồi cũng chẳng lưu luyến gì. Trước đây y vì việc của A Man[B]**[/B] nên bị giam cầm lâu ngày dưới U minh, hiện nay không rõ ra sao. Nhung Trần Tư[B]***[/B] thì giữ chức coi sổ sách cho Thượng đế, thỉnh thoảng thiếp cũng có gặp". Kế có cỗ kiệu rồng tới dừng trong sân, mỹ nhân bèn rút chiếc nhẫn ngọc tặng Lưu rồi từ giã lên kiệu, mây đưa mù cuốn mà đi. Lưu từ đó học hành tấn tới nhưng nhớ nhung người đẹp, thẫn thờ như ngây. *Ngụy Văn: tức Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán dựng ra nhà Ngụy thời Tam quốc, được nhà Ngụy tôn là Ngụy Văn đế. **A Man: tên tự của Tào Tháo lúc nhỏ, đây dùng với ý khinh bỉ. ***Trần Tư tức Tào Thực, em Tào Phi, rất thông minh tài giỏi. Khi Tào Phi lên ngôi vương thay cha là Tào Tháo, ghét tài Thục nên phong làm Trần Tư vương, bắt phải đi xa kinh đô. Vài tháng sau thì héo hon như sắp chết, mẹ không biết vì sao, lấy làm lo lắng. Chợt có một bà già trong nhà hỏi Lưu “Lang quân đang nhớ nhung ai lắm phải không?". Lưu thấy lời nói hơi đúng, không giấu được nên ậm ừ. Bà già nói “Lang quân cứ viết một phong thư, ta có thể mời tới cho". Lưu vừa sợ vừa mừng, nói "Bà có thuật lạ mà trước nay cứ bị vùi chôn giữa đám người tầm thường, nếu quả mời được tới đây thì ta không dám quên ơn”. Bèn viết thư đưa, bà già ra đi, nửa đêm trở về nói với Lưu "May mà không hỏng việc. Ta vừa tới cổng, người gác cho là yêu quái định bắt trói. Ta bèn đưa thư của lang quân ra, y cầm vào rồi lát sau ra gọi ta vào trong. Phu nhân cũng ngậm ngùi than thở, nói rằng không thể gặp lại, cũng định viết thư trả lời, nhưng ta thưa rằng lang quân ốm nặng, không phải một lá thư mà chữa khỏi được. Phu nhân nghĩ ngợi một lúc rồi buông bút nói “Vậy xin phiền báo trước với chàng Lưu rằng ta sẽ đưa ngay tới cho chàng một người vợ đẹp". Lúc ta ra về lại dặn dò rằng đây là việc trăm năm, không được nói lộ ra mới có thể sống với nhau lâu dài". Lưu mừng rỡ hứa sẽ theo lời. Sáng hôm sau quả có bà lão dắt một cô gái dung nhan tuyệt đẹp tới gặp mẹ Lưu, tự xưng là họ Trần, cô gái là con ruột, tên Tư Hương, xin đem gả cho Lưu. Mẹ Lưu rất thích cô gái, bàn việc sính lễ, nhưng họ Trần không đòi hỏi tiền bạc gì cả, qua đám cưới là đi. Lưu ngầm biết là việc lạ hỏi riêng cô gái là có quan hệ thế nào với phu nhân. Nàng đáp "Thiếp là con hát cũ ở đài Đồng Tước[B]*[/B]”. Lưu ngờ là ma, nàng nói “Không phải đâu. Thiếp và phu nhân đều có tên trong sổ tiên, nhưng vô tình mắc tội cùng bị đày xuống nhân gian. Phu nhân đã về ngôi cũ, thiếp thì chưa hết hạn bị phạt nhưng phu nhân xin với Thiên tào cho thiếp theo để sai phái, mọi việc đều chỉ phải theo lệnh của phu nhân, vì vậy cũng thường được gần gũi hầu hạ người". *Đài Đồng Tước: cuối thời Hán, Tào Tháo nắm quyền Thừa tướng, khuynh loát triều đình. Có người đào được con chim sẽ bằng đồng dâng lên, Tháo cho là điềm lành nên sai dựng một ngôi đài cao, gọi là đài Đồng Tước, đưa các tỳ thiếp về đó ở. Trước khi chết, Tháo đem những hương liệu quý cất riêng ra chia cho họ làm vốn, dặn là hãy làm nghề khâu giày mà sống, có ý muốn họ không đi lấy chồng khác, giữ lòng chung thủy với mình. Một hôm có bà già mù dắt con chó vàng tới nhà xin ăn, gõ phách ca hát. Cô gái vừa bước ra xem thì con chó giật đứt dây xông vào cắn. Nàng hoảng sợ bỏ chạy thì tà áo đã bị cắn đứt. Lưu vác gậy đuổi theo đập, con chó càng giận dữ nhai xé manh áo dứt được, trong chớp mắt đã nát vụn ra. Bà già mù nắm lông gáy nó rồi buộc lại dắt đi. Lưu vào thăm thấy cô gái vẫn còn đầy vẻ sợ sệt, bèn nói “Nàng là người tiên, sao còn sợ chó?". Nàng đáp “Chàng không biết, chứ con chó ấy là lão A Man hóa thân, giận thiếp không tuân theo lời dặn lúc chia hương đấy”. Lưu định mua con chó để đập chết, nàng nói “Không được đâu. Thượng đế phạt y như vậy, đâu được giết càn". Được hai nãm, ai gặp cô gái cũng kinh ngạc vì thấy nàng quá đẹp, mà hỏi tới lai lịch thì rất mơ hồ, nên đều ngờ nàng là yêu quái. Mẹ hỏi, Lưu cũng nói qua loa về chuyện lạ. Mẹ cả bảo phải bỏ vợ nhưng Lưu không nghe. Mẹ bèn ngầm mời thuật sĩ tới làm phép ở sân, vừa chỉ đất dựng đàn thì cô gái đà buồn bã nói “Vốn hẹn ước sống với nhau đến lúc bạc đầu, nay mẹ già đã ngờ vực thì tự rõ đã hết tình nghĩa rồi. Có điều muốn thiếp tự đi cũng không khó, chứ loại bùa chú ấy mà sai khiến nổi thiếp à!". Rồi bó củi châm lửa ném xuống dưới bậc thềm, trong chớp mắt khói mù toả ra che kín cả phòng ốc, đối diện không nhìn thấy mặt nhau. Kế có tiếng nổ ầm ầm như sấm sét, rồi màn khói tan đi nhìn lại thì thuật sĩ đã bảy khiếu đổ máu chết rồi. Vào phòng tìm thì cô gái đã biến mất, gọi bà già lên hỏi cũng không rõ đã đi đâu rồi. Lúc ấy Lưu mới kể lại cho mẹ biết rằng bà ta là hồ. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Buổi đầu lấy chồng họ Viên, sau về làm vợ họ Tào, cuối cùng lại có tình vơi Công Cán, ngươi tiên lẽ ra không nên như thế. Song bình tâm mà bàn thì đứa con soán ngôi của A Man mà lại có được người vợ trinh tiết sao? Còn con chó nhân thấy người con hát cũ lẽ ra phải hiểu lời dặn thêu giày lúc chia hương là ngu muộí mới đúng, chứ lại còn ghen tuông à! Than ôi, kẻ gian hùng không biết tự thương xót mình, khiến người sau phải thương xót vậy.[/I] [B]151. Hoạn Nương[/B] [B] (Hoạn Nương)[/B] Ôn Như Xuân là con nhà thế gia ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây, lúc nhỏ say mê đàn cầm, dù đi xa nhà cũng không rời tay. Có lần tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), đi ngang một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng vào nghỉ chân. Vào trong thì thấy có một vị đạo nhân mặc áo vải ngồi xổm ở hành lang, dựng cây gậy trúc vào vách, đeo một chiếc túi đựng đàn bằng vải bông thêu. Ôn thấy đúng sở thích, nhân hỏi “Đạo sĩ cũng giỏi đàn cầm sao?”. Đạo nhân đáp "Thật rất không giỏi, chỉ mong gặp người giỏi để học thôi". Rồi mở túi lấy đàn ra trao cho Ôn, Ôn nhìn thì thấy vân gỗ rất đẹp, dạo thử một câu thấy tiếng trong vang lạ thường, thích thú đàn luôn một khúc ngắn. Đạo sĩ cười khẽ như có ý chê là chưa giỏi, Ôn bèn trổ hết tài nghệ. Đạo nhân nhếch mép nói “Cũng hay, cũng hay, nhưng chưa đủ để làm thầy của bần đạo”. Ôn cho là có ý khoa trương, bèn trao lại đàn xin được nghe thử. Đạo nhân tiếp lấy đàn đặt lên đầu gối, vừa mới bật vài tiếng đã thấy gió mát thoảng tới, giây lát thì hàng trăm loài chim tới tụ họp, đậu kín trên cây trước sân chùa. Ôn vô cùng kinh ngạc, sụp lạy xin theo học. Đạo nhân đàn lại ba lần, Ôn chăm chú lắng nghe, bắt đầu hiểu được tiết tấu. Đạo nhân bảo đàn lại thử, chỉ thêm những chỗ sai rồi nói "Bấy nhiêu là ở trần gian không ai bằng rồi đấy!". Ôn từ đó chuyên tâm tập luyện, nổi tiếng là tuyệt kỹ. Sau Ôn trở về đất Tần, còn cách nhà vài mươi dặm thì trời tối mưa to, không có chỗ nào nghỉ đêm. Thấy cạnh đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, thấy một cái cổng thì bước thẳng vào, tới tận trong nhà vẫn thấy im ắng như không có người. Giây lát có một nữ lang bước ra, khoảng mười bảy mườí tám tuổi, đẹp như thiên tiên, ngẩng đầu thấy khách thì hoảng sợ chạy trở vào. Ôn lúc ấy chưa có vợ, vừa nhìn thấy nàng đã say mê. Lát sau một bà lão ra hỏi chuyện, Ôn xưng tên họ rồi xin cho ngủ trọ qua đêm. Bà lão nói “Ngủ trọ cũng được, chỉ hiềm nhà thiếu giường chõng, nếu khách không ngại thì xin trải đệm xuống đất mời nghỉ tạm”. Rồi thắp đèn mang ra, đem cỏ khô rải xuống đất, ý tứ rất ân cần. Ôn hỏi họ tên, bà đáp "Già họ Tiêu”. Ôn lại hỏi nữ lang là ai, bà đáp “Đó là Hoạn Nương, con nuôi của già". Ôn nói :Nếu không chê nghèo hèn, thì ta muốn hỏi cưới có được không?”. Bà cau mày đáp “Chuyện đó thì già không thể vâng mệnh được”. Ôn hỏi vì sao, bà chỉ đáp là khó nói rồi im lặng. Bà già vào nhà trong, Ôn nhìn tới bó cỏ trải đệm thì vừa ướt vừa mục không sao nằm được, đành ngồi suông gảy đàn qua đêm, chờ tạnh mưa rồi ra về. Trong huyện có quan Bộ lang đã về hưu họ Cát, rất thích kẻ văn nhân. Ôn ngẫu nhiên tới chơi, vâng lệnh gảy đàn cầm, thấy sau rèm thấp thoáng có bóng phụ nữ nghe trộm. Chợt có cơn gió thổi vẹt bức rèm, thấy là một thiếu nữ đang tuổi cập kê, dung nhan tuyệt thế. Đó là con gái Cát, tiểu tự là Lương Công, giỏi từ phú, nổi tiếng nhan sắc. Ôn động lòng, về thưa với mẹ nhờ người tới hỏi, nhưng Cát chê nhà Ôn nghèo khổ không chịu gả. Nhưng cô gái sau khi nghe tiếng đàn đã thầm hâm mộ, chỉ mong ước được nghe nữa. Song Ôn vì chuyện dạm hỏi không thành nên ý chán tình buồn không lui tới nhà họ Cát nữa. Một hôm cô gái ra vườn chơi, nhặt được một tờ giấy cũ, trên có bài từ theo điệu Tiếc xuân thừa như sau: [I]Nhân hận thành si, chuyển tư tác tưởng, nhật nhật vị tình điên đảo. [/I] [I]Hai đường đới túy, dương liễu thương xuân, đồng thị nhất ban hoài bão Thậm đắc tân sầu cựu sầu, tiễn tận hoàn sinh, tiện như thanh thảo Tự biệt ly, chỉ tại nại hà thiên lý, độ tương hôn hiểu. Kim nhật cá túc tổn xuân sơn, vọng xuyên thu thủy, đạo khí dĩ phan khí liễu. Phương khâm đố mộng, ngọc lậu kinh hồn, yếu thụy hà năng thụy hảo. Mạn thuyết trường tiêu tự niên, nùng thị nhất niên, ty canh do thiểu. Quá tam canh dĩ thị tam niên, cánh hữu hà nhân bất lão.