Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164991" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 123 - 124</strong></p><p>Cô Gái Họ Mai</p><p>(Mai Nữ)</p><p></p><p>Phong Vân Đình người Thái Hàng (tỉnh Sơn Tây) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ trong nhà trọ. Lúc ấy Phong tuổi trẻ vừa góa vợ, lúc hiu quạnh thường hay tơ tưởng. Đang đăm đăm ngưng thần, thấy trên tường có bóng con gái rõ ràng như vẽ, tự nghĩ vì mơ tưởng nên thấy thế, nhưng hồi lâu không thấy động đậy, cũng không biến đi. Lấy làm lạ vùng dậy nhìn thì là người thật, lại gần nữa thì rõ ràng là một thiếu nữ nhăn mặt thè lưỡi, có một vòng dây thắt quanh cổ. Sinh sợ hãi nhìn không chớp, thấy cô gái động đậy muốn bước xuống, biết là ma thắt cổ nhưng đang ban ngày mà tính cũng gan dạ nên không sợ lắm, nói "Nương tử như có điều oan khuất, tiểu sinh xin hết sức" Cái bóng từ tốn bước xuống nói "Gặp gỡ thoáng qua, đâu dám vội mang việc lớn làm phiền quân tử, nhưng bộ xương khô dưới suối vàng không rút lưỡi vào được, không cắt bỏ dây được, xin chặt thanh xà ngang đốt đi, thì ơn ấy lớn như Thái Sơn”.</p><p></p><p>Sinh nhận lời, cái bóng biến mất. Sinh gọi chủ nhân tới hỏi về chuyện vừa thấy, chủ nhân nói "Mười năm trước nơi đây là nhà họ Mai, đang đêm có tên trộm lẻn vào bị Mai bắt được giải lên quan Điển sử. Điển sử nhận ba trăm bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với y, toan bắt lên tra xét, nàng nghe tin thắt cổ chết. Sau vợ chồng họ Mai nối nhau chết, ngôi nhà này mới về tay ta. Khách trọ vẫn thấy sự quái dị, nhưng không có phép gì làm cho yên". Phong đem lời ma kể lại, chủ nhân tính toán thấy phải dở nhà thay thanh xà ngang, phí tổn không ít nên có vẻ khó khăn. Phong bèn góp tiền giúp thêm, chữa xong lại vào ở. Đêm đến cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt vui vẻ, phong thái yêu kiều, Phong thích lắm muốn cùng giao hoan. Cô gái thẹn thùng nói “Khí âm lạnh lẽo, không những đã làm hại cho chàng mà nếu làm như thế thì tiếng nhơ lúc sinh tiền dẫu nước sông Tây Giang cũng không rửa sạch được. Sẽ có lúc sum họp với nhau, nhưng nay thì chưa". Phong hỏi lúc nào, nàng chỉ cười không đáp. Phong hỏi uống rượu không, cô gái đáp không uống được.</p><p></p><p>Phong nói "Đối diện với người đẹp mà cứ giơ mắt buồn bã nhìn nhau thì còn ý vị gì?", nàng đáp “Bình sinh thiếp chỉ biét có trò đánh cờ ngựa, nay hai người ngồi buồn bã, đêm khuya lại khổ không có bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hãy cùng chơi trò giao tuyến". Phong nghe theo ngồi bó gối xòe ngón tay, trao qua chuyền lại hồi lâu, Phong hoa cả mắt không biết manh mối đâu nữa. Cô gái cứ miệng giảng cằm hất ra hiệu, càng chơi càng biến ảo vô cùng tinh diệu, Phong cười nói "Đây là tuyệt kỹ trong khuê phòng đây”, nàng đáp "Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được, người ta không chịu để ý đấy thôi” Về khuya càng mệt mỏi, Phong ép đi ngủ, cô gái nói "Thiếp là người cõi âm không ngủ, xin chàng cứ nghỉ đi Thiếp có biết thuật xoa bóp, xin trổ hết tài giúp chàng ngon giấc" Phong theo lời, cô gái chụm hai tay xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân, tay lướt tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế lại nắm tay đấm khẽ như cầm nắm bông thúc, Phong thấy khoan khoái không sao tả được. Nàng đấm tới lưng thì mắt Phong đã ríu lại, đấm tới đùi thì dã ngủ say rồi.</p><p></p><p>Đến khi tỉnh dậy thì đã gần trưa, cảm thấy xương cốt đều nhẹ nhàng khoan khoái khác hẳn mọi hôm, lòng càng yêu mến bèn đi quanh nhà cất tiếng gọi nhưng không có một tiếng đáp lại. Chiều tối cô gái mới đến, Phong hỏi "Nàng ở chỗ nào làm ta tìm gọi khắp nơi thế?”, nàng đáp "Ma thì không có chỗ ở nhất định, chỉ là dưới đất thôi". Phong hỏi dưới đất có chỗ trống ở được à, nàng nói "Ma không có đất cũng như cá không có nước vậy". Phong nắm cổ tay nàng nói "Nếu nàng sống lại thì ta xin dốc hết cơ nghiệp để cưới", cô gái cười nói "Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp!". Chơi đến nửa đêm, Phong hết sức nài ép, nàng nói “Chàng đừng ép thiếp, có nàng kỹ nữ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang) tên Ái Khanh vừa tới trọ ở nhà láng giềng phía bắc, dáng vẻ rất phong nhã, tối mai thiếp sẽ gọi nàng cùng tới tạm thay cho thiếp được không?”, Phong bằng lòng.</p><p></p><p>Tối hôm sau nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi khoảng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ phóng đãng. Ba người ngồi ngã ngớn đánh cờ ngựa, xong ván cờ cô gái đứng lên nói “Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây", Phong định kéo lại thì nàng đã biến mất. Hai người bèn lên giường ôm nhau vui thú, Phong hỏi gia thế thì thiếu phụ cứ ậm ừ không chịu đáp, chỉ nói "Nếu chàng yêu thiếp thì cứ gõ tay lên vách tường phía bắc gọi khẽ "Hồ lô tử” là thiếp tới ngay. Nếu gọi ba lần không thấy là thiếp đang bận, đừng gọi nữa", trời sáng lách qua khe hở trên bức tường phía bắc đi mất. Hôm sau cô gái tới, Phong hỏi Ái Khanh, nàng đáp “Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu nên không tới đây được". Kế thắp đèn cùng trò chuyện, cô gái như có điều muốn nói nhưng mấp máy môi lại im lặng. Phong gặng hỏi nhưng rốt lại nàng vẫn không chịu nói mà chỉ thở dài. Phong ép nàng cùng chơi đùa, đến canh tư mới đi.</p><p>Từ đó hai nàng tới luôn, cười nói rộn rã thâu đêm, phố phường đều biết cả. Có viên Điển sử Mỗ cũng là con nhà thế tộc cũ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), vợ cả gian dâm với đầy tớ bị xuất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, rất thương yêu nhau nhưng được một tháng nàng đã chết yểu vô cùng đau xót. Nghe nói Phong có quen với ma thiêng, muốn nhờ hỏi giùm việc nhân duyên dưới âm ty bèn cưỡi ngựa tới tìm. Phong lúc đầu không nhận lời, Mỗ hết sức nài nỉ không thôi, Phong bèn bày rượu cùng ngồi, nhận lời gọi hộ nàng kỹ nữ ma. Trời sập tối bèn gõ vách gọi, chưa dứt tiếng thứ ba thì Ái Khanh đã tới, ngước nhìn thấy khách biến sắc định chạy, Phong lấy người chặn đường cản lại. Mỗ nhìn kỹ chợt nổi giận ném chén rượu vào Ái Khanh, chớp mắt nàng biến mất. Phong kinh ngạc không hiểu vì sao, đang định hỏi chợt trong góc tối có bà già bước ra mắng "Thằng giặc tham lam bỉ ổi làm hỏng cả cây tiền của ta rồi, đền ngay ba chục quan tiền đây!", rồi cầm gậy đập vào đầu Mỗ.</p><p>Mỗ ôm đầu rên rỉ, nói “Đó là Cố thị vợ ta bị chết trẻ, đang còn đau đớn thì ngờ đâu lại làm con ma bất trinh, có dính líu gì tới bà chứ?”. Bà già tức giận nói “Ngươi vốn là thằng giặc vô lại ở Giang Chiết, mới mua được sợi dây lưng gắn miếng sừng đen<strong>*</strong> được đeo thắt lưng gắn miếng sừng màu đen đã hếch mũi lên. Ngươi làm quan có kể gì đen trắng, ai có ba trăm quan thì ngươi coi là cha! Thần giận người oán, sắp tận số rồi, cha mẹ ngươi phải kêu xin dưới âm ty xin đưa nàng dâu quý vào lầu xanh để trả món nợ tham lam thay ngươi mà còn chưa biết à?", nói xong lại đánh. Mỗ lạy lục van xin, Phong sợ hãi không biết làm sao cứu. Chợt cô gái họ Mai trong phòng bưóc ra, trợn mắt lè lưỡi, vẻ mặt trông rất ghê rợn, sấn tói lấy cây trâm dài đâm vào tai Mỗ. Phong hoảng quá lấy người che đỡ cho khách, cô gái vẫn căm tức không nguôi. Phong khuyên nói “Dù y có tội nhưng nếu chết ở đây thì tiểu sinh có lỗi, xin ném chuột đừng để vỡ đến lọ quý”. Cô gái bèn kéo bà già nói "Thôi hãy tạm tha cho hắn, xin bà nể mặt ta mà nghĩ tới chàng Phong", Mỗ run sợ lủi đi, về tới công thự sợ hãi phát bệnh đau óc, nửa đêm thì chết.</p><p></p><p>*Sợi dây lưng gắn miếng sừng đen: theo quan chế triều Thanh, chức Điển sử</p><p></p><p>Đêm hôm sau cô gái hiện ra cười nói “Khoái thật, bao nhiêu uất ức đã phát tiết được cả rồi". Phong hỏi có thù oán gì với y, nàng đáp "Trước kia thiếp đã nói y ăn của đút rồi vu cho thiếp thông gian, ôm mối căm hờn đã lâu, vẫn thường định nhờ chàng rửa hờn một phen nhưng lại tự thẹn chưa có chút ơn đức gì nên cứ định nói lại thôi. Đêm qua nghe tiếng đánh chửi ầm ĩ, lén tới rình xem, không ngờ lại gặp kẻ thù”. Phong ngạc nhiên hỏi "Đó là kẻ vu cáo cho nàng à?", cô gái đáp “Y làm Điển sử ở đây đã mười tám năm, mà thiếp chết oan cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi”. Phong hỏi bà già là ai, nàng đáp là một kỹ nữ già, lại hỏi tới Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Kế nhoẻn miệng cười hỏi “Thiếp từng nói sẽ có lúc sum họp với nhau, nay quả không còn lâu nữa. Chàng vẫn nói xin dốc hết cơ nghiệp để cưới thiếp, còn nhớ không?”. Phong đáp "Nay ta vẫn muốn thế mà". Cô gái nói "Nói thật với chàng, hôm thiếp chết đã đầu thai vào nhà Hiếu liêm họ Triển ở Diên An (tỉnh thành Thiểm Tây), chỉ vì thù lớn chưa trả nên còn dùng dằng ở đây. Xin lấy vải mới làm cái túi ma để thiếp đi theo chàng, tới nhà họ Triển cầu hôn chắc xong việc". Phong lo gia thế quá chênh lệch, sợ sẽ không xong, nàng nói "Cứ đi đừng lo gì”. Phong theo lời, cô gái dặn "Dọc đường cẩn thận đừng gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy túi trùm lên đầu cô dâu rồi gọi lớn rằng “Đừng quên! Đừng quên!".</p><p>Phong gật đầu, vừa mở túi ra cô gái đã nhảy luôn vào, Phong mang cái túi tới Diên An hỏi thăm quả có Hiếu liêm họ Triển sinh được một con gái dung mạo cực kỳ xinh đẹp nhưng mắc bệnh ngây ngốc, lại hay lè lưỡi ra ngoài miệng như chó lúc trời nóng, mười sáu tuổi vẫn chưa có ai dạm hỏi, cha mẹ rất phiền muộn. Phong tới nhà đưa danh thiếp, kể rõ gia thế, trở về nhờ mai mối tới ngỏ ý. Triển mừng giữ Phong gửi rể trong nhà, cô gái vô cùng ngây ngốc, không biết cả làm lễ, phải sai hai tỳ nữ đỡ vào phòng. Đám tỳ nữ vừa lui thì nàng phanh vạt áo để hở cả vú ra, nhìn Phong cười ngớ ngẩn. Phong trùm túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái ngó sững Phong như có ý ngờ vực, Phong cười hỏi “Nàng không quen tiểu sinh à?", rồi giơ cái túi cho xem. Cô gái chợt tỉnh ra, vội khép áo lại, mừng rỡ cùng vui vẻ trò chuyện.</p><p></p><p>Sáng ra Phong vào thăm hỏi cha vợ, Triển an ủi nói "Con nhỏ ngây ngốc không biết gì, may được thương tới, nếu ông có lòng thì trong nhà không thiếu bọn tỳ nữ lanh lợi, ta xin tặng không tiếc". Phong ra sức phân trần rằng nàng không ngây ngốc, Triển rất ngờ vực. Không bao lâu cô gái tới, cử chỉ đều nết na khuôn phép, Triển vô cùng lạ lùng, nàng chỉ ngượng nghịu mỉm cười. Triển gạn hỏi, nàng thẹn thùng không nói được, Phong bèn kể qua đầu đuôi, Triển cả mừng, yêu thương nàng còn hơn lúc trước. Bèn cho Phong cùng học với con trai là Đại Thành, chu cấp rất đầy đủ. Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm coi thường Phong, vì em rể anh vợ không hợp nhau nên đám gia nhân cũng bới lông tìm vết. Triển bị nói ra nói vào cũng ngấm, dần lạt lẽo với Phong. Cô gái biết chuyện, nói "Nhà cha vợ không thể ở lâu, phàm những người ở nhà cha vợ lâu đều là hạng hèn hạ. Nay chưa tới lúc quá căng thẳng, nên đi ngay". Phong cho là phải, thưa với Triển, Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều tức giận, không cho xe ngựa đưa về, cô gái bỏ tiền riêng ra mua ngựa mà về. Sau đó Triển gọi về thăm nhà nhưng cô gái từ chối, đến khi Phong thi đỗ Hiếu liêm mới qua lại với nhau.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Quan càng nhỏ thì càng tham, đó cũng là chuyện thường tình chăng? Nhưng nhận ba trăm đồng mà vu cho người ta tội thông gian, thì quả không còn sợ hãi gì hình phạt tàn khốc chốn dạ đài rồi. Cho nên mới bị cướp vợ yêu bỏ vào lầu xanh, sau cùng lại làm cho chết thảm, ôi đáng sợ thay!</em></p><p></p><p></p><p><strong>124. Tú Tài Họ Quách</strong></p><p><strong> (Quách Tú Tài)</strong></p><p></p><p>Người học trò ở Quảng Đông là Quách Mỗ, chiều tối từ nhà bạn về, vào núi lạc đường tới một chỗ cây cối gai góc um tùm. Khoảng quá canh một nghe trên núi có tiếng cười, vội vàng lần tới, gặp hơn mười người đang ngồi dưới đất uống rượu, từ xa nhìn thấy Quách cùng ồ lên nói “Trong mâm đang thiếu một người khách, hay quá, hay quá". Quách ngồi xuống rồi, thấy một nửa trong bọn đội khăn nhà nho, bèn xin chỉ đường về. Một người cười nói "Ông thật lẩm cẩm, trăng sáng thế này không ngắm lại hỏi đường sá gì?”, rồi rót ngay một chén đưa qua.</p><p></p><p>Quách uống thấy thơm ngát, bèn dốc cạn một hơi, lại một người nghiêng bầu rót tiếp, Quách vốn hay rượu, lại vì lặn lội khát khô miệng, lại uống một hơi cạn chén, mọi người đều khen ngợi “Hào lắm, thật đáng là bạn của bọn ta". Quách vốn phóng khoáng giỏi đùa giỡn, học được tiếng các loài chim rất giống, bèn đứng lên đi tiểu, giả tiếng chim én kêu, mọi người ngờ vực nói "Nửa đêm sao lại có chim én kêu?”. Quách lại giả tiếng chim cuốc, mọi người lại càng ngờ vực. Quách trở vào ngồi xuống, chỉ cười không nói gì. Mọi người đang nhao nhao bàn tán, Quách ngoảnh ra ngoài giả tiếng chim vẹt, nói "Tú tài họ Quách say rồi, đưa y về thôi!". Mọi người kinh ngạc lắng tai thì im bặt không nghe thấy gì nữa, giây lát Quách lại làm tiếp. Đến lúc biết là Quách làm, mọi người mới cùng cười ồ, đều chúm miệng bắt chước nhưng chẳng ai làm được. Một người nói “Tiếc là Thanh Nga tử chưa tới", lại một người nói “Trung thu lại họp mặt ở đây, Quách tiên sinh thế nào cũng phải tới đấy", Quách kính cẩn vâng dạ.</p><p></p><p>Một người đứng lên nói "Khách đã có tuyệt kỹ như thế, bọn ta cũng hiến trò chồng người cho vui, được không?". Rồi đó mọi người ồn ào đứng lên, người đầu tiên đứng thẳng, lập tức có một người nhảy lên vai, cũng đứng thẳng. Cứ thế được bốn người thì cao không thể nhảy lên được nữa. Người tiếp theo vịn vào vai, đạp lên tay những người dưới như leo thang mà lên, trong giây lát hơn mười người đã chồng lên hết, nhìn thấy như sắp chạm vào mây, Quách còn đang ngạc nhiên nhìn ngó, thì cột người đổ vật xuống đất biến thành một con đường dài. Quách kinh hãi đứng ngẩn ra hồi lâu rồi theo đường ra về. Hôm sau bụng đau buốt, nôn ra nước màu xanh như rỉ đồng có thể nhuộm vải mà hôi hám không sao chịu nổi, ba ngày mới hết. Tìm tới chỗ cũ thì thấy rượu thịt vương vãi, bốn bề gai góc chẳng có đường sá gì. Đến Trung thu Quách định tới chỗ hẹn, nhưng bạn bè can ngăn nên thôi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 125 - 126 -</strong></p><p>A Anh (A Anh)</p><p></p><p>Cam Ngọc tự Bích Nhân là người huyện Lô Lăng (tỉnh Giang Tây). Cha mẹ mất sớm, để lại em trai tên Giác tự Song Bích mới năm tuổi, nhờ anh nuôi nấng. Ngọc tính hữu ái, chăm nom em như con ruột, sau Giác dần dần lớn lên, diện mạo thanh tú lại thông minh học giỏi nên Ngọc càng yêu thương, thường nói "Em ta đường đường thế này không thể lấy vợ tầm thường", nhưng kén chọn quá nên rốt lại không được đám nào. Gặp lúc lên chùa núi Khuông Sơn học, gần khuya đi nằm nghe ngoài cửa sổ có tiếng con gái trò chuyện, nhìn ra thấy ba bốn nữ lang trải chiếu ngồi trên mặt đất, có mấy tỳ nữ bày rượu và thức ăn, người nào cũng xinh đẹp. Một nàng hỏi "Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không tới?", nàng ngồi dưới đáp "Hôm qua nó từ cửa ải Hàm Cốc (tỉnh Thiểm Tây) tới bị kẻ ác làm bị thương tay phải nên không thể cùng tới chơi, thật đáng hận". Một nàng nói "Đêm trước mơ thấy một chuyện sợ quá, hôm nay còn toát mồ hôi", nàng ngồi dưới xua tay nói "Chớ nói ra, chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói tới chuyện đáng sợ sẽ mất vui". Nàng kia cười nói "Con nhãi này nhát gan quá, chẳng lẽ có cọp sói tới vồ đi à! Nếu muốn ta đừng nói thì hát một bài chuốc rượu cho chị đi”, cô gái bèn ngâm khẽ:</p><p></p><p><em>Trước cửa hoa đào nở tốt tươi</em></p><p><em>Lời hẹn đi chơi Thanh minh hôm qua chớ nên sai</em></p><p><em>Nhắn cô bạn láng giềng, chờ nhau một chút thôi</em></p><p><em>Mang xong giày cánh phụng sẽ lập tức tới nơi</em></p><p></p><p>Cô gái ngâm xong, mọi người đều khen hay. Đang lúc vui cười chợt có một người đàn ông to lớn từ ngoài đi vào, mắt trợn xanh lè, diện mạo xấu xí hung tợn. Mọi người cùng la hoảng "Yêu tinh tới đây" rồi nhao nhao chạy tứ tán như chim vỡ tổ. Duy có nàng vừa hát yếu ớt không chạy kịp nên bị bắt, kêu la thảm thiết cố gượng chống cự. Người đàn ông giận dữ gầm lên, cắn đứt lìa một ngón tay nàng nhai luôn tại chỗ, cô gái lập tức ngã nhào xuống đất như chết rồi. Ngọc thương xót không sao nhịn được liền tuốt kiếm đạp cửa xông ra chém trúng đùi người kia, bắp đùi đứt lìa, y mang vết thương bỏ chạy. Ngọc đỡ cô gái vào nhà, thấy mặt nàng xám ngoét, máu ướt sũng tay áo, xem lại thì bị đứt ngón tay cái bên phải bèn xé vải băng bó cho. Lúc ấy nàng mới rên rỉ nói “Cái ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp?”. Ngọc từ lúc thấy nàng đã ngầm nghĩ tới việc của em trai bèn ngỏ ý, cô gái nói "Kẻ tật nguyền không thể lo việc nội trợ được, xin sẽ làm mai người khác cho lệnh đệ". Ngọc hỏi tên họ, nàng đáp là họ Tần. Ngọc bèn lấy chăn đắp cho nàng nằm nghỉ còn mình đem chăn chiếu qua chỗ khác ngủ. Sáng ra vào thăm thì trên giường trống không, nghĩ rằng cô gái đã tự ra về, nhưng tìm hỏi các thôn xóm gần đó thì không có ai họ ấy, nhờ các bạn bè thân thích tìm khắp nơi cũng không có tin tức gì, trở về kể lại với em, hối tiếc như mất của.</p><p></p><p>Một hôm Giác tình cờ đi chơi ngoài đổng, gặp một nữ lang khoảng mười sáu tuổi, dung mạo xinh đẹp cứ nhìn mình mỉm cười như định nói gì, kế liếc quanh bốn phía rồi hỏi "Chàng có phải là Nhị lang họ Cam không?", Giác đáp "Phải", nàng nói “Lệnh tôn từng đính ước hôn nhân cho chàng với thiếp, sao nay lại bỏ lời ước cũ mà đính ước với họ Tần?". Giác nói "Tiểu sinh mồ côi từ nhỏ nên chuyện dạm hỏi thế nào không từng hay biết, xin nàng nói rõ tên họ để về hỏi lại gia huynh". Cô gái nói "Không cần phải nói rõ, chỉ cần chàng nói một câu ưng thuận thì thiếp sẽ tự tới” Giác lấy cớ chưa có lệnh anh để từ chối, cô gái cười nói "Anh chàng ngây thơ lại sợ ông anh đến thế kia à? Đã thế thì thiếp họ Lục ở thôn Sơn Vọng tỉnh Sơn Đông, trong ba ngày nữa xin chờ tin chàng", rồi từ giã đi.</p><p></p><p>Giác về kể lại với anh chị, anh nói "Toàn là bịa đặt, lúc cha mất thì ta đã hơn hai mươi tuổi, nếu có chuyện ấy thì làm gì mà ta không biết", lại vì nàng đã đi một mình ngoài đồng mà còn bắt chuyện với đàn ông nên càng khinh bỉ. Nhân hỏi dung mạo nàng ra sao, Giác đỏ mặt không nói gì, chị dâu cười nói “Chắc là đẹp lắm". Ngọc nói "Trẻ con thì biết gì xấu đẹp mà cho dù cô ta có đẹp cũng không thể bằng họ Tần, đợi xem nếu chuyện họ Tần không xong thì tính đám này cũng chưa muộn", Giác im lặng đi ra. Qua vài hôm Ngọc đi đường thấy một cô gái thiếu nữ vừa đi vừa khóc phía trước bèn kìm ngựa liếc nhìn, thấy xinh đẹp tuyệt trần liền sai đầy tớ tới hỏi han. Cô gái nói "Ta trước kia đã đính hôn với Nhị lang nhà họ Cam, vì nhà nghèo dời đi xa, đứt tuyệt tin tức. Gần đây mới về nghe nhà họ Cam thay lòng đổi dạ bỏ lời ước cũ nên tới hỏi ông anh là Cam Bích Nhân xem tính toán cho thiếp thế nào". Ngọc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói "Ta chính là Cam Bích Nhân đây. Gia phụ trước kia hẹn ước thế nào, thật ta không biết. Đây cách nhà ta không xa, mời cùng về bàn tính". Bèn xuống ngựa nhường cho cô gái cưỡi, đi bộ cầm dây cương dắt ngựa đưa nàng về nhà.</p><p></p><p>Cô gái tự nói tiểu tự là A Anh, không có anh em nào khác, chỉ có người chị bên ngoại là họ Tần ở chung, lúc ấy Ngọc mới hiểu ra người cô gái họ Tần nói tới chính là nàng. Ngọc muốn sai người báo tin cho nhà nàng biết nhưng nàng nhất định cản lại, cũng mừng thầm là em mình lấy được vợ đẹp nhưng sợ nàng lẳng lơ sẽ bị chê cười. Lâu ngày thấy cô gái rất đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như mẹ, chị dâu cũng rất yêu thương. Gặp tiết Trung thu, vợ chồng đang ăn uống thân mật, chị dâu sai gọi mãi, Giác còn phân vân thì cô gái bảo người đi gọi cứ về trước nàng sẽ tới sau, nhưng kế cứ ngồi ở nhà hồi lâu vẫn không có ý ra đi. Giác sợ chị dâu chờ, giục đi ngay nhưng nàng chỉ cười, rốt lại cũng không đi. Sáng ra nàng vừa trang điểm xong thì chị dâu tới thăm, hỏi sao đêm qua ngồi đối diện với mình mà có vẻ không vui, nàng mỉm cười. Giác thấy lạ gặng hỏi, căn vặn ồn ào. Chị dâu cả kinh nghĩ nếu nàng không phải là yêu ma thì làm sao có phép phân thân? Ngọc cũng sợ, đứng ngoài rèm nói “Nhà ta đời đời tu nhân tích đức, vốn không có oán thù gì với nhau, nếu là yêu ma thì xin đi mau, chớ giết em ta".</p><p></p><p>Nàng thẹn thùng nói "Thiếp vốn không phải là người, chỉ vì ngày xưa cha có lời đính ước nên chị Tần cứ khuyên bảo tới đây, tự biết không sinh đẻ gì được nên vẫn muốn từ biệt ra đi, sở dĩ còn bịn rịn chỉ vì anh chị đối xử tử tế mà thôi. Nay đã ngờ vực thì xin vĩnh biệt", rồi chớp mắt biến thành chim anh vũ bay mất. Trước kia khi Cam ông còn sống có nuôi một con anh vũ rất khôn, thường tự tay cho ăn. Lúc ấy Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cho chim ăn làm gì, cha đùa nói “Để nó làm vợ ngươi”, có khi sợ chim ăn chưa no lại gọi Giác "Không đem thức ăn ra đây thì con dâu ta chết đói mất”, gia nhân cũng đều lấy đó đùa Giác, sau chim tuột dây bay mất, đến lúc ấy mới sực nghĩ ra cô gái nói lời đính ước cũ là chuyện đó. Nhưng Giác tuy biết rõ nàng không phải là người vẫn thương nhớ không khuây, chị dâu cũng nhớ nhưng cứ sớm chiều sa lệ.</p><p></p><p>Ngọc hối hận mà không biết làm sao, hai năm sau hỏi cưới con gái nhà họ Khương cho em nhưng rốt lại trong lòng vẫn áy náy. Có người anh họ làm quan Tư lý ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông), Ngọc tới thăm khá lâu không về. Gặp lúc giặc cướp dấy loạn, xóm làng chung quanh quá nửa thành đất hoang. Giác cả sợ đưa gia đình vào lánh nạn trong hang núi, thấy trai gái lẫn lộn, không biết là những ai. Chợt nghe tiếng con gái nói nhỏ, giọng rất giống A Anh, chị dâu giục Giác tới gần xem thì quả là nàng, Giác mừng quá nắm chặt cánh tay nàng không buông ra. Cô gái nói với người cùng đi rằng "Chị cứ đi trước, ta còn đợi chị dâu”. Kế chị dâu tới thấy A Anh nghẹn ngào khóc lóc nàng an ủi mấy chặp rồi nói đây không phải là nơi yên ổn, khuyên nên về nhà. Mọi người sợ giặc tới, nàng quả quyết là không sao, bèn dắt díu nhau về. Cô gái lấy đất xoa lên cửa, dặn cứ ở bên trong không được ra ngoài, ngồi nói năm ba câu rồi quay người định đi, chị dâu vội nắm chặt cánh tay, lại sai hai tỳ nữ giữ chặt hai chân, nàng bất đắc dĩ phải ở lại. Nhưng không chịu về phòng riêng, Giác hẹn ba bốn phen nàng mới tới một lần.</p><p></p><p>Chị dâu cứ nói Khương thị không thể làm vừa lòng thúc thúc, cô gái bèn dậy sớm trang điểm cho Khương, chải tóc đánh phấn xong mọi người đều thấy xinh đẹp hẳn lên, cứ thế ba ngày thì nghiễm nhiên trở thành một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân nói “Ta không có con, vẫn muốn mua một người thiếp nhưng chưa có dịp, chẳng biết đám tỳ nữ có thể trang điểm như thế được không?". Nàng nói “Ai cũng có thể làm cho đẹp lên được, chỉ là kẻ tư chất tốt thì dễ làm hơn thôi”. Bèn xem tướng tất cả tỳ nữ trong nhà, chỉ có một người vừa đen vừa xấu là có tướng sinh con trai, liền gọi vào tắm rửa rồi lấy phấn trộn với thuốc thoa cho, như thế ba ngày thì sắc mặt dần đổi ra màu vàng, sau hai mươi tám ngày thì phấn thuốc thấm vào da thịt, trở thành dễ coi. Hàng ngày nàng chỉ đóng cửa vui cười, không nhắc gì tới việc binh lửa. Một đêm tiếng la thét nổi lên bốn bên, cả nhà không biết tính sao, kế nghe ngoài cửa có tiếng người ngựa rầm rập kéo đi. Sáng ra mới biết cả thôn bị cướp phá tan nát, bọn cướp túa ra lục soát khắp nơi, những người trốn núp trong hang hốc đều bị giết bị bắt, cả nhà càng thêm biết ơn cô gái, coi nàng như thần.</p><p></p><p>Cô gái chợt nói với chị dâu rằng "Lần này thiếp tới đây vì cảm ơn nghĩa của chị không thể quên, nên muốn chia sẻ nỗi lo ly loạn. Anh sắp về tới, thiếp ở đây cũng như lời ngạn vẫn nói ‘Nửa dơi nửa chuột, con người đáng cười’. Thiếp đi đây, lúc nào rảnh sẽ ghé thăm chị”. Chị dâu hỏi người đang đi đường liệu có yên ổn không, nàng đáp “Trên đường có nạn lớn nhưng đây không phải như chuyện người ngoài, chị Tần mang ơn nhiều ắt sẽ đền đáp, chẳng bị gì đâu”. Chị dâu giữ lại qua đêm, trời chưa sáng nàng đã ra đi. Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà loạn lạc, gấp rút đi mau. Giữa đuùng gặp giặc, thầy trò bỏ ngựa, buộc tiền bạc vào lưng núp vào bụi gai rậm. Một con Tần Các Liễu bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che, Ngọc nhìn chân thấy mất một ngón thầm lấy làm lạ. Lát sau bọn giặc bổ vây bốn phía, lùng sục khắp chốn, hai thầy trò Ngọc nín hơi không dám thở mạnh, lúc bọn giặc đã rút con chim mới bay đi. Về tới cùng vợ kể chuyện đã qua, mới biết Tần Các Liễu chính là mỹ nhân mình cứu mạng trước kia.</p><p></p><p>Về sau cứ gặp lúc Ngọc đi vắng thì tối đến A Anh lại tới ngủ lại, tính khi Ngọc sắp về thì ra đi. Giác có khi gặp nàng ở chỗ chị dâu, mời tới chỗ mình thì nàng hứa nhưng không bao giờ tới. Một đêm Ngọc đi vắng, Giác đoán rằng A Anh sẽ tới bèn núp chờ, không bao lâu quả nhiên nàng tới, Giác nhảy ra lôi kéo vào phòng mình. Nàng nói "Thiếp với chàng duyên phận đã hết, nếu cố sum họp e sẽ bị trời ghen ghét, nên giữ lại chút tình đó để thỉnh thoảng còn gặp nhau” Giác không nghe, rốt lại cùng nhau giao hoan. Sáng qua chỗ chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói "Giữa đường bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải nhọc lòng chờ đợi", kế trò chuyện vài câu rồi vội vàng ra đi. Không bao lâu có con mèo lớn ngậm con chim anh vũ đi ngang cửa phòng ngủ, chị dâu sợ quá, ngờ đó là A Anh, lúc ấy đang tắm cứ tạt nước gào lớn. Mọi người đổ ra đánh con mèo cướp được chim anh vũ lại, thấy cánh bên trái bết máu, hơi thở thoi thóp. Chị dâu đặt trên gối vuốt ve hồi lâu chim mới tỉnh lại, lấy mỏ rỉa cánh, giây lát bay lên vòng vòng trong phòng, gọi chị dâu nói “Xin vĩnh biệt chị, em oán Giác lắm", rồi vỗ cánh bay thẳng, không thấy trở lại nữa.</p><p></p><p></p><p><strong>126. Ngưu Thành Chương</strong></p><p><strong>(Ngưu Thành Chương)</strong></p><p></p><p>Ngưu Thành Chương là người buôn vải ở tỉnh Giang Tây, lấy vợ là Trịnh thị sinh được một trai một gái. Năm Ngưu ba mươi ba tuổi bị bệnh chết. Con trai tên Trung, năm ấy mười hai tuổi, con gái thì mới lên tám. Mẹ không thể thủ tiết, bán hết nhà cửa lấy tiền bỏ túi đi tái giá, để lại hai đứa con không biết làm sao mà sống. Có người chị dâu họ của Ngưu năm ấy đã sáu mươi tuổi, nghèo mà góa chồng bèn đem hai cháu về nuôi. Vài năm sau bà chết, nhà càng nghèo, nhưng Trung đã hơi lớn, nghĩ muốn nối nghiệp cha nhưng không có vốn. Em gái lấy chồng họ Mao, Mao vốn giàu có, cô gái năn nỉ chồng cho mượn vài mươi đồng vàng đưa anh. Trung theo người ta đi Kim Lăng, trên đường gặp cướp, tiền bạc mất sạch, bơ vơ không sao về được.</p><p></p><p>Một hôm ngẫu nhiên đi ngang cửa hiệu, thấy chủ hiệu rất giống cha mình, trở ra hỏi thăm thì tên họ cũng giống, ngạc nhiên kinh sợ nhưng không dám bắt chuyện, chỉ ngày ngày quanh quẩn gần đó để xem ý tứ, nhưng người ấy cũng không ngó gì tới. Cứ thế ba ngày, thấy tiếng cười giọng nói dáng vẻ cử chỉ đúng là cha mình nhưng không dám bắt chuyện làm quen, bèn nhờ những người làm công giới thiệu là đồng hương, xin vào làm thuê. Làm giấy tờ xong, chủ nhân nhìn tới tên họ quê quán, có vẻ giật mình, hỏi cha mẹ là ai. Trung khóc nói tên cha, chủ nhân sửng sờ như bị mất vật gì. Hồi lâu hỏi mẹ ngươi khỏe không, Trung lại không dám nói là cha đã chết bèn lựa lời đáp “Cha ta sáu năm trước đi buôn không về, mẹ đã đi lấy chồng khác ta may được bà bác nuôi nấng chăm sóc, nếu không thì chết đói lâu rồi”.</p><p></p><p>Chủ nhân thê thảm nói "Ta là cha ngươi đây", rồi nắm tay con bùi ngùi dắt vào nhà cho ra mắt mẹ kế. Mẹ kế họ Cơ, đã hơn ba mươi tuổi mà không sinh nở gì, gặp được Trung mừng lắm, bày tiệc ăn mừng. Ngưu vẫn thở than không vui, muốn về quê một lần, vợ lo cửa hiệu không có ai coi sóc cố ngăn cản. Ngưu bèn dạy con các việc buôn bán giao dịch, được ba tháng đem hết sổ sách giao cho con, thu xếp hành lý về quê. Lúc Ngưu đi rồi, Trung nói thật việc cha chết với mẹ kế, Cơ thị cả kinh nói "Ông ấy buôn bán ở đây, có nhiều người quen mới lưu lại buôn bán, cưới ta sáu năm rồi, sao lại nói là đã chết?”. Trung bèn kể rõ, hai người cùng ngờ vực không hiểu vì sao. Qua một ngày một đêm thì Ngưu đã về, dắt theo một người đàn bà đầu tóc rối bù, Trung nhìn thì là mẹ ruột của mình. Ngưu kéo tai người đàn bà chửi "Sao lại bỏ con ta?". Người đàn bà quỳ rạp xuống đất không dám động đậy, Ngưu cắn vào cổ, người đàn bà kêu Trung rằng “Con cứu mẹ với, con cứu mẹ với", Trung bất nhẫn xông vào can, lấy thân che cho mẹ. Ngưu còn giận dữ, người đàn bà đã biến mất, mọi người cả sợ la ầm lên là ma, nhìn tới Nơưu thì mặt mày trắng bệch, quần áo rơi hết xuống đất mà biến thành một làn khói đen từ từ tan mất. Mẹ con cùng kinh hãi than thở, nhặt áo mũ chôn cất. Trung thừa kế gia tài có hàng vạn lượng vàng, sau về nhà hỏi thăm thì người mẹ ruột đã đi lấy chồng chết đúng hôm ấy, cả nhà đều nhìn thấy Ngưu Thành Chương.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 127 - 128 -</strong></p><p>Thanh Nga</p><p>(Thanh Nga)</p><p></p><p>Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô<strong>*</strong>. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi.</p><p></p><p>*Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa.</p><p></p><p>Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói "Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng". Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói "Công tử đã thích thì ta xin tặng", sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp.</p><p></p><p>Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào.</p><p></p><p>Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói “Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi". Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói “Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?". Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói "Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?". Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói “Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi" rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về.</p><p></p><p>Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói "Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?", từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết.</p><p></p><p>Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp "Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh”. Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói "Ta sẽ tác thành cho anh", rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói "Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi", sinh cười nói "Đừng quên bà mối chứ”, rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà.</p><p></p><p>Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh "Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?”. Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi "Bị phồng chân phải không?”, sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói "Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông”. Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi.</p><p></p><p>Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu.</p><p></p><p>Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi “Sao chàng tới được nơi đây?” Sinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi "Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?”, cô gái đáp "Không phải, đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên”. Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói "Con rể tới rất hay, nên ở lại đây". Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói "Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì", rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ.</p><p></p><p>Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói "Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?". Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói “Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi". Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp "Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo”. Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp.</p><p></p><p>Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói “Nghiệt chướng thay". Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói "Bước ngay, bước ngay!”, vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói “Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết". Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất.</p><p></p><p>Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh “Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về”. Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi.</p><p>Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề "Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên", giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói “Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?". Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói “Đó là cha mẹ ta đấy". Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói “Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được”, nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin.</p><p></p><p>Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp “Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa”. Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả". Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Khoét vách tường lên giường ngủ, tình ý quả là ngây, đào vách núi chửi cha vợ, hành vi quả là cuồng, người tiên tác hợp cho chỉ là muốn lấy việc trường sinh báo đáp lòng hiếu thảo vậy. Nhưng đã lưu vết ở nhân gian, lấy vợ sinh con, thì cứ an nhiên sống đến lúc chết cũng có gì là không được? Đây thì trong ba mươi năm mấy lần bỏ mặc con cái, sao lại cô độc như thế nhỉ? Lạ thật. </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 128 - 129 -</strong></p><p>Nha Đầu (Nha Đầu)</p><p></p><p>Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp "Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ” Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp "Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ".</p><p>Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói "Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho”. Vương bùi ngùi nói "Thật không dám có ý ấy", nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói "Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được?". Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói "Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài". Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang.</p><p></p><p>Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói "Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?". Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói “Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi". Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường.</p><p></p><p>Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói "Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn". Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói "Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi". Cô gái nói "Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn".</p><p></p><p>Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói “Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?”, Vương hỏi thì nàng đáp “Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi”. Đến khuya nàng mừng rỡ nói "Không sao, là chị Nật tới". Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng "Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về", rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói "Chỉ theo một người thì có tội gì?", Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói "Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay”. Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói “Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong". Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi.</p><p></p><p>Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói "Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?”, nó đáp “Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông"<strong>*</strong>. Vương cả sợ nói "Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi", nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu.</p><p></p><p>* Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn).</p><p></p><p>Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói “Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy".</p><p></p><p>Vương sa nước mắt nói “Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi", rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi "Sao ông lại tới nông nỗi này?". Triệu than "Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?”. Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói "Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy"</p><p></p><p>Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết "Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy”.</p><p></p><p>Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói “Sao con không nghe lời ta?", rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất.</p><p></p><p>Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng "Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế”, rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói "Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?". Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ.</p><p></p><p>Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương "Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp". Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói "Con không có tội gì”, mẹ nói “Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la”. Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói “Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người”. Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Kỹ nữ đều là hồ, những kẻ không cho rằng có hồ làm kỹ nữ, tới chỗ hồ tìm gà mái, thú mà làm cầm thì những chuyện thương luân bại lý có gì là lạ. Nhưng tới chuyện trải trăm cay ngàn đắng, đến chết không chịu theo người khác thì loài người vẫn cho là khó mà hồ cũng làm được sao? Vua Đường vẫn nói Ngụy Trưng có vẻ yếu ớt như đàn bà<strong>*</strong> ta cũng nói về Nha Đầu như vậy.</em></p><p></p><p>*Vua Đường... đàn bà: Ngụy Trưng là Thừa tướng của Đường Thái tông, tính cương trực trầm tĩnh, trước mặt vua dám can gián những việc lớn, Thái tông nhiều phen nổi giận nhưng Trung cứ thản nhiên tâu bày, vua vì thế cũng nguôi dần, thường nói "Người ta vẫn nói Trưng ngạo nghễ, nhưng ta xem có vẻ yếu ớt như đàn bà". Đây ý nói nhân vật Nha Đầu bề ngoài hiền dịu nhưng trong lòng cương cường, không thể khuất phục được.</p><p> </p><p><strong>129. Dư Đức</strong></p><p><strong>(Dư Đức)</strong></p><p></p><p>Doãn Đồ Nam ở Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có gian nhà riêng cho một vị Tú tài thuê ở, suốt nửa năm cũng chưa từng tới chơi. Một hôm gặp ngoài cổng, thấy còn rất trẻ nhưng dung nghi đẹp đẽ, phục sức sang trọng, rảo bước tới cùng trò chuyện thấy nho nhã khả ái. Lấy làm lạ về nói với vợ, vợ sai tỳ nữ tìm cớ qua hỏi han để dò xét, thấy trong nhà còn có người em gái xinh đẹp như tiên, những non bộ cây cảnh quần áo đồ chơi đều không phải là những món từng nghe thấy.</p><p></p><p>Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ.</p><p></p><p>Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường.</p><p></p><p>Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư.</p><p></p><p>Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái.</p><p></p><p>Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem.</p><p></p><p>Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói “Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp “Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển VIII - 130 -</strong></p><p>Phong Tam Nương</p><p>(Phong Tam Nương)</p><p></p><p>Nàng Mười một họ Phạm là con gái quan Tế tửu ở Lộc Thành, lúc nhỏ đã tuyệt đẹp lại rất phong nhã. Cha mẹ vô cùng yêu quý, có ai tới dạm hỏi đều cho tự chọn lựa nhưng nàng chưa ưng đám nào. Gặp tiết Thượng nguyên, các ni cô ở chùa Thủy Nguyệt mở hội Vu Lan, hôm ấy con gái quanh miền tới lễ bái rất đông, nàng cũng tới xem. Đang lúc dạo cảnh chùa thấy có một thiếu nữ theo sát, mấy lần nhìn nàng như muốn bắt chuyện, nhìn kỹ thấy là một thiếu nữ khoảng mười sáu tuổi, nhan sắc cực đẹp trong lòng rất ưa thích cứ nhìn chăm chăm. Thiếu nữ mỉm cười hỏi "Chị có phải là cô Mười một họ Phạm không?", nàng đáp phải. Cô gái nói "Nghe danh đã lâu, quả lời đồn không sai". Nàng Mười một cũng hỏi quê quán họ tên, thiếu nữ đáp "Thiếp họ Phong, bày vai thứ ba, ở thôn gần đây". Hai người cầm tay chuyện trò vui vẻ, yêu mến nhau không muốn rời. Nàng Mười một hỏi sao chỉ đi một mình, thiếu nữ đáp "Cha mẹ thiếp mất sớm, nhà chỉ có một bà vú già phải coi nhà không di cùng được”.</p><p></p><p>Nàng Mười một sắp về, Phong nhìn sững ứa nước mắt, nàng cũng buồn rầu, liền mời Tam nương ghé chơi. Phong nói "Nhà nương tử là nơi lầu son gác tía, thiếp lại vốn không phải là họ hàng, sợ sẽ bị chê cười". Nàng Mười một cố mời, Phong hẹn hôm khác, nàng rút một cành thoa vàng đưa tặng, Phong cũng lấy chiếc trâm biếc cài trên tóc đáp lễ. Nàng Mười một về nhà tưởng nhớ thiết tha, lấy chiếc trâm Phong tặng ra xem thì không phải vàng cũng không phải ngọc, người nhà đều không ai biết là thứ gì, rất lấy làm lạ. Hàng ngày cứ mong Phong tới chơi, buồn rầu phát bệnh. Cha mẹ hỏi biết chuyện, sai người dò hỏi khắp các thôn xóm quanh vùng nhưng không ai biết. Gặp tiết Trùng dương, nàng Mười một buồn bã, gọi tỳ nữ đỡ ra vườn, trải nệm dưới giậu cúc ngồi chơi, chợt có một cô gái trèo lên tường nhìn qua, nhìn lại thì là cô gái họ Phong. Cô gái gọi "Đỡ ta với” đứa tỳ nữ chạy ra đỡ, Phong nhảy luôn xuống. Nàng Mười một ngạc nhiên mừng rỡ, đúng phắt lên kéo Phong cùng ngồi xuống nệm, trách nàng lỗi hẹn rồi hỏi từ đâu tới đây? Phong đáp "Nhà thiếp cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tới chơi nhà cậu, trước đây nói ở thôn gần đây là nói nhà cậu thôi. Từ lúc chia tay cũng nhớ nhung lắm, nhưng kẻ nghèo hèn giao du với người sang thì chưa lên tới cổng đã thấy hổ thẹn, sợ bị gia nhân trong nhà không vừa mắt nên ngần ngại không muốn tới.</p><p></p><p>Mới rồi đi ngang ngoài tường, nghe trong này có tiếng con gái liền trèo lên nhìn, cũng mong được gặp nương tử, giờ đã thỏa nguyện". Nàng Mười một kể lý do mình bị bệnh, Phong khóc như mưa, kế nói "Chuyện thiếp tới xin giữ kín cho, chứ để thiên hạ bàn tán này kia thì khó chịu lắm”. Nàng Mười một ưng thuận, kéo về phòng mình cùng ăn ngủ, đốc hết tâm sự. Dần dần khỏi bệnh, kết làm chị em với nhau, quần áo trang sức đều dùng chung, có ai tới thì Phong lánh mặt sau màn. Qua năm sáu tháng, Phạm công và phu nhân mới biết chuyện. Một hôm hai người đang đánh cờ thì phu nhân thình lình bước vào, vừa nhìn thấy Phong kinh ngạc nói "Thật xứng là bạn của con ta?", nhân nói với nàng Mười một "Trong khuê phòng có người bạn tốt thì là điều cha mẹ vui mừng, sao con không thưa sớm". Nàng Mười một bày tỏ ý Phong, phu nhân nhìn Phong nói "Tam nương làm bạn với con ta là điều ta rất vui, sap lại phải giấu diếm?". Phong đỏ bừng cả mặt, chỉ im lặng mân mê tà áo mà thôi. Phu nhân đi rồi, Phong bèn cáo biệt, nàng Mười một cố giữ lại mới thôi.</p><p></p><p>Một đêm chợt Phong hớt hải từ ngoài chạy vào, khóc nói "Ta đã nói rằng không thể ở lại nay quả nhiên gặp chuyện vô cùng nhục nhã này!". Nàng Mười một giật mình hỏi han, nàng đáp "Vừa rồi ra thay áo bị một thiếu niên chặn đường chọc ghẹo, may mà chạy thoát, như thế thì còn mặt mũi nào ở lại nữa?". Nàng Mười một hỏi kỹ vóc dáng mặt mũi rồi tạ lỗi, nói “Xin đừng trách, đó là ông anh ngốc nghếch của em, để em thưa với mẹ đánh đòn trị tội". Phong nhất định từ biệt, nàng Mười một xin đợi đến sáng, Phong nói "Nhà ông cậu sát ngay gần đây, chỉ xin cái thang cho ta trèo qua tường thôi mà". Nàng Mười một thấy không giữ lại được liền sai hai đứa tỳ nữ cùng trèo qua tường tiễn nàng đi, được nửa dặm thì Phong từ tạ, hai tỳ nữ trở về, nàng Mười một nằm phục xuống giường khóc lóc thảm sầu như mất bạn trăm năm vậy.</p><p></p><p>Vài tháng sau, đứa tỳ nữ có việc tới thôn bên, chiều tối trở về gặp Phong giữa đường, có bà già theo sau. Đứa tỳ nữ mừng rỡ chào hỏi, Phong cũng rầu rĩ hỏi thăm sức khỏe nàng Mười một, đứa tỳ nữ kéo áo Phong nói "Cô Ba ghé lại chơi đi, cô ta trông mong gần chết". Phong nói "Ta cũng nhớ muội tử, nhưng không muốn để người nhà biết, về cứ mở sẵn cửa vườn, ta sẽ tự tới". Đứa tỳ nữ về kể lại, nàng Mười một mừng quá theo lời ra vườn thì Phong đã vào tới rồi. Hai người gặp nhau cùng kể lể tình thương nhớ, rì rầm mãi không ngủ. Phong thấy đứa tỳ nữ đã ngủ say bèn trỗi dậy qua nằm chung với nàng Mười một, nói nhỏ "Thiếp vốn biết muội tử chưa hứa hôn, nhưng lấy tài sắc dòng dõi mà bàn thì lo gì em không lấy được người chồng danh giá. Nhưng đám công tử bột thì không đáng nói tới, nếu muốn có một người chồng xứng đáng thì xin đừng kén chọn giàu nghèo". Nàng Mười một cho là phải, Phong nói "Chỗ chùa chúng ta gặp nhau trước đây nay lại mở đạo trường, ngày mai chịu khó đi một chuyến, thiếp sẽ chỉ cho một người chồng như ý. Thiếp lúc nhỏ có đọc sách xem tướng, chắc chắn không sai đâu”.</p><p></p><p>Tảng sáng Phong đi trước, hẹn gặp nhau ở chùa, lúc nàng Mười một tới thì Phong đã có ở đó rồi. Hai người dạo quanh chùa một vòng, nàng Mười một mời Phong đi cùng xe về, dắt tay nhau ra cổng thì thấy một Tú tài khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo vải không trang sức nhưng dung mạo anh tuấn. Phong bấm tay nàng Mười một nói "Người này có tài Hàn lâm đấy". Nàng Mười một liếc qua, Phong từ giã nói “Muội tử cứ về, ta sẽ tới ngay". Chiều tối quả nhiên Phong tới, nói "Ta đã dò hỏi rất rõ ràng, người ấy là Mạnh An Nhân ở cùng làng này". Nàng Mười một biết chàng nhà nghèo cho là không được, Phong nói "Sao muội tử cũng sa vào thói đời như thế “Người ấy mà nghèo hèn suốt đời thì ta xin khoét mắt không xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa". Nàng Mười một hỏi “Vậy thì làm thế nào?”, Phong đáp “xin đưa một vật cho ta cầm tới đính ước". Nàng Mười một nói "Sao chị lại dễ dàng thế? Cha mẹ em đều còn sống, nếu không chịu thì sao?", Phong đáp “Thì chính vì sợ hai vị không chịu nên mới làm thế mà thôi. Nếu em quyết ý, thì sống chết cũng làm sao ép uổng được”. Nàng Mười một cho là không nên, Phong nói “Cơ nhân duyên của nương tử đã phát động nhưng ma chướng chưa tiêu tan, hôm nay ta tới để báo đáp tình nghĩa lâu nay đấy. Xin từ giã ở đây, sẽ lấy cành thoa vàng được tặng trước đây giả mệnh em tặng chàng". Nàng Mười một đang còn định bàn lại, Phong đã bước ra đi luôn.</p><p></p><p>Lúc ấy Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học giỏi, có ý kén vợ xứng đôi nên mười tám tuổi chưa hỏi cưới ai. Hôm ấy đi chơi chùa trông thấy hai người đẹp, về nhà cứ bồi hồi tơ tưởng, vừa hết canh một thì Phong Tam nương gõ cửa bước vào. Sinh khêu đèn nhìn mặt thì ra là một trong hai người đẹp mình trông thấy lúc sáng, mừng quá hỏi han. Phong nói "Thiếp họ Phong, chị em bạn của nương tử Mười một họ Phạm". Sinh thích lắm không buồn hỏi kỹ, sấn ngay tới ôm chầm lấy, Phong đẩy ra nói "Thiếp không phải như Mao Toại đem thân tự tiến mà là Tào Khâu đưa tin mai mối thôi. Nàng Mười một họ Phạm muốn kết nhân duyên nên nhờ ta làm mai mối đây". Sinh kinh ngạc không tin, Phong bèn đưa cành thoa vàng ra, sinh mừng quá thề “Làm phiền nàng vất vả lo toan cho như thế, ta mà không cưỡi được nàng Mười một thì xin ở vậy suốt đời”, phong bèn ra đi.</p><p></p><p>Sáng ra sinh nhờ bà già láng giềng tới nói với Phạm phu nhân, phu nhân chê sinh nghèo, cũng không hỏi ý con, từ chối lập tức. Nàng Mười một nghe thấy thất vọng lắm, rất oán Phong làm lỡ mình, nhưng thoa vàng khó mà đòi lại, chỉ còn cách thề chết giữ trọn lời nguyền. Mấy hôm sau có con trai vị quan Mỗ tới cầu hôn, còn sợ không được nên nhờ quan huyện đứng ra làm mối. Lúc ấy Mỗ đang giữ chức lớn, Phạm công có ý sợ bèn hỏi nàng Mười một, nàng tỏ vẻ không vui, mẹ gạn hỏi cũng không đáp, chỉ khóc sướt mướt. Kế sai người nói riêng với phu nhân rằng ngoài Mạnh sinh ra thì đến chết không lấy ai cả. Phạm công nghe thế càng tức giận, bèn hứa hôn với người con vị quan Mỗ, lại ngờ con gái tư tình với Mạnh sinh nên càng gấp rút chọn ngày tốt làm đám cưới cho mau. Nàng Mười một phẫn uất bỏ ăn, suốt ngày chỉ nằm trong phòng. Đến đêm trước ngày cưới chợt trỗi dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát tỳ nữ chạy vội tới thưa tiểu thư đã thắt cổ tự tử, cả nhà kinh hãi than khóc nhưng hối hận không kịp nữa, ba ngày sau đem chôn cất.</p><p></p><p>Mạnh sinh từ khi bà già láng giềng về kể lại, phẫn hận muốn chết nhưng vẫn dò la tin tức, mong có dịp cứu vãn tình thế. Nghe tin Phạm công hứa gả nàng Mười một, lửa hận thiêu đốt ruột gan, muôn vàn ý nghĩ đều dứt bỏ. Không bao lâu nghe tin ngọc lấp hương chôn, vô cùng đau xót, hận không được chết cùng người đẹp. Chờ tối ra cửa, định nhân lúc đêm tối tới khóc mồ nàng Mười một một lần, chợt có một người đi tới, tới gần thì ra là Phong Tam nương. Phong nhìn sinh nói "Mừng cho chàng nhân duyên đã thành". Sinh rơi nước mắt hỏi "Nàng không biết nàng Mười một đã chết à?", Phong đáp "Sở dĩ ta nói đã thành chính là vì nàng đã chết đấy. Mau gọi gia nhân đào mồ lên, ta có thuốc lạ có thể cứu nàng sống lại". Sinh theo lời, liền đào mộ phá quan tài rồi lấp huyệt lại như cũ, tự cõng cái xác cùng Tam nương về.</p><p></p><p>Về tới nơi đặt nàng Mười một lên giường đổ thuốc cho, giây lát thì sống lại. Nàng thấy Tam nương liền hỏi đây là nơi nào, Phong chỉ vào sinh nói "Đây là Mạnh An Nhân", nhân kể lại mọi việc, nàng Mười một mới chợt như tỉnh mộng. Phong sợ việc tiết lộ, bèn đưa đi cách đó mười lăm dặm, ẩn náu ở một xóm núi. Phong định từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở một gian riêng. Kế đem bán những vật trang sức chôn theo để sinh sống, cũng hơi dư dật. Phong mỗi khi thấy sinh tới là vội vàng lánh mặt, nàng Mười một thong thả nói "Chị em ta còn hơn cả ruột thịt, nhưng rốt lại cũng không thể sum họp suốt đời, tính lại chẳng bằng cứ bắt chước hai chị em Nữ Anh Nga Hoàng cùng lấy vua Thuấn". Phong nói “Thiếp lúc nhỏ học được thuật lạ, thở hít có thể trường sinh nên không muốn lấy chồng". Nàng Mười một cười nói "Những thuật trường sinh trên đời vẫn truyền tụng có tới hàng đống, nhưng đã có ai học theo mà được trường sinh?". Phong đáp “Cái thuật mà thiếp học được không phải như người đời vẫn biết. Thuật người đời vẫn truyền chẳng phải là chân truyền, chỉ có Ngũ cầm đồ của Hoa Đà<strong>*</strong> là đúng. Phàm hành giả luyện công ai cũng muốn khí huyết được lưu thông, nếu bị ngưng trệ vướng mắc mà làm theo tư thế con cọp thì hết ngay, không phải là hiệu nghiệm à?”</p><p></p><p>*Ngũ cầm đồ của Hoa Đà: Hậu Hán thư, Hoa Đà truyện chép Hoa Đà là bậc danh y, có một cách tập luyện thân thể tên là "Ngũ cầm chi hý" mô phỏng tư thế, động tác của năm giống vật là cọp, hươu, gấu, vượn, chim. Ngũ cầm đồ đây có lẽ chỉ các bức vẽ hướng dẫn về cách tập luyện nói trên.</p><p></p><p>Nàng Mười một ngầm bàn mưu với sinh, bảo sinh giả có việc đi xa, đến đêm cố ép Phong uống rượu thật say cho sinh vào làm bừa. Tam nương tỉnh dậy nói "Muội tử hại ta rồi. Nếu không phá sắc giới mà tu luyện thành đạo thì có thể lên tới tầng trời thứ nhất. Nay vướng vào mưu gian, cũng là mệnh vậy”. Bèn đứng dậy từ giã, nàng Mười một bày tỏ lòng thành, năn nỉ xin tha lỗi. Phong nói “Nói thật ta là hồ, vì thấy em xinh đẹp chợt nảy lòng yêu mến, như con tằm nhả kén tự buộc lấy mình mới có chuyện ngày hôm nay. Đó là vì tình nghiệt chứ không phải sức người, còn ở lại đây thì ma chướng càng sâu, không biết tới đâu là hết. Nương tử phúc trạch còn nhiều, xin tự bảo trọng".</p><p></p><p>Dứt lời thì biến mất, vợ chồng kinh ngạc than thở hồi lâu. Qua năm sau sinh đỗ cả thi hương lẫn thi hội, làm quan tới chức Hàn lâm, đưa danh thiếp tới yết kiến Phạm công, Phạm công thẹn thùng hối hận không chịu tiếp, sinh năn nỉ mãi mới ra gặp Sinh vào lạy chào theo lễ con rể rất cung kính, Phạm công nổi giận ngờ là sinh chế nhạo. Sinh xin nói chuyện riêng rồi kể hết mọi việc, Phạm công chưa tin lắm, sai người tới nhà sinh xem mới kinh ngạc vui mừng nhưng ngầm dặn người nhà giữ kín đừng nói rộng ra vì sợ có tai biến. Hai năm sau, vị quan Mỗ phạm tội bị phát giác, cha con đều bị sung quân ở Liêu Hải, nàng Mười một mới về thăm cha mẹ.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 131 - 132 -</strong></p><p>Giấc Mộng Hồ</p><p>(Hồ Mộng)</p><p></p><p>Tất Di Am bạn ta tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm Thứ sử, nghỉ ngơi trên lầu, nghe đồn trong lầu có nhiều hồ. Tất mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng<strong>*</strong> thường tỏ lòng hâm mộ, hận không được một lần gặp gỡ. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Tất giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói "Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm lòng mà tới". Tất nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói "Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới", dứt lời ra đi.</p><p></p><p>*Truyện Thanh Phượng: xem truyện Thanh Phượng, quyển I.</p><p></p><p>Tối hôm sau Tất đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái "Tất lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy". Tất kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói "Chàng béo vừa nặng vừa ngốc, làm người ta không sao chịu nổi”. Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói "Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi". Tất hỏi ở đâu, nàng đáp "Chị cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa". Đêm sau Tất ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái bước vào nói "Làm phiền chàng phải đợi lâu”, rồi cầm tay Tất dẫn đi.</p><p></p><p>Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, thấy tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng mới. Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo "Cô Hai tới”, kế thấy một nữ lang vào, khoảng mười tám mười chín tuổi, nhìn cô gái cười nói "Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không”. Cô gái cầm quạt đập vào lưng chị, trợn mắt nhìn, nàng Hai nói "Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra, kế giận ta, nói sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt, ta nói con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế". Nàng Cả cười nói "Chẳng trách dì Ba lại giận dỗi, rể mới đang ở đây mà ăn nói bừa bãi như thế”.</p><p></p><p>Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Chợt một cô gái nhỏ bế một con mèo tới, khoảng mười một mười hai tuổi, tóc còn chưa kết bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ xinh đẹp. Nàng Cả nói “Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể à? Nhưng ở đây hết chỗ rồi”, rồi bế cô nhỏ đặt ngồi lên đùi lấy bánh trái cho ăn. Lát sau lại bế đặt vào lòng nàng Hai, nói "Nó đè lên đùi ta nặng quá". Nàng Hai nói "Con nhãi to xác nặng hàng trăm cân, ta ốm yếu làm sao chịu nổi. Đã muốn xem mặt anh rể, thì anh rể vốn to lớn, đùi to dễ ngồi lắm", rồi bế xốc em đặt vào lòng Tất, Tất thấy người cô nhỏ thơm tho mềm mại mà nhẹ như không, bèn ôm lấy cho uống rượu cùng chén với mình. Nàng Cả nói “Con nhãi đừng quá chén, say rồi thất thố thì anh rể cười cho đấy!". Cô nhỏ nhoẻn miệng cười, lấy tay chọc mèo cho nó kêu lên. Nàng Cả nói "Còn không vứt đi, cứ ôm lấy nó cho lây bọ chét". Nàng Hai nói "Xin lấy con mèo làm tửu lệnh, mọi người cứ cầm đũa chuyền cho nhau, tới ai mà mèo kêu thì người ấy phải uống", mọi người theo lời. Cứ đũa tới tay Tất là mèo lại kêu, Tất vốn uống rượu rất hào, uống liền mấy chén lớn mới biết cứ đũa tới mình là cô nhỏ lại véo mèo cho kêu lên.</p><p></p><p>Mọi người cười ầm, nàng Hai nói "Thôi em đi ngủ đi, ngồi tê cả chân ông anh, không khéo chị Ba lại phiền", cô gái nhỏ bèn bế mèo đi ra. Nàng Cả thấy Tất tửu lượng cao liền gỡ cái độn tóc rót rượu mời, Tất nhìn thấy cái độn chỉ khoảng một thăng nhưng khi uống thì thấy rượu nhiều như mấy đấu, uống cạn nhìn lại thì hóa ra là tàu lá sen. Nàng Hai cũng muốn mời, Tất chối từ nói không uống nổi nữa, nàng bèn lấy ra cái hộp đựng nhẫn nhỏ như viên đạn rót rượu vào nói "Nếu không uống được nhiều thì xin uống một chút cho ta vui". Tất nhìn thấy nghĩ chỉ một hớp là hết, nhưng uống liên tiếp hàng trăm hớp vẫn không cạn. Cô gái ngồi cạnh bèn lấy cái chén hạt sen thay cái hộp đựng nhẫn, nói "Đừng để kẻ gian lừa gạt”, đặt cái hộp lên bàn thì là một cái tô lớn. Nàng Hai nói "Việc gì đến ngươi? Vợ chồng mới ba ngày mà yêu thương đến thế kia à?". Tất cầm lấy cái chén đua lên miệng dốc cạn, chợt thấy vật trong tay mềm mềm, nhìn kỹ thì không phải là chén mà là một chiếc giày thêu, đường kim mũi chỉ cục kỳ khéo léo. Nàng Hai vội giật lấy, mắng "Con nhãi đánh cắp giày người ta lúc nào thế? Chẳng trách gì chân ta cứ lạnh toát”, rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày. Cô gái mời rượu khắp lượt rồi đứng lên từ biệt, tiễn Tất ra tới ngoài thôn, bảo cứ về một mình. Tất chợt tỉnh thì ra là giấc mộng, nhưng thấy trong miệng vẫn còn mùi rượu thơm phức, lấy làm lạ lùng.</p><p></p><p>Đến tối cô gái tới, nói “Đêm qua say rượu chưa chết à?" Tất nói vẫn đang ngờ là giấc mộng. Nàng nói "Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!". Cô gái cùng Tất đánh cờ, Tất thường thua, nàng cười nói "Chàng hàng ngày vẫn nghiện môn này, thiếp cứ nghĩ là giỏi lắm, nay xem ra cũng chỉ thường thường vậy thôi". Tất xin chỉ dạy cho, cô gái nói "Thuật chơi cờ là do người chơi tự lĩnh hội mà ngộ, thiếp làm sao giúp chàng được cứ mỗi ngày nghiền ngẫm thêm một ít thì may ra có thể khá lên". Qua vài tháng, Tất thấy đánh cờ hơi lên tay, cô gái đánh thử rồi cười nói "Còn chưa được, còn chưa được?". Tất ra ngoài chơi với các bạn cờ thì ai cũng thấy giỏi hơn hẳn, có người lấy làm lạ. Tất vốn tính ngay thẳng thành thật không quen giấu diếm bèn nói lộ ra, cô gái biết ngay, trách "Chẳng lạ gì bạn bè không chơi với gã cuồng sinh, đã dặn đi dặn lại là phải kín miệng, sao chàng còn làm như thế rồi giận dỗi bỏ đi. Tất xin lỗi mãi nàng mới hơi nguôi, nhưng từ đó tới ngủ lại thưa hơn trước.</p><p></p><p>Được hơn một năm, một đêm nàng tới ngồi im nhìn Tất, rủ đánh cờ thì không đánh, bảo đi ngủ cũng không ôi, buồn rầu hồi lâu rồi nói "Chàng xem thiếp với Thanh Phượng ai hơn?", Tất đáp "Nàng hơn nhiều chứ!". Cô gái nói "Thiếp tự thẹn là không bằng, nhưng ông Liêu Trai là bạn văn chương với chàng, nhờ chàng phiền ông viết cho một thiên tiểu truyện, chưa chắc sau ngàn năm đã không có người mong mỏi như chàng". Tất nói "Ta vốn có ý ấy, nhưng vì nhớ lời nàng dặn nên còn giữ kín". Cô gái nói "Đúng là trước kia thiếp có dặn thế thật, nhưng nay đã sắp chia tay, còn e ngại gì nữa". Tất hỏi đi đâu, nàng đáp “Thiếp và em Tư được Tây Vương Mẫu triệu làm Hoa điểu sứ, không thể tới đây được nữa". Tất xin dặn dò vài lời, nàng nói "Bỏ tức giận thì bớt lỗi lầm", rồi đứng lên cầm tay Tất nói “Chàng tiễn thiếp một đoạn”. Đi khoảng một dặm thì nhỏ lệ chia tay, nàng nói "Hai ta có lòng, biết đâu sẽ có ngày gặp lại", rồi đi.</p><p></p><p>Ngày mười chín tháng chạp năm Khang Hy thứ 21 (1682), ông Tất cùng ta nằm gác chân lên nhau trò chuyện ở Xước Nhiên Đường, kể lại tỉ mỉ chuyện lạ này. Ta nói "Có hồ như thế thì bút mục Liêu Trai cũng được vẻ vang", bèn ghi chép lại.</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p><strong>132. Chương A Đoan </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Chương A Đoan) </strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Thích sinh người huyện Vệ Huy (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ đã chín thắn, gan dạ dám nhận việc lớn. Lúc ấy có nhà đại tộc có tòa phủ đệ, giữa ban ngày thấy ma hiện hình, người nhà nối nhau chết nên xin bán rẻ. Sinh thấy rẽ bèn mua để ở, nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành tạm bỏ hoang, tôi tớ cứ đêm đêm la hoảng, kêu là có ma. Hơn hai tháng thì một người tỳ nữ chết, không bao lâu thì vợ sinh đang lúc chiều tối tới khu lầu gác hoang phế, về phát bệnh vài hôm cũng chết. Gia nhân càng sợ khuyên dời đi chỗ khác, sinh không nghe, nhưng góa vợ trơ trọi một mình, trong lòng đã buồn rầu, bọn tôi tớ lại cứ đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói. Sinh nóỉ giận hầm hầm mang chăn gối ra ngủ một mình trong ngôi đình bỏ hoang, để đèn chờ xem sự lạ nhưng hồi lâu không thấy gì, dần dần thiếp đi.</p><p></p><p></p><p></p><p>Bỗng có người thò tay vào chăn sờ soạng vuốt ve, sinh tỉnh dậy nhìn thì là một người tỳ nữ già mặt mày nhăn nheo đầu tóc rối bù trông rất ghê tởm. Sinh biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra cười nói "Tôn giá thì ta không thể vâng mệnh". Bà ta hổ thẹn rút tay lại, thất thểu bỏ đi. Giây lát một nữ lang từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, sấn tới trước đèn giận dữ mắng gã học trò ngông ở đâu dám tới đây nằm, sinh trỗi dậy cười nói "Tiểu sinh là chủ nhà này, đợi nàng để đòi tiền phòng thôi", rồi vùng dậy trần truồng đuổi bắt. Cô gái vội bỏ chạy, sinh chạy tới phía tây bắc trước chặn đường, nàng cùng đường ngồi luôn xuống giường. Sinh tới gần, dưới ánh đèn thấy nàng đẹp như tiên bèn ôm vào lòng. Cô gái cười nói "Gã học trò ngông không sợ ma ư? Ta sẽ vật chết đấy". Sinh cởi tuột áo quần ra, nàng cũng không chống cự lắm, xong rồi bèn nói “Thiếp họ Chương tên A Đoan, lấy phải thằng chồng lêu lổng, tính hung ác bất nhân cứ chửi mắng đánh đập nên phẫn uất chết yểu, chôn ở đây hơn hai mươi năm rồi. Dưới nền nhà này toàn là mồ mả".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh hỏi người tỳ nữ già là ai, nàng đáp “Cũng là một con ma cũ ở đây, hầu hạ cho thiếp. Có người sống ở bên trên thì ma quỷ bên dưới không yên nên mới rồi sai mụ ra đuổi chàng đi”. Sinh hỏi mụ sờ soạng để làm gì, nàng cười đáp "Mụ ta đã ba mươi năm nay chưa được gần gũi đàn ông, kể cũng đáng thương, nhưng thật không tự biết xét mình. Đại khái ai yếu bóng vía thì ma càng quấy phá, ai cứng cỏi thì ma không dám xúc phạm". Nghe chuông chùa xóm bên dứt tiếng, nàng mặc quần áo bước xuống giường nói "Nếu chàng không nghi ngờ, thì đêm thiếp sẽ lại tới". Trời tối, quả thật nàng lại tới, cùng nhau mây mưa rất hoan lạc. Sinh nói “Vợ ta chẳng may qua đời, ta thương xót không khuây, nàng có thể đưa giúp về đây được không?". Cô gái nghe thế càng thêm ngậm ngùi, nói "Thiếp chết hai mươi năm mà không có ai nghĩ nhớ tới một lần, chàng quả là người đa tình, thiếp xin cố hết sức. Nhưng nghe nói nương tử đã có chỗ đầu thai rồi, không biết còn ở dưới âm ty không”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Qua đêm sau nàng nói với sinh rằng "Nương tử sắp được đầu thai vào nhà giàu sang nhưng vì lúc còn sống vì mất đôi hoa tai mà đánh đập đứa tỳ nữ khiến nó treo cổ tự tử, còn kiện tụng chưa xong nên chưa đi, nay đang tạm ở lại chỗ Dược Vương, có người canh giữ. Thiếp sai mụ tỳ nữ đi lo lót, có khi sắp về tới". Sinh hỏi sao nàng lại được thong thả, cô gái đáp “phàm ma quỷ chết oan nếu không tự tới khai báo thì Diêm Vương không sao biết được". Vừa hết canh hai thì người tỳ nữ già đưa vợ sinh về, sinh nắm tay vợ đau xót khóc lóc, vợ cũng rơi lệ không nói được gì. Cô gái từ giã, nói "Hai người cứ nói chuyện với nhau, đêm khác sẽ gặp lại". Sinh an ủi hỏi thăm việc đứa tỳ nữ tự tử, vợ đáp "Không hề gì, đã xử xong rồi", rồi lên giường ôm ấp yêu đương như lúc còn sống, từ đó lại ăn ở với nhau như thường. Năm ngày sau, vợ sinh chợt khóc nói "Ngày mai thiếp phải đi Sơn Đông, đến lúc vĩnh quyết rồi, biết làm thế nào?”. Sinh nghe nói rơi lệ sụt sùi, vô cùng đau đớn. Cô gái khuyên nói "Thiếp có một cách có thể giúp hai người tạm thời sum họp". Hai người cùng gạt lệ hỏi cách gì, nàng xin lấy mười xấp giấy tiền đem đốt ở dưới gốc cây hạnh trước gian nhà phía nam để hối lộ với người áp giải đi đầu thai xin hoãn lại ít lâu.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh theo lời, đến tối thì vợ về nói “May nhờ có Đoan nương nên nay được sum vầy thêm mười hôm", sinh mừng rỡ không cho Đoan về mà giữ lại cùng nằm chung giường từ đêm đến sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng tàn. Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc lóc suốt đêm, hỏi cô gái có kế gì không. Nàng nói "Tình thế này khó mà làm như lần trước, nhưng muốn thử thì không có trăm vạn không được”, sinh bèn đốt đủ số. Hôm sau cô gái tới mừng rỡ nói "Thiếp nhờ người nói với kẻ áp giải, lúc đầu y ra vẻ khó khăn, đến khi thấy có nhiều tiền mới xiêu lòng, giờ đã lấy con ma khác đi đầu thai thay nương tử rồi". Từ đó ban ngày cũng không về, bảo sinh đóng kín cửa, thắp đèn không lúc nào tắt. Cứ thế hơn một năm, chợt cô gái mắc bệnh, thẫn thờ buồn bã, hoảng hốt như thấy ma. Vợ sinh vỗ về nàng, nói "Đây là bệnh ma làm", sinh hỏi "Đoan nương đã là ma rồi, lại còn ma nào làm cho bệnh nữa?". Vợ sinh đáp, "Không phải, người chết thành ma, ma chết thành mị, ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh muốn mời thầy cúng, vợ nói "Bệnh của ma thì làm sao người chữa được? Bà Vương ở thôn bên đang làm thầy cúng dưới âm ty, có thể gọi tới. Nhưng từ đây tới đó đường xa mười dặm, mà thiếp chân yếu không đi bộ được, xin chàng đốt cho con ngựa giấy”. Sinh theo lời, ngựa giấy vừa cháy tàn thì tỳ nữ dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân đưa dây cương cho vợ sinh, trong chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một bà già cưỡi chung ngựa tới, buộc vào cột hiên. Bà già vào ngồi xuống, lắc lư lên đồng, ngã lăn xuống đất một lúc rồi bò dậy nói "Ta là Hắc Sơn đại vương đây, nương tử đây bệnh nặng lắm, may mà gặp tiểu thần, phúc trạch không kém đâu. Bệnh này là bị ma làm nhưng không sao không sao, muốn khỏi phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào", vợ sinh răm rắp vâng dạ.</p><p>Bà ta lại ngã xuống đất rồi tỉnh lại, nhìn vào người bệnh quát tháo rồi thôi. Kế xin về, vợ sinh tiễn ra tới sân, tặng luôn cho con ngựa, bà ta vui vẻ ra về. Vào nhìn thấy cô gái như hơi tỉnh táo, vợ chồng cả mừng vỗ về hỏi han, nàng chợt nói "Thiếp sợ không trở về nhân gian được nữa, cứ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện ra, cũng là số mệnh vậy", rồi khóc sướt mướt. Qua đêm sau bệnh nàng càng nặng, co quắp run rẩy như thấy vật gì, cứ kéo sinh lên nằm chung, rúc đầu vào lòng sinh như sợ bị bắt đi, sinh đứng lên đi đâu thì kinh hoảng kêu la, cứ thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng không biết tính sao. Gặp hôm sinh đi vắng nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ khóc hoảng hốt vào hỏi thì Đoan nương đã chết trên giường, xác vẫn còn đó. Sinh giở chăn nhìn thấy xương trắng phau phau, thương xót gào khóc, đem tống táng như người, chôn cạnh mồ mả ông bà. Một đêm vợ sinh nằm mơ khóc thổn thức, sinh lay gọi hỏi chuyện gì thì đáp "Vừa rồi mộng thấy Đoan nương tới nói chồng nàng làm mị giận nàng chết rồi mà không giữ tiết nên tới đòi mạng, xin lập đạo tràng siêu độ cho”. Sinh đậy sớm định làm theo lời, vợ ngăn lại nói "Việc siêu độ cho ma chết thì chàng không làm được đâu”, rồi trở dậy đi, giây lát trở về nói "Ta đã sai người đi mời sư, phải đốt tiền trước cho họ làm lộ phí".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh theo lời, mặt trời vừa lặn thì tăng chúng kéo cả tới, trống chiêng nạo bạt đều giống hệt như ở trần gian, vợ cứ nói ồn ào điếc cả tai nhưng sinh không nghe thấy gì cả. Cúng xong, vợ sinh lại nằm mơ thấy Đoan nương về tạ ơn, nói “Thù oán đã rửa sạch rồi, sắp đi thác sinh làm con gái Thành hoàng, nhờ nói lại cho chàng Thích biết”. Vợ sinh về nhà ba năm, gia nhân lúc đầu nghe biết rất sợ, lâu ngày dần quen, sinh đi đâu vắng thì đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm việc nhà. Một đêm, nàng nhìn sinh khóc nói "Người lính áp giải vong hồn đi đầu thai trước đây đã để lộ việc man trá, nay âm ty lùng bắt thiếp rất gấp, e không thể sum họp lâu nữa". Mấy hôm sau quả nhiên bị bệnh, nói "Vì nặng tình chàng nên chỉ muốn chết mãi chứ không thích được thác sinh, nhưng nay sắp phải vĩnh biệt, chắc cũng là số chăng?". Sinh lo sợ hỏi có cách nào thoát không, nàng nói “Chuyện này thì không có cách gì đâu”. Sinh hỏi liệu có bị trừng phạt gì không, vợ đáp “Cũng bị trừng phạt qua loa, tham sống mới là tội to chứ tham chết chỉ là tội nhỏ". Nói xong nằm yên không động đậy, nhìn kỹ thì dung mạo thân thể dần dần biến mất. Sinh cứ ra ngủ một mình trong đình để chờ có ngày gặp lại, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm, từ đó gia nhân ở yên.