Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164990" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 111 -</strong></p><p>Điền Thất Lang</p><p>(Điền Thất Lang)</p><p></p><p>Vũ Thừa Hưu người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), tính thích giao du, bạn bè đều là kẻ sĩ có danh tiếng. Đêm mơ thấy một người nói "Anh kết giao khắp trong nước nhưng đều là bạn thừa, chỉ có một người có thể cùng chia hoạn nạn thì lại không biết". Hỏi đó là ai, người ấy đáp "Điền Thất Lang chứ ai", Vũ tỉnh dậy lấy làm lạ. Sáng ra gặp bạn bè nào cũng hỏi thăm Thất Lang là ai, khách có người biết đó là người thợ săn ở thôn Đông. Vũ kính cẩn tới yết kiến, cầm roi ngựa gõ cửa. Không bao lâu có một người bước ra, thấy khoảng hơn hai mươi tuổi lưng ong mắt báo, đội khăn mềm, vận áo ngắn quần cụt vá nhiều chỗ, chắp tay ngang trán hỏi khách ở đâu tới. Vũ xưng tên họ, nói thác là đi đường mệt mỏi muốn vào nghỉ nhờ. Hỏi Thất Lang, người ấy đáp "Chính là ta đây" rồi mời khách vào nhà. Thấy có mấy gian nhà nát, vách chống bằng cây, vào một phòng nhỏ thấy trên cột treo đầy da cọp da sói mà không có giường ghế gì để ngồi, Thất Lang trải một tấm da cọp dưới đất.</p><p></p><p>Vũ cùng Thất Lang trò chuyện, thấy lời lẽ thật thà rất thích, liền tặng tiền để làm ăn. Thất Lang không nhận, Vũ cố ép, Thất Lang bèn cầm vào nhà trong thưa lại với mẹ, giây lát trở ra đưa trả không lấy. Vũ ép đôi ba lần, bà mẹ lọm khọm bước ra, nghiêm sắc mặt nói "Già này chỉ có đứa con đó, không muốn sai nó thờ người sang". Vũ thẹn ra về, dọc đường ngẫm nghĩ không hiểu ý bà thế nào, có kẻ tùy tùng lúc nãy đứng sau nhà nghe được lời bà mẹ bèn kể lại cho Vũ. Vốn là khi Thất Lang cầm tiền vào thưa, bà mẹ nói "Ta vừa thấy mặt công tử có sắc mờ tối, ắt sẽ gặp họa lớn. Thường nghe Được người biết thì phải chia sẻ điều lo âu, được người giúp thì phải báo đáp lúc hoạn nạn, kẻ giàu lấy tiền báo đáp, người nghèo lấy nghĩa báo đáp. Nay vô cớ mà được cho nhiều tiền là điềm không lành, e người ta muốn con đem cái chết báo đáp đấy".</p><p></p><p>Vũ nghe thế rất phục bà mẹ giỏi, nhưng càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang. Hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang từ chối không tới, Vũ bèn tới nhà đòi uống rượu, Thất Lang tự đi mua rượu, đem khô nai ra đãi khách hết sức niềm nở. Qua hôm sau nữa Vũ mời, Thất Lang mới tới, cùng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ nhưng tặng tiền bạc thì không nhận, Vũ nói thác là mua da cọp mới nhận. Thất Lang về nhà xem lại số da cọp để dành thì không đủ so với số tiền, tự nghĩ phải đi săn nữa mới đủ giao nộp. Vào núi liền ba ngày không săn được gì. Gặp lúc vợ bệnh phải ở nhà lo thuốc thang không rảnh đi săn được, qua mười ngày vợ chết phải lo chôn cất, số tiền nhận được đem tiêu gần hết. Vũ tới điếu tang, phúng viếng rất hậu. Chôn cất vợ xong, Thất Lang lại mang nỏ vào núi, càng nóng lòng trả nợ Vũ, nhưng rốt lại vẫn không săn được gì.</p><p></p><p>Vũ nghe biết chuyện, khuyên đừng gấp, mong Thất Lang tới chơi một lần nhưng Thất Lang vẫn băn khoăn về nỗi còn thiếu nợ nên không chịu tới. Vũ đòi giao số da đã có để Thất Lang tới, Thất Lang kiểm lại những bộ da cũ thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, càng thêm buồn bã. Vũ biết vội tới nhà, hết lời an ủi rồi vào xem những tấm da hư, nói “Thế này lại hay, ý ta là không cần những da có lông”. Rồi gỡ xuống đem ra, mời Thất Lang cùng về nhà chơi, Thất Lang không chịu đi, Vũ đành về một mình. Thất Lang vẫn nghĩ ngợi về việc còn thiếu tiền Vũ, lại mang lương khô vào núi, qua vài đêm bắn được một con cọp, mang cả về đưa cho Vũ. Vũ mừng bày tiệc khoản đãi, mời ở lại chơi ba hôm. Thất Lang nhất quyết từ chối, Vũ sai khóa chặt cổng không cho về.</p><p></p><p>Tân khách thấy Thất Lang quê mùa chất phác, thầm cho rằng công tử chọn bạn sai, nhưng Vũ lo toan cho Thất Lang hơn tất cả khách khứa khác. Vũ mang áo mới cho thay, Thất Lang chối từ không nhận, bèn nhân lúc Thất Lang ngủ lén đánh đổi, Thất Lang bất đắc dĩ phải mặc áo mới. Sau về nhà lại vâng lời mẹ đem trả áo mới đòi áo cũ, Vũ cười nói “Về thưa giùm với lão mẫu rằng đã cắt áo cũ ra may lót giày rồi”. Từ đó Thất Lang thường sai mang thịt thỏ thịt hươu tới biếu, nhưng Vũ mời thì không tới nữa. Một hôm Vũ tới nhà Thất Lang, gặp lúc Thất Lang đi săn chưa về bà mẹ ra đứng dựa cửa nói "Từ nay xin đừng rủ rê con ta nữa, cho khỏi mất lòng". Vũ lễ phép chào, ngượng ngùng ra về.</p><p>Nửa năm sau, chợt gia nhân vào báo “Thất Lang vì tranh giành con beo săn được mà đánh chết người, hiện đã bắt giải lên quan rồi". Vũ cả kinh, lập tức tới thăm thì Thất Lang đã bị đóng gông hạ ngục, gặp Vũ không nói gì, chỉ dặn "Từ nay phiền ông săn sóc giùm mẹ già". Vũ đau xót trở ra, vội đem nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm lượng vàng nhét cho gia đình người bị giết. Hơn tháng họ không kiện cáo, quan bèn tha Thất Lang về, Bà mẹ cảm khái nói “Mạng sống của con nay là nhờ Vũ công tử mà có, không phải là già này được thương tiếc nữa. Chỉ cầu mong công tử suốt đời không gặp tai họa, thì đó là cái phúc của con". Thất Lang muốn tới tạ ơn Vũ, bà nói “Con tới thì tới, nhưng gặp công tử đừng có tạ ơn, ơn nhỏ còn tạ được chứ ơn lớn không tạ được đâu”.</p><p></p><p>Thất Lang tới nhà Vũ, Vũ dịu ngọt an ủi. Thất Lang chỉ dạ dạ, người nhà có kẻ lấy làm quái lạ vì hời hợt, nhưng Vũ mừng là thật thà, đối xử càng tử tế hơn. Từ đó thường tới chơi nhà công tử hàng hai ba ngày, tặng cho vật gì cũng nhận, không chối từ mà cũng không tặng gì đáp lễ. Gặp ngày sinh nhật của Vũ, khách khứa và bọn tùy tùng đông đúc, tối ngủ lại chật nhà, Vũ tới ngủ chung với Thất Lang trong một phòng nhỏ, ba người đầy tớ trải rơm nằm dưới giường. Qua canh hai chúng đều ngủ say, hai người vẫn nhỏ to trò chuyện.</p><p></p><p>Thanh bội đao của Thất Lang treo trên vách bỗng tự vọt lên, tuốt ra khỏi vỏ đến mấy tấc, loảng xoảng thành tiếng, lóe sáng như chớp. Vũ giật mình, Thất Lang cũng vùng dậy hỏi ba người nằm dưới giường là những ai, Vũ đáp đều là tôi tớ. Thất Lang nói “Trong bọn này ắt có kẻ ác”. Vũ hỏi sao biết, Thất Lang đáp,Thanh đao này mua ở nước ngoài, giết người chưa từng dính máu, dòng họ ta đeo đã ba đời, chặt đầu người có tới hàng ngàn mà vẫn sắc bén như mới mài, gặp kẻ ác thì khua vang tuốt ra, chắc sắp phải giết người rồi. Xin công tử nên thân người quân tử, xa kẻ tiểu nhân thì may ra tránh khỏi tai họa.</p><p></p><p>Vũ gật đầu, Thất Lang vẫn không vui, trằn trọc mãi trên giường. Vũ nói "Lành dữ có số, sao lại lo lắng quá thế?”. Thất Lang đáp “Ta chẳng sợ gì nguy hiểm, chỉ vì còn có mẹ già thôi". Vũ nói "Làm gì mà tai họa tới mau thế được?", Thất Lang đáp "Không tới thì càng hay". Đại khái ba người đầy tớ ngủ dưới giường, một là Lâm Nhi, Vũ rất vừa ý, một là đứa tiểu đồng khoảng mười hai mười ba tuổi, Vũ thường sai phái này nọ, một là Lý ứng tính rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ cãi lại công tử, Vũ đã nhiều lần nổi giận. Đêm ấy Vũ nghĩ thầm chuyện này chắc có dính líu tới nó nên sáng ra gọi tới nói khéo rồi bảo nó đi.</p><p></p><p>Con trưởng của Vũ là Thân, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm Nhi coi phòng sách, trong phòng có cây cúc đang trổ hoa. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi vắng, phòng sách chắc vắng vẻ bèn một mình tới hái hoa cúc. Lâm Nhi chợt xông ra níu kéo trêu ghẹo, nàng toan bỏ chạy thì Lâm Nhi bế xốc vào phòng. Nàng kêu gào chống cự xám mặt khản tiếng, Thân chạy vào Lâm Nhi mới buông nàng ra bỏ trốn. Vũ về nghe chuyện, nổi giận tìm Lâm Nhi nhưng không rõ đã trốn đi đâu, qua hai ba hôm mới rõ nó tới xin làm tôi tớ trong nhà quan Ngự sử Mỗ. Mỗ làm quan ở kinh, việc nhà đều giao cho người em, Vũ lấy tình thân gởi thư đòi trả Lâm Nhi, em Mỗ cứ để đó không trả.</p><p></p><p>Vũ càng tức, thưa lên quan huyện, quan tuy có trát bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi. Vũ đang tức giận thì gặp lúc Thất Lang tới, Vũ nói "Lời ông nói đã nghiệm rồi”. Nhân kể lại mọi chuyện, Thất Lang nghe xong sắc mặt tái xanh không nói câu nào, bỏ về ngay. Vũ sai bọn gia nhân đắc lực theo dõi Lâm Nhi, tối đến Lâm Nhi ra đường bị bọn kia bắt được trói lại mang về nộp Vũ. Vũ lấy gậy đánh, Lâm Nhi gào thét chửi mắng rất hỗn láo. Chú Vũ tên Hằng vốn là bậc trưởng giả sợ cháu nóng giận gây họa, khuyên đưa Lâm Nhi lên để quan trị tội. Vũ nghe theo, giải Lâm Nhi lên công đường, nhưng nhà Ngự sử gởi thư tới quan huyện bèn thả Lâm Nhi ra, cho muốn theo ai tùy ý.</p><p></p><p>Lâm Nhi càng rông càn, trước chỗ đông người bịa đặt nói vung lên rằng Vũ tư thông với con dâu, Vũ không nhịn được, phẫn uất muốn chết. Hôm sau Vũ tới cổng nhà Ngự sử kêu gào chửi rủa, người chung quanh khuyên giải bảo về. Qua một đêm, chợt gia nhân vào bẩm Lâm Nhi bị người ta giết chết lóc thịt ném xác ngoài đồng trống, Vũ ngạc nhiên mừng rỡ, mới hơi hả dạ. Kế nghe nhà Ngự sử kiện hai chú cháu, Vũ bèn đưa chú tới đối chất, quan huyện không nói năng gì, sai đánh Hằng, Vũ lớn tiếng nói "Đã vu cho tội giết người, lại làm nhục bậc thân sĩ à? Chuyện này cứ hỏi ta, đừng kéo chú ta vào". Quan huyện không thèm nghe, Vũ trợn mắt toan sấn lên, đám nha lại đánh đập ngăn lại. Bọn đánh Hằng đều là chó săn của nhà quan, Hằng lại già yếu, chịu chưa đủ nửa số roi phạt đã tắt hơi chết rồi, quan huyện thấy chú Vũ đã chết cũng không xét xử nữa. Vũ gào thét chửi mắng, quan huyện làm ngơ như không nghe thấy gì đành khiêng xác chú về, căm hờn đau xót không biết làm sao.</p><p></p><p>Nghĩ muốn bàn với Thất Lang, nhưng không thấy Thất Lang tới điếu tang, tự nghĩ mình đối xử với Thất Lang không tệ, sao lại làm ngơ như kẻ qua đường? Cũng ngờ rằng kẻ giết Lâm Nhi là Thất Lang, nhưng lại nghĩ thế sao không bàn với mình? Bèn sai người tới nhà Thất Lang thăm dò nhưng thấy cửa đóng im ỉm, láng giềng đều không rõ đi đâu. Một hôm em Mỗ đang ngồi trong dinh trò chuyện với quan huyện, gặp ngày nộp củi đuốc, chợt một người tiều phu tới trước mặt, ném gánh củi xuống rút đao sắc sấn vào chém. Em Mỗ hoảng sợ giơ tay lên đỡ, lưỡi đao lướt qua cánh tay rơi xuống, lại thêm nhát nữa rơi đầu. Quan huyện cả sợ bỏ chạy, tiều phu còn nhìn quanh thì dám nha lại vội đóng cổng, cầm gậy gộc la lớn xúm lại, tiều phu liền tự đâm cổ chết. Mọi người nhao nhao xúm lại nhận mặt, biết đó là Điền Thất Lang. Quan huyện hoàn hồn mới trở ra xem xét, thấy Thất Lang nằm cứng đờ giữa vũng máu, tay còn cầm đao. Vừa tới gần nhìn kỹ, xác chết chợt vùng dậy chém bay đầu quan huyện rồi lại ngã xuống. Lính huyện tới bắt bà mẹ Thất Lang thì bà đã bỏ trốn từ mấy hôm trước.</p><p></p><p>Vũ nghe Thất Lang chết, chạy tới khóc lóc rất đau thương, có người nói là chính Vũ sai Thất Lang làm thế, Vũ bán hết điền sản lo lót mới được vô sự. Xác Thất Lang bị vứt ra đồng trống hơn ba chục ngày, chim muông thay nhau canh giữ, Vũ thu nhặt về tống táng rất hậu. Con trai Thất Lang tới lưu ngụ ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) đổi họ là Đồng, lớn lên đi lính, nhờ quân công làm tới chức Đồng tri tướng quân, khi trở về Liêu Dương thì Vũ đã hơn tám mươi tuổi, chỉ cho biết mồ cha.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Không khinh suất nhận một đồng tiền, thì đúng là không quên báo ơn một bữa cơm, người mẹ Thất Lang mới hiền làm sao! Còn như Thất Lang chưa phát tiết nỗi hận nhưng chết rồi vẫn trút hờn được, sao mà thiêng như thế. Nếu Kinh Kha<strong>*</strong> làm được như vậy, thì ngàn năm đâu còn mối hận không đâm được vua Tần. Nếu có được người như thế thì có thể vá những chỗ lưới trời bị lọt<strong>**</strong>. Thế đạo mênh mang, hận là những kẻ như Thất Lang quá ít, thật đau lòng thay!</em></p><p></p><p>*Kinh Kha: kiếm khách nổi tiếng thời Chiến quốc, nhận lệnh Thái tử Đan nước Yên vào đất Tần ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công.</p><p></p><p>**Vá những chỗ lưới trời bị lọt: lấy ý từ câu "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời giăng giăng, thưa mà không lọt), ý nói những kẻ làm điều ác trước sau cũng bị trừng trị. Vá những chỗ lưới trời bị lọt đây ý nói có những kẻ làm ác không bị trừng trị nên phải có những người như Điền Thất Lang để thi hành đạo trời.</p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 112 -</strong></p><p>Chợ Biển La Sát</p><p>(La Sát Hải Thị)</p><p></p><p>Mã Tuấn tự Long Môi là con nhà buôn bán, dung mạo đẹp đẽ. Lúc trẻ phóng túng, giỏi ca múa, thường đi theo phường hát, lấy khăn gấm bịt đầu trông xinh xắn như con gái, nhân đó có hiệu là Tuấn Nhân. Năm mười bốn tuổi vào học trường huyện, lập tức có tiếng là học giỏi. Cha già yếu thôi buôn bán về nghỉ ở nhà, bảo sinh rằng "Mấy quyển sách kia đói không thể nấu, rét không thể mặc, con cứ nối nghiệp cha mà đi buôn thôi". Từ đó Mã đi buôn, theo người ta ra buôn ngoài biển, bị bão trôi dạt mấy ngày đêm tới một nơi đô hội. Người ở đó xấu xí lạ lùng, thấy Mã cho là yêu quái, kêu la bỏ chạy. Ban đầu Mã thấy họ xấu xí sợ lắm, đến khi biết người xứ ấy sợ mình lại lấy đó lừa họ, thấy ai đang ăn uống thì chạy xộc tới, người ta sợ chạy thì ăn những thức họ bỏ lại. Lâu ngày vào tới xóm núi, thấy ở đó cũng có kẻ dung mạo giống người nhưng áo quần rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghỉ dưới gốc cây, người làng không dám tới gần, chỉ đứng xa nhìn, hồi lâu thấy Mã không phải là kẻ ăn thịt người mới mon men tới. Mã cười trò chuyện với họ, tuy khác tiếng nhưng cũng hiểu được nửa phần, Mã nói rõ vì sao mình lạc tới đây Người làng mừng rỡ loan báo khắp làng xóm rằng khách không phải là kẻ bắt người ăn thịt, nhưng những kẻ xấu xí chỉ đứng xa nhìn rồi bỏ đi, không dám tới gần.</p><p></p><p>Những kẻ tới gần thì chỗ mũi miệng cũng giống người Trung Quốc, cùng bày rượu mời Mã. Mã hỏi vì sao lại sợ mình, họ đáp “Thường nghe ông bà nói rằng cách đây hai vạn sáu ngàn dặm về phía tây có nước Trung Quốc, dân ở đó mặt mũi kỳ quái nhưng chỉ nghe đồn, nay mới tin là đúng". Hỏi sao nghèo thế, họ đáp "Điều nước bọn ta quý chuộng không phải văn chương mà là tướng mạo. Những người đẹp nhất làm thượng khanh, kế làm chức dân xã, hạng dưới chót cũng được quý nhân thương yêu nên có lương bổng nuôi vợ con. Còn loại bọn ta lúc mới chào đời thì cha mẹ đều cho là điềm xấu vứt đi không nuôi, những nhà không nỡ bỏ là vì nối dõi tông môn thôi. Mã hỏi nước này tên gì, họ đáp “Đây là nước Đại La Sát, kinh đô cách đây ba mươi dặm về phía Bắc". Mã xin dẫn tới xem một phen, rồi đó gà gáy thức dậy cùng đi.</p><p></p><p>Trời sáng tới kinh, thấy kinh thành xây bằng đá đen như mực, lầu gác cao gần trăm thước nhưng ít lợp ngói mà lấy đá đỏ úp phía trên, dùng đá vụn trít các khe hở trông không khác gì đan sa. Gặp lúc bãi chầu, các quan đội mão che lọng trong triều ra, người làng chỉ mà nói "Kia là quan Tướng quốc". Mã nhìn thấy ông ta hai tai quặt ra phía sau, mũi có ba lỗ, lông mày che kín mắt như tấm rèm. Lại có mấy người cưỡi ngựa ra, người kia nói "Kia là quan Đại phu”, lần lượt theo thứ tự nói rõ quan chức của từng người, Mã thấy dung mạo đều ghê rợn kỳ quái, nhưng quan chức càng thấp thì diện mạo càng bớt xấu xí. Lát sau Mã về, người trên đường phố trông thấy đều bỏ cbạy tán loạn, xô nhau ngã dúi dụi như gặp quái vật. Người cùng đi ra sức phân trần, người trong chợ mới dám đứng xa xa mà nhìn.</p><p></p><p>Mã về rồi, người trong nước lớn nhỏ đều biết xóm núi có quái nhân, các nhà quyền quý tranh nhau muốn mở rộng kiến văn bèn sai người trong thôn mời Mã. Nhưng Mã tới nhà nào thì người giữ cổng cũng đóng chặt cửa, đàn ông đàn bà lén nhìn qua khe cửa thì thào bàn tán, cả ngày không có một ai dám ra mặt đón tiếp. Người làng nói "Ở đây có quan Chấp kích lang từng phụng mệnh tiên vương đi sứ ngoại quốc, là người từng trải lịch duyệt, may ra không sợ anh chăng?". Bèn tới nhà quan Chấp kích, quả nhiên ông vui mừng tiếp đón Mã như thượng khách.</p><p></p><p>Mã thấy diện mạo ông như người tám chín mươi tuổi, hai mắt lồi ra, râu ria tua tủa như lông nhím. Ông nói "Ta lúc trẻ từng phụng mệnh vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ chưa tới Trung Hoa. Nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi lại được nhìn thấy nhân vật thượng quốc, không thể không tâu lên cho thiên tử biết. Nhưng ta nương náu nơi rừng núi đã hơn mười năm không đặt chân tới triều đình, sáng mai xin vì ông cố đi một phen”. Rồi sai dọn tiệc đãi khách, rượu được vài tuần gọi phường nữ nhạc mười mấy người ra thay phiên múa hát, nàng nào mặt mũi cũng như quỷ dạ xoa, gấm trắng bịt đầu, áo đỏ quét đất, lời hát không nghe rõ là gì mà khúc điệu cũng kỳ quái, nhưng chủ nhân có vẻ vui thích lắm. Hỏi Trung Quốc chắc cũng có thú vui này chứ, Mã đáp có. Chủ nhân xin được nghe, Mã gõ bàn hát một khúc, chủ nhân vui vẻ nói "Lạ thay, tiếng hát như rồng ngâm phụng gáy, ta chưa từng được nghe bao giờ".</p><p></p><p>Hôm sau ông vào triều tiến cử Mã với quốc vương, nhà vua vui mừng xuống chiếu vời Mã. Nhưng có hai ba vị đại thần nói hình dạng Mã quái gở, e làm kinh hãi thánh thể, vua bèn thôi. Ông Chấp kích lập tức trở về kể cho Mã nghe, tỏ ý rất tiếc. Mã ở đó lâu ngày, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, cầm gươm đứng dậy múa, lấy than bôi mặt đóng vai Trương Phi<strong>*</strong>. Chủ nhân cho là đẹp, nói "Xin khách đem bộ mặt Trương Phi tới ra mắt Tướng quốc, chắc Tướng quốc sẽ vui vẻ trọng dụng, khó gì không được chức cao lộc hậu”. Mã nói “Ôi, bôi mặt đùa giỡn thì còn được, chứ làm sao có thể mang bộ mặt này đi cầu chức tước”. Chủ nhân cố ép, Mã bèn theo lời.</p><p></p><p>*Trương Phi: võ tướng và là em kết nghĩa của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, tính tình thô mãng, mặt mũi dữ tợn.</p><p></p><p>Chủ nhân liền mở tiệc mời các quan tới uống rượu, bảo Mã vẽ mặt chờ sẵn. Không bao lâu khách tới, ông gọi Mã ra chào, khách đều ngạc nhiên nói ”Lạ quá, sao bữa trưóc xấu xí mà hôm nay xinh đẹp thế kia?”, rồi cùng nhau uống rượu hết sức vui vẻ. Mã múa may hát khúc <em>Dặc dương</em>, cả tiệc đều phục lăn. Hôm sau các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã, vua mừng rỡ, sai đem cờ tiết đi vời. Mã tới bái kiến, vua hỏi về đạo trị an của Trung Quốc. Mã tâu bày cặn kẽ, vua rất khen ngợi, ban yến ở Ly cung. Rượu ngà ngà, vua hỏi "Nghe nói khanh giỏi múa hát, có thể cho quả nhân nghe được không?". Mã liền đứng dậy múa, cũng bắt chước lấy gấm trắng bịt đầu, hát giọng ồm ồm. Vua thích lắm phong ngay cho Mã chức Hạ Đại phu, thường ban yến riêng, ân sủng khác thường.</p><p></p><p>Lâu ngày các quan lớn nhỏ trong triều biết diện mạo Mã mang là giả, Mã tới đâu cũng thấy người ta rỉ tai nhau lơ là với mình, từ đó bị cô lập, trong lòng sợ sệt không yên, dâng sớ xin về hưu trí nhưng vua không cho. Mã lại xin nghỉ phép, vua cho nghỉ ba tháng, bèn lấy ngựa trạm chở vàng bạc châu báu trở về xóm núi. Người làng quỳ đón bên đường, Mã lấy vàng bạc chia cấp cho những kẻ đối xử tử tế với mình trước đây, tiếng reo mừng cảm ơn như sấm. Dân làng nói "Bọn ta hèn mọn, được Đại phu cho tiền bạc, ngày mai ra chợ biển, sẽ tìm mua vật quý để đền ơn" Mã hỏi chợ biển ở đâu, họ đáp "Chợ họp giữa biển, hội tụ châu báu hàng hóa của Giao nhân<strong>*</strong> bốn biển, người ở bốn phương mười hai nước đều tới mua bán, trong đó có nhiều thần nhân dạo chơi, mây ráng rợp trời, ba đào cuồn cuộn. Các bậc quý nhân tự trọng không dám xông pha nguy hiểm đều đưa vàng lụa nhờ bọn ta mua giùm các món quý lạ, nay sắp đến phiên chợ rồi".</p><p></p><p>*Giao nhân bốn biển: Thuật dị ký chép ở Nam Hải có giống người là Giao nhân sống ớ dưới nước như cá, chuyên việc dệt vải, nếu khóc thì nước mắt hóa thành ngọc châu.</p><p></p><p>Mã hỏi tại sao biết sắp đến phiên chợ, họ đáp "Mỗi khi thấy chim đỏ bay liệng qua lại trên biển thì bảy hôm sau có phiên chợ”. Mã hỏi đi mất bao lâu, muốn cùng đi xem nhưng dân làng can ngăn, khuyên nên tự trọng thân phận, Mã đáp "Ta vốn là khách đi biển, sợ gì ba đào". Không bao lâu quả có nhiều người nối nhau tới gởi tiền nhờ mua hàng giùm, Mã liền mang hành lý xuống thuyền. Thuyền có vài mươi người, đáy phẳng lườn cao, có mười tay chèo, lướt đi như tên bay. Qua ba ngày, trông thấy xa xa giữa chốn mây nước mênh mông có đài gác chập chồng, thuyền buôn đông đặc như kiến. Giây lát tới dưới thành, thấy tường thành xây bằng những tảng đá cao như thân người, chòi canh cao chạm mây xanh. Buộc thuyền vào thành, thấy trong chợ bày đầy các món kỳ trân dị bảo lớng lánh chói mắt, nhiều thứ trần gian không có.</p><p></p><p>Chợt một thiếu niên cưỡi ngựa đi tới, người trong chợ đều dạt ra tránh đường, nói đó là Tam Thế tử biển Đông. Thế tử đi tới, nhìn Mã nói “Đây hẳn là người xứ lạ”, liền có kẻ tùy tùng tới hỏi quê quán. Sinh đứng bên đường chắp tay vái chào, tự nói tên họ quê quán. Thế tử mừng nói “Được ông hạ cố tới đây, thật có duyên phận không ít". Rồi đó đưa ngựa cho sinh cưỡi, mời cùng sóng vai đi ra cửa tây thành, vừa tới bờ cù lao thì con ngựa sinh cưỡi hý vang rồi nhảy xuống nước. Sinh cả sợ kêu thất thanh thì thấy nước biển rẽ ra, hai bên dựng đứng như vách tường. Giây lát thấy có cung điện, đồi mồi làm kèo, vảy cá làm ngói, bốn vách là pha lê lóng lánh chói mắt. Sinh xuống ngựa vào trong ra mắt, ngẩng lên thấy Long quân ngồi trên, Thế tử tâu nói “Thần đi chơi chợ, gặp được bậc hiền sĩ Trung Hoa, xin dẫn kiến với đại vương".</p><p></p><p>Sinh bước lên vái lạy xong, Long quân nói "Tiên sinh là bậc văn sĩ, ắt văn chương hay lắm, quả nhân muốn phiền viết hộ bài phú <em>Chợ biển</em>, xin đừng tiếc lời châu ngọc". Sinh dập đầu vâng lệnh, Long quân sai đem cho nghiên pha lê, bút râu rồng, giấy sắc trắng tựa tuyết, mực thơm ngát như lan. Sinh lập tức viết xong bài phú hơn ngàn chữ dâng lên trước điện, Long quân khen ngợi nói "Tài lớn của tiên sinh làm thủy quốc vẻ vang thêm nhiều lắm". Rồi hội họp thủy tộc mở tiệc lớn ở cung Thái Hà, rượu được vài tuần, Long quân nâng chén nhìn khách nói "Quả nhân có đứa con gái yêu chưa lấy chồng, muốn gả cho tiên sinh, tiên sinh có bằng lòng không?”. Sinh rời tiệc bước ra thẹn thùng lạy tạ, chỉ dạ dạ mà thôi. Long quân bèn quay lại dặn dò tả hữu. Không bao lâu có mấy người cung nhân đỡ một nữ lang ra, vòng ngọc khua vang, nhã nhạc trỗi lớn. Sinh lạy xong liếc nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, công chúa lạy xong quay trở vào. Giây lát bãi tiệc, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa sinh vào hậu cung.</p><p></p><p>Công chúa trang điểm lộng lẫy ngồi đợi, trong phòng kê giường san hô khảm bát bảo, rèm kết tú cầu điểm xuyết minh châu to như cái đấu, chăn nệm đều mềm mại thơm tho. Trời vừa rạng sáng thì gái hầu trẻ đẹp đã xúm tới hầu hạ. Sinh trở dậy ra triều đường lạy tạ, Long quân phong sinh làm Phò mã Đô úy, sai đưa bài phú ra các biển. Long quân các biển đều sai sứ tới mừng, tranh nhau mời Phò mã tới uống rượu. Sinh mặc quần áo thêu, cởi rồng xanh, tiền hô hậu ủng ra đi, mấy mươi võ sĩ cưỡi ngựa hộ vệ đều mang cung sơn son, mang giày cựa bạc sáng loáng xúm xít chung quanh, trên ngựa gảy đàn, trong xe gõ phách, trong ba ngày dạo chơi khắp các biển. Từ đó danh tiếng con rể Long quân vang dậy bốn biển.</p><p></p><p>Trong cung có một cây ngọc thân đầy một ôm, gốc trong suốt như pha lê trắng, trong có lõi màu vàng nhạt nhỏ hơn cánh tay, lá như bích ngọc dày bằng đồng tiền mọc chi chít, sinh thường cùng vợ ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo. Hoa nở đầy cây như hoa thiềm bồ, cánh hoa rụng xuống thì kêu leng keng, nhặt lên nhìn thấy như mã não đỏ chạm trổ, long lanh rất đẹp. Lúc lúc có chim lạ tới đậu trên cây hót, lông màu vàng ánh, đuôi dài hơn thân, tiếng hót như ngọc khua ai oán làm người ta xót xa. Sinh cứ nghe chim hót lại chạnh niềm cố hương, nhân nói với công chúa "Ta lạc lõng ba năm, bặt tin cha mẹ, cứ nghĩ tới lại đau lòng, nàng có thể theo ta về không?”. Nàng nói “Tiên phàm hai lối, không thể theo được. Nhưng thiếp cũng không nỡ vì tình vợ chồng mà khiến chàng lỗi đạo hiếu, xin thong thả sẽ tính". Sinh nghe thế sa nước mắt, nàng cũng than "Tình thế này thật không thể tròn cả hai bề".</p><p></p><p>Hôm sau sinh đi chơi về, Long quân hỏi "Nghe nói Đô úy nhớ quê muốn về, sáng mai khởi hành được chăng?". Sinh từ tạ nói “Thần bơ vơ đất khách, đội ơn đại vương quá yêu, trong lòng chỉ mong có dịp báo đáp. Nay xin cho tạm về thăm cha mẹ, rồi sẽ trở lại hầu đại vương". Tối đến công chúa đặt tiệc từ giã, sinh hẹn ngày gặp lại, nàng nói "Tình duyên đôi ta đến đây là hết". Sinh vô cùng đau xót, nàng nói “Cứ về phụng dưỡng mẹ cha để tỏ lòng hiếu thảo của chàng, chứ đời người hết hợp rồi tan, trăm năm cũng như sớm tối thôi, cần gì khóc lóc như lối đàn bà? Từ nay về sau nếu thiếp thủ tiết vì chàng, chàng giữ nghĩa với thiếp, hai nơi vẫn một lòng thì là vợ chồng đấy, cần gì phải sớm tối giữ riệt lấy nhau mới gọi là bách niên giai lão? Nếu phụ lời nguyền thì có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng tốt lành đâu. Còn nếu trên trần gian thiếu người nội trợ, thì cưới tỳ thiếp cũng được thôi.</p><p></p><p>Còn có một chuyện muốn nói, là từ ngày kết bạn, hình như thiếp đã có thai, phiền chàng đặt tên trước cho con”. Sinh nói "Nếu sinh con gái thì đặt tên là Long Cung, nếu sinh con trai thì đặt tên là Phúc Hải". Công chúa xin để lại một vật làm tin, sinh lúc ở nước La Sát được một đôi hoa sen bằng ngọc đỏ bèn lấy đưa cho nàng. Công chúa nói "Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng chèo thuyền ra Nam đảo, thiếp sẽ giao con". Rồi lấy da cá làm túi, bỏ đầy châu ngọc vào đưa cho sinh, nói "Chàng giữ cho kỹ, bấy nhiêu thì ăn tiêu mấy đời cũng không hết". Trời mờ sáng, Long vương bày tiệc tiễn hành, tặng cho rất hậu. Sinh lạy tạ ra đi, công chúa ngồi xe dê trắng đưa lên tới tận bờ. Sinh lên bờ xuống ngựa, nàng dặn dò tự bảo trọng rồi quay xe trở về, phút chốc đã xa tít, nước biển khép lại không thấy gì nữa, sinh bèn về nhà.</p><p></p><p>Từ khi sinh vượt biển, có người cho rằng đã chết, đến khi về tới người nhà đều kinh ngạc. Cũng may là cha mẹ đều còn khỏe mạnh, duy vợ đã đi lấy chồng khác, mới sực hiểu câu nói “giữ nghĩa" của Long nữ là đã biết trước việc ấy. Cha muốn cưới vợ khác cho nhưng sinh không nghe, chỉ mua thiếp. Đúng kỳ hẹn ba năm sinh chèo thuyền ra đảo, thấy hai đứa nhỏ ngồi trên mặt biển vốc nước đùa giỡn, không động cũng không chìm. Sinh tới gần bế, một đứa reo lên nắm tay sinh rồi nhảy vào lòng, đứa kia khóc lớn như giận sinh không dắt mình, sinh cũng bế cả lên. Nhìn kỹ thì là một trai một gái, mặt mũi thanh tú, đội mũ hoa gắn ngọc, tức đôi hoa sen bằng ngọc đỏ. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, sinh mở ra xem thấy có bức thư như sau:</p><p></p><p><em>“Kính thăm cha mẹ bình an. Thấm thoát ba năm, cách đường bụi đỏ, mênh mông một bể, dứt lối chim xanh. Kết tương tư thành mộng, để nhưng nhớ làm đau, thăm thẳm trời xanh, hận nào sánh được? Nhưng nghĩ Hằng Nga còn lạnh lùng trong cung quế, Chức Nữ phải tê tái cạnh sông Ngân, thì ta là hạng người nào mà mong trăm năm sum họp, thiếp nghĩ tới đó liền gạt nước mắt mà vui cười. Sau khi từ biệt hai tháng thì thiếp sinh được song thai, đến nay đã bi bô đòi bế, hơi biết nói cười, ngó táo giành lê, không có mẹ cũng sống được, nên kính trao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ chàng để lại, thiếp gài lên mũ chúng để làm tin, lúc nào ôm con trên gối thì cũng như có thiếp bên cạnh vậy. Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền, thiếp được an ủi rất nhiều, thề giữ trọn tình với chàng đến chết, vật trong rương cam thiếu dầu thơm, người trong kính lâu không son phấn. Chàng như chinh nhân thì thiếp làm quả phụ, cho dù không gần gũi cũng vẫn có thể nói là duyên cầm sắt kia mà. Chỉ nghĩ tới cha mẹ chồng đã bế cháu nội mà chưa gặp nàng dâu, kể theo tình lý cũng còn chưa trọn vẹn, nên năm sau tống táng mẹ, thiếp sẽ tớì mộ điếu tang cho trọn đạo dâu con. Từ nay về sau thì Long Cung vô sự, còn nhiều lúc gặp nhau, Phước Hải sống lâu, cũng có đường lui tới. Mong chàng khoẻ mạnh, thư chẳng hết lời”.</em></p><p></p><p>Sinh đọc đi đọc lại lá thư rơi lệ, hai đứa nhỏ ôm cổ, nói "Về nhà thôi”, sinh càng đau xót, vỗ về hai đứa hỏi "Hai con có biết nhà ở đâu không?", hai đứa khóc lóc líu lo đòi về. Sinh nhìn ra thấy biển cả mênh mông, chân trời xa tít, bóng người mờ mịt, mây nước muôn trùng đành bế con quay thuyền ngậm ngùi trở về. Sinh biết mẹ không còn sống lâu nữa nên lo sẵn mọi việc ma chay, trồng hơn trăm cây tùng quanh khu mộ. Năm sau quả nhiên mẹ sinh mất, khi quan tài sắp hạ huyệt thì có cô gái mặc áo tang tới làm lễ.</p><p></p><p>Mọi người đang ngạc nhiên nhìn chợt gió bão nổi lên, sét nổ ầm ầm, kế mưa như trút nước, trong chớp mắt cô gái biến mất, những tùng bách mới trồng phần nhiều chết khô lúc ấy lại trở nên xanh tốt. Phước Hải hơi lớn thường nhớ nhung mẹ, cứ nhảy xuống biển mấy ngày mới về. Long Cung là con gái không đi được, chỉ biết đóng cửa ngồi khóc. Một hôm đang ban ngày mà trời tối sầm, Long nữ chợt tới bảo con gái nín khóc rồi nói "Con sẽ lấy chồng, khóc lóc làm gì?”, rồi cho con gái một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một trăm viên ngọc minh châu, một đôi vòng vàng khảm bát bảo làm của hồi môn. Sinh nghe nói vợ tới vội chạy vào nắm tay nàng khóc nức nở. Giây lát trời nổi mua gió, sét đánh vang nhà, nàng biến mất.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Vẽ mặt lấy lòng, tình đời thật như ma quỷ, ưa chuyện kỳ quái, thế gian quả chỉ một đường. Thẹn ít thì người thích ít, thẹn nhiều thì người thích nhiều, nhưng nếu công nhiên mang râu tóc phường tuồng dạo chơi ở kinh kỳ thì chắc rất ít người không hoảng sợ bỏ chạy. Chàng ngây Lăng Dương kia định ôm viên ngọc liên thành tới đâu mà khóc vậy<strong>*</strong>? Than ôi, chuyện hiển vinh phú quý chỉ nên cầu nơi chốn thẩn lâu hải thị<strong>** </strong>mà thôi.</em></p><p></p><p>* Chàng ngây... khóc vậy: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu chỉ kẻ có tài mà không ai biết tới.</p><p></p><p>** Thẩn lâu hải thị: tức hiện tượng những thành quách chợ búa hiện ra trên mặt biển, là ảo ảnh sinh ra do sự khúc xạ của ánh sáng, người xưa cho rằng do khí của loài ngao sò ở biển thở ra kết thành. Đây dùng chỉ ảo ảnh, ảo tưởng. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 113 -</strong></p><p>Công Tôn Cửu Nương</p><p>(Công Tôn Cửu Nương)</p><p></p><p>Cái án Vu Thất<strong>*</strong> phát ra, những kẻ liên lụy bị giết nhiều nhất là người hai huyện Thê Hà, Lai Dương (tỉnh Sơn Đông), mỗi ngày có tới mấy trăm người bị giải ra pháp trường xử chém, máu đen ngập đất, xương trắng ngút trời. Quan trên nhân từ cấp cho quan tài, các hiệu bán quan tài trong thành Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) hết sạch cả hàng, vì vậy những người bị xử tử phần lớn được chôn ở cánh đồng phía nam thành.</p><p></p><p>*Cái án Vu Thất: tức vụ khởi binh chống triều đình của Vu Thất ở huyện Thê Hà tỉnh Sơn Đông năm Thuận Trị thứ 18 (1661), bị nhà Thanh đàn áp rất thảm khốc.</p><p></p><p>Năm Giáp dần có thư sinh người huyện Lai Dương tới chơi Tắc Hạ (cửa nam thành Tế Nam), vì có hai ba người bạn bị xử tử nên nhân đó mua giấy tiền vàng bạc ra cúng ở đám mả hoang, rồi tới thuê một gian phòng trong chùa ở trọ. Hôm sau vào thành lo công việc, xế chiều vẫn chưa về. Chợt có một thiếu niên tới phòng trọ thăm, thấy sinh đi vắng liền bỏ mũ leo lên giường, để nguyên giày nằm ngửa, đầy tớ sinh hỏi chỉ nhắm mắt không trả lời. Lúc sinh về trời đã nhá nhem, không nhìn rõ mặt bèn tới cạnh giường hỏi, khách trợn mắt nói “Ta đang chờ chủ ngươi, sao cứ hạch hỏi lôi thôi, chẳng lẽ ta là trộm cướp à?” Sinh cười nói “Chủ nhân đây". Thiếu niên vội vùng dậy, đội mũ sửa áo ngồi xuống, vồn vã hỏi thăm.</p><p></p><p>Sinh nghe tiếng như người quen, vội gọi lấy đèn, thì ra là Chu sinh người cùng huyện, cũng chết trong nạn Vu Thất, cả sợ bỏ chạy. Chu kéo lại nói "Ta với ông là bạn văn chương, sao vô tình với nhau như thế? Ta tuy là ma nhưng vẫn canh cánh nhớ cố nhân, nay có chuyện muốn làm phiền, xin đừng coi là khác loài mà xử tệ". Sinh bèn ngồi xuống xin nghe sai bảo, Chu nói "Cháu gái ông hiện ở một mình không có chồng, ta muốn cưới nàng về lo việc trong nhà, đã mấy lần nhờ mai mối dạm hỏi nhưng nàng cứ lấy cớ là không có lệnh của bậc tôn trưởng để từ chối, xin ông nói giúp cho một câu”.</p><p></p><p>Trước sinh có đứa cháu gái gọi bằng cậu, mồ côi mẹ từ nhỏ nên sinh đem về nuôi, đến năm mười lăm tuổi mới về sống với cha. Nàng bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha bị hành hình, gào khóc tắt hơi mà chết. Sinh nói "Có cha nó đó, sao lại cầu ta?”. Chu đáp “Cha nàng đã được người cháu bốc mộ mang đi, hiện không có ở đây". Sinh hỏi cháu gái mình đang ở với ai, Chu đáp nàng ở chung với bà láng giềng. Sinh ngại người sống không thể làm mai mối cho ma, Chu nói "Nếu ông chịu giúp thì xin phiền dời gót ngọc", rồi đứng dậy nắm tay sinh kéo đi. Sinh từ chối, hỏi đi tới đâu, Chu nói "Cứ đi sẽ biết", sinh bèn miễn cưỡng đi theo. Đi về phía bắc khoảng một dặm thấy có thôn xóm đông đúc, ước chừng mấy trăm nóc nhà.</p><p></p><p>Tới một gian nhà, Chu gõ cửa, lập tức có bà già ra mở cả hai cánh cửa, hỏi Chu tới có việc gì. Chu nói "Làm phiền bà nói với nương tử rằng có ông cậu tới," Bà già quay vào, giây lát trở ra mời sinh vào, nhìn Chu nói "Có hai gian nhà tranh chật chội, phiền công tử ngồi đợi ngoài cổng một lúc", sinh theo bà ta vào, thấy bên trong là nửa mẫu vườn hoang, có hai gian phòng nhỏ, đứa cháu gái khóc lóc đứng đón ở cửa, trong phòng đèn lửa lờ mờ. Cô gái dung mạo vẫn xinh xắn như lúc còn sống, gạt lệ hỏi thăm tất cả các dì các mợ. Sinh đáp "Mọi người khỏe cả, duy có vợ ta đã qua đời rồi". Cô gái lại sụt sùi khóc, nói "Cháu lúc nhỏ được cậu mợ nuôi nấng, chưa có chút gì báo đáp mà không ngờ đã vùi xác nơi ngòi rãnh trước, rất đỗi ân hận. Năm trước ông anh lớn con nhà bác tới mang hài cốt cha cháu về nhưng không nghĩ gì tới cháu, bơ vơ ngoài mấy trăm dặm như én thu lạc đàn, cậu lại không bỏ qua hồn ma vất vưởng, lại đốt cho vàng bạc, cháu đã nhận được rồi". Sinh bèn kể lại lời Chu, cô gái cúi mặt im lặng.</p><p></p><p>Bà già nói "Chu công tử nhờ bà Dương tới dạm hỏi năm ba bận, già nói việc này rất đáng mừng nhưng nương tử không chịu tự lấy chồng kiểu qua quít, nay được ông cậu làm chủ hôn, mới ưng ý như thế đấy". Bà ta vừa dứt lời thì một nữ lang khoảng mười bảy mười tám tuổi, có đứa hầu gái theo sau xăm xăm bước vào, vừa thấy sinh liền quay người toan chạy. Cháu gái sinh nắm vạt áo kéo lại nói "Không cần phải làm thế, đây là cậu ruột ta, không phải người ngoài". Sinh vái chào, nữ lang cũng khép nép đáp lễ. Cháu sinh nói "Đây là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thê Hà. Ông thân sinh là con nhà thế gia cũ nhưng nay cũng sa sút, không thích chơi với ai, sớm tối chỉ qua lại bạn với cháu”.</p><p></p><p>Sinh liếc thấy nàng mỉm cười miệng sáng tựa trăng thu, bẽn lẽn má hồng như ráng sớm, xinh đẹp như tiên bèn nói "Nhìn thì biết ngay là con nhà đại gia, chứ lều tranh vách đất làm sao có người đẹp như vậy được”. Cháu sinh nói "Đã thế còn là nữ học sĩ, thơ phú đều hay, trước nay cháu vẫn được nàng chỉ dạy”. Cửu Nương cười khẽ nói “Con nhãi bỗng dưng lại bêu xấu người, ông cậu cười cho kìa!”. Cháu sinh lại cười nói “Cậu góa vợ chưa tục huyền, thế người như nương tử đây cậu có vừa ý không?”. Cửu Nương cười chạy ra, nói "Con nhãi điên rồi", rồi bỏ đi. Câu nói tuy giống như đùa giỡn nhưng sinh rất thích, cháu sinh biết ý bèn nói "Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp, nếu cậu không chê là ma thì cháu sẽ nói giùm với mẹ nàng". Sinh cả mừng nhưng ngại người với ma khó kết vợ chồng với nhau, cháu sinh nói “Không sao đâu, nàng với cậu vốn có túc duyên với nhau”. Sinh ra về, cháu gái tiễn ra, nói "Năm hôm nữa, lúc trăng thanh người vắng, sẽ sai người tới đón cậu”.</p><p></p><p>Sinh ra ngoài cổng không thấy Chu đâu, nhìn về phía tây thấy nửa vành trăng trong ánh sáng mờ mờ còn nhận ra đường cũ. Đi một quãng thấy phía nam có một ngôi nhà, Chu đang ngồi chờ trên bậc thềm ngoài cổng, đứng lên đón, nói “Ta chờ ông lâu rồi, mời ông quá bộ vào tệ xá”, rồi cầm tay sinh đưa vào, ân cần cảm tạ. Kế đưa ra một cái chén vàng, trăm hạt ngọc châu nói “Chẳng có gì đáng giá, xin nhận mấy thứ này thay sính lễ”. Kế nói “Trong nhà cũng có ít rượu dở, nhưng vật dưới âm ty sợ không mời khách quý được, làm thế nào?". Sinh khiêm tốn từ tạ, Chu tiễn tới nửa đường mới quay về.</p><p></p><p>Sinh về tới nơi trọ, các sư và đầy tớ xúm lại hỏi han, sinh giấu kín chuyện? nói “Ai nói ta gặp ma là nói bậy, mới rồi ta tới nhà người bạn uống rượu thôi". Sau năm hôm quả thấy Chu tới, sửa giày phẩy quạt có vẻ đắc ý vui mừng lắm, vừa vào tới sân đã vái lạy. Giây lát cười nói "Việc vui mừng của ông đã thu xếp xong, đêm nay làm lễ cưới rồi, xin mời lên đường". Sinh nói "Ta vì không thấy có tin tức gì nên còn chưa nộp sính lễ, làm sao đã thu xếp xong?” Chu nói "Ta đã nộp thay cả rồi”. Sinh hết lời cảm tạ rồi cùng đi tới nơi vào thẳng nhà trong, thấy cháu gái ăn mặc đẹp đẽ tươi cười ra đón. Sinh hỏi làm đám cưới lúc nào, Chu đáp đã ba hôm. Sinh bèn đưa số vàng ngọc Chu tặng hôm trước để thêm vào của hồi môn cho cháu gái, cô gái từ chối hai ba lần mới nhận, rồi nói với sinh "Cháu tỏ ý cậu với Công Tôn phu nhân, phu nhân rất vui mừng, chỉ nói rằng đã già cả không có con cháu nào khác nên không muốn Cửu Nương lấy chồng xa, hẹn đêm nay cậu tới gởi rể tại nhà. Nhà ấy không có đàn ông, để chồng cháu qua làm lễ với cậu cũng được".</p><p></p><p>Chu liền dẫn sinh đi tới cuối thôn thấy một ngôi nhà mở cổng sẵn, hai người lên thẳng sảnh đường. Giây lát gia nhân báo phu nhân tới, có hai người hầu gái đỡ bà già lên thềm. Sinh định lạy chào, phu nhân nói "Ta già yếu lọm khọm, không thể đáp lễ, xin bớt bớt nghi thức thôi", rồi sai đám hầu gái bày tiệc mừng. Chu cũng gọi gia nhân đem ra một mâm riêng đặt trước mặt sinh, lại lấy ra một bầu rượu riêng để sinh uống. Các món ăn trong tiệc không khác gì với trần gian, chỉ có chủ nhân tự rót uống chứ không mời mọc khách. Kế tan tiệc, Chu ra về, hầu gái đưa sinh vào. Tới phòng trong thấy Cửu Nương ngồi bên đuốc hoa đợi sẵn, duyên may giải cấu, người ngọc đa tình, gặp gỡ nhau vô cùng vui sướng.</p><p></p><p>Nguyên là trước kia mẹ con Cửu Nương bị giải lên kinh, nhưng tới Tế Nam thì mẹ nàng chết vì không chịu nổi khổ cực, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo. Nay trên gối kể lại chuyện đã qua, nàng thổn thức không sao ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:</p><p></p><p><em>I. Tích nhật la thường hóa tác trần,</em></p><p><em>Không tương nghiêp quả hận tiền thân. .</em></p><p><em>Thập niên lô lãnh phong lâm nguyệt,</em></p><p><em>Thủ dạ sơ phùng họa các xuân.</em></p><p><em>II. Bạch dương phong vũ nhiễu cô phần,</em></p><p><em>Thùy tưởng Dương đài cánh tác vân.</em></p><p><em>Hốt khải lũ kim sương lý khán,</em></p><p><em>Huyết tinh do nhiễm cựu la quần.</em></p><p>(I. Xiêm áo ngày xưa hóa bụi trần</p><p>Luống đem nghiệp chướng hận tiền thân</p><p>Rừng bàng sương lạnh mười năm nguyệt</p><p>Lầu gác đêm nay mới sáng xuân</p><p>II. Mưa gió mồ hoang quạnh bạch dương</p><p>Đâu ngờ mây lại phủ đài Dương</p><p>Chợt mở rương xưa nhìn vật cũ</p><p>Máu vấy xiêm y nghĩ đoạn trường)</p><p></p><p>Trời gần sáng, nàng giục sinh "Chàng nên về sớm, đừng để bọn tôi tớ sợ hãi”. Từ đó ngày đi đêm tới hết sức gắn bó. Một đêm sinh hỏi Cửu Nương làng này tên là gì, nàng đáp “Là làng Lai Hà, trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương và Thê Hà, nhân đặt tên như thế". Sinh nghe thế bùi ngùi than thở, nàng buồn rầu nói "Cô hồn ngàn dặm trôi nổi không nhà, tình cảnh mẹ con thiếp nói tới thật đau xót. Nếu chàng nghĩ tới ơn nghĩa một đêm, xin thu nhặt giùm hài cốt mẹ con thiếp đem về chôn cất cạnh mồ mả ông bà cho được trăm đời có chỗ nương dựa thì chết cũng còn có tiếng thơm".</p><p></p><p>Sinh nhận lời, nàng lại nói “Người và ma khác loài, chàng cũng không nên ở lại chốn này lâu”, rồi đưa tặng sinh cái khăn lụa, gạt lệ giục lên đường. Sinh buồn rầu đi ra, trong lòng đau đớn, bồi hồi không nỡ ra về, nhân qua gõ cửa nhà Chu. Chu chạy chân không ra đón, cháu sinh cũng trỗi dậy, tóc còn chưa chải, hoảng sợ ra hỏi han cậu. Sinh ngậm ngùi hồi lâu mới thuật lại lời Cửu Nương. Cháu gái sinh nói "Mợ mà không nói thì cháu cũng đã tính toán lâu nay, nơi đây không phải là trần gian, quả thật cậu không nên ở lâu”. Rồi đó nhìn sinh rơi lệ, sinh cũng ứa nước mắt từ biệt. Trở về gõ cửa nhà trọ, nằm thao thức đến sáng, trở dậy muốn tìm mộ Cửu Nương thì nhớ ra là quên hỏi dấu tích. Đến tối trở lại nơi đó thì thấy mồ mả ngổn ngang, không tìm ra được đường đi làng xóm đành than thở quay về.</p><p></p><p>Giơ chiếc khăn nàng tặng ra xem, gặp cơn gió thổi qua lập tức mủn ra, nát vụn như tro, bèn thu xếp hành trang về quê. Liền nửa năm không thể yên lòng, lại tới Tế Nam mong có dịp gặp lại nàng. Tới cánh đồng phía nam thành thì trời đã xế chiều, liền buộc ngựa vào gốc cây trước sân đình rồi đi mau vào bãi tha ma. Chỉ thấy mồ mả trùng trùng, cỏ gai mút mắt, ma trơi lập lòe, chồn kêu ảo não, ghê lòng sởn gáy, sợ hãi đau xót trở về chỗ trọ, chán nản không muốn đi chơi đâu cả, dong ngựa về quê. Đi được khoảng một dặm, nhìn thấy xa xa có một nữ lang thơ thẩn giữa đám mồ mả, lấy làm lạ vì dáng vẻ phong thái rất giống Cửu Nương, liền ra roi thúc ngựa tới gần nhìn thì đúng là nàng. Sinh xuống ngựa định hỏi han, nhưng nàng bỏ chạy như không quen biết. Sinh lại lên ngựa đuổi tới gần, nàng tỏ vẻ giận dữ lấy tay áo che mặt, sinh vội gọi tên Cửu Nương thì nàng biến mất.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Khuất Nguyên gieo mình xuống sông, máu đầy gan ruột, Thân Sinh đeo quyết ra trận, lệ đẫm cỏ cây<strong>*</strong> các bậc tôi trung con hiếu ngàn xưa có kẻ đến lúc chết vẫn không xét lại vua cha của mình. Có lẽ Công Tôn Cửu Nương tuy đem hài cốt chết theo cha mẹ nhưng vẫn không cởi bỏ được mối oán hờn trong lòng chăng? Ý niệm trong lòng không thể vốc ra cho người khác nhìn rõ, mới oan uổng làm sao!</em></p><p></p><p>*Khuất Nguyên... cỏ cây: Sử ký chép Khuất Nguyên là trung thần nước Sở thời Chiến quốc, bị các nịnh thần ghen ghét gièm pha khiến Sở Hoài vương không dùng, Nguyên xỏa tóc đi lang thang bên đầm, ngâm thơ để tỏ chí rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Tả truyện chép Thân Sinh là Thái tử của Tấn Hiến công thời Xuân thu, Hiến công yêu vợ lẽ là Ly Cơ, muốn lập con Ly Cơ là Hề Tề nối ngôi nên muốn giết Thân Sinh, sai Thân Sinh đi đánh Cao Lạc thị ở Đông Sơn, đeo cho Thân Sinh cái kim quyết. Đại phu nước Tấn là Hồ Đột than "Đeo cho cái kim quyết thì chúa công có ý muốn phế Thái tử rồi", vì Kim quyết (cái quyết bằng vàng) đồng âm với kim quyết (từ nay vĩnh biệt). Câu này ý nói những kẻ tôi trung con hiếu nhiều khi vẫn bị oan uổng, đây chỉ nhân vật Công Tôn Cửu Nương.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 114 -</strong></p><p>Câu Đối Của Hồ</p><p>(Hồ Liên)</p><p></p><p>Tiêu sinh là em con chú của Tiên sinh Thạch Hồng ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) đọc sách trong vườn, nửa đêm thấy có hai mỹ nhân tới, đều rất xinh đẹp, một nàng khoảng mười bảy mười tám, một nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, vỗ vào bàn nhoẻn miệng cười. Tiêu biết là hồ, nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Nàng lớn nói "Chàng râu cứng như sắt, sao không có khí sắc đàn ông thế?”. Tiêu đáp "Ta bình sinh không dám biết tới người đàn bà thứ hai”. Cô gái cười nói “Thật là cổ hủ quá, chàng còn câu nệ chuyện ấy sao! Quỷ thần thời hạ nguyên<strong>*</strong> cũng đều lấy đen làm trắng, huống chi chuyện nhỏ nhặt trên giường”.</p><p></p><p>*Hạ nguyên: đây chỉ thời loạn lạc, phong tục suy đồi.</p><p></p><p>Tiêu lại xì khinh bỉ. Cô gái biết là không lay chuyển được, bèn nói "Chàng là bậc danh sĩ, thiếp có một vế đối xin chàng đối giúp, nếu đối được thì bọn ta tự đi: Mậu tuất đồng thể, phúc trung chỉ khiếm nhất điểm (Mậu tuất cùng thể, trong bụng chỉ thiếu một điểm)". Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu không đối được, cô gái cười nói "Danh sĩ mà như thế à? Ta đối thay cho cũng được: Kỷ tỵ liên tung, túc hạ hà bất song khiêu (Kỷ tỵ liền vết, dưới chân sao chẳng hai khều?)”<strong>*</strong> kế cười rộ bỏ đi. Chuyện này là Tư khấu họ Lý<strong>** </strong>ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) kể lại.</p><p></p><p>*Mậu tuất... hai khều: đôi câu đối này có chỗ chơi chữ: trong Hán tự, chữ mậu và chữ tuất, chữ kỵ và chữ tỵ có tự hình gần như nhau, ngoài ra hai chữ "túc hạ" còn là một đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít với ý nghĩa trang trọng. Hai cô gái hồ có ý chế nhạo nhân vật Tiêu sinh không có "phong thái đàn ông” vì không chịu thân mật với họ.</p><p></p><p>**Tư khấu họ Lý: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Hoa Hy, tự Ngũ Huyền, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628 -1643), làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, theo đó thì hai chữ "Mậu tuất" và “Kỷ tỵ" của hai cô gái hồ trong truyện này có lẽ không chỉ đơn giản là chơi chữ mà có thể còn dính dáng hay ám chỉ hai sự kiện chính trị nào đó khoảng cuối Minh đầu Thanh.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển VII - 115 -</strong></p><p>Phiên Phiên</p><p>(Phiên Phiên)</p><p></p><p>La Tử Phù người huyện Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), cha mẹ đều mất sớm lúc tám chín tuổi, được chú là Đại Nghiệp nuôi. Nghiệp làm Tả sương Quốc tử giám, giàu mà không có con nên yêu thương La như con ruột. Năm La mười bốn tuổi bị kẻ xấu dụ dỗ đi uống rượu chơi gái, gặp lúc có một kỹ nữ ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới ngụ ở quận, sinh gặp gỡ rất thích, đâm ra say mê. Khi nàng ta trở về Kim Lăng, sinh bỏ nhà trốn theo, ở kỹ viện nửa năm thì tiền bạc hết sạch, đám chị em đều rẻ rúng lạnh nhạt nhưng chưa thẳng thừng dứt tình. Không bao lâu mắc bệnh lở loét, máu mủ thối tha ướt cả giường chiếu, bị đuổi đi, ra chợ xin ăn, người ở chợ cứ nhìn thấy là tránh xa.</p><p></p><p>Sinh sợ chết ở quê người bèn lên đường xin ăn trở về Sơn Tây, mỗi ngày đi được ba bốn mươi dặm, dần dần tới địa giới Phần Châu, nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối không mặt mũi nào về làng nên cứ quanh quẩn ở huyện bên cạnh. Trời tối, sinh tới chùa trên núi định ngủ nhờ, dọc đường gặp một cô gái dung mạo như tiên, tới gần hỏi đi đâu. Sinh kể thật chuyện mình, nàng nói "Ta là kẻ xuất gia, nơi ở có cái hang núi, có thể cho khách nghỉ lại, không sợ gì cọp sói". Sinh mừng đi theo nàng vào tới giữa núi sâu, thấy một tòa động phủ, vào trong thì thấy trước cửa có khe nước chảy, có chiếc cầu đá bắc qua. Đi thêm vài bước tới hai gian thạch thất, ánh sáng chói lọi không cần đèn đuốc. Cô gái bảo sinh cởi bỏ quần áo ăn mày xuống khe mà tắm, nói "Tắm ở đó sẽ khỏi bệnh". Lại kéo màn quét giường chiếu giục sinh đi ngủ, nói “Xin cứ đi nghỉ, ta sẽ may áo quần cho”. Kế lấy lá to như tàu lá chuối cắt may thành áo, sinh nằm nhìn thấy nàng may không bao lâu đã xong, xếp lại đem đặt ở đầu giường mình, nói "Sáng ra lấy mà mặc", rồi lên chiếc giường đối diện nằm ngủ.</p><p></p><p>Sinh sau khi tắm rửa sạch sẽ thấy những chỗ lở loét không đau đớn nữa, lúc tỉnh dậy sờ tới thì đều đã lên da non. Trời sáng sắp dậy còn ngờ lá chuối không mặc được, cầm lên nhìn kỹ thì là gấm xanh bóng loáng. Lát sau dọn cơm, cô gái lấy lá trên nói là bánh, sinh ăn thấy quả là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà và cá đem nấu nướng, ăn vào thấy đều như gà và cá thật. Trong góc nhà có một cái vò đựng rượu ngon, cứ đem ra uống, khi nào đã vơi thì múc nước suối đổ thêm vào. Mấy hôm sau sinh lành hẳn, qua giường cô gái xin ngủ chung, nàng nói "Gã khinh bạc vừa được yên thân đã sinh tà niệm”. Sinh đáp "Ta muốn đền ơn thôi", bèn cùng ngủ chung, vô cùng đằm thắm.</p><p>Một hôm có thiếu phụ bước vào cười nói "Con ranh Phiên Phiên vui sướng quá, chừng nào có bầu đấy?". Cô gái bước ra đón, cười nói “Nương tử Hoa Thành lâu quá không hạ cố tới chơi, hôm nay gió tây nam nổi mạnh mới bị thổi tới, đã được bế cậu bé chưa?” Hoa Thành đáp "Lại là một con nhãi". Cô gái cười hỏi “Hoa cô mắn con gái thật, thế sao không đưa cháu tới chơi?", Hoa Thành đáp “Vừa khóc rồi ngủ yên đấy". Rồi đó cùng ngồi uống rượu” lại nhìn qua sinh nói "Chàng trẻ này đốt hương thơm đấy”, sinh nhìn thấy nàng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, vẫn còn khá đẹp, trong lòng thích lắm. Lúc gọt trái cây lỡ làm rơi xuống dưới bàn bèn cúi xuống nhặt, lén sờ lên hài nàng, Hoa Thành nhìn qua chỗ khác cười như không hay biết. Sinh đang vui mừng ngây ngất chợt thấy người lạnh ngắt, tự nhìn lại thì quần áo đã biến thành lá cây, vô cùng hoảng sợ, ngồi yên một lúc mới biến thành vải vóc như cũ, mừng thầm là hai nàng không thấy.</p><p>Lát sau trong lúc thù tạc lại gãi vào bàn tay Hoa Thành, Hoa Thành thản nhiên cười đùa như không biết gì sinh đang hồi hộp lo sợ thì quần áo đã biến thành lá cây, lát sau mới trở lại như cũ, vì thế hổ thẹn ngồi im không dám nghĩ bậy nữa. Hoa Thành cười nói "Lang quân nhỏ nhà cô thật không đứng đắn, nếu cô không phải là nương tử mang hũ giấm thì e là y đã nhảy lên tới mây xanh rồi". Phiên Phiên cũng mỉm cười đáp "Cứ mặc cho quân bạc bẽo chết rét", hai người cùng vỗ tay cười lớn. Hoa Thành đứng lên nói "Con nhãi thức dậy khát sữa e khóc tới đứt ruột mất". Phiên Phiên cũng đứng lên nói "Ham dụ dỗ chồng người ta, không nhớ gì tới cô Thành con cả". Hoa Thành về rồi, sinh sợ Phiên Phiên trách mắng nhưng nàng vẫn đối xử như trước. Không bao lâu hết thu qua đông, sương sa lá rụng, cô gái bèn nhặt lá rơi để làm lương ăn mùa đông, thấy sinh co ro bèn đem túi ra ngoài cửa động vốc mây trắng làm bông may áo rét cho sinh mặc, thấy ấm áp mềm mại mà nhẹ nhàng như bông mới vậy.</p><p>Qua năm sau nàng sinh một con trai rất xinh xắn thông minh, sinh hàng ngày trong động đùa chơi với con làm vui nhưng vẫn nhớ quê, muốn cô gái cùng về. Nàng nói "Thiếp không theo được, thôi chàng cứ đi một mình”. Nấn ná hai ba năm, đứa con lớn dần, bèn đính ước thông gia với Hoa Thành. Sinh thường lo nghĩ tới chú đã già, cô gái nói “Chú tuy đã già nhưng may là còn mạnh khỏe, không cần lo lắng, cứ chờ con cưới vợ xong thì đi hay ở tùy chàng". Cô gái ở trong động cứ lấy lá làm giấy viết chữ dạy con học, đứa nhỏ học qua là thuộc lòng, nàng nói "Thằng nhỏ này có phúc tướng, thả vào cỏi trần thì chẳng lo gì không làm nên quan lớn” Không bao lâu con sinh được mười bốn tuối, Hoa Thành tự đưa con gái tới gả. Cô gái ăn mặc đẹp đẽ, dung nhan lộng lẫy, vợ chồng sinh cả mừng, cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ trâm hát rằng:</p><p></p><p><em>Ta có con hiền</em></p><p><em>Không cần quan sang</em></p><p><em>Ta có dâu thảo</em></p><p><em>Không cần bạc vàng</em></p><p><em>Đêm nay tụ họp</em></p><p><em>Cả nhà hân hoan</em></p><p><em>Mời chàng một chén</em></p><p><em>Chúc chàng an khang</em></p><p></p><p>Kế Hoa Thành ra về, hai người cùng vợ chồng con trai ở đối diện nhau trong động phủ. Con dâu hiếu thảo, quấn quýt cạnh mẹ chồng, nàng thương yêu như con ruột. Sinh lại bàn chuyện về quê, nàng nói "Chàng có cốt tục, rốt lại không thành tiên được, con ta cũng là người trong mạch phú quý, chàng nên đưa về để khỏi làm lỡ cuộc đời của nó". Con dâu đang nghĩ việc từ giã mẹ thì Hoa Thành đã tới, hai con lưu luyến, nước mắt lưng tròng, hai bà mẹ an ủi, nói "Các con hãy tạm ra đi, sẽ có dịp trở lại mà". Phiên Phiên cắt lá thành hình lừa, bảo ba người cưỡi về. Đại Nghiệp lúc ấy đã già yếu về hưu, cho rằng cháu đã chết, chợt thấy sinh dắt con trai con dâu về, mừng rỡ như bắt được của báu. Vào tới trong nhà, ba cha con nhìn lại áo quần của mình thấy đều biến thành lá chuối, xé ra thì bông lót bên trong nghi ngút bay lên không, bèn thay quần áo khác. Sau sinh nhớ Phiên Phiên, dắt con vào núi thăm thì lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, đành sa lệ quay về.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Phiên Phiên và Hoa Thành là bậc tiên chết chăng? Ăn lá mặc mây, sao mà kỳ quái như vậy? Nhưng đùa cợt trong phòng, lấy chồng sinh con, cũng có gì khác người trần đâu! Ở trong núi mười lăm năm, tuy lạ lùng ở chỗ không có nhân dân thành quách, nhưng trở lại thì mây mờ cửa động không biết tìm đâu, xem cảnh huống ấy thì thật đúng như lúc Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai<strong>*</strong> vậy.</em></p><p></p><p>* Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai: Thần tiên truyện chép Lưu Thần và Nguyễn Triệu thời Hán vào núi hái thuốc bị lạc đường, gặp hai tiên nữ bèn ở lại đó kết làm vợ chồng với họ nửa năm. Sau hai người nhớ nhà đòi về, tới quê nhà thì đã trải qua mười năm, khi quay lại Thiên Thai tìm hai tiên nữ thì không còn nhận ra lối cũ nữa, đành ngậm ngùi trở về. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 116 -</strong></p><p>Dế Chọi</p><p>(Xúc Chức)</p><p></p><p>Niên hiệu Tuyên Đức thời Minh (1426-1435) trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi đâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lý trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản. Trong huyện có Thành Danh đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lý dịch gian giảo ép làm chức Lý chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kỳ nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết.</p><p></p><p>Vợ nói "Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con", Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử. Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bói toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phòng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bói thắp hương trong đỉnh rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khấn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con dế nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khẩn nên cất vào người đem về đưa Thành xem.</p><p></p><p>Thành giở đi giở lại, nghĩ “Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt dế chăng?”. Nhìn kỹ quang cảnh trong đó thấy rất giống Đại Phật Các ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tai đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm lỳ, đem ống đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khỏe mạnh, Thành đuổi theo vồ được. Nhìn kỹ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang về. Cả nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỳ hạn nộp quan.</p><p> </p><p>Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con dế thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì dế đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói “Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi", đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt.</p><p></p><p>Thành nhìn tới lồng dế rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã. Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con dế kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giở tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dế từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kỹ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như dế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo quan không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao. Trong thôn có gã thiếu niên hiếu sự nuôi một con dế, nói là loại "Giải xác thanh" (Xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi ai trả giá cao cũng không chịu bán.</p><p></p><p>Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dở rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cứ cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông lọn chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vềnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con dế ra không cho chọi nữa, con dế hiên ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con dế nhảy ra hơn một thước. Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới móng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, giẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy dế đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt dế bỏ vào lồng.</p><p>Hôm sau đem dâng Tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho Tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ dế kỳ lạ của các nơi dâng lên như dế bướm, dế bọ ngựa, dế đánh dầu, dế trán tơ xanh thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho Tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến dế, không bao lâu tâu xin thưởng cho Tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan lấy Thành đỗ Tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, nhờ dế chọi mà giàu, áo cừu ngựa tốt vênh vang, lúc làm Lý chính bị trách phạt chắc không nghĩ rằng mình được thế đâu. Trời đền đáp cho kẻ trưởng giả trọng hậu, tới nỗi Tuần phủ Tri huyện cũng được hưởng phúc ấm nhờ con dế. Thường nghe Một người lên trời, gà chó cũng thành tiên, đúng lắm thay! </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 117 - 119 -</strong></p><p>Hướng Cảo</p><p>(Hướng Cảo)</p><p></p><p>Hướng Cảo tự Sơ Đán người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), cùng anh là Thạnh rất thương yêu nhau. Thạnh dan díu với một kỹ nữ tên Ba Tư, từng cắt máu ăn thề nhưng bà chủ đòi tiền chuộc quá nặng nên ước nguyện không thành. Gặp lúc bà ta định hoàn lương, muốn bán Ba Tư trước. Có công tử họ Trang vốn thích Ba Tư, xin mua làm thiếp. Ba Tư nói với bà chủ "Đã mong cùng nhau rời nơi nước lửa là muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường, nếu lại làm tỳ thiếp thì có khác nhau bao nhiêu đâu. Nếu mẹ theo ý con thì Hướng lang cũng được mà". Bà ta bằng lòng, bắn tin cho Thạnh. Lúc ấy Thạnh góa vợ chưa tục huyền, được tin mừng lắm, dốc hết của cải cưới Ba Tư về.</p><p></p><p>Trang nghe tin, giận Thạnh cướp người mình yêu, ngẫu nhiên gặp Thạnh trên đường lớn tiếng chửi mắng. Thạnh cãi lại, Trang quát sai tùy tùng vác gậy đánh chết rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy tới xem thì anh đã chết, vô cùng đau xót căm phẫn liền kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, quan xử Trang chôn cất Thạnh rồi tha. Cảo ôm nỗi phẫn uất không sao phát tiết, nghĩ chỉ còn cách đón đường giết Trang, hàng ngày cứ mang đao sác rình ở bụi rậm trên đường núi. Lâu ngày việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy nên ra khỏi nhà là phòng bị nghiêm ngặt, nghe ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây) có Tiêu Đồng dũng mãnh thiện xạ liền đem nhiều vàng tới đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế nhưng hàng ngày vẫn đón rình.</p><p></p><p>Một hôm Cảo đang nằm rình bỗng mưa rào đổ xuống, cả người ướt đẫm lạnh run cầm cập, kế gió mạnh nổi khắp bốn phía, tiếp theo là mưa đá, toàn thân đau đớn tê dại. Trên núi vốn có miếu thờ Sơn thần, Cảo gượng lần lên, tới nơi thấy vị đạo sĩ quen đang ở đó. Trước đạo sĩ thường vào thôn khuyến hóa, Cảo thường cúng dường nên có biết Cảo. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, đạo sĩ đưa cho chiếc áo vải, nói "Cứ tạm thay đi". Cảo thay xong bỗng thấy người cứng đờ phải ngồi chồm hổm, nhìn lại mình thấy mọc đầy lông lá, đã hóa thành cọp mà đạo sĩ thì không còn ở đó nữa. Cảo vừa sợ vừa giận nhưng lại nghĩ nếu vồ được kẻ thù ăn thịt thì cũng hay. Xuống tới chỗ rình lúc nãy thì thấy xác mình nằm trong bụi rậm, mới sực hiểu ra rằng mình đã chết, nhưng vẫn sợ diều quạ rỉa xác nên cứ quanh quẩn cạnh đó canh giữ.</p><p></p><p>Hôm sau thì gặp Trang đi ngang, cọp vọt ra tát y ngã ngựa, ngoạm đầu nhai nát. Tiêu Đồng quay lại bắn trúng bụng cọp rồi khuỵu chân cũng bị vồ chết. Cảo trong bụi rậm tan hoang chợt như tỉnh mộng, qua một đêm mới đi đứng được, lê bước về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền không về đang ngờ sợ, thấy Cảo mừng rỡ xúm lại hỏi han, nhưng Cảo chỉ nằm rũ rượi không nói được. Giây lát có tin Trang bị cọp vồ, mọi người tranh nhau tới trước giường báo tin mừng. Cảo bèn nói "Con cọp ấy là ta đấy" rồi kể lại chuyện lạ lùng đã qua, từ đó tin đồn rộng ra. Con Trang đau xót về cái chết của cha, nghe chuyện căm tức đầu đơn kiện Cảo, quan thấy chuyện quái đản lại không có bằng cứ nên không xét tới.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Tráng sĩ thề báo ơn ắt không sống mà về, đó là nỗi thương hận của ngàn đời vậy. Giúp cho người ta giết người rồi sống lại, phép thuật nhà tiên sao mà thần diệu vậy. Nhưng trong thiên hạ những chuyện khiến người ta trợn mắt dựng tóc rất nhiều, khiến kẻ căm hận thường hờn không được hóa thành cọp trong chốc lát.</em></p><p></p><p></p><p><strong>118. Chuyện Lạ Chim Câu</strong></p><p><strong>(Cáp Dị)</strong></p><p></p><p>Chim bồ câu rất nhiều giống, đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) có Khôn tinh, đất Lỗ (tỉnh Sơn Đông) có Hạch tú, đất Kiềm (vùng Quý Châu) có Dịch diệp, đất Lương (tỉnh Hà Nam) có Phiên khiêu, đất Việt (tỉnh Chiết Giang) có Chư tiêm, đều là những giống lạ. Lại có các loại Hài đầu, Điểm tử, Đại bạch, Hắc thạch, Phu phụ tước, Hoa cẩu nhãn, bấm đốt ngón tay không thể kể hết, chỉ những kẻ ham thích mới biết rõ. Công tử Trương Công Lượng ở huyện Trâu Bình (tỉnh Sơn Đông) nghiện nuôi chim câu, cứ theo sách Cáp tử kinh mà tìm, muốn có đủ hết các giống. Nuôi nấng chim câu thì như chăm chút trẻ thơ, chim lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, chim nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ nhưng ngủ nhiều quá thì bị tê bại mà chết, Trương mua ở Quảng Lăng một con giá mười lượng vàng, thân rất nhỏ mà hay chạy, nếu thả xuống đất cứ chạy loanh quanh không ngừng, đến chết mới thôi nên phải có người bắt lại, ban đêm thả vào bầy cho các con khác kinh động để khỏi mắc bệnh tê bại, có tên là Dạ du.</p><p></p><p>Những nhà nuôi chim câu ở vùng Tề Lỗ đều không sành bằng, công tử cũng lấy việc nuôi chim để kiêu hãnh. Một đêm công tử đang ngồi trong thư phòng, bỗng một thiếu niên áo trắng gõ cửa bước vào, nhìn ra thì chưa từng quen biết. Công tử hỏi, khách đáp "Kẻ phiêu bạt tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe đồn công tư nuôi rất nhiều chim câu, bình sinh ta cũng ưa thích, xin được cho xem". Trương đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như mây như gấm. Thiếu niên cười nói "Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Ta cũng có đem theo một hai con, công tử có muốn xem không?", Trương mừng bèn đi theo thiếu niên.</p><p></p><p>Đêm trăng mờ mờ, đồng không mông quạnh, Trương đang thầm ngờ sợ thì thiếu niên chỉ ra phía trước nói "Xin cố đi thêm một đoạn, nơi ta ngụ không còn xa đâu”. Đi thêm mấy chặng thì thấy một khu nhà chỉ có hai gian. Thiếu niên dắt tay Trương vào, thấy trong nhà không có chút đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù, chợt có một đôi chim bay ra, vóc dáng như chim thường nhưng lông tuyền màu trắng, bay cao ngang mái hiên, vừa gù vừa chọi, đánh nhau rất hăng. Thiếu niên lấy tay xua, hai con nối cánh bay đi. Thiếu niên lại chúm miệng kêu thành tiếng rất lạ, lại có hai con chim câu ra, con lớn to bằng con le, con nhỏ to bằng nắm tay đỗ xuống thềm múa như chim hạc múa. Con lớn vươn cổ đứng thẳng, xòe cánh làm bình phong, nhún nhảy vừa gù vừa bước như dẫn dắt, con nhỏ vừa kêu vừa bay liệng lên xuống, có lúc đậu lên đầu con lớn, cánh chấp chới như chim én đáp xuống bãi lau, tiếng kêu lắc cắc như tiếng trống bỏi. Con lớn thì vươn cổ đứng yên không động đậy, tiếng kêu càng gấp rút, nghe như tiếng khánh đá, hai giọng hòa vào nhau cũng có tiết tấu. Kế con nhỏ bay vọt lên, con lớn lại lắc lư như chào gọi.</p><p></p><p>Trương tấm tắc khen ngợi không ngớt lời, tự biết mình kiến thức còn hẹp hòi bèn vái lạy thiếu niên xin được chia sẻ điều ưa thích. Thiếu niên không chìu, Trương nài nỉ mãi, thiếu niên bèn quát đuổi hai con chim câu đang múa đi gọi hai con chim câu trắng ra, bắt lấy đưa Trương, nói "Nếu không ghét bỏ, xin biếu đôi này". Trương nhận lấy ngắm nhìn, thấy mắt chim phản chiếu ánh trăng lấp lánh như hổ phách như không có tròng mắt mà con ngươi tròn đen láy như hạt tiêu kéo cánh lên thấy da thịt trong suốt có thể nhìn rõ tạng phủ. Trương càng lấy làm lạ song vẫn chưa thỏa ý, lại nài xin nữa. Thiếu niên nói "Còn có hai giống nữa chưa đưa ra trình, nhưng giờ không dám mời ông xem nữa". Đang phân bua thì người nhà soi đuốc vào tìm chủ, Trương nhìn lại thì thiếu niên biến thành con chim câu trắng to như con gà bay vút lên trời, còn nhà cửa trước mắt cũng biến mất chỉ còn một ngôi mộ nhỏ trên trồng hai cây bách, bèn cùng gia nhân ôm đôi chim than thở kinh sợ ra về.</p><p></p><p>Thử bảo bay, chim vẫn thuần lạ như trước, tuy không phải là loại quý nhất nhưng cũng là giống hiếm có trên đời, vì vậy Trương càng yêu quý. Qua hai năm, chim đẻ thêm được ba trống ba mái, dù là thân thích cầu xin Trương cũng không cho. Có ông Mỗ bạn cha là bậc quý quan, một hôm gặp công tử hỏi nuôi chim câu được nhiều không. Công tử dạ dạ cáo lui, nghĩ rằng ông cũng thích, muốn làm vừa lòng nhưng khó nỗi dứt ruột chia sẻ vật mình yêu thích. Nhưng lại nghĩ bậc trưởng thượng đã hỏi tới thì không thể làm ngơ, không dám đưa chim thường bèn chọn hai con chim câu trắng bỏ vào lồng gởi biếu, tự cho rằng ngàn vàng cũng không sánh được.</p><p></p><p>Ngày khác gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý nhưng không thấy ông nói một câu cảm ơn, không nhịn được bèn hỏi đôi chim hôm trước tốt không, Mỗ đáp cũng béo ngon. Trương phát hoảng hỏi "Đã mổ thịt rồi ạ?", ông đáp "Phải". Trương cả kinh nói "Đó không phải loại chim câu thường, người ta vẫn gọi là giống Thát đát đấy ạ", ông Mỗ nhớ lại rồi nói "Mùi vị cũng không khác chim thường mấy", Trương thương tiếc ôm hận trở về. Đến tối Trương mơ thấy thiếu niên áo trắng đến trách "Ta thấy ông có lòng yêu thương nên mới đem con cháu gởi gắm, sao lại đem ngọc sáng ném cho thằng mù để tới nỗi chúng bị nấu nướng. Nay ta dắt hết lũ con đi đây". Nói xong hóa thành chim câu, các con chim câu trắng Trương nuôi đều bay theo. Sáng ra Trương tới chuồng xem thì quả không còn con nào nữa, vô cùng ân hận bèn đem tất cả chim câu mình nuôi chia tặng bạn bè, vài hôm thì hết sạch.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Vật nào cũng quy tụ về chỗ kẻ ưa thích nó, lời ấy đúng lắm. Như Diệp công tử thích rồng thì có rồng thật vào nhà<strong>*</strong>, huống hồ kẻ học thích bạn tốt, vua sáng thích tôi hiền ư? Nhưng chỉ có tiền bạc là ưa thích càng nhiều thì quy tụ càng ít, cũng cho thấy quỷ thần giận sự tham lam chứ không giận sự si mê vậy.</em></p><p></p><p>*Diệp công tử... vào nhà: Thân tử chép công tử Diệp Cao Chi thích rồng, chạm vẽ hình rồng khắp nhà, rồng trên trời nghe biết bèn tới nhà thò đầu vào xem.</p><p> </p><p><strong>119.Giang Thành</strong></p><p><strong> (Giang Thành)</strong></p><p></p><p>Cao sinh ở huyện Lâm Giang (tỉnh Cát Lâm) tên Phồn, lúc trẻ thông minh tuấn tú, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện, các nhà giàu tranh nhau hứa gả con gái cho. Nhưng sinh kén chọn quá quắt, mấy lần cãi lời cha. Cha là Trọng Hồng sáu mươi tuổi chỉ có sinh là con trai nên rất chiều chuộng, không nỡ làm trái ý con. Trước ở thôn Đông có ông Phàn dạy trẻ ở phố, đưa gia đình tới thuê nhà sinh ở. Phàn có con gái tiểu tự là Giang Thành cùng tuổi với sinh, lúc ấy đều khoảng tám chín tuổi, hai đứa nhỏ hàng ngày vẫn chơi đùa với nhau. Sau Phàn dời đi, bốn năm năm không nghe tin tức. Một hôm sinh đi trong hẻm, thấy một nữ lang vô cùng xinh đẹp, có một a hoàn nhỏ sáu bảy tuổi đi theo, không dám nhìn thẳng chỉ đưa mắt liếc. Cô gái nhìn sững như muốn nói gì đó, nhìn kỹ thì té ra là Giang Thành. Hai bên đều bất ngờ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không ai nói gì chỉ ngẩn ra hồi lâu rồi rời đi, đôi lòng bịn rịn. Sinh cố ý thả chiếc khăn đỏ xuống đất rồi đi, a hoàn nhỏ nhặt lên mừng rỡ đưa cô gái, nàng cũng lấy khăn của mình giả nói với nó rằng “Cao Tú tài không phải ai lạ, đừng lấy vật của chàng làm rơi, đuổi theo mà trả lại đi", đứa a hoàn nhỏ quả nhiên đuổi theo đưa cho sinh.</p><p></p><p>Sinh được chiếc khăn cả mừng, về thưa với mẹ xin hỏi cưới Giang Thành. Mẹ nói "Nhà ấy không có được nửa gian phòng, trôi nổi lưu lạc, đâu đáng cưới làm vợ”. Sinh nói "Tự con muốn thế, quyết không hối hận". Mẹ do dự không dám quyết, bàn tính với Trọng Hồng, Hồng nhất quyết nói là không nên, sinh nghe thế buồn rầu bỏ cả cơm cháo. Mẹ lo quá bèn nói với Cao “Họ Phàn tuy nghèo nhưng cũng không phải là hạng vô lại gian trá, để ta qua chơi nhà xem, nếu đứa con gái ấy có thể hỏi cưới được thì có hại gì", Cao bằng lòng. Mẹ sinh bèn mượn cớ đi lễ đền Hắc Đế ghé qua, thấy cô gái mắt sáng răng ngà, xinh đẹp tự nhiên thì ưa thích lắm, tặng cho tiền lụa rồi tỏ thật ý mình, bà Phàn khiêm nhượng từ chối nhưng sau cùng cũng nhận lời. Bà về kể lại mọi chuyện, sinh mới tươi cười.</p><p></p><p>Năm sau chọn ngày tốt cưới Giang Thành về, vợ chồng rất thương yêu nhau. Nhưng nàng hay giận hờn, trở mặt nhìn chồng như người lạ, miệng lưỡi đanh đá thường chao chát bên tai, sinh vì thương yêu nên cũng cố nhịn. Cha mẹ sinh hơi biết chuyện trong lòng bực bội, lén trách mắng con trai, cô gái nghe được ghét lắm, càng chửi mắng chồng nhiều hơn. Sinh dần dần cũng dằn giọng cãi lại, nàng càng giận dữ, vác gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại. Sinh co ro bên ngoài không dám gõ cửa, đành ngồi bó gối ngủ dưới mái hiên. Từ đó cô gái coi chồng như kẻ thù, ban đầu quỳ gối còn có thể phân trần, dần dần quỳ gối hết thiêng, chồng lại càng khổ. Cha mẹ chồng trách mắng vài câu thì nàng cãi lại vô cùng hỗn láo, hai ông bà tức giận bắt sinh bỏ vợ, đuổi nàng về nhà cha mẹ ruột. Phàn vừa thẹn vừa sợ, nhờ người bạn thân của Trọng Hồng tới năn nỉ xin cho Giang Thành trở lại nhưng Trọng Hồng không chịu. Hơn năm sau sinh đi đường gặp cha vợ, ông níu áo kéo mời về nhà, hết lời xin lỗi, bảo con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp. Vợ chồng gặp nhau bất giác mủi lòng, Phàn bèn mua rượu về đãi con rể, mời mọc rất niềm nở. Không bao lâu trời tối, ông cố giữ sinh ngủ lại, quét dọn phòng riêng bảo hai vợ chồng ngủ chung. Sáng ra sinh về nhà, không dám nói thật với cha mẹ, chỉ tìm lời che đậy thêu dệt cho qua chuyện. Từ đó cứ năm ba ngày sinh lại tới ngủ ở nhà cha vợ một đêm mà cha mẹ không biết.</p><p></p><p>Một hôm Phàn tự tới nhà Trọng Hồng, lúc đầu Trọng Hồng không tiếp, Phàn năn nĩ mãi mới ra mặt. Phàn quỳ gối cầu xin, Cao không nhận, nói là để con trai mình quyết định. Phàn nói "Đêm qua con rể ngủ lại nhà ta, không nghe nói gì khác cả". Cao giật mình hỏi ngủ lại từ lúc nào, Phàn bèn kể lại, Cao thẹn thùng tạ lỗi, nói “Quả là ta không biết, chứ nếu nó thương yêu thì lẽ nào ta lại một mình căm ghét". Phàn về rồi, Cao gọi con ra chửi mắng, sinh chỉ cúi đầu không nói gì. Đang lúc ấy thì Phàn đưa con gái tới, Cao nói "Ta không thể chịu lỗi thay con, phiền ông làm chứng cho ta chia nhà ra ở riêng”. Phàn khuyên lơn nhưng Cao không nghe, dọn nhà riêng cho vợ chồng con, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Hơn một tháng thấy rất yên ổn, cha mẹ sinh cũng mừng thầm. Nhưng không bao lâu cô gái lại dần dần rông càn, mặt sinh thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ nhưng còn nhịn để đó không hỏi tới. Một hôm sinh không chịu nổi roi gậy, chạy qua nhà cha mẹ trốn, run rẩy như chim sẻ bị diều ó đuổi. Hai ông bà còn ngạc nhiên hỏi han thì cô gái đã cầm gậy đuổi theo vào, tới ngay cạnh ông túm lấy sinh đánh túi bụi. Ông bà quát tháo ầm ĩ nàng cũng không đếm xỉa gì tới, đánh chồng tới mấy mươi gậy mới hằm hằm bỏ đi. Cao đuổi con ra, nói “Ta muốn tránh ồn ào nên mới ở riêng, còn ngươi thích nó thì trốn đi làm gì?".</p><p></p><p>Sinh bơ vơ chẳng biết đi đâu, Cao sợ hành hạ quá thì con trai tự tử bèn cho ở riêng một chỗ, nấu cơm cho ăn. Lại gọi Phàn tới, bảo qua mà dạy con gái. Phàn vào nhà nói đủ lời để răn dạy, cô gái đã không nghe lại còn trả treo xách mé. Phàn phủi áo bỏ đi, thề dứt tình cha con. Không bao lâu, Phàn phẫn uất sinh bệnh, cùng vợ nối nhau chết. Cô gái căm hận, cũng không về đưa đám, chỉ hàng ngày cách tường chửi mắng, cố ý cho cha mẹ chồng nghe, Cao để ngoài tai không đếm xỉa gì tới. Sinh từ khi ở một mình thấy như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng thấy hiu quạnh, lén cho tiền bà mối họ Lý dẫn gái vào phòng sách, toàn chờ lúc đêm tối ra vào. Lâu ngày cô gái nghe phong thanh bèn tới phòng sách mắng chửi, sinh hết sức phân trần là oan, chỉ trời vạch đất mà thề nàng mới về, từ đó hàng ngày rình rập chờ sinh sơ hở.</p><p>Một hôm bà Lý từ phòng sách ra thì nàng bắt gặp, gọi ầm lên. Bà ta biến sắc, cô gái càng nghi ngờ nói với bà ta "Nói thật cho ta biết bà làm những gì thì may ra ta còn tha cho, nếu giấu diếm thì ta nhổ không còn một sợi tóc đấy”. Bà Lý run rẫy nói "Nửa tháng nay chỉ có kỹ nữ Vân Nương tới đây hai lần thôi. Mới rồi công tử nói đi chơi núi Ngọc Ty gặp vợ họ Đào, thích đôi bàn chân nàng nhỏ nhắn nên dặn ta gọi tới. Nàng ta tuy lẳng lơ nhưng cũng chưa chắc chịu làm như kỹ nữ, thật không rõ có được không". Cô gái thấy bà ta thành thật nên tha cho, bà ta định đi thì nàng giữ lại. Trời sập tối nàng quát bà ta rằng "Tới phòng sách trước, tắt hết đèn đi, nói họ Đào tới rồi". Bà Lý theo lời, cô gái vào theo ngay, sinh mừng quá, kéo tay giục ngồi, tỏ lòng khát khao gặp gỡ, nàng im lặng không nói gì. Sinh mò trong bóng tối cầm bàn chân nàng nói "Từ khi lên núi được thấy dung mạo người tiên một lần, lòng cứ nhớ nhưng cái này thôi", nàng vẫn im lặng. Sinh nói "Mong ước bấy lâu nay mới toại nguyện, sao lại kề mặt mà không nhìn thấy nhau?", rồi đích thân thắp đèn lên, soi tới thì té ra là Giang Thành! Sinh sợ hãi thất sắc, đánh rơi chiếc đèn xuống đất, quỳ xuống run cầm cập như bị gươm kề cổ vậy. Cô gái nắm tai kéo về, lấy kim đâm nát hai đùi rồi bắt nằm dưới giường, lúc nào tỉnh giấc lại chửi rủa kể tội.</p><p></p><p>Sinh đã sợ nàng như cọp nên cho dù lúc nàng nguôi giận thì lúc chăn gối cũng run rẫy không ra đàn ông, nàng tát vào mặt thét đuổi xuống, càng thêm chán ghét khinh bỉ không coi là con người nữa. Sinh hàng ngày trong chốn hương xông xạ ủ mà như kẻ gian ở tù tôn kính người canh ngục vậy. Cô gái có hai chị đều lấy chồng là Chư sinh. Người chị lớn hiền lành ít nói, vẫn không hòa thuận với nàng. Chị thứ hai lấy họ Cát, là người giảo quyệt khéo nói, ưa trang điểm chải chuốt, dung mạo không bằng Giang Thành nhưng về khoản ghen tuông hung dữ thì cũng xấp xỉ. Hai chị em mà gặp nhau thì không nói sự gì khác, chỉ khoe những việc bắt nạt chồng, lấy làm đắc ý với nhau, vì thế đi lại rất thân thiết. Sinh tới nhà họ hàng nào cô gái cũng giận dữ trách mắng, duy tới nhà Cát thì nàng có biết cũng không ngăn cấm.</p><p></p><p>Một hôm sinh uống rượu ở nhà Cát, lúc đã say Cát nhạo “Sao chú sợ vợ quá thế?”, sinh cười đáp “Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi. Ta sợ vợ ta là sợ sắc đẹp, nhưng có kẻ đẹp thua xa vợ ta mà người ta cũng sợ ngang ta, chẳng phải là quá đáng sao?". Cát thẹn quá không đáp được, đứa tỳ nữ nghe thế vào kể với vợ Cát, vợ Cát nổi giận cầm gậy sấn ra. Sinh thấy dáng vẻ hung dữ vội xỏ giày toan chạy thì gậy đã đập trúng lưng, sinh bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, dập cả trán, máu tuôn như xối. Vợ Cát bỏ vào, sinh mới khập khiễng lê chân về nhà. Vợ giật mình hỏi duyên cớ, lúc đầu sinh nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị đòn nên không dám nói, vợ gặng hỏi mấy lần mới kể rõ đầu đuôi. Cô gái lấy lụa băng trán sinh xong, nổi giận nói "Chồng người ta ai mượn nó đánh giùm kia chứ?”, liền mặc áo ngắn tay, lận chày gỗ, dắt tỳ nữ theo. Tới nhà Cát, chị hai tươi cười ra đón, cô gái chẳng nói chẳng rằng, rút chày đánh chị ngã gục, áo xống rách nát đau đớn, dập môi gãy răng vãi cả cứt đái. Nàng về rồi chị hai vừa thẹn vừa tức sai chồng tới mách với Cao, sinh ra đón, hết lời an ủi. Cát nói riêng với sinh "Ta tới đây vì bất đắc dĩ thôi, con mụ ấy hung dữ bất nhân, may nhờ có tay dì nó trừng phạt cho, chứ hai chúng ta có thù hiềm gì với nhau đâu”. Cô gái nghe thấy lập tức sấn ra chỉ mặt Cát mắng "Quân hèn hạ kia, vợ bị đòn mà lại đi lấy lòng người ngoài à, hạng đàn ông này không đánh cho chết còn để làm gì?", rồi thét đem gậy ra, Cát hoảng sợ tông cửa chạy mất. Sinh từ đó không còn nơi nào lui tới cả.</p><p></p><p>Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã tới chơi, sinh giữ chuyện trong phòng ra đùa nhau, có hơi quá đáng. Gặp lúc cô gái ra nhìn lén khách, núp nghe rõ cả, bèn ngầm bỏ bã đậu vào canh bưng ra cho khách ăn. Giây lát Vương thượng thổ hạ tả dữ dội, thở khò khè như sắp chết. Nàng sai tỳ nữ ra hỏi "Còn dám vô lễ nữa không?", Vương mới hiểu ra là bệnh từ đâu tới bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa nước đậu xanh nấu sẵn ra, Vương uống xong thì hết, từ đó bạn bè răn nhau, không ai dám ăn uống gì ở nhà sinh nữa. Vương có quán rượu, trong quán có rất nhiều hồng mai nở, đặt tiệc mời bạn bè tới chơi, sinh lấy cớ họp văn xã trình với vợ xin cho đi dự. Đến tối lúc đã say, Vương nói "Vừa mới có một danh kỹ ở Nam Xương (tỉnh thành Giang Tây) tới lưu ngụ ở đây, có thể gọi tới cùng uống rượu”. Mọi người cả mừng, duy sinh rời tiệc lấy cớ đã say xin về. Mọi người kéo áo lại nói "Vợ ông tai mắt dẫu dài cũng không sao nghe thấy được chuyện ở đây”, rồi cùng thề giữ kín không nói lộ ra, sinh bèn ngồi xuống.</p><p></p><p>Giây lát nàng kỹ nữ tới, khoảng mười bảy mười tám tuổi, vòng ngọc leng keng, tóc mây búi cao. Hỏi tên họ, nàng xưng là họ Tạ, tiểu tự Phương Lan, nói năng trò chuyện vô cùng phong nhã, cả tiệc ai cũng say mê. Nhưng Phương Lan chỉ để ý tới sinh, mấy lần để lộ ý tứ, mọi người biết được liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Phương Lan lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay sinh chữ "ngủ”, lúc ấy sinh muốn về thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối như tơ vò không thể tả được. Nhưng cứ cúi đầu nghiêng tai thì thầm trò chuyện, càng say càng lả lơi phóng túng quên cả con sư tử ở nhà. Một lát nghe trống canh một, khách trong quán rượu càng thưa, nhìn ra chỉ còn một thiếu niên đẹp trai ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu, mọi người đều thầm khen là cao nhã. Không bao lâu thiếu niên uống xong, đứng dậy đi ra, tiểu đồng ra theo rồi quay lại nói với sinh "Chủ ta chờ ông để xin thưa một câu”. Mọi người đều không biết là ai, duy sinh tái mặt không kịp cáo biệt bạn bè, vội vàng đi ra.</p><p></p><p>Thì ra thiếu niên là Giang Thành còn tiểu đồng là đứa tỳ nữ ở nhà. Sinh theo về nhà, nằm mà chịu đánh, từ đó càng bị cấm cố chặt chẽ, tuyệt hết việc đi lại với bạn bè thân thích. Quan học sứ xuống khảo thí, sinh thi rớt bị giáng xuống hạng thanh<strong>*</strong>. Một hôm sinh trò chuyện với đứa tỳ nữ, cô gái nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu chụp lên đầu tỳ nữ đánh đòn rồi trói hai người vào nhau, lấy dao cắt thịt bụng hai người, đắp thịt của người này vào bụng người kia rồi cởi trói bảo tự băng bó lấy, hơn tháng sau miếng thịt vá ấy dính luôn vào bụng. Cô gái thường lấy chân đạp lên bánh, kế ném vào chỗ đất cát bụi bặm rồi quát bảo sinh nhặt lên mà ăn, những việc như thế rất nhiều.</p><p></p><p>*Hạng thanh: thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lần sau lại thi rớt thì bị truất về làm dân.</p><p></p><p>Mẹ sinh vì việc của con ngẫu nhiên ghé qua, thấy con gầy như que củi, trở về khóc lóc muốn chết. Đêm mơ thấy có ông già nói “Không cần phải lo phiền, đó là nhân quả kiếp trước. Giang Thành vốn là con chuột trường sinh của Hòa thượng Tĩnh Nghiệp nuôi, công tử kiếp trước là học trò, một hôm tới chơi chùa vô tình đạp chết nó, nay là quả báo không thể sức người mà làm hồi tâm được đâu. Mỗi sáng cứ thành tâm tụng niệm bài chú của Quan âm một trăm lần, tự nhiên sẽ thấy hiệu nghiệm”. Bà tỉnh dậy kể lại cho Trọng Hồng, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng theo lời chỉ dạy, hơn hai tháng cô gái vẫn ngang ngược như cũ, lại thêm điên cuồng. Cứ nghe ngoài cửa có tiếng chiêng trống lại xõa tóc chạy ra nhìn dáo dác, hàng ngàn người chỉ trỏ bàn tán cũng mặc kệ. Ông bà thấy con dâu như thế rất hổ thẹn nhưng không sao ngăn cản, chỉ chê bai thầm mà thôi.</p><p></p><p>Chợt có nhà sư già tới trước cổng thuyết pháp, người ta đứng xem kín như bức tường. Sư thổi vào mặt trống thành tiếng kêu như trâu rống, cô gái chạy ra thấy người ta đứng dày đặc không có kẽ hở bèn gọi tỳ nữ đem ghế ra để đứng lên xem, thiên hạ đổ dồn mắt vào cũng thản nhiên như không hay biết gì. Lát sau sư giảng kinh xong, xin một bát nước trong cầm tới trước mặt cô gái đọc lớn "Chớ giận hờn, Chớ giận hờn? Kiếp trước chẳng phải giả, Kiếp này chẳng phải chân, ồ! Chuột nên co cổ chạy, Đừng để mèo bắt ăn", đọc xong ngậm nước phun vào mặt nàng, son phấn trôi nhễ nhại nhỏ xuống cả áo quần. Mọi người cả sợ, nghĩ rằng cô gái sẽ bừng bừng nổi giận, nhưng nàng im lặng lau mặt rồi vào, sư cũng bỏ đi.</p><p></p><p>Cô gái vào phòng ngồi ngẩn ra như mất hồn, cả ngày không ăn uống gì, kế dọn giường ngủ sớm. Nửa đêm chợt gọi sinh dậy, sinh ngỡ định sai phái liền bưng chậu tiểu đưa lên. Nàng đẩy chậu ra, ngầm nắm tay sinh kéo vào trong chăn, sinh vâng lệnh mà chân tay run lẩy bẩy như tiếp chiếu chỉ của vua. Cô gái cảm khái nói "Làm cho chàng đến thế này, sao đáng gọi là người?", rồi lấy tay xoa khắp người sinh, cứ tới vết dao gậy thì sụt sùi khóc lóc, lấy móng tay tự cào vào mình, hận không chết ngay tức khắc. Sinh thấy thế bất nhẫn, ra sức an ủi. Cô gái nói “Thiếp nghĩ vị hòa thượng lúc ban ngày ắt là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh mà như thay đổi cho cả gan ruột. Giờ nghĩ lại những việc mình đã làm đều như ở kiếp khác, thiếp lúc trước chắc không phải là người chăng? Có vợ chồng mà không biết âu yếm, có cha mẹ mà không biết phụng thờ, lòng dạ gì thế? Sáng mai phải dọn qua ở chung với cha mẹ để thăm nom hầu hạ”, vợ chồng nói chuyện suốt đêm như xa cách mười năm mới gặp lại.