[/I] (Vì hận thành ngây, nhớ nhớ thương thương, ngày tháng vì tình bối rối. Hải đường say ngủ, dương liễu đau xuân, ấy cũng một lòng tiếc nuối. Đến nỗi sầu xưa sầu nay, cắt rồi lại sinh, cứ như cỏ bãi. Từ chia ly, ở nơi không biết làm sao, bao phen sớm tối. Hôm nay cau mặt non xuân, nhìn suốt nước thu, nói bỏ cũng liều để nói. Chăn thơm ghét mộng, giọt lậu bay hồn, muốn ngủ làm sao ngủ nổi. Nghe nói đêm dài như một nãm, ta thấy một năm, so một canh còn ngắn ngủi. Qua canh ba là đã ba năm, thử hỏi ai người không mỏi) Cô gái ngâm ngợi ba bốn lần, trong lòng thích lắm, đem về lấy giấy văn gấm chép một bản khác đặt ở bàn, nhưng lát sau tìm tới đã không thấy đâu nữa, nghĩ rằng gió thổi bay mất. Gặp lúc Cát đi ngang cửa phòng nhặt được, cho là Lương Công làm ra, rất ghét vì lời lẽ lẳng lơ bèn đốt đi nhưng chưa nỡ nói ra, định bụng sẽ gã chồng cho con sớm. Vừa lúc ấy có công tử con quan Phương bá họ Lưu ở huyện Lâm (tỉnh Sơn Đông) chongười tới dạm hỏi, Cát mừng rỡ, nhưng còn muốn gặp mặt công tử một lần. Công tử bèn ăn mặc sang trọng tới ra mắt, phong tư đẹp đẽ, Cát rất vui lòng, bày tiệc khoản đãi ân cần. Kế công tử chào về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Cát cho rằng tính nết đàng điếm, ghét lắm liền gọi người mai mối tới kể rõ. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng Cát không nghe, nhất quyết tuyệt hôn. Trước đó họ Cát có loại hoa cúc xanh, giữ không cho ai nhân giống, Lương Công đem trồng trong phòng riêng. Vườn cúc nhà Ôn chợt nảy ra hai giò màu xanh, bạn bè nghe thấy đồn đại nhau kéo tới xem, Ôn cũng rất nâng niu quý báu. Sáng sớm ra xem nhặt được bên luống hoa một tờ giấy chép bài từ [I]Tiếc xuân thừa[/I], đọc đi đọc lại, không biết từ đâu tới, thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, càng thêm cảm xúc, đem vào bàn bình phẩm nọ kia, lòi lẽ bậy bạ. Lúc ấy Cát nghe nói cúc nhà họ ôn biến ra màu xanh ngạc nhiên tới xem, vào phòng sách nhìn thấy bài từ bèn cầm lên đọc. Ôn vì lời bình của mình sỗ sàng, vộỉ giằng lại vò nát. Cát chỉ kịp đọc được một hai câu, thì đúng là bài từ đã nhặt được trước phòng con gái, vô cùng nghi ngờ, lại cho rằng cả giống cúc xanh cũng là do Lương Công tặng. Về nhà nói với vợ, bảo căn vặn Lương Công, Lương Công khóc lóc đòi tự tử. Mà việc lại không có chứng cớ gì, không thể biết rõ hư thực, phu nhân sợ tai tiếng đồn ra bèn bàn chẳng bằng cứ gả con gái luôn cho Ôn. Cát cho là phải liền bán tin cho Ôn. Ôn mừng quá, hôm ấy lập tức mời bè bạn tới uống rượu ngắm cúc xanh, đốt trầm gảy đàn đến khuya mới tan. Ôn vào phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng coi phòng sách nghe thấy tiếng đàn tự nhiên vang lên, lúc đầu còn tưởng bọn tôi tớ trong nhà nghịch ngợm, sau thấy không có ai mới vào thưa với Ôn. Ôn đích thân tới xem quả đúng, nghe tiếng đàn ngập ngừng như bắt chước mình mà chưa được, đánh lửa xộc vào thì không thấy ai. Ôn đem đàn đi, từ đó cả đêm yên ắng. Vì thế ngờ là hồ, nghĩ rằng nó muốn học đàn, nên cứ mỗi buổi tối gảy một khúc rồi để đàn lại đấy cho mặc ý tập, như là thầy dạy đàn vậy. Đêm đêm rình nghe, qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã đúng khúc điệu, nghe động lòng người. Ôn làm đám cưới xong, vợ chồng cùng kể lại chuyện bài từ mới biết đầu mối nhân duyên là đó, nhưng vẫn không rõ là từ đâu ra. Lương Công nghe chuyện lạ tiếng đàn tự nhiên kêu, tới nghe rồi nói “Đây không phải là hồ đâu. Âm điệu não nùng ai oán lắm, như là tiếng đàn ma". Ôn chưa tin lắm, Lương Công nhân đó nói nhà mình có chiếc gương cổ có thể soi thấy ma quỷ. Hôm sau sai người về lấy, chờ tiếng đàn vang lên liền cầm gương sấn vào thắp đèn lên, quả có một cô gái đang run rẫy trong góc phòng không trốn núp được, nhìn kỹ thì chính là Hoạn Nương nhà họ Triệu. Ôn cả sợ gặng hỏi, nàng sa nước mắt đáp “Thiếp làm mai mối cho chàng, đâu phải không có ơn đức, sao nỡ bức báth nhau quá vậy?”. Ôn xin cất gương nhưng hẹn đừug biến đi, Hoạn Nương ưng thuận, Ôn bèn cất gương. Cô gái ngồi xa xa, nói “Thiếp là con gái quan Thái thú, chết đã trăm năm nay. Lúc còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh, đàn tranh thì đã tạm biết, còn đàn cầm thì chưa được chân truyền nên vẫn ấm ức chốn suối vàng. Khi chàng có lòng ghé lại nhà, được nghe âm điệu cao nhã đã rất hâm mộ. Chỉ hờn mình khác loài không thể theo sửa túi nâng khăn, nên đã ngấm ngầm tìm cách giúp chàng cưới người giai ngẫu để đền đáp tình thương mến. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi, bài từ Tiếc xuân thừa bay tới, đều là do thiếp làm ra, tạ ơn thầy học như thế không phải không vất vả đâu”. Vợ chồng cảm động lạy tạ, Hoạn Nương nói "Ngón đàn của chàng thiếp đã hiểu được quá nửa, nhưng chưa thấu triệt chỗ tinh thần, xin gảy cho thiếp được nghe một lần nữa”. Xuân theo lời, lại gảy đàn để chỉ rõ cách thức. Hoạn Nương cả mừng, nói "Thiếp đã hiểu cả rồi", rồi đứng lên từ biệt. Lương Công vốn giỏi đàn tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường môn này, xin gảy cho nghe một lần. Hoạn Nương không từ chối, tiếng đàn khúc nhạc đều không phải là người trần sánh kịp. Lương Công khen ngợi, xin dạy lại cho mình. Hoạn Nương lấy bút ghi lại bản đàn, gồm mười tám chương, rồi đứng lên từ biệt. Vợ chồng cố giữ lại, Hoạn Nương buồn bã nói “Chàng được sắt cầm hòa hiệp, vợ chồng mà cũng là tri âm, kẻ bạc phận làm sao có được phúc ấy? Nếu có duyên phận, thì kiếp sau sẽ được gặp nhau”. Rồi lấy ra một cuộn giấy đưa cho Ôn, nói “Đây là chân dung của thiếp, nếu không quên bà mối thì xin đem treo trong phòng ngủ, lúc nào vui vẻ cứ đốt một lò trầm, gảy một khúc đàn, thì là thiếp được hưởng vậy". Nói xong bước ra cửa biến mất. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 152 -[/B] A Tú (A Tú) Lưu Tử Cố ở huyện Hải Châu (tỉnh Giang Tô), lúc mười lăm tuổi tới đất Cái thăm cậu, gặp một cô gái trong chợ bán tạp hóa, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, bước vào vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi cha, người cha ra, Lưu cụt hứng, cố tình trả giá rẻ rồi bỏ đi. Đứng xa thấy người cha đi nơi khác, liền quay lại, cô gái định tìm gọi cha, Lưu ngăn lại, nói "Không cần, cứ nói giá, ta không trả rẻ đâu”. Cô gái theo lời, cố ý nói giá thật cao, Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại tới, lại như hôm trước, đi được vài bước, cô gái gọi theo "Trở lại đã! Vừa rồi ta nói dối thôi, giá ấy quá đắt”. Rồi trả lại nửa tiền, Lưu càng mến là thành thật, cứ rảnh là tìm tới, vì thế ngày càng quen thuộc. Cô gái hỏi chàng ở đâu, Lưu nói thật, hỏi lại thì cô gái tự nói họ Diêu. Lúc ra về, nàng lấy giấy gói những vật Lưu mua lại cẩn thận, rồi liếm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động tới, sợ mất vết lưỡi của nàng. Được nửa tháng, người đầy tớ rình biết, ngầm bàn với cậu bắt phải về. Lưu buồn bực không vui, đem các thứ khăn hương phấn sáp đã mua giấu vào một cái tráp, lúc vắng người lại đóng cửa kiểm lại một lượt, giở tới là ngẩn ngơ. Năm sau lại tới đất Cái, vừa buông hành lý xuống là tìm ngay tới chỗ cô gái, tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt. Thất vọng trở về, cứ nghĩ rằng nàng đi vắng chưa về. Sáng sớm hôm sau lại tới thì cửa vẫn đóng như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết họ Diêu vốn là người huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Đông), vì buôn bán không lời lãi bao nhiêu nên tạm về quê, cũng không biết lúc nào sẽ trở lại. Lưu buồn rầu, ở lại vài ngày rồi chán nản ra về. Bàn tới chuyện lấy vợ thì mấy lần đều không chịu nghe lời mẹ, mẹ vừa tức giận vừa kỳ quái, người đầy tớ liền lén kể chuyện năm trước cho mẹ biết, mẹ càng ráo riết ngăn cấm, không cho lui tới đất Cái nữa. Lưu chợt trở nên rầu rĩ, giảm ăn bỏ học, mẹ lo lắng không biết làm sao, nghĩ thôi chẳng bằng theo ý con, liền lập tức sắm sửa hành trang cho Lưu tới đất Cái, lại dặn nhắn với cậu nhờ làm mối giùm. Cậu theo lời, qua nhà họ Diêu, lát sau trở về nói “Việc không xong rồi. A Tú đã gả cho một người ở Quảng Ninh!". Lưu cúi đầu thẫn thờ, lòng như tro lạnh, hết cả hy vọng. Về nhà rồi, cứ ôm cái tráp rơi lệ, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong trên đời có người giống như thế. Lúc ấy có người mối tới, khen con gái họ Hoàng ở huyện Phục Châu (tỉnh Liêu Ninh) tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, sai đánh xe tới đất Phục. Vào cửa tây huyện thành, thấy phía bắc có một gian nhà, hai cánh cổng khép hờ, có một cô gái rất giống A Tú. Lại chú mục nhìn theo, thấy cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại mà vào, đích thị không sai. Lưu rất ngờ vực, bèn thuê nhà ở liền bên đông, hỏi dò thì đó là nhà họ Lý, nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ trên đời lại có người giống nhau đến thế sao? Ở đó mấy hôm, không nhờ ai được, chỉ ngày ngày trông ngóng ngoài cổng, chờ dịp cô gái đi ra. Một hôm, mặt trời vừa xế, cô gái quả ra, chợt thấy Lưu, liền quay vào đóng cửa, lấy tay chỉ ra phía sau, để bàn tay lên ngang trán rồi vào. Lưu rất mừng nhưng không hiểu ý, ngẫm nghĩ hồi lâu, rảo bước ra sau nhà, thấy vườn hoang vắng vẻ, phía tây có một bức tường thấp khoảng ngang vai, chợt hiểu ra liền ngồi xuống núp trong đám cỏ sương. Hồi lâu có người sau tường thò đầu ra hỏi khẽ “Tới chưa?", Lưu lên tiếng rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì đúng là A Tú, bật khóc lớn, nước mắt chảy ròng ròng. Cô gái cách tường đưa tay vuốt ve Lưu, lấy khăn lau nước mắt cho, ân cần an ủi. Lưu nói "Tìm đủ cách mà không được gặp, tự nghĩ kiếp này thế là thôi, ngờ đâu lại có đêm nay, nhưng nàng vì sao lại tới đây?”, cô gái đáp "Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp”. Lưu xin leo qua tường, cô gái nói "Chàng cứ về trước, bảo người hầu đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự tới”. Lưu theo lời ngồi đợi, giây lát cô gái lặng lẽ bước vào, ãn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước. Lưu kéo ngồi xuống, kể lễ nỗi khổ, rồi hỏi “Nghe nói nàng đã nhận sính lễ của người ta, sao chưa cưới?". Cô gái đáp “Nói thiếp đã nhận sính lễ là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi, không muốn gả thiếp cho công tử, có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng hết mong tưởng mà thôi". Rồi đó cùng lên giường ngủ, thương yêu đằm thắm không sao nói xiết. Đến canh tư, nàng trở dậy trèo qua tường mà về. Lưu từ đó quên cả ý định tới nhà họ Hoàng, trọ lại luôn nửa tháng, tuyệt nhiên không nói tới việc trở về. Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong phòng còn sáng đèn, nhìn vào thấy A Tú sợ lắm nhưng không dám hỏi chủ, chỉ ra chợ hỏi thăm, rồi mới về hỏi Lưu “Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai thế?”. Lưu ban đầu còn giấu diếm, người đầy tớ nói “Nhà này vắng vẻ, là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái nhà họ Diêu kia làm gì mà tới đây?". Lưu mới ngượng nghịu đáp “Nhà hàng xóm phía tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngừ vực". Người đầy tớ nói "Ta đã hỏi kỹ rồi, nhà bên đông chỉ có một bà già cô đơn, nhà bên tây chỉ có một người con trai còn nhỏ, chẳng ai có họ hàng thân thích. Người công tử gặp kia ắt là ma quỷ, không thì lẽ nào cái áo mấy năm vẫn không thay, vả lại da mặt quá trắng, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền, không đẹp bằng A Tú”. Lưu nghĩ lại phát hoảng, nói “Vậy thì làm sao?”. Người đầy tớ bàn đợi cô gái đến, cầm binh khí xông vào đánh. Tối cô gái tới, nói với Lưu rằng "Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn duyên phận với nhau thôi". Chưa dứt lời thì người đầy tớ đạp cửa xông vào, cô gái quát "Bỏ ngay binh khí xuống, mang rượu ra đây mau, để ta từ biệt chủ nhân". Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị cướp mất. Lưu càng sợ, gượng gạo ngồi tiếp rượu, còn cô gái vẫn cười nói như thường, nói với Lưu rằng "Biết tâm sự chàng, vẫn định tìm cách giúp cho chút ít, vất vả đề phòng nhau làm gì? Thiếp tuy không phải A Tú, nhưng cũng thấy mình không kém, chàng nhìn kỹ xem có phải không nào?". Lưu toàn thân nổi gai ốc, ú ớ không đáp đươc. Cô gái thấy đã sang canh ba, cầm chén rượu uống một hớp rồi đứng lên nói "Ta cứ đi đã, đợi sau đêm động phòng hoa chúc sẽ lại tới so sánh với mỹ nhân nhà chàng xem ai hơn kém”, kế quay người biến mất. Lưu tin lời hồ, lại sang đất Cái, giận cậu lừa mình nên không tới ở nhà cậu mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ người qua làm mối, đút cho nhiều tiền. Vợ Diêu nói "Chú nó định gả chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên cha nó tới đó, việc thành hay không chưa thể biết, phải đợi ông ấy về mới bàn được". Lưu nghe nói bàng hoàng không biết làm sao, chỉ còn cách cố đợi. Qua hơn mười ngày, chợt nghe có loạn, ban đầu còn ngờ là đồn nhảm, ít lâu sau tin càng gấp, bèn thu xếp ra đi. Giữa đường gặp giặc, chủ tớ lạc nhau, Lưu bị đội tiền tiêu bắt. Thấy Lưu là học trò yếu đuối nên chúng canh phòng lơ là, Lưu liền trộm ngựa trốn đi. Tới ranh giới Hải Châu, thấy một cô gái đầu tóc rối bù mặt mũi nhem nhuốc, bước cao bước thấp khập khiễng trên đường. Lưu dong ngựa vượt qua, cô gái gọi "Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu không?". Lưu kìm ngựa nhìn kỹ thì ra là A Tú, trong lòng còn ngại là hồ, bèn hỏi "Nàng đúng là A Tú chứ?”. Cô gái hỏi tại sao lại nói thế, Lưu kể lại chuyện mình đã gặp. Cô gái nói “Thiếp là A Tú thật đây, không phải là kẻ mạo danh đâu. Cha dắt thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi nhưng ngã lên ngã xuống. Chợt có một cô gái nắm cổ tay thiếp kéo đi, quanh co giữa đám quân cũng không có ai hỏi. Nàng đi nhanh như bay, thiếp kiệt sức vẫn không theo kịp, được trăm bước đã tụt lại sau mấy lần. Hồi lâu nghe tiếng người ngựa xa dần, nàng mới buông tay thiếp ra nói "Xin chào, đường phía trước đều yên ổn, cứ thong thả mà đi, người yêu của nàng sẽ tới, nên theo chàng cùng về". Lưu biết đó là hồ, rất cảm kích, nhân kể rõ vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói chú định gả nàng cho họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá. Bèn đỡ nàng lên ngựa cùng về, tới cổng nghe nói mẹ già vẫn khoẻ mạnh, cả mừng buộc ngựa vào nhà, kể lại mọi chuyện. Mẹ cũng mừng, bèn sửa soạn cho cô gái tắm gội, nàng trang điểm xong lên ra mắt, dung quang lộng lẫy, mẹ càng vui vẻ nói “Chẳng trách thằng nhỏ ngây kia nằm mơ cũng không quên". Bèn sắp xếp chăn nệm cho nàng ngủ cùng phòng với mình, rồi sai người tới đất Cái báo tin cho họ Diêu. Không bao lâu vợ chồng họ Diêu cùng tới, chọn ngày lành làm lễ cưới cho con gái rồi về. Cái tráp Lưu cất giữ còn nguyên dấu niêm phong, nhưng có hộp phấn mở ra thì toàn là đất đỏ. Lưu lấy làm lạ, cô gái che miệng cười nói "Vụ lừa gạt mấy nãm trước nay bị lộ rồi. Lúc ấy thấy chàng để mặc thiếp gói hàng, không xem lại thật giả, nên làm thế để đùa giỡn thôi”. Đang lúc cười đùa, chợt một người vén rèm bước vào nói "Vui vẻ như thế thì phải tạ ơn bà mối chứ!”. Lưu nhìn thì lại là một A Tú nữa. Vội vàng gọi mẹ, mẹ và người nhà đổ tới mà không ai phân biệt được. Lưu vừa ngoảnh đi cũng lẫn luôn, chăm chú nhìn hồi lâu mới nhận ra, chắp tay vái tạ. Cô gái cầm gương tự soi rồi thẹn thùng rảo bước ra, tìm theo thì đã biến mất. Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong phòng. Một đêm Lưu say rượu về phòng thấy tối tăm không có ai, đang thắp đèn thì A Tú tới. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, nàng cười nói “Hơi rượu sặc sụa chẳng ai chịu được mà còn tra hỏi này nọ. Đã ai đi ngoại tình đâu chứ!". Lưu cười ôm má nàng, cô gái hỏi "Chàng trông thiếp với chị hồ ai đẹp hon?”. Lưu nói "Nàng đẹp hơn, nhưng chỉ biết xem bề ngoài thì không phân biệt được". Kế khép cửa phòng ôm nhau đùa giỡn, lát sau có tiếng gõ cửa, cô gái đứng dậy cười nói “Chàng cũng chỉ là kẻ biết xem bề ngoài mà thôi". Lưu không hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất ngạc nhiên, mới biết người cùng chuyện trò vừa rồi là hồ. Trong bóng tối lại nghe thấy tiếng cười, hai vợ chồng ngẩng lên không khấn khứa, xin nàng hiện hình. Hồ nói "Ta không muốn gặp A Tú”. Hỏi sao không hóa ra dung mạo khác, hồ đáp "Ta không làm được". Hỏi sao không làm được, hồ đáp "A Tú là em gái ta, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng ta theo mẹ lên thiên cung ra mắt Tây Vương Mẫu, lấy làm hâm mộ, lúc về cố gắng bắt chước. Em ta thông tuệ hơn, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, ta bắt chước tới ba năm mới giống mà vẫn không bằng. Nay đã qua kiếp khác, tụ nghĩ đã hơn, không ngờ vẫn như xưa. Ta cam lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ tới thăm, bây giờ thì đi đây", rồi không nghe tiếng nói nữa. Từ đó cứ năm ba ngày lại tới một lần, trong nhà có việc gì khó khãn trở ngại đều quyết cho cả. Khi A Tú về thăm cha mẹ thì tới ở luôn vài ngày không đi, tôi tớ đều sợ hãi lánh mặt. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc đẹp đẽ, cài chiếc trâm đồi mồi dài mấy tấc, gọi tôi tớ lên nghiêm giọng bảo ai lấy trộm vật ấy đêm nay phải đem tới để vào chỗ ấy chỗ ấy, nếu không sẽ bị đau buốt óc thì đừng trách không nói trước, sáng ra quả lấy lại được đúng chỗ nàng đã nói. Ba năm sau không thấy tới nữa, nhưng nếu trong nhà có mất tiền lụa, A Tú bắt chước ăn mặc như nàng để dọa tôi tớ cũng thường lấy lại được. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 153 -[/B] Tiểu Thúy (Tiểu Thúy) Thái thường họ Vương người đất Việt (Chiết Giang), lúc còn là trẻ con có lần nằm ngủ ban ngày trên giường, bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, có con vật to hơn con mèo tới nằm nép bên cạnh, quanh quẩn không rời. Hồi lâu trời tạnh, con vật bỏ đi, nhìn lại thì không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở phòng bên. Anh nghe kể, mừng nói “Em ắt sẽ quý hiển to, đó là hồ tới núp trốn sấm sét đấy". Sau quả Vương tuổi trẻ đã thi đỗ Tiến sĩ, rồi từ chức Tri huyện về kinh làm Thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong rất ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết phân biệt con cái với con đực, quanh vùng vì vậy không ai chịu gả con gái cho, Vương rất lo lắng. Chợt có người đàn bà dắt một cô gái tới nhà xin gả cho Nguyên Phong. Nhìn tới cô gái, thấy nhoẻn miệng tươi cười, xinh đẹp như tiên. Vương mừng rỡ hỏi họ tên, người đàn bà tự nói họ Ngu, con gái tên Tiểu Thúy, vừa mười sáu tuổi. Bàn tới sính lễ, bà ta nói “Trước nay nó ở với ta rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân vào chốn nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa ý mà ta cũng được thỏa lòng, có phải bán rau đâu mà nói giá!". Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu. Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn "Đây là cha chồng, mẹ chồng của ngươi, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại". Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về, bà ta nói làng xóm không xa, không dám làm phiền rồi ra cửa đi. Tiểu Thúy cũng không hề buồn nhớ, lập tức trút đồ trang sức trong rương ra khoe, phu nhân cũng thấy thích. Mấy hôm sau không thấy người đàn bà tới, hỏi quê quán thì nàng cũng ngẩn ngơ không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt một khu nhà riêng cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe Vương cưới bừa con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười, nhưng lúc nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc, từ đó mới thôi dè bỉu. Cô gái lại rất thông minh, biết dò ý tứ mừng giận của cha mẹ chồng. Vợ chồng Vương quý dâu quá thói thường, lại áy náy chỉ sợ cô gái chê con mình ngây, song nàng vẫn vui vẻ không hề bận tâm. ở nhà rất hay đùa giỡn, lấy vải khâu thành quả cầu đá chơi, mang đôi hài da nhỏ đá ra xa vài mươi bước cho công tử chạy theo nhặt, công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi gọi nhau. Một hôm Vương tình cờ đi qua, quả cầu bay tới trúng bốp giữa mặt, cô gái và thị tỳ đều chạy trốn còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận lấy đá ném, công tử mới lăn ra đất gào khóc. Vương kể với vợ, phu nhân qua mắng cô gái, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười, lấy tay xoa mép giường, phu nhân về rồi lại đùa nghịch như cũ. Có lần lấy son phấn vẽ mặt công tử vằn vện như quỷ, phu nhân nhìn thấy giận lắm, gọi nàng tới nhiếc móc, nàng chỉ dựa vào bàn mân mê giải lưng, không sợ hãi cũng không nói gì. Phu nhân không biết làm sao, bèn lấy gậy đánh con trai. Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc quỳ xuống xin tha. Phu nhân nguôi giận ngay, vứt gậy bỏ về. Cô gái cười kéo công tử vào nhà, phủi bụi trên quần áo cho, lau nước mắt, xoa những chỗ bị đánh, lấy táo và hạt dẻ cho ăn, công tử lại nín khóc vui ngay. Cô gái đóng cửa, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương[B]*[/B], làm người ngoài sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, đóng vai Ngu mỹ nhân, rồi lả lướt múa may dưới màn. Hoặc cắm lông đuôi chim trĩ lên tóc, gảy đàn tỳ bà, bập bùng tình tang, cười đùa ầm ĩ cả nhà, ngày nào cũng thế. *Bá Vương: tức Tây Sở Bá vương Hạng Vũ thời Hán Sở tranh hùng, có người thiếp là Ngu mỹ nhân, tức Ngu Cơ. Vương vì con mình ngây không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua. Cùng ngõ có nhà quan Cấp gián họ Vương, cách hơn mười căn, nhưng vốn không đi lại với nhau. Gặp lúc triều đình theo lệ ba năm xét công quan lại, Cấp gián ghét ông giữ ấn đạo Hà Nam, rắp tâm hãm hại. Ông biết ý, lo lắm mà không biết làm sao. Một đêm ông đi nằm sớm, cô gái đội mũ đeo đai như Tể tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại bắt hai tỳ nữ cải trang như quan hầu, lén lấy ngựa trong tàu ra cưỡi đi, nói đùa rằng tới thăm Vương tiên sinh. Tới cổng nhà Cấp gián lại lấy roi đánh người hầu, nói "Ta tới thăm Thị ngự họ Vương chứ có tới thăm Cấp gián họ Vương đâu, rồi dong ngựa trở về. Tới nhà, người gác cổng tưởng thật chạy vào báo, ông vùng dậy ra nghênh tiếp mới biết là con dâu đùa, giận lắm nói với phu nhân "Người ta đang tìm chuyện bới móc mình, mà mình lại tự đem cái xấu trong phòng khuê tới tận cổng nhà người ta báo thì tai họa không xa đâu!". Phu nhân giận, qua ngay phòng cô gái mắng nhiếc, nàng chỉ ngu ngơ cười không cãi lại một câu, đánh thì không nỡ mà đuổi thì nàng không cửa không nhà, vợ chồng buồn bực cả đêm không ngủ. Lúc ấy ông Mỗ làm Tể tướng, uy thế lừng lẫy, nghi vệ phong thái xiêm áo quan hầu không khác gì với những cái cô gái giả trang. Cấp gián họ Vương cũng lầm tưởng là thật, mấy lần sai người tới rình ở cổng nhà Vương, đến nửa đêm vẫn chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể tướng với Vương có mưu ngầm. Hôm sau vào chầu sớm gặp nhau bèn hỏi “Đêm qua tuớng công đến nhà ông à?". Vương ngờ là y nói mỉa, ngượng ngùng dạ dạ không trả lời. Cấp gián càng nghi hoặc, bèn bỏ ý trước, từ đó lại cố lấy lòng ông. Ông dò biết sự tình, mừng thầm nhưng ngầm dặn phu nhân khuyên cô gái đừng làm những việc như thế nữa, nàng cười vâng dạ. Qua năm sau, Tể tướng bị bãi chức, kế có thư riêng gởi ông, lại đưa lầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián cả mừng, trước tiên nhờ người quen ông tới hỏi mượn một vạn lượng vàng, ông từ chối. Cấp gián đích thân tới, ông tìm khăn áo mãi mà không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận ông xấc xược, tức tối toan ra về. Bỗng thấy công tử mặc áo cổn đội mũ miện bị một cô gái từ trong cửa xô ra, giật mình hoảng sợ rồi cười, vỗ về công tử, lột lấy áo cổn mũ miện mang đi. Ông vội ra thì khách đã về rồi, nghe chuyện sợ tái mặt, khóc lớn nói "Đây là cái họa nàng dâu đây, không mấy ngày sẽ chết cả họ thôi!". Liền cùng phu nhân vác gậy chạy qua. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa mặc cho chửi mắng. Ông giận, lấy búa phá cửa, cô gái trong phòng cười nụ nói "Cha đừng giận. Có con ở đây, bao nhiêu đao kiếm búa rìu con cũng xin chịu, quyết không để lụy cho cha mẹ. Cha muốn giết dâu để bịt miệng nhân chúng à?", ông bèn thôi. Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, dâng mũ miện áo cổn làm bằng chứng. Hoàng thượng giật mình, xét nghiệm lại thì ra mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, áo cổn khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng, giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thấy dáng vẻ ngây ngô lộ rõ, phì cười nói “Thế này mà cũng làm vua được à?", bèn giao cho Pháp ty xét. Cấp gián lại kiện nhà ông có yêu quái, Pháp ty tra hỏi cả những con cái của tôi tớ trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và đứa con ngây, suốt ngày cười đùa. Láng giềng cũng không khai gì khác, án mới định, Cấp gián bị sung làm lính ở Vân Nam. Vương từ đó cho cô gái là người lạ, lại vì mẹ nàng lâu không thấy tới, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân hỏi dò, nàng chỉ cười không đáp, gặng mãi thì che miệng đáp “Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết sao?”. Không bao lâu, ông được thăng làm quan khanh, đã hơn năm mươi tuổi nên thường lo không có cháu nội. Cô gái ở đó ba năm mà đêm đêm vẫn không ngủ chung với công tử như chưa từng chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng giường đi, dặn công tử ngủ chung với vợ. Được vài hôm, công tử nói với mẹ “Mượn giường của con sao lâu không trả? Tiểu Thúy cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở không được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!”. Đám tớ gái đều phì cười, phu nhân quát, đánh đuổi đi. Một hôm cô gái tắm trong phòng, công tử nhìn thấy đòi tắm chung, nàng cười ngăn lại, bảo chờ một lúc. Tắm xong sai thay nước nóng, cởi hết quần áo cho, gọi thị tỳ cùng đỡ công tử vào thùng tắm. Công tử thấy ngột ngạt khó chịu kêu to đòi ra, cô gái không cho, lấy chăn trùm kín lên. Giây lát không nghe kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở. Nàng vẫn thản nhiên cười nói không sợ hãi gì, kéo công tử ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho. Phu nhân nghe tin, khóc lóc đi vào mắng "Con điên kia, sao lại giết con ta?". Cô gái tươi cười đáp "Con ngây như thế thì thà không có". Phu nhân càng giận, lao vào húc nàng, bọn tỳ nữ xô vào kéo ra khuyên can. Đang giằng co ồn ào thì một tỳ nữ nói “Công tử rên được rồi”, phu nhân gạt lệ tới vỗ về con, thấy hơi thở nhè nhẹ mà mồ hôi như tắm, ướt cả chăn chiếu. Khoảng xong bữa cơm thì mồ hôi không chảy nữa, chợt mở mắt nhìn quanh, ngó khắp gia nhân như không biết ai cả, nói “Bây giờ ta nhớ lại những việc trước đây thấy cứ như nằm mơ, sao thế nhỉ?". Phu nhân thấy lời nói không hề ngây ngô vô cùng lạ lùng, dắt qua chào cha. Hỏi thử mấy lần, quả không còn ngây, mừng rỡ như bắt được của báu, bèn sai khiêng trả giường về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao. Công tử vào phòng, đuổi hết thị tỳ đi, sáng nhìn tới thì giường vẫn bỏ không. Từ đó không ngây không điên nữa, mà sắt cầm hòa hợp quấn quít như hình với bóng. Được hơn năm, ông lại bị bè đảng Cấp gián hặc tội đòi cách chức, chuyện cũng hơi lôi thôi. Ông có cái bình ngọc quý của quan Trung thừa[B]*[/B] Quảng Tây trước đây tặng cho, giá đáng ngàn vàng, định đem đút lót quan trên. Cô gái thích cầm lên ngắm, lỡ tay làm rơi vỡ nát, xấu hổ tới tự nhận lỗi. Vợ chồng ông đang buồn về việc bị cách chức, nghe thế tức giận, cùng nhiếc mắng thậm tệ. Nàng uất ức bỏ ra, nói với công tử "Ta ở nhà anh, những cái giữ gìn được không phải chỉ là một cái bình, sao không giữ gìn thể diện cho nhau một chút? Nói thật với ông ta không phải là người, vì mẹ ta gặp nạn sấm sét, được đội ơn cha che chở, lại vì hai ta có năm năm duyên phận nên ta tới đây để đền ơn xưa và trọn duyên trước thôi. Ta bị mắng chửi đã nhiều, nhổ tóc mà tính cũng không đủ, sở dĩ không đi ngay là vì cái tình năm năm chưa hết, giờ đây thì còn làm sao nấn ná được nữa”. Rồi giận dữ bước ra, đuổi theo thì đã biến mất. *Trung thừa: tức Tuần phủ đứng đầu một tỉnh theo quan chế thời Thanh. Ông ngẩn người biết mình lỡ lời nhưng hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào phòng, nhìn phấn thừa thoa cũ, khóc rống đòi chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng tiều tụy. Ông lo lắm, vội lo cưới vợ khác cho con khuây khỏa, nhưng công tử không thích, chỉ tìm thợ giỏi vẽ tranh Tiểu Thúy, ngày đêm thắp hương rưới rượu khấn vái. Gần hai năm sau, công tử tình cờ có việc đi nơi khác trở về, trăng sáng vằng vặc, ngoài thôn có một khu vườn cảnh của nhà, vừa cưỡi ngựa đi qua bỗng nghe bên trong tường có tiếng cười liền dừng cương, sai mã phu nắm hàm thiếc rồi đứng lên yên nhìn vào, thì ra có hai nữ lang đang chơi đùa ở trong. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không nhìn thấy rõ, chỉ nghe một nàng áo xanh nói "Con nhãi này đáng bị đuổi ra khỏi cổng!", một nàng áo đỏ nói “Ngươi đang trong vườn nhà ta, lại còn đòi đuổi ai?”. Nàng áo xanh nói "Con nhãi thật không biết thẹn, làm vợ không nên thân, bị người ta đuổi đi, còn dám nhận bừa sản nghiệp của người ta à?”. Nàng áo đỏ nói "Còn hơn con nhãi già không ai thèm ngó tới!". Công tử nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thúy, vội gọi lớn. Nàng áo xanh bỏ đi, nói "Ta không cãi vã với ngươi nữa, ông chồng ngươi tới rồi kìa". Kế nàng áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thúy, công tử mừng lắm. Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói “Hai năm không gặp mà chỉ còn có một nắm xương thôi!”. Công tử cầm tay rơi nước mắt, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói “Thiếp cũng biết thế, nhưng chẳng còn mặt mũi nào quay lại nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, tình cờ lại gặp nhau, mới biết duyên số không thể trốn được”. Công tử nài cùng về, nàng không chịu, xin cứ ở lại trong vườn thì nàng bằng lòng, bèn sai đầy tớ chạy về bẩm với phu nhân. Phu nhân giật mình đứng lên sai thắng kiệu tới ngay, mở khóa vào đình. Cô gái rảo bước ra đón, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm cánh tay nàng sa nước mắt nhận hết lỗi trước, như không tha thứ được cho mình, nói "Nếu con không chấp chuyện cũ thì xin cùng về cho mẹ vui tuổi già”, nàng cương quyết nói không được. Phu nhân lo đình tạ hoang vắng, định cho nhiều người ra hầu hạ. Cô gái nói “Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ cũ theo hầu sớm tối, không thể không thương mến. Ngoài ra chỉ xin một lão bộc gác cổng, chứ không cần gì khác!”. Phu nhân đều theo lời, lại nói thác rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, hàng ngày sai mang thức ăn vật dùng ra mà thôi. Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe, hơn một năm sau thì nét mặt giọng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức tranh ra so thấy khác hẳn như là hai người, vô cùng lạ lùng. Nàng hỏi “Trông thiếp bây giờ có đẹp như trước không?”. Công tử đáp “Bây giờ đẹp thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng”. Nàng nói "Chắc thiếp già rồi". Công tử nói "Người hơn hai mươi tuổi, làm gì mà già mau thế?”. Nàng cười đốt bức tranh, giật lại thì đã cháy hết. Một hôm nàng nói với công tử “Lúc trước còn ở nhà, cha thiếp vẫn nói thiếp đến chết cũng không mang thai được. Nay cha mẹ đã già, chàng có một mình, thiếp thật không sinh nở được, sợ lỡ việc nối dõi của chàng. Xin cưới vợ về nhà để sớm tối hầu hạ cha mẹ, còn chàng qua lại hai nơi, cũng không có gì không tiện. Công tử cho là đúng, liền dạm hỏi con gái Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, cô gái đích thân may áo khâu giày cho cô dâu, sai đưa về chỗ phu nhân. Ngày cưới, cô dâu vào nhà thì giọng nói nét mặt, dáng điệu cử chỉ đều giống hệt Tiểu Thúy, công tử rất lấy làm lạ. Trở lại khu vườn thì không thấy nàng đâu, hỏi hai tỳ nữ, họ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói "Nương tử tạm về thăm nhà, để lại vật này cho công tử”. Mở khăn xem, thấy có buộc cái vòng quyết bằng ngọc, biết nàng không trở lại nữa, bèn đưa hai tỳ nữ cùng về, tuy trong phút chốc không quên được Tiểu Thúy nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như nhìn thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cô gái đã biết trước duyên phận giữa công tử với cô gái họ Chung nên thay đổi nét mặt của nàng trước để khuây nỗi nhớ cho chàng ngày sau. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Một con hồ chỉ chịu cái ơn lúc vô tâm mà còn lo báo đáp, thế mà kẻ kia đuợc hưỡng ơn tái tạo lại la thét khản tiếng vì bị vỡ cái bình, sao mà bỏn sẻn đến thế! Còn trăng khuyết lại tròn, thung dung ra đi, mới biết cái tình của người tiên cũng sâu hơn thế tục nhiều.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 154 -[/B] Tế Liễu (Tế Liễu) Tế Liễu là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc, không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói "Giả như trên đời không có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?". Nàng thưa "Thật tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công, cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ". Lúc ấy có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ. Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi[B]*[/B]. *Trường Hỗ... mà thôi: trường hỗ (nương tựa 1âu dài) đây 1ấy ý câu trong kinh Thi Tiểu nhã, Lục nga "Vô phụ hà hỗ” (Không có cha thì nương tựa vào ai). Đây Tế Liễu biết truớc chồng sẽ chết sớm nên đặt tên con như vậy để tỏ ý mong chồng sống lâu. Cô gái về việc nữ công rất vụng về, cũng ít khi để ý tới, nhưng ruộng nương ở đâu, thuế má bao nhiêu thì cứ theo sổ sách mà hỏi, chỉ sợ là không biết rõ. Ít lâu nói với sinh rằng "Việc trong nhà xin chàng đừng nhìn tới nữa, để thiếp lo cho, xem có coi sóc nổi việc nhà không?". Sinh theo lời, được nửa năm thì trong nhà không có việc gì bê trễ, cũng cho vợ là giỏi. Một hôm sinh đi uống rượu ở xóm bên, có kẻ đi thúc thuế thiếu đập cửa hỏi, nàng sai đầy tớ ra nài nỉ xin khất nhưng y không chịu, phải sai trẻ đi gọỉ sinh về. Người thúc thuế đi rồi, Sinh cười nói "Tế Liễu nay đã biết đàn bà khôn không bằng đàn ông ngu chưa?". Cô gái nghe thế cúi đầu bật khóc, sinh hoảng sợ vội tìm lời an ủi nhưng rốt lại nàng vẫn không vui. Sinh không nỡ để nàng phải khó nhọc vì việc nhà, muốn tự mình cáng đáng như cũ nhưng nàng không chịu. Từ đó nàng thức khuya dậy sớm chăm chỉ lo toan, cứ cuối năm là lo sẵn tiền thuế của năm sau, nhờ vậy cả năm ít khi thấy nha lại tới nhà đòi thuế thiếu. Về tiền bạc chi tiêu trong nhà nàng cũng làm theo cách ấy, nhờ vậy chi dùng có chừng mục mà của cải ngày thêm nhiều. Sinh vì thế càng yêu mến, có lần nói đùa với nàng rằng "Tế Liễu mới nhỏ sao? Nét mày nhỏ, eo lưng nhỏ, bàn chân nhỏ, lại mến tâm tư càng tinh tế", nàng đối lại rằng "Cao lang thật cao vậy! Nhân phẩm cao, chí khí cao, văn chương cao, chỉ mong tuổi thọ lại càng cao"[B]*[/B]. Trong làng có người bán chiếc quan tài bằng gỗ tốt, nàng không tiếc mang món tiền lớn tới hỏi mua, nhưng giá cao quá không đủ tiền, lại tìm đủ cách vay muợn thân thích láng giềng mua bằng được. Sinh cho rằng đó không phải vật cần gấp, cố ngăn cản nhưng nàng không nghe. Mua về hơn năm thì trong làng có người chết, người nhà mang tiền tới xin mua lại với giá gấp đôi, sinh thấy có lãi bèn bàn bán đi, nàng không chịu. Sinh hỏi nguyên cớ, nàng không đáp, lại hỏi nữa thì nàng rơm rớm nước mắt, sinh lấy làm lạ nhưng không nỡ làm nàng buồn, bèn thôi việc ấy. * “Tế Liễu... càng cao”: đôi câu đối này nguyên văn là "Tế Liễu hà tế tai? Mi tế yêu tế lăng ba tế, thả hỉ tâm tư cánh tế, Cao lang thành cao hĩ! Phẩm cao chí cao văn tự cao, đãn nguyện thọ số vưu cao", có chỗ chơi chữ không dịch được vì chữ “tế” ở vế đầu vừa có nghĩa là nhỏ bé, vừa có nghĩa là tỉ mỉ, tinh tế. Lại hơn một năm nữa, sinh vừa hai mươi lăm tuổi, nàng không cho đi xa, mà đi đâu về hơi muộn thì nàng sai đầy tớ nối nhau đi mời gọi về, bạn bè sinh vì vậy có người lấy đó để đùa cợt chế diễu. Một hôm sinh tới nhà bạn uống rượu, thấy trong người mỏi mệt nên ra về, giữa đường ngã ngựa chết. Lúc ấy mới đầu mùa hè, may mà quan tài vải liệm đã chuẩn bị đầy đủ cả, người làng mới bắt đầu khâm phục Tế Liễu. Phúc lên mười tuổi thì bắt đầu đi học, nhưng sau khi cha chết lại đâm ra biếng nhác không chịu đọc sách cứ trốn học đi chơi với đám trẻ chăn trâu. Nàng trách mắng cũng không chừa, kế đánh đòn mà vẫn bướng bỉnh chứng nào tật ấy như cũ. Nàng không biết làm sao, bèn gọi vào răn dạy, nói “Nếu ngươi không muốn học chữ thì làm sao ép được. Nhưng nhà ta nghèo, không ai được ngồi ăn không. Ngươi phải thay quần áo, theo bọn đầy tớ làm lụng, nếu không thì ta đánh đòn đừng trách". Rồi bắt mặc áo rách, sai đi chăn heo, về tới nhà thì phải xách nước nấu cơm, ăn uống như đám tôi tớ. Được vài hôm Phúc thấy khổ quá, tới quỳ trước sân khóc lóc, xin lại đi học. Nàng quay mặt vào vách im lặng như không nghe thấy, Phúc bất đắc dĩ cầm roi khóc lóc đi ra. Đến cuối thu Phúc hết đường xoay xở, mình không áo, thân không giày, mưa lạnh thấu xương, đầu bù tóc rối như ăn mày. Người làng ai thấy cũng thương hại, những kẻ lấy vợ kế đều lấy việc Tế Liễu làm răn, chê bai dè bỉu đủ điều, nàng cũng nghe biết song vẫn thản nhiên không hề để ý. Phúc khổ quá chịu không nổi, bỏ heo trốn đi, nàng cũng mặc kệ không hỏi gì tới. Được vài tháng Phúc không có chỗ nào cho ăn, tiều tụy tự tìm về nhưng không dám vào nhà, năn nỉ người đàn bà láng giềng qua nói giúp với mẹ. Nàng nói “Nếu chịu nổi một trăm gậy thì vào đây gặp ta, còn nếu không thì cứ đi đi cho sớm”, Phúc nghe thế chạy mau vào nhà, khóc rống lên xin chịu đòn. Nàng hỏi "Nay ngươi đã hối lỗi rồi sao?”, Phúc thưa "Con hối lỗi rồi". Nàng nói “Đã biết hối lỗi rồi thì không cần đánh nữa, cứ về yên phận chăn heo, nếu tái phạm sẽ không tha". Phúc khóc lớn thưa "Xin mẹ cứ đánh một trăm gậy nhưng cho con được đi học lại". Nàng không nghe, người đàn bà láng giềng khuyên giải mãi mới ưng thuận. Bèn sai Phúc tắm rửa, cho mặc áo mớì, bắt đi học chung với em là Hỗ, từ đó ra sức học hành, khác hẳn ngày trước. Được vài năm Phúc vào học ở trường tỉnh, có quan Tuần phủ là Dương công đọc thấy văn bài cho là có tài, hàng tháng cấp thêm tiền gạo giúp đỡ việc học. Hỗ thì rất ngu độn, đi học mấy năm vẫn không viết được tên họ. Mẹ bắt bỏ học về làm ruộng, nhưng Hỗ quen sung sướng ngại cực khổ. Mẹ giận nói “Bốn dân ai cũng phải làm việc, ngươi đã không thể học lại không muốn cày, há chẳng chết đói nơi ngòi rãnh à?”