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 133 -</strong></p><p>Nàng Hoa Cô</p><p>(Hoa Cô Tử)</p><p></p><p>An Ấu Dư là Bạt cống ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), tính phung phí hay làm việc nghĩa, lại thích phóng sinh, thấy ai săn được chim muông là bỏ nhiều tiền mua rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, sinh tới giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc đường trong núi, trong lòng lo sợ, chợt thấy cách khoảng một tầm tên có ánh đèn lửa bèn rảo bước tới. Được mấy bước bỗng thấy một ông già lưng còng kéo lê gậy, cắt đường đi mau tới. An dừng bước định hỏi thăm thì ông già đã hỏi trước là ai. An thưa chuyện mình lạc đường, lại nói chỗ có đèn lửa chắc là xóm núi, định tới ngủ nhờ. Ông già nói "Đó không phải là nơi yên ổn, may mà lão phu tới đây, cứ theo lão về, nhà tranh cũng có chỗ nghỉ ngơi”.</p><p></p><p>An cả mừng đi theo, khoảng một dặm thì tới một xóm nhỏ. Ông già gõ phên cửa, một bà già ra mở cửa hỏi “Ông đã về đấy à?", ông già đáp "Phải”. An vào thấy nhà thấp nhỏ thật hẹp, ông già khêu đèn giục ngồi rồi bảo bà già có gì ăn thì đem lên mời khách, lại nói "Đây không phải ai khác mà là ân nhân của ta đấy. Bà đi lại khó khăn, cứ gọi Hoa Cô dọn rượu”. Lát sau một cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm. An nhìn lại thấy mặt hoa da phấn, xinh đẹp như tiên. Ông già ngoảnh lại sai hâm rượu, trong gian phòng phía tây có lò than, cô gái bước vào nhóm lửa. An hỏi lão truựng là ai, ông già đáp "Lão phu họ Chương, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó, trong nhà ít tôi tớ, vì ông không phải là người lạ nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, xin đừng chê cười!". An hỏi “Nhà con rể lão trượng ở đâu?", ông già đáp còn chưa có ai.</p><p></p><p>An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp lại chợt nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì là rượu sôi trào ra bốc cháy. Ông già dập tắt xong, mắng “Con nhãi lớn rồi mà rượu sôi không biết à?”. Nhìn thấy cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô bằng ruột cây quỳ còn bện chưa xong lại mắng "Tóc bồng bồng như thế mà còn như trẻ con". Bèn cầm lên cho An xem, nói "Nó tham làm cái này để kiếm ăn nên để rượu sôi trào ra, được bậc quân tử quá khen, há chẳng thẹn chết sao?". An ngắm kỹ thấy mắt mày xiêm áo làm rất khéo léo bèn khen rằng "Tuy giống như trò chơi của trẻ con nhưng cũng đủ thấy là rất sáng dạ". Chuốc chén hồi lâu, cô gái mấy lần ra rót rượu, nhoẻn miệng tươi cười không hề có vẻ ngượng nghịu. An chăm chú nhìn, thấy lòng xao xuyến. Chợt nghe tiếng bà già gọi, ông già đi vào, An thấy không có ai bèn nói với cô gái "Nhìn thấy dung mạo người tiên làm ta điên đảo, muốn nhờ mối lái dạm hỏi mà sợ không được, ý nàng thế nào?".</p><p></p><p>Cô gái cầm bầu rượu tới cạnh lò, im lặng như không nghe thấy, hỏi mấy lần không đáp, sinh bèn bước vào phòng. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói "Chàng cuồng vào phòng định làm gì?". An quỳ rạp nài nỉ, nàng đi mau tới cửa định chạy ra, An đứng bật dậy chặn đường, ôm lấy nàng hôn hít. Cô gái run rẩy kêu lên, ông già vội chạy vào, An buông tay bước ra, vô cùng thẹn thùng sợ sệt. Cô gái thong thả nói với cha "Rượu lại sôi trào, không có chàng đây chạy vào thì cả cái bầu cũng cháy luôn rồi". An nghe thế mới yên lòng, càng biết ơn nàng, thần hồn điên đảo bỏ luôn ý định mới rồi. Rồi đó giả say rời bàn, cô gái cũng bước ra, ông già trải chăn đệm xong đóng cửa đi. An không ngủ được, chưa sáng đã gọi ông già dậy chào về.</p><p></p><p>Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. An bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi nàng Hoa Cô. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt.</p><p></p><p>Cô gái nghiêng đầu cười nói "Chú nhỏ ngây sao lại tới nông nỗi này?”, rồi lên giường ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An thấy có mùi xạ hương thơm ngát xộc vào mũi thấm tận xương. Nàng day một lúc An chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế. Nàng nói nhỏ "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh bao đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm An ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa.</p><p></p><p>Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói "Chàng ngây không tạ ơn bà lang à?". An mừng quá ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Kế cô gái nói "Thiếp mạo hiểm chịu tiếng xấu chỉ vì báo đáp ơn lớn chứ thật không thể chung sống với nhau mãi mãi, xin chàng sớm liệu chia tay". An im lặng hồi lâu rồi hỏi "Vốn bình sinh đã quen biết gia đình nàng ở đâu, quả thật không nhớ". Cô gái không đáp, chỉ nói "Chàng tự nghĩ thì biết". Sinh nài nĩ xin được gàn bó dài lâu, nàng nói “Đêm nào cũng lén tới thì không xong, mà lấy nhau như vợ chồng cũng không được ". An nghe nói vô cùng buồn bã, cô gái bèn nói "Nếu muốn cưới nhau, đêm mai xin mời chàng tới nhà thiếp". An bèn đổi buồn làm vui, hỏi "Đường sá xa xôi, chân nàng nhỏ bé làm sao tới đây được?", cô gái đáp "Thiếp vốn chưa về nhà, bà điếc bên láng giềng là hàng dì của thiếp, vì việc chàng mà nấn ná đến nay, sợ ở nhà lo lắng”. An cùng nàng ngủ chung, chỉ thấy hơi thở da thít đều thơm ngát bèn hỏi "Nàng xông loại hương gì mà thấm cả vào da thịt thế?”, cô gái đáp “Thiếp sinh ra đã thế, không phải do xông hương đâu”, An càng lấy làm lạ.</p><p></p><p>Sáng ra nàng dậy từ biệt, An sợ lạc đường, nàng hẹn sẽ chờ trên dường. Chiều tối An phóng ngựa đi, quả thấy cô gái đứng chờ, đưa tới chỗ cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu không có món nào ngon, có cả những thứ rau tạp. Kế mời khách đi nghỉ, cô gái không nhìn ngó gì tới, An càng nghi ngại. Mãi đến khuya nàng mới tới nói "Cha mẹ cứ rì rầm không ngủ khiến chàng phải chờ lâu," Hai người quấn quít cả đêm, nàng nói với An "Gặp mặt đêm nay rồi xa nhau trăm năm đấy". An ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Cha thấy xóm nhỏ này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời nhà đi xa, gặp gỡ chàng đêm nay nữa là thôi". An không nỡ buông nàng ra, ngẩng lên cúi xuống than thở, đang còn lưu luyến thì trời sáng dần, chợt ông già sấn vào mắng "Con nhãi làm nhơ nhuốc gia phong khiến ta nhục nhã muốn chết!". Cô gái tái mặt vội vàng chạy mất, ông già cũng bước ra, vừa đi vừa mắng. An sợ hãi quýnh quáng, không biết làm sao đành lẻn ra trốn về.</p><p></p><p>Mấy ngày bồi hồi, trong lòng bứt rứt không yên, nhân nghĩ đến đêm lần tới trèo tường vào xem sao, ông già đã nói ta có ơn với họ thì dù việc lộ ra chắc cũng không trách móc nặng lời. Bèn nhân đêm tối lẻn tới, lần mò trong núi, lạc lối không biết đi đường nào, sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hốc núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đi tới thấy tường cao cổng rộng như nhà thế gia, mấy lớp cổng còn chưa đóng. Hỏi thăm nhà họ Chương thì có một người tỳ nữ ra hỏi là ai mà đang đêm hỏi thăm nhà họ Chương, An đáp "Đó là người quen với ta, ngẫu nhiên quên mất nhà". Người tỳ nữ nói "Chàng trai không phải hỏi họ Chương nữa, đây là nhà mợ nàng, Hoa Cô hiện đang ở đây, để ta vào báo". Trở vào không bao lâu thì quay ra mời An vào, vừa vào tới hành lang thì Hoa Cô đã rảo bước ra đón, nói với người tỳ nữ "Chàng An lặn lội đến nửa đêm chắc đã mệt lắm, mau sửa soạn chỗ ngủ đi!".</p><p></p><p>Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi sao trong nhà không có ai khác, cô gái đáp "Mợ đi vắng, để thiếp ở lại trông nhà, may được gặp chàng, há không phải là duyên số ư?", nhưng trong lúc dựa kề An lại thấy rất hôi tanh, trong lòng ngờ có điều lạ. Cô gái ôm cổ An, thè lưỡi liếm vào lỗ mũi, thấy như mũi kim đâm đau thấu tận óc. An sợ quá vội vàng giãy giụa nhưng thân thể như bị thùng lớn trói chặt, giây lát ngất đi không biết gì nữa. An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi, có người nói chiều tối gặp An trên đường núi. Người nhà vào núi tìm thì thấy An trần truồng nằm chết dưới vách đá cao ngất, khiếp hãi lạ lùng không hiểu vì sao. Cáng về tới nhà, cả nhà đang xúm lại than khóc thì có một nữ lang tới viếng, từ ngoài cổng gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi An, nước mắt ròng ròng kêu lớn "Trời ơi, trời ơi, sao mà ngu dại như thế”, gào khóc khản cả tiếng lát sau mới nín, nói với người nhà "Xin để đó bảy ngày đừng liệm". Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì cô gái không buồn chào hỏi, nuốt nước mắt đi thẳng ra, mời giữ cũng không ngoảnh lại. Đi theo thì trong chớp mắt đã biến mất, mọi người ngờ là thần bèn kính cẩn vâng lời.</p><p></p><p>Đêm nàng lại tới khóc như hôm trước, qua bảy đêm chợt An tỉnh lại trở mình rên rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nhìn nhau nghẹn ngào, An giơ tay xua mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ, nấu với một đấu nước cho uống ngay trên giường. Giây lát An nói được, thở dài nói "Giết ta lần nữa là nàng mà cứu ta lần nữa cũng là nàng", nhân kể lại những việc đã gặp. Cô gái nói "Đó là con tinh rắn giả làm thiếp, trước đây chàng lạc đường lần đầu nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy". An hỏi "Nàng có thể làm cho người chết sống lại, xương khô mọc thịt như thế, không phải là tiên sao?”. Cô gái đáp "Đã định nói ra từ lâu nhưng sợ chàng sợ hãi. Năm năm về trước chàng đi trong núi Hoa Sơn có mua con chương người ta săn được rồi thả ra phải không?”. An đáp "Đúng là có việc ấy". Nàng nói "Con chương ấy chính là cha thiếp, trước đây thiếp nói chàng có ơn lớn chính vì cớ đó. Hôm trước chàng đã đầu thai vào nhà Chủ chính họ Vương ở thôn Tây, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp xin hủy đạo chết thay chàng, năn nỉ bảy ngày mới xong. Nay được gặp nhau là may mắn lắm, nhưng chàng tuy sống vẫn bị bại liệt, phải lấy được máu rắn ấy hòa với rượu mà uống thì mới khỏi”. Sinh căm hờn nghiến răng nhưng lo không có phép gì bắt được. Cô gái nói "Chuyện ấy không khó, nhưng giết nhiều sinh linh sẽ làm lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ, cứ chờ lúc sắp trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài chuẩn bị cung cứng thì sẽ bắt được yêu vật". Dứt lời cáo biệt, nói "Thiếp không thể thờ chàng trọn đời, thật rất đau lòng, nhưng vì việc của chàng mà công phu tu hành đã mất bảy phần, xin chàng thương xót cho. Một tháng nay máy động, sợ là nghiệt căn, còn là trai hay gái năm sau sẽ gởi lại thôi", rồi rơi lệ ra đi.</p><p></p><p>Qua đêm, An thấy từ thắt lung trở xuống như chết rồi, cấu véo không biết đau, bèn đem lời cô gái nói với người nhà. Người nhà tới nơi làm như lời nàng, chất lửa đốt hang thì có con rắn lớn màu trắng xông qua lửa trườn ra, bao nhiêu cung nỏ cùng châu vào bắn chết. Khi lửa tắt vào hang thì thấy mấy trăm con rắn lớn nhỏ chết thui khét lẹt. Người nhà đem về lấy máu rắn cho An uống, ba ngày thì hai chân dần dần xoay trở được, nửa năm mới đứng dậy nổi. Sau đó một mình vào núi, gặp bà già ôm mảnh chiếu cói làm tã bọc một đứa bé trao cho, nói "Con gái già gởi cho lang quân", toan hỏi thăm thì chớp mắt đã không thấy đâu, giở ra xem thì là con trai, bèn bế về nhà rồi không lấy vợ nữa.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Con người không khác cầm thú bao nhiêu, lời ấy chưa hẳn đã đúng đâu. Mang ơn mà lo đền đáp, đến chết vẫn không thôi thì con người cũng có chỗ phải thẹn với cầm thú đấy. Tới như Hoa Cô lúc đầu thì gởi khôn ngoan ở chỗ ngây ngốc, sau rốt lại gởi tình cảm ở chỗ lơ là, mới biết người ngây ngốc thì rất khôn ngoan, người lơ là thì rất tình cảm. Tiên thì như thế chăng, tiên thì như thế chăng!</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 134 - 135 -</strong></p><p>Công Chúa Tây Hồ</p><p>(Tây Hồ Chủ)</p><p></p><p>Trần sinh tên Bật Giáo, tự Minh Doãn là người đất Yên (tỉnh Hà Bắc). Nhà nghèo, theo Phó tướng quân Giả Quán làm chức Ký thất, đậu thuyền trên hồ Động Đình, có con thuồng luồng nổi lên mặt nước bị Giả bắn trúng lưng. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không nhả ra cũng bị bắt, kéo lên thuyền chỉ còn thoi thóp, nhưng con thuồng luồng cứ há miệng ngáp như xin cứu. Sinh động lòng trắc ẩn xin Giả tha ra, sẵn trong túi có thuốc trị thương bèn đùa lấy buộc vào vết thương rồi thả xuống nước, nó lặn hụp giây lát rồi mất tăm. Hơn năm sau sinh về bắc lại qua hồ Động Đình, bị gió lớn lật thuyền, may vớ được một cái ống tre, vật vờ cả đêm mới vướng gốc cây dừng lại, sinh bèn leo lên bờ. Có xác chết trôi theo dạt vào, nhìn xem té ra là đứa tiểu đồng, cố sức kéo lên thì đã chết cứng. Sinh đau xót buồn bã ngồi cạnh cái xác nghỉ mệt, chỉ thấy thấy núi con chồng biếc, liễu nhỏ vờn xanh, chẳng có ai qua lại mà hỏi thăm đường sá.</p><p></p><p>Từ sáng sớm đến quá giờ Thìn buồn rầu không biết đi đâu, chợt thấy xác đứa tiểu đồng khẽ động đậy, mừng rỡ vỗ gọi, giây lát nó nôn ra mấy đấu nước rồi tỉnh lại. Liền cùng nhau phơi quần áo trên tảng đá, gần trưa thì khô mặc lại được, nhưng trong bụng cồn cào đói không chịu nổi. Bèn dắt nhau vượt mau qua núi mong gặp xóm làng, vừa lên tới lưng núi thì nghe tiếng lục lạc đang lắng tai nghe thì thấy hai thiếu nữ cưỡi ngựa phóng tới vó ngựa khua ran, đều đội khăn hồng bịt trán, búi tóc cắm lông trĩ, mặc áo tía chít tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua khỏi đỉnh núi thấy mấy mươi kỵ mã đang săn bắn trong đám gai góc, đều là mỹ nữ, ăn mặc như nhau. Sinh không dám đi nữa, chợt có một người đàn ông đi bộ tới, thấy như lính chăn ngựa bèn ra hỏi thăm. Người ấy đáp "Đó là công chúa Tây Hồ lên Thủ Sơn săn bắn”. Sinh kể lại chuyện mình, nói cả việc đang đói, người lính mở túi lấy gói cơm đưa cho rồi dặn "Nên tránh cho xa, phạm giá là chết đấy”.</p><p>Sinh sợ hãi vội rảo bước xuống núi, thấy trong đám rừng rậm thấp thoáng có điện gác, cho là chùa chiền, tới gần xem thì thấy tường quét vôi trắng ngoài có khe suối chảy qua, cổng son mở hờ trong có cầu đá đi vào. Sinh vịn cánh cửa nhìn vào thấy đài tạ san sát như vườn Thượng uyển trong cung vua, lại ngờ là vườn nhà quan. Dò dẫm lần vào, thấy dây mây bò ngang, đá lạ chắn lối, mùi hoa thơm ngát. Qua mấy thỗ rẽ lại là một nơi viện gác khác, có vài mươi cây dương liễu cao chạm hiên nhà, chim núi kêu một tiếng thì hoa liễu cùng bay, gió vườn thổi thoáng qua thì lá cây tự rụng, cành vật đẹp mắt thỏa lòng khác hẳn cõi trần. Đi xuyên qua tiểu đình tới một giá đu cao tận mây xanh, nhưng dây buộc đong đưa, vắng vẻ không có ai nên ngờ là gần nơi khuê các, e ngại không dám vào nữa. Chợt nghe tiếng ngựa hí ran ngoài cổng rồi như có tiếng con gái cưỡi nói, sinh và tiểu đồng vội núp vào khóm hoa dày.</p><p>Không bao lâu tiếng cười nói tới gần, nghe một nàng nói "Hôm nay đi săn không may, chẳng săn được bao nhiêu”, lại một nàng nói "Nếu không có công chúa bắn rơi một con nhạn thì hôm nay chỉ hao tốn sức người sức ngựa vô ích". Giây lát có mấy nàng áo đỏ đỡ một nữ lang lên ngồi trong tiểu đình, mặc nhung phục chít tay, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, tóc mượt lồng mây, lưng thon đảo gió, nhụy ngọc hoa vàng cũng không ví được. Bọn tỳ nữ dâng trà đốt hương, khói cuốn như gấm chất. Giây lát cô gái đứng lên bước xuống thềm, một tỳ nữ nói "Công chúa cưỡi ngựa mệt nhưng còn chơi du được không?", công chúa cười gật đầu, liền có kẻ đỡ vai người xốc nách, kẻ xắn quần người cầm giày đỡ nàng lên đu. Công chúa duỗi hai cánh tay trắng như ngọc nắm dây đu, nhún chân trần nhẹ nhàng như chim én lên tới mây xanh. Kế bọn tỳ nữ lại đỡ nàng xuống, cùng nói "Công chúa thật là nàng tiên", rồi cười nói râm ran đi về.</p><p>Sinh nhìn trộm hồi lâu, thần hồn điên đảo, chờ lúc tiếng cười nói đã tắt hẳn bèn bước tới dưới chiếc đu bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy cạnh rào có chiếc khăn đỏ, biết là của người đẹp làm rơi mừng rỡ nhặt lấy cho vào tay áo. Bước lên tiểu đình thấy trên bàn có bút mục bèn đề một bài thơ vào khăn rằng "Nhã hý hà nhân nghĩ bán tiên, Phân minh Quỳnh nữ tán kim liên. Quảng Hàn đôi lý ưng tương đố, Mạc tín lăng ba tiện thượng thiên” (Trên đu mỹ lệ tựa tiên nga, Quỳnh nữ Dao đài giỡn rắc hoa, Nguyệt điện Hằng Nga ghen sắc đẹp, Đừng tin gót ngọc tới trời xa). Đề xong ngâm nga rồi đi ra, quay lại lối cũ thì mấy lớp cửa đã đóng chặt. Sinh ngần ngừ không biết tính sao bèn trở vào dạo xem gần hết các nơi lầu gác. Chợt một cô gái tới, ngạc nhiên hỏi sao vào được đây, sinh vái chào nói "Ta là kẻ lạc đường, xin ra ơn cứu cho”. Nàng hỏi có nhặt được chiếc khăn đỏ không, sinh đáp "Thưa có, nhưng đã bôi bẩn vào rồi, làm sao bây giờ?", rồi đưa chiếc khăn ra. Cô gái cả kinh nói "Ngươi chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, bôi lem luốc vào thế này thì làm sao!". Sinh tái mặt năn nỉ cứu giúp cho, cô gái nói “Cái tội lén vào cung cấm dòm dỏ đã không tha được rồi, ta thấy ngươi là học trò nho nhã cũng có ý chu toàn cho, giờ lại tự gây tai vạ thì ta làm sao giúp nổi", rồi cuống quýt cầm chiếc khăn chạy đi.</p><p>Sinh lo sợ nơm nớp, hận là không có cánh mà bay đi, chỉ còn cách vươn cổ chờ chết. Hồi lâu cô gái trở lại khẽ chúc mừng nói "Chàng có cơ được sống rồi. Công chúa xem đi xem lại chiếc khăn mấy lần, không hề tỏ vẻ tức giận, có khi sẽ tha cho chàng đi. Cứ chịu khó chờ ở đây, đừng có vịn cây leo tường nhìn ngó gì, nếu bị bắt gặp sẽ không được tha đâu”. Trời đã xế chiều, lành dữ ra sao sinh không đoán chắc được, mà lửa đói thiêu đốt trong bụng thấy như sắp chết. Không bao lâu cô gái cầm đèn đi tới, có một tỳ nữ bưng hộp thức ăn và bầu rượu dọn ra cho sinh ăn. Sinh vội hỏi tin tức, nàng hỏi "Vừa rồi ta thừa dịp thưa chàng Tú tài trong vườn thả được thì thả, nếu không người ta sẽ chết đói. Công chúa ngẫm nghĩ rồi nói "Đêm hôm khuya khoắt bảo người ta đi đâu”, rồi sai đem cơm ra cho chàng ăn, thế thì không phải là điềm dữ". Sinh suốt đêm nơm nớp không sao yên tâm, đến hết giờ Thìn cô gái lại đem cơm ra cho ăn. Sinh năn nỉ nhờ xin giùm, nàng nói "Công chúa không nói giết cũng không nói tha, ta là kẻ hầu hạ đâu dám thưa gởi lằng nhằng”.</p><p>Kế mặt trời ngã về tây, sinh vẫn chờ đợi không thôi, chợt cô gái thở hổn hển chạy tới nói "Chết rồi, có người lắm lời đã nói cho vương phi biết, vương phi mở chiếc khăn xem rồi ném xuống đất, mắng ầm lên là ngông cuồng, tai họa không còn xa đâu”. Sinh cả kinh, mặt không còn sắc máu, quỳ rạp xuống đất van xin. Chợt nghe tiếng người nhao nhao kéo tới, cô gái phẩy tay tránh đi, liền có mấy người cầm dây ào ào kéo vào. Trong bọn có một tỳ nữ nhìn kỹ sinh rồi nói “Tưởng ai, té ra là Trần lang!", rồi ngăn những người cầm dây lại, nói “Hãy khoan, hãy khoan, đợi ta bẩm với vương phi đã!!. Rồi quay người chạy mau đi, giây lát trở lại nói "Vương phi mời Trần lang vào" sinh run rẩy đi theo. Qua mấy mươi lần cửa tới một nơi cung điện, rèm ngọc móc vàng, lập tức có mỹ nữ cuốn rèm xướng Trần lang đã tới. Thấy trên điện có một mỹ phụ ngồi, y phục lộng lẫy, sinh quỳ rạp xuống đất dập đầu nói "Thần lẻ loi từ vạn dặm tới đây, xin tha cho mạng sống". Vương phi vội bước tới đích thân kéo sinh đứng lên, nói "Ta không gặp bậc quân tử thì làm gì còn có ngày hôm nay. Bọn tỳ nữ không biết gì, xúc phạm tớì quý khách, biết lấy gì chuộc tội?".</p><p>Lập tức sai dọn tiệc, rót rượu bằng chén ngọc, sinh mờ mịt chẳng hiểu vì sao. Vương phi nói "Cái ơn tái tạo vẫn hận không có gì báo đáp, con gái ta được thương yêu đề thơ vào khăn cho, cũng là duyên trời, đêm nay xin sai nó theo hầu hạ". Sinh không ngờ được hơn cả lòng mong mỏi, trong lòng bàng hoàng không sao nói nên lời. Trời vừa tối, một tỳ nữ bước lên nói “Công chúa đã trang điểm xong đang chờ", rồi dẫn sinh vào trướng. Chợt nghe đàn sáo trỗi inh ỏi, dưới thềm đều rắc hoa giấy, từ nhà ngoài tới phòng trong đều treo đèn lồng, có vài mươi mỹ nữ đỡ công chúa ra làm lễ giao bái, mùi lan xạ sực nức. Kế hai người dắt nhau vào màn tình tự ân ái. Sinh hỏi "Kẻ trôi nổi tha phương bình sinh chưa từng bái kiến, bôi bẩn khăn quý được thoát rìu búa là may rồi, lại còn được ban cho mối duyên lành, thật là ngoài lòng mong mỏi". Công chúa nói "Mẹ thiếp là vương phi của Long quân hồ này, cũng là con gái Giang Dương vương, năm ngoái về thăm nhà tình cờ dạo chơi trên hồ bị tên bắn trúng. Đội ơn chàng giải cứu, lại xoa thuốc cho, cả nhà đều cảm kích, lòng hằng không quên. Chàng đừng vì khác loài mà nghi ngại, thiếp theo Long quân đã học được bí quyết trường sinh, xin cùng chàng chung hưởng".</p><p>Sinh lúc ấy mới sực hiểu ra nàng là thần nhân, bèn hỏi sao người tỳ nữ kia biết mình, công chúa đáp "Hôm ấy trong thuyền trên hồ Động Đình, chắc thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng, đó là nó đấy". Sinh lại hỏi lúc bắt được mình đã không giết chết sao lại chần chừ không thả đi, nàng cười nói "Thiếp mến tài chàng nhưng không thể tự chủ nên thao thức cả đêm, người ngoài nào có ai hiểu cho?”. Sinh than “Nàng thật là người tri kỷ của ta, còn người đem cơm cho ta là ai?", nàng đáp "Đó là A Niệm, cũng là người tâm phúc của thiếp", Sinh nói "Lấy gì đền ơn cô ta?” công chúa cười nói "Sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, lúc ấy lo đền ơn cũng chưa muộn” Sinh hỏi đại vương đang ở đâu, nàng đáp "Cha theo Quan Thánh đánh giặc Xuy Vưu chưa về". Ở đó vài hôm, sinh lo gia đình thấy bặt tin sốt ruột trông ngóng bèn viết thư báo tin bình yên, sai tiểu đồng về trước. Gia đình sinh nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con để tang đã hơn năm, đến khi tiểu đồng về tới mới biết là sinh còn sống. Nhưng tin tức xa xôi cách trở, người nhà rốt lại vẫn e rằng sinh trôi nổi khó lòng trở về.</p><p>Nửa năm sau sinh chợt trở về, áo cừu ngựa tốt, trong túi đầy châu báu. Từ đó giàu có cự vạn, hàng ngày yến ẩm ca hát vô cùng xa hoa, các nhà thế gia cũng không bằng được. Trong bảy tám năm sinh được năm con trai, ngày nào cũng mở tiệc mời khách, nhà cửa đồ dùng tiếp đãi vô cùng sang trọng. Có người hỏi tao ngộ thế nào, sinh nói thật cả không giấu diếm gì. Có người bạn chơi từ nhỏ tên Lương Tử Tuấn làm quan ở Giang Nam hơn mười năm mới về qua ngang hồ Động Đình thấy một chiếc thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng, trong có tiếng đàn sáo réo rắt, dập dềnh trong khoảng khói sóng, lúc lúc lại có mỹ nhân mở cửa sổ ngắm cảnh. Lương nhìn vào thấy trong thuyền có một thiếu niên nằm gác đầu lên đùi mỹ nhân, bên cạnh có hai nàng trẻ đẹp tuổi chừng đôi tám hầu hạ đấm bóp, nghĩ chắc là một vị quý quan ở vùng Tương Sở (tỉnh Hồ Bắc) nhưng thấy rất ít tùy tùng đi theo, chú mục nhìn kỹ thì ra là Trần Minh Doãn, bất giác bước ra mạn thuyền gọi ầm lên. Sinh nghe gọi bèn sai dừng chèo, bước ra đầu thuyền mời Lương qua. Lương vào thuyền thấy món ăn thừa đầy trên bàn, mùi rượu còn sực nức. Sinh lập tức sai dẹp hết, giây lát có năm ba tỳ nữ xinh đẹp dâng trà mời rượu, các món sơn hào hải vị đều là các thứ chưa từng trông thấy. Lương kinh ngạc hỏi "Mười năm không gặp, sao ông phú quý đến mức này?", sinh cười đáp "ông cho rằng Tú tài nghèo này không phát tích được à?". Lương hỏi người cùng uống rượu vừa rồi là ai, sinh đáp "Đó là người vợ quê mùa của ta”. Lương càng lấy làm lạ, hỏi đem gia quyến đi đâu, sinh đáp đi về miền tây. Lương định hỏi nữa thì sinh vội sai ca hát chuốc rượu. Một lời vừa buông ra thì trống chiêng vang lên điếc tai, trong có tiếng đàn sáo xen vào, không nghe thấy tiếng cười nói trò chuyện nữa.</p><p>Lương thấy gái đẹp đầy trước mắt, nhân lúc say lớn tiếng nói "Ông Minh Doãn có cho ta một phen hưởng thú tiêu hồn không?", sinh cười đáp “Túc hạ say rồi, nhưng có món tiền đủ cưới một người thiếp đẹp có thể tặng cho cố nhân". Rồi sai tỳ nữ dâng lên một viên ngọc minh châu, nói "Bấy nhiêu có mua nàng Lục Châu cũng không khó, để ông hiểu cho là ta không keo cú”. Kế từ biệt, nói "Ta đang gấp chút việc nhỏ, không thể cùng cố nhân trò chuyện lâu hơn”, rồi đưa Lương về thuyền, nhổ neo chèo thuyền đi thẳng. Lương về, qua nhà sinh nghe ngóng thì sinh đang uống rượu với khách, càng thêm ngờ vực liền hỏi "Mới hôm trước còn gặp ông trên hồ Động Đình, làm sao mà về mau như thế?" Sinh đáp "Làm gì có chuyện ấy?”. Lương bèn thuật rõ mọi việc đã gặp, cả tiệc đều khiếp sợ, sinh cười nói "Ông lầm rồi, chẳng lẽ ta có thuật phân thân sao?". Mọi người đều lấy làm lạ nhưng nghĩ mãi không sao hiểu nổi. Sau sinh thọ tới tám mươi mốt tuổi thì chết, người nhà tẩn liệm xong ngạc nhiên vì thấy quan tài quá nhẹ, mở ra xem thì chỉ có quan tài trống không mà thôi.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Ống trúc không chìm, khăn hồng đề vịnh, bên trong chuyện ấy đều có quỷ thần, mà cũng đều là một lần động lòng trắc ẩn làm cảm động tới trời mà thôi. Tới như cung thất thê thiếp, một mình hưởng sự thù phụng ở hai nơi thì thật không sao hiểu được. Xưa có kẻ mong được vợ hiền thiếp đẹp, con giỏi cháu hiền, lại thêm trường sinh bất tử, sinh đã được một nửa rồi vậy. Chẳng lẽ trong đám người tiên cũng có loại Phần Dương, Quý Luân<strong>*</strong> sao?</em></p><p></p><p>*Phần Dương, Quý Luân: Phần Dương tức Quách Tử Nghi thời Đường, có công lớn được phong là Phần Dương quận vương, giàu có quý hiển nổi tiếng một thời. Quý Luân tức Thạch Sùng thời Tấn, được phong là Vệ úy, cực kỳ giàu có, sinh hoạt rất xa xỉ.</p><p> </p><p><strong>135. Ngũ Thu Nguyệt</strong></p><p><strong>(Ngũ Thu Nguyệt) </strong></p><p>Vương Đỉnh tự Tiên Hồ người đất Tần Bưu (huyện Cao Bưu tỉnh Giang Tô) tính khảng khái, có sức khỏe, giao du rộng. Năm mười tám tuổi vợ chết, mỗi lần đi chơi xa thường cả năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất thưong yêu em, thường khuyên em không nên đi xa, muốn hỏi vợ cho. Sinh không nghe, thuê thuyền tới Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán trọ, nhìn thấy sóng nước êm đềm, núi Kim Sơn ngay trước mắt, trong lòng thích lắm. Hôm sau bạn tới mời về nhà mình ở, sinh từ chối không đi. Được hơn nửa tháng, đêm mơ thấy một nữ lang khoảng mười bốn mười lăm tuổi, dung mạo xinh đẹp lên giường cùng ngủ, tỉnh dậy thì thấy di tinh, lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên.</p><p>Đến đêm lại mơ thấy như thế, liền ba bốn đêm, trong lòng rất lạ, không dám tắt đèn, tuy nằm im trên giường mà vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt đã mơ thấy cô gái lại tới, đang ôm ấp chợt giật mình tỉnh dậy, vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái đẹp tiên vẫn đang trong vòng tay. Cô gái thấy sinh tỉnh, có vẻ thẹn thùng sợ sệt. Sinh tuy biết nàng không phải là người nhưng trong lòng rất thích, không buồn hỏi han, cứ ra sức vần vò. Cô gái như không chịu nổi, nói "Cuồng bạo như thế chẳng lạ gì người ta không dám nói rõ”. Sinh bấy giờ mới hỏi kỹ, nàng đáp "Thiếp họ Ngũ tên Thu Nguyệt. Thân phụ là bậc danh nho, tinh thông Dịch số, rất thương yêu thiếp nhưng thường nói thiếp không thọ nên không hứa gả cho ai cả. Về sau đến năm thiếp mười lăm tuổi quả chết yểu, ông đào huyệt ở phía đông gian gác này mà chôn, không đắp mộ cũng không có bia, chỉ đặt cạnh quan tài một phiến đá đề "Con gái là Thu Nguyệt, chôn không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh". Đến nay đã ba mươi năm thì chàng vừa tới, thiếp rất mừng muốn tự ra mắt nhưng còn thẹn thùng nên phải thác vào giấc mộng đó thôi”.</p><p>Vương cũng mừng, lại đòi hành sự tiếp, nàng nói "Thiếp cần một ít khí dương để mong sống lại, thật không ngại gì chuyện gỉó mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, cần gì phải cứ đêm nay” rồi trở dậy ra đi. Đêm sau lại tới, ngồi đối diện cười đùa vui vẻ như quen nhau từ lâu kế tắt đèn lên giường, thấy không khác gì người sống. Có điều khi nàng trở dậy thì tinh khí chảy ra thấm ướt cả chăn nệm. Một đêm trăng sáng vằng vặc, cùng dạo bước trong sân, sinh hỏi cô gái dưới cõi âm có thành quách không, nàng đáp “Cũng như trên trần thôi. Thành phủ dưới cõi âm không ở đây mà cách độ ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày". Sinh hỏi người sống tới xem được không, nàng đáp "Được” .Sinh xin tới xem, nàng bằng lòng, bèn nhân ánh trăng ra đi.</p><p>Cô gái nhẹ nhàng đi như gió, Vương cố sức đuổi theo, giây lát tới một nơi, nàng nói không còn xa nữa. Vương nhướng mắt nhìn mà không thấy gì, cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mi mắt, sinh mở ra thấy sáng gấp mấy lần lúc bình thường, nhìn cảnh ban đêm mà rõ như ban ngày. Chợt thấy tường thành ẩn hiện trong mây mù, người trên đường đông đúc như đi chợ. Kế có hai tên lính trói ba bốn người giải ngang, lấy làm lạ vì người đi cuối giống hệt anh, rảo bước tới gần thì đúng là anh. Giật mình hỏi sao anh tới đây, anh thấy sinh ứa nước mắt ướt không biết có việc gì mà bị bắt giải đi. Vương tức giận nói "Anh ta là người quân tử giữ lễ sao lại bị trăng trói như vậy?” rồi xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không chịu lại tỏ vẻ rất ngạo nghễ, sinh tức tối toan gây sự, anh ngăn lại nói "Đây là lệnh quan, phải tuân theo để giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ hạch xách khổ lắm, em về nên lo tính cho".</p><p>Sinh nắm tay anh khóc thất thanh, tên lính giận kéo mạnh cái gông, anh ngã ngay xuống. Sinh thấy thế lửa giận đầy bụng không sao nhịn được liền rút ngay thanh bội đao chém đứt đầu y, tên kia thét lên, sinh lại chém luôn. Cô gái cả kinh nói "Giết sai nha của quan là tội không thể tha được, nếu chậm trễ sẽ có tai họa. Xin chàng lập tức tìm thuyền về bắc, về tới nhà đừng hạ lá phướn xuống, đóng chặt cửa không cho ai ra vào, sau bảy ngày thì không lo gì nữa". Vương bèn dắt anh đi, ngay trong đêm thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vàng về bắc. Về thấy khách khứa tới viếng tang, biết là anh đã chết thật, liền đóng cổng cài then, vừa vào thì anh đã biến mất, vào tới phòng thì người chết đã tỉnh lại, gọi "Ta đói chết mất, đem mì lại mau!". Lúc đó anh đã chết hai ngày, người nhà đều kinh hãi, sinh bèn kể rõ mọi chuyện. Bảy ngày sau mở cửa bỏ lá phướn, người ta mới biết anh sinh đã sống lại, họ hàng bạn bè kéo tới hỏi thăm chỉ bịa đặt trả lời.</p><p></p><p>Lại nghĩ tới Thu Nguyệt, càng thêm nhưng nhớ bèn quay xuống nam. Tới gian gác cũ thắp đèn ngồi đợi rất lâu mà cô gái vẫn không tới, thiu thiu sắp ngủ thì thấy một người đàn bà tới nói "Nương tử Thu Nguyệt nhắn với lang quân rằng hôm trước vì hai tên sai nha bị giết, thủ phạm trốn mất, họ bắt dược nương tử hiện đang giam trong ngục, bọn ngục tốt nhìn thấy là hành hạ, ngày ngày trông chờ lang quân, xin nghĩ cách cứu giúp cho". Vương buồn rầu phẫn uất liền đi theo người đàn bà. Tới một tòa thành, theo cửa Tây vào, người đàn bà chỉ một cái cổng nói "Nương tử đang bị giam trong đó". Sinh vào thấy có rất nhiều phòng, tù phạm rất đông nhưng không có Thu Nguyệt. Lại vào một cửa nhỏ, thấy trong gian phòng hẹp có đèn lửa, Vương tới gần cửa sổ nhìn vào thì thấy Thu Nguyệt ngủ trên giường lấy tay áo che mặt kêu khóc, bên cạnh có hai tên ngục tốt đang vuốt má nắm chân nàng trêu chọc. Cô gái kêu khóc càng thảm thiết, một tên ôm cổ nàng nói “Đã là tội phạm mà còn giữ trinh tiết à?," Sinh nổi giận không nói không rằng, rút đao xông vào chém mỗi đứa một nhát như phát cỏ rồi cướp lấy cô gái chạy ra, may là không ai biết.</p><p>Vừa tới quán trọ thì sinh chợt tỉnh dậy, đang lạ lùng vì giấc mộng dữ thì thấy Thu Nguyệt chảy nước mắt đứng cạnh. Sinh giật mình trỗi dậy kéo nàng ngồi, kể lại giấc mộng. Cô gái nói "Đó là thật chứ không phải mộng đâu”. Sinh kinh sợ nói "Vậy thì làm sao bây giờ?”, cô gái than "Đây cũng là số phận, chờ đến ngày cuối tháng thì thiếp mới được sống lại, nhưng giờ việc đã gấp thì làm sao chờ được? Xin đào ngay chỗ chôn thiếp rồi đưa thiếp cùng về, hàng ngày cứ gọi tên thiếp thì qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng chưa đủ thời hạn, xương mềm chân yếu không thể lo việc nhà giúp chàng thôi". Nói xong vội vàng định đi, chợt quay lại nói "Thiếp suýt nữa thì quên mất, nếu âm ty đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói ba mươi năm sau có thể cho hai vợ chồng cùng đeo”. Rồi lấy giấy bút vẽ mau hai lá bùa, nói "Một lá thì chàng đeo, còn một lá thì dán vào lưng thiếp".</p><p>Sinh đưa nàng ra, tới chỗ nàng biến mất thì đào lên, khoảng hơn một thước thấy có chiếc quan tài đã mục nát, bên cạnh có tấm bia nhỏ như lời nàng nói. Mở quan tài xem thấy nhan sắc nàng như còn sống bèn bế vào trong phòng, xiêm y theo gió tan hết. Dán bùa xong sinh lấy chăn bọc kín lại, cõng ra bờ sông gọi thuyền ghé vào, nói thác rằng em gái ốm nặng, phải đưa về nhà. May được gió nam thổi mạnh, vừa vừa sáng đã về tới nhà, bế nàng vào đặt nằm đâu đấy xong mới nói với anh chị, cả nhà nhớn ngác nhìn nhau nhưng cũng không ai dám nói thẳng là sự huyễn hoặc. Sinh mở chăn, gọi to Thu Nguyệt, đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng ngày càng ấm dần, ba ngày thì sống lại, bảy ngày sau thì đi lại được, bèn thay quần áo ra chào chị dâu, lãng đãng không khác gì thần tiên.</p><p></p><p>Nhưng ngoài mười bước thì phải có người đỡ cho đi, nếu không thì xiêu vẹo theo gió như muốn ngã, người ta nhìn thấy cho rằng nàng mang bệnh như thế lại càng đẹp thêm. Nàng thường khuyên sinh "Oan nghiệt của chàng rất sâu, nên tích đức tụng kinh để sám hối, nếu không sợ không sống lâu được". Sinh vốn không tin Phật, lúc ấy bèn dốc lòng quy y, về sau không việc gì cả.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Ta muốn tâu với triều đình xin định luật lệ là phàm giết sai nha thì giảm tội ba bậc so với giết dân thường, vì bọn sai nha thì không ai là không có tội đáng giết cả. Cho nên kẻ giết được bọn sai nha ắt là người tốt, dù phải trừng trị chút ít cũng không nên đối xử tàn ác. Huống chi dưới âm ty không có phép tắc nhất định, giả như trong đó có kẻ xấu thì vạc dầu núi kiếm cũng không phải là tàn ác. Nếu như lòng người lấy làm vui sướng thì Diêm Vương cho là điều lành, chứ há kẻ có tội bị âm ty tróc nã mà may mắn trốn thoát được sao? </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 136 - 137 -</strong></p><p>Công Chúa Liên Hoa</p><p>(Liên Hoa Công Chúa)</p><p></p><p>Đậu Húc tự Hiểu Huy người huyện Giao Châu (tỉnh Sơn Đông), ngủ trưa mơ thấy một người mặc áo vải tới đứng cạnh giường nhìn ngó quanh quẩn như muốn nói điều gì, sinh hỏi thì đáp tướng công mời ông tới chơi. Sinh hỏi tướng công là ai, người ấy nói "Nhà cũng ở cạnh đây". Sinh theo người ấy ra đi, vòng qua tường nhà mình thì tới một nơi lầu gác trùng trùng nối nhau muôn lớp, quanh co qua lại thấy có muôn nhà ngàn cổng khác xa nhân thế. Lại thấy cung tần nữ quan đi lại nườm nượp, đều hỏi người áo vải "Đậu lang tới đó à?", người áo vải gật đầu. Chợt một vị quý quan ra đón, chào hỏi rất cung kính, vào tới sảnh đường, sinh hỏi “Trước nay chưa từng quen biết nên không tới bái kiến, nay được quá yêu đón rước khiến ta rất e ngại”. Vị quý quan đáp "Đức vua của ta thấy tiên sinh dòng dõi thanh bạch vẫn hằng hâm mộ rất muốn gặp mặt". Sinh càng sợ hãi, hỏi đại vương là ai, vị quý quan đáp lát nữa sẽ biết.