</p><p></p><p>Tảng sáng nàng lập tức trỗi dậy gói ghém quần áo vật dùng, sai tỳ nữ cầm giỏ còn mình mang gói, giục sinh đi trước gọi cửa. Mẹ ra hoảng sợ hỏi han, sinh nói ý vợ. Mẹ đang ngần ngại thì cô gái đã dắt tỳ nữ vào nhà. Mẹ vào theo, nàng quỳ mọp xuống đất khóc lóc thảm thiết, chỉ xin tha tội chết. Mẹ thấy là thật lòng cũng khóc nói "Con ta sao thay đổi mau thế?”. Sinh kể lại tỉ mỉ chuyện trước, mẹ mới hiểu ra rằng giấc mơ trước kia đã ứng nghiệm, mừng rỡ sai tôi tớ dọn dẹp gian nhà cũ cho hai vợ chồng ở. Cô gái từ đó thờ cha mẹ còn hơn cả con trai có hiếu, gặp ai cũng khép nép như cô dâu mới về nhà chồng, ai đùa nhắc lại chuyện cũ thì thẹn đỏ mặt.</p><p></p><p>Lại cần kiệm khéo buôn bán, qua ba năm cha mẹ không phải lo tới sinh kế mà nhà đã nổi tiếng giàu có cự vạn. Năm ấy sinh thi đỗ Cử nhân, cô gái thường nói “Ngày trước thiếp gặp Phương Lan một lần, nay vẫn còn nhớ nàng", sinh vì không bị hành hạ đã lấy làm mãn nguyện, không dám mơ tưởng tới chuyện cưới hầu thiếp nên chỉ dạ dạ mà thôi. Kế sinh vào kinh thi hội mấy tháng mới về, vào phòng thấy Phương Lan đang đánh cờ với Giang Thành, ngạc nhiên hỏi han, thì ra cô gái đem mấy trăm đồng vàng chuộc Phương Lan ra. Lúc ta ở vùng Thiệu Hưng Chiết Giang được quen ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe rất rõ ràng.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nghiệp căn của đời người, một hớp nước một miếng cơm cũng phải chịu báo ứng, nhưng chỉ những kẻ chịu báo ứng chỗ phòng khuê thì như bị ghẻ trong xương, sự thảm độc càng ghê gớm. Thường thấy trong thiên hạ những người vợ hiền chỉ có một phần còn vợ dữ tới chín phần, cũng đủ biết những người tu dưỡng nết tốt trên đời rất ít. Quan Thế âm pháp lực vô biên, sao không đem nước cam lồ trong bình ngọc rưới khắp thế gian? </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 120 -</strong></p><p>Bát Đại Vương</p><p>(Bát Đại Vương)</p><p></p><p>Phùng sinh ở huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), người thuật chuyện không nhớ tên, chỉ biết là dòng dõi thế gia đã sa sút. Có người chài lưới thiếu nợ sinh không trả nổi nên cứ bắt được ba ba là đem lại biếu. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, sinh thấy hình dạng lạ lùng liền thả ra sông. Sau sinh đi thăm con rể trở về, tới bờ sông Hằng Hà thì trời vừa tối thấy một người say có hai ba tiểu đồng theo sau ngất ngưởng đi tới, thấy sinh hỏi là ai? Sinh đáp bừa là kẻ đi đường, người say giận nói "Chẳng lẽ không có tên họ à, sao chỉ nói là kẻ đi đường?," Sinh sốt ruột lo về nên không buồn đáp, cứ đi thẳng qua mặt, người say càng giận, nắm lấy áo sinh không cho đi, mùi rượu nồng nặc. Sinh rất khó chịu mà cố sức gỡ ra không được bèn hỏi ngươi tên gì, người say lè nhè đáp “Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô, ngươi định làm gì?". Sinh nói "Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi cả thiên hạ. May là Lệnh doãn cũ đấy, chứ nếu là Lệnh doãn mới chắc giết ráo người đi đường rồi phải không?". Người say giận lắm toan giở võ, sinh lớn tiếng nói "Phùng mỗ ta không phải là kẻ để yên cho người đánh đâu!". Người say nghe thế đổi giận làm vui, lảo đảo lạy rạp xuống nói "Té ra là ân chủ, mới rồi đường đột xin đừng bắt tội", rồi đứng dậy bảo kẻ tùy tùng về trước dọn rượu.</p><p></p><p>Sinh từ chối không được, người ấy nắm tay dắt đi vài dặm thì tới một xóm nhỏ, vào trong thấy nhà của đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân. Người say hơi tỉnh rượu rồi, sinh mới hỏi thăm tên họ là gì, y đáp "Nói ra xin chớ kinh hãi, ta là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới rồi tiên Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu, không ngờ say quá nên xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn". Sinh biết là yêu quái, nhưng thấy tình ý niềm nở nên cũng không sợ sệt gì. Giây lát rượu thịt dọn lên ê hề, giục sinh ngồi vào tiệc. Bát vương uống rất hào, dốc cạn liên tiếp mấy chén, sinh sợ y say lại sinh sự bèn giả say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý cười nói "ông sợ ta bừa bãi sao? Xin chớ lo, phàm kẻ say vô hạnh rồi qua đêm nói rằng không nhớ đã làm những gì là nói dối thôi, bọn bợm rượu mất nết thì mười người có chín người như vậy đấy. Nhưng ta tuy không dám sánh với người tốt song nghĩ lại cũng chưa từng dám làm điều vô lại với bậc trưởng giả sao ông cự tuyệt thẳng thừng như thế?". Sinh bèn ngồi xuống nghiêm sắc mặt can rằng "Ông đã tự biết, sao không sửa đổi?", Bát vương đáp “Lão phu lúc làm Lệnh doãn thì say sưa còn quá ngày nay, từ khi làm Thượng đế tức giận bị đày ra cù lao, cố bỏ thói cũ đã hơn mười năm. Nay sắp chết mà còn lận đận không được vẫy vùng nên thói cũ lại nảy sinh mà không tự biết. Nay xin kính cẩn vâng lời ông".</p><p></p><p>Đang chuyện trò thì nghe tiếng chuông chùa xa xa, Bát vương đứng lên cầm tay sinh nói "Gặp gỡ không được lâu, nay có một vật xin tặng để đền ơn lớn. Vật này không nên mang lâu, khi nào được như nguyện rồi xin trả lại cho ta”. Rồi khạc ra một hình người bé tí dài hơn một tấc, lấy móng tay rạch vào cánh tay sinh, đau như xé ruột, đặt mau hình người lên rồi đè xuống, buông tay ra thì đã chìm hẳn vào trong thịt, vết móng tay vẫn còn mà chỗ đó gồ lên như mụn nhọt. Sinh sợ hãi hỏi, Bát vương cười không đáp, chỉ nói “ông nên đi thôi” rồi tiễn sinh ra. Bát vương trở vào, sinh ngoảnh nhìn thì xóm làng nhà cửa đều biến mất, chỉ có một con ba ba lớn đang ì ạch bò xuống nước rồi mất tăm. Sinh kinh ngạc sửng ra hồi lâu rồi tự nghĩ vật mình vừa được cho ắt là ngọc ba ba.</p><p></p><p>Từ đó mắt rất sáng, phàm nhưng nơi có châu báu, dù ở tận suối vàng cũng nhìn thấy được, ngay cả những món chưa từng biết cũng ứng khẩu gọi được đích danh, đào được mấy trăm lượng vàng chôn ngay dưói phòng ngủ, việc chi tiêu cũng đầy đủ. Sau có người bán ngôi nhà cũ, sinh nhìn thấy tiền bạc chôn giấu vô số bèn bỏ nhiểu tiền ra mua, từ đó giàu có ngang bậc vương hầu, các loại ngọc quý hiếm trên đời trong nhà đều có đủ. Lại được một tấm gương, phía sau chạm hình chim phượng đeo vòng, mây nước và Tương Phi, chiếu sáng cả dặm, có thể thấy rõ từng sợi tóc. Người đẹp mà soi vào thì hình bóng sẽ in lại, lau chùi cũng không mất được, nếu thay quần áo khác soi lại hoặc người đẹp khác soi lên thì ảnh trước mới mất đi.</p><p></p><p>Lúc bấy giờ công chúa thứ ba trong Túc vương phủ<strong>*</strong> nhan sắc tuyệt đẹp, sinh rất hâm mộ. Gặp lúc công chúa đi chơi núi Không Động, sinh tới rình trong núi chờ khi công chúa trên kiệu bước xuống lấy gương ra soi rồi mang về đặt lên bàn, nhìn kỹ thấy mỹ nhân ở trong cầm khăn mỉm cười, miệng như muốn nói, mắt như muốn liếc, mừng rỡ cất kỹ. Hơn một năm, vì vợ nói lộ ra, Túc vương nghe được cả giận, bắt giam sinh, đòi lấy tấm gương, định xử án chém. Sinh hối lộ rất nhiều cho một quý nhân trong vương phủ, nhờ tâu với Túc vương rằng "Nếu vương tha thì bao nhiêu của báu trên đời muốn có cũng dễ, nếu không thì ta cũng tới chết là cùng, mà vương thì chẳng có lợi gì cả". Vương muốn tịch biên gia sản và đày sinh đi xa, công chúa thứ ba nói "Y đã nhìn con, dù giết mười lần cũng không đủ gột rửa tiếng nhơ, chi bằng gả con cho y”. Vương không nghe.</p><p></p><p>*Túc vương phủ: tức Túc Trang vương, hoàng tử thứ mười bốn của Minh Thái tổ nhà Minh, được phong là Hán vương, năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) đổi phong là Túc vương, năm sau ra lập phủ đệ ở Cam Túc.</p><p></p><p>Công chúa đóng cửa không chịu ăn, Vương phi lo quá, cố nói với vưong, vương bèn thả sinh ra, lại sai vị quý nhân kia ngỏ ý với sinh. Sinh từ chối nói "Người vợ từ lúc hàn vi không thể bỏ, ta thà chết chứ không dám vâng lệnh, nếu vương cho chuộc tội thì dốc hết gia sản ra cũng được", vương giận lại bắt giam sinh. Vương phi triệu vợ sinh vào cung, định hạ độc giết chết. Vợ sinh vào, đem chiếc giá gương san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ mềm mỏng dễ thương, Vương phi hài lòng, sai bái kiến công chúa thứ ba, công chúa cũng thích, bèn đính ước làm chị em rồi sai người vào ngục dụ sinh. Sinh nhắn vợ rằng "Con gái nhà vương hầu thì không thể lấy việc cưới trước cưới sau mà bàn lớn bé được đâu”. Vợ không nghe cứ về sắp đặt sính lễ đưa tới vương phủ, người đội lễ vật có tới hàng ngàn, nhiều loại châu quý ngọc lạ nhà vương cũng không biết tên.</p><p></p><p>Vương cả mừng gả công chúa cho sinh, công chúa vu quy cũng đem tấm gương về. Một đêm sinh ngủ một mình, mơ thấy Bát vương nghênh ngang vào, nói "Vật ta đã tặng nay nên trả lại. Mang nó lâu quá thì hao tổn tinh huyết, chiết giảm tuổi thọ". Sinh vâng dạ, giữ lại uống rượu, Bát vương từ chối, nói "Từ lúc nghe ông khuyên, ta bỏ dứt rượu được ba năm rồi". Rồi há miệng cắn vào cánh tay, sinh đau quá tỉnh dậy, nhìn lại thì chỗ mụn nhọt đã tiêu tan, từ đó lại như người thường.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Tỉnh thì còn là người mà say rồi thì như con ba ba, những kẻ uống rượu đều như thế cả. Nhưng con ba ba kia tuy hàng ngày quen thói uống rượu bét nhè song không dám quên ơn, không dám vô lễ với bậc trưởng giả, con ba ba chẳng cũng hơn xa con người sao? Lắm kẻ tỉnh thì không bằng người, say thì không bằng con ba ba, người xưa soi gương bói rùa<strong>*</strong>, chắc là lấy con rùa để soi mình chăng? Vì vậy làm bài phú Người uống rượu. Phú rằng:</em></p><p></p><p>*Bói rùa: một cách bói toán thời cổ, lấy cái mai rùa hơ nóng lên rồi theo những vết nứt nẻ mà đoán hay dở xấu tốt.</p><p></p><p><em>Có một vật nọ, rong chơi ngon miệng, uống vào thì ngất ngất ngây ngây, tên gọi là rượu. Chủng loại rất nhiều, công lao đã lắm. Dùng để tiếp đãi tân khách, dùng để thù phụng cha anh. Dùng để vui sướng lúc một mình, dùng để hợp cẩn thành đôi lứa. Có khi làm lưỡi câu để câu hứng thơ, có khi làm cái chổi để quét phiền muộn. Cho nên chàng rượu tới thường thì người người kết bạn, làng say vào sâu thì kẻ kẻ quên sầu. Đài hèm bã đã cao, công chĩnh vò bất hủ. Một thạch ấy sức quan Tề<strong>*</strong>, năm đấu làm tên Học sĩ<strong>**</strong>. Thế nên rượu nhờ người mà nổi danh, nhưng có khi người vì rượu mà mang tiếng.</em></p><p></p><p>*Một thạch... quan Tề: Sử ký, Thuần Vu Khôn truyên chép vua Tề hỏi Khôn uống được bao nhiêu rượu, Khôn đáp cũng tùy nơi tùy lúc, như uống trong các yến tiệc ở triều đình, phải giữ nghi lễ thì một đấu cũng say, còn uống trong những hội lễ chốn đân gian, thả sức vui chơi thì một thạch mới say.</p><p></p><p>** Năm đấu... Học sĩ: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ thời Đường "Tiêu trục ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên" (Uống cạn năm đấu mới hứng chí, Đàm luận hùng hồn kinh bốn bên).</p><p></p><p><em>Kìa như Mạnh Gia rơi mũ<strong>*</strong>, Lưu Linh vác mai<strong>**</strong>, Sơn Giản say mèm<strong>***</strong>, Đào Tiềm lược rượu <strong>(4*)</strong>. Say ngủ bên người đẹp, không ý tư thông <strong>(5*)</strong>, nhúng đầu vào nghiên sâu, có thần giúp sức <strong>(6*)</strong>. Kẻ sĩ cưỡi thuyền rơi nằm đáy giếng <strong>(7*)</strong>, ông quan bộ Lại bị trói bên lò <strong>(8*)</strong>. Thậm chí nếu rụt đầu <strong>(9*)</strong> mà nghịch ngợm, cũng còn chưa hại vật mà bất nhân. Tới như khi mưa chiều tuyết tối, hoa sớm trăng khuya, gió lặng bụi yên, bạn xưa gái mới, dép giày trộn lẫn, lan xạ thơm lùng, đùa trăng cợt gió, hát nhỏ chuốc vơi, điệu nhạc hay vừa mới trỗi, trên chiếu lặng tựa không người, trò chuyện giống hoa bay sáng miệng, ngâm thơ như lắc ngọc khua vàng, dẫu quá chén mà say khướt, cũng hồn trong mà ngủ yên. Nếu thế thì dù mỗi ngày mỗi uống cũng chẳng hại gì tới danh giáo. Còn như trong dục nhập nhằng, hát ca bậy bạ, đứng ngồi nhớn nhác, cười nói ồn ào, chuyện bé xé ra to, cãi vã nhiếc mắng, rướn cổ nhăn mày như uấng thuốc độc, ngã bầu rơi chén tắt nến đổ đèn, rượu ngon lênh láng, say sưa bét nhè thì phép uống rượu vốn cấm, tình ý như thế chẳng thà đừng uống.</em></p><p></p><p>* Mạnh Gia rơi mũ: Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép Mạnh Gia làm Tham quân dưới trướng Hoàn ôn, nhân ngày Trùng dương Ôn hội hết các tướng lên núi Long Sơn ăn tiệc, mọi người đều mặc giáp trụ, Ôn say quá gặp cơn gió mạnh thổi rơi cả mũ mà không hay.</p><p></p><p>** Lưu Linh vác mai: Tấn thư, Lưu Linh truyện chép Lưu Linh là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính hay rượu, đi đâu cũng mang bầu rượu theo, sai đầy tớ vác mai đi cùng, nói "Nếu ta chết thì chôn luôn tại chỗ".</p><p></p><p>*** Sơn Giản say mèm: Thế thuyết chép Sơn Giản trấn thủ Sơn Dương, ở đó có họ Tập có khu vườn đẹp, Giản thường tới uống rượu say khướt.</p><p></p><p>4* Đào Tiềm lược rượu: Tống thư chép Đào Tiềm thời Tấn ở nhà lấy khăn đội đầu lược rượu, lọc xong lại đội lên đầu. Có người láng giềng mời qua uống rượu, trong rượu có cặn, Tiềm lập tức cởi khăn ra lược.</p><p></p><p>5* Say ngủ... tư thông: Thế thuyết chép Nguyễn Tịch là một trong Trúc lâm thất hiền, cạnh nhà có người đàn bà rất đẹp mở quán bán rượu, Tịch và Vương An Phong thường cùng nàng uống rượu, có lần say nằm ngủ khoèo bên cạnh nàng. Người chồng lúc đầu rất ngờ vục, sau rình theo dõi thì thấy Tịch không có ý gì khác.</p><p></p><p>6* Nhúng đầu... giúp sức: Đường quốc sử bổ chép Trương Húc giỏi viết chữ thảo, tính hay rượu, lúc uống say rồi cứ lấy đầu làm bút nhúng vào mực viết chữ, biến hóa nhiều lối như có thần giúp.</p><p></p><p>7* Kẻ sĩ... đáy giếng: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ "Tri Chương kỵ mã tự hành thuyền, Nhãn hoa lạc tỉnh thủy đê miên" (Tri Chương cưỡi ngựa ngỡ đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng ngủ say mèm).</p><p></p><p>8* ông quan... bên lò: Tấn thư, Tất Trác truyện chép Tất Trác làm Lại bộ lang, cạnh nhà có quán trọ nấu rượu, Trác nhân đêm lẻn qua uống trộm bị người nấu rượu bắt trói, sáng ra mới biết là Tất Lại bộ.</p><p></p><p>9* Rụt đầu: nguyên văn là "hiệu miết tù” (học lối miết ẩm, tù ẩm). Hoa mạn lục chép bọn Tô Vũ Khâm, Thạch Diên Niên có nhiều lối uống rượu như "quỷ ẩm", "liễu ẩm", “tù ẩm", "miết ẩm", "hạc ẩm", trong đó "tù ẩm" là để lộ đỉnh đầu đứng chung quanh bàn uống rượu như bọn tù, “miết ẩm” là lấy chăn lông quấn quanh người chỉ thò đầu ra, uống xong một chén thì rụt đầu vào trong như con ba ba.</p><p></p><p><em>Lại có kẻ rượu vừa nuốt xuống hơi đã bốc lên, lảm nhảm lè nhè chê chủ keo kiệt, đã không biết cư xử lại không biết uống rượu, thứ khách rượu không có phẩm giá ấy thì càng quá lắm. Thậm chí có kẻ vừa uống xong thì thôi khách sáo, trợn mày bứt tóc cởi áo xắn quần, bọt nhểu nhảo đầy mồm miệng, ói òng ọc ra áo quần, cổ rướn dài như chó sủa, tóc rối bời như ăn xin. Bụng chạm đất mà miệng kêu trời, tựa bày gan ruột, tay thì khua còn chân lại rũ, như bị phanh thây. Tài thơ phú không lời để tả, bút đan thanh khôn họa thành tranh. Cha mẹ già bị chửi, vợ con yếu khó dìu, có khi chú bác bạn bè bỗng dưng mà chịu nhục. Dùng lời nhỏ nhẹ can ngăn thì càng thêm u mê dữ tợn, đó gọi là uống rượu mất nết, không thể cứu giúp gì được. Duy có một cách để giã rượu, cách ấy ra sao? Chỉ cần lấy một cái gậy, trói tay chân lại như lối mổ heo, cứ đập vào mông đừng đánh lên dầu, hơn trăm gậy rồi chắc chắn tỉnh lại. </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 121 -</strong></p><p>Cô Gái Họ Thiệu</p><p>(Thiệu Nữ)</p><p></p><p>Sài Đình Tân người huyện Thái Bình (tỉnh An Huy), vợ là Kim thị không sinh nở được mà tính cả ghen. Sài bỏ ra trăm lượng vàng cưới thiếp, Kim đối xử rất tàn ác, qua năm sau thì người thiếp chết. Sài uất ức ngủ riêng, mấy tháng liền không đặt chân tới phòng vợ. Gặp ngày sinh nhật Sài, Kim tới ăn nói ngọt ngào làm lễ chúc thọ chồng, Sài không nỡ cự tuyệt, mới lại chuyện trò cười nói với nhau. Kim bày tiệc trong phòng mời Sài, Sài lấy cớ đã say để từ chối, Kim ăn mặc lộng lẫy tự tới phòng Sài nói "Thiếp đã hết lòng trọn ngày, dù chàng có say cũng xin uống một chén rồi về". Sài bèn vào phòng, uống rượu trò chuyện. Vợ thong thả nói "Trước kia lỡ tay giết đứa tỳ nữ, nay đã hối hận, sao chàng còn để bụng oán hờn, há không còn tình vợ chồng sao? Từ nay về sau xin cứ nạp thiếp, thiếp không dám trách móc gì chàng đâu”. Sài càng mừng, từ đó lại yêu thương vợ như trước. Kim bèn gọi người mai mối tới bảo tìm người thiếp đẹp cho chồng, nhưng ngầm dặn cứ lờ đi, còn mình làm ra vẻ thúc giục. Cứ thế hơn năm, Sài không chờ được bèn dặn khắp bạn bè thân thích nhờ tìm hỏi cho mình, được con gái nuôi của nhà họ Lâm, Kim vừa gặp đã tỏ vẻ mừng rỡ, cho cùng ăn cùng ngủ với mình, áo quần nữ trang cho tùy ý lựa dùng.</p><p>Nhưng Lâm vốn sinh ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc) nên không thạo việc nữ công, ngay việc khâu giày cũng phải có người giúp cho. Kim nói “Nhà ta vốn cần kiệm không phải như nhà vương hầu mà mua người như mua tranh để ngắm", rồi từ đó đưa cho gấm lụa bảo Lâm học cắt may như thầy dạy trò rất nghiêm khắc, ban đầu còn mắng chửi, kế thì đánh đập. Sài trong lòng xót xa không biết làm sao, mà Kim lại càng tỏ vẻ yêu thương Lâm hơn trước, cứ đích thân trang điểm cho Lâm. Nhưng gót giày hơi có vết nhăn là lấy thước sắt đánh vào hai chân, tóc hơi rối là tát vào hai má, Lâm không chịu nổi treo cổ tự tử. Sài đau lòng xốn mắt, trách móc nặng lời. Vợ giận nói "Ta thay anh dạy dỗ nàng ta thì có tội gì?”, lúc ấy Sài mới biết sự gian xảo của vợ, dứt hẳn tình vợ chồng, ngầm xây dựng phòng ốc nơi khác, nghĩ cách cưới vợ đẹp ở riêng.</p><p>Thấm thoát hơn nửa năm vẫn chưa tìm được người nào, ngẫu nhiên tới dự đám tang ở nhà bạn thấy một nữ lang khoảng mười sáu tuổi đẹp lộng lẫy, cứ sững người ra ngắm nhìn. Cô gái thấy Sài có vẻ sỗ sàng bèn liếc nhìn rồi quay người đi, Sài hỏi người ta thì biết nàng họ Thiệu. Thiệu là học trò nghèo, chỉ có một con gái là nàng. Lúc nhỏ rất thông minh, cha dạy cho học, sách vở chỉ đọc qua là hiểu, lại rất thích đọc sách thuốc và sách xem tướng. Cha rất thương yêu, có ai tới hỏi cưới thì cho nàng quyết định, nhưng kẻ giàu người nghèo gì cũng không giỏi bằng nên mười bảy tuổi vẫn chưa lấy chồng. Sài hỏi rõ được ngọn ngành biết rõ là không thể hỏi cưới được nhưng vẫn bồi hồi, lại nghĩ rằng nhà Thiệu nghèo có thể lấy lợi làm động tâm, bèn bàn với vài bà mối nhưng không ai dám nhận lời, chán nản không còn hy vọng gì nữa.</p><p>Chợt có bà mối họ Giả tới bán ngọc cho Sài, Sài tỏ ý mình rồi cho nhiều tiền, nói "Chỉ cần bà nói rõ lòng thành của ta, còn họ có ưng hay không thì ta không trách gì bà. Còn nếu vạn nhất mà việc xong, thì ngàn vàng ta cũng không tiếc đâu”. Bà Giả thấy được nhiều tiền bèn vâng dạ, tìm tới chuyện dằng dai với vợ Thiệu, nhìn thấy cô gái ngạc nhiên ca ngợi, nói "Cô nương đẹp quá, nếu tới viện Chiêu Dương thì chị em nhà họ Triệu<strong>*</strong> có đáng gì!”. Lại hỏi đã hứa gả cho ai rồi, vợ Thiệu đáp chưa, bà ta nói "Sợ gì không có bậc vương hầu làm rể quý”.</p><p></p><p>*Chị em nhà họ Triệu: tức chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hơp Đức trong nội cung của Đường Minh Hoàng, được cho ở tại viện Chiêu Dương, rất được vua sủng ái.</p><p></p><p>Vợ Thiệu than “Nhà vương hầu thì không dám mong, chỉ cần tìm được thằng bé nào có học là tốt lắm rồi. Của nợ nhà ta cứ chọn lựa này nọ, cả chục người không ưng được một đám, thật chẳng hiểu nó muốn những gì”. Bà Giả nói "Phu nhân không cần phải trách móc, người đẹp như thế chẳng biết kiếp trước tu được bao nhiêu phúc đức mới cưới được kia. Hôm rồi có một chuyện rất buồn cười, là lang quân họ Sài nói thấy nhan sắc cô nương đây ở đám tang nhà ông Mỗ, xin dâng ngàn vàng làm sính lễ, há chẳng phải cú đói mơ sánh đôi với thiên nga sao? Già này đã mắng cho mới chịu thôi đấy!”. Vợ Thiệu cười khẽ chưa đáp, bà ta lại nói "Chỉ vì là nhà Tú tài khó mà sánh đôi, chứ nếu nhà khác thì như thế mất ít mà được nhiều, cũng nên ưng thuận". Vợ Thiệu lại cười không đáp, bà ta bèn vỗ tay nói "Phải rồi, đứng về phía già này mà nói thì làm thế là sai đấy. Hàng ngày già được phu nhân yêu thương, lên thềm còn được ngồi xếp bằng cho uống rượu, chứ phu nhân mà được ngàn vàng, ra xe ngựa vào lầu gác thì già tới cổng sẽ bị người gác cổng thét đuổi ra ngay”.</p><p>Vợ Thiệu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đứng lên vào nói chuyện với chồng, lát sau ra gọi con gái vào, lát sau ba người cùng ra. Vợ Thiệu cười nói "Con nhãi nhà ta lạ thật, bao nhiêu đám tốt đều không chịu mà nghe nói làm vợ lẽ lại ưng, chỉ sợ các bậc văn nhân cười cho". Bà Giả nói "Nếu về đó mà sinh được một tiểu ca, thì đại phu nhân mà bằng được à?". Nói xong kể lại việc Sài định ở riêng, Thiệu càng mừng rỡ bèn gọi con gái nói “Cứ thử trò chuyện với bà Giả đi, việc này là do ngươi tự chủ trương, về sau đừng có hối hận mà oán trách cha mẹ". Cô gái ngượng nghịu nói "Cha mẹ được phụng dưỡng chu đáo thì công nuôi con không uổng. Huống hồ con tự thấy mình phận bạc, nếu làm vợ chính ắt sẽ bị giảm thọ, nếu phải chịu đựng đau khổ chút ít thì cũng chưa chắc không phải là điều may. Hôm trước nhìn thấy chàng Sài, cũng có phúc tướng, con cháu ắt có kẻ làm nên".</p><p>Bà mối cả mừng chạy về báo, Sài mừng rỡ vì được quá cả lòng mong ước, lập tức đem ngàn vàng sắp xe kiệu tới cưới cô gái về ở nhà riêng, tôi tớ không ai dám nói một câu. Cô gái nói với Sài rằng “Chàng tính toán có thể nói cũng như chim én làm tổ trên rèm<strong>*</strong>, không phải là kế lâu dài. Ngậm miệng lựa lời để giữ kín chuyện liệu có được không? Chẳng bằng xin cứ về nhà cho sớm, nói thật ra ngay thì tai họa còn nhỏ". Sài lo là nàng sẽ bị đày đọa, nàng nói "Trên đời không có ai là kẻ không thể cảm hóa được, ta cứ giữ cẩn thận không có lỗi lầm thì bà ta làm sao giận được?". Sài nói "Không phải thế đâu, bà ta hung dữ phi thường, không thể nói tình lý mà cảm hóa được". Cô gái nói “Thân làm lẽ mọn thì bị hành hạ là phải thôi, nếu không chịu thế mà cứ tạm bợ cầu sống thì liệu có được lâu dài không?", Sài cho là đúng nhưng rốt lại vẫn chần chừ không dám quyết.</p><p></p><p>*Chim én làm tổ trên rèm: lấy ý lời của Quý Trát thời Xuân thu nói với Tôn Văn Tử, chỉ người tính việc trước mắt mà không nghĩ tới tai họa về lâu dài.</p><p></p><p>Một hôm Sài đi vắng, cô gái mặc áo tỳ nữ ra cửa, sai đầy tớ dắt con ngựa cái già, có một bà già ôm cái bọc đi theo tới nhà Vợ Sài ở, lạy rạp xuống đất tự bày tỏ. Vợ Sài lúc đầu nổi giận, kế nghĩ nàng tự tới thú có thể tha thứ lại thấy ăn mặc khiêm nhường hèn mọn, cũng hơi nguôi giận bèn sai tỳ nữ lấy áo gấm ra cho mặc, nói "Ta bị gả bạc bẽo kia rêu rao nói xấu với mọi người nên chịu tiếng oan, chứ thật ra đều là vì chồng bất nghĩa, bọn tỳ thiếp mất nết có chỗ mà khích bác, ngươi nghĩ xem kẻ giấu vợ cưới thiếp còn có phải là người không kia chứ? Cô gái nói "Xem kỹ thì ông ấy cũng hơi hối hận, chỉ là không chịu xuống nước đó thôi. Lời ngạn nói Người trên không chịu thua người dưới, còn theo lễ mà bàn thì vợ đối với chồng cũng như con đối với cha, vợ thứ đối với vợ cả vậy. Nếu phu nhân chịu tỏ ra vui vẻ niềm nở thì có thể làm cho ông ấy hết hờn oán". Vợ Sài nói "Tự y không chịu tới đây chứ ta có làm gì đâu?", rồi lập tức sai các tỳ nữ dọn phòng cho cô gái ở, tuy không vui lắm nhưng cũng yên lòng.</p><p>Sài nghe tin cô gái tới nhà vô cùng hoảng sợ, thầm nghĩ dê vào miệng cọp thì không sao sống nổi, vội chạy mau về thì thấy trong nhà yên ắng, mới được yên lòng. Cô gái ra cửa đón tiếp khuyên lơn, bảo tới phòng vợ cả Sài tỏ vẻ khó khăn, nàng khóc ròng, Sài mới xiêu lòng. Cô gái tới gặp vợ Sài nói "Lang quân vừa về, tự thấy xấu hổ không còn mặt mũi nào tới gặp phu nhân, xin phu nhân tới cười cho một tiếng". Vợ Sài không chịu, nàng nói "Thiếp đã nói rồi, chồng đối với vợ cũng như vợ cả đối với vợ lẽ. Mạnh Quang nâng án ngang mày<strong>*</strong> mà người ta không cho là nịnh nọt là vì sao? Vì phận sự phải như thế thôi". Vợ Sài theo lời, tới gặp Sài nói "Chàng như con thỏ khôn có ba hang, về đây làm gì?". Sài lừ mắt không đáp, cô gái lấy khuỷu tay huých ra hiệu bèn nhăn nhó cười gượng, vợ mới hơi dịu nét mặt.</p><p></p><p>*Mạnh Quang nâng án ngang mày: Hậu Hán thư, Lương Hồng truyện chép Lương Hồng lúc hàn vi có vợ là nàng Mạnh Quang, xấu người nhưng hiền đức, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn đều kính cẩn nâng mâm ngang mày (cử án tề mi).</p><p></p><p>Lúc vợ Sài ra, cô gái đẩy Sài theo, lại dặn nhà bếp làm tiệc, từ đó vợ chồng Sài lại hòa thuận. Cô gái sáng dậy sớm mặc áo xanh tới hầu vợ Sài, bưng nước rửa mặt, hầu hạ khăn lược, giữ lễ tỳ nữ rất cung kính. Sài vào phòng thì hết sức từ chối, hơn mười đêm mới cho ngủ lại một đêm, vợ Sài cũng thấy là hiền nhưng lại xấu hổ vì thấy mình không bằng nàng, thẹn thùng chuyển thành ghen ghét. Song cô gái hầu hạ cẩn thận, không có lỗi lầm nào để bới móc, có khi chửi mắng qua loa thì nàng chỉ vâng dạ. Một đêm vợ chồng có chuyện xích mích, sáng ra vợ Sài dậy trang điểm vẫn còn tức tối, cô gái bưng gương lỡ tay làm rơi vỡ, vợ Sài nắm tóc nàng trừng mắt nhìn. Cô gái sợ quá quỳ xuống cầu khẩn, vợ Sài không nguôi giận đánh luôn vài mươi roi. Sài không nhịn được nổi giận xông vào kéo nàng ra, vợ lu loa giằng lại. Sài nổi giận giật roi đánh vợ rách cả mặt mới bỏ đi, từ đó vợ chồng coi nhau như kẻ thù.</p><p>Sài cấm cô gái không được tới phòng vợ nữa nhưng nàng không nghe, sáng ra dậy sớm quỳ ngoài màn, vợ Sài đập giường chửi lớn, quát đuổi đi không cho tới trước mặt, đêm ngày mắm môi nghiến lợi, rắp tâm chờ lúc nào Sài đi vắng sẽ trút hờn lên cô gái. Sài biết ý, gác hết mọi việc, đóng cửa ở nhà không giao du với ai cả. Vợ Sài không biết làm sao, chỉ hàng ngày đánh đập bọn tỳ nữ cho hả giận, tôi tớ trong nhà đều không chịu nổi. Từ khi vợ chồng xích mích, cô gái cũng không dám cho Sài ngủ ở phòng mình, Sài từ đó ngủ một mình, vợ nghe biết cũng hơi yên lòng.</p><p>Có đứa tỳ nữ đã lớn vốn giảo hoạt, ngẫu nhiên trò chuyện với Sài, vợ Sài nghi là tư thông với nhau càng hành hạ tàn nhẫn, đứa tỳ nữ cứ lúc vắng người là căm tức chửi rủa. Một đêm tới phiên nó hầu, cô gái dặn Sài không được cho tới, nói "Mặt cô ta có sát cơ, khó lường lắm". Sài theo lời gọi tới, giả vờ hỏi tại sao làm điều ám muội, đứa tỳ nữ khiếp sợ không đáp được, Sài càng nghi ngờ, xét trong áo tìm được con dao sắc, nó không còn lời gì để nói, chỉ quỳ mọp xin tha chết. Sài muốn đánh đòn, cô gái ngăn lại nói “Sợ phu nhân nghe được thì nó không còn cách sống. Tội nó vẫn không thể tha được, nhưng chẳng bằng bán đi cho nó được toàn mạng mà ta còn được tiền". Sài cho là phải, gặp lúc có người mua tỳ thiếp vội bán đi. Vợ Sài thấy không bàn bạc gì với mình bèn trách móc chồng, lại giận lây qua cô gái, chửi mắng càng tàn tệ. Sài uất ức nhìn cô gái nói "Đây là nàng tự chuốc lấy đấy nhé, nếu trước cứ để cho nó giết đi thì làm gì có ngày hôm nay?", nói xong bỏ đi.</p><p>Vợ Sài thấy lời nói kỳ quái, hỏi khắp cả người hầu nhưng không ai biết, hỏi cô gái nàng cũng không đáp, càng bực dọc phiền muộn, túm áo nàng chửi té tát. Sài bèn quay vào nói rõ mọi chuyện, vợ Sài cả kinh dịu giọng với cô gái, nhưng lại chuyển sang giận là không nói sớm với mình. Sài cho rằng vợ đã hết hiềm khích nên không đề phòng nữa, một hôm có việc đi xa, vợ Sài bèn gọi cô gái tới hỏi tội, nói "Kẻ giết chủ thì tội không tha được, người tha nó là có ý gì?". Cô gái bị bất ngờ không đáp được, vợ Sài bèn nung đỏ sắt đốt mặt nàng, muốn phá hủy dung mạo. Đám tớ gái đều bất bình thay, nghe tiếng rú người nhà đều khóc lớn xin chịu chết thay nàng. Vợ Sài thấy thế không đốt mặt nữa, lấy kim đâm vào sườn nàng hơn hai mươi nhát mới đuổi đi.