. Lập tức đánh cho một trận, từ đó bắt theo đám tôi tớ làm ruộng, sáng nào dậy muộn thì bị chửi mắng. Đồ mặc thức ăn có thứ đẹp cái ngon thì mẹ chọn dành cho anh, Hỗ không dám nói ra nhưng lòng vẫn tức tối. Hết mùa làm ruộng, mẹ xuất tiền đưa cho sai theo học buôn bán, Hỗ lại say mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền nướng sạch cả, rồi về đặt điều là gặp phải trộm cướp, đổ cho số phận để đánh lừa mẹ. Mẹ biết, đánh cho một trận gần chết, Phúc bò rạp xuống năn nỉ xin chịu đòn thay em, Tế Liễu mới nguôi giận. Từ đó mỗi khi Hỗ ra khỏi nhà là mẹ sai người theo dõi gắt gao, nên dần dần cũng tiêu pha dè sẻn hơn, có điều chỉ là bất đắc dĩ chừ không phải thật lòng muốn như vậy. Một hôm xin mẹ cho theo bạn buôn tới huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) buôn bán, thật ra là mượn cớ đi xa để mặc sức chơi bời, nhưng trong lòng lo lắng chỉ sợ mẹ không chịu. Mẹ nghe nói thản nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, đưa ngay cho ba mươi lượng vàng vụn để làm vốn, rồi đưa thêm một đĩnh vàng lớn, nói "Đây là của ông nội ngươi dành dụm lúc làm quan để lại, không được tiêu mất, đưa ngươi dằn túi để phòng lúc cần kíp thôi. Vả lại ngươi mới học đi buôn, ta cũng chẳng dám mong lãi nhiều, chỉ cần không bị hụt vào ba mươi lượng vàng này là được rồi". Lúc Hỗ lên đường còn dặn đi dặn lại, Hỗ dạ dạ ra đi, vui vẻ đắc ý lắm. Tới đất Lạc, Hỗ từ biệt hết các bạn buôn, tới ở nhà ca kỹ họ Lý, chỉ qua hơn mười đêm đã gần hết ba mươi lượng vàng. Nhưng nghĩ trong túi còn đỉnh vàng lớn nên đầu tiên chưa lo lắng gì, đến lúc chặt ra trả tiền mới biết chỉ là vàng giả, hoảng sợ tái cả mặt. Mụ chủ thấy thế buông lời châm chọc mai mỉa, Hỗ vô cùng lo lắng nhưng túi rỗng không biết xoay xở vào đâu, song nàng ca kỹ còn nghĩ tới tình nghĩa chưa trở mặt ngay. Giây lát có hai người mang dây sấn vào trói nghiến Hỗ, Hỗ hoảng sợ không biết vì sao, van vỉ hỏi thăm mới rõ rằng nàng ca kỹ đã ngầm lấy đĩnh vàng giả sai người đem báo quan. Tới công đường, quan không buồn nghe thưa bẩm gì cả, cứ sai cùm kẹp Hỗ chết đi sống lại mấy lần rồi hạ ngục. Hỗ không có tiền bạc gì nên bị bọn ngục tốt đối xử tàn tệ, phải xin cơm của các bạn tù ăn mới không chết đói. Hôm Hỗ lên đường, mẹ nói với Phúc rằng “Nhớ là hai mươi ngày nữa ta sẽ sai ngươi tới đất Lạc, ta nhiều việc chỉ sợ quên mất!”. Phúc hỏi đi để làm gì thì nàng im lặng buồn rầu nên không dám hỏi nữa, lặng lẽ lui ra. Sau hai mươi ngày, Phúc tới hỏi, mẹ than "Em ngươi bê tha ngày nay cũng như ngươi bỏ học ngày trước vậy, ta mà không chịu tiếng xấu thì làm sao ngươi được như ngày nay? Mọi người đều nói rằng ta nhẫn tâm, nhưng việc nước mắt đẫm gối thì họ không biết đó thôi”. Rồi bật khóc, Phúc chĩ kính cẩn đứng im lặng, không dám hỏi han gì. Mẹ khóc xong mới nói "Em ngươi chưa bỏ thói xấu nên ta đưa vàng giả để nó phải chịu khốn khổ, nay chắc đã bị bắt rồi. Quan Tuần phủ đối xử với ngươi rất tốt, ngươi tới cầu khẩn thì nó có thể được thoát chết để sống mà hối lỗi”. Phúc lập tức lên đường, tới đất Lạc thì em đã bị giam ba ngày rồi. Vội vào ngục tìm, thấy Hỗ mặt mũi nhọ nhem như quỷ, gặp anh rơi nước mắt không dám ngước nhìn, Phúc cũng khóc. Lúc ấy Phúc được quan Tuần phủ đối xử rất thân ái, xa gần đều biết tiếng, quan huyện Lạc Thành biết là anh Hỗ, vội tha Hỗ ra. Hỗ về tới nhà sợ mẹ giận, đi bằng đầu gối vào gặp. Mẹ ngoảnh lại hỏi “Ngươi thỏa nguyện rồi chứ?”. Hỗ rơi nước mắt không dám lên tiếng. Phúc cũng quỳ xuống, mẹ mới quát bảo đứng dậy. Từ đó Hỗ dốc lòng tu tỉnh, chăm chỉ việc nhà, nếu có lúc nào bê trễ mẹ cũng không trách hỏi gì tới. Suốt mấy tháng không nói tới chuyện đi buôn, cũng muốn xin với mẹ nhưng không dám, bèn nhờ anh nói hộ. Mẹ nghe thế mừng rỡ, đem hết tiền bạc giao cho, Hỗ đi buôn nửa năm đã lãi gấp hai. Năm ấy Phúc thi hương đỗ Cử nhân, ba năm sau lại đỗ Tiến sĩ, em thì buôn bán trở nên giàu có ức vạn. Trong huyện có người tới đất Lạc, gặp được Thái phu nhân, thấy tuổi đã tứ tuần mà dung mạo chỉ như mới hơn ba mươi, ăn mặc giản dị như nhà thường dân mà thôi. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Sách Hắc tâm phù ra đời thì áo hoa lau thay đổi[B]*[/B], xưa nay đều giống nhau, thật đáng buồn vậy. Nhưng mẹ kế sợ bị chê bai thì lại nuông chiều con chồng quá mức, đến nỗi cứ mặc kệ con cái phóng túng không hỏi tới một câu, nên đã có biết bao nhiêu người bị con chồng ngược đãi rồi! Nếu chỉ đánh đập con ruột thì người ngoài không cho là ác độc, nhưng đánh con chồng thì lập tức bị chê trách ngay. Như Tế Liễu không chỉ tàn nhẫn với con chồng mà còn khiến con ruột mình trở thành người giỏi, nhưng làm sao mà đem tấm lòng ấy giải bày với người đời, nên không sợ điều tỵ hiềm, không tránh tiếng ác, rốt lại dạy được hai con trở nên một đứa sang một đứa giàu, rỡ mặt với đời, cứng rắn ngay thẳng như thế thì so ra chẳng kém gì đàn ông, chứ đừng nói so với đàn bà.[/I] *Sách Hắc tâm phù... thay đổi: Thanh di lục chép "Trưởng sử Lai Châu là Vu Nghĩa Phương có làm một quyển Hắc tâm phù để truyền lại cho đời sau”. Tâm phù là từ dùng chỉ người mẹ kế có đức, nên Hắc tâm phù đây chỉ người mẹ kế tàn ác với con chồng. Áo hoa lau chỉ việc Mẫn Tử Khiên bị mẹ kế ngược đãi, mùa đông cho hai con mình mặc áo bông, cho con chồng là Mẫn Tử Khiên mặc áo hoa lau. Đây ý nói khi chuyện mẹ kế tàn ác với con chồng bị dư luận lên án, thì những bà mẹ kế tàn ác cũng thay đổi thủ đoạn để đối phó với dư luận. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 155 - 156[/B] Chung Sinh (Chung Sinh) Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cuỡng trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói "Ông đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính". Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện, nhân hỏi "Có phải ông muốn biết tương lai không?”, sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói "Phúc mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa”. Chung vốn có hiếu, nghe thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói "Nếu bỏ thi lần này thì không bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa”, sinh đáp "Mẹ mất không được thấy mặt, thật không đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?". Đạo sĩ nói "Kiếp trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ". Rồi lấy thuốc trao cho, nói "Cứ sai người ngày đêm đi gấp về dâng cho lệnh đường, thuốc này uống vào có thể sống thêm bảy hôm, ông thi xong trở về mẹ con vẫn còn kịp nhìn thấy mặt nhau”. Sinh nhận thuốc, vội vàng ra về, lòng dạ rối bời, nghĩ rằng sống chết có ngày giờ, mình về sớm được một ngày thì phụng dưỡng mẹ nhiều thêm một ngày, liền gọi đầy tớ thuê ngựa tức khắc lên đường trở về Liêu Đông. Đi được vài dặm bỗng con ngựa quay đầu chạy ngược lại, đánh thì nó đứng ỳ ra, thúc bàn đạp thì nó khuỵu xuống, sinh toát cả mồ hôi cũng không làm sao được. Người đầy tớ bèn khuyên sinh ở lại, sinh không nghe, nhưng thuê con ngựa khác cưỡi thì cũng thế, đến tận chiều tối vẫn không đi được. Người đầy tớ lại khuyên "Ngày mai là thi xong, có gấp gì một ngày một buổi? Ta xin đi ngay mang thuốc về trước thay chủ nhân, thế thì đôi đàng đểu trọn vẹn", sinh bất đắc dĩ đành nghe theo. Hôm sau vào thi, sinh làm bài qua loa cho xong rồi lập tức lên đường trở về ngày đêm không nghỉ. Về tới nhà thì biết bệnh mẹ đang ngặt nghèo nhưng uống thuốc xong cũng hơi giảm. Sinh vào đứng trước giường rơi nước mắt, mẹ ra hiệu bảo nín khóc, rồi cầm tay sinh vui vẻ nói ”Mẹ vừa nằm mộng thấy xuống tới âm ty thấy Diêm Vương nét mặt ôn hòa nói rằng: Xét ngươi bình sinh không phạm tội gì lớn, nghĩ tới con ngươi chí hiếu nên cho ngươi sống thêm một kỷ (mười hai năm) nữa". Sinh cũng mừng, vài ngày sau quả nhiên thấy mẹ khỏe mạnh lại như cũ. Không bao lâu lại có tin báo thi đỗ, sinh chào mẹ tới đất Tế (tức vùng Sơn Đông), đút tiền cho quan Nội giám trong vương phủ xin gặp đạo sĩ. Đạo sĩ vui vẻ ra gặp, sinh bèn lạy tạ. Đạo sĩ nói "ông vừa đậu cao, Thái phu nhân lại được tăng thêm tuổi thọ, đó đều là nhờ ông có đức tốt, chứ bần đạo có tài cán gì đâu?". Sinh càng phục tài tiên tri, lại xin hỏi việc chung thân. Đạo sĩ đáp “Ông không quý hiển lớn được, song được sống lâu