</p><p></p><p>Không bao lâu có hai nữ quan tới, cầm hai lá cờ dẫn sinh đi, vào mấy lần cửa thì thấy một bậc vương giả ngồi trên điện. Vương thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Ngẩng nhìn thấy trên điện có tấm biển đề hai chữ Quế Phủ, sinh bối rối không biết nói gì. Vương nói "Là láng giềng gần gũi, tình ắt phải khắng khít, ông cứ tự nhiên đừng ngại", sinh dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên nhưng không có chiêng trống, âm thanh rất nhỏ. Một lát vương chợt nhìn tả hữu nói "Trẫm có một câu phiền các khanh đối: <em>Tài nhân đăng quế phủ</em> (Tài nhân lên phủ quế)". Cả tiệc còn đang nghĩ, sinh đối ngay “<em>Quân tử ái liên hoa</em> (Quân tử thích hoa sen)” Vương nói “Liên Hoa là tiểu tự của công chúa, sao lại trùng hợp như thế, há không phải là túc duyên sao. Hãy truyền gọi công chúa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, công chúa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Liên Hoa", công chúa chào xong trở vào.</p><p></p><p>Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Vương như hơi biết ý, nói "Con gái ta cũng có thể sánh đôi với ông nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?". Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân nói "Vương mời mà ông chưa thấy vương nói mà ông chưa nghe sao?". Sinh thẫn thờ đứng lên bước ra nói "Thần đội ơn lớn, không ngờ quá say thất thố, xin được tha thứ, nhưng trời đã xế, đại vương lại bận việc, thần xin cáo từ". Vương đứng dậy nói "Được gặp mặt bậc quân tử, ta rất thỏa lòng, sao lại vội cáo từ như thế? Nhưng khanh đã không muốn ở ta cũng không dám ép, nếu nghĩ tới nhau ngày khác quả nhân sẽ lại mời", rồi sai nội quan đưa sinh ra. Trên đường nội quan nói "Vừa rồi vương nói công chúa có thể sánh đôi với ông, như là có ý muốn chọn làm Phò mã, sao ông im lặng không nói gì?” Sinh giẫm chân hối hận, mỗi bước mỗi thở dài than tiếc, kế về tới nhà thì chợt tỉnh dậy, thấy mặt trời đã lặn, ngồi ngây ra nhớ lại giấc mộng rất rõ ràng.</p><p></p><p>Tối đến ra nhà học tắt đèn ngủ sớm, có ý đợi giấc mộng cũ nhưng không thấy gì, đành thở than hối tiếc mà thôi. Một đêm sinh ngủ chung với một người bạn chợt thấy viên nội quan hôm trước tới nói đại vương sai mời, sinh mừng rỡ đi theo, vào gặp vương lạy phục xuống bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi bên cạnh, nói "Từ khi chia tay đến nay biết khanh nhọc lòng tơ tưởng, muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, nghĩ chắc khanh không chê bỏ", sinh lập tức lạy tạ. Vương liền sai các quan học sĩ đại thần ngồi tiếp rượu, xong tiệc cung nhân bước lên nói "Công chúa đã trang điểm xong”, liền thấy mấy mươi cung nữ đỡ công chúa ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!”.</p><p></p><p>Sáng ra sinh đùa trang điểm cho công chúa, kế lấy dây lưng đo quanh hông nàng, lại gang tay đo chân. Công chúa cười hỏi “Chàng điên à?", sinh đáp “Ta nhiều lần bị giấc mộng đánh lừa nên phải nhớ kỹ để nếu là giấc mộng cũng đủ mà nhớ nhau”. Đang đùa giỡn thì một cung nữ chạy mau vào nói "Yêu quái vào cửa cung, đại vương đã lánh ra biệt điện, tai vạ tới rồi” Sinh cả kinh vội tới gặp vương, vương cầm tay sinh khóc nói "Được quân tử không bỏ, đang muốn sum họp lâu dài, nào ngờ trời giáng tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính sao đây?". Sinh sửng sốt hỏi sao nói thế, vương lấy một bản tâu trên án trao cho, sinh mở ra đọc thấy viết rằng "Hàm Hương điện Đại học sĩ thần Hắc Dục xin tâu về việc yêu quái tai dị phi thường phải sớm dời đô để giữ vận nước. Theo lời báo của Hoàng môn quan thì ngày mùng sáu tháng năm có một con mãng xà dài ngàn trượng tới chiếm giữ ngoài cung, nuốt sống thần dân trong ngoài tất cả hơn một vạn ba ngàn tám trăm mạng, đi qua nơi nào thì lâu đài đều thành gò bãi vân vân. Thần lấy can đảm ra xem quả thấy rõ rắn tinh đầu tựa núi non, mắt như sông biển, ngẩng đầu thì nuốt hết cung điện, duỗi thân thì sụp cả lâu đài. Thật là hung dữ ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu nguy trong sớm tối, xin Hoàng thượng sớm đưa cung quyến dời tới nơi yên ổn".</p><p></p><p>Sinh đọc xong tái cả mặt, liền có cung nhân chạy vào cấp báo yêu quái tới, cả điện khóc lóc kêu gào vô cùng thê thảm. Vương cuống quýt không biết làm sao, chỉ khóc ngoảnh lại nói “Phiền tiên sinh lo cho tiểu nữ!". Sinh nghẹn ngào về phòng thì công chúa đang cùng tả hữu ôm đầu kêu khóc, thấy sinh vào liền nắm áo nói "Lang quân tính sao cho thiếp đây”. Sinh đau xót muốn chết, cầm tay công chúa nói “Tiểu sinh nghèo hèn thẹn không có nhà vàng, chỉ có ba gian nhà tranh, cứ cùng về đó tạm lánh được không?”. Công chúa rơi lệ nói "Việc gấp rồi còn lựa chọn gì nữa, xin dẫn thiếp đi mau!”. Sinh bèn đỡ nàng ra đi, không bao lâu về tới nhà. Công chúa nói "Nhà này rộng lớn yên ổn còn hơn nước cũ. Nhưng thiếp theo chàng tới đây còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu, xin xây cho một gian nhà riêng để cả nước theo về ở". Sinh lấy làm khó khăn, công chúa gào khóc nói "Không cứu giúp được lúc nguy cấp, thì chàng làm được gì?" Sinh an ủi qua loa rồi vào phòng trong, công chủa nằm phục xuống giường kêu khóc thảm thiết không sao khuyên giải, sinh nóng lòng mà không có cách nào, chợt giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng.</p><p></p><p>Nhưng bên tai vẫn còn tiếng than khóc nức nở chưa dứt, nghe kỹ thì không phải là tiếng người mà là hai ba con ong bay lượn vo ve trên gối, bèn kêu to là chuyện lạ. Người bạn hỏi han, sinh kể lại giấc mộng, bạn cũng kinh ngạc lạ lùng cùng trở dậy nhìn mấy con ong thấy cứ bay đậu trên áo sinh, đuổi cũng không đi. Bạn khuyên làm tổ cho chúng ở, sinh theo lời mướn thợ về làm. Vừa dựng xong hai vách tổ đã thấy đàn ong từ ngoài tường liên tiếp bay vào, nóc tổ chưa lợp thì đã đậu đen đặc trong đó. Tìm xem chúng từ đâu bay tới thì là ở cái vườn cũ của ông già hàng xóm, trong vườn có một tổ ong đã hơn ba mươi năm, sinh đẻ rất nhiều. Có người kể việc của sinh cho ông già nghe, ông ra xem thấy tổ ong vắng ngắt. Giở vách tổ lên nhìn thấy có con rắn dài hơn một trượng liền bắt giết đi, mới biết con mãng xà ngàn trượng chính là nó. Từ ngày ong vào ở nhà sinh, sinh nở càng đông đúc hơn.</p><p></p><p><strong>137. Cô Gái Áo Xanh</strong></p><p><strong>(Lục Y Nữ)</strong></p><p></p><p>Vu sinh tên Cảnh tự Tiểu Tống là người huyện ích Đô (tỉnh Sơn Đông). Ra học ở chùa Lễ Tuyền, đêm đang đọc sách chợt một cô gái đứng ngoài cửa sổ khen "Vu tướng công chăm học thật?". Vu ngạc nhiên đứng lên nhìn, thấy nàng khoác áo xanh mặc váy dài, xinh xắn không ai bằng. Vu biết không phải là người, hỏi kỹ quê quán thì nàng nói "Chàng nhìn thiếp thì biết không phải là kẻ ăn thịt người, hỏi kỹ làm gì?”. Vu thấy yêu mến, bèn cùng đi ngủ, cởi tới chiếc áo lót mình bằng lụa thấy eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chét tay. Đêm gần tàn thì cô gái trở dậy ra đi, từ đó đêm nào cũng tới.</p><p></p><p>Một đêm cùng uống rượu, lúc trò chuyện thấy nàng rất sành âm luật, Vu nói "Giọng nàng êm ái, nếu hát một khúc ắt người nghe phải tiêu hồn". Cô gái cười nói "Chẳng dám hát vì sợ chàng tiêu hồn đó thôi". Vu cố nài nỉ, nàng nói "Thiếp chẳng tiếc gì, chỉ sợ người khác nghe thấy nếu chàng đã thích thì xin phô bày cái dở, nhưng xin hát nhỏ để tỏ ý thôi đấy!". Rồi lấy hài nhè nhẹ đánh nhịp, dựa ghế hát rằng "Thụ thượng ô cựu minh, Trám nô trung dạ tán. Bất oán tú hài tư, Chỉ khủng lang vô bạn” (Trên cây quạ kêu ầm, Thiếp nửa đêm chạy tản. Chẳng oán hài ướt đầm, Chỉ e chàng không bạn). Tiếng hát nhỏ như sợi tơ, chỉ nghe được loáng thoáng, nhưng lắng nghe thì thấy uyển chuyển mượt mà làmrung động lòng Người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra, nói "Coi chừng bên ngoài có người", rồi đi quanh nhà xem xét một vòng mới quay vào. Sinh hỏi "Sao nàng lo lắng quá thế?”, nàng cười đáp "Ngạn ngữ có câu Con ma sống trộm thường sợ người, là nói tới thiếp đấy!”.</p><p></p><p>Kế cùng đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói "Số phận nhỏ nhoi có lẽ chấm dứt ở đây chăng?”. Vu vội hỏi han, cô gái đáp "Thiếp thấy trong lòng lo lắng, trong lòng lo lắng thì lộc số của thiếp đã hết rồi". Vu an ủi rằng "Trong lòng lo lắng hay mi mắt máy động là chuyện thường tình, sao nàng vội nói thế?”. Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Đêm vừa tàn, cô gái khoác áo bước xuống giường, đang định mở cửa lại bồi hồi quay vào nói “Không biết có chuyện gì mà thiếp thấy sợ quá, xin tiễn thiếp ra cửa", Vu liền trở dậy đưa nàng ra tới ngoài cửa. Cô gái nói "Chàng cứ đứng đây trông cho thiếp, thiếp vượt khỏi tường rồi hãy trở vào”, Vu đáp "Được”. Thấy cô gái đã rẽ qua hành lang không thấy bóng dáng đâu nữa, đang định quay vào thì nghe tiếng nàng kêu cứu rất gấp, Vu vội chạy tới nhưng nhìn quanh không thấy đâu. Nghe tiếng kêu vọng ra từ mái hiên, ngẩng đầu nhìn kỹ thì thấy một con nhện to bằng viên đạn đang bắt một con vật nhỏ, con vật đang rên rĩ đau đớn. Vu phá mạng nhện khều xương, gỡ bỏ tơ nhện quấn quanh thì là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Bèn mang về phòng, đặt lên đầu bàn cho nghỉ ngơi, hồi lâu con ong mới bò được, từ từ leo lên chiếc nghiên nhúng mình vào mực, kế ra nằm mọp xuống ghế, bò thành chữ "tạ", giương cánh mấy lần rồi theo song cửa sổ bay đi từ đó không trở lại nữa.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 138 - 139 -</strong></p><p>Nàng Ba Hoa Sen</p><p>(Hà Hoa Tam Nương Tử)</p><p></p><p>Tông Sương Nhược, người đất Hồ Châu (huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang) là kẻ sĩ nhân. Một ngày mùa thu đi thăm đồng, thấy có đám lúa rậm lay động rất mạnh, lấy làm ngờ vục, lội xuống ruộng tới xem thì ra là một đôi trai gái đang ân ái với nhau, phì cười quay lên. Kế người con trai xấu hổ thắt quần hấp tấp đi thẳng, cô gái cũng đứng dậy, Tông nhìn kỹ thấy rất xinh xắn, trong lòng ưa thích cũng muốn nọ kia nhưng ngại mang tiếng suồng sã. Bèn tới cạnh phủi quần áo cho, nói "Chơi đùa trong dâu có vui không?” nàng cười không đáp. Tông đứng sát vào nàng, khẽ vén áo lên thấy da thịt nõn nà bèn vuốt ve sờ soạng từ trên tới dưới. Cô gái cười nói "Tú tài cổ hủ muốn làm gì thì cứ làm, sờ mó lung tung làm gì?". Tông hỏi họ tên, nàng đáp "Một bận gió xuân rồi thì đường ai nấy đi, cần gì hỏi rõ, định lưu tên tuổi để lập phường trinh sao?". Tông nói "Ngủ với nhau trên đồng trong cỏ là việc bọn đầy tớ chăn heo vẫn làm, chứ ta không quen. Thấy nàng xinh đẹp, cho dù hẹn hò riêng tư cũng phải tự trọng, sao lại qua quít như thế?”. Cô gái nghe thế tỏ vẻ bằng lòng, Tông nói "Nhà vắng cách đây không xa, xin mời qua chơi". Cô gái nói "Ta đi đã lâu, sợ người ta ngờ, đến khuya thì được”, kế hỏi kỹ Tông đường sá nhà cửa rồi theo đường tắt rảo bước đi luôn.</p><p></p><p>Tối đến cô gái quả tới nhà học của Tông, cùng nhau mây mưa vô cùng đằm thắm, dần dà hết ngày này tháng khác mà không ai hay biết. Gặp lúc có nhà sư Phiên nghỉ lại ở chùa trong thôn gặp Tông kinh ngạc hỏi “Người ông có tà khí, đã gặp việc gì rồi?”, Tông đáp không có gì. Qua vài hôm chợt bị bệnh, hàng đêm cô gái đều mang trái cây thức ăn tới ân cần chăm sóc như vợ chồng, nhưng đi ngủ thì cứ ép Tông phải ăn nằm với mình. Tông mắc bệnh không sao kham nổi, nghi nàng không phải là người nhưng cũng không có cách nào dứt ra được, nhân nói "Hôm trước hòa thượng nói ta bị yêu tinh mê hoặc, nay quả bị bệnh, lời ấy nghiệm rồi. Ngày mai ta sẽ mời ông tới xin bùa yểm” Cô gái biến sắc, Tông càng ngờ vực, hôm sau sai người đến kể tình thật với nhà sư. Sư nói "Đó là hồ, phép thuật còn kém, cũng dễ bắt thôi”, rồi vẽ hai đạo bùa đưa cho, dặn "Về lấy một cái vò sạch đặt cạnh giường, dán bùa vào miệng vò, đợi khi hồ bị hút vào thì úp ngay một cái chậu lên, dán bùa lên chậu rồi đổ nước vào bắc lên bếp mà đun thì có thể giết được nó".</p><p></p><p>Gia nhân làm theo lời, đến khuya cô gái mới tới, lấy quýt vàng từ tay áo ra, vừa tới cạnh giường thăm hỏi Tông, chợt nghe miệng vò kêu soạt một tiếng, cô gái đã bị hút ngay vào. Gia nhân nhảy ra bịt miệng vò dán bùa lên, đang định đem đun. Tông thấy quýt vàng tung tóe trên đất, nghĩ lại tình nghĩa chợt cảm động bèn sai thả ra. Vừa gỡ bùa mở chậu thì cô gái trong vò chui ra, run rẫy sợ sệt cúi đầu nói “Thiếp tu luyện sắp thành đại đạo mà chỉ suýt nữa hóa ra tro than. Chàng thật là người nhân đức, thiếp thề sẽ báo đền”, rồi đi. Vài ngày sau bệnh Tông càng nặng, gia nhân ra chợ mua quan tài, trên đường gặp một cô gái hỏi "Ngươi có phải người nhà của Tông Sương Nhược không?”, người gia nhân đáp phải. Cô gái nói “Tông lang là biểu huynh của ta, nghe nói bị bệnh nặng cũng định tới thăm nhưng lại gặp việc không đi được, có một thang linh dược, phiền đưa về giùm”, người gia nhân bèn nhận lấy đem về. Tông vì trong họ hàng bên ngoại không có chị em nào nên biết là hồ đền ơn. Uống thuốc xong quả nhiên đỡ hẳn, mười ngày thì bình phục, rất cám ơn hồ, ngẩng lên không khấn khứa xin được gặp lại một lần.</p><p></p><p>Một đêm Tông đang đóng cửa ngồi uống rượu một mình chợt nghe có tiếng búng tay vào cửa sổ, vội xô cửa bước ra xem thì là cô gái hồ. Tông cả mừng chắp tay cảm tạ, kéo vào cùng uống rượu. Cô gái nói “Từ khi chia tay đến nay cứ canh cánh trong lòng không biết lấy gì báo đền ơn lớn. Nay đã tìm được cho chàng một mối duyên lành, vậy đã hết tội với chàng chưa?". Tông hỏi là ai, nàng đáp "Chàng không biết được đâu. Giờ Thìn sáng mai chàng cứ tới Nam Hồ, nếu thấy cô gái hái ấu đội khăn tơ trắng thì hãy chèo thuyền đuổi mau theo. Nếu lạc mất cứ xem bên đê có bông sen nào cuống ngắn ẩn dưới tán lá thì hái mang về, hơ lửa nến vào rễ sẽ được một người vợ đẹp, lại thêm tuổi thọ". Tông nhớ kỹ lời dặn, kế cô gái cáo biệt, Tông cố níu kéo. Nàng nói "Từ khi gặp tai ách chợt ngộ ra đạo lớn, nay đâu còn tham tình chăn gối mà chuốc lấy oán thù?", rồi nghiêm nét mặt chào đi.</p><p></p><p>Tông theo lời nàng dặn, tới Nam Hồ thấy gái đẹp hái sen trong đầm rất đông, có một nàng buông rủ bím tóc, mặc áo trắng như băng, xinh đẹp tuyệt trần. Giục chèo thuyền mau theo, chợt nàng mất hút liền ghé vào đám sen ven hồ, quả có một nhánh sen hồng cao không đầy một thước liền hái lấy mang về. Tới nhà đặt lên ghế, cắm nến bên cạnh định thắp lửa lên hơ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hóa thành một mỹ nhân. Tông vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ lạy phục xuống, cô nói “Chàng ngây kia, ta là hồ đây, sẽ ám chàng cho mà xem". Tông không tin, nàng hỏi "Ai chỉ cho chàng làm như thế?", Tông đáp "Tự tiểu sinh biết nàng, cần gì ai chỉ?" rồi nắm lấy cánh tay nàng kéo vào lòng, cô gái theo tay ngã xuống đất hóa thành hòn đá lạ cao khoảng một thước, bốn mặt lấp lánh. Tông bèn bưng đặt lên bàn, đốt hương vái lạy khấn khứa. Đến đêm đóng cửa cài then thật chặt, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại thì không phải là đá mà là một cái áo khoác bằng the trắng thoang thoảng mùi hương, trải ra xem thì những chỗ cổ áo vạt áo vẫn còn vết người mặc. Tông ôm vào giường đắp chăn nằm ngủ, tối trở dậy thắp đèn, quay lại thì cô gái bím tóc đã nằm trên giường. Tông mừng quá nhưng sợ nàng lại biến hóa nên năn nỉ khẩn cầu rồi mới mon men tới. Cô gái cười nói “Thật là nghiệt chướng, chẳng biết kẻ nào lắm lời lại chỉ cho gã khùng này làm chuyện chết người như thế”, rồi không chống cự nữa.</p><p></p><p>Nhưng trong lúc ân ái có lúc như không chịu nổi, nhiều lần xin thôi. Tông không nghe, nàng nói "Nếu như thế ta sẽ biến đi", Tông sợ bèn thôi. Từ đó hai ngườí rất hòa hợp, mà vàng lụa thường đầy trong rương, cũng không biết từ đâu ra. Cô gái gặp người khác chỉ dạ dạ như không thốt được thành lời, Tông cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng, tính ngày lâm bồn thì vào phòng, dặn Tông đóng chặt cửa không cho ai vào rồi lấy dao tự rạch bụng lấy con ra, bảo Tông xé lụa băng lại, qua đêm thì lành. Được sáu bảy năm nàng nói với Tông “Thiếp đã trả hết nợ ân tình, xin từ biệt”. Tông nghe thế rơi nước mắt nói "Lúc nàng về thì ta nghèo khó không thể tự lập, nhờ nàng mới hơi được thong thả sao nỡ nói chia ly sớm như vậy? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ cũng là điều đáng hận”. Cô gái cũng buồn rầu nói "Có hợp ắt có tan, đó là lẽ thường. Con ta có phúc tướng, chàng cũng được thọ, còn mong gì nữa? Thiếp vốn họ Hà, nếu chàng thấy nhớ nhưng cứ ôm vật cũ của thiếp gọi "Nàng Ba Hoa sen" thì sẽ thấy mặt”. Dứt lời bước ra nói "Thiếp đi đây!".</p><p>Tông đang hoảng hốt quay nhìn thì nàng đã bay lên cao quá đầu người. Tông vội nhảy lên níu giữ, nắm được chiếc hài, hài tuột ra rơi xuống đất hóa thành con chim én bằng đá đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh, liền nhặt lấy cất đi. Kiểm lại trong hòm thấy chiếc áo khoác the trắng lúc nàng mới về vẫn còn, mỗi khi nhớ nhưng ôm lấy gọi "Nàng Ba" thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện ra như lúc bình sinh, chỉ không nói lời nào mà thôi. Bạn ta nói Hoa mà biết nói ra nhiều chuyện, Đá chẳng nên lời mới đáng người, câu thơ hay ấy của Phóng Ông<strong>*</strong> là để tả nàng đấy.</p><p></p><p>*Phóng Ông: tức Lục Du, hiệu Phóng ông, nhà thơ nổi tiếng thời Nam Tống.</p><p> </p><p><strong>139. Kim Sinh Sắc</strong></p><p><strong>(Kim Sinh Sắc)</strong></p><p></p><p>Kim Sinh Sắc người đất Tấn Ninh (huyện Lâm Phần tỉnh Sơn Tây), lấy vợ người họ Mộc cùng thôn, sinh được một con trai mới một tuổi. Kim chợt mắc bệnh nặng, tự nghĩ ắt phải chết, nói với vợ rằng "Ta chết rồi nàng nên lấy chồng khác, đừng thủ tiết làm gì". Vợ nghe thế ngọt ngào thề thốt, hứa sẽ thủ tiết đến chết. Kim gọi mẹ tới nói "Con chết rồi phiền mẹ nuôi thằng bé, đừng bắt nàng phải thủ tiết", mẹ khóc gật đầu. Kế quả Kim chết, bà Mộc tới điếu tang xong nói với mẹ Kim rằng "Trời làm tai họa, con rể chết yểu, con gái ta còn trẻ, bà định làm thế nào?". Mẹ Kim đang đau đớn, nghe bà ta nói thế không kìm được giận dữ, lớn tiếng đáp "Nó phải thủ tiết", bà Mộc có vẻ thẹn thùng nín bặt. Tối đến ngủ với con gái, nói riêng với nàng rằng "Người ta ai cũng có chồng, mà con còn đủ cả chân tay, lo gì không có chồng được? Con gái nhỏ không sớm lo lấy chồng khác, cứ chăm chăm ôm bọc tã nuôi con chẳng phải ngu sao? Nếu mẹ chồng con bắt phải thủ tiết, thì không nên đối xử tư tế”, Mẹ Kim bước qua nghe được câu cuối càng thêm bực dọc, sáng hôm sau nói với bà Mộc rằng "Con trai ta có dặn lại là không nên bắt vợ nó thủ tiết, nay bà đã gấp gáp không chờ được, thì ta bắt phải thủ tiết", bà Mộc tức giận ra về.</p><p></p><p>Mẹ Kim đêm nằm mơ thấy con về sa nước mắt khuyên nhủ, trong lòng lấy làm lạ. Bèn sai người nói với họ Mộc, hẹn chôn xong thì cho vợ Kim đi lấy chồng, nhưng hỏi các thầy tướng số đều nói rằng năm nay hướng mộ như thế lấy chồng không có lợi. Vợ Kim tự nghĩ mình còn trẻ, trong lúc để tang vẫn không quên son phấn. Ở nhà chồng thì còn mặc đồ trắng, chứ lúc về thăm nhà thì ăn mặc lộng lẫy, mẹ Kim biết được rất không hài lòng, nhưng vì thấy trước sau nàng cũng lấy người khác nên phải nhịn, từ đó người đàn bà càng phóng túng.</p><p></p><p>Trong thôn có tên vô lại là Đổng Quý, thấy vợ Kim đẹp thích lắm, đưa tiền đút lót cho người đàn bà láng giềng xin tỏ ý giùm. Nửa đêm từ nhà bà ta trèo tường vào tới thẳng phòng người đàn bà rồi ngủ với nhau, đi lại suốt tuần, tiếng xấu lan ra chỉ có mẹ Kim là không biết. Phòng người đàn bà ban đêm chỉ có một đứa tớ gái nhỏ, là tâm phúc của thị. Một đêm nghe trong quan tài có tiếng động lớn như tiếng pháo nổ, đứa tớ gái ngủ ở giường ngoài thấy người chết từ sau trướng bước ra, mang kiếm vào phòng trong, kế nghe hai người khiếp sợ rú lên. Giây lát thấy Đổng trần truồng chạy vụt ra, không bao lâu thấy Kim nắm tóc vợ kéo ra, người đàn bà kêu khóc. Mẹ Kim giật mình tỉnh dậy, thấy người đàn bà trần truồng chạy ra, đang định đóng cửa, hỏi không thấy đáp, bước ra nhìn theo thì không nghe thấy gì nữa, cũng chẳng biết là đi đâu. Trở vào phòng người đàn bà thì đèn đuốc còn sáng, thấy có đôi giày đàn ông bèn gọi đứa tớ gái, nó run rẩy bước ra kể lại chuyện lạ, mẹ Kim chỉ còn run sợ ngạc nhiên mà thôi.</p><p></p><p>Đổng chạy trốn qua ngang nhà láng giềng, núp lại dưới góc tường, hồi lâu nghe tiếng người dần im mới đứng lên. Trên người không còn tấc vải mà đêm lạnh giá, vào nhà người đàn bà láng giềng định mượn quần áo. Thấy trong nhà có một gian phòng, hai cánh cửa chỉ khép hờ bèn chui vào. Mò mẫm trên giường trúng bàn chân con gái, biết là con dâu người đàn bà láng giềng, nảy lòng dâm tà bèn nhân đó hành dâm. Cô ta tỉnh dậy hỏi ngươi về rồi đấy à, Đổng đáp phải. Trước là con trai người đàn bà láng giềng có chuyện tới thôn Bắc, dặn vợ đóng cửa chờ mình về. Khi trở về nghe trong phòng có tiếng người, sinh nghi lắng nghe, cả giận vác giáo xông vào. Đổng hoảng sợ chui xuống gầm giường trốn, người kia đuổi vào đâm chết, lại muốn giết luôn vợ, vợ khóc lóc kể lại là bị lầm, y mới tha. Nhưng không hiểu người dưới gầm giường là ai, bèn gọi mẹ đốt đèn lên soi mới biết. Nhìn thấy Đổng vẫn còn thoi thóp thở, hỏi từ đâu tới, Đổng kể lại, nhưng mấy chỗ bị thương máu tuôn như suối, giây lát thì chết.</p><p></p><p>Bà mẹ sợ hãi run rẩy nói với con trai "Bắt được kẻ gian dâm mà giết có một người, ngươi thấy có được không?”, người con trai bất đắc dĩ phải giết luôn vợ. Đêm ấy ông Mộc vừa đi ngủ, chợt nghe ngoài cửa có tiếng lôi kéo, ra nhìn thì thấy lửa cháy chỗ chái nhà nhưng người đốt vẫn chưa đi. Ông Mộc kêu lớn, gia nhân đổ cả ra, may mà lửa vừa bén còn dễ dập tắt. Bèn sai người mang giáo mác đuổi bắt kẻ đốt nhà, thấy có một người leo trèo thoăn thoắt như vượn vượt qua tường đi mất. Phía ngoài tường là vườn đào của nhà ông, quanh vườn có tường rào rất chắc chắn, mấy người bắc thang leo lên nhìn thì không thấy tăm hơi gì. Duy dưới tường có một khối gì động đậy, hỏi không thấy đáp, bắn vào thấy mềm mềm. Mở cửa ra xem thì là một cô gái trần truồng nằm đó, mũi tên xuyên suốt qua bụng, thắp đèn tới nhìn kỹ thì là con gái ông Mộc tức vợ Kim. Họ hoảng sợ báo với chủ nhân, vợ chồng Mộc đau đớn muốn chết không hiểu vì sao. Cô gái nhắm mắt, sắc mặt xám như tro, hơi thở mong manh như sợi tơ, sai nhổ mũi tên nhưng không rút được phải đạp chân lên ngực mới rút ra được. Cô gái rên lên một tiếng, máu vọt ra tắt hơi luôn. ông Mộc cả sợ không biết làm sao, sáng ra kể lại tình thực với mẹ Kim, quỳ xuống van xin. Nhưng mẹ Kim không hề tức giận, chỉ kể lại nguyên do rồi bảo tự chôn cất lấy.</p><p></p><p>Kim có người anh con bác là Sinh Quang tức giận tới nhà ông Mộc chửi mắng cả những chuyện trước, ông Mộc thẹn thùng đưa tiền đút lót bảo thôi, nhưng mọi người không biết kẻ gian dâm với vợ Kim là ai. Kế con trai người đàn bà láng giềng đem xác kẻ gian tự thú bị trừng phạt qua loa rồi tha về. Nhưng anh vợ y là Mã Bưu hay thưa kiện lại kiện rằng em gái bị oan. Quan bắt người đàn bà láng giềng, bà ta sợ bèn khai thật đầu đuôi. Lại gọi mẹ Kim, mẹ Kim thác là có bệnh, nhờ Sinh Quang thay mình đối chất, trình bày mọi việc. Lúc bấy giờ chuyện giấu diếm trước đều vỡ lỡ, quan sai bắt vợ chồng ông Mộc, mọi người đều khai thật, lúc ấy mới rõ cả mọi việc. Mộc vì muốn gấp gả chồng cho con gái khiến cho nàng mắc tội gian dâm, tự mình phải chuộc tội gia sản khánh kiệt. Người đàn bà láng giềng dẫn đường cho kẻ gian dâm, bị phạt đánh trượng mà chết, cái án ấy kết thúc.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Chàng họ Kim là thần chăng? Dặn cho vợ đi lấy chồng, sao mà sáng suốt thế? Không giết một người nào mà mọi mối hận đều được rửa sạch, há không đáng gọi là thần sao? Người đàn bà láng giềng dụ dỗ con dâu người ta mà rốt lại con dâu mình bị gian dâm, bà Mộc thương con gái mà rốt lại giết chết con gái. Than ôi, muốn biết nhân duyên ngày sau thì cứ nhìn việc làm lúc trước, việc báo ứng chẳng cần gì phải chờ đến kiếp sau! </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 140 - 141 -</strong></p><p>Bành Hải Thu</p><p>(Bành Hải Thu)</p><p></p><p>Chư sinh Bành Hiếu Cổ ở phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) ra học ở nhà khác cách nhà khá xa, tiết Trung thu không về, vắng vẻ không có bạn. Nghĩ trong thôn không có ai chuyện trò được chỉ có Khâu sinh là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tiếng xấu, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên càng thấy buồn, bất đắc dĩ đành viết thiếp mời Khâu. Đang uống rượu thì có người gõ cửa, tiểu đồng ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành ra mời khách vào, vái chào xong cùng ngồi xuống quanh bàn rượu. Hỏi họ tên quê quán, khách đáp “Tiểu sinh là người Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), cùng họ với ông, tự là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng thấy buồn, nghe tiếng ông cao nhã nên tự tới ra mắt". Bành nhìn thấy người ấy áo vải sạch sẽ chỉnh tề, trò chuyện phong nhã, cả mừng nói "Té ra là người đồng tông, đêm nay là đêm gì mà gặp được khách quý thế này!", liền sai rót rượu, mời mọc như bạn thân từ lâu.</p><p></p><p>Xem ý tứ thì khách có vẻ rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu bèn nói lảng sang chuyện khác, trước tiên xin hát một khúc dân ca giúp vui, kế ngửa mặt ho hắng rồi hát khúc Hào sĩ Phù Phong<strong>*</strong> sĩ Phù Phong: bài thơ của Lý Bạch thời Đường, cùng nhau vui cười. Khách nói "Ta không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc Dương xuân, vậy xin nhờ người khác hát thay được không?” Bành xin vâng lời. Khách hỏi ở phủ thành Lai Châu có danh kỹ nào không, Bành đáp không. Khách im lặng hồi lâu rồi nói với tiểu đồng của Bành "Ta vừa gọi một người tới ngoài cổng, cứ ra dẫn vào đây!”. Tiểu đồng ra quả thấy một cô gái đang ngập ngùng ngoài cửa bèn dẫn vào, thấy tuổi khoảng đôi tám trở lại, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi.</p><p></p><p>*Hào sĩ Phù Phong: tên bài thơ của Lý Bạch thời Đường.</p><p></p><p>Cô gái mặc áo màu lá liễu, quàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn phía. Khách an ủi nói làm phiền lặn lội ngàn dặm, cô gái mỉm cười dạ dạ. Bành lấy làm lạ gạn hỏi, khách đáp "Quý địa khổ cái không có giai nhân, ta vừa phải gọi nàng đây trên thuyền ở Tây Hồ tới đấy". Rồi nói với cô gái "Khúc <em>Chàng bạc tình</em> nàng vừa hát trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa". Cô gái bèn ca rằng:</p><p></p><p><em>Bạc hãnh lang, Khiên mã tẩy xuân chiểu.</em></p><p><em>Nhân thanh viển, mã thanh yểu, giang thiên cao, sơn nguyệt tiểu.</em></p><p><em>Điệu đầu khứ bất quy, Đình trung sinh bạch hiểu.</em></p><p><em>Bất oán biệt ly đa, Đãn sầu hoan hội thiểu.</em></p><p><em>Miên hà xứ? Vật tác tùy phong nhứ.</em></p><p><em>Tiện thị bất phong hầu, Mạc hướng Lâm Cùng khứ.</em></p><p><em>Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ</em></p><p><em>Giọng người xa, tiếng ngựa khuất, trời sông cao, trăng núi nhỏ</em></p><p><em>Quay đầu đi không về, trong sân ngày rạng tỏ</em></p><p><em>Ly biệt quen không hờn, Sum vầy buồn ít có</em></p><p><em>Ngủ nơi đâu? Đừng như tơ theo gió</em></p><p><em>Cho dù chẳng phong hầu, Chớ tới Lâm Cùng đó<strong>*</strong>.</em></p><p></p><p>* Chớ tới Lâm Cùng đó: nguyên văn là "Mạc hướng Lâm Cùng khứ", câu trong bài Cổ biệt ly của Mạnh Giao "Dục biệt khiên lang y, Lang kim đáo hà xứ? Bất hận quy lai trì, Mạc hướng Lâm Cùng khứ" (Chia tay níu áo chàng, Đi đâu vào sương gió? Chẳng hận người lâu về, Chớ tới Lâm Cùng đó). Sử ký, Tư Mã Tương Như truyện chép Tương Như người Thành Đô nhà nghèo tới nương tựa Huyện lệnh Lâm Cùng, nhân gặp con gái Trác Vương Tôn là Văn Quân mới góa chồng bèn gãy khúc phượng cầu hoàng khêu gợi, Văn Quân bèn đang đêm trốn theo Tương Như về quê nhưng nghèo khổ quá bèn cùng trở lại Lâm Cùng mở quán bán rượu. Đây ý nói đừng bỏ mất chí khí.</p><p></p><p>Khách rút chiếc sáo ngọc trong ống giày theo khúc hát mà thổi, khúc dứt thì tiếng sáo cũng ngừng. Bành kinh ngạc khen ngợi không thôi, nói "Từ Tây Hồ tới đây đâu phải chỉ ngàn dặm, thế mà trong khoảnh khắc gọi người tới được, chẳng phải là tiên sao?". Khách đáp “Đâu dám nói là tiên, nhưng coi muôn dặm chỉ như trong sân ngoài cổng. Đêm nay gió trăng trên Tây Hồ còn đẹp hơn hôm trước, không thể không tới chơi một chuyến, ông có thể đi chơi với ta không?". Bành đang muốn xem xét việc lạ liền nhận lời nói rất may mắn. Khách hỏi đi thuyền hay ngựa, Bành nghĩ ngồi thuyền đỡ mệt hơn bèn đáp xin cho đi thuyền. Khách nói "Chỗ này gọi thuyền hơi xa, trên Thiên Hà chắc có người chở đò". Bèn giơ tay lên không vẫy gọi "Thuyền ơi xuống đây! Bọn ta muốn tới Tây Hồ, không tiếc tiền thưởng đâu”. Giây lát một chiếc thuyền kết hoa từ trên không lướt xuống, mây khói vướng vít chung quanh, mọi người cùng bước lên.</p><p></p><p>Thấy một người cầm mái chèo ngắn, đoạn cuối giắt đầy lông chim dài trông như cái quạt vừa phe phẩy thì gió mát ào ào nổi lên, thuyền dần bay vào mây xanh lướt về phía nam, đi nhanh như tên bắn. Trong khoảnh khắc thuyền đáp xuống nước, chỉ nghe đàn sáo rộn ràng, chiêng trống ầm ĩ. Bước ra mũi thuyền nhìn quanh thấy trăng in khói sóng, thuyền dạo choi đông như họp chợ, những người chân sào đều gác mái chèo để mặc thuyền tự trôi, nhìn kỹ thì đúng là Tây Hồ. Khách lấy các món ăn lạ và rượu ngon sau khoang ra vui vẻ đối ẩm. Lát sau một chiếc lâu thuyền tới gần rồi đi sát bên cạnh, nhìn qua song cửa thấy trong khoang có hai ba người đang ngồi quanh bàn cờ cười nói. Khách rót một chén rượu đưa cô gái, nói "Xin cạn chén này rồi sẽ đưa nàng về". Lúc cô gái đang nâng chén, Bành lưu luyến bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bèn khẽ đạp vào chân nàng. Cô gái đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.</p><p></p><p>Cô gái nói “Nếu thương yêu nhau, cứ hỏi tên Quyên Nương thì ai cũng biết". Khách lập tức lấy chiếc khăn lụa của Bành trao cho nàng, nói “Ta thay ông ấy ước hẹn ba năm sau”, kế đứng lên đặt cô gái vào lòng bàn tay, nói “Tiên ư! Tiên ư!" rồi kéo cửa sổ thuyền bên cạnh đưa nàng qua, song cửa sổ chỉ rộng vài tấc mà cô gái trườn qua không có gì vướng víu. Giây lát nghe thuyền bên nói "Quyên Nương tỉnh rồi", rồi lập tức lướt đi, nhìn xa xa thấy đã ghé vào bờ, người trong thuyền nhốn nháo bước lên. Bành chợt thấy mất hứng, bèn nói với khách muốn lên bờ một lúc cùng xem qua phong cảnh. Còn đang bàn bạc thì thuyền đã tự ghé vào bờ. Bành rời thuyền lên bộ dạo quanh, đi khoảng hơn một dặm thì khách phía sau đi tới, dắt một con ngựa bảo Bành giữ rồi lập tức quay đi, dặn "Đợi ta mượn thêm hai con ngựa nữa", nhưng hồi lâu không tới. Trên đường đã vắng người, ngẩng nhìn thấy trăng xế về tây, trời đã sắp rạng mà không rõ Khâu đi đâu. Bành dắt ngựa loanh quanh không biết nên đi hay ở, bèn giong cương tới nơi thuyền đậu thì cả người lẫn thuyền đều biến mất, nghĩ tới trong túi rỗng không, càng thêm lo sợ.</p><p></p><p>Trời sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một cái túi nhỏ, lục xem thấy có ba bốn lượng bạc, bèn mua thức ăn rồi ngẩn ngơ chờ, bất giác đã đến trưa. Nghĩ bụng cứ hỏi thăm Quyên Nương sẽ dần dần hỏi được tin Khâu, nhưng nói tới tên Quyên Nương thì không người nào biết. Bành thất vọng buồn bã, hôm sau lên đường. Con ngựa rất hay, may mà không gặp chuyện gì, nửa tháng mới về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, đứa tiểu đồng về báo chủ nhân đã lên tiên, cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng sẽ không về nữa. Bành buộc ngựa vào, người nhà ngạc nhiên mừng rỡ xúm lại hỏi han, Bành mới kể hết những việc kỳ lạ, lại nghĩ chỉ có mình trở về, sợ nhà Khâu biết tin sẽ qua gạn hỏi bèn dặn người nhà giữ kín. Kế lại nói tới con ngựa ở đâu mà ra, mọi người thấy là của tiên cho bèn rủ nhau ra chuồng xem, tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy Khâu sinh bị buộc cạnh chuồng bằng dây cương cỏ, phát hoảng gọi Bành ra xem.</p><p></p><p>Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt xám như tro, hỏi gì cũng không đáp, chỉ chớp chớp hai mắt mà thôi. Bành bất nhẫn sai cởi dây cương vực lên giường, thấy Khâu như người mất hồn, đổ cháo cho cũng nuốt được chút ít. Đến nửa đêm hơi tỉnh muốn ra nhà xí xốc nách đưa đi thì són ra mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống qua loa mới bắt đầu nói được. Bành tới cạnh giường hỏi han, Khâu kể "Sau khi rời thuyền, y dẫn ta dạo chơi trò chuyện, tới chỗ vắng vỗ đùa vào gáy, ta liền ngã ra mê man, nằm giây lát định thần nhìn lại thấy mình đã hóa ra thân ngựa, tâm trí vẫn tỉnh táo, chỉ có không nói năng được mà thôi. Chuyện này thật vô cùng nhục nhã, không thể kể cho vợ con được, xin ông đừng nói lộ ra". Bành nhận lời, sai đầy tớ dắt ngựa đưa Khâu về.</p><p></p><p>Bành từ đó không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau vì người anh rể làm Phán quan ở Dương Châu, Bành nhân tới thăm. Ở đó có Lương công tử là nhà thế giao mở tiệc mời Bành tới uống rượu, trong tiệc có mấy người ca kỹ đều tới yết kiến. Công tử hỏi Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử túc giận nói "Con tiện tỳ lên mặt làm cao, đem dây đi trói mang lại đây cho ta". Bành nghe tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai, công tử đáp "Thị là con hát số một ở Quảng Lăng, có chút danh tiếng nên đâm ra vô lễ". Bành ngờ chỉ là ngẫu nhiên trùng tên nhưng vẫn hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Không bao lâu Quyên Nương tới, công tử giận dữ kể tội. Bành nhìn kỹ thì đúng là người đã gặp hôm Trung thu, bèn thưa với công tử "Nàng này với ta là chỗ quen biết cũ, mong ông tha cho". Quyên Nương nhìn kỹ Bành, dường như có vẻ ngạc nhiên. Công tử chưa hỏi kỹ lại, cứ sai mời rượu. Bành hỏi còn nhớ khúc <em>Chàng bạc tình </em>không, Quyên Nương càng kinh hãi, nhìn Bành chằm chằm rồi mới cất tiếng hát, nghe giọng hát vẫn giống như đêm Trung thu năm trước.