</p><p>Sài về thấy mặt cô gái bị thương, cả giận muốn qua tìm vợ, nàng nắm áo kéo lại nói “Thiếp đã biết rõ nơi đây là chậu lửa nhưng vẫn dám vào, chứ lúc lấy chàng há cho rằng nhà chàng là thiên đường hay sao? Cũng vì biết mình bạc phận nên làm thế để tạo vật bớt ghét thôi. Yên lòng nhịn nhục chịu khổ thì còn có lúc hết tai họa, chứ nếu lại làm trời tức giận, thì hố thẳm đã lấp bằng lại sụt xuống mất". Rồi lấy thuốc băng bó những chỗ bị đất, vài ngày thì hơi đỡ, chợt cầm gương soi mừng rỡ nói rằng "Hôm nay thì chàng nên chúc mừng thiếp, bà ta nung đất làm đứt hết nhữug nét mờ tối trên mặt thiếp rồi". Rồi lại sớm tới phụng sự vợ cả, chu đáo kính cẩn như xưa.</p><p></p><p>Kim trước thấy mọi người khóc lóc tự biết mình đã bị cô lập, hơi có ý hối hận, thường gọi cô gái vào cùng làm việc với mình, lời nói sắc mặt đều ôn hòa. Hơn một tháng chợt bị bệnh không ăn uống gì được, Sài giận là không chết ngay, không ngó ngàng gì tới. Vài hôm sau thì bụng Kim trướng lên to như cái trống, ngày đêm nằm rũ liệt, cô gái hầu hạ quên ăn quên ngủ, Kim càng biết ơn nàng. Cô gái nói là mình biết y lý, nhưng Kim nghĩ trước đây mình hành hạ nàng quá tàn ác, ngờ là nàng sẽ báo thù nên cố từ tạ. Kim là người coi sóc việc nhà có khuôn phép, tôi tớ đều răm rắp nghe lệnh nhưng từ khi mắc bệnh thì họ cũng bỏ bê việc nhà. Sài phải đích thân đứng ra coi sóc bận bịu vất vả nhưng gạo muối trong nhà không ăn mà tự hết, vì vậy lại có ý muốn vợ khỏe lại để coi sóc việc nhà, bèn đón thầy về cắt thuốc. Kim nói rằng mình uất ức sinh bệnh nên thầy nào bắt mạch cũng bảo là bị bệnh uất kết, đổi qua mấy thầy mà vẫn không khỏi, ngày càng nguy hơn.</p><p></p><p>Lại định sắc thuốc, cô gái bước lên nói "Loại thuốc này thì hàng trăm thang cũng vô ích, chỉ làm bệnh nặng thêm thôi”. Kim không tin, cô gái ngầm lấy thuốc riêng tráo vào, Kim uống xong, trong khoảng một bữa ăn thì đi ngoài ba lần liên tiếp, bệnh như khỏi hẳn, càng cười là cô gái nói sai, rên rỉ gọi nàng hỏi "Vị nữ Hoa Đà<strong>*</strong> kia, nay thì thế nào?”. Cô gái cùng đám tỳ nữ đều cười, Kim hỏi nguyên do, mọi người mới nói thật. Kim khóc nói "Thiếp hàng ngày vẫn đội ơn như trời che đất chở của nàng mà không biết, từ nay về sau xin tuy vẫn giữ việc gia chính nhưng được nghe nàng dạy bảo".</p><p></p><p>*Nữ Hoa Đà: Hoa Đà là một vị danh y nổi tiếng ở Trung Hoa thời Tam quốc, đây Kim thị có ý chế nhạo nên gọi cô gái họ Thiệu như vậy.</p><p></p><p>Không bao lâu Kim khỏi bệnh, Sài mở tiệc ăn mừng, cô gái cầm bầu rượu đứng hầu bên cạnh, Kim đứng dậy giật lấy cái bầu rượu, kéo nàng ngồi sánh vai với mình. Đến khuya cô gái kiếm cớ rời bàn tiệc, Kim sai hai tỳ nữ kéo trở lại ép cùng mình ngủ chung với Sài, từ đó công việc thì cùng bàn ăn uống thì cùng mâm, chị em ruột cũng không hòa thuận bằng. Không bao lâu cô gái sinh được một trai, sinh nở xong hay bị bệnh, Kim đích thân chăm sóc như hầu hạ mẹ ruột. Về sau Kim bị mắc chứng đau tim, mỗi khi lên con đau thì mặt mày tái xanh chỉ muốn chết. Cô gái vội mua mấy mũi châm bạc, khi Kim lên cơn đau như tắt thở, nàng lại theo huyệt châm cứu thì lập tức hết đau. Hơn mười ngày lại phát đau, nàng lại châm, qua sáu bảy ngày lại phát, tuy cô gái châm cứu là theo tay hết đau ngay, không tới nỗi khổ sở lắm, nhưng Kim trong lòng cứ nơm nớp sợ bệnh lại phát.</p><p></p><p>Một đêm nằm mơ thấy tới một nơi như đền miếu, tượng thần trong điện đều cử động, thần hỏi "Ngươi là Kim thị phải không? Ngươi tội ác đa đoan, lẽ ra đã tận số rồi, nhưng nghĩ ngươi biết sửa lỗi nên chỉ giáng tai họa để trừng phạt qua loa thôi. Trước đây giết hai nàng tỳ thiếp thì đó là chuyện quả báo, chứ Thiệu thị có tội gì mà tàn nhẫn đến thế? Việc ngươi đánh đập nàng thì đã có Sài sinh trừng trị rồi, cũng coi như đã xong, nhưng ngươi còn thiếu một vết nung trên mặt và hai mươi ba nhát kim đâm vào sườn nàng, nay bị đau ba lần chỉ mới đủ số lẻ, lại muốn hết hẳn bệnh kia à? Ngày mai sẽ phát lại đấy?". Kim tỉnh dậy sợ lắm, còn nghĩ rằng mộng mị không thật nhưng ăn sáng xong quả lên cơn đau, còn hơn cả mấy lần trước. Cô gái tới châm cho, cơn đau theo tay giảm ngay nhưng nàng ngờ vực nói "Bệnh này chỉ cần chữa như thế thôi mà sao gốc bệnh không dứt? Xin đốt ngãi để cứu, không thế không được, có điều sợ phu nhân không chịu nổi”. Kim nhớ lại giấc mộng nên không tỏ vẻ khó khăn, nhưng lúc cắn răng rên rỉ chịu đau lại nghĩ thầm còn mười chín vết đâm, không biết sẽ biến chứng ra những gì, chẳng bằng cứ chịu khổ luôn một hôm cho hết nợ, về sau khỏi phải chịu khổ nữa nên lúc mồi ngãi cứu cháy tàn rồi lại xin cô gái làm tiếp. Cô gái cười nói "Chuyện châm cứu chẳng lẽ cứ muốn là làm à?", Kim nói "Không cần chọn huyệt đạo gì cả, xin cứ phiền đốt cho mười chín chỗ", cô gái cười bò ra không chịu.</p><p>Kim càng nài nỉ, trở dậy quỳ trên giường lạy lục, cô gái vẫn không nỡ. Kim bèn kể thật lại giấc mộng, nàng bèn châm chước theo kinh mạch đốt cho đủ số. Từ đó Kim bình phục, quả nhiên không bị lên cơn đau nữa, tự mình ăn năn, đối xử với người dưới cũng không bao giờ có vẻ giận dữ. Đứa con trai tên là Tuấn, tuấn tú thông minh hơn người, cô gái nói "Đứa nhỏ này có tướng làm quan đây". Năm tám tuổi Tuấn nổi tiếng là thần đồng, năm mười lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ được trao chức Hàn lâm. Năm ấy vợ chồng Sài đều bốn mươi tuổi, Thiệu phu nhân khoảng ba mươi hai, ba mươi ba tuổi mà thôi, đem xe kiệu về thăm cha mẹ, làng xóm đều cho là vinh dự. ông Thiệu sau khi gả con gái thì nhà giàu hẳn lên nhưng các bậc văn nhân đều không muốn giao du, đến lúc ấy mới có người lui tới.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Đàn bà ghen tuông xảo quyệt, đó là tính trời, nhưng kẻ làm tỳ thiếp lại khoe đẹp khoe khôn thì chỉ làm vợ cả thêm tức giận. Than ôi, tai họa là từ đó mà tới đấy. Như Thiệu thị chịu yên thân giữ phận, bị đày đọa bao nhiêu cũng không đổi lòng thì làm sao vợ lớn hành hạ thêm được! Còn như Kim thị được cứu sống mấy lần mới ăn năn tỉnh ngộ, than ôi, con người lại như thế ư! Bắt trả đủ số chứ không trị tội thêm, cũng là sự tha thứ của tạo hóa, mà lấy thuật làm nhân để trị kẻ ác, chẳng cũng điên đảo sao! Ta vẫn thấy kẻ ngu phu ngu phụ cứ đau ốm thì lập tức gọi đám đồng cốt ngu si tới mặc cho cắt da đốt thịt mà không dám rên rỉ, rất lấy làm lạ, đến nay mới hiểu.</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 122 -</strong></p><p>Vị Tiên Họ Củng</p><p>(Củng Tiên)</p><p></p><p>Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với quý nhân rằng “Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là mãn nguyện rồi". Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như sắp đứt, sợ quá la ầm lên.</p><p></p><p>Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt vương.</p><p></p><p>Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa “Thần là người quê mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc thọ vương gia”. Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui, nói "Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?". Vương lại nghĩ những người ca hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa.</p><p>Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói “Tính quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn”, nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi "Nghe nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?” đạo sĩ đáp "Có lẽ người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô thôi”. Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn. Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất.</p><p>Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói "Ngủ một giấc say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết". Sau vương sai đám con gái nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau. Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca không, đạo sĩ đáp “Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng nào”. Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một câu, đạo sĩ cười nói “Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được”.</p><p>Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói "Nếu nhất định muốn gặp nàng một lần thì mời vào đây". Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà liền khom người chui vào, lạí thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách, bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã. Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói "Duyên lạ hôm nay không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú” rồi viết lên vách rằng "Hầu môn tự hải cửu vô tung” (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo “Thùy thúc Tiêu lang kim hựu phùng” (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết tiếp “Tụ lý càn khôn chân cá đại” (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết “Ly nhân tư phụ tận bao dung” (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú.</p><p></p><p>Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói với Thượng rằng "Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng, cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt". Thượng theo lời, trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng lên, nói "Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng. Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ. Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải chỉ ở việc tư tình thôi đâu”. Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói "Ta đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra”.</p><p></p><p>Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo nói "Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi". Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ dặn "Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai", Thượng vâng lời. Lâu sau đạo sĩ chợt nói với Thượng "Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!”.</p><p></p><p>Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp vương nói "Thần muốn chết". Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp “Đó là số trời đã định, còn nói gì được". Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước. Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là sinh được ngay.</p><p></p><p>Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp "Thần không dám nói", gạn hỏi mấy lần Thượng mới dập đầu thưa “Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ”. Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa "Thiếp vào phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi” Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai. Vương cười nói "Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với nhau rồi?". Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn.</p><p></p><p>Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh, "Tú” là ẩn nghĩa chữ "Tụ” (tay áo) vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói “Đây là sách trong phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ". Người ấy về nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương, không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì chó gà ở cõi Đào Nguyên<strong>*</strong> đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó, thì chết già ở nơi ấy cũng được.</em></p><p></p><p>*Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình hạnh phúc ở nhân gian.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164990, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 111 -[/B] Điền Thất Lang (Điền Thất Lang) Vũ Thừa Hưu người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), tính thích giao du, bạn bè đều là kẻ sĩ có danh tiếng. Đêm mơ thấy một người nói "Anh kết giao khắp trong nước nhưng đều là bạn thừa, chỉ có một người có thể cùng chia hoạn nạn thì lại không biết". Hỏi đó là ai, người ấy đáp "Điền Thất Lang chứ ai", Vũ tỉnh dậy lấy làm lạ. Sáng ra gặp bạn bè nào cũng hỏi thăm Thất Lang là ai, khách có người biết đó là người thợ săn ở thôn Đông. Vũ kính cẩn tới yết kiến, cầm roi ngựa gõ cửa. Không bao lâu có một người bước ra, thấy khoảng hơn hai mươi tuổi lưng ong mắt báo, đội khăn mềm, vận áo ngắn quần cụt vá nhiều chỗ, chắp tay ngang trán hỏi khách ở đâu tới. Vũ xưng tên họ, nói thác là đi đường mệt mỏi muốn vào nghỉ nhờ. Hỏi Thất Lang, người ấy đáp "Chính là ta đây" rồi mời khách vào nhà. Thấy có mấy gian nhà nát, vách chống bằng cây, vào một phòng nhỏ thấy trên cột treo đầy da cọp da sói mà không có giường ghế gì để ngồi, Thất Lang trải một tấm da cọp dưới đất. Vũ cùng Thất Lang trò chuyện, thấy lời lẽ thật thà rất thích, liền tặng tiền để làm ăn. Thất Lang không nhận, Vũ cố ép, Thất Lang bèn cầm vào nhà trong thưa lại với mẹ, giây lát trở ra đưa trả không lấy. Vũ ép đôi ba lần, bà mẹ lọm khọm bước ra, nghiêm sắc mặt nói "Già này chỉ có đứa con đó, không muốn sai nó thờ người sang". Vũ thẹn ra về, dọc đường ngẫm nghĩ không hiểu ý bà thế nào, có kẻ tùy tùng lúc nãy đứng sau nhà nghe được lời bà mẹ bèn kể lại cho Vũ. Vốn là khi Thất Lang cầm tiền vào thưa, bà mẹ nói "Ta vừa thấy mặt công tử có sắc mờ tối, ắt sẽ gặp họa lớn. Thường nghe Được người biết thì phải chia sẻ điều lo âu, được người giúp thì phải báo đáp lúc hoạn nạn, kẻ giàu lấy tiền báo đáp, người nghèo lấy nghĩa báo đáp. Nay vô cớ mà được cho nhiều tiền là điềm không lành, e người ta muốn con đem cái chết báo đáp đấy". Vũ nghe thế rất phục bà mẹ giỏi, nhưng càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang. Hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang từ chối không tới, Vũ bèn tới nhà đòi uống rượu, Thất Lang tự đi mua rượu, đem khô nai ra đãi khách hết sức niềm nở. Qua hôm sau nữa Vũ mời, Thất Lang mới tới, cùng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ nhưng tặng tiền bạc thì không nhận, Vũ nói thác là mua da cọp mới nhận. Thất Lang về nhà xem lại số da cọp để dành thì không đủ so với số tiền, tự nghĩ phải đi săn nữa mới đủ giao nộp. Vào núi liền ba ngày không săn được gì. Gặp lúc vợ bệnh phải ở nhà lo thuốc thang không rảnh đi săn được, qua mười ngày vợ chết phải lo chôn cất, số tiền nhận được đem tiêu gần hết. Vũ tới điếu tang, phúng viếng rất hậu. Chôn cất vợ xong, Thất Lang lại mang nỏ vào núi, càng nóng lòng trả nợ Vũ, nhưng rốt lại vẫn không săn được gì. Vũ nghe biết chuyện, khuyên đừng gấp, mong Thất Lang tới chơi một lần nhưng Thất Lang vẫn băn khoăn về nỗi còn thiếu nợ nên không chịu tới. Vũ đòi giao số da đã có để Thất Lang tới, Thất Lang kiểm lại những bộ da cũ thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, càng thêm buồn bã. Vũ biết vội tới nhà, hết lời an ủi rồi vào xem những tấm da hư, nói “Thế này lại hay, ý ta là không cần những da có lông”. Rồi gỡ xuống đem ra, mời Thất Lang cùng về nhà chơi, Thất Lang không chịu đi, Vũ đành về một mình. Thất Lang vẫn nghĩ ngợi về việc còn thiếu tiền Vũ, lại mang lương khô vào núi, qua vài đêm bắn được một con cọp, mang cả về đưa cho Vũ. Vũ mừng bày tiệc khoản đãi, mời ở lại chơi ba hôm. Thất Lang nhất quyết từ chối, Vũ sai khóa chặt cổng không cho về. Tân khách thấy Thất Lang quê mùa chất phác, thầm cho rằng công tử chọn bạn sai, nhưng Vũ lo toan cho Thất Lang hơn tất cả khách khứa khác. Vũ mang áo mới cho thay, Thất Lang chối từ không nhận, bèn nhân lúc Thất Lang ngủ lén đánh đổi, Thất Lang bất đắc dĩ phải mặc áo mới. Sau về nhà lại vâng lời mẹ đem trả áo mới đòi áo cũ, Vũ cười nói “Về thưa giùm với lão mẫu rằng đã cắt áo cũ ra may lót giày rồi”. Từ đó Thất Lang thường sai mang thịt thỏ thịt hươu tới biếu, nhưng Vũ mời thì không tới nữa. Một hôm Vũ tới nhà Thất Lang, gặp lúc Thất Lang đi săn chưa về bà mẹ ra đứng dựa cửa nói "Từ nay xin đừng rủ rê con ta nữa, cho khỏi mất lòng". Vũ lễ phép chào, ngượng ngùng ra về. Nửa năm sau, chợt gia nhân vào báo “Thất Lang vì tranh giành con beo săn được mà đánh chết người, hiện đã bắt giải lên quan rồi". Vũ cả kinh, lập tức tới thăm thì Thất Lang đã bị đóng gông hạ ngục, gặp Vũ không nói gì, chỉ dặn "Từ nay phiền ông săn sóc giùm mẹ già". Vũ đau xót trở ra, vội đem nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm lượng vàng nhét cho gia đình người bị giết. Hơn tháng họ không kiện cáo, quan bèn tha Thất Lang về, Bà mẹ cảm khái nói “Mạng sống của con nay là nhờ Vũ công tử mà có, không phải là già này được thương tiếc nữa. Chỉ cầu mong công tử suốt đời không gặp tai họa, thì đó là cái phúc của con". Thất Lang muốn tới tạ ơn Vũ, bà nói “Con tới thì tới, nhưng gặp công tử đừng có tạ ơn, ơn nhỏ còn tạ được chứ ơn lớn không tạ được đâu”. Thất Lang tới nhà Vũ, Vũ dịu ngọt an ủi. Thất Lang chỉ dạ dạ, người nhà có kẻ lấy làm quái lạ vì hời hợt, nhưng Vũ mừng là thật thà, đối xử càng tử tế hơn. Từ đó thường tới chơi nhà công tử hàng hai ba ngày, tặng cho vật gì cũng nhận, không chối từ mà cũng không tặng gì đáp lễ. Gặp ngày sinh nhật của Vũ, khách khứa và bọn tùy tùng đông đúc, tối ngủ lại chật nhà, Vũ tới ngủ chung với Thất Lang trong một phòng nhỏ, ba người đầy tớ trải rơm nằm dưới giường. Qua canh hai chúng đều ngủ say, hai người vẫn nhỏ to trò chuyện. Thanh bội đao của Thất Lang treo trên vách bỗng tự vọt lên, tuốt ra khỏi vỏ đến mấy tấc, loảng xoảng thành tiếng, lóe sáng như chớp. Vũ giật mình, Thất Lang cũng vùng dậy hỏi ba người nằm dưới giường là những ai, Vũ đáp đều là tôi tớ. Thất Lang nói “Trong bọn này ắt có kẻ ác”. Vũ hỏi sao biết, Thất Lang đáp,Thanh đao này mua ở nước ngoài, giết người chưa từng dính máu, dòng họ ta đeo đã ba đời, chặt đầu người có tới hàng ngàn mà vẫn sắc bén như mới mài, gặp kẻ ác thì khua vang tuốt ra, chắc sắp phải giết người rồi. Xin công tử nên thân người quân tử, xa kẻ tiểu nhân thì may ra tránh khỏi tai họa. Vũ gật đầu, Thất Lang vẫn không vui, trằn trọc mãi trên giường. Vũ nói "Lành dữ có số, sao lại lo lắng quá thế?”. Thất Lang đáp “Ta chẳng sợ gì nguy hiểm, chỉ vì còn có mẹ già thôi". Vũ nói "Làm gì mà tai họa tới mau thế được?", Thất Lang đáp "Không tới thì càng hay". Đại khái ba người đầy tớ ngủ dưới giường, một là Lâm Nhi, Vũ rất vừa ý, một là đứa tiểu đồng khoảng mười hai mười ba tuổi, Vũ thường sai phái này nọ, một là Lý ứng tính rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ cãi lại công tử, Vũ đã nhiều lần nổi giận. Đêm ấy Vũ nghĩ thầm chuyện này chắc có dính líu tới nó nên sáng ra gọi tới nói khéo rồi bảo nó đi. Con trưởng của Vũ là Thân, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm Nhi coi phòng sách, trong phòng có cây cúc đang trổ hoa. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi vắng, phòng sách chắc vắng vẻ bèn một mình tới hái hoa cúc. Lâm Nhi chợt xông ra níu kéo trêu ghẹo, nàng toan bỏ chạy thì Lâm Nhi bế xốc vào phòng. Nàng kêu gào chống cự xám mặt khản tiếng, Thân chạy vào Lâm Nhi mới buông nàng ra bỏ trốn. Vũ về nghe chuyện, nổi giận tìm Lâm Nhi nhưng không rõ đã trốn đi đâu, qua hai ba hôm mới rõ nó tới xin làm tôi tớ trong nhà quan Ngự sử Mỗ. Mỗ làm quan ở kinh, việc nhà đều giao cho người em, Vũ lấy tình thân gởi thư đòi trả Lâm Nhi, em Mỗ cứ để đó không trả. Vũ càng tức, thưa lên quan huyện, quan tuy có trát bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi. Vũ đang tức giận thì gặp lúc Thất Lang tới, Vũ nói "Lời ông nói đã nghiệm rồi”. Nhân kể lại mọi chuyện, Thất Lang nghe xong sắc mặt tái xanh không nói câu nào, bỏ về ngay. Vũ sai bọn gia nhân đắc lực theo dõi Lâm Nhi, tối đến Lâm Nhi ra đường bị bọn kia bắt được trói lại mang về nộp Vũ. Vũ lấy gậy đánh, Lâm Nhi gào thét chửi mắng rất hỗn láo. Chú Vũ tên Hằng vốn là bậc trưởng giả sợ cháu nóng giận gây họa, khuyên đưa Lâm Nhi lên để quan trị tội. Vũ nghe theo, giải Lâm Nhi lên công đường, nhưng nhà Ngự sử gởi thư tới quan huyện bèn thả Lâm Nhi ra, cho muốn theo ai tùy ý. Lâm Nhi càng rông càn, trước chỗ đông người bịa đặt nói vung lên rằng Vũ tư thông với con dâu, Vũ không nhịn được, phẫn uất muốn chết. Hôm sau Vũ tới cổng nhà Ngự sử kêu gào chửi rủa, người chung quanh khuyên giải bảo về. Qua một đêm, chợt gia nhân vào bẩm Lâm Nhi bị người ta giết chết lóc thịt ném xác ngoài đồng trống, Vũ ngạc nhiên mừng rỡ, mới hơi hả dạ. Kế nghe nhà Ngự sử kiện hai chú cháu, Vũ bèn đưa chú tới đối chất, quan huyện không nói năng gì, sai đánh Hằng, Vũ lớn tiếng nói "Đã vu cho tội giết người, lại làm nhục bậc thân sĩ à? Chuyện này cứ hỏi ta, đừng kéo chú ta vào". Quan huyện không thèm nghe, Vũ trợn mắt toan sấn lên, đám nha lại đánh đập ngăn lại. Bọn đánh Hằng đều là chó săn của nhà quan, Hằng lại già yếu, chịu chưa đủ nửa số roi phạt đã tắt hơi chết rồi, quan huyện thấy chú Vũ đã chết cũng không xét xử nữa. Vũ gào thét chửi mắng, quan huyện làm ngơ như không nghe thấy gì đành khiêng xác chú về, căm hờn đau xót không biết làm sao. Nghĩ muốn bàn với Thất Lang, nhưng không thấy Thất Lang tới điếu tang, tự nghĩ mình đối xử với Thất Lang không tệ, sao lại làm ngơ như kẻ qua đường? Cũng ngờ rằng kẻ giết Lâm Nhi là Thất Lang, nhưng lại nghĩ thế sao không bàn với mình? Bèn sai người tới nhà Thất Lang thăm dò nhưng thấy cửa đóng im ỉm, láng giềng đều không rõ đi đâu. Một hôm em Mỗ đang ngồi trong dinh trò chuyện với quan huyện, gặp ngày nộp củi đuốc, chợt một người tiều phu tới trước mặt, ném gánh củi xuống rút đao sắc sấn vào chém. Em Mỗ hoảng sợ giơ tay lên đỡ, lưỡi đao lướt qua cánh tay rơi xuống, lại thêm nhát nữa rơi đầu. Quan huyện cả sợ bỏ chạy, tiều phu còn nhìn quanh thì dám nha lại vội đóng cổng, cầm gậy gộc la lớn xúm lại, tiều phu liền tự đâm cổ chết. Mọi người nhao nhao xúm lại nhận mặt, biết đó là Điền Thất Lang. Quan huyện hoàn hồn mới trở ra xem xét, thấy Thất Lang nằm cứng đờ giữa vũng máu, tay còn cầm đao. Vừa tới gần nhìn kỹ, xác chết chợt vùng dậy chém bay đầu quan huyện rồi lại ngã xuống. Lính huyện tới bắt bà mẹ Thất Lang thì bà đã bỏ trốn từ mấy hôm trước. Vũ nghe Thất Lang chết, chạy tới khóc lóc rất đau thương, có người nói là chính Vũ sai Thất Lang làm thế, Vũ bán hết điền sản lo lót mới được vô sự. Xác Thất Lang bị vứt ra đồng trống hơn ba chục ngày, chim muông thay nhau canh giữ, Vũ thu nhặt về tống táng rất hậu. Con trai Thất Lang tới lưu ngụ ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) đổi họ là Đồng, lớn lên đi lính, nhờ quân công làm tới chức Đồng tri tướng quân, khi trở về Liêu Dương thì Vũ đã hơn tám mươi tuổi, chỉ cho biết mồ cha. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Không khinh suất nhận một đồng tiền, thì đúng là không quên báo ơn một bữa cơm, người mẹ Thất Lang mới hiền làm sao! Còn như Thất Lang chưa phát tiết nỗi hận nhưng chết rồi vẫn trút hờn được, sao mà thiêng như thế. Nếu Kinh Kha[B]*[/B] làm được như vậy, thì ngàn năm đâu còn mối hận không đâm được vua Tần. Nếu có được người như thế thì có thể vá những chỗ lưới trời bị lọt[B]**[/B]. Thế đạo mênh mang, hận là những kẻ như Thất Lang quá ít, thật đau lòng thay![/I] *Kinh Kha: kiếm khách nổi tiếng thời Chiến quốc, nhận lệnh Thái tử Đan nước Yên vào đất Tần ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công. **Vá những chỗ lưới trời bị lọt: lấy ý từ câu "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời giăng giăng, thưa mà không lọt), ý nói những kẻ làm điều ác trước sau cũng bị trừng trị. Vá những chỗ lưới trời bị lọt đây ý nói có những kẻ làm ác không bị trừng trị nên phải có những người như Điền Thất Lang để thi hành đạo trời. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 112 -[/B] Chợ Biển La Sát (La Sát Hải Thị) Mã Tuấn tự Long Môi là con nhà buôn bán, dung mạo đẹp đẽ. Lúc trẻ phóng túng, giỏi ca múa, thường đi theo phường hát, lấy khăn gấm bịt đầu trông xinh xắn như con gái, nhân đó có hiệu là Tuấn Nhân. Năm mười bốn tuổi vào học trường huyện, lập tức có tiếng là học giỏi. Cha già yếu thôi buôn bán về nghỉ ở nhà, bảo sinh rằng "Mấy quyển sách kia đói không thể nấu, rét không thể mặc, con cứ nối nghiệp cha mà đi buôn thôi". Từ đó Mã đi buôn, theo người ta ra buôn ngoài biển, bị bão trôi dạt mấy ngày đêm tới một nơi đô hội. Người ở đó xấu xí lạ lùng, thấy Mã cho là yêu quái, kêu la bỏ chạy. Ban đầu Mã thấy họ xấu xí sợ lắm, đến khi biết người xứ ấy sợ mình lại lấy đó lừa họ, thấy ai đang ăn uống thì chạy xộc tới, người ta sợ chạy thì ăn những thức họ bỏ lại. Lâu ngày vào tới xóm núi, thấy ở đó cũng có kẻ dung mạo giống người nhưng áo quần rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghỉ dưới gốc cây, người làng không dám tới gần, chỉ đứng xa nhìn, hồi lâu thấy Mã không phải là kẻ ăn thịt người mới mon men tới. Mã cười trò chuyện với họ, tuy khác tiếng nhưng cũng hiểu được nửa phần, Mã nói rõ vì sao mình lạc tới đây Người làng mừng rỡ loan báo khắp làng xóm rằng khách không phải là kẻ bắt người ăn thịt, nhưng những kẻ xấu xí chỉ đứng xa nhìn rồi bỏ đi, không dám tới gần. Những kẻ tới gần thì chỗ mũi miệng cũng giống người Trung Quốc, cùng bày rượu mời Mã. Mã hỏi vì sao lại sợ mình, họ đáp “Thường nghe ông bà nói rằng cách đây hai vạn sáu ngàn dặm về phía tây có nước Trung Quốc, dân ở đó mặt mũi kỳ quái nhưng chỉ nghe đồn, nay mới tin là đúng". Hỏi sao nghèo thế, họ đáp "Điều nước bọn ta quý chuộng không phải văn chương mà là tướng mạo. Những người đẹp nhất làm thượng khanh, kế làm chức dân xã, hạng dưới chót cũng được quý nhân thương yêu nên có lương bổng nuôi vợ con. Còn loại bọn ta lúc mới chào đời thì cha mẹ đều cho là điềm xấu vứt đi không nuôi, những nhà không nỡ bỏ là vì nối dõi tông môn thôi. Mã hỏi nước này tên gì, họ đáp “Đây là nước Đại La Sát, kinh đô cách đây ba mươi dặm về phía Bắc". Mã xin dẫn tới xem một phen, rồi đó gà gáy thức dậy cùng đi. Trời sáng tới kinh, thấy kinh thành xây bằng đá đen như mực, lầu gác cao gần trăm thước nhưng ít lợp ngói mà lấy đá đỏ úp phía trên, dùng đá vụn trít các khe hở trông không khác gì đan sa. Gặp lúc bãi chầu, các quan đội mão che lọng trong triều ra, người làng chỉ mà nói "Kia là quan Tướng quốc". Mã nhìn thấy ông ta hai tai quặt ra phía sau, mũi có ba lỗ, lông mày che kín mắt như tấm rèm. Lại có mấy người cưỡi ngựa ra, người kia nói "Kia là quan Đại phu”, lần lượt theo thứ tự nói rõ quan chức của từng người, Mã thấy dung mạo đều ghê rợn kỳ quái, nhưng quan chức càng thấp thì diện mạo càng bớt xấu xí. Lát sau Mã về, người trên đường phố trông thấy đều bỏ cbạy tán loạn, xô nhau ngã dúi dụi như gặp quái vật. Người cùng đi ra sức phân trần, người trong chợ mới dám đứng xa xa mà nhìn. Mã về rồi, người trong nước lớn nhỏ đều biết xóm núi có quái nhân, các nhà quyền quý tranh nhau muốn mở rộng kiến văn bèn sai người trong thôn mời Mã. Nhưng Mã tới nhà nào thì người giữ cổng cũng đóng chặt cửa, đàn ông đàn bà lén nhìn qua khe cửa thì thào bàn tán, cả ngày không có một ai dám ra mặt đón tiếp. Người làng nói "Ở đây có quan Chấp kích lang từng phụng mệnh tiên vương đi sứ ngoại quốc, là người từng trải lịch duyệt, may ra không sợ anh chăng?". Bèn tới nhà quan Chấp kích, quả nhiên ông vui mừng tiếp đón Mã như thượng khách. Mã thấy diện mạo ông như người tám chín mươi tuổi, hai mắt lồi ra, râu ria tua tủa như lông nhím. Ông nói "Ta lúc trẻ từng phụng mệnh vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ chưa tới Trung Hoa. Nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi lại được nhìn thấy nhân vật thượng quốc, không thể không tâu lên cho thiên tử biết. Nhưng ta nương náu nơi rừng núi đã hơn mười năm không đặt chân tới triều đình, sáng mai xin vì ông cố đi một phen”. Rồi sai dọn tiệc đãi khách, rượu được vài tuần gọi phường nữ nhạc mười mấy người ra thay phiên múa