là đủ rồi. Kiếp trước ông là đạo hữu với ta, có lần lấy đá ném con chó, lỡ tay giết chết nó, nay nó đã đầu thai làm ngựa rồi. Theo số mệnh mà bàn thì lẽ ra ông phải chết sớm, nhung nhờ lòng chí hiếu làm cảm động tới thần minh nên đã được giải tinh nhập hạn, chắc sẽ không hề gì. Nhưng phu nhân kiếp trước là đàn bà không giữ trinh tiết, lẽ ra kiếp này phải góa chồng sớm, nay ông nhờ có đức được kéo dài tuổi thọ thì lại không xứng đôi nữa, e rằng sang năm đài gương phải đổ”. Sinh bùi ngùi hồi lâu rồi hỏi vợ kế của mình ở đâu, đạo sĩ đáp "Ở Trung Châu (thuộc tỉnh Hà Nam), năm nay được mười bốn tuổi". Khi chia tay lại dặn sinh “Nếu gặp tai họa thì cứ chạy mau về phía đông nam". Hơn năm sau, quả nhiên vợ sinh mắc bệnh chết. Sinh có người cậu làm Huyện lệnh Tây Giang (tỉnh Quảng Đông), mẹ sai đi thăm. Lúc về tiện đường sinh ghé qua Trung Châu xem lời tiên đoán của đạo sĩ về người vợ kế có nghiệm không. Ngẫu nhiên tới một thôn đang có đám diễn tuồng cạnh bờ sông, trai gái chen chúc đứng xem đông nghẹt, sinh vừa thả cương cho ngựa chậm rãi đi vòng qua thì bỗng có con ngựa đực đứt cương đuổi theo làm ngựa của sinh vọt chạy. Sinh ngoảnh lại lấy roi đánh vào đầu con ngựa đực, nó hoảng sợ lồng lên. Lúc ấy thế tử trong vương phủ mới được sáu bảy tuổi, người vú đang bế ngồi chơi trên đê, con ngựa đực xông về phía đó, đám tùy tùng đều không kịp chặn lại nên vương tủ bị xô ngã xuống sông. Đám tùy tùng quát tháo ầm ĩ tranh nhau đuổi bắt, sinh giục ngựa chạy bán sống bán chết, chợt nhớ lời đạo sĩ dặn bèn ra sức chạy về phía đông nam. Được hơn hai mươi dặm thì vào tới một thôn, thấy có ông già đúng trước cổng nhà nọ liền xuống ngựa vái chào. Ông già mời vào, tự xưng là họ Phương rồi hỏi khách từ đâu tới. Sinh quỳ rạp xuấng đất kể lại sự tình, ông già nói "Không hề gì, xin cứ nghỉ lại đây" rồi sai người đi nghe ngóng. Đến tối được tin mới biết là thế tử trong vương phủ, cả sợ nói "Nhà ai khác thì ta còn có thể giúp, chứ cục cưng này thì không làm thế nào được”. Sinh năn nỉ mãi, ông già ngẫm nghĩ rồi nói "Quả thật là không giúp được, nhưng mời khách cứ nghỉ lại qua đêm nay ở đây, nghe ngóng xem tình thế ra sao mới tính tiếp được". Sinh buổn rầu lo lắng, cả đêm không chợp mắt. Hôm sau nghe tin đã có trát nã bắt sinh, ai chứa chấp cũng sẽ bị xử tử. Ông già có vẻ lo lắng im lặng trở vào, sinh nửa sợ nửa ngờ không sao trấn tĩnh được. Nửa đêm, ông già qua gõ cửa phòng, vào ngồi một lúc rồi hỏi vợ sinh bao nhiêu tuổi. Sinh nói là góa vợ, ông già mừng rỡ nói "Kế ta ắt xong!! . Sinh hỏi kế thế nào, ông đáp “Anh rể ta mộ đạo Phật, vào núi Nam Sơn tu hành, chị ta nay đã qua đời, để lại một đứa con gái được người lão bộc chăm sóc cũng khá thông minh, xin gả cho ông, có đưọc không?”. Sinh mừng vì hợp với lời đạo sĩ, lại thành có kẻ thân thích ở nơi xa, có thể thoát nạn, bèn nói "Tiểu sinh thật rất may mắn, nhưng đang là kẻ có tội ở xa nhà, rất sợ làm lụy cả cha vợ”. Ông già nói “Như thế là tính kế cho ông đấy. Anh rể ta đạo thuật thông thần nhưng lâu lắm không hỏi tới việc đời rồi. Có điều đám cưới xong ông cứ bàn với cháu ta, thế nào cũng có cách mà". Sinh càng mừng, liền qua nhà cô gái làm lễ cưới. Cô gái đã mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng, nhưng sinh cứ thấy mặt lại thở dài Cô gái hỏi "Thiếp dù quê mùa xấu xí, nhung chẳng lẽ chàng lại ghét bỏ sao?". Sinh tạ lỗi đáp "Nương tử là người tiên, ta được cưới làm vợ là may lắm, chỉ vì đang có tai họa nên sợ sẽ có chuyện ngang trái cho nhau”, rồi kể thật hết sự tình. Cô gái oán cậu không phải là giống người, tai họa tày trời như vậy mà đã không bàn trước cũng chẳng nói rõ, làm mình sa hầm sẩy hang. Sinh quỳ rạp xuống nói "Đây là vì tiểu sinh cố chết lạy lục cầu khẩn, nên cậu nhân từ nhưng hết cách giúp, chỉ biết nàng có thể cứu sống người đã chết, đắp thịt cho xương khô thôi. Ta thật không xứng đáng sánh duyên với nàng, nhưng may mà nhà cửa cũng không đến nỗi nào, nếu được sống sót thì ngày sau xin lấy hương hoa thờ phụng". Cô gái than "Chuyện đã tới nước này thì còn nói gì nữa! Nhưng cha đã lập chùa để tu, dứt hết lòng yêu thương con cái của người đời, có điều không còn cách nào thì phải cùng tới đó cầu khẩn, sợ là phải quỳ một phen cực khổ đây". Rồi đó nàng thức trắng đêm lấy nệm dày khâu làm đệm độn vào đầu gối cho hai người, lấy áo dài mặc phủ ra bên ngoài, rồi sai gọi kiệu lên núi. Vào Nam Sơn hơn mười dặm thì núi cao đường dốc, quanh co hiểm trở không sao đi kiệu nữa, phải xuống đi bộ. Cô gái đi rất khó khăn, sinh kéo tay dìu đỡ, vất vả hồi lâu mới lên tới trên núi. Thấy cổng chùa không còn xa, bèn cùng ngồi xuống nghỉ chân. Cô gái thở hổn hển, mồ hôi ròng ròng, son phấn trôi hết, sinh thấy thế thương xót nói "Vì ta mà nàng phải chịu khổ tới nỗi này". Cô gái vừa thở vừa đáp “Chỉ sợ bấy nhiêu còn chưa phải là khốn khổ đâu”. Hai người nghỉ giây lát rồi đưa nhau vào chùa, lạy Phật rồi vào trong, quanh co một lúc thì tới thiền đường. Thấy một nhà sư già ngồi xếp bằng, mắt nhắm nghiền như người mù, có một tiểu đồng cầm phất trần đứng hầu. Trong phương trượng quét dọn rất sạch sẽ, nhưng trước chỗ sư ngồi lại bày đầy đá sỏi, la liệt như sao trên trời. Cô gáỉ không dám chọn lựa gì, bước tới quỳ ngay xuống, sinh cũng quỳ xuống phía sau. Sư hé mắt nhìn rồi nhắm ngay lại cô gái làm lễ ra mắt rồi nói “Lâu rồi không tới thăm cha, nay con vừa lấy chồng, nên đưa chồng con tới chào". Hồi lâu nhà sư mới mở mắt nói “Con vãi con này chỉ làm khổ ta", rồi lại im lặng. Vợ chồng quỳ hồi lâu chồn cả chân, đá sỏi nghiến vào đầu gối, đau không chịu nổi. Lại một hồi lâu sư mới hỏi “Đã dắt ngựa lại chưa?", cô gái thưa chưa. Sư nói "Vợ chồng về mau đi, dắt nó tới đây ngay". Hai người lạy rồi đứng lên, khập khiễng dìu nhau đi, về tới nhà lập tức cho dắt con ngựa của sinh vào núi, nhưng chỉ làm đúng theo lời sư dặn chứ không rõ ông có ý tứ gì. Vài hôm sau nghe đồn là đã bắt được tội nhân làm vương tử rơi xuống sông đem chém, vợ chồng mừng lắm. Liền sau đó trong núi sai tiểu đồng tới, đưa sinh một đoạn gậy trúc bị chặt đứt, nói "Kẻ chết thay là ông này đấy”, rồi bảo sinh cúng tế để giải oan cho cây trúc. Sinh nhìn thì thấy chỗ bị chặt có vết máu, bèn khấn khứa rồi chôn cất: Nhưng vợ chồng cũng không dám ở đó lâu, nên ngay trong đêm đưa nhau về Liêu Dương. [B]156. Mơ Thấy Chó Sói[/B] [B](Mộng Lang)[/B] Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau Đinh chỉ một cái cổng nói "Cháu ông ở trong ấy đấy". Lúc ấy ông có đứa cháu con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi "Sao nó lại ở đây?". Đinh đáp "Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết". Ông vào, quả thấy cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói “Còn nha môn của công tử cách đây cũng không xa, ông có muốn tới xem không?", ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa nhà, Đinh bảo "Ông vào đây!". Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ quá không dám bước tới, Đinh lại nói "Ông cứ vào đây!". Qua một lần cổng nữa thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi vào. Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm, mời ngồi rồi gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Chợt có con sói lớn ngoạm một xác người chết vào. Ông run bần bật đứng lên hỏi "Cái đó dùng làm gì?", Giáp đáp “Để làm cơm". Ông vội ngăn cản, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng bị đàn sói cản lại. Đang còn chưa quyết lui tới ra sao chợt thấy lũ sói kêu gào chạy tứ tán, con chui vào gầm giường, con rúc xuống dưới ghế, ngạc nhiên không rõ vì sao. Giây lát có hai lục sĩ mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây sắt ra trói Giáp, Giáp ngã lăn xuống đất hóa thành con cọp, răng nhe lởm chởm. Một người tuốt kiếm sắc toan chặt đầu, người kia ngăn lại nói “Khoan đã, khoan đã! Đó là việc tháng tư năm sau, cứ tạm bẻ răng nó trước”. Rồi rút ngọn chùy lớn ra đập, răng cọp gảy rơi xuống đất, cọp đau quá rống vang. Ông khiếp sợ, chợt tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ, lấy làm lạ cho người mời Đinh nhưng Đinh từ chối không tới. Ông bèn ghi lại giấc mơ, sai con thứ đưa thư tới cho Giáp, răn bảo thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gảy hết, sợ hãi hỏi thăm, thì ra vì say rượu ngã ngựa. Hỏi lại thời gian thì đúng ngày cha nằm mơ, càng sợ hãi, đưa thư của cha ra. Giáp đọc thư tái mặt, một lúc mới nói "Đó là ảo mộng ngẫu nhiên phù hợp, có gì lạ". Lúc ấy Giáp đang hối lộ quan trên để được tiến cử nên không để bụng về giấc mộng gở của cha. Người em ở lại vài hôm thấy lũ nha lại sâu mọt đầy công đường, kẻ hối lộ người chạy chọt nườm nượp ra vào đến khuya vẫn không ngớt, rơi nước mắt can anh. Giáp nói "Em ở nhà quê nên không biết điều cốt yếu của việc làm quan. Quyền thăng hay truất mình là ở quan trên chứ không phải trăm họ, nên cứ quan trên vui lòng tức là quan tốt chứ thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?". Người em biết không thể can ngăn được bèn trở về kể hết cho cha. ông Bạch nghe thế khóc lớn, không biết làm sao, chỉ còn cách bỏ tiền bạc ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần linh, chỉ xin nếu thằng con ngỗ nghịch bị báo oán thì đừng làm lụy cả vợ con. Năm sau, có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người chúc mừng tới chật cổng. Ông chỉ than thở nằm bẹp, thác bệnh không ra tiếp một ai. Không bao lâu nghe tin con trai về kinh gặp cướp, thầy tớ đều bị giết. Ông trở dậy nói với mọi người “Cơn giận của quỷ thần chỉ dành cho riêng nó, ơn che chở cho nhà ta như vậy không phải không sâu nặng đâu”, rồi thắp hương lạy tạ. Người tới an ủi đều cho rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt trên đường, riêng ông tin chắc không hề nghi ngờ, cứ định ngày xây mộ. Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước là tháng tư Giáp thôi chức lên đường, vừa ra khỏi huyện liền gặp cướp, dốc hết rương hòm ra nộp nhưng chúng nói "Bọn ta tới đây để rửa nỗi căm tức của dân cả một huyện, đâu phải chỉ vì bấy nhiêu!", rồi chém đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân rằng Tư Đại Thành là ai? Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp kẻ dữ làm điều ác. Đám gia nhân đều chỉ vào y, bọn cướp cũng chém luôn. Lại có bốn tên nha lại sâu mọt là tay sai vơ vét tiền bạc cho Giáp, được Giáp đưa theo về kinh cũng bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của cải, chất lên ngựa phóng đi. Hồn Giáp nằm bên đường, thấy một vị quan lớn đi ngang hỏi người bị giết là ai, toán quân mở đường bẩm “Là Tri huyện họ Bạch ở huyện mỗ". Vị quan nói "Đó là con họ Bạch, không nên để y cuối đời phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này, cứ chắp đầu lại cho hắn”. Lập tức có một người nhặt đầu Giáp đặt lên cổ, nói "Kẻ gian tà không cần chắp cho ngay ngắn, cứ cho vai đỡ cằm là được", rồi bỏ đi. Lát sau Giáp sống lại, vợ con tới nhặt xác thấy còn thoi thóp bèn chở về, từ từ đổ nước cháo cho, cũng uống được nhưng phải sống nhờ ở quán trọ vì nghèo quá không về được. Khoảng nửa năm, ông Bạch được tin đích xác, sai con thứ tới đón về. Giáp tuy sống lại nhưng mắt nhìn thấy lưng, không giống con người nữa. Con trai người chị ông Bạch thì làm quan có tiếng tốt, năm ấy được tiến cử làm Ngự sử, đều đúng như ông mơ thấy. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Trộm than rằng trong thiên hạ quan là cọp mà lại là sói, ở đâu cũng vậy. Cho dù quan không phải là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói, huống hồ kẻ làm quan còn dữ hơn cả cọp sao? Phàm điều người ta lo là không thể nhìn thấy phía sau mà thôi, đây cho sống lại mà lại còn làm cho nhìn thấy được phía sau, bài học của quỷ thần mới sâu xa làm sao![/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 157 - 158 -[/B] Cung Trời (Thiên Cung) Quách sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười nói "Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay", rồi bỏ đi. Sinh mở bình ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chọt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách, bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái “Nàng là thần gì?", nàng đáp “Ta không phải là thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu tiện". Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mục không biết ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói "Ngày không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?". Cô gái cười nói "Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn đuốc?". Ở vài hôm, Quách vô cùng buồn chán, mấy lần xin về. Cô gái nói “Đêm mai cùng chàng lên Thiên cung chơi một lần rồi sẽ chia tay". Hôm sau chợt có a hoàn nhỏ cầm đèn lồng vào nóí "Nương tử chờ chàng đã lâu”. Quách theo ra, dưới ánh sao đêm vằng vặc chỉ thấy vô số lầu gác. Qua mấy đoạn hành lang chạm vẽ tới một nơi trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bước vào thì thấy một mỹ nhân trang điểm lộng lẫy ngồi quay mặt về hướng nam, tuổi khoảng hai mươi, áo gấm lóa mắt, đầu đính minh châu rủ xuống bốn phía, dưới đất bày đầy đuốc ngắn soi rõ cả gấu quần, đúng là người trời. Quách hoang mang váng vất, bất giác quỳ xuống, cô gái sai tỳ nữ đỡ dậy dìu vào ghế. Phút chốc các món bát trân bày lên la liệt cô gái rót rượu nói "Uống chén này để đưa chàng về”. Quách khom người thưa “Trước giáp mặt mà không biết người tiên, thật rất thẹn thùng, nếu cho chuộc lỗi, xin làm kẻ bầy tôi trung thành suốt đời". Cô gái quay nhìn tỳ nữ mỉm cười rồi sai dọn tiệc vào phòng ngủ. Trong phòng cũng màn gấm tua thêu, chăn là thơm phức, nàng bảo Quách ngồi lên giường. Uống thêm một lúc, mấy lần nói "Chàng xa nhà đã lâu, nay tạm về cũng không sao". Hết canh một Quách vẫn chưa cáo từ, cô gái gọi tỳ nữ cầm đèn lổng tiễn ra. Quách im lặng, giả say lăn ra giường, lay gọi gì cũng không động, nàng bèn sai các tỳ nữ đỡ dậy cỡi quần áo ra, một nàng vuốt chỗ kín của Quách nói “Gã trai này mặt mũi ôn nhã mà sao cái này chẳng có chút gì văn vẻ!", đặt Quách xuống giường rồi cùng cười rộ đi ra. Cô gái cũng lên nằm, Quách trở mình, nàng hỏi "Say lắm không?", Quách đáp "Tiểu sinh có say đâu! Chỉ là mới nhìn thấy người tiên tâm thần đã điên đảo đó thôi”. Cô gái nói "Đây là Thiên cung, trời chưa sáng đã phải ra, nếu vào động phủ thấy buồn chán thì chẳng bằng sớm từ biệt”, Quách nói “Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa, mò cánh ngửi mùi mà không có đèn đuốc, tình cảnh ấy làm sao chịu được?". Nàng cười, sai lấy thêm đèn đuốc. Vừa sang canh tư đã gọi tỳ nữ cầm đèn ôm áo đưa Quách ra. Vào động phủ thấy trần thiết tinh xảo, chỗ ngủ lót nệm da, trải thảm lông dày cả tấc. Quách đã cởi giày khoác chăn mà người tỳ nữ còn bịn rịn chưa đi, để ý nhìn kỹ thấy dung mạo xinh xắn bèn đùa hỏi "Người chê ta không văn vẻ là nàng phải không?". Cô ta cười đá vào cái gối nói "Chàng cứ nằm uỡn ra đi, đừng có lắm lời" Nhìn chiếc giày của cô ta thấy đính viên ngọc trai to bằng hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo cô ta vào lòng, ôm ấp vuốt ve, cô ta không kìm được cứ rên lên. Quách hỏi bao nhiêu tuổi, đáp mười bảy. Hỏi "Xử nữ cũng biết tình sao?”, đáp “Thiếp không còn là xử nữ, nhưng hoang vắng đã ba năm rồi". Quách hỏi dò tên họ quê quán thứ bậc người tiên, cô ta nói "Đừng hỏi! Đây dù không phải thượng giới cũng là cõi trần hiếm có, nếu cứ muốn biết rõ e không có đất mà chôn đâu”, Quách nghe thế không dám hỏi nữa. Đêm sau cô gái quả mang đèn tới cùng nhau ăn ngủ, ngày nào cũng vậy. Một đêm nàng vào nói “Vẫn mong cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, không thể lưu chàng ở đây được nữa, xin cùng chuốc chén từ biệt”. Quách rơi nước mắt, xin cho chiếc áo lót làm kỷ vật. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng ròng, trăm hạt ngọc châu. Uống cạn ba chén, Quách bỗng say lịm. Khi tỉnh dậy thấy tay chân như bị trói chặt, không duỗi chân được, cũng không ngóc đầu lên được. Gắng sức lăn lộn thì nhào xuống giường, mò mẫm thấy mình bị nhét vào cái túi gấm, ngoài có dây buộc chặt. Ngồi lên ngẫm nghĩ, thấy cái giường mờ mờ mới biết đang trong phòng sách nhà mình. Lúc ấy Quách rời nhà đã ba tháng, người nhà đều cho là đã chết. Quách lúc đầu không dám kể rõ chuyện, sợ bị tiên trừng phạt, nhưng lòng vẫn lạ lùng ngờ vực, thỉnh thoảng lại lén kể cho bạn bè, nhưng không ai biết duyên cớ do đâu. Cái túi chăn vẫn để ở đầu giường, mùi hương ngát phòng, xem kỹ thì là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, trân trọng cất đi. Sau có quan lớn Mỗ nghe chuyện, hỏi kỹ rồi cười nói "Đó là người quen của Giả hậu[B]*[/B], chứ người tiên nào lại làm thế. Nhưng nên giữ kín chuyện này, lộ ra thì chết cả họ đấy". Có người thầy đồng vẫn ra vào các nhà quyền quý nói rằng hình dáng lầu gác như thế thì rất giống dinh Nghiêm Đông[B]**[/B]. Quách nghe thế khiếp đảm, đưa cả gia đình đi biệt xứ, không bao lâu Nghiêm bị giết mới trỡ về. *Người quen của Gia hậu: Tấn thư chép vợ Tấn Huệ đế 1à Giả thị hoang dâm, thường bắt cóc đàn ông con trai đẹp trai khỏe mạnh trong dân gian về để hành lạc, nói với họ rằng mình là thần tiên. ** Nghiêm Đông: tức Nghiêm Thế Phồn, quyền thần triều Minh, nổi tiếng độc ác xa hoa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Gác cao sáng rỡ, hương nức màn thêu, tỳ nữ trẻ đẹp, giày đính minh châu, nếu không phải nhà quyền gian phóng túng, hào quý kiêu xa thì sao được như vậy? Thẻ tính dâm vừa ném, nhà vàng biến thành lãnh cung, ống nhổ thơm chưa khô, ruộng tình đã tràn cỏ dại[B]*[/B]. Giường không não ruột, đuốc tắt tiêu hồn, mày cau trước đài vàng, mắt mờ trong trướng gấm. Khiến cho kẻ kia nhân nhờ chén rượu, thẳng lối cung tiên, giữa làng ôn nhu, ngỡ người tiên tử. Mắng kẻ sang dâm loạn, chẳng đủ thẹn người nhưng ruộng tốt bỏ hoang[B]**[/B], cũng đủ tự răn vậy.[/I] * Thẻ tính dâm... cỏ dại: thẻ tính dâm dịch chữ "dâm trù”, ống nhổ thơm dịch chữ "thóa hồ" tức "hương thóa hồ". Sử chép Nghiêm Thế Phồn mỗi lần ngủ với đám tỳ thiếp xong thì lấy khăn lau mồ hôi bằng the trắng lau chùi rồi xếp lại cất ở đầu giường, cuối năm mang ra đếm, gọi là "thẻ tính dâm". Lại khi khạc nhổ thì bắt các tỳ nữ lấy miệng hứng, cứ ho hắng thì đám tỳ thiếp xinh đẹp xúm lại há miệng ra chờ, nhân gọi đó là “ống nhổ thơm". Cả câu ý nói được người giàu sang yêu thương không bao lâu đã bị bỏ rơi không đoái hoài tới nữa. ** Ruộng tốt bỏ hoang: chỉ người đàn bà đẹp phải lẻ loi một mình. Câu này ý nói mỹ nhân bắt Quách là một nàng hầu xinh đẹp bị bỏ rơi. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top