</p><p></p><p>Rượu tàn, công tử sai nàng hầu hạ chăn gối cho khách. Bành nắm tay nàng hỏi “Lời hẹn ba năm hôm nay mới làm được chăng?” Quyên Nương đáp “Năm trước theo người ta chơi thuyền ở Tây Hồ, thiếp uống chưa được mấy chén chợt như say, lúc mơ mơ hồ hồ bị một người nhấc lên đặt xuống một thôn, có một tiểu đồng dẫn thiếp vào nhà, thấy trên chiếu rượu có ba người mà chàng là một. Sau đó đi thuyền tới Tây Hồ, người ta đưa thiếp về thuyền cũ qua song cửa sổ, nắm tay ân cần từ biệt. Mỗi khi nhớ lại vẫn nghĩ là mộng ảo, nhưng chiếc khăn lụa sờ sờ ra đó, thiếp vẫn trân trọng cất giữ". Bành kể lại mọi việc rồi cùng nhau than thở, Quyên Nương co người rúc vào lòng Bành, nức nở nói "Người tiên đã làm mối cho nhau, xin chàng đừng cho thiếp là kẻ phong trần vứt đi mà quên người trong bể khổ". Bành đáp "Lời hẹn trên thuyền chưa từng ngày nào lãng quên, nếu nàng có lòng thì ta có phải dốc túi bán ngựa cũng không tiếc". Sáng hôm sau Bành kể với công tử, lại mượn anh rể ngàn vàng xóa sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ tới gian nhà riêng của Bành, nàng vẫn nhận ra được nơi uống rượu năm xưa.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ngựa mà là người, ắt kẻ ấy làm người cũng như là ngựa, bảo làm ngựa thì hận là không được làm người đó thôi. Voi cọp loan hạc cũng đều phải chịu thắng yên buộc cương, sao có thể nói đó không phải là lòng nhân ái của thần tiên? Nếu có ước hẹn ba năm thì cũng phải vượt qua bể khổ vậy.</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164991, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 123 - 124[/B] Cô Gái Họ Mai (Mai Nữ) Phong Vân Đình người Thái Hàng (tỉnh Sơn Tây) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ trong nhà trọ. Lúc ấy Phong tuổi trẻ vừa góa vợ, lúc hiu quạnh thường hay tơ tưởng. Đang đăm đăm ngưng thần, thấy trên tường có bóng con gái rõ ràng như vẽ, tự nghĩ vì mơ tưởng nên thấy thế, nhưng hồi lâu không thấy động đậy, cũng không biến đi. Lấy làm lạ vùng dậy nhìn thì là người thật, lại gần nữa thì rõ ràng là một thiếu nữ nhăn mặt thè lưỡi, có một vòng dây thắt quanh cổ. Sinh sợ hãi nhìn không chớp, thấy cô gái động đậy muốn bước xuống, biết là ma thắt cổ nhưng đang ban ngày mà tính cũng gan dạ nên không sợ lắm, nói "Nương tử như có điều oan khuất, tiểu sinh xin hết sức" Cái bóng từ tốn bước xuống nói "Gặp gỡ thoáng qua, đâu dám vội mang việc lớn làm phiền quân tử, nhưng bộ xương khô dưới suối vàng không rút lưỡi vào được, không cắt bỏ dây được, xin chặt thanh xà ngang đốt đi, thì ơn ấy lớn như Thái Sơn”. Sinh nhận lời, cái bóng biến mất. Sinh gọi chủ nhân tới hỏi về chuyện vừa thấy, chủ nhân nói "Mười năm trước nơi đây là nhà họ Mai, đang đêm có tên trộm lẻn vào bị Mai bắt được giải lên quan Điển sử. Điển sử nhận ba trăm bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với y, toan bắt lên tra xét, nàng nghe tin thắt cổ chết. Sau vợ chồng họ Mai nối nhau chết, ngôi nhà này mới về tay ta. Khách trọ vẫn thấy sự quái dị, nhưng không có phép gì làm cho yên". Phong đem lời ma kể lại, chủ nhân tính toán thấy phải dở nhà thay thanh xà ngang, phí tổn không ít nên có vẻ khó khăn. Phong bèn góp tiền giúp thêm, chữa xong lại vào ở. Đêm đến cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt vui vẻ, phong thái yêu kiều, Phong thích lắm muốn cùng giao hoan. Cô gái thẹn thùng nói “Khí âm lạnh lẽo, không những đã làm hại cho chàng mà nếu làm như thế thì tiếng nhơ lúc sinh tiền dẫu nước sông Tây Giang cũng không rửa sạch được. Sẽ có lúc sum họp với nhau, nhưng nay thì chưa". Phong hỏi lúc nào, nàng chỉ cười không đáp. Phong hỏi uống rượu không, cô gái đáp không uống được. Phong nói "Đối diện với người đẹp mà cứ giơ mắt buồn bã nhìn nhau thì còn ý vị gì?", nàng đáp “Bình sinh thiếp chỉ biét có trò đánh cờ ngựa, nay hai người ngồi buồn bã, đêm khuya lại khổ không có bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hãy cùng chơi trò giao tuyến". Phong nghe theo ngồi bó gối xòe ngón tay, trao qua chuyền lại hồi lâu, Phong hoa cả mắt không biết manh mối đâu nữa. Cô gái cứ miệng giảng cằm hất ra hiệu, càng chơi càng biến ảo vô cùng tinh diệu, Phong cười nói "Đây là tuyệt kỹ trong khuê phòng đây”, nàng đáp "Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được, người ta không chịu để ý đấy thôi” Về khuya càng mệt mỏi, Phong ép đi ngủ, cô gái nói "Thiếp là người cõi âm không ngủ, xin chàng cứ nghỉ đi Thiếp có biết thuật xoa bóp, xin trổ hết tài giúp chàng ngon giấc" Phong theo lời, cô gái chụm hai tay xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân, tay lướt tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế lại nắm tay đấm khẽ như cầm nắm bông thúc, Phong thấy khoan khoái không sao tả được. Nàng đấm tới lưng thì mắt Phong đã ríu lại, đấm tới đùi thì dã ngủ say rồi. Đến khi tỉnh dậy thì đã gần trưa, cảm thấy xương cốt đều nhẹ nhàng khoan khoái khác hẳn mọi hôm, lòng càng yêu mến bèn đi quanh nhà cất tiếng gọi nhưng không có một tiếng đáp lại. Chiều tối cô gái mới đến, Phong hỏi "Nàng ở chỗ nào làm ta tìm gọi khắp nơi thế?”, nàng đáp "Ma thì không có chỗ ở nhất định, chỉ là dưới đất thôi". Phong hỏi dưới đất có chỗ trống ở được à, nàng nói "Ma không có đất cũng như cá không có nước vậy". Phong nắm cổ tay nàng nói "Nếu nàng sống lại thì ta xin dốc hết cơ nghiệp để cưới", cô gái cười nói "Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp!". Chơi đến nửa đêm, Phong hết sức nài ép, nàng nói “Chàng đừng ép thiếp, có nàng kỹ nữ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang) tên Ái Khanh vừa tới trọ ở nhà láng giềng phía bắc, dáng vẻ rất phong nhã, tối mai thiếp sẽ gọi nàng cùng tới tạm thay cho thiếp được không?”, Phong bằng lòng. Tối hôm sau nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi khoảng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ phóng đãng. Ba người ngồi ngã ngớn đánh cờ ngựa, xong ván cờ cô gái đứng lên nói “Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây", Phong định kéo lại thì nàng đã biến mất. Hai người bèn lên giường ôm nhau vui thú, Phong hỏi gia thế thì thiếu phụ cứ ậm ừ không chịu đáp, chỉ nói "Nếu chàng yêu thiếp thì cứ gõ tay lên vách tường phía bắc gọi khẽ "Hồ lô tử” là thiếp tới ngay. Nếu gọi ba lần không thấy là thiếp đang bận, đừng gọi nữa", trời sáng lách qua khe hở trên bức tường phía bắc đi mất. Hôm sau cô gái tới, Phong hỏi Ái Khanh, nàng đáp “Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu nên không tới đây được". Kế thắp đèn cùng trò chuyện, cô gái như có điều muốn nói nhưng mấp máy môi lại im lặng. Phong gặng hỏi nhưng rốt lại nàng vẫn không chịu nói mà chỉ thở dài. Phong ép nàng cùng chơi đùa, đến canh tư mới đi. Từ đó hai nàng tới luôn, cười nói rộn rã thâu đêm, phố phường đều biết cả. Có viên Điển sử Mỗ cũng là con nhà thế tộc cũ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), vợ cả gian dâm với đầy tớ bị xuất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, rất thương yêu nhau nhưng được một tháng nàng đã chết yểu vô cùng đau xót. Nghe nói Phong có quen với ma thiêng, muốn nhờ hỏi giùm việc nhân duyên dưới âm ty bèn cưỡi ngựa tới tìm. Phong lúc đầu không nhận lời, Mỗ hết sức nài nỉ không thôi, Phong bèn bày rượu cùng ngồi, nhận lời gọi hộ nàng kỹ nữ ma. Trời sập tối bèn gõ vách gọi, chưa dứt tiếng thứ ba thì Ái Khanh đã tới, ngước nhìn thấy khách biến sắc định chạy, Phong lấy người chặn đường cản lại. Mỗ nhìn kỹ chợt nổi giận ném chén rượu vào Ái Khanh, chớp mắt nàng biến mất. Phong kinh ngạc không hiểu vì sao, đang định hỏi chợt trong góc tối có bà già bước ra mắng "Thằng giặc tham lam bỉ ổi làm hỏng cả cây tiền của ta rồi, đền ngay ba chục quan tiền đây!", rồi cầm gậy đập vào đầu Mỗ. Mỗ ôm đầu rên rỉ, nói “Đó là Cố thị vợ ta bị chết trẻ, đang còn đau đớn thì ngờ đâu lại làm con ma bất trinh, có dính líu gì tới bà chứ?”. Bà già tức giận nói “Ngươi vốn là thằng giặc vô lại ở Giang Chiết, mới mua được sợi dây lưng gắn miếng sừng đen[B]*[/B] được đeo thắt lưng gắn miếng sừng màu đen đã hếch mũi lên. Ngươi làm quan có kể gì đen trắng, ai có ba trăm quan thì ngươi coi là cha! Thần giận người oán, sắp tận số rồi, cha mẹ ngươi phải kêu xin dưới âm ty xin đưa nàng dâu quý vào lầu xanh để trả món nợ tham lam thay ngươi mà còn chưa biết à?", nói xong lại đánh. Mỗ lạy lục van xin, Phong sợ hãi không biết làm sao cứu. Chợt cô gái họ Mai trong phòng bưóc ra, trợn mắt lè lưỡi, vẻ mặt trông rất ghê rợn, sấn tói lấy cây trâm dài đâm vào tai Mỗ. Phong hoảng quá lấy người che đỡ cho khách, cô gái vẫn căm tức không nguôi. Phong khuyên nói “Dù y có tội nhưng nếu chết ở đây thì tiểu sinh có lỗi, xin ném chuột đừng để vỡ đến lọ quý”. Cô gái bèn kéo bà già nói "Thôi hãy tạm tha cho hắn, xin bà nể mặt ta mà nghĩ tới chàng Phong", Mỗ run sợ lủi đi, về tới công thự sợ hãi phát bệnh đau óc, nửa đêm thì chết. *Sợi dây lưng gắn miếng sừng đen: theo quan chế triều Thanh, chức Điển sử Đêm hôm sau cô gái hiện ra cười nói “Khoái thật, bao nhiêu uất ức đã phát tiết được cả rồi". Phong hỏi có thù oán gì với y, nàng đáp "Trước kia thiếp đã nói y ăn của đút rồi vu cho thiếp thông gian, ôm mối căm hờn đã lâu, vẫn thường định nhờ chàng rửa hờn một phen nhưng lại tự thẹn chưa có chút ơn đức gì nên cứ định nói lại thôi. Đêm qua nghe tiếng đánh chửi ầm ĩ, lén tới rình xem, không ngờ lại gặp kẻ thù”. Phong ngạc nhiên hỏi "Đó là kẻ vu cáo cho nàng à?", cô gái đáp “Y làm Điển sử ở đây đã mười tám năm, mà thiếp chết oan cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi”. Phong hỏi bà già là ai, nàng đáp là một kỹ nữ già, lại hỏi tới Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Kế nhoẻn miệng cười hỏi “Thiếp từng nói sẽ có lúc sum họp với nhau, nay quả không còn lâu nữa. Chàng vẫn nói xin dốc hết cơ nghiệp để cưới thiếp, còn nhớ không?”. Phong đáp "Nay ta vẫn muốn thế mà". Cô gái nói "Nói thật với chàng, hôm thiếp chết đã đầu thai vào nhà Hiếu liêm họ Triển ở Diên An (tỉnh thành Thiểm Tây), chỉ vì thù lớn chưa trả nên còn dùng dằng ở đây. Xin lấy vải mới làm cái túi ma để thiếp đi theo chàng, tới nhà họ Triển cầu hôn chắc xong việc". Phong lo gia thế quá chênh lệch, sợ sẽ không xong, nàng nói "Cứ đi đừng lo gì”. Phong theo lời, cô gái dặn "Dọc đường cẩn thận đừng gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy túi trùm lên đầu cô dâu rồi gọi lớn rằng “Đừng quên! Đừng quên!". Phong gật đầu, vừa mở túi ra cô gái đã nhảy luôn vào, Phong mang cái túi tới Diên An hỏi thăm quả có Hiếu liêm họ Triển sinh được một con gái dung mạo cực kỳ xinh đẹp nhưng mắc bệnh ngây ngốc, lại hay lè lưỡi ra ngoài miệng như chó lúc trời nóng, mười sáu tuổi vẫn chưa có ai dạm hỏi, cha mẹ rất phiền muộn. Phong tới nhà đưa danh thiếp, kể rõ gia thế, trở về nhờ mai mối tới ngỏ ý. Triển mừng giữ Phong gửi rể trong nhà, cô gái vô cùng ngây ngốc, không biết cả làm lễ, phải sai hai tỳ nữ đỡ vào phòng. Đám tỳ nữ vừa lui thì nàng phanh vạt áo để hở cả vú ra, nhìn Phong cười ngớ ngẩn. Phong trùm túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái ngó sững Phong như có ý ngờ vực, Phong cười hỏi “Nàng không quen tiểu sinh à?", rồi giơ cái túi cho xem. Cô gái chợt tỉnh ra, vội khép áo lại, mừng rỡ cùng vui vẻ trò chuyện. Sáng ra Phong vào thăm hỏi cha vợ, Triển an ủi nói "Con nhỏ ngây ngốc không biết gì, may được thương tới, nếu ông có lòng thì trong nhà không thiếu bọn tỳ nữ lanh lợi, ta xin tặng không tiếc". Phong ra sức phân trần rằng nàng không ngây ngốc, Triển rất ngờ vực. Không bao lâu cô gái tới, cử chỉ đều nết na khuôn phép, Triển vô cùng lạ lùng, nàng chỉ ngượng nghịu mỉm cười. Triển gạn hỏi, nàng thẹn thùng không nói được, Phong bèn kể qua đầu đuôi, Triển cả mừng, yêu thương nàng còn hơn lúc trước. Bèn cho Phong cùng học với con trai là Đại Thành, chu cấp rất đầy đủ. Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm coi thường Phong, vì em rể anh vợ không hợp nhau nên đám gia nhân cũng bới lông tìm vết. Triển bị nói ra nói vào cũng ngấm, dần lạt lẽo với Phong. Cô gái biết chuyện, nói "Nhà cha vợ không thể ở lâu, phàm những người ở nhà cha vợ lâu đều là hạng hèn hạ. Nay chưa tới lúc quá căng thẳng, nên đi ngay". Phong cho là phải, thưa với Triển, Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều tức giận, không cho xe ngựa đưa về, cô gái bỏ tiền riêng ra mua ngựa mà về. Sau đó Triển gọi về thăm nhà nhưng cô gái từ chối, đến khi Phong thi đỗ Hiếu liêm mới qua lại với nhau. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Quan càng nhỏ thì càng tham, đó cũng là chuyện thường tình chăng? Nhưng nhận ba trăm đồng mà vu cho người ta tội thông gian, thì quả không còn sợ hãi gì hình phạt tàn khốc chốn dạ đài rồi. Cho nên mới bị cướp vợ yêu bỏ vào lầu xanh, sau cùng lại làm cho chết thảm, ôi đáng sợ thay![/I] [B]124. Tú Tài Họ Quách[/B] [B] (Quách Tú Tài)[/B] Người học trò ở Quảng Đông là Quách Mỗ, chiều tối từ nhà bạn về, vào núi lạc đường tới một chỗ cây cối gai góc um tùm. Khoảng quá canh một nghe trên núi có tiếng cười, vội vàng lần tới, gặp hơn mười người đang ngồi dưới đất uống rượu, từ xa nhìn thấy Quách cùng ồ lên nói “Trong mâm đang thiếu một người khách, hay quá, hay quá". Quách ngồi xuống rồi, thấy một nửa trong bọn đội khăn nhà nho, bèn xin chỉ đường về. Một người cười nói "Ông thật lẩm cẩm, trăng sáng thế này không ngắm lại hỏi đường sá gì?”, rồi rót ngay một chén đưa qua. Quách uống thấy thơm ngát, bèn dốc cạn một hơi, lại một người nghiêng bầu rót tiếp, Quách vốn hay rượu, lại vì lặn lội khát khô miệng, lại uống một hơi cạn chén, mọi người đều khen ngợi “Hào lắm, thật đáng là bạn của bọn ta". Quách vốn phóng khoáng giỏi đùa giỡn, học được tiếng các loài chim rất giống, bèn đứng lên đi tiểu, giả tiếng chim én kêu, mọi người ngờ vực nói "Nửa đêm sao lại có chim én kêu?”. Quách lại giả tiếng chim cuốc, mọi người lại càng ngờ vực. Quách trở vào ngồi xuống, chỉ cười không nói gì. Mọi người đang nhao nhao bàn tán, Quách ngoảnh ra ngoài giả tiếng chim vẹt, nói "Tú tài họ Quách say rồi, đưa y về thôi!". Mọi người kinh ngạc lắng tai thì im bặt không nghe thấy gì nữa, giây lát Quách lại làm tiếp. Đến lúc biết là Quách làm, mọi người mới cùng cười ồ, đều chúm miệng bắt chước nhưng chẳng ai làm được. Một người nói “Tiếc là Thanh Nga tử chưa tới", lại một người nói “Trung thu lại họp mặt ở đây, Quách tiên sinh thế nào cũng phải tới đấy", Quách kính cẩn vâng dạ. Một người đứng lên nói "Khách đã có tuyệt kỹ như thế, bọn ta cũng hiến trò chồng người cho vui, được không?". Rồi đó mọi người ồn ào đứng lên, người đầu tiên đứng thẳng, lập tức có một người nhảy lên vai, cũng đứng thẳng. Cứ thế được bốn người thì cao không thể nhảy lên được nữa. Người tiếp theo vịn vào vai, đạp lên tay những người dưới như leo thang mà lên, trong giây lát hơn mười người đã chồng lên hết, nhìn thấy như sắp chạm vào mây, Quách còn đang ngạc nhiên nhìn ngó, thì cột người đổ vật xuống đất biến thành một con đường dài. Quách kinh hãi đứng ngẩn ra hồi lâu rồi theo đường ra về. Hôm sau bụng đau buốt, nôn ra nước màu xanh như rỉ đồng có thể nhuộm vải mà hôi hám không sao chịu nổi, ba ngày mới hết. Tìm tới chỗ cũ thì thấy rượu thịt vương vãi, bốn bề gai góc chẳng có đường sá gì. Đến Trung thu Quách định tới chỗ hẹn, nhưng bạn bè can ngăn nên thôi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 125 - 126 -[/B] A Anh (A Anh) Cam Ngọc tự Bích Nhân là người huyện Lô Lăng (tỉnh Giang Tây). Cha mẹ mất sớm, để lại em trai tên Giác tự Song Bích mới năm tuổi, nhờ anh nuôi nấng. Ngọc tính hữu ái, chăm nom em như con ruột, sau Giác dần dần lớn lên, diện mạo thanh tú lại thông minh học giỏi nên Ngọc càng yêu thương, thường nói "Em ta đường đường thế này không thể lấy vợ tầm thường", nhưng kén chọn quá nên rốt lại không được đám nào. Gặp lúc lên chùa núi Khuông Sơn học, gần khuya đi nằm nghe ngoài cửa sổ có tiếng con gái trò chuyện, nhìn ra thấy ba bốn nữ lang trải chiếu ngồi trên mặt đất, có mấy tỳ nữ bày rượu và thức ăn, người nào cũng xinh đẹp. Một nàng hỏi "Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không tới?", nàng ngồi dưới đáp "Hôm qua nó từ cửa ải Hàm Cốc (tỉnh Thiểm Tây) tới bị kẻ ác làm bị thương tay phải nên không thể cùng tới chơi, thật đáng hận". Một nàng nói "Đêm trước mơ thấy một chuyện sợ quá, hôm nay còn toát mồ hôi", nàng ngồi dưới xua tay nói "Chớ nói ra, chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói tới chuyện đáng sợ sẽ mất vui". Nàng kia cười nói "Con nhãi này nhát gan quá, chẳng lẽ có cọp sói tới vồ đi à! Nếu muốn ta đừng nói thì hát một bài chuốc rượu cho chị đi”, cô gái bèn ngâm khẽ: [I]Trước cửa hoa đào nở tốt tươi Lời hẹn đi chơi Thanh minh hôm qua chớ nên sai Nhắn cô bạn láng giềng, chờ nhau một chút thôi Mang xong giày cánh phụng sẽ lập tức tới nơi[/I] Cô gái ngâm xong, mọi người đều khen hay. Đang lúc vui cười chợt có một người đàn ông to lớn từ ngoài đi vào, mắt trợn xanh lè, diện mạo xấu xí hung tợn. Mọi người cùng la hoảng "Yêu tinh tới đây" rồi nhao nhao chạy tứ tán như chim vỡ tổ. Duy có nàng vừa hát yếu ớt không chạy kịp nên bị bắt, kêu la thảm thiết cố gượng chống cự. Người đàn ông giận dữ gầm lên, cắn đứt lìa một ngón tay nàng nhai luôn tại chỗ, cô gái lập tức ngã nhào xuống đất như chết rồi. Ngọc thương xót không sao nhịn được liền tuốt kiếm đạp cửa xông ra chém trúng đùi người kia, bắp đùi đứt lìa, y mang vết thương bỏ chạy. Ngọc đỡ cô gái vào nhà, thấy mặt nàng xám ngoét, máu ướt sũng tay áo, xem lại thì bị đứt ngón tay cái bên phải bèn xé vải băng bó cho. Lúc ấy nàng mới rên rỉ nói “Cái ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp?”. Ngọc từ lúc thấy nàng đã ngầm nghĩ tới việc của em trai bèn ngỏ ý, cô gái nói "Kẻ tật nguyền không thể lo việc nội trợ được, xin sẽ làm mai người khác cho lệnh đệ". Ngọc hỏi tên họ, nàng đáp là họ Tần. Ngọc bèn lấy chăn đắp cho nàng nằm nghỉ còn mình đem chăn chiếu qua chỗ khác ngủ. Sáng ra vào thăm thì trên giường trống không, nghĩ rằng cô gái đã tự ra về, nhưng tìm hỏi các thôn xóm gần đó thì không có ai họ ấy, nhờ các bạn bè thân thích tìm khắp nơi cũng không có tin tức gì, trở về kể lại với em, hối tiếc như mất của. Một hôm Giác tình cờ đi chơi ngoài đổng, gặp một nữ lang khoảng mười sáu tuổi, dung mạo xinh đẹp cứ nhìn mình mỉm cười như định nói gì, kế liếc quanh bốn phía rồi hỏi "Chàng có phải là Nhị lang họ Cam không?", Giác đáp "Phải", nàng nói “Lệnh tôn từng đính ước hôn nhân cho chàng với thiếp, sao nay lại bỏ lời ước cũ mà đính ước với họ Tần?". Giác nói "Tiểu sinh mồ côi từ nhỏ nên chuyện dạm hỏi thế nào không từng hay biết, xin nàng nói rõ tên họ để về hỏi lại gia huynh". Cô gái nói "Không cần phải nói rõ, chỉ cần chàng nói một câu ưng thuận thì thiếp sẽ tự tới” Giác lấy cớ chưa có lệnh anh để từ chối, cô gái cười nói "Anh chàng ngây thơ lại sợ ông anh đến thế kia à? Đã thế thì thiếp họ Lục ở thôn Sơn Vọng tỉnh Sơn Đông, trong ba ngày nữa xin chờ tin chàng", rồi từ giã đi. Giác về kể lại với anh chị, anh nói "Toàn là bịa đặt, lúc cha mất thì ta đã hơn hai mươi tuổi, nếu có chuyện ấy thì làm gì mà ta không biết", lại vì nàng đã đi một mình ngoài đồng mà còn bắt chuyện với đàn ông nên càng khinh bỉ. Nhân hỏi dung mạo nàng ra sao, Giác đỏ mặt không nói gì, chị dâu cười nói “Chắc là đẹp lắm". Ngọc nói "Trẻ con thì biết gì xấu đẹp mà cho dù cô ta có đẹp cũng không thể bằng họ Tần, đợi xem nếu chuyện họ Tần không xong thì tính đám này cũng chưa muộn", Giác im lặng đi ra. Qua vài hôm Ngọc đi đường thấy một cô gái thiếu nữ vừa đi vừa khóc phía trước bèn kìm ngựa liếc nhìn, thấy xinh đẹp tuyệt trần liền sai đầy tớ tới hỏi han. Cô gái nói "Ta trước kia đã đính hôn với Nhị lang nhà họ Cam, vì nhà nghèo dời đi xa, đứt tuyệt tin tức. Gần đây mới về nghe nhà họ Cam thay lòng đổi dạ bỏ lời ước cũ nên tới hỏi ông anh là Cam Bích Nhân xem tính toán cho thiếp thế nào". Ngọc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói "Ta chính là Cam Bích Nhân đây. Gia phụ trước kia hẹn ước thế nào, thật ta không biết. Đây cách nhà ta không xa, mời cùng về bàn tính". Bèn xuống ngựa nhường cho cô gái cưỡi, đi bộ cầm dây cương dắt ngựa đưa nàng về nhà. Cô gái tự nói tiểu tự là A Anh, không có anh em nào khác, chỉ có người chị bên ngoại là họ Tần ở chung, lúc ấy Ngọc mới hiểu ra người cô gái họ Tần nói tới chính là nàng. Ngọc muốn sai người báo tin cho nhà nàng biết nhưng nàng nhất định cản lại, cũng mừng thầm là em mình lấy được vợ đẹp nhưng sợ nàng lẳng lơ sẽ bị chê cười. Lâu ngày thấy cô gái rất đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như mẹ, chị dâu cũng rất yêu thương. Gặp tiết Trung thu, vợ chồng đang ăn uống thân mật, chị dâu sai gọi mãi, Giác còn phân vân thì cô gái bảo người đi gọi cứ về trước nàng sẽ tới sau, nhưng kế cứ ngồi ở nhà hồi lâu vẫn không có ý ra đi. Giác sợ chị dâu chờ, giục đi ngay nhưng nàng chỉ cười, rốt lại cũng không đi. Sáng ra nàng vừa trang điểm xong thì chị dâu tới thăm, hỏi sao đêm qua ngồi đối diện với mình mà có vẻ không vui, nàng mỉm cười. Giác thấy lạ gặng hỏi, căn vặn ồn ào. Chị dâu cả kinh nghĩ nếu nàng không phải là yêu ma thì làm sao có phép phân thân? Ngọc cũng sợ, đứng ngoài rèm nói “Nhà ta đời đời tu nhân tích đức, vốn không có oán thù gì với nhau, nếu là yêu ma thì xin đi mau, chớ giết em ta". Nàng thẹn thùng nói "Thiếp vốn không phải là người, chỉ vì ngày xưa cha có lời đính ước nên chị Tần cứ khuyên bảo tới đây, tự biết không sinh đẻ gì được nên vẫn muốn từ biệt ra đi, sở dĩ còn bịn rịn chỉ vì anh chị đối xử tử tế mà thôi. Nay đã ngờ vực thì xin vĩnh biệt", rồi chớp mắt biến thành chim anh vũ bay mất. Trước kia khi Cam ông còn sống có nuôi một con anh vũ rất khôn, thường tự tay cho ăn. Lúc ấy Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cho chim ăn làm gì, cha đùa nói “Để nó làm vợ ngươi”, có khi sợ chim ăn chưa no lại gọi Giác "Không đem thức ăn ra đây thì con dâu ta chết đói mất”, gia nhân cũng đều lấy đó đùa Giác, sau chim tuột dây bay mất, đến lúc ấy mới sực nghĩ ra cô gái nói lời đính ước cũ là chuyện đó. Nhưng Giác tuy biết rõ nàng không phải là người vẫn thương nhớ không khuây, chị dâu cũng nhớ nhưng cứ sớm chiều sa lệ. Ngọc hối hận mà không biết làm sao, hai năm sau hỏi cưới con gái nhà họ Khương cho em nhưng rốt lại trong lòng vẫn áy náy. Có người anh họ làm quan Tư lý ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông), Ngọc tới thăm khá lâu không về. Gặp lúc giặc cướp dấy loạn, xóm làng chung quanh quá nửa thành đất hoang. Giác cả sợ đưa gia đình vào lánh nạn trong hang núi, thấy trai gái lẫn lộn, không biết là những ai. Chợt nghe tiếng con gái nói nhỏ, giọng rất giống A Anh, chị dâu giục Giác tới gần xem thì quả là nàng, Giác mừng quá nắm chặt cánh tay nàng không buông ra. Cô gái nói với người cùng đi rằng "Chị cứ đi trước, ta còn đợi chị dâu”. Kế chị dâu tới thấy A Anh nghẹn ngào khóc lóc nàng an ủi mấy chặp rồi nói đây không phải là nơi yên ổn, khuyên nên về nhà. Mọi người sợ giặc tới, nàng quả quyết là không sao, bèn dắt díu nhau về. Cô gái lấy đất xoa lên cửa, dặn cứ ở bên trong không được ra ngoài, ngồi nói năm ba câu rồi quay người định đi, chị dâu vội nắm chặt cánh tay, lại sai hai tỳ nữ giữ chặt hai chân, nàng bất đắc dĩ phải ở lại. Nhưng không chịu về phòng riêng, Giác hẹn ba bốn phen nàng mới tới một lần. Chị dâu cứ nói Khương thị không thể làm vừa lòng thúc thúc, cô gái bèn dậy sớm trang điểm cho Khương, chải tóc đánh phấn xong mọi người đều thấy xinh đẹp hẳn lên, cứ thế ba ngày thì nghiễm nhiên trở thành một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân nói “Ta không có con, vẫn muốn mua một người thiếp nhưng chưa có dịp, chẳng biết đám tỳ nữ có thể trang điểm như thế được không?". Nàng nói “Ai cũng có thể làm cho đẹp lên được, chỉ là kẻ tư chất tốt thì dễ làm hơn thôi”. Bèn xem tướng tất cả tỳ nữ trong nhà, chỉ có một người vừa đen vừa xấu là có tướng sinh con trai, liền gọi vào tắm rửa rồi lấy phấn trộn với thuốc thoa cho, như thế ba ngày thì sắc mặt dần đổi ra màu vàng, sau hai mươi tám ngày thì phấn thuốc thấm vào da thịt, trở thành dễ coi. Hàng ngày nàng chỉ đóng cửa vui cười, không nhắc gì tới việc binh lửa. Một đêm tiếng la thét nổi lên bốn bên, cả nhà không biết tính sao, kế nghe ngoài cửa có tiếng người ngựa rầm rập kéo đi. Sáng ra mới biết cả thôn bị cướp phá tan nát, bọn cướp túa ra lục soát khắp nơi, những người trốn núp trong hang hốc đều bị giết bị bắt, cả nhà càng thêm biết ơn cô gái, coi nàng như thần. Cô gái chợt nói với chị dâu rằng "Lần này thiếp tới đây vì cảm ơn nghĩa của chị không thể quên, nên muốn chia sẻ nỗi lo ly loạn. Anh sắp về tới, thiếp ở đây cũng như lời ngạn vẫn nói ‘Nửa dơi nửa chuột, con người đáng cười’. Thiếp đi đây, lúc nào rảnh sẽ ghé thăm chị”. Chị dâu hỏi người đang đi đường liệu có yên ổn không, nàng đáp “Trên đường có nạn lớn nhưng đây không phải như chuyện người ngoài, chị Tần mang ơn nhiều ắt sẽ đền đáp, chẳng bị gì đâu”. Chị dâu giữ lại qua đêm, trời chưa sáng nàng đã ra đi. Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà loạn lạc, gấp rút đi mau. Giữa đuùng gặp giặc, thầy trò bỏ ngựa, buộc tiền bạc vào lưng núp vào bụi gai rậm. Một con Tần Các Liễu bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che, Ngọc nhìn chân thấy mất một ngón thầm lấy làm lạ. Lát sau bọn giặc bổ vây bốn phía, lùng sục khắp chốn, hai thầy trò Ngọc nín hơi không dám thở mạnh, lúc bọn giặc đã rút con chim mới bay đi. Về tới cùng vợ kể chuyện đã qua, mới biết Tần Các Liễu chính là mỹ nhân mình cứu mạng trước kia. Về sau cứ gặp lúc Ngọc đi vắng thì tối đến A Anh lại tới ngủ lại, tính khi Ngọc sắp về thì ra đi. Giác có khi gặp nàng ở chỗ chị dâu, mời tới chỗ mình thì nàng hứa nhưng không bao giờ tới. Một đêm Ngọc đi vắng, Giác đoán rằng A Anh sẽ tới bèn núp chờ, không bao lâu quả nhiên nàng tới, Giác nhảy ra lôi kéo vào phòng mình. Nàng nói "Thiếp với chàng duyên phận đã hết, nếu cố sum họp e sẽ bị trời ghen ghét, nên giữ lại chút tình đó để thỉnh thoảng còn gặp nhau” Giác không nghe, rốt lại cùng nhau giao hoan. Sáng qua chỗ chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói "Giữa đường bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải nhọc lòng chờ đợi", kế trò chuyện vài câu rồi vội vàng ra đi. Không bao lâu có con mèo lớn ngậm con chim anh vũ đi ngang cửa phòng ngủ, chị dâu sợ quá, ngờ đó là A Anh, lúc ấy đang tắm cứ tạt nước gào lớn. Mọi người đổ ra đánh con mèo cướp được chim anh vũ lại, thấy cánh bên trái bết máu, hơi thở thoi thóp. Chị dâu đặt trên gối vuốt ve hồi lâu chim mới tỉnh lại, lấy mỏ rỉa cánh, giây lát bay lên vòng vòng trong phòng, gọi chị dâu nói “Xin vĩnh biệt chị, em oán Giác lắm", rồi vỗ cánh bay thẳng, không thấy trở lại nữa. [B]126. Ngưu Thành Chương[/B] [B](Ngưu Thành Chương)[/B] Ngưu Thành Chương là người buôn vải ở tỉnh Giang Tây, lấy vợ là Trịnh thị sinh được một trai một gái. Năm Ngưu ba mươi ba tuổi bị bệnh chết. Con trai tên Trung, năm ấy mười hai tuổi, con gái thì mới lên tám. Mẹ không thể thủ tiết, bán hết nhà cửa lấy tiền bỏ túi đi tái giá, để lại hai đứa con không biết làm sao mà sống. Có người chị dâu họ của Ngưu năm ấy đã sáu mươi tuổi, nghèo mà góa chồng bèn đem hai cháu về nuôi. Vài năm sau bà chết, nhà càng nghèo, nhưng Trung đã hơi lớn, nghĩ muốn nối nghiệp cha nhưng không có vốn. Em gái lấy chồng họ Mao, Mao vốn giàu có, cô gái năn nỉ chồng cho mượn vài mươi đồng vàng đưa anh. Trung theo người ta đi Kim Lăng, trên đường gặp cướp, tiền bạc mất sạch, bơ vơ không sao về được. Một hôm ngẫu nhiên đi ngang cửa hiệu, thấy chủ hiệu rất giống cha mình, trở ra hỏi thăm thì tên họ cũng giống, ngạc nhiên kinh sợ nhưng không dám bắt chuyện, chỉ ngày ngày quanh quẩn gần đó để xem ý tứ, nhưng người ấy cũng không ngó gì tới. Cứ thế ba ngày, thấy tiếng cười giọng nói dáng vẻ cử chỉ đúng là cha mình nhưng không dám bắt chuyện làm quen, bèn nhờ những người làm công giới thiệu là đồng hương, xin vào làm thuê. Làm giấy tờ xong, chủ nhân nhìn tới tên họ quê quán, có vẻ giật mình, hỏi cha mẹ là ai. Trung khóc nói tên cha, chủ nhân sửng sờ như bị mất vật gì. Hồi lâu hỏi mẹ ngươi khỏe không, Trung lại không dám nói là cha đã chết bèn lựa lời đáp “Cha ta sáu năm trước đi buôn không về, mẹ đã đi lấy chồng khác ta may được bà bác nuôi nấng chăm sóc, nếu không thì chết đói lâu rồi”. Chủ nhân thê thảm nói "Ta là cha ngươi đây", rồi nắm tay con bùi ngùi dắt vào nhà cho ra mắt mẹ kế. Mẹ kế họ Cơ, đã hơn ba mươi tuổi mà không sinh nở gì, gặp được Trung mừng lắm, bày tiệc ăn mừng. Ngưu vẫn thở than không vui, muốn về quê một lần, vợ lo cửa hiệu không có ai coi sóc cố ngăn cản. Ngưu bèn dạy con các việc buôn bán giao dịch, được ba tháng đem hết sổ sách giao cho con, thu xếp hành lý về quê. Lúc Ngưu đi rồi, Trung nói thật việc cha chết với mẹ kế, Cơ thị cả kinh nói "Ông ấy buôn bán ở đây, có nhiều người quen mới lưu lại buôn bán, cưới ta sáu năm rồi, sao lại nói là đã chết?”. Trung bèn kể rõ, hai người cùng ngờ vực không hiểu vì sao. Qua một ngày một đêm thì Ngưu đã về, dắt theo một người đàn bà đầu tóc rối bù, Trung nhìn thì là mẹ ruột của mình. Ngưu kéo tai người đàn bà chửi "Sao lại bỏ con ta?". Người đàn bà quỳ rạp xuống đất không dám động đậy, Ngưu cắn vào cổ, người đàn bà kêu Trung rằng “Con cứu mẹ với, con cứu mẹ với", Trung bất nhẫn xông vào can, lấy thân che cho mẹ. Ngưu còn giận dữ, người đàn bà đã biến mất, mọi người cả sợ la ầm lên là ma, nhìn tới Nơưu thì mặt mày trắng bệch, quần áo rơi hết xuống đất mà biến thành một làn khói đen từ từ tan mất. Mẹ con cùng kinh hãi than thở, nhặt áo mũ chôn cất. Trung thừa kế gia tài có hàng vạn lượng vàng, sau về nhà hỏi thăm thì người mẹ ruột đã đi lấy chồng chết đúng hôm ấy, cả nhà đều nhìn thấy Ngưu Thành Chương. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 127 - 128 -[/B] Thanh Nga (Thanh Nga) Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô[B]*[/B]. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi. *Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa. Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói "Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng". Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói "Công tử đã thích thì ta xin tặng", sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp. Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào. Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói “Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi". Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói “Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?". Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói "Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?". Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói “Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi" rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về. Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói "Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?", từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết. Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp "Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh”. Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói "Ta sẽ tác thành cho anh", rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói "Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi", sinh cười nói "Đừng quên bà mối chứ”, rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà. Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh "Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?”. Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi "Bị phồng chân phải không?”, sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói "Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông”. Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi. Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu. Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi “Sao chàng tới được nơi đây?” Sinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi "Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?”, cô gái đáp "Không phải, đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên”. Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói "Con rể tới rất hay, nên ở lại đây". Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói "Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì", rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ. Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói "Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?". Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói “Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi". Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp "Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo”. Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp. Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói “Nghiệt chướng thay". Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói "Bước ngay, bước ngay!”, vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói “Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết". Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất. Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh “Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về”. Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi. Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề "Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên", giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói “Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?". Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói “Đó là cha mẹ ta đấy". Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói “Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được”, nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin. Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp “Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa”. Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả". Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Khoét vách tường lên giường ngủ, tình ý quả là ngây, đào vách núi chửi cha vợ, hành vi quả là cuồng, người tiên tác hợp cho chỉ là muốn lấy việc trường sinh báo đáp lòng hiếu thảo vậy. Nhưng đã lưu vết ở nhân gian, lấy vợ sinh con, thì cứ an nhiên sống đến lúc chết cũng có gì là không được? Đây thì trong ba mươi năm mấy lần bỏ mặc con cái, sao lại cô độc như thế nhỉ? Lạ thật. [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 128 - 129 -[/B] Nha Đầu (Nha Đầu) Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp "Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ” Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp "Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ". Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói "Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho”. Vương bùi ngùi nói "Thật không dám có ý ấy", nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói "Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được?". Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói "Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài". Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang. Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói "Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?". Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói “Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi". Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường. Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói "Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn". Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói "Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi". Cô gái nói "Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn". Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói “Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?”, Vương hỏi thì nàng đáp “Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi”. Đến khuya nàng mừng rỡ nói "Không sao, là chị Nật tới". Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng "Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về", rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói "Chỉ theo một người thì có tội gì?", Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói "Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay”. Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói “Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong". Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi. Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói "Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?”, nó đáp “Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông"[B]*[/B]. Vương cả sợ nói "Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi", nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu. * Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn). Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói “Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy". Vương sa nước mắt nói “Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi", rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi "Sao ông lại tới nông nỗi này?". Triệu than "Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?”. Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói "Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy" Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết "Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy”. Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói “Sao con không nghe lời ta?", rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng "Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế”, rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói "Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?". Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ. Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương "Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp". Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói "Con không có tội gì”, mẹ nói “Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la”. Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói “Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người”. Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Kỹ nữ đều là hồ, những kẻ không cho rằng có hồ làm kỹ nữ, tới chỗ hồ tìm gà mái, thú mà làm cầm thì những chuyện thương luân bại lý có gì là lạ. Nhưng tới chuyện trải trăm cay ngàn đắng, đến chết không chịu theo người khác thì loài người vẫn cho là khó mà hồ cũng làm được sao? Vua Đường vẫn nói Ngụy Trưng có vẻ yếu ớt như đàn bà[B]*[/B] ta cũng nói về Nha Đầu như vậy.[/I] *Vua Đường... đàn bà: Ngụy Trưng là Thừa tướng của Đường Thái tông, tính cương trực trầm tĩnh, trước mặt vua dám can gián những việc lớn, Thái tông nhiều phen nổi giận nhưng Trung cứ thản nhiên tâu bày, vua vì thế cũng nguôi dần, thường nói "Người ta vẫn nói Trưng ngạo nghễ, nhưng ta xem có vẻ yếu ớt như đàn bà". Đây ý nói nhân vật Nha Đầu bề ngoài hiền dịu nhưng trong lòng cương cường, không thể khuất phục được. [B]129. Dư Đức[/B] [B](Dư Đức)[/B] Doãn Đồ Nam ở Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có gian nhà riêng cho một vị Tú tài thuê ở, suốt nửa năm cũng chưa từng tới chơi. Một hôm gặp ngoài cổng, thấy còn rất trẻ nhưng dung nghi đẹp đẽ, phục sức sang trọng, rảo bước tới cùng trò chuyện thấy nho nhã khả ái. Lấy làm lạ về nói với vợ, vợ sai tỳ nữ tìm cớ qua hỏi han để dò xét, thấy trong nhà còn có người em gái xinh đẹp như tiên, những non bộ cây cảnh quần áo đồ chơi đều không phải là những món từng nghe thấy. Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ. Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường. Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư. Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái. Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem. Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói “Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp “Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển VIII - 130 -[/B] Phong Tam Nương (Phong Tam Nương) Nàng Mười một họ Phạm là con gái quan Tế tửu ở Lộc Thành, lúc nhỏ đã tuyệt đẹp lại rất phong nhã. Cha mẹ vô cùng yêu quý, có ai tới dạm hỏi đều cho tự chọn lựa nhưng nàng chưa ưng đám nào. Gặp tiết Thượng nguyên, các ni cô ở chùa Thủy Nguyệt mở hội Vu Lan, hôm ấy con gái quanh miền tới lễ bái rất đông, nàng cũng tới xem. Đang lúc dạo cảnh chùa thấy có một thiếu nữ theo sát, mấy lần nhìn nàng như muốn bắt chuyện, nhìn kỹ thấy là một thiếu nữ khoảng mười sáu tuổi, nhan sắc cực đẹp trong lòng rất ưa thích cứ nhìn chăm chăm. Thiếu nữ mỉm cười hỏi "Chị có phải là cô Mười một họ Phạm không?", nàng đáp phải. Cô gái nói "Nghe danh đã lâu, quả lời đồn không sai". Nàng Mười một cũng hỏi quê quán họ tên, thiếu nữ đáp "Thiếp họ Phong, bày vai thứ ba, ở thôn gần đây". Hai người cầm tay chuyện trò vui vẻ, yêu mến nhau không muốn rời. Nàng Mười một hỏi sao chỉ đi một mình, thiếu nữ đáp "Cha mẹ thiếp mất sớm, nhà chỉ có một bà vú già phải coi nhà không di cùng được”. Nàng Mười một sắp về, Phong nhìn sững ứa nước mắt, nàng cũng buồn rầu, liền mời Tam nương ghé chơi. Phong nói "Nhà nương tử là nơi lầu son gác tía, thiếp lại vốn không phải là họ hàng, sợ sẽ bị chê cười". Nàng Mười một cố mời, Phong hẹn hôm khác, nàng rút một cành thoa vàng đưa tặng, Phong cũng lấy chiếc trâm biếc cài trên tóc đáp lễ. Nàng Mười một về nhà tưởng nhớ thiết tha, lấy chiếc trâm Phong tặng ra xem thì không phải vàng cũng không phải ngọc, người nhà đều không ai biết là thứ gì, rất lấy làm lạ. Hàng ngày cứ mong Phong tới chơi, buồn rầu phát bệnh. Cha mẹ hỏi biết chuyện, sai người dò hỏi khắp các thôn xóm quanh vùng nhưng không ai biết. Gặp tiết Trùng dương, nàng Mười một buồn bã, gọi tỳ nữ đỡ ra vườn, trải nệm dưới giậu cúc ngồi chơi, chợt có một cô gái trèo lên tường nhìn qua, nhìn lại thì là cô gái họ Phong. Cô gái gọi "Đỡ ta với” đứa tỳ nữ chạy ra đỡ, Phong nhảy luôn xuống. Nàng Mười một ngạc nhiên mừng rỡ, đúng phắt lên kéo Phong cùng ngồi xuống nệm, trách nàng lỗi hẹn rồi hỏi từ đâu tới đây? Phong đáp "Nhà thiếp cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tới chơi nhà cậu, trước đây nói ở thôn gần đây là nói nhà cậu thôi. Từ lúc chia tay cũng nhớ nhung lắm, nhưng kẻ nghèo hèn giao du với người sang thì chưa lên tới cổng đã thấy hổ thẹn, sợ bị gia nhân trong nhà không vừa mắt nên ngần ngại không muốn tới. Mới rồi đi ngang ngoài tường, nghe trong này có tiếng con gái liền trèo lên nhìn, cũng mong được gặp nương tử, giờ đã thỏa nguyện". Nàng Mười một kể lý do mình bị bệnh, Phong khóc như mưa, kế nói "Chuyện thiếp tới xin giữ kín cho, chứ để thiên hạ bàn tán này kia thì khó chịu lắm”. Nàng Mười một ưng thuận, kéo về phòng mình cùng ăn ngủ, đốc hết tâm sự. Dần dần khỏi bệnh, kết làm chị em với nhau, quần áo trang sức đều dùng chung, có ai tới thì Phong lánh mặt sau màn. Qua năm sáu tháng, Phạm công và phu nhân mới biết chuyện. Một hôm hai người đang đánh cờ thì phu nhân thình lình bước vào, vừa nhìn thấy Phong kinh ngạc nói "Thật xứng là bạn của con ta?", nhân nói với nàng Mười một "Trong khuê phòng có người bạn tốt thì là điều cha mẹ vui mừng, sao con không thưa sớm". Nàng Mười một bày tỏ ý Phong, phu nhân nhìn Phong nói "Tam nương làm bạn với con ta là điều ta rất vui, sap lại phải giấu diếm?". Phong đỏ bừng cả mặt, chỉ im lặng mân mê tà áo mà thôi. Phu nhân đi rồi, Phong bèn cáo biệt, nàng Mười một cố giữ lại mới thôi. Một đêm chợt Phong hớt hải từ ngoài chạy vào, khóc nói "Ta đã nói rằng không thể ở lại nay quả nhiên gặp chuyện vô cùng nhục nhã này!". Nàng Mười một giật mình hỏi han, nàng đáp "Vừa rồi ra thay áo bị một thiếu niên chặn đường chọc ghẹo, may mà chạy thoát, như thế thì còn mặt mũi nào ở lại nữa?". Nàng Mười một hỏi kỹ vóc dáng mặt mũi rồi tạ lỗi, nói “Xin đừng trách, đó là ông anh ngốc nghếch của em, để em thưa với mẹ đánh đòn trị tội". Phong nhất định từ biệt, nàng Mười một xin đợi đến sáng, Phong nói "Nhà ông cậu sát ngay gần đây, chỉ xin cái thang cho ta trèo qua tường thôi mà". Nàng Mười một thấy không giữ lại được liền sai hai đứa tỳ nữ cùng trèo qua tường tiễn nàng đi, được nửa dặm thì Phong từ tạ, hai tỳ nữ trở về, nàng Mười một nằm phục xuống giường khóc lóc thảm sầu như mất bạn trăm năm vậy. Vài tháng sau, đứa tỳ nữ có việc tới thôn bên, chiều tối trở về gặp Phong giữa đường, có bà già theo sau. Đứa tỳ nữ mừng rỡ chào hỏi, Phong cũng rầu rĩ hỏi thăm sức khỏe nàng Mười một, đứa tỳ nữ kéo áo Phong nói "Cô Ba ghé lại chơi đi, cô ta trông mong gần chết". Phong nói "Ta cũng nhớ muội tử, nhưng không muốn để người nhà biết, về cứ mở sẵn cửa vườn, ta sẽ tự tới". Đứa tỳ nữ về kể lại, nàng Mười một mừng quá theo lời ra vườn thì Phong đã vào tới rồi. Hai người gặp nhau cùng kể lể tình thương nhớ, rì rầm mãi không ngủ. Phong thấy đứa tỳ nữ đã ngủ say bèn trỗi dậy qua nằm chung với nàng Mười một, nói nhỏ "Thiếp vốn biết muội tử chưa hứa hôn, nhưng lấy tài sắc dòng dõi mà bàn thì lo gì em không lấy được người chồng danh giá. Nhưng đám công tử bột thì không đáng nói tới, nếu muốn có một người chồng xứng đáng thì xin đừng kén chọn giàu nghèo". Nàng Mười một cho là phải, Phong nói "Chỗ chùa chúng ta gặp nhau trước đây nay lại mở đạo trường, ngày mai chịu khó đi một chuyến, thiếp sẽ chỉ cho một người chồng như ý. Thiếp lúc nhỏ có đọc sách xem tướng, chắc chắn không sai đâu”. Tảng sáng Phong đi trước, hẹn gặp nhau ở chùa, lúc nàng Mười một tới thì Phong đã có ở đó rồi. Hai người dạo quanh chùa một vòng, nàng Mười một mời Phong đi cùng xe về, dắt tay nhau ra cổng thì thấy một Tú tài khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo vải không trang sức nhưng dung mạo anh tuấn. Phong bấm tay nàng Mười một nói "Người này có tài Hàn lâm đấy". Nàng Mười một liếc qua, Phong từ giã nói “Muội tử cứ về, ta sẽ tới ngay". Chiều tối quả nhiên Phong tới, nói "Ta đã dò hỏi rất rõ ràng, người ấy là Mạnh An Nhân ở cùng làng này". Nàng Mười một biết chàng nhà nghèo cho là không được, Phong nói "Sao muội tử cũng sa vào thói đời như thế “Người ấy mà nghèo hèn suốt đời thì ta xin khoét mắt không xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa". Nàng Mười một hỏi “Vậy thì làm thế nào?”, Phong đáp “xin đưa một vật cho ta cầm tới đính ước". Nàng Mười một nói "Sao chị lại dễ dàng thế? Cha mẹ em đều còn sống, nếu không chịu thì sao?", Phong đáp “Thì chính vì sợ hai vị không chịu nên mới làm thế mà thôi. Nếu em quyết ý, thì sống chết cũng làm sao ép uổng được”. Nàng Mười một cho là không nên, Phong nói “Cơ nhân duyên của nương tử đã phát động nhưng ma chướng chưa tiêu tan, hôm nay ta tới để báo đáp tình nghĩa lâu nay đấy. Xin từ giã ở đây, sẽ lấy cành thoa vàng được tặng trước đây giả mệnh em tặng chàng". Nàng Mười một đang còn định bàn lại, Phong đã bước ra đi luôn. Lúc ấy Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học giỏi, có ý kén vợ xứng đôi nên mười tám tuổi chưa hỏi cưới ai. Hôm ấy đi chơi chùa trông thấy hai người đẹp, về nhà cứ bồi hồi tơ tưởng, vừa hết canh một thì Phong Tam nương gõ cửa bước vào. Sinh khêu đèn nhìn mặt thì ra là một trong hai người đẹp mình trông thấy lúc sáng, mừng quá hỏi han. Phong nói "Thiếp họ Phong, chị em bạn của nương tử Mười một họ Phạm". Sinh thích lắm không buồn hỏi kỹ, sấn ngay tới ôm chầm lấy, Phong đẩy ra nói "Thiếp không phải như Mao Toại đem thân tự tiến mà là Tào Khâu đưa tin mai mối thôi. Nàng Mười một họ Phạm muốn kết nhân duyên nên nhờ ta làm mai mối đây". Sinh kinh ngạc không tin, Phong bèn đưa cành thoa vàng ra, sinh mừng quá thề “Làm phiền nàng vất vả lo toan cho như thế, ta mà không cưỡi được nàng Mười một thì xin ở vậy suốt đời”, phong bèn ra đi. Sáng ra sinh nhờ bà già láng giềng tới nói với Phạm phu nhân, phu nhân chê sinh nghèo, cũng không hỏi ý con, từ chối lập tức. Nàng Mười một nghe thấy thất vọng lắm, rất oán Phong làm lỡ mình, nhưng thoa vàng khó mà đòi lại, chỉ còn cách thề chết giữ trọn lời nguyền. Mấy hôm sau có con trai vị quan Mỗ tới cầu hôn, còn sợ không được nên nhờ quan huyện đứng ra làm mối. Lúc ấy Mỗ đang giữ chức lớn, Phạm công có ý sợ bèn hỏi nàng Mười một, nàng tỏ vẻ không vui, mẹ gạn hỏi cũng không đáp, chỉ khóc sướt mướt. Kế sai người nói riêng với phu nhân rằng ngoài Mạnh sinh ra thì đến chết không lấy ai cả. Phạm công nghe thế càng tức giận, bèn hứa hôn với người con vị quan Mỗ, lại ngờ con gái tư tình với Mạnh sinh nên càng gấp rút chọn ngày tốt làm đám cưới cho mau. Nàng Mười một phẫn uất bỏ ăn, suốt ngày chỉ nằm trong phòng. Đến đêm trước ngày cưới chợt trỗi dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát tỳ nữ chạy vội tới thưa tiểu thư đã thắt cổ tự tử, cả nhà kinh hãi than khóc nhưng hối hận không kịp nữa, ba ngày sau đem chôn cất. Mạnh sinh từ khi bà già láng giềng về kể lại, phẫn hận muốn chết nhưng vẫn dò la tin tức, mong có dịp cứu vãn tình thế. Nghe tin Phạm công hứa gả nàng Mười một, lửa hận thiêu đốt ruột gan, muôn vàn ý nghĩ đều dứt bỏ. Không bao lâu nghe tin ngọc lấp hương chôn, vô cùng đau xót, hận không được chết cùng người đẹp. Chờ tối ra cửa, định nhân lúc đêm tối tới khóc mồ nàng Mười một một lần, chợt có một người đi tới, tới gần thì ra là Phong Tam nương. Phong nhìn sinh nói "Mừng cho chàng nhân duyên đã thành". Sinh rơi nước mắt hỏi "Nàng không biết nàng Mười một đã chết à?", Phong đáp "Sở dĩ ta nói đã thành chính là vì nàng đã chết đấy. Mau gọi gia nhân đào mồ lên, ta có thuốc lạ có thể cứu nàng sống lại". Sinh theo lời, liền đào mộ phá quan tài rồi lấp huyệt lại như cũ, tự cõng cái xác cùng Tam nương về. Về tới nơi đặt nàng Mười một lên giường đổ thuốc cho, giây lát thì sống lại. Nàng thấy Tam nương liền hỏi đây là nơi nào, Phong chỉ vào sinh nói "Đây là Mạnh An Nhân", nhân kể lại mọi việc, nàng Mười một mới chợt như tỉnh mộng. Phong sợ việc tiết lộ, bèn đưa đi cách đó mười lăm dặm, ẩn náu ở một xóm núi. Phong định từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở một gian riêng. Kế đem bán những vật trang sức chôn theo để sinh sống, cũng hơi dư dật. Phong mỗi khi thấy sinh tới là vội vàng lánh mặt, nàng Mười một thong thả nói "Chị em ta còn hơn cả ruột thịt, nhưng rốt lại cũng không thể sum họp suốt đời, tính lại chẳng bằng cứ bắt chước hai chị em Nữ Anh Nga Hoàng cùng lấy vua Thuấn". Phong nói “Thiếp lúc nhỏ học được thuật lạ, thở hít có thể trường sinh nên không muốn lấy chồng". Nàng Mười một cười nói "Những thuật trường sinh trên đời vẫn truyền tụng có tới hàng đống, nhưng đã có ai học theo mà được trường sinh?". Phong đáp “Cái thuật mà thiếp học được không phải như người đời vẫn biết. Thuật người đời vẫn truyền chẳng phải là chân truyền, chỉ có Ngũ cầm đồ của Hoa Đà[B]*[/B] là đúng. Phàm hành giả luyện công ai cũng muốn khí huyết được lưu thông, nếu bị ngưng trệ vướng mắc mà làm theo tư thế con cọp thì hết ngay, không phải là hiệu nghiệm à?” *Ngũ cầm đồ của Hoa Đà: Hậu Hán thư, Hoa Đà truyện chép Hoa Đà là bậc danh y, có một cách tập luyện thân thể tên là "Ngũ cầm chi hý" mô phỏng tư thế, động tác của năm giống vật là cọp, hươu, gấu, vượn, chim. Ngũ cầm đồ đây có lẽ chỉ các bức vẽ hướng dẫn về cách tập luyện nói trên. Nàng Mười một ngầm bàn mưu với sinh, bảo sinh giả có việc đi xa, đến đêm cố ép Phong uống rượu thật say cho sinh vào làm bừa. Tam nương tỉnh dậy nói "Muội tử hại ta rồi. Nếu không phá sắc giới mà tu luyện thành đạo thì có thể lên tới tầng trời thứ nhất. Nay vướng vào mưu gian, cũng là mệnh vậy”. Bèn đứng dậy từ giã, nàng Mười một bày tỏ lòng thành, năn nỉ xin tha lỗi. Phong nói “Nói thật ta là hồ, vì thấy em xinh đẹp chợt nảy lòng yêu mến, như con tằm nhả kén tự buộc lấy mình mới có chuyện ngày hôm nay. Đó là vì tình nghiệt chứ không phải sức người, còn ở lại đây thì ma chướng càng sâu, không biết tới đâu là hết. Nương tử phúc trạch còn nhiều, xin tự bảo trọng". Dứt lời thì biến mất, vợ chồng kinh ngạc than thở hồi lâu. Qua năm sau sinh đỗ cả thi hương lẫn thi hội, làm quan tới chức Hàn lâm, đưa danh thiếp tới yết kiến Phạm công, Phạm công thẹn thùng hối hận không chịu tiếp, sinh năn nỉ mãi mới ra gặp Sinh vào lạy chào theo lễ con rể rất cung kính, Phạm công nổi giận ngờ là sinh chế nhạo. Sinh xin nói chuyện riêng rồi kể hết mọi việc, Phạm công chưa tin lắm, sai người tới nhà sinh xem mới kinh ngạc vui mừng nhưng ngầm dặn người nhà giữ kín đừng nói rộng ra vì sợ có tai biến. Hai năm sau, vị quan Mỗ phạm tội bị phát giác, cha con đều bị sung quân ở Liêu Hải, nàng Mười một mới về thăm cha mẹ. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 131 - 132 -[/B] Giấc Mộng Hồ (Hồ Mộng) Tất Di Am bạn ta tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm Thứ sử, nghỉ ngơi trên lầu, nghe đồn trong lầu có nhiều hồ. Tất mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng[B]*[/B] thường tỏ lòng hâm mộ, hận không được một lần gặp gỡ. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Tất giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói "Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm lòng mà tới". Tất nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói "Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới", dứt lời ra đi. *Truyện Thanh Phượng: xem truyện Thanh Phượng, quyển I. Tối hôm sau Tất đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái "Tất lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy". Tất kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói "Chàng béo vừa nặng vừa ngốc, làm người ta không sao chịu nổi”. Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói "Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi". Tất hỏi ở đâu, nàng đáp "Chị cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa". Đêm sau Tất ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái bước vào nói "Làm phiền chàng phải đợi lâu”, rồi cầm tay Tất dẫn đi. Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, thấy tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng mới. Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo "Cô Hai tới”, kế thấy một nữ lang vào, khoảng mười tám mười chín tuổi, nhìn cô gái cười nói "Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không”. Cô gái cầm quạt đập vào lưng chị, trợn mắt nhìn, nàng Hai nói "Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra, kế giận ta, nói sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt, ta nói con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế". Nàng Cả cười nói "Chẳng trách dì Ba lại giận dỗi, rể mới đang ở đây mà ăn nói bừa bãi như thế”. Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Chợt một cô gái nhỏ bế một con mèo tới, khoảng mười một mười hai tuổi, tóc còn chưa kết bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ xinh đẹp. Nàng Cả nói “Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể à? Nhưng ở đây hết chỗ rồi”, rồi bế cô nhỏ đặt ngồi lên đùi lấy bánh trái cho ăn. Lát sau lại bế đặt vào lòng nàng Hai, nói "Nó đè lên đùi ta nặng quá". Nàng Hai nói "Con nhãi to xác nặng hàng trăm cân, ta ốm yếu làm sao chịu nổi. Đã muốn xem mặt anh rể, thì anh rể vốn to lớn, đùi to dễ ngồi lắm", rồi bế xốc em đặt vào lòng Tất, Tất thấy người cô nhỏ thơm tho mềm mại mà nhẹ như không, bèn ôm lấy cho uống rượu cùng chén với mình. Nàng Cả nói “Con nhãi đừng quá chén, say rồi thất thố thì anh rể cười cho đấy!". Cô nhỏ nhoẻn miệng cười, lấy tay chọc mèo cho nó kêu lên. Nàng Cả nói "Còn không vứt đi, cứ ôm lấy nó cho lây bọ chét". Nàng Hai nói "Xin lấy con mèo làm tửu lệnh, mọi người cứ cầm đũa chuyền cho nhau, tới ai mà mèo kêu thì người ấy phải uống", mọi người theo lời. Cứ đũa tới tay Tất là mèo lại kêu, Tất vốn uống rượu rất hào, uống liền mấy chén lớn mới biết cứ đũa tới mình là cô nhỏ lại véo mèo cho kêu lên. Mọi người cười ầm, nàng Hai nói "Thôi em đi ngủ đi, ngồi tê cả chân ông anh, không khéo chị Ba lại phiền", cô gái nhỏ bèn bế mèo đi ra. Nàng Cả thấy Tất tửu lượng cao liền gỡ cái độn tóc rót rượu mời, Tất nhìn thấy cái độn chỉ khoảng một thăng nhưng khi uống thì thấy rượu nhiều như mấy đấu, uống cạn nhìn lại thì hóa ra là tàu lá sen. Nàng Hai cũng muốn mời, Tất chối từ nói không uống nổi nữa, nàng bèn lấy ra cái hộp đựng nhẫn nhỏ như viên đạn rót rượu vào nói "Nếu không uống được nhiều thì xin uống một chút cho ta vui". Tất nhìn thấy nghĩ chỉ một hớp là hết, nhưng uống liên tiếp hàng trăm hớp vẫn không cạn. Cô gái ngồi cạnh bèn lấy cái chén hạt sen thay cái hộp đựng nhẫn, nói "Đừng để kẻ gian lừa gạt”, đặt cái hộp lên bàn thì là một cái tô lớn. Nàng Hai nói "Việc gì đến ngươi? Vợ chồng mới ba ngày mà yêu thương đến thế kia à?". Tất cầm lấy cái chén đua lên miệng dốc cạn, chợt thấy vật trong tay mềm mềm, nhìn kỹ thì không phải là chén mà là một chiếc giày thêu, đường kim mũi chỉ cục kỳ khéo léo. Nàng Hai vội giật lấy, mắng "Con nhãi đánh cắp giày người ta lúc nào thế? Chẳng trách gì chân ta cứ lạnh toát”, rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày. Cô gái mời rượu khắp lượt rồi đứng lên từ biệt, tiễn Tất ra tới ngoài thôn, bảo cứ về một mình. Tất chợt tỉnh thì ra là giấc mộng, nhưng thấy trong miệng vẫn còn mùi rượu thơm phức, lấy làm lạ lùng. Đến tối cô gái tới, nói “Đêm qua say rượu chưa chết à?" Tất nói vẫn đang ngờ là giấc mộng. Nàng nói "Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!". Cô gái cùng Tất đánh cờ, Tất thường thua, nàng cười nói "Chàng hàng ngày vẫn nghiện môn này, thiếp cứ nghĩ là giỏi lắm, nay xem ra cũng chỉ thường thường vậy thôi". Tất xin chỉ dạy cho, cô gái nói "Thuật chơi cờ là do người chơi tự lĩnh hội mà ngộ, thiếp làm sao giúp chàng được cứ mỗi ngày nghiền ngẫm thêm một ít thì may ra có thể khá lên". Qua vài tháng, Tất thấy đánh cờ hơi lên tay, cô gái đánh thử rồi cười nói "Còn chưa được, còn chưa được?". Tất ra ngoài chơi với các bạn cờ thì ai cũng thấy giỏi hơn hẳn, có người lấy làm lạ. Tất vốn tính ngay thẳng thành thật không quen giấu diếm bèn nói lộ ra, cô gái biết ngay, trách "Chẳng lạ gì bạn bè không chơi với gã cuồng sinh, đã dặn đi dặn lại là phải kín miệng, sao chàng còn làm như thế rồi giận dỗi bỏ đi. Tất xin lỗi mãi nàng mới hơi nguôi, nhưng từ đó tới ngủ lại thưa hơn trước. Được hơn một năm, một đêm nàng tới ngồi im nhìn Tất, rủ đánh cờ thì không đánh, bảo đi ngủ cũng không ôi, buồn rầu hồi lâu rồi nói "Chàng xem thiếp với Thanh Phượng ai hơn?", Tất đáp "Nàng hơn nhiều chứ!". Cô gái nói "Thiếp tự thẹn là không bằng, nhưng ông Liêu Trai là bạn văn chương với chàng, nhờ chàng phiền ông viết cho một thiên tiểu truyện, chưa chắc sau ngàn năm đã không có người mong mỏi như chàng". Tất nói "Ta vốn có ý ấy, nhưng vì nhớ lời nàng dặn nên còn giữ kín". Cô gái nói "Đúng là trước kia thiếp có dặn thế thật, nhưng nay đã sắp chia tay, còn e ngại gì nữa". Tất hỏi đi đâu, nàng đáp “Thiếp và em Tư được Tây Vương Mẫu triệu làm Hoa điểu sứ, không thể tới đây được nữa". Tất xin dặn dò vài lời, nàng nói "Bỏ tức giận thì bớt lỗi lầm", rồi đứng lên cầm tay Tất nói “Chàng tiễn thiếp một đoạn”. Đi khoảng một dặm thì nhỏ lệ chia tay, nàng nói "Hai ta có lòng, biết đâu sẽ có ngày gặp lại", rồi đi. Ngày mười chín tháng chạp năm Khang Hy thứ 21 (1682), ông Tất cùng ta nằm gác chân lên nhau trò chuyện ở Xước Nhiên Đường, kể lại tỉ mỉ chuyện lạ này. Ta nói "Có hồ như thế thì bút mục Liêu Trai cũng được vẻ vang", bèn ghi chép lại. [B]132. Chương A Đoan [/B] [B](Chương A Đoan) [/B] Thích sinh người huyện Vệ Huy (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ đã chín thắn, gan dạ dám nhận việc lớn. Lúc ấy có nhà đại tộc có tòa phủ đệ, giữa ban ngày thấy ma hiện hình, người nhà nối nhau chết nên xin bán rẻ. Sinh thấy rẽ bèn mua để ở, nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành tạm bỏ hoang, tôi tớ cứ đêm đêm la hoảng, kêu là có ma. Hơn hai tháng thì một người tỳ nữ chết, không bao lâu thì vợ sinh đang lúc chiều tối tới khu lầu gác hoang phế, về phát bệnh vài hôm cũng chết. Gia nhân càng sợ khuyên dời đi chỗ khác, sinh không nghe, nhưng góa vợ trơ trọi một mình, trong lòng đã buồn rầu, bọn tôi tớ lại cứ đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói. Sinh nóỉ giận hầm hầm mang chăn gối ra ngủ một mình trong ngôi đình bỏ hoang, để đèn chờ xem sự lạ nhưng hồi lâu không thấy gì, dần dần thiếp đi. Bỗng có người thò tay vào chăn sờ soạng vuốt ve, sinh tỉnh dậy nhìn thì là một người tỳ nữ già mặt mày nhăn nheo đầu tóc rối bù trông rất ghê tởm. Sinh biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra cười nói "Tôn giá thì ta không thể vâng mệnh". Bà ta hổ thẹn rút tay lại, thất thểu bỏ đi. Giây lát một nữ lang từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, sấn tới trước đèn giận dữ mắng gã học trò ngông ở đâu dám tới đây nằm, sinh trỗi dậy cười nói "Tiểu sinh là chủ nhà này, đợi nàng để đòi tiền phòng thôi", rồi vùng dậy trần truồng đuổi bắt. Cô gái vội bỏ chạy, sinh chạy tới phía tây bắc trước chặn đường, nàng cùng đường ngồi luôn xuống giường. Sinh tới gần, dưới ánh đèn thấy nàng đẹp như tiên bèn ôm vào lòng. Cô gái cười nói "Gã học trò ngông không sợ ma ư? Ta sẽ vật chết đấy". Sinh cởi tuột áo quần ra, nàng cũng không chống cự lắm, xong rồi bèn nói “Thiếp họ Chương tên A Đoan, lấy phải thằng chồng lêu lổng, tính hung ác bất nhân cứ chửi mắng đánh đập nên phẫn uất chết yểu, chôn ở đây hơn hai mươi năm rồi. Dưới nền nhà này toàn là mồ mả". Sinh hỏi người tỳ nữ già là ai, nàng đáp “Cũng là một con ma cũ ở đây, hầu hạ cho thiếp. Có người sống ở bên trên thì ma quỷ bên dưới không yên nên mới rồi sai mụ ra đuổi chàng đi”. Sinh hỏi mụ sờ soạng để làm gì, nàng cười đáp "Mụ ta đã ba mươi năm nay chưa được gần gũi đàn ông, kể cũng đáng thương, nhưng thật không tự biết xét mình. Đại khái ai yếu bóng vía thì ma càng quấy phá, ai cứng cỏi thì ma không dám xúc phạm". Nghe chuông chùa xóm bên dứt tiếng, nàng mặc quần áo bước xuống giường nói "Nếu chàng không nghi ngờ, thì đêm thiếp sẽ lại tới". Trời tối, quả thật nàng lại tới, cùng nhau mây mưa rất hoan lạc. Sinh nói “Vợ ta chẳng may qua đời, ta thương xót không khuây, nàng có thể đưa giúp về đây được không?". Cô gái nghe thế càng thêm ngậm ngùi, nói "Thiếp chết hai mươi năm mà không có ai nghĩ nhớ tới một lần, chàng quả là người đa tình, thiếp xin cố hết sức. Nhưng nghe nói nương tử đã có chỗ đầu thai rồi, không biết còn ở dưới âm ty không”. Qua đêm sau nàng nói với sinh rằng "Nương tử sắp được đầu thai vào nhà giàu sang nhưng vì lúc còn sống vì mất đôi hoa tai mà đánh đập đứa tỳ nữ khiến nó treo cổ tự tử, còn kiện tụng chưa xong nên chưa đi, nay đang tạm ở lại chỗ Dược Vương, có người canh giữ. Thiếp sai mụ tỳ nữ đi lo lót, có khi sắp về tới". Sinh hỏi sao nàng lại được thong thả, cô gái đáp “phàm ma quỷ chết oan nếu không tự tới khai báo thì Diêm Vương không sao biết được". Vừa hết canh hai thì người tỳ nữ già đưa vợ sinh về, sinh nắm tay vợ đau xót khóc lóc, vợ cũng rơi lệ không nói được gì. Cô gái từ giã, nói "Hai người cứ nói chuyện với nhau, đêm khác sẽ gặp lại". Sinh an ủi hỏi thăm việc đứa tỳ nữ tự tử, vợ đáp "Không hề gì, đã xử xong rồi", rồi lên giường ôm ấp yêu đương như lúc còn sống, từ đó lại ăn ở với nhau như thường. Năm ngày sau, vợ sinh chợt khóc nói "Ngày mai thiếp phải đi Sơn Đông, đến lúc vĩnh quyết rồi, biết làm thế nào?”. Sinh nghe nói rơi lệ sụt sùi, vô cùng đau đớn. Cô gái khuyên nói "Thiếp có một cách có thể giúp hai người tạm thời sum họp". Hai người cùng gạt lệ hỏi cách gì, nàng xin lấy mười xấp giấy tiền đem đốt ở dưới gốc cây hạnh trước gian nhà phía nam để hối lộ với người áp giải đi đầu thai xin hoãn lại ít lâu. Sinh theo lời, đến tối thì vợ về nói “May nhờ có Đoan nương nên nay được sum vầy thêm mười hôm", sinh mừng rỡ không cho Đoan về mà giữ lại cùng nằm chung giường từ đêm đến sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng tàn. Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc lóc suốt đêm, hỏi cô gái có kế gì không. Nàng nói "Tình thế này khó mà làm như lần trước, nhưng muốn thử thì không có trăm vạn không được”, sinh bèn đốt đủ số. Hôm sau cô gái tới mừng rỡ nói "Thiếp nhờ người nói với kẻ áp giải, lúc đầu y ra vẻ khó khăn, đến khi thấy có nhiều tiền mới xiêu lòng, giờ đã lấy con ma khác đi đầu thai thay nương tử rồi". Từ đó ban ngày cũng không về, bảo sinh đóng kín cửa, thắp đèn không lúc nào tắt. Cứ thế hơn một năm, chợt cô gái mắc bệnh, thẫn thờ buồn bã, hoảng hốt như thấy ma. Vợ sinh vỗ về nàng, nói "Đây là bệnh ma làm", sinh hỏi "Đoan nương đã là ma rồi, lại còn ma nào làm cho bệnh nữa?". Vợ sinh đáp, "Không phải, người chết thành ma, ma chết thành mị, ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy”. Sinh muốn mời thầy cúng, vợ nói "Bệnh của ma thì làm sao người chữa được? Bà Vương ở thôn bên đang làm thầy cúng dưới âm ty, có thể gọi tới. Nhưng từ đây tới đó đường xa mười dặm, mà thiếp chân yếu không đi bộ được, xin chàng đốt cho con ngựa giấy”. Sinh theo lời, ngựa giấy vừa cháy tàn thì tỳ nữ dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân đưa dây cương cho vợ sinh, trong chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một bà già cưỡi chung ngựa tới, buộc vào cột hiên. Bà già vào ngồi xuống, lắc lư lên đồng, ngã lăn xuống đất một lúc rồi bò dậy nói "Ta là Hắc Sơn đại vương đây, nương tử đây bệnh nặng lắm, may mà gặp tiểu thần, phúc trạch không kém đâu. Bệnh này là bị ma làm nhưng không sao không sao, muốn khỏi phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào", vợ sinh răm rắp vâng dạ. Bà ta lại ngã xuống đất rồi tỉnh lại, nhìn vào người bệnh quát tháo rồi thôi. Kế xin về, vợ sinh tiễn ra tới sân, tặng luôn cho con ngựa, bà ta vui vẻ ra về. Vào nhìn thấy cô gái như hơi tỉnh táo, vợ chồng cả mừng vỗ về hỏi han, nàng chợt nói "Thiếp sợ không trở về nhân gian được nữa, cứ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện ra, cũng là số mệnh vậy", rồi khóc sướt mướt. Qua đêm sau bệnh nàng càng nặng, co quắp run rẩy như thấy vật gì, cứ kéo sinh lên nằm chung, rúc đầu vào lòng sinh như sợ bị bắt đi, sinh đứng lên đi đâu thì kinh hoảng kêu la, cứ thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng không biết tính sao. Gặp hôm sinh đi vắng nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ khóc hoảng hốt vào hỏi thì Đoan nương đã chết trên giường, xác vẫn còn đó. Sinh giở chăn nhìn thấy xương trắng phau phau, thương xót gào khóc, đem tống táng như người, chôn cạnh mồ mả ông bà. Một đêm vợ sinh nằm mơ khóc thổn thức, sinh lay gọi hỏi chuyện gì thì đáp "Vừa rồi mộng thấy Đoan nương tới nói chồng nàng làm mị giận nàng chết rồi mà không giữ tiết nên tới đòi mạng, xin lập đạo tràng siêu độ cho”. Sinh đậy sớm định làm theo lời, vợ ngăn lại nói "Việc siêu độ cho ma chết thì chàng không làm được đâu”, rồi trở dậy đi, giây lát trở về nói "Ta đã sai người đi mời sư, phải đốt tiền trước cho họ làm lộ phí". Sinh theo lời, mặt trời vừa lặn thì tăng chúng kéo cả tới, trống chiêng nạo bạt đều giống hệt như ở trần gian, vợ cứ nói ồn ào điếc cả tai nhưng sinh không nghe thấy gì cả. Cúng xong, vợ sinh lại nằm mơ thấy Đoan nương về tạ ơn, nói “Thù oán đã rửa sạch rồi, sắp đi thác sinh làm con gái Thành hoàng, nhờ nói lại cho chàng Thích biết”. Vợ sinh về nhà ba năm, gia nhân lúc đầu nghe biết rất sợ, lâu ngày dần quen, sinh đi đâu vắng thì đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm việc nhà. Một đêm, nàng nhìn sinh khóc nói "Người lính áp giải vong hồn đi đầu thai trước đây đã để lộ việc man trá, nay âm ty lùng bắt thiếp rất gấp, e không thể sum họp lâu nữa". Mấy hôm sau quả nhiên bị bệnh, nói "Vì nặng tình chàng nên chỉ muốn chết mãi chứ không thích được thác sinh, nhưng nay sắp phải vĩnh biệt, chắc cũng là số chăng?". Sinh lo sợ hỏi có cách nào thoát không, nàng nói “Chuyện này thì không có cách gì đâu”. Sinh hỏi liệu có bị trừng phạt gì không, vợ đáp “Cũng bị trừng phạt qua loa, tham sống mới là tội to chứ tham chết chỉ là tội nhỏ". Nói xong nằm yên không động đậy, nhìn kỹ thì dung mạo thân thể dần dần biến mất. Sinh cứ ra ngủ một mình trong đình để chờ có ngày gặp lại, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm, từ đó gia nhân ở yên. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 133 -[/B] Nàng Hoa Cô (Hoa Cô Tử) An Ấu Dư là Bạt cống ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), tính phung phí hay làm việc nghĩa, lại thích phóng sinh, thấy ai săn được chim muông là bỏ nhiều tiền mua rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, sinh tới giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc đường trong núi, trong lòng lo sợ, chợt thấy cách khoảng một tầm tên có ánh đèn lửa bèn rảo bước tới. Được mấy bước bỗng thấy một ông già lưng còng kéo lê gậy, cắt đường đi mau tới. An dừng bước định hỏi thăm thì ông già đã hỏi trước là ai. An thưa chuyện mình lạc đường, lại nói chỗ có đèn lửa chắc là xóm núi, định tới ngủ nhờ. Ông già nói "Đó không phải là nơi yên ổn, may mà lão phu tới đây, cứ theo lão về, nhà tranh cũng có chỗ nghỉ ngơi”. An cả mừng đi theo, khoảng một dặm thì tới một xóm nhỏ. Ông già gõ phên cửa, một bà già ra mở cửa hỏi “Ông đã về đấy à?", ông già đáp "Phải”. An vào thấy nhà thấp nhỏ thật hẹp, ông già khêu đèn giục ngồi rồi bảo bà già có gì ăn thì đem lên mời khách, lại nói "Đây không phải ai khác mà là ân nhân của ta đấy. Bà đi lại khó khăn, cứ gọi Hoa Cô dọn rượu”. Lát sau một cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm. An nhìn lại thấy mặt hoa da phấn, xinh đẹp như tiên. Ông già ngoảnh lại sai hâm rượu, trong gian phòng phía tây có lò than, cô gái bước vào nhóm lửa. An hỏi lão truựng là ai, ông già đáp "Lão phu họ Chương, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó, trong nhà ít tôi tớ, vì ông không phải là người lạ nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, xin đừng chê cười!". An hỏi “Nhà con rể lão trượng ở đâu?", ông già đáp còn chưa có ai. An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp lại chợt nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì là rượu sôi trào ra bốc cháy. Ông già dập tắt xong, mắng “Con nhãi lớn rồi mà rượu sôi không biết à?”. Nhìn thấy cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô bằng ruột cây quỳ còn bện chưa xong lại mắng "Tóc bồng bồng như thế mà còn như trẻ con". Bèn cầm lên cho An xem, nói "Nó tham làm cái này để kiếm ăn nên để rượu sôi trào ra, được bậc quân tử quá khen, há chẳng thẹn chết sao?". An ngắm kỹ thấy mắt mày xiêm áo làm rất khéo léo bèn khen rằng "Tuy giống như trò chơi của trẻ con nhưng cũng đủ thấy là rất sáng dạ". Chuốc chén hồi lâu, cô gái mấy lần ra rót rượu, nhoẻn miệng tươi cười không hề có vẻ ngượng nghịu. An chăm chú nhìn, thấy lòng xao xuyến. Chợt nghe tiếng bà già gọi, ông già đi vào, An thấy không có ai bèn nói với cô gái "Nhìn thấy dung mạo người tiên làm ta điên đảo, muốn nhờ mối lái dạm hỏi mà sợ không được, ý nàng thế nào?". Cô gái cầm bầu rượu tới cạnh lò, im lặng như không nghe thấy, hỏi mấy lần không đáp, sinh bèn bước vào phòng. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói "Chàng cuồng vào phòng định làm gì?". An quỳ rạp nài nỉ, nàng đi mau tới cửa định chạy ra, An đứng bật dậy chặn đường, ôm lấy nàng hôn hít. Cô gái run rẩy kêu lên, ông già vội chạy vào, An buông tay bước ra, vô cùng thẹn thùng sợ sệt. Cô gái thong thả nói với cha "Rượu lại sôi trào, không có chàng đây chạy vào thì cả cái bầu cũng cháy luôn rồi". An nghe thế mới yên lòng, càng biết ơn nàng, thần hồn điên đảo bỏ luôn ý định mới rồi. Rồi đó giả say rời bàn, cô gái cũng bước ra, ông già trải chăn đệm xong đóng cửa đi. An không ngủ được, chưa sáng đã gọi ông già dậy chào về. Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. An bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi nàng Hoa Cô. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt. Cô gái nghiêng đầu cười nói "Chú nhỏ ngây sao lại tới nông nỗi này?”, rồi lên giường ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An thấy có mùi xạ hương thơm ngát xộc vào mũi thấm tận xương. Nàng day một lúc An chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế. Nàng nói nhỏ "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh bao đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm An ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa. Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói "Chàng ngây không tạ ơn bà lang à?". An mừng quá ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Kế cô gái nói "Thiếp mạo hiểm chịu tiếng xấu chỉ vì báo đáp ơn lớn chứ thật không thể chung sống với nhau mãi mãi, xin chàng sớm liệu chia tay". An im lặng hồi lâu rồi hỏi "Vốn bình sinh đã quen biết gia đình nàng ở đâu, quả thật không nhớ". Cô gái không đáp, chỉ nói "Chàng tự nghĩ thì biết". Sinh nài nĩ xin được gàn bó dài lâu, nàng nói “Đêm nào cũng lén tới thì không xong, mà lấy nhau như vợ chồng cũng không được ". An nghe nói vô cùng buồn bã, cô gái bèn nói "Nếu muốn cưới nhau, đêm mai xin mời chàng tới nhà thiếp". An bèn đổi buồn làm vui, hỏi "Đường sá xa xôi, chân nàng nhỏ bé làm sao tới đây được?", cô gái đáp "Thiếp vốn chưa về nhà, bà điếc bên láng giềng là hàng dì của thiếp, vì việc chàng mà nấn ná đến nay, sợ ở nhà lo lắng”. An cùng nàng ngủ chung, chỉ thấy hơi thở da thít đều thơm ngát bèn hỏi "Nàng xông loại hương gì mà thấm cả vào da thịt thế?”, cô gái đáp “Thiếp sinh ra đã thế, không phải do xông hương đâu”, An càng lấy làm lạ. Sáng ra nàng dậy từ biệt, An sợ lạc đường, nàng hẹn sẽ chờ trên dường. Chiều tối An phóng ngựa đi, quả thấy cô gái đứng chờ, đưa tới chỗ cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu không có món nào ngon, có cả những thứ rau tạp. Kế mời khách đi nghỉ, cô gái không nhìn ngó gì tới, An càng nghi ngại. Mãi đến khuya nàng mới tới nói "Cha mẹ cứ rì rầm không ngủ khiến chàng phải chờ lâu," Hai người quấn quít cả đêm, nàng nói với An "Gặp mặt đêm nay rồi xa nhau trăm năm đấy". An ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Cha thấy xóm nhỏ này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời nhà đi xa, gặp gỡ chàng đêm nay nữa là thôi". An không nỡ buông nàng ra, ngẩng lên cúi xuống than thở, đang còn lưu luyến thì trời sáng dần, chợt ông già sấn vào mắng "Con nhãi làm nhơ nhuốc gia phong khiến ta nhục nhã muốn chết!". Cô gái tái mặt vội vàng chạy mất, ông già cũng bước ra, vừa đi vừa mắng. An sợ hãi quýnh quáng, không biết làm sao đành lẻn ra trốn về. Mấy ngày bồi hồi, trong lòng bứt rứt không yên, nhân nghĩ đến đêm lần tới trèo tường vào xem sao, ông già đã nói ta có ơn với họ thì dù việc lộ ra chắc cũng không trách móc nặng lời. Bèn nhân đêm tối lẻn tới, lần mò trong núi, lạc lối không biết đi đường nào, sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hốc núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đi tới thấy tường cao cổng rộng như nhà thế gia, mấy lớp cổng còn chưa đóng. Hỏi thăm nhà họ Chương thì có một người tỳ nữ ra hỏi là ai mà đang đêm hỏi thăm nhà họ Chương, An đáp "Đó là người quen với ta, ngẫu nhiên quên mất nhà". Người tỳ nữ nói "Chàng trai không phải hỏi họ Chương nữa, đây là nhà mợ nàng, Hoa Cô hiện đang ở đây, để ta vào báo". Trở vào không bao lâu thì quay ra mời An vào, vừa vào tới hành lang thì Hoa Cô đã rảo bước ra đón, nói với người tỳ nữ "Chàng An lặn lội đến nửa đêm chắc đã mệt lắm, mau sửa soạn chỗ ngủ đi!". Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi sao trong nhà không có ai khác, cô gái đáp "Mợ đi vắng, để thiếp ở lại trông nhà, may được gặp chàng, há không phải là duyên số ư?", nhưng trong lúc dựa kề An lại thấy rất hôi tanh, trong lòng ngờ có điều lạ. Cô gái ôm cổ An, thè lưỡi liếm vào lỗ mũi, thấy như mũi kim đâm đau thấu tận óc. An sợ quá vội vàng giãy giụa nhưng thân thể như bị thùng lớn trói chặt, giây lát ngất đi không biết gì nữa. An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi, có người nói chiều tối gặp An trên đường núi. Người nhà vào núi tìm thì thấy An trần truồng nằm chết dưới vách đá cao ngất, khiếp hãi lạ lùng không hiểu vì sao. Cáng về tới nhà, cả nhà đang xúm lại than khóc thì có một nữ lang tới viếng, từ ngoài cổng gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi An, nước mắt ròng ròng kêu lớn "Trời ơi, trời ơi, sao mà ngu dại như thế”, gào khóc khản cả tiếng lát sau mới nín, nói với người nhà "Xin để đó bảy ngày đừng liệm". Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì cô gái không buồn chào hỏi, nuốt nước mắt đi thẳng ra, mời giữ cũng không ngoảnh lại. Đi theo thì trong chớp mắt đã biến mất, mọi người ngờ là thần bèn kính cẩn vâng lời. Đêm nàng lại tới khóc như hôm trước, qua bảy đêm chợt An tỉnh lại trở mình rên rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nhìn nhau nghẹn ngào, An giơ tay xua mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ, nấu với một đấu nước cho uống ngay trên giường. Giây lát An nói được, thở dài nói "Giết ta lần nữa là nàng mà cứu ta lần nữa cũng là nàng", nhân kể lại những việc đã gặp. Cô gái nói "Đó là con tinh rắn giả làm thiếp, trước đây chàng lạc đường lần đầu nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy". An hỏi "Nàng có thể làm cho người chết sống lại, xương khô mọc thịt như thế, không phải là tiên sao?”. Cô gái đáp "Đã định nói ra từ lâu nhưng sợ chàng sợ hãi. Năm năm về trước chàng đi trong núi Hoa Sơn có mua con chương người ta săn được rồi thả ra phải không?”. An đáp "Đúng là có việc ấy". Nàng nói "Con chương ấy chính là cha thiếp, trước đây thiếp nói chàng có ơn lớn chính vì cớ đó. Hôm trước chàng đã đầu thai vào nhà Chủ chính họ Vương ở thôn Tây, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp xin hủy đạo chết thay chàng, năn nỉ bảy ngày mới xong. Nay được gặp nhau là may mắn lắm, nhưng chàng tuy sống vẫn bị bại liệt, phải lấy được máu rắn ấy hòa với rượu mà uống thì mới khỏi”. Sinh căm hờn nghiến răng nhưng lo không có phép gì bắt được. Cô gái nói "Chuyện ấy không khó, nhưng giết nhiều sinh linh sẽ làm lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ, cứ chờ lúc sắp trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài chuẩn bị cung cứng thì sẽ bắt được yêu vật". Dứt lời cáo biệt, nói "Thiếp không thể thờ chàng trọn đời, thật rất đau lòng, nhưng vì việc của chàng mà công phu tu hành đã mất bảy phần, xin chàng thương xót cho. Một tháng nay máy động, sợ là nghiệt căn, còn là trai hay gái năm sau sẽ gởi lại thôi", rồi rơi lệ ra đi. Qua đêm, An thấy từ thắt lung trở xuống như chết rồi, cấu véo không biết đau, bèn đem lời cô gái nói với người nhà. Người nhà tới nơi làm như lời nàng, chất lửa đốt hang thì có con rắn lớn màu trắng xông qua lửa trườn ra, bao nhiêu cung nỏ cùng châu vào bắn chết. Khi lửa tắt vào hang thì thấy mấy trăm con rắn lớn nhỏ chết thui khét lẹt. Người nhà đem về lấy máu rắn cho An uống, ba ngày thì hai chân dần dần xoay trở được, nửa năm mới đứng dậy nổi. Sau đó một mình vào núi, gặp bà già ôm mảnh chiếu cói làm tã bọc một đứa bé trao cho, nói "Con gái già gởi cho lang quân", toan hỏi thăm thì chớp mắt đã không thấy đâu, giở ra xem thì là con trai, bèn bế về nhà rồi không lấy vợ nữa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Con người không khác cầm thú bao nhiêu, lời ấy chưa hẳn đã đúng đâu. Mang ơn mà lo đền đáp, đến chết vẫn không thôi thì con người cũng có chỗ phải thẹn với cầm thú đấy. Tới như Hoa Cô lúc đầu thì gởi khôn ngoan ở chỗ ngây ngốc, sau rốt lại gởi tình cảm ở chỗ lơ là, mới biết người ngây ngốc thì rất khôn ngoan, người lơ là thì rất tình cảm. Tiên thì như thế chăng, tiên thì như thế chăng![/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 134 - 135 -[/B] Công Chúa Tây Hồ (Tây Hồ Chủ) Trần sinh tên Bật Giáo, tự Minh Doãn là người đất Yên (tỉnh Hà Bắc). Nhà nghèo, theo Phó tướng quân Giả Quán làm chức Ký thất, đậu thuyền trên hồ Động Đình, có con thuồng luồng nổi lên mặt nước bị Giả bắn trúng lưng. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không nhả ra cũng bị bắt, kéo lên thuyền chỉ còn thoi thóp, nhưng con thuồng luồng cứ há miệng ngáp như xin cứu. Sinh động lòng trắc ẩn xin Giả tha ra, sẵn trong túi có thuốc trị thương bèn đùa lấy buộc vào vết thương rồi thả xuống nước, nó lặn hụp giây lát rồi mất tăm. Hơn năm sau sinh về bắc lại qua hồ Động Đình, bị gió lớn lật thuyền, may vớ được một cái ống tre, vật vờ cả đêm mới vướng gốc cây dừng lại, sinh bèn leo lên bờ. Có xác chết trôi theo dạt vào, nhìn xem té ra là đứa tiểu đồng, cố sức kéo lên thì đã chết cứng. Sinh đau xót buồn bã ngồi cạnh cái xác nghỉ mệt, chỉ thấy thấy núi con chồng biếc, liễu nhỏ vờn xanh, chẳng có ai qua lại mà hỏi thăm đường sá. Từ sáng sớm đến quá giờ Thìn buồn rầu không biết đi đâu, chợt thấy xác đứa tiểu đồng khẽ động đậy, mừng rỡ vỗ gọi, giây lát nó nôn ra mấy đấu nước rồi tỉnh lại. Liền cùng nhau phơi quần áo trên tảng đá, gần trưa thì khô mặc lại được, nhưng trong bụng cồn cào đói không chịu nổi. Bèn dắt nhau vượt mau qua núi mong gặp xóm làng, vừa lên tới lưng núi thì nghe tiếng lục lạc đang lắng tai nghe thì thấy hai thiếu nữ cưỡi ngựa phóng tới vó ngựa khua ran, đều đội khăn hồng bịt trán, búi tóc cắm lông trĩ, mặc áo tía chít tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua khỏi đỉnh núi thấy mấy mươi kỵ mã đang săn bắn trong đám gai góc, đều là mỹ nữ, ăn mặc như nhau. Sinh không dám đi nữa, chợt có một người đàn ông đi bộ tới, thấy như lính chăn ngựa bèn ra hỏi thăm. Người ấy đáp "Đó là công chúa Tây Hồ lên Thủ Sơn săn bắn”. Sinh kể lại chuyện mình, nói cả việc đang đói, người lính mở túi lấy gói cơm đưa cho rồi dặn "Nên tránh cho xa, phạm giá là chết đấy”. Sinh sợ hãi vội rảo bước xuống núi, thấy trong đám rừng rậm thấp thoáng có điện gác, cho là chùa chiền, tới gần xem thì thấy tường quét vôi trắng ngoài có khe suối chảy qua, cổng son mở hờ trong có cầu đá đi vào. Sinh vịn cánh cửa nhìn vào thấy đài tạ san sát như vườn Thượng uyển trong cung vua, lại ngờ là vườn nhà quan. Dò dẫm lần vào, thấy dây mây bò ngang, đá lạ chắn lối, mùi hoa thơm ngát. Qua mấy thỗ rẽ lại là một nơi viện gác khác, có vài mươi cây dương liễu cao chạm hiên nhà, chim núi kêu một tiếng thì hoa liễu cùng bay, gió vườn thổi thoáng qua thì lá cây tự rụng, cành vật đẹp mắt thỏa lòng khác hẳn cõi trần. Đi xuyên qua tiểu đình tới một giá đu cao tận mây xanh, nhưng dây buộc đong đưa, vắng vẻ không có ai nên ngờ là gần nơi khuê các, e ngại không dám vào nữa. Chợt nghe tiếng ngựa hí ran ngoài cổng rồi như có tiếng con gái cưỡi nói, sinh và tiểu đồng vội núp vào khóm hoa dày. Không bao lâu tiếng cười nói tới gần, nghe một nàng nói "Hôm nay đi săn không may, chẳng săn được bao nhiêu”, lại một nàng nói "Nếu không có công chúa bắn rơi một con nhạn thì hôm nay chỉ hao tốn sức người sức ngựa vô ích". Giây lát có mấy nàng áo đỏ đỡ một nữ lang lên ngồi trong tiểu đình, mặc nhung phục chít tay, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, tóc mượt lồng mây, lưng thon đảo gió, nhụy ngọc hoa vàng cũng không ví được. Bọn tỳ nữ dâng trà đốt hương, khói cuốn như gấm chất. Giây lát cô gái đứng lên bước xuống thềm, một tỳ nữ nói "Công chúa cưỡi ngựa mệt nhưng còn chơi du được không?", công chúa cười gật đầu, liền có kẻ đỡ vai người xốc nách, kẻ xắn quần người cầm giày đỡ nàng lên đu. Công chúa duỗi hai cánh tay trắng như ngọc nắm dây đu, nhún chân trần nhẹ nhàng như chim én lên tới mây xanh. Kế bọn tỳ nữ lại đỡ nàng xuống, cùng nói "Công chúa thật là nàng tiên", rồi cười nói râm ran đi về. Sinh nhìn trộm hồi lâu, thần hồn điên đảo, chờ lúc tiếng cười nói đã tắt hẳn bèn bước tới dưới chiếc đu bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy cạnh rào có chiếc khăn đỏ, biết là của người đẹp làm rơi mừng rỡ nhặt lấy cho vào tay áo. Bước lên tiểu đình thấy trên bàn có bút mục bèn đề một bài thơ vào khăn rằng "Nhã hý hà nhân nghĩ bán tiên, Phân minh Quỳnh nữ tán kim liên. Quảng Hàn đôi lý ưng tương đố, Mạc tín lăng ba tiện thượng thiên” (Trên đu mỹ lệ tựa tiên nga, Quỳnh nữ Dao đài giỡn rắc hoa, Nguyệt điện Hằng Nga ghen sắc đẹp, Đừng tin gót ngọc tới trời xa). Đề xong ngâm nga rồi đi ra, quay lại lối cũ thì mấy lớp cửa đã đóng chặt. Sinh ngần ngừ không biết tính sao bèn trở vào dạo xem gần hết các nơi lầu gác. Chợt một cô gái tới, ngạc nhiên hỏi sao vào được đây, sinh vái chào nói "Ta là kẻ lạc đường, xin ra ơn cứu cho”. Nàng hỏi có nhặt được chiếc khăn đỏ không, sinh đáp "Thưa có, nhưng đã bôi bẩn vào rồi, làm sao bây giờ?", rồi đưa chiếc khăn ra. Cô gái cả kinh nói "Ngươi chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, bôi lem luốc vào thế này thì làm sao!". Sinh tái mặt năn nỉ cứu giúp cho, cô gái nói “Cái tội lén vào cung cấm dòm dỏ đã không tha được rồi, ta thấy ngươi là học trò nho nhã cũng có ý chu toàn cho, giờ lại tự gây tai vạ thì ta làm sao giúp nổi", rồi cuống quýt cầm chiếc khăn chạy đi. Sinh lo sợ nơm nớp, hận là không có cánh mà bay đi, chỉ còn cách vươn cổ chờ chết. Hồi lâu cô gái trở lại khẽ chúc mừng nói "Chàng có cơ được sống rồi. Công chúa xem đi xem lại chiếc khăn mấy lần, không hề tỏ vẻ tức giận, có khi sẽ tha cho chàng đi. Cứ chịu khó chờ ở đây, đừng có vịn cây leo tường nhìn ngó gì, nếu bị bắt gặp sẽ không được tha đâu”. Trời đã xế chiều, lành dữ ra sao sinh không đoán chắc được, mà lửa đói thiêu đốt trong bụng thấy như sắp chết. Không bao lâu cô gái cầm đèn đi tới, có một tỳ nữ bưng hộp thức ăn và bầu rượu dọn ra cho sinh ăn. Sinh vội hỏi tin tức, nàng hỏi "Vừa rồi ta thừa dịp thưa chàng Tú tài trong vườn thả được thì thả, nếu không người ta sẽ chết đói. Công chúa ngẫm nghĩ rồi nói "Đêm hôm khuya khoắt bảo người ta đi đâu”, rồi sai đem cơm ra cho chàng ăn, thế thì không phải là điềm dữ". Sinh suốt đêm nơm nớp không sao yên tâm, đến hết giờ Thìn cô gái lại đem cơm ra cho ăn. Sinh năn nỉ nhờ xin giùm, nàng nói "Công chúa không nói giết cũng không nói tha, ta là kẻ hầu hạ đâu dám thưa gởi lằng nhằng”. Kế mặt trời ngã về tây, sinh vẫn chờ đợi không thôi, chợt cô gái thở hổn hển chạy tới nói "Chết rồi, có người lắm lời đã nói cho vương phi biết, vương phi mở chiếc khăn xem rồi ném xuống đất, mắng ầm lên là ngông cuồng, tai họa không còn xa đâu”. Sinh cả kinh, mặt không còn sắc máu, quỳ rạp xuống đất van xin. Chợt nghe tiếng người nhao nhao kéo tới, cô gái phẩy tay tránh đi, liền có mấy người cầm dây ào ào kéo vào. Trong bọn có một tỳ nữ nhìn kỹ sinh rồi nói “Tưởng ai, té ra là Trần lang!", rồi ngăn những người cầm dây lại, nói “Hãy khoan, hãy khoan, đợi ta bẩm với vương phi đã!!. Rồi quay người chạy mau đi, giây lát trở lại nói "Vương phi mời Trần lang vào" sinh run rẩy đi theo. Qua mấy mươi lần cửa tới một nơi cung điện, rèm ngọc móc vàng, lập tức có mỹ nữ cuốn rèm xướng Trần lang đã tới. Thấy trên điện có một mỹ phụ ngồi, y phục lộng lẫy, sinh quỳ rạp xuống đất dập đầu nói "Thần lẻ loi từ vạn dặm tới đây, xin tha cho mạng sống". Vương phi vội bước tới đích thân kéo sinh đứng lên, nói "Ta không gặp bậc quân tử thì làm gì còn có ngày hôm nay. Bọn tỳ nữ không biết gì, xúc phạm tớì quý khách, biết lấy gì chuộc tội?". Lập tức sai dọn tiệc, rót rượu bằng chén ngọc, sinh mờ mịt chẳng hiểu vì sao. Vương phi nói "Cái ơn tái tạo vẫn hận không có gì báo đáp, con gái ta được thương yêu đề thơ vào khăn cho, cũng là duyên trời, đêm nay xin sai nó theo hầu hạ". Sinh không ngờ được hơn cả lòng mong mỏi, trong lòng bàng hoàng không sao nói nên lời. Trời vừa tối, một tỳ nữ bước lên nói “Công chúa đã trang điểm xong đang chờ", rồi dẫn sinh vào trướng. Chợt nghe đàn sáo trỗi inh ỏi, dưới thềm đều rắc hoa giấy, từ nhà ngoài tới phòng trong đều treo đèn lồng, có vài mươi mỹ nữ đỡ công chúa ra làm lễ giao bái, mùi lan xạ sực nức. Kế hai người dắt nhau vào màn tình tự ân ái. Sinh hỏi "Kẻ trôi nổi tha phương bình sinh chưa từng bái kiến, bôi bẩn khăn quý được thoát rìu búa là may rồi, lại còn được ban cho mối duyên lành, thật là ngoài lòng mong mỏi". Công chúa nói "Mẹ thiếp là vương phi của Long quân hồ này, cũng là con gái Giang Dương vương, năm ngoái về thăm nhà tình cờ dạo chơi trên hồ bị tên bắn trúng. Đội ơn chàng giải cứu, lại xoa thuốc cho, cả nhà đều cảm kích, lòng hằng không quên. Chàng đừng vì khác loài mà nghi ngại, thiếp theo Long quân đã học được bí quyết trường sinh, xin cùng chàng chung hưởng". Sinh lúc ấy mới sực hiểu ra nàng là thần nhân, bèn hỏi sao người tỳ nữ kia biết mình, công chúa đáp "Hôm ấy trong thuyền trên hồ Động Đình, chắc thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng, đó là nó đấy". Sinh lại hỏi lúc bắt được mình đã không giết chết sao lại chần chừ không thả đi, nàng cười nói "Thiếp mến tài chàng nhưng không thể tự chủ nên thao thức cả đêm, người ngoài nào có ai hiểu cho?”. Sinh than “Nàng thật là người tri kỷ của ta, còn người đem cơm cho ta là ai?", nàng đáp "Đó là A Niệm, cũng là người tâm phúc của thiếp", Sinh nói "Lấy gì đền ơn cô ta?” công chúa cười nói "Sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, lúc ấy lo đền ơn cũng chưa muộn” Sinh hỏi đại vương đang ở đâu, nàng đáp "Cha theo Quan Thánh đánh giặc Xuy Vưu chưa về". Ở đó vài hôm, sinh lo gia đình thấy bặt tin sốt ruột trông ngóng bèn viết thư báo tin bình yên, sai tiểu đồng về trước. Gia đình sinh nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con để tang đã hơn năm, đến khi tiểu đồng về tới mới biết là sinh còn sống. Nhưng tin tức xa xôi cách trở, người nhà rốt lại vẫn e rằng sinh trôi nổi khó lòng trở về. Nửa năm sau sinh chợt trở về, áo cừu ngựa tốt, trong túi đầy châu báu. Từ đó giàu có cự vạn, hàng ngày yến ẩm ca hát vô cùng xa hoa, các nhà thế gia cũng không bằng được. Trong bảy tám năm sinh được năm con trai, ngày nào cũng mở tiệc mời khách, nhà cửa đồ dùng tiếp đãi vô cùng sang trọng. Có người hỏi tao ngộ thế nào, sinh nói thật cả không giấu diếm gì. Có người bạn chơi từ nhỏ tên Lương Tử Tuấn làm quan ở Giang Nam hơn mười năm mới về qua ngang hồ Động Đình thấy một chiếc thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng, trong có tiếng đàn sáo réo rắt, dập dềnh trong khoảng khói sóng, lúc lúc lại có mỹ nhân mở cửa sổ ngắm cảnh. Lương nhìn vào thấy trong thuyền có một thiếu niên nằm gác đầu lên đùi mỹ nhân, bên cạnh có hai nàng trẻ đẹp tuổi chừng đôi tám hầu hạ đấm bóp, nghĩ chắc là một vị quý quan ở vùng Tương Sở (tỉnh Hồ Bắc) nhưng thấy rất ít tùy tùng đi theo, chú mục nhìn kỹ thì ra là Trần Minh Doãn, bất giác bước ra mạn thuyền gọi ầm lên. Sinh nghe gọi bèn sai dừng chèo, bước ra đầu thuyền mời Lương qua. Lương vào thuyền thấy món ăn thừa đầy trên bàn, mùi rượu còn sực nức. Sinh lập tức sai dẹp hết, giây lát có năm ba tỳ nữ xinh đẹp dâng trà mời rượu, các món sơn hào hải vị đều là các thứ chưa từng trông thấy. Lương kinh ngạc hỏi "Mười năm không gặp, sao ông phú quý đến mức này?", sinh cười đáp "ông cho rằng Tú tài nghèo này không phát tích được à?". Lương hỏi người cùng uống rượu vừa rồi là ai, sinh đáp "Đó là người vợ quê mùa của ta”. Lương càng lấy làm lạ, hỏi đem gia quyến đi đâu, sinh đáp đi về miền tây. Lương định hỏi nữa thì sinh vội sai ca hát chuốc rượu. Một lời vừa buông ra thì trống chiêng vang lên điếc tai, trong có tiếng đàn sáo xen vào, không nghe thấy tiếng cười nói trò chuyện nữa. Lương thấy gái đẹp đầy trước mắt, nhân lúc say lớn tiếng nói "Ông Minh Doãn có cho ta một phen hưởng thú tiêu hồn không?", sinh cười đáp “Túc hạ say rồi, nhưng có món tiền đủ cưới một người thiếp đẹp có thể tặng cho cố nhân". Rồi sai tỳ nữ dâng lên một viên ngọc minh châu, nói "Bấy nhiêu có mua nàng Lục Châu cũng không khó, để ông hiểu cho là ta không keo cú”. Kế từ biệt, nói "Ta đang gấp chút việc nhỏ, không thể cùng cố nhân trò chuyện lâu hơn”, rồi đưa Lương về thuyền, nhổ neo chèo thuyền đi thẳng. Lương về, qua nhà sinh nghe ngóng thì sinh đang uống rượu với khách, càng thêm ngờ vực liền hỏi "Mới hôm trước còn gặp ông trên hồ Động Đình, làm sao mà về mau như thế?" Sinh đáp "Làm gì có chuyện ấy?”. Lương bèn thuật rõ mọi việc đã gặp, cả tiệc đều khiếp sợ, sinh cười nói "Ông lầm rồi, chẳng lẽ ta có thuật phân thân sao?". Mọi người đều lấy làm lạ nhưng nghĩ mãi không sao hiểu nổi. Sau sinh thọ tới tám mươi mốt tuổi thì chết, người nhà tẩn liệm xong ngạc nhiên vì thấy quan tài quá nhẹ, mở ra xem thì chỉ có quan tài trống không mà thôi. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Ống trúc không chìm, khăn hồng đề vịnh, bên trong chuyện ấy đều có quỷ thần, mà cũng đều là một lần động lòng trắc ẩn làm cảm động tới trời mà thôi. Tới như cung thất thê thiếp, một mình hưởng sự thù phụng ở hai nơi thì thật không sao hiểu được. Xưa có kẻ mong được vợ hiền thiếp đẹp, con giỏi cháu hiền, lại thêm trường sinh bất tử, sinh đã được một nửa rồi vậy. Chẳng lẽ trong đám người tiên cũng có loại Phần Dương, Quý Luân[B]*[/B] sao?[/I] *Phần Dương, Quý Luân: Phần Dương tức Quách Tử Nghi thời Đường, có công lớn được phong là Phần Dương quận vương, giàu có quý hiển nổi tiếng một thời. Quý Luân tức Thạch Sùng thời Tấn, được phong là Vệ úy, cực kỳ giàu có, sinh hoạt rất xa xỉ. [B]135. Ngũ Thu Nguyệt[/B] [B](Ngũ Thu Nguyệt) [/B] Vương Đỉnh tự Tiên Hồ người đất Tần Bưu (huyện Cao Bưu tỉnh Giang Tô) tính khảng khái, có sức khỏe, giao du rộng. Năm mười tám tuổi vợ chết, mỗi lần đi chơi xa thường cả năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất thưong yêu em, thường khuyên em không nên đi xa, muốn hỏi vợ cho. Sinh không nghe, thuê thuyền tới Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán trọ, nhìn thấy sóng nước êm đềm, núi Kim Sơn ngay trước mắt, trong lòng thích lắm. Hôm sau bạn tới mời về nhà mình ở, sinh từ chối không đi. Được hơn nửa tháng, đêm mơ thấy một nữ lang khoảng mười bốn mười lăm tuổi, dung mạo xinh đẹp lên giường cùng ngủ, tỉnh dậy thì thấy di tinh, lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên. Đến đêm lại mơ thấy như thế, liền ba bốn đêm, trong lòng rất lạ, không dám tắt đèn, tuy nằm im trên giường mà vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt đã mơ thấy cô gái lại tới, đang ôm ấp chợt giật mình tỉnh dậy, vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái đẹp tiên vẫn đang trong vòng tay. Cô gái thấy sinh tỉnh, có vẻ thẹn thùng sợ sệt. Sinh tuy biết nàng không phải là người nhưng trong lòng rất thích, không buồn hỏi han, cứ ra sức vần vò. Cô gái như không chịu nổi, nói "Cuồng bạo như thế chẳng lạ gì người ta không dám nói rõ”. Sinh bấy giờ mới hỏi kỹ, nàng đáp "Thiếp họ Ngũ tên Thu Nguyệt. Thân phụ là bậc danh nho, tinh thông Dịch số, rất thương yêu thiếp nhưng thường nói thiếp không thọ nên không hứa gả cho ai cả. Về sau đến năm thiếp mười lăm tuổi quả chết yểu, ông đào huyệt ở phía đông gian gác này mà chôn, không đắp mộ cũng không có bia, chỉ đặt cạnh quan tài một phiến đá đề "Con gái là Thu Nguyệt, chôn không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh". Đến nay đã ba mươi năm thì chàng vừa tới, thiếp rất mừng muốn tự ra mắt nhưng còn thẹn thùng nên phải thác vào giấc mộng đó thôi”. Vương cũng mừng, lại đòi hành sự tiếp, nàng nói "Thiếp cần một ít khí dương để mong sống lại, thật không ngại gì chuyện gỉó mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, cần gì phải cứ đêm nay” rồi trở dậy ra đi. Đêm sau lại tới, ngồi đối diện cười đùa vui vẻ như quen nhau từ lâu kế tắt đèn lên giường, thấy không khác gì người sống. Có điều khi nàng trở dậy thì tinh khí chảy ra thấm ướt cả chăn nệm. Một đêm trăng sáng vằng vặc, cùng dạo bước trong sân, sinh hỏi cô gái dưới cõi âm có thành quách không, nàng đáp “Cũng như trên trần thôi. Thành phủ dưới cõi âm không ở đây mà cách độ ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày". Sinh hỏi người sống tới xem được không, nàng đáp "Được” .Sinh xin tới xem, nàng bằng lòng, bèn nhân ánh trăng ra đi. Cô gái nhẹ nhàng đi như gió, Vương cố sức đuổi theo, giây lát tới một nơi, nàng nói không còn xa nữa. Vương nhướng mắt nhìn mà không thấy gì, cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mi mắt, sinh mở ra thấy sáng gấp mấy lần lúc bình thường, nhìn cảnh ban đêm mà rõ như ban ngày. Chợt thấy tường thành ẩn hiện trong mây mù, người trên đường đông đúc như đi chợ. Kế có hai tên lính trói ba bốn người giải ngang, lấy làm lạ vì người đi cuối giống hệt anh, rảo bước tới gần thì đúng là anh. Giật mình hỏi sao anh tới đây, anh thấy sinh ứa nước mắt ướt không biết có việc gì mà bị bắt giải đi. Vương tức giận nói "Anh ta là người quân tử giữ lễ sao lại bị trăng trói như vậy?” rồi xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không chịu lại tỏ vẻ rất ngạo nghễ, sinh tức tối toan gây sự, anh ngăn lại nói "Đây là lệnh quan, phải tuân theo để giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ hạch xách khổ lắm, em về nên lo tính cho". Sinh nắm tay anh khóc thất thanh, tên lính giận kéo mạnh cái gông, anh ngã ngay xuống. Sinh thấy thế lửa giận đầy bụng không sao nhịn được liền rút ngay thanh bội đao chém đứt đầu y, tên kia thét lên, sinh lại chém luôn. Cô gái cả kinh nói "Giết sai nha của quan là tội không thể tha được, nếu chậm trễ sẽ có tai họa. Xin chàng lập tức tìm thuyền về bắc, về tới nhà đừng hạ lá phướn xuống, đóng chặt cửa không cho ai ra vào, sau bảy ngày thì không lo gì nữa". Vương bèn dắt anh đi, ngay trong đêm thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vàng về bắc. Về thấy khách khứa tới viếng tang, biết là anh đã chết thật, liền đóng cổng cài then, vừa vào thì anh đã biến mất, vào tới phòng thì người chết đã tỉnh lại, gọi "Ta đói chết mất, đem mì lại mau!". Lúc đó anh đã chết hai ngày, người nhà đều kinh hãi, sinh bèn kể rõ mọi chuyện. Bảy ngày sau mở cửa bỏ lá phướn, người ta mới biết anh sinh đã sống lại, họ hàng bạn bè kéo tới hỏi thăm chỉ bịa đặt trả lời. Lại nghĩ tới Thu Nguyệt, càng thêm nhưng nhớ bèn quay xuống nam. Tới gian gác cũ thắp đèn ngồi đợi rất lâu mà cô gái vẫn không tới, thiu thiu sắp ngủ thì thấy một người đàn bà tới nói "Nương tử Thu Nguyệt nhắn với lang quân rằng hôm trước vì hai tên sai nha bị giết, thủ phạm trốn mất, họ bắt dược nương tử hiện đang giam trong ngục, bọn ngục tốt nhìn thấy là hành hạ, ngày ngày trông chờ lang quân, xin nghĩ cách cứu giúp cho". Vương buồn rầu phẫn uất liền đi theo người đàn bà. Tới một tòa thành, theo cửa Tây vào, người đàn bà chỉ một cái cổng nói "Nương tử đang bị giam trong đó". Sinh vào thấy có rất nhiều phòng, tù phạm rất đông nhưng không có Thu Nguyệt. Lại vào một cửa nhỏ, thấy trong gian phòng hẹp có đèn lửa, Vương tới gần cửa sổ nhìn vào thì thấy Thu Nguyệt ngủ trên giường lấy tay áo che mặt kêu khóc, bên cạnh có hai tên ngục tốt đang vuốt má nắm chân nàng trêu chọc. Cô gái kêu khóc càng thảm thiết, một tên ôm cổ nàng nói “Đã là tội phạm mà còn giữ trinh tiết à?," Sinh nổi giận không nói không rằng, rút đao xông vào chém mỗi đứa một nhát như phát cỏ rồi cướp lấy cô gái chạy ra, may là không ai biết. Vừa tới quán trọ thì sinh chợt tỉnh dậy, đang lạ lùng vì giấc mộng dữ thì thấy Thu Nguyệt chảy nước mắt đứng cạnh. Sinh giật mình trỗi dậy kéo nàng ngồi, kể lại giấc mộng. Cô gái nói "Đó là thật chứ không phải mộng đâu”. Sinh kinh sợ nói "Vậy thì làm sao bây giờ?”, cô gái than "Đây cũng là số phận, chờ đến ngày cuối tháng thì thiếp mới được sống lại, nhưng giờ việc đã gấp thì làm sao chờ được? Xin đào ngay chỗ chôn thiếp rồi đưa thiếp cùng về, hàng ngày cứ gọi tên thiếp thì qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng chưa đủ thời hạn, xương mềm chân yếu không thể lo việc nhà giúp chàng thôi". Nói xong vội vàng định đi, chợt quay lại nói "Thiếp suýt nữa thì quên mất, nếu âm ty đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói ba mươi năm sau có thể cho hai vợ chồng cùng đeo”. Rồi lấy giấy bút vẽ mau hai lá bùa, nói "Một lá thì chàng đeo, còn một lá thì dán vào lưng thiếp". Sinh đưa nàng ra, tới chỗ nàng biến mất thì đào lên, khoảng hơn một thước thấy có chiếc quan tài đã mục nát, bên cạnh có tấm bia nhỏ như lời nàng nói. Mở quan tài xem thấy nhan sắc nàng như còn sống bèn bế vào trong phòng, xiêm y theo gió tan hết. Dán bùa xong sinh lấy chăn bọc kín lại, cõng ra bờ sông gọi thuyền ghé vào, nói thác rằng em gái ốm nặng, phải đưa về nhà. May được gió nam thổi mạnh, vừa vừa sáng đã về tới nhà, bế nàng vào đặt nằm đâu đấy xong mới nói với anh chị, cả nhà nhớn ngác nhìn nhau nhưng cũng không ai dám nói thẳng là sự huyễn hoặc. Sinh mở chăn, gọi to Thu Nguyệt, đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng ngày càng ấm dần, ba ngày thì sống lại, bảy ngày sau thì đi lại được, bèn thay quần áo ra chào chị dâu, lãng đãng không khác gì thần tiên. Nhưng ngoài mười bước thì phải có người đỡ cho đi, nếu không thì xiêu vẹo theo gió như muốn ngã, người ta nhìn thấy cho rằng nàng mang bệnh như thế lại càng đẹp thêm. Nàng thường khuyên sinh "Oan nghiệt của chàng rất sâu, nên tích đức tụng kinh để sám hối, nếu không sợ không sống lâu được". Sinh vốn không tin Phật, lúc ấy bèn dốc lòng quy y, về sau không việc gì cả. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Ta muốn tâu với triều đình xin định luật lệ là phàm giết sai nha thì giảm tội ba bậc so với giết dân thường, vì bọn sai nha thì không ai là không có tội đáng giết cả. Cho nên kẻ giết được bọn sai nha ắt là người tốt, dù phải trừng trị chút ít cũng không nên đối xử tàn ác. Huống chi dưới âm ty không có phép tắc nhất định, giả như trong đó có kẻ xấu thì vạc dầu núi kiếm cũng không phải là tàn ác. Nếu như lòng người lấy làm vui sướng thì Diêm Vương cho là điều lành, chứ há kẻ có tội bị âm ty tróc nã mà may mắn trốn thoát được sao? [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 136 - 137 -[/B] Công Chúa Liên Hoa (Liên Hoa Công Chúa) Đậu Húc tự Hiểu Huy người huyện Giao Châu (tỉnh Sơn Đông), ngủ trưa mơ thấy một người mặc áo vải tới đứng cạnh giường nhìn ngó quanh quẩn như muốn nói điều gì, sinh hỏi thì đáp tướng công mời ông tới chơi. Sinh hỏi tướng công là ai, người ấy nói "Nhà cũng ở cạnh đây". Sinh theo người ấy ra đi, vòng qua tường nhà mình thì tới một nơi lầu gác trùng trùng nối nhau muôn lớp, quanh co qua lại thấy có muôn nhà ngàn cổng khác xa nhân thế. Lại thấy cung tần nữ quan đi lại nườm nượp, đều hỏi người áo vải "Đậu lang tới đó à?", người áo vải gật đầu. Chợt một vị quý quan ra đón, chào hỏi rất cung kính, vào tới sảnh đường, sinh hỏi “Trước nay chưa từng quen biết nên không tới bái kiến, nay được quá yêu đón rước khiến ta rất e ngại”. Vị quý quan đáp "Đức vua của ta thấy tiên sinh dòng dõi thanh bạch vẫn hằng hâm mộ rất muốn gặp mặt". Sinh càng sợ hãi, hỏi đại vương là ai, vị quý quan đáp lát nữa sẽ biết. Không bao lâu có hai nữ quan tới, cầm hai lá cờ dẫn sinh đi, vào mấy lần cửa thì thấy một bậc vương giả ngồi trên điện. Vương thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Ngẩng nhìn thấy trên điện có tấm biển đề hai chữ Quế Phủ, sinh bối rối không biết nói gì. Vương nói "Là láng giềng gần gũi, tình ắt phải khắng khít, ông cứ tự nhiên đừng ngại", sinh dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên nhưng không có chiêng trống, âm thanh rất nhỏ. Một lát vương chợt nhìn tả hữu nói "Trẫm có một câu phiền các khanh đối: [I]Tài nhân đăng quế phủ[/I] (Tài nhân lên phủ quế)". Cả tiệc còn đang nghĩ, sinh đối ngay “[I]Quân tử ái liên hoa[/I] (Quân tử thích hoa sen)” Vương nói “Liên Hoa là tiểu tự của công chúa, sao lại trùng hợp như thế, há không phải là túc duyên sao. Hãy truyền gọi công chúa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, công chúa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Liên Hoa", công chúa chào xong trở vào. Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Vương như hơi biết ý, nói "Con gái ta cũng có thể sánh đôi với ông nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?". Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân nói "Vương mời mà ông chưa thấy vương nói mà ông chưa nghe sao?". Sinh thẫn thờ đứng lên bước ra nói "Thần đội ơn lớn, không ngờ quá say thất thố, xin được tha thứ, nhưng trời đã xế, đại vương lại bận việc, thần xin cáo từ". Vương đứng dậy nói "Được gặp mặt bậc quân tử, ta rất thỏa lòng, sao lại vội cáo từ như thế? Nhưng khanh đã không muốn ở ta cũng không dám ép, nếu nghĩ tới nhau ngày khác quả nhân sẽ lại mời", rồi sai nội quan đưa sinh ra. Trên đường nội quan nói "Vừa rồi vương nói công chúa có thể sánh đôi với ông, như là có ý muốn chọn làm Phò mã, sao ông im lặng không nói gì?” Sinh giẫm chân hối hận, mỗi bước mỗi thở dài than tiếc, kế về tới nhà thì chợt tỉnh dậy, thấy mặt trời đã lặn, ngồi ngây ra nhớ lại giấc mộng rất rõ ràng. Tối đến ra nhà học tắt đèn ngủ sớm, có ý đợi giấc mộng cũ nhưng không thấy gì, đành thở than hối tiếc mà thôi. Một đêm sinh ngủ chung với một người bạn chợt thấy viên nội quan hôm trước tới nói đại vương sai mời, sinh mừng rỡ đi theo, vào gặp vương lạy phục xuống bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi bên cạnh, nói "Từ khi chia tay đến nay biết khanh nhọc lòng tơ tưởng, muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, nghĩ chắc khanh không chê bỏ", sinh lập tức lạy tạ. Vương liền sai các quan học sĩ đại thần ngồi tiếp rượu, xong tiệc cung nhân bước lên nói "Công chúa đã trang điểm xong”, liền thấy mấy mươi cung nữ đỡ công chúa ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!”. Sáng ra sinh đùa trang điểm cho công chúa, kế lấy dây lưng đo quanh hông nàng, lại gang tay đo chân. Công chúa cười hỏi “Chàng điên à?", sinh đáp “Ta nhiều lần bị giấc mộng đánh lừa nên phải nhớ kỹ để nếu là giấc mộng cũng đủ mà nhớ nhau”. Đang đùa giỡn thì một cung nữ chạy mau vào nói "Yêu quái vào cửa cung, đại vương đã lánh ra biệt điện, tai vạ tới rồi” Sinh cả kinh vội tới gặp vương, vương cầm tay sinh khóc nói "Được quân tử không bỏ, đang muốn sum họp lâu dài, nào ngờ trời giáng tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính sao đây?". Sinh sửng sốt hỏi sao nói thế, vương lấy một bản tâu trên án trao cho, sinh mở ra đọc thấy viết rằng "Hàm Hương điện Đại học sĩ thần Hắc Dục xin tâu về việc yêu quái tai dị phi thường phải sớm dời đô để giữ vận nước. Theo lời báo của Hoàng môn quan thì ngày mùng sáu tháng năm có một con mãng xà dài ngàn trượng tới chiếm giữ ngoài cung, nuốt sống thần dân trong ngoài tất cả hơn một vạn ba ngàn tám trăm mạng, đi qua nơi nào thì lâu đài đều thành gò bãi vân vân. Thần lấy can đảm ra xem quả thấy rõ rắn tinh đầu tựa núi non, mắt như sông biển, ngẩng đầu thì nuốt hết cung điện, duỗi thân thì sụp cả lâu đài. Thật là hung dữ ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu nguy trong sớm tối, xin Hoàng thượng sớm đưa cung quyến dời tới nơi yên ổn". Sinh đọc xong tái cả mặt, liền có cung nhân chạy vào cấp báo yêu quái tới, cả điện khóc lóc kêu gào vô cùng thê thảm. Vương cuống quýt không biết làm sao, chỉ khóc ngoảnh lại nói “Phiền tiên sinh lo cho tiểu nữ!". Sinh nghẹn ngào về phòng thì công chúa đang cùng tả hữu ôm đầu kêu khóc, thấy sinh vào liền nắm áo nói "Lang quân tính sao cho thiếp đây”. Sinh đau xót muốn chết, cầm tay công chúa nói “Tiểu sinh nghèo hèn thẹn không có nhà vàng, chỉ có ba gian nhà tranh, cứ cùng về đó tạm lánh được không?”. Công chúa rơi lệ nói "Việc gấp rồi còn lựa chọn gì nữa, xin dẫn thiếp đi mau!”. Sinh bèn đỡ nàng ra đi, không bao lâu về tới nhà. Công chúa nói "Nhà này rộng lớn yên ổn còn hơn nước cũ. Nhưng thiếp theo chàng tới đây còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu, xin xây cho một gian nhà riêng để cả nước theo về ở". Sinh lấy làm khó khăn, công chúa gào khóc nói "Không cứu giúp được lúc nguy cấp, thì chàng làm được gì?" Sinh an ủi qua loa rồi vào phòng trong, công chủa nằm phục xuống giường kêu khóc thảm thiết không sao khuyên giải, sinh nóng lòng mà không có cách nào, chợt giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng. Nhưng bên tai vẫn còn tiếng than khóc nức nở chưa dứt, nghe kỹ thì không phải là tiếng người mà là hai ba con ong bay lượn vo ve trên gối, bèn kêu to là chuyện lạ. Người bạn hỏi han, sinh kể lại giấc mộng, bạn cũng kinh ngạc lạ lùng cùng trở dậy nhìn mấy con ong thấy cứ bay đậu trên áo sinh, đuổi cũng không đi. Bạn khuyên làm tổ cho chúng ở, sinh theo lời mướn thợ về làm. Vừa dựng xong hai vách tổ đã thấy đàn ong từ ngoài tường liên tiếp bay vào, nóc tổ chưa lợp thì đã đậu đen đặc trong đó. Tìm xem chúng từ đâu bay tới thì là ở cái vườn cũ của ông già hàng xóm, trong vườn có một tổ ong đã hơn ba mươi năm, sinh đẻ rất nhiều. Có người kể việc của sinh cho ông già nghe, ông ra xem thấy tổ ong vắng ngắt. Giở vách tổ lên nhìn thấy có con rắn dài hơn một trượng liền bắt giết đi, mới biết con mãng xà ngàn trượng chính là nó. Từ ngày ong vào ở nhà sinh, sinh nở càng đông đúc hơn. [B]137. Cô Gái Áo Xanh[/B] [B](Lục Y Nữ)[/B] Vu sinh tên Cảnh tự Tiểu Tống là người huyện ích Đô (tỉnh Sơn Đông). Ra học ở chùa Lễ Tuyền, đêm đang đọc sách chợt một cô gái đứng ngoài cửa sổ khen "Vu tướng công chăm học thật?". Vu ngạc nhiên đứng lên nhìn, thấy nàng khoác áo xanh mặc váy dài, xinh xắn không ai bằng. Vu biết không phải là người, hỏi kỹ quê quán thì nàng nói "Chàng nhìn thiếp thì biết không phải là kẻ ăn thịt người, hỏi kỹ làm gì?”. Vu thấy yêu mến, bèn cùng đi ngủ, cởi tới chiếc áo lót mình bằng lụa thấy eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chét tay. Đêm gần tàn thì cô gái trở dậy ra đi, từ đó đêm nào cũng tới. Một đêm cùng uống rượu, lúc trò chuyện thấy nàng rất sành âm luật, Vu nói "Giọng nàng êm ái, nếu hát một khúc ắt người nghe phải tiêu hồn". Cô gái cười nói "Chẳng dám hát vì sợ chàng tiêu hồn đó thôi". Vu cố nài nỉ, nàng nói "Thiếp chẳng tiếc gì, chỉ sợ người khác nghe thấy nếu chàng đã thích thì xin phô bày cái dở, nhưng xin hát nhỏ để tỏ ý thôi đấy!". Rồi lấy hài nhè nhẹ đánh nhịp, dựa ghế hát rằng "Thụ thượng ô cựu minh, Trám nô trung dạ tán. Bất oán tú hài tư, Chỉ khủng lang vô bạn” (Trên cây quạ kêu ầm, Thiếp nửa đêm chạy tản. Chẳng oán hài ướt đầm, Chỉ e chàng không bạn). Tiếng hát nhỏ như sợi tơ, chỉ nghe được loáng thoáng, nhưng lắng nghe thì thấy uyển chuyển mượt mà làmrung động lòng Người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra, nói "Coi chừng bên ngoài có người", rồi đi quanh nhà xem xét một vòng mới quay vào. Sinh hỏi "Sao nàng lo lắng quá thế?”, nàng cười đáp "Ngạn ngữ có câu Con ma sống trộm thường sợ người, là nói tới thiếp đấy!”. Kế cùng đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói "Số phận nhỏ nhoi có lẽ chấm dứt ở đây chăng?”. Vu vội hỏi han, cô gái đáp "Thiếp thấy trong lòng lo lắng, trong lòng lo lắng thì lộc số của thiếp đã hết rồi". Vu an ủi rằng "Trong lòng lo lắng hay mi mắt máy động là chuyện thường tình, sao nàng vội nói thế?”. Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Đêm vừa tàn, cô gái khoác áo bước xuống giường, đang định mở cửa lại bồi hồi quay vào nói “Không biết có chuyện gì mà thiếp thấy sợ quá, xin tiễn thiếp ra cửa", Vu liền trở dậy đưa nàng ra tới ngoài cửa. Cô gái nói "Chàng cứ đứng đây trông cho thiếp, thiếp vượt khỏi tường rồi hãy trở vào”, Vu đáp "Được”. Thấy cô gái đã rẽ qua hành lang không thấy bóng dáng đâu nữa, đang định quay vào thì nghe tiếng nàng kêu cứu rất gấp, Vu vội chạy tới nhưng nhìn quanh không thấy đâu. Nghe tiếng kêu vọng ra từ mái hiên, ngẩng đầu nhìn kỹ thì thấy một con nhện to bằng viên đạn đang bắt một con vật nhỏ, con vật đang rên rĩ đau đớn. Vu phá mạng nhện khều xương, gỡ bỏ tơ nhện quấn quanh thì là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Bèn mang về phòng, đặt lên đầu bàn cho nghỉ ngơi, hồi lâu con ong mới bò được, từ từ leo lên chiếc nghiên nhúng mình vào mực, kế ra nằm mọp xuống ghế, bò thành chữ "tạ", giương cánh mấy lần rồi theo song cửa sổ bay đi từ đó không trở lại nữa. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 138 - 139 -[/B] Nàng Ba Hoa Sen (Hà Hoa Tam Nương Tử) Tông Sương Nhược, người đất Hồ Châu (huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang) là kẻ sĩ nhân. Một ngày mùa thu đi thăm đồng, thấy có đám lúa rậm lay động rất mạnh, lấy làm ngờ vục, lội xuống ruộng tới xem thì ra là một đôi trai gái đang ân ái với nhau, phì cười quay lên. Kế người con trai xấu hổ thắt quần hấp tấp đi thẳng, cô gái cũng đứng dậy, Tông nhìn kỹ thấy rất xinh xắn, trong lòng ưa thích cũng muốn nọ kia nhưng ngại mang tiếng suồng sã. Bèn tới cạnh phủi quần áo cho, nói "Chơi đùa trong dâu có vui không?” nàng cười không đáp. Tông đứng sát vào nàng, khẽ vén áo lên thấy da thịt nõn nà bèn vuốt ve sờ soạng từ trên tới dưới. Cô gái cười nói "Tú tài cổ hủ muốn làm gì thì cứ làm, sờ mó lung tung làm gì?". Tông hỏi họ tên, nàng đáp "Một bận gió xuân rồi thì đường ai nấy đi, cần gì hỏi rõ, định lưu tên tuổi để lập phường trinh sao?". Tông nói "Ngủ với nhau trên đồng trong cỏ là việc bọn đầy tớ chăn heo vẫn làm, chứ ta không quen. Thấy nàng xinh đẹp, cho dù hẹn hò riêng tư cũng phải tự trọng, sao lại qua quít như thế?”. Cô gái nghe thế tỏ vẻ bằng lòng, Tông nói "Nhà vắng cách đây không xa, xin mời qua chơi". Cô gái nói "Ta đi đã lâu, sợ người ta ngờ, đến khuya thì được”, kế hỏi kỹ Tông đường sá nhà cửa rồi theo đường tắt rảo bước đi luôn. Tối đến cô gái quả tới nhà học của Tông, cùng nhau mây mưa vô cùng đằm thắm, dần dà hết ngày này tháng khác mà không ai hay biết. Gặp lúc có nhà sư Phiên nghỉ lại ở chùa trong thôn gặp Tông kinh ngạc hỏi “Người ông có tà khí, đã gặp việc gì rồi?”, Tông đáp không có gì. Qua vài hôm chợt bị bệnh, hàng đêm cô gái đều mang trái cây thức ăn tới ân cần chăm sóc như vợ chồng, nhưng đi ngủ thì cứ ép Tông phải ăn nằm với mình. Tông mắc bệnh không sao kham nổi, nghi nàng không phải là người nhưng cũng không có cách nào dứt ra được, nhân nói "Hôm trước hòa thượng nói ta bị yêu tinh mê hoặc, nay quả bị bệnh, lời ấy nghiệm rồi. Ngày mai ta sẽ mời ông tới xin bùa yểm” Cô gái biến sắc, Tông càng ngờ vực, hôm sau sai người đến kể tình thật với nhà sư. Sư nói "Đó là hồ, phép thuật còn kém, cũng dễ bắt thôi”, rồi vẽ hai đạo bùa đưa cho, dặn "Về lấy một cái vò sạch đặt cạnh giường, dán bùa vào miệng vò, đợi khi hồ bị hút vào thì úp ngay một cái chậu lên, dán bùa lên chậu rồi đổ nước vào bắc lên bếp mà đun thì có thể giết được nó". Gia nhân làm theo lời, đến khuya cô gái mới tới, lấy quýt vàng từ tay áo ra, vừa tới cạnh giường thăm hỏi Tông, chợt nghe miệng vò kêu soạt một tiếng, cô gái đã bị hút ngay vào. Gia nhân nhảy ra bịt miệng vò dán bùa lên, đang định đem đun. Tông thấy quýt vàng tung tóe trên đất, nghĩ lại tình nghĩa chợt cảm động bèn sai thả ra. Vừa gỡ bùa mở chậu thì cô gái trong vò chui ra, run rẫy sợ sệt cúi đầu nói “Thiếp tu luyện sắp thành đại đạo mà chỉ suýt nữa hóa ra tro than. Chàng thật là người nhân đức, thiếp thề sẽ báo đền”, rồi đi. Vài ngày sau bệnh Tông càng nặng, gia nhân ra chợ mua quan tài, trên đường gặp một cô gái hỏi "Ngươi có phải người nhà của Tông Sương Nhược không?”, người gia nhân đáp phải. Cô gái nói “Tông lang là biểu huynh của ta, nghe nói bị bệnh nặng cũng định tới thăm nhưng lại gặp việc không đi được, có một thang linh dược, phiền đưa về giùm”, người gia nhân bèn nhận lấy đem về. Tông vì trong họ hàng bên ngoại không có chị em nào nên biết là hồ đền ơn. Uống thuốc xong quả nhiên đỡ hẳn, mười ngày thì bình phục, rất cám ơn hồ, ngẩng lên không khấn khứa xin được gặp lại một lần. Một đêm Tông đang đóng cửa ngồi uống rượu một mình chợt nghe có tiếng búng tay vào cửa sổ, vội xô cửa bước ra xem thì là cô gái hồ. Tông cả mừng chắp tay cảm tạ, kéo vào cùng uống rượu. Cô gái nói “Từ khi chia tay đến nay cứ canh cánh trong lòng không biết lấy gì báo đền ơn lớn. Nay đã tìm được cho chàng một mối duyên lành, vậy đã hết tội với chàng chưa?". Tông hỏi là ai, nàng đáp "Chàng không biết được đâu. Giờ Thìn sáng mai chàng cứ tới Nam Hồ, nếu thấy cô gái hái ấu đội khăn tơ trắng thì hãy chèo thuyền đuổi mau theo. Nếu lạc mất cứ xem bên đê có bông sen nào cuống ngắn ẩn dưới tán lá thì hái mang về, hơ lửa nến vào rễ sẽ được một người vợ đẹp, lại thêm tuổi thọ". Tông nhớ kỹ lời dặn, kế cô gái cáo biệt, Tông cố níu kéo. Nàng nói "Từ khi gặp tai ách chợt ngộ ra đạo lớn, nay đâu còn tham tình chăn gối mà chuốc lấy oán thù?", rồi nghiêm nét mặt chào đi. Tông theo lời nàng dặn, tới Nam Hồ thấy gái đẹp hái sen trong đầm rất đông, có một nàng buông rủ bím tóc, mặc áo trắng như băng, xinh đẹp tuyệt trần. Giục chèo thuyền mau theo, chợt nàng mất hút liền ghé vào đám sen ven hồ, quả có một nhánh sen hồng cao không đầy một thước liền hái lấy mang về. Tới nhà đặt lên ghế, cắm nến bên cạnh định thắp lửa lên hơ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hóa thành một mỹ nhân. Tông vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ lạy phục xuống, cô nói “Chàng ngây kia, ta là hồ đây, sẽ ám chàng cho mà xem". Tông không tin, nàng hỏi "Ai chỉ cho chàng làm như thế?", Tông đáp "Tự tiểu sinh biết nàng, cần gì ai chỉ?" rồi nắm lấy cánh tay nàng kéo vào lòng, cô gái theo tay ngã xuống đất hóa thành hòn đá lạ cao khoảng một thước, bốn mặt lấp lánh. Tông bèn bưng đặt lên bàn, đốt hương vái lạy khấn khứa. Đến đêm đóng cửa cài then thật chặt, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại thì không phải là đá mà là một cái áo khoác bằng the trắng thoang thoảng mùi hương, trải ra xem thì những chỗ cổ áo vạt áo vẫn còn vết người mặc. Tông ôm vào giường đắp chăn nằm ngủ, tối trở dậy thắp đèn, quay lại thì cô gái bím tóc đã nằm trên giường. Tông mừng quá nhưng sợ nàng lại biến hóa nên năn nỉ khẩn cầu rồi mới mon men tới. Cô gái cười nói “Thật là nghiệt chướng, chẳng biết kẻ nào lắm lời lại chỉ cho gã khùng này làm chuyện chết người như thế”, rồi không chống cự nữa. Nhưng trong lúc ân ái có lúc như không chịu nổi, nhiều lần xin thôi. Tông không nghe, nàng nói "Nếu như thế ta sẽ biến đi", Tông sợ bèn thôi. Từ đó hai ngườí rất hòa hợp, mà vàng lụa thường đầy trong rương, cũng không biết từ đâu ra. Cô gái gặp người khác chỉ dạ dạ như không thốt được thành lời, Tông cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng, tính ngày lâm bồn thì vào phòng, dặn Tông đóng chặt cửa không cho ai vào rồi lấy dao tự rạch bụng lấy con ra, bảo Tông xé lụa băng lại, qua đêm thì lành. Được sáu bảy năm nàng nói với Tông “Thiếp đã trả hết nợ ân tình, xin từ biệt”. Tông nghe thế rơi nước mắt nói "Lúc nàng về thì ta nghèo khó không thể tự lập, nhờ nàng mới hơi được thong thả sao nỡ nói chia ly sớm như vậy? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ cũng là điều đáng hận”. Cô gái cũng buồn rầu nói "Có hợp ắt có tan, đó là lẽ thường. Con ta có phúc tướng, chàng cũng được thọ, còn mong gì nữa? Thiếp vốn họ Hà, nếu chàng thấy nhớ nhưng cứ ôm vật cũ của thiếp gọi "Nàng Ba Hoa sen" thì sẽ thấy mặt”. Dứt lời bước ra nói "Thiếp đi đây!". Tông đang hoảng hốt quay nhìn thì nàng đã bay lên cao quá đầu người. Tông vội nhảy lên níu giữ, nắm được chiếc hài, hài tuột ra rơi xuống đất hóa thành con chim én bằng đá đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh, liền nhặt lấy cất đi. Kiểm lại trong hòm thấy chiếc áo khoác the trắng lúc nàng mới về vẫn còn, mỗi khi nhớ nhưng ôm lấy gọi "Nàng Ba" thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện ra như lúc bình sinh, chỉ không nói lời nào mà thôi. Bạn ta nói Hoa mà biết nói ra nhiều chuyện, Đá chẳng nên lời mới đáng người, câu thơ hay ấy của Phóng Ông[B]*[/B] là để tả nàng đấy. *Phóng Ông: tức Lục Du, hiệu Phóng ông, nhà thơ nổi tiếng thời Nam Tống. [B]139. Kim Sinh Sắc[/B] [B](Kim Sinh Sắc)[/B] Kim Sinh Sắc người đất Tấn Ninh (huyện Lâm Phần tỉnh Sơn Tây), lấy vợ người họ Mộc cùng thôn, sinh được một con trai mới một tuổi. Kim chợt mắc bệnh nặng, tự nghĩ ắt phải chết, nói với vợ rằng "Ta chết rồi nàng nên lấy chồng khác, đừng thủ tiết làm gì". Vợ nghe thế ngọt ngào thề thốt, hứa sẽ thủ tiết đến chết. Kim gọi mẹ tới nói "Con chết rồi phiền mẹ nuôi thằng bé, đừng bắt nàng phải thủ tiết", mẹ khóc gật đầu. Kế quả Kim chết, bà Mộc tới điếu tang xong nói với mẹ Kim rằng "Trời làm tai họa, con rể chết yểu, con gái ta còn trẻ, bà định làm thế nào?". Mẹ Kim đang đau đớn, nghe bà ta nói thế không kìm được giận dữ, lớn tiếng đáp "Nó phải thủ tiết", bà Mộc có vẻ thẹn thùng nín bặt. Tối đến ngủ với con gái, nói riêng với nàng rằng "Người ta ai cũng có chồng, mà con còn đủ cả chân tay, lo gì không có chồng được? Con gái nhỏ không sớm lo lấy chồng khác, cứ chăm chăm ôm bọc tã nuôi con chẳng phải ngu sao? Nếu mẹ chồng con bắt phải thủ tiết, thì không nên đối xử tư tế”, Mẹ Kim bước qua nghe được câu cuối càng thêm bực dọc, sáng hôm sau nói với bà Mộc rằng "Con trai ta có dặn lại là không nên bắt vợ nó thủ tiết, nay bà đã gấp gáp không chờ được, thì ta bắt phải thủ tiết", bà Mộc tức giận ra về. Mẹ Kim đêm nằm mơ thấy con về sa nước mắt khuyên nhủ, trong lòng lấy làm lạ. Bèn sai người nói với họ Mộc, hẹn chôn xong thì cho vợ Kim đi lấy chồng, nhưng hỏi các thầy tướng số đều nói rằng năm nay hướng mộ như thế lấy chồng không có lợi. Vợ Kim tự nghĩ mình còn trẻ, trong lúc để tang vẫn không quên son phấn. Ở nhà chồng thì còn mặc đồ trắng, chứ lúc về thăm nhà thì ăn mặc lộng lẫy, mẹ Kim biết được rất không hài lòng, nhưng vì thấy trước sau nàng cũng lấy người khác nên phải nhịn, từ đó người đàn bà càng phóng túng. Trong thôn có tên vô lại là Đổng Quý, thấy vợ Kim đẹp thích lắm, đưa tiền đút lót cho người đàn bà láng giềng xin tỏ ý giùm. Nửa đêm từ nhà bà ta trèo tường vào tới thẳng phòng người đàn bà rồi ngủ với nhau, đi lại suốt tuần, tiếng xấu lan ra chỉ có mẹ Kim là không biết. Phòng người đàn bà ban đêm chỉ có một đứa tớ gái nhỏ, là tâm phúc của thị. Một đêm nghe trong quan tài có tiếng động lớn như tiếng pháo nổ, đứa tớ gái ngủ ở giường ngoài thấy người chết từ sau trướng bước ra, mang kiếm vào phòng trong, kế nghe hai người khiếp sợ rú lên. Giây lát thấy Đổng trần truồng chạy vụt ra, không bao lâu thấy Kim nắm tóc vợ kéo ra, người đàn bà kêu khóc. Mẹ Kim giật mình tỉnh dậy, thấy người đàn bà trần truồng chạy ra, đang định đóng cửa, hỏi không thấy đáp, bước ra nhìn theo thì không nghe thấy gì nữa, cũng chẳng biết là đi đâu. Trở vào phòng người đàn bà thì đèn đuốc còn sáng, thấy có đôi giày đàn ông bèn gọi đứa tớ gái, nó run rẩy bước ra kể lại chuyện lạ, mẹ Kim chỉ còn run sợ ngạc nhiên mà thôi. Đổng chạy trốn qua ngang nhà láng giềng, núp lại dưới góc tường, hồi lâu nghe tiếng người dần im mới đứng lên. Trên người không còn tấc vải mà đêm lạnh giá, vào nhà người đàn bà láng giềng định mượn quần áo. Thấy trong nhà có một gian phòng, hai cánh cửa chỉ khép hờ bèn chui vào. Mò mẫm trên giường trúng bàn chân con gái, biết là con dâu người đàn bà láng giềng, nảy lòng dâm tà bèn nhân đó hành dâm. Cô ta tỉnh dậy hỏi ngươi về rồi đấy à, Đổng đáp phải. Trước là con trai người đàn bà láng giềng có chuyện tới thôn Bắc, dặn vợ đóng cửa chờ mình về. Khi trở về nghe trong phòng có tiếng người, sinh nghi lắng nghe, cả giận vác giáo xông vào. Đổng hoảng sợ chui xuống gầm giường trốn, người kia đuổi vào đâm chết, lại muốn giết luôn vợ, vợ khóc lóc kể lại là bị lầm, y mới tha. Nhưng không hiểu người dưới gầm giường là ai, bèn gọi mẹ đốt đèn lên soi mới biết. Nhìn thấy Đổng vẫn còn thoi thóp thở, hỏi từ đâu tới, Đổng kể lại, nhưng mấy chỗ bị thương máu tuôn như suối, giây lát thì chết. Bà mẹ sợ hãi run rẩy nói với con trai "Bắt được kẻ gian dâm mà giết có một người, ngươi thấy có được không?”, người con trai bất đắc dĩ phải giết luôn vợ. Đêm ấy ông Mộc vừa đi ngủ, chợt nghe ngoài cửa có tiếng lôi kéo, ra nhìn thì thấy lửa cháy chỗ chái nhà nhưng người đốt vẫn chưa đi. Ông Mộc kêu lớn, gia nhân đổ cả ra, may mà lửa vừa bén còn dễ dập tắt. Bèn sai người mang giáo mác đuổi bắt kẻ đốt nhà, thấy có một người leo trèo thoăn thoắt như vượn vượt qua tường đi mất. Phía ngoài tường là vườn đào của nhà ông, quanh vườn có tường rào rất chắc chắn, mấy người bắc thang leo lên nhìn thì không thấy tăm hơi gì. Duy dưới tường có một khối gì động đậy, hỏi không thấy đáp, bắn vào thấy mềm mềm. Mở cửa ra xem thì là một cô gái trần truồng nằm đó, mũi tên xuyên suốt qua bụng, thắp đèn tới nhìn kỹ thì là con gái ông Mộc tức vợ Kim. Họ hoảng sợ báo với chủ nhân, vợ chồng Mộc đau đớn muốn chết không hiểu vì sao. Cô gái nhắm mắt, sắc mặt xám như tro, hơi thở mong manh như sợi tơ, sai nhổ mũi tên nhưng không rút được phải đạp chân lên ngực mới rút ra được. Cô gái rên lên một tiếng, máu vọt ra tắt hơi luôn. ông Mộc cả sợ không biết làm sao, sáng ra kể lại tình thực với mẹ Kim, quỳ xuống van xin. Nhưng mẹ Kim không hề tức giận, chỉ kể lại nguyên do rồi bảo tự chôn cất lấy. Kim có người anh con bác là Sinh Quang tức giận tới nhà ông Mộc chửi mắng cả những chuyện trước, ông Mộc thẹn thùng đưa tiền đút lót bảo thôi, nhưng mọi người không biết kẻ gian dâm với vợ Kim là ai. Kế con trai người đàn bà láng giềng đem xác kẻ gian tự thú bị trừng phạt qua loa rồi tha về. Nhưng anh vợ y là Mã Bưu hay thưa kiện lại kiện rằng em gái bị oan. Quan bắt người đàn bà láng giềng, bà ta sợ bèn khai thật đầu đuôi. Lại gọi mẹ Kim, mẹ Kim thác là có bệnh, nhờ Sinh Quang thay mình đối chất, trình bày mọi việc. Lúc bấy giờ chuyện giấu diếm trước đều vỡ lỡ, quan sai bắt vợ chồng ông Mộc, mọi người đều khai thật, lúc ấy mới rõ cả mọi việc. Mộc vì muốn gấp gả chồng cho con gái khiến cho nàng mắc tội gian dâm, tự mình phải chuộc tội gia sản khánh kiệt. Người đàn bà láng giềng dẫn đường cho kẻ gian dâm, bị phạt đánh trượng mà chết, cái án ấy kết thúc. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Chàng họ Kim là thần chăng? Dặn cho vợ đi lấy chồng, sao mà sáng suốt thế? Không giết một người nào mà mọi mối hận đều được rửa sạch, há không đáng gọi là thần sao? Người đàn bà láng giềng dụ dỗ con dâu người ta mà rốt lại con dâu mình bị gian dâm, bà Mộc thương con gái mà rốt lại giết chết con gái. Than ôi, muốn biết nhân duyên ngày sau thì cứ nhìn việc làm lúc trước, việc báo ứng chẳng cần gì phải chờ đến kiếp sau! [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 140 - 141 -[/B] Bành Hải Thu (Bành Hải Thu) Chư sinh Bành Hiếu Cổ ở phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) ra học ở nhà khác cách nhà khá xa, tiết Trung thu không về, vắng vẻ không có bạn. Nghĩ trong thôn không có ai chuyện trò được chỉ có Khâu sinh là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tiếng xấu, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên càng thấy buồn, bất đắc dĩ đành viết thiếp mời Khâu. Đang uống rượu thì có người gõ cửa, tiểu đồng ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành ra mời khách vào, vái chào xong cùng ngồi xuống quanh bàn rượu. Hỏi họ tên quê quán, khách đáp “Tiểu sinh là người Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), cùng họ với ông, tự là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng thấy buồn, nghe tiếng ông cao nhã nên tự tới ra mắt". Bành nhìn thấy người ấy áo vải sạch sẽ chỉnh tề, trò chuyện phong nhã, cả mừng nói "Té ra là người đồng tông, đêm nay là đêm gì mà gặp được khách quý thế này!", liền sai rót rượu, mời mọc như bạn thân từ lâu. Xem ý tứ thì khách có vẻ rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu bèn nói lảng sang chuyện khác, trước tiên xin hát một khúc dân ca giúp vui, kế ngửa mặt ho hắng rồi hát khúc Hào sĩ Phù Phong[B]*[/B] sĩ Phù Phong: bài thơ của Lý Bạch thời Đường, cùng nhau vui cười. Khách nói "Ta không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc Dương xuân, vậy xin nhờ người khác hát thay được không?” Bành xin vâng lời. Khách hỏi ở phủ thành Lai Châu có danh kỹ nào không, Bành đáp không. Khách im lặng hồi lâu rồi nói với tiểu đồng của Bành "Ta vừa gọi một người tới ngoài cổng, cứ ra dẫn vào đây!”. Tiểu đồng ra quả thấy một cô gái đang ngập ngùng ngoài cửa bèn dẫn vào, thấy tuổi khoảng đôi tám trở lại, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi. *Hào sĩ Phù Phong: tên bài thơ của Lý Bạch thời Đường. Cô gái mặc áo màu lá liễu, quàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn phía. Khách an ủi nói làm phiền lặn lội ngàn dặm, cô gái mỉm cười dạ dạ. Bành lấy làm lạ gạn hỏi, khách đáp "Quý địa khổ cái không có giai nhân, ta vừa phải gọi nàng đây trên thuyền ở Tây Hồ tới đấy". Rồi nói với cô gái "Khúc [I]Chàng bạc tình[/I] nàng vừa hát trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa". Cô gái bèn ca rằng: [I]Bạc hãnh lang, Khiên mã tẩy xuân chiểu. Nhân thanh viển, mã thanh yểu, giang thiên cao, sơn nguyệt tiểu. Điệu đầu khứ bất quy, Đình trung sinh bạch hiểu. Bất oán biệt ly đa, Đãn sầu hoan hội thiểu. Miên hà xứ? Vật tác tùy phong nhứ. Tiện thị bất phong hầu, Mạc hướng Lâm Cùng khứ. Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ Giọng người xa, tiếng ngựa khuất, trời sông cao, trăng núi nhỏ Quay đầu đi không về, trong sân ngày rạng tỏ Ly biệt quen không hờn, Sum vầy buồn ít có Ngủ nơi đâu? Đừng như tơ theo gió Cho dù chẳng phong hầu, Chớ tới Lâm Cùng đó[B]*[/B].[/I] * Chớ tới Lâm Cùng đó: nguyên văn là "Mạc hướng Lâm Cùng khứ", câu trong bài Cổ biệt ly của Mạnh Giao "Dục biệt khiên lang y, Lang kim đáo hà xứ? Bất hận quy lai trì, Mạc hướng Lâm Cùng khứ" (Chia tay níu áo chàng, Đi đâu vào sương gió? Chẳng hận người lâu về, Chớ tới Lâm Cùng đó). Sử ký, Tư Mã Tương Như truyện chép Tương Như người Thành Đô nhà nghèo tới nương tựa Huyện lệnh Lâm Cùng, nhân gặp con gái Trác Vương Tôn là Văn Quân mới góa chồng bèn gãy khúc phượng cầu hoàng khêu gợi, Văn Quân bèn đang đêm trốn theo Tương Như về quê nhưng nghèo khổ quá bèn cùng trở lại Lâm Cùng mở quán bán rượu. Đây ý nói đừng bỏ mất chí khí. Khách rút chiếc sáo ngọc trong ống giày theo khúc hát mà thổi, khúc dứt thì tiếng sáo cũng ngừng. Bành kinh ngạc khen ngợi không thôi, nói "Từ Tây Hồ tới đây đâu phải chỉ ngàn dặm, thế mà trong khoảnh khắc gọi người tới được, chẳng phải là tiên sao?". Khách đáp “Đâu dám nói là tiên, nhưng coi muôn dặm chỉ như trong sân ngoài cổng. Đêm nay gió trăng trên Tây Hồ còn đẹp hơn hôm trước, không thể không tới chơi một chuyến, ông có thể đi chơi với ta không?". Bành đang muốn xem xét việc lạ liền nhận lời nói rất may mắn. Khách hỏi đi thuyền hay ngựa, Bành nghĩ ngồi thuyền đỡ mệt hơn bèn đáp xin cho đi thuyền. Khách nói "Chỗ này gọi thuyền hơi xa, trên Thiên Hà chắc có người chở đò". Bèn giơ tay lên không vẫy gọi "Thuyền ơi xuống đây! Bọn ta muốn tới Tây Hồ, không tiếc tiền thưởng đâu”. Giây lát một chiếc thuyền kết hoa từ trên không lướt xuống, mây khói vướng vít chung quanh, mọi người cùng bước lên. Thấy một người cầm mái chèo ngắn, đoạn cuối giắt đầy lông chim dài trông như cái quạt vừa phe phẩy thì gió mát ào ào nổi lên, thuyền dần bay vào mây xanh lướt về phía nam, đi nhanh như tên bắn. Trong khoảnh khắc thuyền đáp xuống nước, chỉ nghe đàn sáo rộn ràng, chiêng trống ầm ĩ. Bước ra mũi thuyền nhìn quanh thấy trăng in khói sóng, thuyền dạo choi đông như họp chợ, những người chân sào đều gác mái chèo để mặc thuyền tự trôi, nhìn kỹ thì đúng là Tây Hồ. Khách lấy các món ăn lạ và rượu ngon sau khoang ra vui vẻ đối ẩm. Lát sau một chiếc lâu thuyền tới gần rồi đi sát bên cạnh, nhìn qua song cửa thấy trong khoang có hai ba người đang ngồi quanh bàn cờ cười nói. Khách rót một chén rượu đưa cô gái, nói "Xin cạn chén này rồi sẽ đưa nàng về". Lúc cô gái đang nâng chén, Bành lưu luyến bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bèn khẽ đạp vào chân nàng. Cô gái đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại. Cô gái nói “Nếu thương yêu nhau, cứ hỏi tên Quyên Nương thì ai cũng biết". Khách lập tức lấy chiếc khăn lụa của Bành trao cho nàng, nói “Ta thay ông ấy ước hẹn ba năm sau”, kế đứng lên đặt cô gái vào lòng bàn tay, nói “Tiên ư! Tiên ư!" rồi kéo cửa sổ thuyền bên cạnh đưa nàng qua, song cửa sổ chỉ rộng vài tấc mà cô gái trườn qua không có gì vướng víu. Giây lát nghe thuyền bên nói "Quyên Nương tỉnh rồi", rồi lập tức lướt đi, nhìn xa xa thấy đã ghé vào bờ, người trong thuyền nhốn nháo bước lên. Bành chợt thấy mất hứng, bèn nói với khách muốn lên bờ một lúc cùng xem qua phong cảnh. Còn đang bàn bạc thì thuyền đã tự ghé vào bờ. Bành rời thuyền lên bộ dạo quanh, đi khoảng hơn một dặm thì khách phía sau đi tới, dắt một con ngựa bảo Bành giữ rồi lập tức quay đi, dặn "Đợi ta mượn thêm hai con ngựa nữa", nhưng hồi lâu không tới. Trên đường đã vắng người, ngẩng nhìn thấy trăng xế về tây, trời đã sắp rạng mà không rõ Khâu đi đâu. Bành dắt ngựa loanh quanh không biết nên đi hay ở, bèn giong cương tới nơi thuyền đậu thì cả người lẫn thuyền đều biến mất, nghĩ tới trong túi rỗng không, càng thêm lo sợ. Trời sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một cái túi nhỏ, lục xem thấy có ba bốn lượng bạc, bèn mua thức ăn rồi ngẩn ngơ chờ, bất giác đã đến trưa. Nghĩ bụng cứ hỏi thăm Quyên Nương sẽ dần dần hỏi được tin Khâu, nhưng nói tới tên Quyên Nương thì không người nào biết. Bành thất vọng buồn bã, hôm sau lên đường. Con ngựa rất hay, may mà không gặp chuyện gì, nửa tháng mới về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, đứa tiểu đồng về báo chủ nhân đã lên tiên, cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng sẽ không về nữa. Bành buộc ngựa vào, người nhà ngạc nhiên mừng rỡ xúm lại hỏi han, Bành mới kể hết những việc kỳ lạ, lại nghĩ chỉ có mình trở về, sợ nhà Khâu biết tin sẽ qua gạn hỏi bèn dặn người nhà giữ kín. Kế lại nói tới con ngựa ở đâu mà ra, mọi người thấy là của tiên cho bèn rủ nhau ra chuồng xem, tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy Khâu sinh bị buộc cạnh chuồng bằng dây cương cỏ, phát hoảng gọi Bành ra xem. Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt xám như tro, hỏi gì cũng không đáp, chỉ chớp chớp hai mắt mà thôi. Bành bất nhẫn sai cởi dây cương vực lên giường, thấy Khâu như người mất hồn, đổ cháo cho cũng nuốt được chút ít. Đến nửa đêm hơi tỉnh muốn ra nhà xí xốc nách đưa đi thì són ra mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống qua loa mới bắt đầu nói được. Bành tới cạnh giường hỏi han, Khâu kể "Sau khi rời thuyền, y dẫn ta dạo chơi trò chuyện, tới chỗ vắng vỗ đùa vào gáy, ta liền ngã ra mê man, nằm giây lát định thần nhìn lại thấy mình đã hóa ra thân ngựa, tâm trí vẫn tỉnh táo, chỉ có không nói năng được mà thôi. Chuyện này thật vô cùng nhục nhã, không thể kể cho vợ con được, xin ông đừng nói lộ ra". Bành nhận lời, sai đầy tớ dắt ngựa đưa Khâu về. Bành từ đó không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau vì người anh rể làm Phán quan ở Dương Châu, Bành nhân tới thăm. Ở đó có Lương công tử là nhà thế giao mở tiệc mời Bành tới uống rượu, trong tiệc có mấy người ca kỹ đều tới yết kiến. Công tử hỏi Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử túc giận nói "Con tiện tỳ lên mặt làm cao, đem dây đi trói mang lại đây cho ta". Bành nghe tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai, công tử đáp "Thị là con hát số một ở Quảng Lăng, có chút danh tiếng nên đâm ra vô lễ". Bành ngờ chỉ là ngẫu nhiên trùng tên nhưng vẫn hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Không bao lâu Quyên Nương tới, công tử giận dữ kể tội. Bành nhìn kỹ thì đúng là người đã gặp hôm Trung thu, bèn thưa với công tử "Nàng này với ta là chỗ quen biết cũ, mong ông tha cho". Quyên Nương nhìn kỹ Bành, dường như có vẻ ngạc nhiên. Công tử chưa hỏi kỹ lại, cứ sai mời rượu. Bành hỏi còn nhớ khúc [I]Chàng bạc tình [/I]không, Quyên Nương càng kinh hãi, nhìn Bành chằm chằm rồi mới cất tiếng hát, nghe giọng hát vẫn giống như đêm Trung thu năm trước. Rượu tàn, công tử sai nàng hầu hạ chăn gối cho khách. Bành nắm tay nàng hỏi “Lời hẹn ba năm hôm nay mới làm được chăng?” Quyên Nương đáp “Năm trước theo người ta chơi thuyền ở Tây Hồ, thiếp uống chưa được mấy chén chợt như say, lúc mơ mơ hồ hồ bị một người nhấc lên đặt xuống một thôn, có một tiểu đồng dẫn thiếp vào nhà, thấy trên chiếu rượu có ba người mà chàng là một. Sau đó đi thuyền tới Tây Hồ, người ta đưa thiếp về thuyền cũ qua song cửa sổ, nắm tay ân cần từ biệt. Mỗi khi nhớ lại vẫn nghĩ là mộng ảo, nhưng chiếc khăn lụa sờ sờ ra đó, thiếp vẫn trân trọng cất giữ". Bành kể lại mọi việc rồi cùng nhau than thở, Quyên Nương co người rúc vào lòng Bành, nức nở nói "Người tiên đã làm mối cho nhau, xin chàng đừng cho thiếp là kẻ phong trần vứt đi mà quên người trong bể khổ". Bành đáp "Lời hẹn trên thuyền chưa từng ngày nào lãng quên, nếu nàng có lòng thì ta có phải dốc túi bán ngựa cũng không tiếc". Sáng hôm sau Bành kể với công tử, lại mượn anh rể ngàn vàng xóa sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ tới gian nhà riêng của Bành, nàng vẫn nhận ra được nơi uống rượu năm xưa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ngựa mà là người, ắt kẻ ấy làm người cũng như là ngựa, bảo làm ngựa thì hận là không được làm người đó thôi. Voi cọp loan hạc cũng đều phải chịu thắng yên buộc cương, sao có thể nói đó không phải là lòng nhân ái của thần tiên? Nếu có ước hẹn ba năm thì cũng phải vượt qua bể khổ vậy.[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top