hát, nàng nào mặt mũi cũng như quỷ dạ xoa, gấm trắng bịt đầu, áo đỏ quét đất, lời hát không nghe rõ là gì mà khúc điệu cũng kỳ quái, nhưng chủ nhân có vẻ vui thích lắm. Hỏi Trung Quốc chắc cũng có thú vui này chứ, Mã đáp có. Chủ nhân xin được nghe, Mã gõ bàn hát một khúc, chủ nhân vui vẻ nói "Lạ thay, tiếng hát như rồng ngâm phụng gáy, ta chưa từng được nghe bao giờ". Hôm sau ông vào triều tiến cử Mã với quốc vương, nhà vua vui mừng xuống chiếu vời Mã. Nhưng có hai ba vị đại thần nói hình dạng Mã quái gở, e làm kinh hãi thánh thể, vua bèn thôi. Ông Chấp kích lập tức trở về kể cho Mã nghe, tỏ ý rất tiếc. Mã ở đó lâu ngày, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, cầm gươm đứng dậy múa, lấy than bôi mặt đóng vai Trương Phi[B]*[/B]. Chủ nhân cho là đẹp, nói "Xin khách đem bộ mặt Trương Phi tới ra mắt Tướng quốc, chắc Tướng quốc sẽ vui vẻ trọng dụng, khó gì không được chức cao lộc hậu”. Mã nói “Ôi, bôi mặt đùa giỡn thì còn được, chứ làm sao có thể mang bộ mặt này đi cầu chức tước”. Chủ nhân cố ép, Mã bèn theo lời. *Trương Phi: võ tướng và là em kết nghĩa của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, tính tình thô mãng, mặt mũi dữ tợn. Chủ nhân liền mở tiệc mời các quan tới uống rượu, bảo Mã vẽ mặt chờ sẵn. Không bao lâu khách tới, ông gọi Mã ra chào, khách đều ngạc nhiên nói ”Lạ quá, sao bữa trưóc xấu xí mà hôm nay xinh đẹp thế kia?”, rồi cùng nhau uống rượu hết sức vui vẻ. Mã múa may hát khúc [I]Dặc dương[/I], cả tiệc đều phục lăn. Hôm sau các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã, vua mừng rỡ, sai đem cờ tiết đi vời. Mã tới bái kiến, vua hỏi về đạo trị an của Trung Quốc. Mã tâu bày cặn kẽ, vua rất khen ngợi, ban yến ở Ly cung. Rượu ngà ngà, vua hỏi "Nghe nói khanh giỏi múa hát, có thể cho quả nhân nghe được không?". Mã liền đứng dậy múa, cũng bắt chước lấy gấm trắng bịt đầu, hát giọng ồm ồm. Vua thích lắm phong ngay cho Mã chức Hạ Đại phu, thường ban yến riêng, ân sủng khác thường. Lâu ngày các quan lớn nhỏ trong triều biết diện mạo Mã mang là giả, Mã tới đâu cũng thấy người ta rỉ tai nhau lơ là với mình, từ đó bị cô lập, trong lòng sợ sệt không yên, dâng sớ xin về hưu trí nhưng vua không cho. Mã lại xin nghỉ phép, vua cho nghỉ ba tháng, bèn lấy ngựa trạm chở vàng bạc châu báu trở về xóm núi. Người làng quỳ đón bên đường, Mã lấy vàng bạc chia cấp cho những kẻ đối xử tử tế với mình trước đây, tiếng reo mừng cảm ơn như sấm. Dân làng nói "Bọn ta hèn mọn, được Đại phu cho tiền bạc, ngày mai ra chợ biển, sẽ tìm mua vật quý để đền ơn" Mã hỏi chợ biển ở đâu, họ đáp "Chợ họp giữa biển, hội tụ châu báu hàng hóa của Giao nhân[B]*[/B] bốn biển, người ở bốn phương mười hai nước đều tới mua bán, trong đó có nhiều thần nhân dạo chơi, mây ráng rợp trời, ba đào cuồn cuộn. Các bậc quý nhân tự trọng không dám xông pha nguy hiểm đều đưa vàng lụa nhờ bọn ta mua giùm các món quý lạ, nay sắp đến phiên chợ rồi". *Giao nhân bốn biển: Thuật dị ký chép ở Nam Hải có giống người là Giao nhân sống ớ dưới nước như cá, chuyên việc dệt vải, nếu khóc thì nước mắt hóa thành ngọc châu. Mã hỏi tại sao biết sắp đến phiên chợ, họ đáp "Mỗi khi thấy chim đỏ bay liệng qua lại trên biển thì bảy hôm sau có phiên chợ”. Mã hỏi đi mất bao lâu, muốn cùng đi xem nhưng dân làng can ngăn, khuyên nên tự trọng thân phận, Mã đáp "Ta vốn là khách đi biển, sợ gì ba đào". Không bao lâu quả có nhiều người nối nhau tới gởi tiền nhờ mua hàng giùm, Mã liền mang hành lý xuống thuyền. Thuyền có vài mươi người, đáy phẳng lườn cao, có mười tay chèo, lướt đi như tên bay. Qua ba ngày, trông thấy xa xa giữa chốn mây nước mênh mông có đài gác chập chồng, thuyền buôn đông đặc như kiến. Giây lát tới dưới thành, thấy tường thành xây bằng những tảng đá cao như thân người, chòi canh cao chạm mây xanh. Buộc thuyền vào thành, thấy trong chợ bày đầy các món kỳ trân dị bảo lớng lánh chói mắt, nhiều thứ trần gian không có. Chợt một thiếu niên cưỡi ngựa đi tới, người trong chợ đều dạt ra tránh đường, nói đó là Tam Thế tử biển Đông. Thế tử đi tới, nhìn Mã nói “Đây hẳn là người xứ lạ”, liền có kẻ tùy tùng tới hỏi quê quán. Sinh đứng bên đường chắp tay vái chào, tự nói tên họ quê quán. Thế tử mừng nói “Được ông hạ cố tới đây, thật có duyên phận không ít". Rồi đó đưa ngựa cho sinh cưỡi, mời cùng sóng vai đi ra cửa tây thành, vừa tới bờ cù lao thì con ngựa sinh cưỡi hý vang rồi nhảy xuống nước. Sinh cả sợ kêu thất thanh thì thấy nước biển rẽ ra, hai bên dựng đứng như vách tường. Giây lát thấy có cung điện, đồi mồi làm kèo, vảy cá làm ngói, bốn vách là pha lê lóng lánh chói mắt. Sinh xuống ngựa vào trong ra mắt, ngẩng lên thấy Long quân ngồi trên, Thế tử tâu nói “Thần đi chơi chợ, gặp được bậc hiền sĩ Trung Hoa, xin dẫn kiến với đại vương". Sinh bước lên vái lạy xong, Long quân nói "Tiên sinh là bậc văn sĩ, ắt văn chương hay lắm, quả nhân muốn phiền viết hộ bài phú [I]Chợ biển[/I], xin đừng tiếc lời châu ngọc". Sinh dập đầu vâng lệnh, Long quân sai đem cho nghiên pha lê, bút râu rồng, giấy sắc trắng tựa tuyết, mực thơm ngát như lan. Sinh lập tức viết xong bài phú hơn ngàn chữ dâng lên trước điện, Long quân khen ngợi nói "Tài lớn của tiên sinh làm thủy quốc vẻ vang thêm nhiều lắm". Rồi hội họp thủy tộc mở tiệc lớn ở cung Thái Hà, rượu được vài tuần, Long quân nâng chén nhìn khách nói "Quả nhân có đứa con gái yêu chưa lấy chồng, muốn gả cho tiên sinh, tiên sinh có bằng lòng không?”. Sinh rời tiệc bước ra thẹn thùng lạy tạ, chỉ dạ dạ mà thôi. Long quân bèn quay lại dặn dò tả hữu. Không bao lâu có mấy người cung nhân đỡ một nữ lang ra, vòng ngọc khua vang, nhã nhạc trỗi lớn. Sinh lạy xong liếc nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, công chúa lạy xong quay trở vào. Giây lát bãi tiệc, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa sinh vào hậu cung. Công chúa trang điểm lộng lẫy ngồi đợi, trong phòng kê giường san hô khảm bát bảo, rèm kết tú cầu điểm xuyết minh châu to như cái đấu, chăn nệm đều mềm mại thơm tho. Trời vừa rạng sáng thì gái hầu trẻ đẹp đã xúm tới hầu hạ. Sinh trở dậy ra triều đường lạy tạ, Long quân phong sinh làm Phò mã Đô úy, sai đưa bài phú ra các biển. Long quân các biển đều sai sứ tới mừng, tranh nhau mời Phò mã tới uống rượu. Sinh mặc quần áo thêu, cởi rồng xanh, tiền hô hậu ủng ra đi, mấy mươi võ sĩ cưỡi ngựa hộ vệ đều mang cung sơn son, mang giày cựa bạc sáng loáng xúm xít chung quanh, trên ngựa gảy đàn, trong xe gõ phách, trong ba ngày dạo chơi khắp các biển. Từ đó danh tiếng con rể Long quân vang dậy bốn biển. Trong cung có một cây ngọc thân đầy một ôm, gốc trong suốt như pha lê trắng, trong có lõi màu vàng nhạt nhỏ hơn cánh tay, lá như bích ngọc dày bằng đồng tiền mọc chi chít, sinh thường cùng vợ ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo. Hoa nở đầy cây như hoa thiềm bồ, cánh hoa rụng xuống thì kêu leng keng, nhặt lên nhìn thấy như mã não đỏ chạm trổ, long lanh rất đẹp. Lúc lúc có chim lạ tới đậu trên cây hót, lông màu vàng ánh, đuôi dài hơn thân, tiếng hót như ngọc khua ai oán làm người ta xót xa. Sinh cứ nghe chim hót lại chạnh niềm cố hương, nhân nói với công chúa "Ta lạc lõng ba năm, bặt tin cha mẹ, cứ nghĩ tới lại đau lòng, nàng có thể theo ta về không?”. Nàng nói “Tiên phàm hai lối, không thể theo được. Nhưng thiếp cũng không nỡ vì tình vợ chồng mà khiến chàng lỗi đạo hiếu, xin thong thả sẽ tính". Sinh nghe thế sa nước mắt, nàng cũng than "Tình thế này thật không thể tròn cả hai bề". Hôm sau sinh đi chơi về, Long quân hỏi "Nghe nói Đô úy nhớ quê muốn về, sáng mai khởi hành được chăng?". Sinh từ tạ nói “Thần bơ vơ đất khách, đội ơn đại vương quá yêu, trong lòng chỉ mong có dịp báo đáp. Nay xin cho tạm về thăm cha mẹ, rồi sẽ trở lại hầu đại vương". Tối đến công chúa đặt tiệc từ giã, sinh hẹn ngày gặp lại, nàng nói "Tình duyên đôi ta đến đây là hết". Sinh vô cùng đau xót, nàng nói “Cứ về phụng dưỡng mẹ cha để tỏ lòng hiếu thảo của chàng, chứ đời người hết hợp rồi tan, trăm năm cũng như sớm tối thôi, cần gì khóc lóc như lối đàn bà? Từ nay về sau nếu thiếp thủ tiết vì chàng, chàng giữ nghĩa với thiếp, hai nơi vẫn một lòng thì là vợ chồng đấy, cần gì phải sớm tối giữ riệt lấy nhau mới gọi là bách niên giai lão? Nếu phụ lời nguyền thì có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng tốt lành đâu. Còn nếu trên trần gian thiếu người nội trợ, thì cưới tỳ thiếp cũng được thôi. Còn có một chuyện muốn nói, là từ ngày kết bạn, hình như thiếp đã có thai, phiền chàng đặt tên trước cho con”. Sinh nói "Nếu sinh con gái thì đặt tên là Long Cung, nếu sinh con trai thì đặt tên là Phúc Hải". Công chúa xin để lại một vật làm tin, sinh lúc ở nước La Sát được một đôi hoa sen bằng ngọc đỏ bèn lấy đưa cho nàng. Công chúa nói "Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng chèo thuyền ra Nam đảo, thiếp sẽ giao con". Rồi lấy da cá làm túi, bỏ đầy châu ngọc vào đưa cho sinh, nói "Chàng giữ cho kỹ, bấy nhiêu thì ăn tiêu mấy đời cũng không hết". Trời mờ sáng, Long vương bày tiệc tiễn hành, tặng cho rất hậu. Sinh lạy tạ ra đi, công chúa ngồi xe dê trắng đưa lên tới tận bờ. Sinh lên bờ xuống ngựa, nàng dặn dò tự bảo trọng rồi quay xe trở về, phút chốc đã xa tít, nước biển khép lại không thấy gì nữa, sinh bèn về nhà. Từ khi sinh vượt biển, có người cho rằng đã chết, đến khi về tới người nhà đều kinh ngạc. Cũng may là cha mẹ đều còn khỏe mạnh, duy vợ đã đi lấy chồng khác, mới sực hiểu câu nói “giữ nghĩa" của Long nữ là đã biết trước việc ấy. Cha muốn cưới vợ khác cho nhưng sinh không nghe, chỉ mua thiếp. Đúng kỳ hẹn ba năm sinh chèo thuyền ra đảo, thấy hai đứa nhỏ ngồi trên mặt biển vốc nước đùa giỡn, không động cũng không chìm. Sinh tới gần bế, một đứa reo lên nắm tay sinh rồi nhảy vào lòng, đứa kia khóc lớn như giận sinh không dắt mình, sinh cũng bế cả lên. Nhìn kỹ thì là một trai một gái, mặt mũi thanh tú, đội mũ hoa gắn ngọc, tức đôi hoa sen bằng ngọc đỏ. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, sinh mở ra xem thấy có bức thư như sau: [I]“Kính thăm cha mẹ bình an. Thấm thoát ba năm, cách đường bụi đỏ, mênh mông một bể, dứt lối chim xanh. Kết tương tư thành mộng, để nhưng nhớ làm đau, thăm thẳm trời xanh, hận nào sánh được? Nhưng nghĩ Hằng Nga còn lạnh lùng trong cung quế, Chức Nữ phải tê tái cạnh sông Ngân, thì ta là hạng người nào mà mong trăm năm sum họp, thiếp nghĩ tới đó liền gạt nước mắt mà vui cười. Sau khi từ biệt hai tháng thì thiếp sinh được song thai, đến nay đã bi bô đòi bế, hơi biết nói cười, ngó táo giành lê, không có mẹ cũng sống được, nên kính trao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ chàng để lại, thiếp gài lên mũ chúng để làm tin, lúc nào ôm con trên gối thì cũng như có thiếp bên cạnh vậy. Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền, thiếp được an ủi rất nhiều, thề giữ trọn tình với chàng đến chết, vật trong rương cam thiếu dầu thơm, người trong kính lâu không son phấn. Chàng như chinh nhân thì thiếp làm quả phụ, cho dù không gần gũi cũng vẫn có thể nói là duyên cầm sắt kia mà. Chỉ nghĩ tới cha mẹ chồng đã bế cháu nội mà chưa gặp nàng dâu, kể theo tình lý cũng còn chưa trọn vẹn, nên năm sau tống táng mẹ, thiếp sẽ tớì mộ điếu tang cho trọn đạo dâu con. Từ nay về sau thì Long Cung vô sự, còn nhiều lúc gặp nhau, Phước Hải sống lâu, cũng có đường lui tới. Mong chàng khoẻ mạnh, thư chẳng hết lời”.[/I] Sinh đọc đi đọc lại lá thư rơi lệ, hai đứa nhỏ ôm cổ, nói "Về nhà thôi”, sinh càng đau xót, vỗ về hai đứa hỏi "Hai con có biết nhà ở đâu không?", hai đứa khóc lóc líu lo đòi về. Sinh nhìn ra thấy biển cả mênh mông, chân trời xa tít, bóng người mờ mịt, mây nước muôn trùng đành bế con quay thuyền ngậm ngùi trở về. Sinh biết mẹ không còn sống lâu nữa nên lo sẵn mọi việc ma chay, trồng hơn trăm cây tùng quanh khu mộ. Năm sau quả nhiên mẹ sinh mất, khi quan tài sắp hạ huyệt thì có cô gái mặc áo tang tới làm lễ. Mọi người đang ngạc nhiên nhìn chợt gió bão nổi lên, sét nổ ầm ầm, kế mưa như trút nước, trong chớp mắt cô gái biến mất, những tùng bách mới trồng phần nhiều chết khô lúc ấy lại trở nên xanh tốt. Phước Hải hơi lớn thường nhớ nhung mẹ, cứ nhảy xuống biển mấy ngày mới về. Long Cung là con gái không đi được, chỉ biết đóng cửa ngồi khóc. Một hôm đang ban ngày mà trời tối sầm, Long nữ chợt tới bảo con gái nín khóc rồi nói "Con sẽ lấy chồng, khóc lóc làm gì?”, rồi cho con gái một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một trăm viên ngọc minh châu, một đôi vòng vàng khảm bát bảo làm của hồi môn. Sinh nghe nói vợ tới vội chạy vào nắm tay nàng khóc nức nở. Giây lát trời nổi mua gió, sét đánh vang nhà, nàng biến mất. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Vẽ mặt lấy lòng, tình đời thật như ma quỷ, ưa chuyện kỳ quái, thế gian quả chỉ một đường. Thẹn ít thì người thích ít, thẹn nhiều thì người thích nhiều, nhưng nếu công nhiên mang râu tóc phường tuồng dạo chơi ở kinh kỳ thì chắc rất ít người không hoảng sợ bỏ chạy. Chàng ngây Lăng Dương kia định ôm viên ngọc liên thành tới đâu mà khóc vậy[B]*[/B]? Than ôi, chuyện hiển vinh phú quý chỉ nên cầu nơi chốn thẩn lâu hải thị[B]** [/B]mà thôi.[/I] * Chàng ngây... khóc vậy: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu chỉ kẻ có tài mà không ai biết tới. ** Thẩn lâu hải thị: tức hiện tượng những thành quách chợ búa hiện ra trên mặt biển, là ảo ảnh sinh ra do sự khúc xạ của ánh sáng, người xưa cho rằng do khí của loài ngao sò ở biển thở ra kết thành. Đây dùng chỉ ảo ảnh, ảo tưởng. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 113 -[/B] Công Tôn Cửu Nương (Công Tôn Cửu Nương) Cái án Vu Thất[B]*[/B] phát ra, những kẻ liên lụy bị giết nhiều nhất là người hai huyện Thê Hà, Lai Dương (tỉnh Sơn Đông), mỗi ngày có tới mấy trăm người bị giải ra pháp trường xử chém, máu đen ngập đất, xương trắng ngút trời. Quan trên nhân từ cấp cho quan tài, các hiệu bán quan tài trong thành Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) hết sạch cả hàng, vì vậy những người bị xử tử phần lớn được chôn ở cánh đồng phía nam thành. *Cái án Vu Thất: tức vụ khởi binh chống triều đình của Vu Thất ở huyện Thê Hà tỉnh Sơn Đông năm Thuận Trị thứ 18 (1661), bị nhà Thanh đàn áp rất thảm khốc. Năm Giáp dần có thư sinh người huyện Lai Dương tới chơi Tắc Hạ (cửa nam thành Tế Nam), vì có hai ba người bạn bị xử tử nên nhân đó mua giấy tiền vàng bạc ra cúng ở đám mả hoang, rồi tới thuê một gian phòng trong chùa ở trọ. Hôm sau vào thành lo công việc, xế chiều vẫn chưa về. Chợt có một thiếu niên tới phòng trọ thăm, thấy sinh đi vắng liền bỏ mũ leo lên giường, để nguyên giày nằm ngửa, đầy tớ sinh hỏi chỉ nhắm mắt không trả lời. Lúc sinh về trời đã nhá nhem, không nhìn rõ mặt bèn tới cạnh giường hỏi, khách trợn mắt nói “Ta đang chờ chủ ngươi, sao cứ hạch hỏi lôi thôi, chẳng lẽ ta là trộm cướp à?” Sinh cười nói “Chủ nhân đây". Thiếu niên vội vùng dậy, đội mũ sửa áo ngồi xuống, vồn vã hỏi thăm. Sinh nghe tiếng như người quen, vội gọi lấy đèn, thì ra là Chu sinh người cùng huyện, cũng chết trong nạn Vu Thất, cả sợ bỏ chạy. Chu kéo lại nói "Ta với ông là bạn văn chương, sao vô tình với nhau như thế? Ta tuy là ma nhưng vẫn canh cánh nhớ cố nhân, nay có chuyện muốn làm phiền, xin đừng coi là khác loài mà xử tệ". Sinh bèn ngồi xuống xin nghe sai bảo, Chu nói "Cháu gái ông hiện ở một mình không có chồng, ta muốn cưới nàng về lo việc trong nhà, đã mấy lần nhờ mai mối dạm hỏi nhưng nàng cứ lấy cớ là không có lệnh của bậc tôn trưởng để từ chối, xin ông nói giúp cho một câu”. Trước sinh có đứa cháu gái gọi bằng cậu, mồ côi mẹ từ nhỏ nên sinh đem về nuôi, đến năm mười lăm tuổi mới về sống với cha. Nàng bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha bị hành hình, gào khóc tắt hơi mà chết. Sinh nói "Có cha nó đó, sao lại cầu ta?”. Chu đáp “Cha nàng đã được người cháu bốc mộ mang đi, hiện không có ở đây". Sinh hỏi cháu gái mình đang ở với ai, Chu đáp nàng ở chung với bà láng giềng. Sinh ngại người sống không thể làm mai mối cho ma, Chu nói "Nếu ông chịu giúp thì xin phiền dời gót ngọc", rồi đứng dậy nắm tay sinh kéo đi. Sinh từ chối, hỏi đi tới đâu, Chu nói "Cứ đi sẽ biết", sinh bèn miễn cưỡng đi theo. Đi về phía bắc khoảng một dặm thấy có thôn xóm đông đúc, ước chừng mấy trăm nóc nhà. Tới một gian nhà, Chu gõ cửa, lập tức có bà già ra mở cả hai cánh cửa, hỏi Chu tới có việc gì. Chu nói "Làm phiền bà nói với nương tử rằng có ông cậu tới," Bà già quay vào, giây lát trở ra mời sinh vào, nhìn Chu nói "Có hai gian nhà tranh chật chội, phiền công tử ngồi đợi ngoài cổng một lúc", sinh theo bà ta vào, thấy bên trong là nửa mẫu vườn hoang, có hai gian phòng nhỏ, đứa cháu gái khóc lóc đứng đón ở cửa, trong phòng đèn lửa lờ mờ. Cô gái dung mạo vẫn xinh xắn như lúc còn sống, gạt lệ hỏi thăm tất cả các dì các mợ. Sinh đáp "Mọi người khỏe cả, duy có vợ ta đã qua đời rồi". Cô gái lại sụt sùi khóc, nói "Cháu lúc nhỏ được cậu mợ nuôi nấng, chưa có chút gì báo đáp mà không ngờ đã vùi xác nơi ngòi rãnh trước, rất đỗi ân hận. Năm trước ông anh lớn con nhà bác tới mang hài cốt cha cháu về nhưng không nghĩ gì tới cháu, bơ vơ ngoài mấy trăm dặm như én thu lạc đàn, cậu lại không bỏ qua hồn ma vất vưởng, lại đốt cho vàng bạc, cháu đã nhận được rồi". Sinh bèn kể lại lời Chu, cô gái cúi mặt im lặng. Bà già nói "Chu công tử nhờ bà Dương tới dạm hỏi năm ba bận, già nói việc này rất đáng mừng nhưng nương tử không chịu tự lấy chồng kiểu qua quít, nay được ông cậu làm chủ hôn, mới ưng ý như thế đấy". Bà ta vừa dứt lời thì một nữ lang khoảng mười bảy mười tám tuổi, có đứa hầu gái theo sau xăm xăm bước vào, vừa thấy sinh liền quay người toan chạy. Cháu gái sinh nắm vạt áo kéo lại nói "Không cần phải làm thế, đây là cậu ruột ta, không phải người ngoài". Sinh vái chào, nữ lang cũng khép nép đáp lễ. Cháu sinh nói "Đây là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thê Hà. Ông thân sinh là con nhà thế gia cũ nhưng nay cũng sa sút, không thích chơi với ai, sớm tối chỉ qua lại bạn với cháu”. Sinh liếc thấy nàng mỉm cười miệng sáng tựa trăng thu, bẽn lẽn má hồng như ráng sớm, xinh đẹp như tiên bèn nói "Nhìn thì biết ngay là con nhà đại gia, chứ lều tranh vách đất làm sao có người đẹp như vậy được”. Cháu sinh nói "Đã thế còn là nữ học sĩ, thơ phú đều hay, trước nay cháu vẫn được nàng chỉ dạy”. Cửu Nương cười khẽ nói “Con nhãi bỗng dưng lại bêu xấu người, ông cậu cười cho kìa!”. Cháu sinh lại cười nói “Cậu góa vợ chưa tục huyền, thế người như nương tử đây cậu có vừa ý không?”. Cửu Nương cười chạy ra, nói "Con nhãi điên rồi", rồi bỏ đi. Câu nói tuy giống như đùa giỡn nhưng sinh rất thích, cháu sinh biết ý bèn nói "Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp, nếu cậu không chê là ma thì cháu sẽ nói giùm với mẹ nàng". Sinh cả mừng nhưng ngại người với ma khó kết vợ chồng với nhau, cháu sinh nói “Không sao đâu, nàng với cậu vốn có túc duyên với nhau”. Sinh ra về, cháu gái tiễn ra, nói "Năm hôm nữa, lúc trăng thanh người vắng, sẽ sai người tới đón cậu”. Sinh ra ngoài cổng không thấy Chu đâu, nhìn về phía tây thấy nửa vành trăng trong ánh sáng mờ mờ còn nhận ra đường cũ. Đi một quãng thấy phía nam có một ngôi nhà, Chu đang ngồi chờ trên bậc thềm ngoài cổng, đứng lên đón, nói “Ta chờ ông lâu rồi, mời ông quá bộ vào tệ xá”, rồi cầm tay sinh đưa vào, ân cần cảm tạ. Kế đưa ra một cái chén vàng, trăm hạt ngọc châu nói “Chẳng có gì đáng giá, xin nhận mấy thứ này thay sính lễ”. Kế nói “Trong nhà cũng có ít rượu dở, nhưng vật dưới âm ty sợ không mời khách quý được, làm thế nào?". Sinh khiêm tốn từ tạ, Chu tiễn tới nửa đường mới quay về. Sinh về tới nơi trọ, các sư và đầy tớ xúm lại hỏi han, sinh giấu kín chuyện? nói “Ai nói ta gặp ma là nói bậy, mới rồi ta tới nhà người bạn uống rượu thôi". Sau năm hôm quả thấy Chu tới, sửa giày phẩy quạt có vẻ đắc ý vui mừng lắm, vừa vào tới sân đã vái lạy. Giây lát cười nói "Việc vui mừng của ông đã thu xếp xong, đêm nay làm lễ cưới rồi, xin mời lên đường". Sinh nói "Ta vì không thấy có tin tức gì nên còn chưa nộp sính lễ, làm sao đã thu xếp xong?” Chu nói "Ta đã nộp thay cả rồi”. Sinh hết lời cảm tạ rồi cùng đi tới nơi vào thẳng nhà trong, thấy cháu gái ăn mặc đẹp đẽ tươi cười ra đón. Sinh hỏi làm đám cưới lúc nào, Chu đáp đã ba hôm. Sinh bèn đưa số vàng ngọc Chu tặng hôm trước để thêm vào của hồi môn cho cháu gái, cô gái từ chối hai ba lần mới nhận, rồi nói với sinh "Cháu tỏ ý cậu với Công Tôn phu nhân, phu nhân rất vui mừng, chỉ nói rằng đã già cả không có con cháu nào khác nên không muốn Cửu Nương lấy chồng xa, hẹn đêm nay cậu tới gởi rể tại nhà. Nhà ấy không có đàn ông, để chồng cháu qua làm lễ với cậu cũng được". Chu liền dẫn sinh đi tới cuối thôn thấy một ngôi nhà mở cổng sẵn, hai người lên thẳng sảnh đường. Giây lát gia nhân báo phu nhân tới, có hai người hầu gái đỡ bà già lên thềm. Sinh định lạy chào, phu nhân nói "Ta già yếu lọm khọm, không thể đáp lễ, xin bớt bớt nghi thức thôi", rồi sai đám hầu gái bày tiệc mừng. Chu cũng gọi gia nhân đem ra một mâm riêng đặt trước mặt sinh, lại lấy ra một bầu rượu riêng để sinh uống. Các món ăn trong tiệc không khác gì với trần gian, chỉ có chủ nhân tự rót uống chứ không mời mọc khách. Kế tan tiệc, Chu ra về, hầu gái đưa sinh vào. Tới phòng trong thấy Cửu Nương ngồi bên đuốc hoa đợi sẵn, duyên may giải cấu, người ngọc đa tình, gặp gỡ nhau vô cùng vui sướng. Nguyên là trước kia mẹ con Cửu Nương bị giải lên kinh, nhưng tới Tế Nam thì mẹ nàng chết vì không chịu nổi khổ cực, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo. Nay trên gối kể lại chuyện đã qua, nàng thổn thức không sao ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt: [I]I. Tích nhật la thường hóa tác trần, Không tương nghiêp quả hận tiền thân. . Thập niên lô lãnh phong lâm nguyệt, Thủ dạ sơ phùng họa các xuân. II. Bạch dương phong vũ nhiễu cô phần, Thùy tưởng Dương đài cánh tác vân. Hốt khải lũ kim sương lý khán, Huyết tinh do nhiễm cựu la quần.[/I] (I. Xiêm áo ngày xưa hóa bụi trần Luống đem nghiệp chướng hận tiền thân Rừng bàng sương lạnh mười năm nguyệt Lầu gác đêm nay mới sáng xuân II. Mưa gió mồ hoang quạnh bạch dương Đâu ngờ mây lại phủ đài Dương Chợt mở rương xưa nhìn vật cũ Máu vấy xiêm y nghĩ đoạn trường) Trời gần sáng, nàng giục sinh "Chàng nên về sớm, đừng để bọn tôi tớ sợ hãi”. Từ đó ngày đi đêm tới hết sức gắn bó. Một đêm sinh hỏi Cửu Nương làng này tên là gì, nàng đáp “Là làng Lai Hà, trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương và Thê Hà, nhân đặt tên như thế". Sinh nghe thế bùi ngùi than thở, nàng buồn rầu nói "Cô hồn ngàn dặm trôi nổi không nhà, tình cảnh mẹ con thiếp nói tới thật đau xót. Nếu chàng nghĩ tới ơn nghĩa một đêm, xin thu nhặt giùm hài cốt mẹ con thiếp đem về chôn cất cạnh mồ mả ông bà cho được trăm đời có chỗ nương dựa thì chết cũng còn có tiếng thơm". Sinh nhận lời, nàng lại nói “Người và ma khác loài, chàng cũng không nên ở lại chốn này lâu”, rồi đưa tặng sinh cái khăn lụa, gạt lệ giục lên đường. Sinh buồn rầu đi ra, trong lòng đau đớn, bồi hồi không nỡ ra về, nhân qua gõ cửa nhà Chu. Chu chạy chân không ra đón, cháu sinh cũng trỗi dậy, tóc còn chưa chải, hoảng sợ ra hỏi han cậu. Sinh ngậm ngùi hồi lâu mới thuật lại lời Cửu Nương. Cháu gái sinh nói "Mợ mà không nói thì cháu cũng đã tính toán lâu nay, nơi đây không phải là trần gian, quả thật cậu không nên ở lâu”. Rồi đó nhìn sinh rơi lệ, sinh cũng ứa nước mắt từ biệt. Trở về gõ cửa nhà trọ, nằm thao thức đến sáng, trở dậy muốn tìm mộ Cửu Nương thì nhớ ra là quên hỏi dấu tích. Đến tối trở lại nơi đó thì thấy mồ mả ngổn ngang, không tìm ra được đường đi làng xóm đành than thở quay về. Giơ chiếc khăn nàng tặng ra xem, gặp cơn gió thổi qua lập tức mủn ra, nát vụn như tro, bèn thu xếp hành trang về quê. Liền nửa năm không thể yên lòng, lại tới Tế Nam mong có dịp gặp lại nàng. Tới cánh đồng phía nam thành thì trời đã xế chiều, liền buộc ngựa vào gốc cây trước sân đình rồi đi mau vào bãi tha ma. Chỉ thấy mồ mả trùng trùng, cỏ gai mút mắt, ma trơi lập lòe, chồn kêu ảo não, ghê lòng sởn gáy, sợ hãi đau xót trở về chỗ trọ, chán nản không muốn đi chơi đâu cả, dong ngựa về quê. Đi được khoảng một dặm, nhìn thấy xa xa có một nữ lang thơ thẩn giữa đám mồ mả, lấy làm lạ vì dáng vẻ phong thái rất giống Cửu Nương, liền ra roi thúc ngựa tới gần nhìn thì đúng là nàng. Sinh xuống ngựa định hỏi han, nhưng nàng bỏ chạy như không quen biết. Sinh lại lên ngựa đuổi tới gần, nàng tỏ vẻ giận dữ lấy tay áo che mặt, sinh vội gọi tên Cửu Nương thì nàng biến mất. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Khuất Nguyên gieo mình xuống sông, máu đầy gan ruột, Thân Sinh đeo quyết ra trận, lệ đẫm cỏ cây[B]*[/B] các bậc tôi trung con hiếu ngàn xưa có kẻ đến lúc chết vẫn không xét lại vua cha của mình. Có lẽ Công Tôn Cửu Nương tuy đem hài cốt chết theo cha mẹ nhưng vẫn không cởi bỏ được mối oán hờn trong lòng chăng? Ý niệm trong lòng không thể vốc ra cho người khác nhìn rõ, mới oan uổng làm sao![/I] *Khuất Nguyên... cỏ cây: Sử ký chép Khuất Nguyên là trung thần nước Sở thời Chiến quốc, bị các nịnh thần ghen ghét gièm pha khiến Sở Hoài vương không dùng, Nguyên xỏa tóc đi lang thang bên đầm, ngâm thơ để tỏ chí rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Tả truyện chép Thân Sinh là Thái tử của Tấn Hiến công thời Xuân thu, Hiến công yêu vợ lẽ là Ly Cơ, muốn lập con Ly Cơ là Hề Tề nối ngôi nên muốn giết Thân Sinh, sai Thân Sinh đi đánh Cao Lạc thị ở Đông Sơn, đeo cho Thân Sinh cái kim quyết. Đại phu nước Tấn là Hồ Đột than "Đeo cho cái kim quyết thì chúa công có ý muốn phế Thái tử rồi", vì Kim quyết (cái quyết bằng vàng) đồng âm với kim quyết (từ nay vĩnh biệt). Câu này ý nói những kẻ tôi trung con hiếu nhiều khi vẫn bị oan uổng, đây chỉ nhân vật Công Tôn Cửu Nương. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 114 -[/B] Câu Đối Của Hồ (Hồ Liên) Tiêu sinh là em con chú của Tiên sinh Thạch Hồng ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) đọc sách trong vườn, nửa đêm thấy có hai mỹ nhân tới, đều rất xinh đẹp, một nàng khoảng mười bảy mười tám, một nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, vỗ vào bàn nhoẻn miệng cười. Tiêu biết là hồ, nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Nàng lớn nói "Chàng râu cứng như sắt, sao không có khí sắc đàn ông thế?”. Tiêu đáp "Ta bình sinh không dám biết tới người đàn bà thứ hai”. Cô gái cười nói “Thật là cổ hủ quá, chàng còn câu nệ chuyện ấy sao! Quỷ thần thời hạ nguyên[B]*[/B] cũng đều lấy đen làm trắng, huống chi chuyện nhỏ nhặt trên giường”. *Hạ nguyên: đây chỉ thời loạn lạc, phong tục suy đồi. Tiêu lại xì khinh bỉ. Cô gái biết là không lay chuyển được, bèn nói "Chàng là bậc danh sĩ, thiếp có một vế đối xin chàng đối giúp, nếu đối được thì bọn ta tự đi: Mậu tuất đồng thể, phúc trung chỉ khiếm nhất điểm (Mậu tuất cùng thể, trong bụng chỉ thiếu một điểm)". Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu không đối được, cô gái cười nói "Danh sĩ mà như thế à? Ta đối thay cho cũng được: Kỷ tỵ liên tung, túc hạ hà bất song khiêu (Kỷ tỵ liền vết, dưới chân sao chẳng hai khều?)”[B]*[/B] kế cười rộ bỏ đi. Chuyện này là Tư khấu họ Lý[B]** [/B]ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) kể lại. *Mậu tuất... hai khều: đôi câu đối này có chỗ chơi chữ: trong Hán tự, chữ mậu và chữ tuất, chữ kỵ và chữ tỵ có tự hình gần như nhau, ngoài ra hai chữ "túc hạ" còn là một đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít với ý nghĩa trang trọng. Hai cô gái hồ có ý chế nhạo nhân vật Tiêu sinh không có "phong thái đàn ông” vì không chịu thân mật với họ. **Tư khấu họ Lý: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Hoa Hy, tự Ngũ Huyền, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628 -1643), làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, theo đó thì hai chữ "Mậu tuất" và “Kỷ tỵ" của hai cô gái hồ trong truyện này có lẽ không chỉ đơn giản là chơi chữ mà có thể còn dính dáng hay ám chỉ hai sự kiện chính trị nào đó khoảng cuối Minh đầu Thanh. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển VII - 115 -[/B] Phiên Phiên (Phiên Phiên) La Tử Phù người huyện Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), cha mẹ đều mất sớm lúc tám chín tuổi, được chú là Đại Nghiệp nuôi. Nghiệp làm Tả sương Quốc tử giám, giàu mà không có con nên yêu thương La như con ruột. Năm La mười bốn tuổi bị kẻ xấu dụ dỗ đi uống rượu chơi gái, gặp lúc có một kỹ nữ ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới ngụ ở quận, sinh gặp gỡ rất thích, đâm ra say mê. Khi nàng ta trở về Kim Lăng, sinh bỏ nhà trốn theo, ở kỹ viện nửa năm thì tiền bạc hết sạch, đám chị em đều rẻ rúng lạnh nhạt nhưng chưa thẳng thừng dứt tình. Không bao lâu mắc bệnh lở loét, máu mủ thối tha ướt cả giường chiếu, bị đuổi đi, ra chợ xin ăn, người ở chợ cứ nhìn thấy là tránh xa. Sinh sợ chết ở quê người bèn lên đường xin ăn trở về Sơn Tây, mỗi ngày đi được ba bốn mươi dặm, dần dần tới địa giới Phần Châu, nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối không mặt mũi nào về làng nên cứ quanh quẩn ở huyện bên cạnh. Trời tối, sinh tới chùa trên núi định ngủ nhờ, dọc đường gặp một cô gái dung mạo như tiên, tới gần hỏi đi đâu. Sinh kể thật chuyện mình, nàng nói "Ta là kẻ xuất gia, nơi ở có cái hang núi, có thể cho khách nghỉ lại, không sợ gì cọp sói". Sinh mừng đi theo nàng vào tới giữa núi sâu, thấy một tòa động phủ, vào trong thì thấy trước cửa có khe nước chảy, có chiếc cầu đá bắc qua. Đi thêm vài bước tới hai gian thạch thất, ánh sáng chói lọi không cần đèn đuốc. Cô gái bảo sinh cởi bỏ quần áo ăn mày xuống khe mà tắm, nói "Tắm ở đó sẽ khỏi bệnh". Lại kéo màn quét giường chiếu giục sinh đi ngủ, nói “Xin cứ đi nghỉ, ta sẽ may áo quần cho”. Kế lấy lá to như tàu lá chuối cắt may thành áo, sinh nằm nhìn thấy nàng may không bao lâu đã xong, xếp lại đem đặt ở đầu giường mình, nói "Sáng ra lấy mà mặc", rồi lên chiếc giường đối diện nằm ngủ. Sinh sau khi tắm rửa sạch sẽ thấy những chỗ lở loét không đau đớn nữa, lúc tỉnh dậy sờ tới thì đều đã lên da non. Trời sáng sắp dậy còn ngờ lá chuối không mặc được, cầm lên nhìn kỹ thì là gấm xanh bóng loáng. Lát sau dọn cơm, cô gái lấy lá trên nói là bánh, sinh ăn thấy quả là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà và cá đem nấu nướng, ăn vào thấy đều như gà và cá thật. Trong góc nhà có một cái vò đựng rượu ngon, cứ đem ra uống, khi nào đã vơi thì múc nước suối đổ thêm vào. Mấy hôm sau sinh lành hẳn, qua giường cô gái xin ngủ chung, nàng nói "Gã khinh bạc vừa được yên thân đã sinh tà niệm”. Sinh đáp "Ta muốn đền ơn thôi", bèn cùng ngủ chung, vô cùng đằm thắm. Một hôm có thiếu phụ bước vào cười nói "Con ranh Phiên Phiên vui sướng quá, chừng nào có bầu đấy?". Cô gái bước ra đón, cười nói “Nương tử Hoa Thành lâu quá không hạ cố tới chơi, hôm nay gió tây nam nổi mạnh mới bị thổi tới, đã được bế cậu bé chưa?” Hoa Thành đáp "Lại là một con nhãi". Cô gái cười hỏi “Hoa cô mắn con gái thật, thế sao không đưa cháu tới chơi?", Hoa Thành đáp “Vừa khóc rồi ngủ yên đấy". Rồi đó cùng ngồi uống rượu” lại nhìn qua sinh nói "Chàng trẻ này đốt hương thơm đấy”, sinh nhìn thấy nàng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, vẫn còn khá đẹp, trong lòng thích lắm. Lúc gọt trái cây lỡ làm rơi xuống dưới bàn bèn cúi xuống nhặt, lén sờ lên hài nàng, Hoa Thành nhìn qua chỗ khác cười như không hay biết. Sinh đang vui mừng ngây ngất chợt thấy người lạnh ngắt, tự nhìn lại thì quần áo đã biến thành lá cây, vô cùng hoảng sợ, ngồi yên một lúc mới biến thành vải vóc như cũ, mừng thầm là hai nàng không thấy. Lát sau trong lúc thù tạc lại gãi vào bàn tay Hoa Thành, Hoa Thành thản nhiên cười đùa như không biết gì sinh đang hồi hộp lo sợ thì quần áo đã biến thành lá cây, lát sau mới trở lại như cũ, vì thế hổ thẹn ngồi im không dám nghĩ bậy nữa. Hoa Thành cười nói "Lang quân nhỏ nhà cô thật không đứng đắn, nếu cô không phải là nương tử mang hũ giấm thì e là y đã nhảy lên tới mây xanh rồi". Phiên Phiên cũng mỉm cười đáp "Cứ mặc cho quân bạc bẽo chết rét", hai người cùng vỗ tay cười lớn. Hoa Thành đứng lên nói "Con nhãi thức dậy khát sữa e khóc tới đứt ruột mất". Phiên Phiên cũng đứng lên nói "Ham dụ dỗ chồng người ta, không nhớ gì tới cô Thành con cả". Hoa Thành về rồi, sinh sợ Phiên Phiên trách mắng nhưng nàng vẫn đối xử như trước. Không bao lâu hết thu qua đông, sương sa lá rụng, cô gái bèn nhặt lá rơi để làm lương ăn mùa đông, thấy sinh co ro bèn đem túi ra ngoài cửa động vốc mây trắng làm bông may áo rét cho sinh mặc, thấy ấm áp mềm mại mà nhẹ nhàng như bông mới vậy. Qua năm sau nàng sinh một con trai rất xinh xắn thông minh, sinh hàng ngày trong động đùa chơi với con làm vui nhưng vẫn nhớ quê, muốn cô gái cùng về. Nàng nói "Thiếp không theo được, thôi chàng cứ đi một mình”. Nấn ná hai ba năm, đứa con lớn dần, bèn đính ước thông gia với Hoa Thành. Sinh thường lo nghĩ tới chú đã già, cô gái nói “Chú tuy đã già nhưng may là còn mạnh khỏe, không cần lo lắng, cứ chờ con cưới vợ xong thì đi hay ở tùy chàng". Cô gái ở trong động cứ lấy lá làm giấy viết chữ dạy con học, đứa nhỏ học qua là thuộc lòng, nàng nói "Thằng nhỏ này có phúc tướng, thả vào cỏi trần thì chẳng lo gì không làm nên quan lớn” Không bao lâu con sinh được mười bốn tuối, Hoa Thành tự đưa con gái tới gả. Cô gái ăn mặc đẹp đẽ, dung nhan lộng lẫy, vợ chồng sinh cả mừng, cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ trâm hát rằng: [I]Ta có con hiền Không cần quan sang Ta có dâu thảo Không cần bạc vàng Đêm nay tụ họp Cả nhà hân hoan Mời chàng một chén Chúc chàng an khang[/I] Kế Hoa Thành ra về, hai người cùng vợ chồng con trai ở đối diện nhau trong động phủ. Con dâu hiếu thảo, quấn quýt cạnh mẹ chồng, nàng thương yêu như con ruột. Sinh lại bàn chuyện về quê, nàng nói "Chàng có cốt tục, rốt lại không thành tiên được, con ta cũng là người trong mạch phú quý, chàng nên đưa về để khỏi làm lỡ cuộc đời của nó". Con dâu đang nghĩ việc từ giã mẹ thì Hoa Thành đã tới, hai con lưu luyến, nước mắt lưng tròng, hai bà mẹ an ủi, nói "Các con hãy tạm ra đi, sẽ có dịp trở lại mà". Phiên Phiên cắt lá thành hình lừa, bảo ba người cưỡi về. Đại Nghiệp lúc ấy đã già yếu về hưu, cho rằng cháu đã chết, chợt thấy sinh dắt con trai con dâu về, mừng rỡ như bắt được của báu. Vào tới trong nhà, ba cha con nhìn lại áo quần của mình thấy đều biến thành lá chuối, xé ra thì bông lót bên trong nghi ngút bay lên không, bèn thay quần áo khác. Sau sinh nhớ Phiên Phiên, dắt con vào núi thăm thì lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, đành sa lệ quay về. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Phiên Phiên và Hoa Thành là bậc tiên chết chăng? Ăn lá mặc mây, sao mà kỳ quái như vậy? Nhưng đùa cợt trong phòng, lấy chồng sinh con, cũng có gì khác người trần đâu! Ở trong núi mười lăm năm, tuy lạ lùng ở chỗ không có nhân dân thành quách, nhưng trở lại thì mây mờ cửa động không biết tìm đâu, xem cảnh huống ấy thì thật đúng như lúc Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai[B]*[/B] vậy.[/I] * Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai: Thần tiên truyện chép Lưu Thần và Nguyễn Triệu thời Hán vào núi hái thuốc bị lạc đường, gặp hai tiên nữ bèn ở lại đó kết làm vợ chồng với họ nửa năm. Sau hai người nhớ nhà đòi về, tới quê nhà thì đã trải qua mười năm, khi quay lại Thiên Thai tìm hai tiên nữ thì không còn nhận ra lối cũ nữa, đành ngậm ngùi trở về. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 116 -[/B] Dế Chọi (Xúc Chức) Niên hiệu Tuyên Đức thời Minh (1426-1435) trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi đâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lý trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản. Trong huyện có Thành Danh đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lý dịch gian giảo ép làm chức Lý chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kỳ nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết. Vợ nói "Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con", Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử. Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bói toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phòng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bói thắp hương trong đỉnh rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khấn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con dế nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khẩn nên cất vào người đem về đưa Thành xem. Thành giở đi giở lại, nghĩ “Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt dế chăng?”. Nhìn kỹ quang cảnh trong đó thấy rất giống Đại Phật Các ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tai đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm lỳ, đem ống đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khỏe mạnh, Thành đuổi theo vồ được. Nhìn kỹ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang về. Cả nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỳ hạn nộp quan. Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con dế thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì dế đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói “Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi", đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt. Thành nhìn tới lồng dế rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã. Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con dế kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giở tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dế từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kỹ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như dế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo quan không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao. Trong thôn có gã thiếu niên hiếu sự nuôi một con dế, nói là loại "Giải xác thanh" (Xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi ai trả giá cao cũng không chịu bán. Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dở rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cứ cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông lọn chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vềnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con dế ra không cho chọi nữa, con dế hiên ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con dế nhảy ra hơn một thước. Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới móng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, giẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy dế đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt dế bỏ vào lồng. Hôm sau đem dâng Tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho Tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ dế kỳ lạ của các nơi dâng lên như dế bướm, dế bọ ngựa, dế đánh dầu, dế trán tơ xanh thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho Tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến dế, không bao lâu tâu xin thưởng cho Tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan lấy Thành đỗ Tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, nhờ dế chọi mà giàu, áo cừu ngựa tốt vênh vang, lúc làm Lý chính bị trách phạt chắc không nghĩ rằng mình được thế đâu. Trời đền đáp cho kẻ trưởng giả trọng hậu, tới nỗi Tuần phủ Tri huyện cũng được hưởng phúc ấm nhờ con dế. Thường nghe Một người lên trời, gà chó cũng thành tiên, đúng lắm thay! [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 117 - 119 -[/B] Hướng Cảo (Hướng Cảo) Hướng Cảo tự Sơ Đán người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), cùng anh là Thạnh rất thương yêu nhau. Thạnh dan díu với một kỹ nữ tên Ba Tư, từng cắt máu ăn thề nhưng bà chủ đòi tiền chuộc quá nặng nên ước nguyện không thành. Gặp lúc bà ta định hoàn lương, muốn bán Ba Tư trước. Có công tử họ Trang vốn thích Ba Tư, xin mua làm thiếp. Ba Tư nói với bà chủ "Đã mong cùng nhau rời nơi nước lửa là muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường, nếu lại làm tỳ thiếp thì có khác nhau bao nhiêu đâu. Nếu mẹ theo ý con thì Hướng lang cũng được mà". Bà ta bằng lòng, bắn tin cho Thạnh. Lúc ấy Thạnh góa vợ chưa tục huyền, được tin mừng lắm, dốc hết của cải cưới Ba Tư về. Trang nghe tin, giận Thạnh cướp người mình yêu, ngẫu nhiên gặp Thạnh trên đường lớn tiếng chửi mắng. Thạnh cãi lại, Trang quát sai tùy tùng vác gậy đánh chết rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy tới xem thì anh đã chết, vô cùng đau xót căm phẫn liền kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, quan xử Trang chôn cất Thạnh rồi tha. Cảo ôm nỗi phẫn uất không sao phát tiết, nghĩ chỉ còn cách đón đường giết Trang, hàng ngày cứ mang đao sác rình ở bụi rậm trên đường núi. Lâu ngày việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy nên ra khỏi nhà là phòng bị nghiêm ngặt, nghe ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây) có Tiêu Đồng dũng mãnh thiện xạ liền đem nhiều vàng tới đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế nhưng hàng ngày vẫn đón rình. Một hôm Cảo đang nằm rình bỗng mưa rào đổ xuống, cả người ướt đẫm lạnh run cầm cập, kế gió mạnh nổi khắp bốn phía, tiếp theo là mưa đá, toàn thân đau đớn tê dại. Trên núi vốn có miếu thờ Sơn thần, Cảo gượng lần lên, tới nơi thấy vị đạo sĩ quen đang ở đó. Trước đạo sĩ thường vào thôn khuyến hóa, Cảo thường cúng dường nên có biết Cảo. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, đạo sĩ đưa cho chiếc áo vải, nói "Cứ tạm thay đi". Cảo thay xong bỗng thấy người cứng đờ phải ngồi chồm hổm, nhìn lại mình thấy mọc đầy lông lá, đã hóa thành cọp mà đạo sĩ thì không còn ở đó nữa. Cảo vừa sợ vừa giận nhưng lại nghĩ nếu vồ được kẻ thù ăn thịt thì cũng hay. Xuống tới chỗ rình lúc nãy thì thấy xác mình nằm trong bụi rậm, mới sực hiểu ra rằng mình đã chết, nhưng vẫn sợ diều quạ rỉa xác nên cứ quanh quẩn cạnh đó canh giữ. Hôm sau thì gặp Trang đi ngang, cọp vọt ra tát y ngã ngựa, ngoạm đầu nhai nát. Tiêu Đồng quay lại bắn trúng bụng cọp rồi khuỵu chân cũng bị vồ chết. Cảo trong bụi rậm tan hoang chợt như tỉnh mộng, qua một đêm mới đi đứng được, lê bước về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền không về đang ngờ sợ, thấy Cảo mừng rỡ xúm lại hỏi han, nhưng Cảo chỉ nằm rũ rượi không nói được. Giây lát có tin Trang bị cọp vồ, mọi người tranh nhau tới trước giường báo tin mừng. Cảo bèn nói "Con cọp ấy là ta đấy" rồi kể lại chuyện lạ lùng đã qua, từ đó tin đồn rộng ra. Con Trang đau xót về cái chết của cha, nghe chuyện căm tức đầu đơn kiện Cảo, quan thấy chuyện quái đản lại không có bằng cứ nên không xét tới. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Tráng sĩ thề báo ơn ắt không sống mà về, đó là nỗi thương hận của ngàn đời vậy. Giúp cho người ta giết người rồi sống lại, phép thuật nhà tiên sao mà thần diệu vậy. Nhưng trong thiên hạ những chuyện khiến người ta trợn mắt dựng tóc rất nhiều, khiến kẻ căm hận thường hờn không được hóa thành cọp trong chốc lát.[/I] [B]118. Chuyện Lạ Chim Câu[/B] [B](Cáp Dị)[/B] Chim bồ câu rất nhiều giống, đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) có Khôn tinh, đất Lỗ (tỉnh Sơn Đông) có Hạch tú, đất Kiềm (vùng Quý Châu) có Dịch diệp, đất Lương (tỉnh Hà Nam) có Phiên khiêu, đất Việt (tỉnh Chiết Giang) có Chư tiêm, đều là những giống lạ. Lại có các loại Hài đầu, Điểm tử, Đại bạch, Hắc thạch, Phu phụ tước, Hoa cẩu nhãn, bấm đốt ngón tay không thể kể hết, chỉ những kẻ ham thích mới biết rõ. Công tử Trương Công Lượng ở huyện Trâu Bình (tỉnh Sơn Đông) nghiện nuôi chim câu, cứ theo sách Cáp tử kinh mà tìm, muốn có đủ hết các giống. Nuôi nấng chim câu thì như chăm chút trẻ thơ, chim lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, chim nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ nhưng ngủ nhiều quá thì bị tê bại mà chết, Trương mua ở Quảng Lăng một con giá mười lượng vàng, thân rất nhỏ mà hay chạy, nếu thả xuống đất cứ chạy loanh quanh không ngừng, đến chết mới thôi nên phải có người bắt lại, ban đêm thả vào bầy cho các con khác kinh động để khỏi mắc bệnh tê bại, có tên là Dạ du. Những nhà nuôi chim câu ở vùng Tề Lỗ đều không sành bằng, công tử cũng lấy việc nuôi chim để kiêu hãnh. Một đêm công tử đang ngồi trong thư phòng, bỗng một thiếu niên áo trắng gõ cửa bước vào, nhìn ra thì chưa từng quen biết. Công tử hỏi, khách đáp "Kẻ phiêu bạt tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe đồn công tư nuôi rất nhiều chim câu, bình sinh ta cũng ưa thích, xin được cho xem". Trương đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như mây như gấm. Thiếu niên cười nói "Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Ta cũng có đem theo một hai con, công tử có muốn xem không?", Trương mừng bèn đi theo thiếu niên. Đêm trăng mờ mờ, đồng không mông quạnh, Trương đang thầm ngờ sợ thì thiếu niên chỉ ra phía trước nói "Xin cố đi thêm một đoạn, nơi ta ngụ không còn xa đâu”. Đi thêm mấy chặng thì thấy một khu nhà chỉ có hai gian. Thiếu niên dắt tay Trương vào, thấy trong nhà không có chút đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù, chợt có một đôi chim bay ra, vóc dáng như chim thường nhưng lông tuyền màu trắng, bay cao ngang mái hiên, vừa gù vừa chọi, đánh nhau rất hăng. Thiếu niên lấy tay xua, hai con nối cánh bay đi. Thiếu niên lại chúm miệng kêu thành tiếng rất lạ, lại có hai con chim câu ra, con lớn to bằng con le, con nhỏ to bằng nắm tay đỗ xuống thềm múa như chim hạc múa. Con lớn vươn cổ đứng thẳng, xòe cánh làm bình phong, nhún nhảy vừa gù vừa bước như dẫn dắt, con nhỏ vừa kêu vừa bay liệng lên xuống, có lúc đậu lên đầu con lớn, cánh chấp chới như chim én đáp xuống bãi lau, tiếng kêu lắc cắc như tiếng trống bỏi. Con lớn thì vươn cổ đứng yên không động đậy, tiếng kêu càng gấp rút, nghe như tiếng khánh đá, hai giọng hòa vào nhau cũng có tiết tấu. Kế con nhỏ bay vọt lên, con lớn lại lắc lư như chào gọi. Trương tấm tắc khen ngợi không ngớt lời, tự biết mình kiến thức còn hẹp hòi bèn vái lạy thiếu niên xin được chia sẻ điều ưa thích. Thiếu niên không chìu, Trương nài nỉ mãi, thiếu niên bèn quát đuổi hai con chim câu đang múa đi gọi hai con chim câu trắng ra, bắt lấy đưa Trương, nói "Nếu không ghét bỏ, xin biếu đôi này". Trương nhận lấy ngắm nhìn, thấy mắt chim phản chiếu ánh trăng lấp lánh như hổ phách như không có tròng mắt mà con ngươi tròn đen láy như hạt tiêu kéo cánh lên thấy da thịt trong suốt có thể nhìn rõ tạng phủ. Trương càng lấy làm lạ song vẫn chưa thỏa ý, lại nài xin nữa. Thiếu niên nói "Còn có hai giống nữa chưa đưa ra trình, nhưng giờ không dám mời ông xem nữa". Đang phân bua thì người nhà soi đuốc vào tìm chủ, Trương nhìn lại thì thiếu niên biến thành con chim câu trắng to như con gà bay vút lên trời, còn nhà cửa trước mắt cũng biến mất chỉ còn một ngôi mộ nhỏ trên trồng hai cây bách, bèn cùng gia nhân ôm đôi chim than thở kinh sợ ra về. Thử bảo bay, chim vẫn thuần lạ như trước, tuy không phải là loại quý nhất nhưng cũng là giống hiếm có trên đời, vì vậy Trương càng yêu quý. Qua hai năm, chim đẻ thêm được ba trống ba mái, dù là thân thích cầu xin Trương cũng không cho. Có ông Mỗ bạn cha là bậc quý quan, một hôm gặp công tử hỏi nuôi chim câu được nhiều không. Công tử dạ dạ cáo lui, nghĩ rằng ông cũng thích, muốn làm vừa lòng nhưng khó nỗi dứt ruột chia sẻ vật mình yêu thích. Nhưng lại nghĩ bậc trưởng thượng đã hỏi tới thì không thể làm ngơ, không dám đưa chim thường bèn chọn hai con chim câu trắng bỏ vào lồng gởi biếu, tự cho rằng ngàn vàng cũng không sánh được. Ngày khác gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý nhưng không thấy ông nói một câu cảm ơn, không nhịn được bèn hỏi đôi chim hôm trước tốt không, Mỗ đáp cũng béo ngon. Trương phát hoảng hỏi "Đã mổ thịt rồi ạ?", ông đáp "Phải". Trương cả kinh nói "Đó không phải loại chim câu thường, người ta vẫn gọi là giống Thát đát đấy ạ", ông Mỗ nhớ lại rồi nói "Mùi vị cũng không khác chim thường mấy", Trương thương tiếc ôm hận trở về. Đến tối Trương mơ thấy thiếu niên áo trắng đến trách "Ta thấy ông có lòng yêu thương nên mới đem con cháu gởi gắm, sao lại đem ngọc sáng ném cho thằng mù để tới nỗi chúng bị nấu nướng. Nay ta dắt hết lũ con đi đây". Nói xong hóa thành chim câu, các con chim câu trắng Trương nuôi đều bay theo. Sáng ra Trương tới chuồng xem thì quả không còn con nào nữa, vô cùng ân hận bèn đem tất cả chim câu mình nuôi chia tặng bạn bè, vài hôm thì hết sạch. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Vật nào cũng quy tụ về chỗ kẻ ưa thích nó, lời ấy đúng lắm. Như Diệp công tử thích rồng thì có rồng thật vào nhà[B]*[/B], huống hồ kẻ học thích bạn tốt, vua sáng thích tôi hiền ư? Nhưng chỉ có tiền bạc là ưa thích càng nhiều thì quy tụ càng ít, cũng cho thấy quỷ thần giận sự tham lam chứ không giận sự si mê vậy.[/I] *Diệp công tử... vào nhà: Thân tử chép công tử Diệp Cao Chi thích rồng, chạm vẽ hình rồng khắp nhà, rồng trên trời nghe biết bèn tới nhà thò đầu vào xem. [B]119.Giang Thành[/B] [B] (Giang Thành)[/B] Cao sinh ở huyện Lâm Giang (tỉnh Cát Lâm) tên Phồn, lúc trẻ thông minh tuấn tú, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện, các nhà giàu tranh nhau hứa gả con gái cho. Nhưng sinh kén chọn quá quắt, mấy lần cãi lời cha. Cha là Trọng Hồng sáu mươi tuổi chỉ có sinh là con trai nên rất chiều chuộng, không nỡ làm trái ý con. Trước ở thôn Đông có ông Phàn dạy trẻ ở phố, đưa gia đình tới thuê nhà sinh ở. Phàn có con gái tiểu tự là Giang Thành cùng tuổi với sinh, lúc ấy đều khoảng tám chín tuổi, hai đứa nhỏ hàng ngày vẫn chơi đùa với nhau. Sau Phàn dời đi, bốn năm năm không nghe tin tức. Một hôm sinh đi trong hẻm, thấy một nữ lang vô cùng xinh đẹp, có một a hoàn nhỏ sáu bảy tuổi đi theo, không dám nhìn thẳng chỉ đưa mắt liếc. Cô gái nhìn sững như muốn nói gì đó, nhìn kỹ thì té ra là Giang Thành. Hai bên đều bất ngờ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không ai nói gì chỉ ngẩn ra hồi lâu rồi rời đi, đôi lòng bịn rịn. Sinh cố ý thả chiếc khăn đỏ xuống đất rồi đi, a hoàn nhỏ nhặt lên mừng rỡ đưa cô gái, nàng cũng lấy khăn của mình giả nói với nó rằng “Cao Tú tài không phải ai lạ, đừng lấy vật của chàng làm rơi, đuổi theo mà trả lại đi", đứa a hoàn nhỏ quả nhiên đuổi theo đưa cho sinh. Sinh được chiếc khăn cả mừng, về thưa với mẹ xin hỏi cưới Giang Thành. Mẹ nói "Nhà ấy không có được nửa gian phòng, trôi nổi lưu lạc, đâu đáng cưới làm vợ”. Sinh nói "Tự con muốn thế, quyết không hối hận". Mẹ do dự không dám quyết, bàn tính với Trọng Hồng, Hồng nhất quyết nói là không nên, sinh nghe thế buồn rầu bỏ cả cơm cháo. Mẹ lo quá bèn nói với Cao “Họ Phàn tuy nghèo nhưng cũng không phải là hạng vô lại gian trá, để ta qua chơi nhà xem, nếu đứa con gái ấy có thể hỏi cưới được thì có hại gì", Cao bằng lòng. Mẹ sinh bèn mượn cớ đi lễ đền Hắc Đế ghé qua, thấy cô gái mắt sáng răng ngà, xinh đẹp tự nhiên thì ưa thích lắm, tặng cho tiền lụa rồi tỏ thật ý mình, bà Phàn khiêm nhượng từ chối nhưng sau cùng cũng nhận lời. Bà về kể lại mọi chuyện, sinh mới tươi cười. Năm sau chọn ngày tốt cưới Giang Thành về, vợ chồng rất thương yêu nhau. Nhưng nàng hay giận hờn, trở mặt nhìn chồng như người lạ, miệng lưỡi đanh đá thường chao chát bên tai, sinh vì thương yêu nên cũng cố nhịn. Cha mẹ sinh hơi biết chuyện trong lòng bực bội, lén trách mắng con trai, cô gái nghe được ghét lắm, càng chửi mắng chồng nhiều hơn. Sinh dần dần cũng dằn giọng cãi lại, nàng càng giận dữ, vác gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại. Sinh co ro bên ngoài không dám gõ cửa, đành ngồi bó gối ngủ dưới mái hiên. Từ đó cô gái coi chồng như kẻ thù, ban đầu quỳ gối còn có thể phân trần, dần dần quỳ gối hết thiêng, chồng lại càng khổ. Cha mẹ chồng trách mắng vài câu thì nàng cãi lại vô cùng hỗn láo, hai ông bà tức giận bắt sinh bỏ vợ, đuổi nàng về nhà cha mẹ ruột. Phàn vừa thẹn vừa sợ, nhờ người bạn thân của Trọng Hồng tới năn nỉ xin cho Giang Thành trở lại nhưng Trọng Hồng không chịu. Hơn năm sau sinh đi đường gặp cha vợ, ông níu áo kéo mời về nhà, hết lời xin lỗi, bảo con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp. Vợ chồng gặp nhau bất giác mủi lòng, Phàn bèn mua rượu về đãi con rể, mời mọc rất niềm nở. Không bao lâu trời tối, ông cố giữ sinh ngủ lại, quét dọn phòng riêng bảo hai vợ chồng ngủ chung. Sáng ra sinh về nhà, không dám nói thật với cha mẹ, chỉ tìm lời che đậy thêu dệt cho qua chuyện. Từ đó cứ năm ba ngày sinh lại tới ngủ ở nhà cha vợ một đêm mà cha mẹ không biết. Một hôm Phàn tự tới nhà Trọng Hồng, lúc đầu Trọng Hồng không tiếp, Phàn năn nĩ mãi mới ra mặt. Phàn quỳ gối cầu xin, Cao không nhận, nói là để con trai mình quyết định. Phàn nói "Đêm qua con rể ngủ lại nhà ta, không nghe nói gì khác cả". Cao giật mình hỏi ngủ lại từ lúc nào, Phàn bèn kể lại, Cao thẹn thùng tạ lỗi, nói “Quả là ta không biết, chứ nếu nó thương yêu thì lẽ nào ta lại một mình căm ghét". Phàn về rồi, Cao gọi con ra chửi mắng, sinh chỉ cúi đầu không nói gì. Đang lúc ấy thì Phàn đưa con gái tới, Cao nói "Ta không thể chịu lỗi thay con, phiền ông làm chứng cho ta chia nhà ra ở riêng”. Phàn khuyên lơn nhưng Cao không nghe, dọn nhà riêng cho vợ chồng con, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Hơn một tháng thấy rất yên ổn, cha mẹ sinh cũng mừng thầm. Nhưng không bao lâu cô gái lại dần dần rông càn, mặt sinh thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ nhưng còn nhịn để đó không hỏi tới. Một hôm sinh không chịu nổi roi gậy, chạy qua nhà cha mẹ trốn, run rẩy như chim sẻ bị diều ó đuổi. Hai ông bà còn ngạc nhiên hỏi han thì cô gái đã cầm gậy đuổi theo vào, tới ngay cạnh ông túm lấy sinh đánh túi bụi. Ông bà quát tháo ầm ĩ nàng cũng không đếm xỉa gì tới, đánh chồng tới mấy mươi gậy mới hằm hằm bỏ đi. Cao đuổi con ra, nói “Ta muốn tránh ồn ào nên mới ở riêng, còn ngươi thích nó thì trốn đi làm gì?". Sinh bơ vơ chẳng biết đi đâu, Cao sợ hành hạ quá thì con trai tự tử bèn cho ở riêng một chỗ, nấu cơm cho ăn. Lại gọi Phàn tới, bảo qua mà dạy con gái. Phàn vào nhà nói đủ lời để răn dạy, cô gái đã không nghe lại còn trả treo xách mé. Phàn phủi áo bỏ đi, thề dứt tình cha con. Không bao lâu, Phàn phẫn uất sinh bệnh, cùng vợ nối nhau chết. Cô gái căm hận, cũng không về đưa đám, chỉ hàng ngày cách tường chửi mắng, cố ý cho cha mẹ chồng nghe, Cao để ngoài tai không đếm xỉa gì tới. Sinh từ khi ở một mình thấy như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng thấy hiu quạnh, lén cho tiền bà mối họ Lý dẫn gái vào phòng sách, toàn chờ lúc đêm tối ra vào. Lâu ngày cô gái nghe phong thanh bèn tới phòng sách mắng chửi, sinh hết sức phân trần là oan, chỉ trời vạch đất mà thề nàng mới về, từ đó hàng ngày rình rập chờ sinh sơ hở. Một hôm bà Lý từ phòng sách ra thì nàng bắt gặp, gọi ầm lên. Bà ta biến sắc, cô gái càng nghi ngờ nói với bà ta "Nói thật cho ta biết bà làm những gì thì may ra ta còn tha cho, nếu giấu diếm thì ta nhổ không còn một sợi tóc đấy”. Bà Lý run rẫy nói "Nửa tháng nay chỉ có kỹ nữ Vân Nương tới đây hai lần thôi. Mới rồi công tử nói đi chơi núi Ngọc Ty gặp vợ họ Đào, thích đôi bàn chân nàng nhỏ nhắn nên dặn ta gọi tới. Nàng ta tuy lẳng lơ nhưng cũng chưa chắc chịu làm như kỹ nữ, thật không rõ có được không". Cô gái thấy bà ta thành thật nên tha cho, bà ta định đi thì nàng giữ lại. Trời sập tối nàng quát bà ta rằng "Tới phòng sách trước, tắt hết đèn đi, nói họ Đào tới rồi". Bà Lý theo lời, cô gái vào theo ngay, sinh mừng quá, kéo tay giục ngồi, tỏ lòng khát khao gặp gỡ, nàng im lặng không nói gì. Sinh mò trong bóng tối cầm bàn chân nàng nói "Từ khi lên núi được thấy dung mạo người tiên một lần, lòng cứ nhớ nhưng cái này thôi", nàng vẫn im lặng. Sinh nói "Mong ước bấy lâu nay mới toại nguyện, sao lại kề mặt mà không nhìn thấy nhau?", rồi đích thân thắp đèn lên, soi tới thì té ra là Giang Thành! Sinh sợ hãi thất sắc, đánh rơi chiếc đèn xuống đất, quỳ xuống run cầm cập như bị gươm kề cổ vậy. Cô gái nắm tai kéo về, lấy kim đâm nát hai đùi rồi bắt nằm dưới giường, lúc nào tỉnh giấc lại chửi rủa kể tội. Sinh đã sợ nàng như cọp nên cho dù lúc nàng nguôi giận thì lúc chăn gối cũng run rẫy không ra đàn ông, nàng tát vào mặt thét đuổi xuống, càng thêm chán ghét khinh bỉ không coi là con người nữa. Sinh hàng ngày trong chốn hương xông xạ ủ mà như kẻ gian ở tù tôn kính người canh ngục vậy. Cô gái có hai chị đều lấy chồng là Chư sinh. Người chị lớn hiền lành ít nói, vẫn không hòa thuận với nàng. Chị thứ hai lấy họ Cát, là người giảo quyệt khéo nói, ưa trang điểm chải chuốt, dung mạo không bằng Giang Thành nhưng về khoản ghen tuông hung dữ thì cũng xấp xỉ. Hai chị em mà gặp nhau thì không nói sự gì khác, chỉ khoe những việc bắt nạt chồng, lấy làm đắc ý với nhau, vì thế đi lại rất thân thiết. Sinh tới nhà họ hàng nào cô gái cũng giận dữ trách mắng, duy tới nhà Cát thì nàng có biết cũng không ngăn cấm. Một hôm sinh uống rượu ở nhà Cát, lúc đã say Cát nhạo “Sao chú sợ vợ quá thế?”, sinh cười đáp “Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi. Ta sợ vợ ta là sợ sắc đẹp, nhưng có kẻ đẹp thua xa vợ ta mà người ta cũng sợ ngang ta, chẳng phải là quá đáng sao?". Cát thẹn quá không đáp được, đứa tỳ nữ nghe thế vào kể với vợ Cát, vợ Cát nổi giận cầm gậy sấn ra. Sinh thấy dáng vẻ hung dữ vội xỏ giày toan chạy thì gậy đã đập trúng lưng, sinh bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, dập cả trán, máu tuôn như xối. Vợ Cát bỏ vào, sinh mới khập khiễng lê chân về nhà. Vợ giật mình hỏi duyên cớ, lúc đầu sinh nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị đòn nên không dám nói, vợ gặng hỏi mấy lần mới kể rõ đầu đuôi. Cô gái lấy lụa băng trán sinh xong, nổi giận nói "Chồng người ta ai mượn nó đánh giùm kia chứ?”, liền mặc áo ngắn tay, lận chày gỗ, dắt tỳ nữ theo. Tới nhà Cát, chị hai tươi cười ra đón, cô gái chẳng nói chẳng rằng, rút chày đánh chị ngã gục, áo xống rách nát đau đớn, dập môi gãy răng vãi cả cứt đái. Nàng về rồi chị hai vừa thẹn vừa tức sai chồng tới mách với Cao, sinh ra đón, hết lời an ủi. Cát nói riêng với sinh "Ta tới đây vì bất đắc dĩ thôi, con mụ ấy hung dữ bất nhân, may nhờ có tay dì nó trừng phạt cho, chứ hai chúng ta có thù hiềm gì với nhau đâu”. Cô gái nghe thấy lập tức sấn ra chỉ mặt Cát mắng "Quân hèn hạ kia, vợ bị đòn mà lại đi lấy lòng người ngoài à, hạng đàn ông này không đánh cho chết còn để làm gì?", rồi thét đem gậy ra, Cát hoảng sợ tông cửa chạy mất. Sinh từ đó không còn nơi nào lui tới cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã tới chơi, sinh giữ chuyện trong phòng ra đùa nhau, có hơi quá đáng. Gặp lúc cô gái ra nhìn lén khách, núp nghe rõ cả, bèn ngầm bỏ bã đậu vào canh bưng ra cho khách ăn. Giây lát Vương thượng thổ hạ tả dữ dội, thở khò khè như sắp chết. Nàng sai tỳ nữ ra hỏi "Còn dám vô lễ nữa không?", Vương mới hiểu ra là bệnh từ đâu tới bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa nước đậu xanh nấu sẵn ra, Vương uống xong thì hết, từ đó bạn bè răn nhau, không ai dám ăn uống gì ở nhà sinh nữa. Vương có quán rượu, trong quán có rất nhiều hồng mai nở, đặt tiệc mời bạn bè tới chơi, sinh lấy cớ họp văn xã trình với vợ xin cho đi dự. Đến tối lúc đã say, Vương nói "Vừa mới có một danh kỹ ở Nam Xương (tỉnh thành Giang Tây) tới lưu ngụ ở đây, có thể gọi tới cùng uống rượu”. Mọi người cả mừng, duy sinh rời tiệc lấy cớ đã say xin về. Mọi người kéo áo lại nói "Vợ ông tai mắt dẫu dài cũng không sao nghe thấy được chuyện ở đây”, rồi cùng thề giữ kín không nói lộ ra, sinh bèn ngồi xuống. Giây lát nàng kỹ nữ tới, khoảng mười bảy mười tám tuổi, vòng ngọc leng keng, tóc mây búi cao. Hỏi tên họ, nàng xưng là họ Tạ, tiểu tự Phương Lan, nói năng trò chuyện vô cùng phong nhã, cả tiệc ai cũng say mê. Nhưng Phương Lan chỉ để ý tới sinh, mấy lần để lộ ý tứ, mọi người biết được liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Phương Lan lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay sinh chữ "ngủ”, lúc ấy sinh muốn về thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối như tơ vò không thể tả được. Nhưng cứ cúi đầu nghiêng tai thì thầm trò chuyện, càng say càng lả lơi phóng túng quên cả con sư tử ở nhà. Một lát nghe trống canh một, khách trong quán rượu càng thưa, nhìn ra chỉ còn một thiếu niên đẹp trai ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu, mọi người đều thầm khen là cao nhã. Không bao lâu thiếu niên uống xong, đứng dậy đi ra, tiểu đồng ra theo rồi quay lại nói với sinh "Chủ ta chờ ông để xin thưa một câu”. Mọi người đều không biết là ai, duy sinh tái mặt không kịp cáo biệt bạn bè, vội vàng đi ra. Thì ra thiếu niên là Giang Thành còn tiểu đồng là đứa tỳ nữ ở nhà. Sinh theo về nhà, nằm mà chịu đánh, từ đó càng bị cấm cố chặt chẽ, tuyệt hết việc đi lại với bạn bè thân thích. Quan học sứ xuống khảo thí, sinh thi rớt bị giáng xuống hạng thanh[B]*[/B]. Một hôm sinh trò chuyện với đứa tỳ nữ, cô gái nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu chụp lên đầu tỳ nữ đánh đòn rồi trói hai người vào nhau, lấy dao cắt thịt bụng hai người, đắp thịt của người này vào bụng người kia rồi cởi trói bảo tự băng bó lấy, hơn tháng sau miếng thịt vá ấy dính luôn vào bụng. Cô gái thường lấy chân đạp lên bánh, kế ném vào chỗ đất cát bụi bặm rồi quát bảo sinh nhặt lên mà ăn, những việc như thế rất nhiều. *Hạng thanh: thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lần sau lại thi rớt thì bị truất về làm dân. Mẹ sinh vì việc của con ngẫu nhiên ghé qua, thấy con gầy như que củi, trở về khóc lóc muốn chết. Đêm mơ thấy có ông già nói “Không cần phải lo phiền, đó là nhân quả kiếp trước. Giang Thành vốn là con chuột trường sinh của Hòa thượng Tĩnh Nghiệp nuôi, công tử kiếp trước là học trò, một hôm tới chơi chùa vô tình đạp chết nó, nay là quả báo không thể sức người mà làm hồi tâm được đâu. Mỗi sáng cứ thành tâm tụng niệm bài chú của Quan âm một trăm lần, tự nhiên sẽ thấy hiệu nghiệm”. Bà tỉnh dậy kể lại cho Trọng Hồng, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng theo lời chỉ dạy, hơn hai tháng cô gái vẫn ngang ngược như cũ, lại thêm điên cuồng. Cứ nghe ngoài cửa có tiếng chiêng trống lại xõa tóc chạy ra nhìn dáo dác, hàng ngàn người chỉ trỏ bàn tán cũng mặc kệ. Ông bà thấy con dâu như thế rất hổ thẹn nhưng không sao ngăn cản, chỉ chê bai thầm mà thôi. Chợt có nhà sư già tới trước cổng thuyết pháp, người ta đứng xem kín như bức tường. Sư thổi vào mặt trống thành tiếng kêu như trâu rống, cô gái chạy ra thấy người ta đứng dày đặc không có kẽ hở bèn gọi tỳ nữ đem ghế ra để đứng lên xem, thiên hạ đổ dồn mắt vào cũng thản nhiên như không hay biết gì. Lát sau sư giảng kinh xong, xin một bát nước trong cầm tới trước mặt cô gái đọc lớn "Chớ giận hờn, Chớ giận hờn? Kiếp trước chẳng phải giả, Kiếp này chẳng phải chân, ồ! Chuột nên co cổ chạy, Đừng để mèo bắt ăn", đọc xong ngậm nước phun vào mặt nàng, son phấn trôi nhễ nhại nhỏ xuống cả áo quần. Mọi người cả sợ, nghĩ rằng cô gái sẽ bừng bừng nổi giận, nhưng nàng im lặng lau mặt rồi vào, sư cũng bỏ đi. Cô gái vào phòng ngồi ngẩn ra như mất hồn, cả ngày không ăn uống gì, kế dọn giường ngủ sớm. Nửa đêm chợt gọi sinh dậy, sinh ngỡ định sai phái liền bưng chậu tiểu đưa lên. Nàng đẩy chậu ra, ngầm nắm tay sinh kéo vào trong chăn, sinh vâng lệnh mà chân tay run lẩy bẩy như tiếp chiếu chỉ của vua. Cô gái cảm khái nói "Làm cho chàng đến thế này, sao đáng gọi là người?", rồi lấy tay xoa khắp người sinh, cứ tới vết dao gậy thì sụt sùi khóc lóc, lấy móng tay tự cào vào mình, hận không chết ngay tức khắc. Sinh thấy thế bất nhẫn, ra sức an ủi. Cô gái nói “Thiếp nghĩ vị hòa thượng lúc ban ngày ắt là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh mà như thay đổi cho cả gan ruột. Giờ nghĩ lại những việc mình đã làm đều như ở kiếp khác, thiếp lúc trước chắc không phải là người chăng? Có vợ chồng mà không biết âu yếm, có cha mẹ mà không biết phụng thờ, lòng dạ gì thế? Sáng mai phải dọn qua ở chung với cha mẹ để thăm nom hầu hạ”, vợ chồng nói chuyện suốt đêm như xa cách mười năm mới gặp lại. Tảng sáng nàng lập tức trỗi dậy gói ghém quần áo vật dùng, sai tỳ nữ cầm giỏ còn mình mang gói, giục sinh đi trước gọi cửa. Mẹ ra hoảng sợ hỏi han, sinh nói ý vợ. Mẹ đang ngần ngại thì cô gái đã dắt tỳ nữ vào nhà. Mẹ vào theo, nàng quỳ mọp xuống đất khóc lóc thảm thiết, chỉ xin tha tội chết. Mẹ thấy là thật lòng cũng khóc nói "Con ta sao thay đổi mau thế?”. Sinh kể lại tỉ mỉ chuyện trước, mẹ mới hiểu ra rằng giấc mơ trước kia đã ứng nghiệm, mừng rỡ sai tôi tớ dọn dẹp gian nhà cũ cho hai vợ chồng ở. Cô gái từ đó thờ cha mẹ còn hơn cả con trai có hiếu, gặp ai cũng khép nép như cô dâu mới về nhà chồng, ai đùa nhắc lại chuyện cũ thì thẹn đỏ mặt. Lại cần kiệm khéo buôn bán, qua ba năm cha mẹ không phải lo tới sinh kế mà nhà đã nổi tiếng giàu có cự vạn. Năm ấy sinh thi đỗ Cử nhân, cô gái thường nói “Ngày trước thiếp gặp Phương Lan một lần, nay vẫn còn nhớ nàng", sinh vì không bị hành hạ đã lấy làm mãn nguyện, không dám mơ tưởng tới chuyện cưới hầu thiếp nên chỉ dạ dạ mà thôi. Kế sinh vào kinh thi hội mấy tháng mới về, vào phòng thấy Phương Lan đang đánh cờ với Giang Thành, ngạc nhiên hỏi han, thì ra cô gái đem mấy trăm đồng vàng chuộc Phương Lan ra. Lúc ta ở vùng Thiệu Hưng Chiết Giang được quen ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe rất rõ ràng. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nghiệp căn của đời người, một hớp nước một miếng cơm cũng phải chịu báo ứng, nhưng chỉ những kẻ chịu báo ứng chỗ phòng khuê thì như bị ghẻ trong xương, sự thảm độc càng ghê gớm. Thường thấy trong thiên hạ những người vợ hiền chỉ có một phần còn vợ dữ tới chín phần, cũng đủ biết những người tu dưỡng nết tốt trên đời rất ít. Quan Thế âm pháp lực vô biên, sao không đem nước cam lồ trong bình ngọc rưới khắp thế gian? [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 120 -[/B] Bát Đại Vương (Bát Đại Vương) Phùng sinh ở huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), người thuật chuyện không nhớ tên, chỉ biết là dòng dõi thế gia đã sa sút. Có người chài lưới thiếu nợ sinh không trả nổi nên cứ bắt được ba ba là đem lại biếu. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, sinh thấy hình dạng lạ lùng liền thả ra sông. Sau sinh đi thăm con rể trở về, tới bờ sông Hằng Hà thì trời vừa tối thấy một người say có hai ba tiểu đồng theo sau ngất ngưởng đi tới, thấy sinh hỏi là ai? Sinh đáp bừa là kẻ đi đường, người say giận nói "Chẳng lẽ không có tên họ à, sao chỉ nói là kẻ đi đường?," Sinh sốt ruột lo về nên không buồn đáp, cứ đi thẳng qua mặt, người say càng giận, nắm lấy áo sinh không cho đi, mùi rượu nồng nặc. Sinh rất khó chịu mà cố sức gỡ ra không được bèn hỏi ngươi tên gì, người say lè nhè đáp “Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô, ngươi định làm gì?". Sinh nói "Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi cả thiên hạ. May là Lệnh doãn cũ đấy, chứ nếu là Lệnh doãn mới chắc giết ráo người đi đường rồi phải không?". Người say giận lắm toan giở võ, sinh lớn tiếng nói "Phùng mỗ ta không phải là kẻ để yên cho người đánh đâu!". Người say nghe thế đổi giận làm vui, lảo đảo lạy rạp xuống nói "Té ra là ân chủ, mới rồi đường đột xin đừng bắt tội", rồi đứng dậy bảo kẻ tùy tùng về trước dọn rượu. Sinh từ chối không được, người ấy nắm tay dắt đi vài dặm thì tới một xóm nhỏ, vào trong thấy nhà của đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân. Người say hơi tỉnh rượu rồi, sinh mới hỏi thăm tên họ là gì, y đáp "Nói ra xin chớ kinh hãi, ta là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới rồi tiên Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu, không ngờ say quá nên xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn". Sinh biết là yêu quái, nhưng thấy tình ý niềm nở nên cũng không sợ sệt gì. Giây lát rượu thịt dọn lên ê hề, giục sinh ngồi vào tiệc. Bát vương uống rất hào, dốc cạn liên tiếp mấy chén, sinh sợ y say lại sinh sự bèn giả say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý cười nói "ông sợ ta bừa bãi sao? Xin chớ lo, phàm kẻ say vô hạnh rồi qua đêm nói rằng không nhớ đã làm những gì là nói dối thôi, bọn bợm rượu mất nết thì mười người có chín người như vậy đấy. Nhưng ta tuy không dám sánh với người tốt song nghĩ lại cũng chưa từng dám làm điều vô lại với bậc trưởng giả sao ông cự tuyệt thẳng thừng như thế?". Sinh bèn ngồi xuống nghiêm sắc mặt can rằng "Ông đã tự biết, sao không sửa đổi?", Bát vương đáp “Lão phu lúc làm Lệnh doãn thì say sưa còn quá ngày nay, từ khi làm Thượng đế tức giận bị đày ra cù lao, cố bỏ thói cũ đã hơn mười năm. Nay sắp chết mà còn lận đận không được vẫy vùng nên thói cũ lại nảy sinh mà không tự biết. Nay xin kính cẩn vâng lời ông". Đang chuyện trò thì nghe tiếng chuông chùa xa xa, Bát vương đứng lên cầm tay sinh nói "Gặp gỡ không được lâu, nay có một vật xin tặng để đền ơn lớn. Vật này không nên mang lâu, khi nào được như nguyện rồi xin trả lại cho ta”. Rồi khạc ra một hình người bé tí dài hơn một tấc, lấy móng tay rạch vào cánh tay sinh, đau như xé ruột, đặt mau hình người lên rồi đè xuống, buông tay ra thì đã chìm hẳn vào trong thịt, vết móng tay vẫn còn mà chỗ đó gồ lên như mụn nhọt. Sinh sợ hãi hỏi, Bát vương cười không đáp, chỉ nói “ông nên đi thôi” rồi tiễn sinh ra. Bát vương trở vào, sinh ngoảnh nhìn thì xóm làng nhà cửa đều biến mất, chỉ có một con ba ba lớn đang ì ạch bò xuống nước rồi mất tăm. Sinh kinh ngạc sửng ra hồi lâu rồi tự nghĩ vật mình vừa được cho ắt là ngọc ba ba. Từ đó mắt rất sáng, phàm nhưng nơi có châu báu, dù ở tận suối vàng cũng nhìn thấy được, ngay cả những món chưa từng biết cũng ứng khẩu gọi được đích danh, đào được mấy trăm lượng vàng chôn ngay dưói phòng ngủ, việc chi tiêu cũng đầy đủ. Sau có người bán ngôi nhà cũ, sinh nhìn thấy tiền bạc chôn giấu vô số bèn bỏ nhiểu tiền ra mua, từ đó giàu có ngang bậc vương hầu, các loại ngọc quý hiếm trên đời trong nhà đều có đủ. Lại được một tấm gương, phía sau chạm hình chim phượng đeo vòng, mây nước và Tương Phi, chiếu sáng cả dặm, có thể thấy rõ từng sợi tóc. Người đẹp mà soi vào thì hình bóng sẽ in lại, lau chùi cũng không mất được, nếu thay quần áo khác soi lại hoặc người đẹp khác soi lên thì ảnh trước mới mất đi. Lúc bấy giờ công chúa thứ ba trong Túc vương phủ[B]*[/B] nhan sắc tuyệt đẹp, sinh rất hâm mộ. Gặp lúc công chúa đi chơi núi Không Động, sinh tới rình trong núi chờ khi công chúa trên kiệu bước xuống lấy gương ra soi rồi mang về đặt lên bàn, nhìn kỹ thấy mỹ nhân ở trong cầm khăn mỉm cười, miệng như muốn nói, mắt như muốn liếc, mừng rỡ cất kỹ. Hơn một năm, vì vợ nói lộ ra, Túc vương nghe được cả giận, bắt giam sinh, đòi lấy tấm gương, định xử án chém. Sinh hối lộ rất nhiều cho một quý nhân trong vương phủ, nhờ tâu với Túc vương rằng "Nếu vương tha thì bao nhiêu của báu trên đời muốn có cũng dễ, nếu không thì ta cũng tới chết là cùng, mà vương thì chẳng có lợi gì cả". Vương muốn tịch biên gia sản và đày sinh đi xa, công chúa thứ ba nói "Y đã nhìn con, dù giết mười lần cũng không đủ gột rửa tiếng nhơ, chi bằng gả con cho y”. Vương không nghe. *Túc vương phủ: tức Túc Trang vương, hoàng tử thứ mười bốn của Minh Thái tổ nhà Minh, được phong là Hán vương, năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) đổi phong là Túc vương, năm sau ra lập phủ đệ ở Cam Túc. Công chúa đóng cửa không chịu ăn, Vương phi lo quá, cố nói với vưong, vương bèn thả sinh ra, lại sai vị quý nhân kia ngỏ ý với sinh. Sinh từ chối nói "Người vợ từ lúc hàn vi không thể bỏ, ta thà chết chứ không dám vâng lệnh, nếu vương cho chuộc tội thì dốc hết gia sản ra cũng được", vương giận lại bắt giam sinh. Vương phi triệu vợ sinh vào cung, định hạ độc giết chết. Vợ sinh vào, đem chiếc giá gương san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ mềm mỏng dễ thương, Vương phi hài lòng, sai bái kiến công chúa thứ ba, công chúa cũng thích, bèn đính ước làm chị em rồi sai người vào ngục dụ sinh. Sinh nhắn vợ rằng "Con gái nhà vương hầu thì không thể lấy việc cưới trước cưới sau mà bàn lớn bé được đâu”. Vợ không nghe cứ về sắp đặt sính lễ đưa tới vương phủ, người đội lễ vật có tới hàng ngàn, nhiều loại châu quý ngọc lạ nhà vương cũng không biết tên. Vương cả mừng gả công chúa cho sinh, công chúa vu quy cũng đem tấm gương về. Một đêm sinh ngủ một mình, mơ thấy Bát vương nghênh ngang vào, nói "Vật ta đã tặng nay nên trả lại. Mang nó lâu quá thì hao tổn tinh huyết, chiết giảm tuổi thọ". Sinh vâng dạ, giữ lại uống rượu, Bát vương từ chối, nói "Từ lúc nghe ông khuyên, ta bỏ dứt rượu được ba năm rồi". Rồi há miệng cắn vào cánh tay, sinh đau quá tỉnh dậy, nhìn lại thì chỗ mụn nhọt đã tiêu tan, từ đó lại như người thường. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Tỉnh thì còn là người mà say rồi thì như con ba ba, những kẻ uống rượu đều như thế cả. Nhưng con ba ba kia tuy hàng ngày quen thói uống rượu bét nhè song không dám quên ơn, không dám vô lễ với bậc trưởng giả, con ba ba chẳng cũng hơn xa con người sao? Lắm kẻ tỉnh thì không bằng người, say thì không bằng con ba ba, người xưa soi gương bói rùa[B]*[/B], chắc là lấy con rùa để soi mình chăng? Vì vậy làm bài phú Người uống rượu. Phú rằng:[/I] *Bói rùa: một cách bói toán thời cổ, lấy cái mai rùa hơ nóng lên rồi theo những vết nứt nẻ mà đoán hay dở xấu tốt. [I]Có một vật nọ, rong chơi ngon miệng, uống vào thì ngất ngất ngây ngây, tên gọi là rượu. Chủng loại rất nhiều, công lao đã lắm. Dùng để tiếp đãi tân khách, dùng để thù phụng cha anh. Dùng để vui sướng lúc một mình, dùng để hợp cẩn thành đôi lứa. Có khi làm lưỡi câu để câu hứng thơ, có khi làm cái chổi để quét phiền muộn. Cho nên chàng rượu tới thường thì người người kết bạn, làng say vào sâu thì kẻ kẻ quên sầu. Đài hèm bã đã cao, công chĩnh vò bất hủ. Một thạch ấy sức quan Tề[B]*[/B], năm đấu làm tên Học sĩ[B]**[/B]. Thế nên rượu nhờ người mà nổi danh, nhưng có khi người vì rượu mà mang tiếng.[/I] *Một thạch... quan Tề: Sử ký, Thuần Vu Khôn truyên chép vua Tề hỏi Khôn uống được bao nhiêu rượu, Khôn đáp cũng tùy nơi tùy lúc, như uống trong các yến tiệc ở triều đình, phải giữ nghi lễ thì một đấu cũng say, còn uống trong những hội lễ chốn đân gian, thả sức vui chơi thì một thạch mới say. ** Năm đấu... Học sĩ: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ thời Đường "Tiêu trục ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên" (Uống cạn năm đấu mới hứng chí, Đàm luận hùng hồn kinh bốn bên). [I]Kìa như Mạnh Gia rơi mũ[B]*[/B], Lưu Linh vác mai[B]**[/B], Sơn Giản say mèm[B]***[/B], Đào Tiềm lược rượu [B](4*)[/B]. Say ngủ bên người đẹp, không ý tư thông [B](5*)[/B], nhúng đầu vào nghiên sâu, có thần giúp sức [B](6*)[/B]. Kẻ sĩ cưỡi thuyền rơi nằm đáy giếng [B](7*)[/B], ông quan bộ Lại bị trói bên lò [B](8*)[/B]. Thậm chí nếu rụt đầu [B](9*)[/B] mà nghịch ngợm, cũng còn chưa hại vật mà bất nhân. Tới như khi mưa chiều tuyết tối, hoa sớm trăng khuya, gió lặng bụi yên, bạn xưa gái mới, dép giày trộn lẫn, lan xạ thơm lùng, đùa trăng cợt gió, hát nhỏ chuốc vơi, điệu nhạc hay vừa mới trỗi, trên chiếu lặng tựa không người, trò chuyện giống hoa bay sáng miệng, ngâm thơ như lắc ngọc khua vàng, dẫu quá chén mà say khướt, cũng hồn trong mà ngủ yên. Nếu thế thì dù mỗi ngày mỗi uống cũng chẳng hại gì tới danh giáo. Còn như trong dục nhập nhằng, hát ca bậy bạ, đứng ngồi nhớn nhác, cười nói ồn ào, chuyện bé xé ra to, cãi vã nhiếc mắng, rướn cổ nhăn mày như uấng thuốc độc, ngã bầu rơi chén tắt nến đổ đèn, rượu ngon lênh láng, say sưa bét nhè thì phép uống rượu vốn cấm, tình ý như thế chẳng thà đừng uống.[/I] * Mạnh Gia rơi mũ: Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép Mạnh Gia làm Tham quân dưới trướng Hoàn ôn, nhân ngày Trùng dương Ôn hội hết các tướng lên núi Long Sơn ăn tiệc, mọi người đều mặc giáp trụ, Ôn say quá gặp cơn gió mạnh thổi rơi cả mũ mà không hay. ** Lưu Linh vác mai: Tấn thư, Lưu Linh truyện chép Lưu Linh là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính hay rượu, đi đâu cũng mang bầu rượu theo, sai đầy tớ vác mai đi cùng, nói "Nếu ta chết thì chôn luôn tại chỗ". *** Sơn Giản say mèm: Thế thuyết chép Sơn Giản trấn thủ Sơn Dương, ở đó có họ Tập có khu vườn đẹp, Giản thường tới uống rượu say khướt. 4* Đào Tiềm lược rượu: Tống thư chép Đào Tiềm thời Tấn ở nhà lấy khăn đội đầu lược rượu, lọc xong lại đội lên đầu. Có người láng giềng mời qua uống rượu, trong rượu có cặn, Tiềm lập tức cởi khăn ra lược. 5* Say ngủ... tư thông: Thế thuyết chép Nguyễn Tịch là một trong Trúc lâm thất hiền, cạnh nhà có người đàn bà rất đẹp mở quán bán rượu, Tịch và Vương An Phong thường cùng nàng uống rượu, có lần say nằm ngủ khoèo bên cạnh nàng. Người chồng lúc đầu rất ngờ vục, sau rình theo dõi thì thấy Tịch không có ý gì khác. 6* Nhúng đầu... giúp sức: Đường quốc sử bổ chép Trương Húc giỏi viết chữ thảo, tính hay rượu, lúc uống say rồi cứ lấy đầu làm bút nhúng vào mực viết chữ, biến hóa nhiều lối như có thần giúp. 7* Kẻ sĩ... đáy giếng: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ "Tri Chương kỵ mã tự hành thuyền, Nhãn hoa lạc tỉnh thủy đê miên" (Tri Chương cưỡi ngựa ngỡ đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng ngủ say mèm). 8* ông quan... bên lò: Tấn thư, Tất Trác truyện chép Tất Trác làm Lại bộ lang, cạnh nhà có quán trọ nấu rượu, Trác nhân đêm lẻn qua uống trộm bị người nấu rượu bắt trói, sáng ra mới biết là Tất Lại bộ. 9* Rụt đầu: nguyên văn là "hiệu miết tù” (học lối miết ẩm, tù ẩm). Hoa mạn lục chép bọn Tô Vũ Khâm, Thạch Diên Niên có nhiều lối uống rượu như "quỷ ẩm", "liễu ẩm", “tù ẩm", "miết ẩm", "hạc ẩm", trong đó "tù ẩm" là để lộ đỉnh đầu đứng chung quanh bàn uống rượu như bọn tù, “miết ẩm” là lấy chăn lông quấn quanh người chỉ thò đầu ra, uống xong một chén thì rụt đầu vào trong như con ba ba. [I]Lại có kẻ rượu vừa nuốt xuống hơi đã bốc lên, lảm nhảm lè nhè chê chủ keo kiệt, đã không biết cư xử lại không biết uống rượu, thứ khách rượu không có phẩm giá ấy thì càng quá lắm. Thậm chí có kẻ vừa uống xong thì thôi khách sáo, trợn mày bứt tóc cởi áo xắn quần, bọt nhểu nhảo đầy mồm miệng, ói òng ọc ra áo quần, cổ rướn dài như chó sủa, tóc rối bời như ăn xin. Bụng chạm đất mà miệng kêu trời, tựa bày gan ruột, tay thì khua còn chân lại rũ, như bị phanh thây. Tài thơ phú không lời để tả, bút đan thanh khôn họa thành tranh. Cha mẹ già bị chửi, vợ con yếu khó dìu, có khi chú bác bạn bè bỗng dưng mà chịu nhục. Dùng lời nhỏ nhẹ can ngăn thì càng thêm u mê dữ tợn, đó gọi là uống rượu mất nết, không thể cứu giúp gì được. Duy có một cách để giã rượu, cách ấy ra sao? Chỉ cần lấy một cái gậy, trói tay chân lại như lối mổ heo, cứ đập vào mông đừng đánh lên dầu, hơn trăm gậy rồi chắc chắn tỉnh lại. [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 121 -[/B] Cô Gái Họ Thiệu (Thiệu Nữ) Sài Đình Tân người huyện Thái Bình (tỉnh An Huy), vợ là Kim thị không sinh nở được mà tính cả ghen. Sài bỏ ra trăm lượng vàng cưới thiếp, Kim đối xử rất tàn ác, qua năm sau thì người thiếp chết. Sài uất ức ngủ riêng, mấy tháng liền không đặt chân tới phòng vợ. Gặp ngày sinh nhật Sài, Kim tới ăn nói ngọt ngào làm lễ chúc thọ chồng, Sài không nỡ cự tuyệt, mới lại chuyện trò cười nói với nhau. Kim bày tiệc trong phòng mời Sài, Sài lấy cớ đã say để từ chối, Kim ăn mặc lộng lẫy tự tới phòng Sài nói "Thiếp đã hết lòng trọn ngày, dù chàng có say cũng xin uống một chén rồi về". Sài bèn vào phòng, uống rượu trò chuyện. Vợ thong thả nói "Trước kia lỡ tay giết đứa tỳ nữ, nay đã hối hận, sao chàng còn để bụng oán hờn, há không còn tình vợ chồng sao? Từ nay về sau xin cứ nạp thiếp, thiếp không dám trách móc gì chàng đâu”. Sài càng mừng, từ đó lại yêu thương vợ như trước. Kim bèn gọi người mai mối tới bảo tìm người thiếp đẹp cho chồng, nhưng ngầm dặn cứ lờ đi, còn mình làm ra vẻ thúc giục. Cứ thế hơn năm, Sài không chờ được bèn dặn khắp bạn bè thân thích nhờ tìm hỏi cho mình, được con gái nuôi của nhà họ Lâm, Kim vừa gặp đã tỏ vẻ mừng rỡ, cho cùng ăn cùng ngủ với mình, áo quần nữ trang cho tùy ý lựa dùng. Nhưng Lâm vốn sinh ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc) nên không thạo việc nữ công, ngay việc khâu giày cũng phải có người giúp cho. Kim nói “Nhà ta vốn cần kiệm không phải như nhà vương hầu mà mua người như mua tranh để ngắm", rồi từ đó đưa cho gấm lụa bảo Lâm học cắt may như thầy dạy trò rất nghiêm khắc, ban đầu còn mắng chửi, kế thì đánh đập. Sài trong lòng xót xa không biết làm sao, mà Kim lại càng tỏ vẻ yêu thương Lâm hơn trước, cứ đích thân trang điểm cho Lâm. Nhưng gót giày hơi có vết nhăn là lấy thước sắt đánh vào hai chân, tóc hơi rối là tát vào hai má, Lâm không chịu nổi treo cổ tự tử. Sài đau lòng xốn mắt, trách móc nặng lời. Vợ giận nói "Ta thay anh dạy dỗ nàng ta thì có tội gì?”, lúc ấy Sài mới biết sự gian xảo của vợ, dứt hẳn tình vợ chồng, ngầm xây dựng phòng ốc nơi khác, nghĩ cách cưới vợ đẹp ở riêng. Thấm thoát hơn nửa năm vẫn chưa tìm được người nào, ngẫu nhiên tới dự đám tang ở nhà bạn thấy một nữ lang khoảng mười sáu tuổi đẹp lộng lẫy, cứ sững người ra ngắm nhìn. Cô gái thấy Sài có vẻ sỗ sàng bèn liếc nhìn rồi quay người đi, Sài hỏi người ta thì biết nàng họ Thiệu. Thiệu là học trò nghèo, chỉ có một con gái là nàng. Lúc nhỏ rất thông minh, cha dạy cho học, sách vở chỉ đọc qua là hiểu, lại rất thích đọc sách thuốc và sách xem tướng. Cha rất thương yêu, có ai tới hỏi cưới thì cho nàng quyết định, nhưng kẻ giàu người nghèo gì cũng không giỏi bằng nên mười bảy tuổi vẫn chưa lấy chồng. Sài hỏi rõ được ngọn ngành biết rõ là không thể hỏi cưới được nhưng vẫn bồi hồi, lại nghĩ rằng nhà Thiệu nghèo có thể lấy lợi làm động tâm, bèn bàn với vài bà mối nhưng không ai dám nhận lời, chán nản không còn hy vọng gì nữa. Chợt có bà mối họ Giả tới bán ngọc cho Sài, Sài tỏ ý mình rồi cho nhiều tiền, nói "Chỉ cần bà nói rõ lòng thành của ta, còn họ có ưng hay không thì ta không trách gì bà. Còn nếu vạn nhất mà việc xong, thì ngàn vàng ta cũng không tiếc đâu”. Bà Giả thấy được nhiều tiền bèn vâng dạ, tìm tới chuyện dằng dai với vợ Thiệu, nhìn thấy cô gái ngạc nhiên ca ngợi, nói "Cô nương đẹp quá, nếu tới viện Chiêu Dương thì chị em nhà họ Triệu[B]*[/B] có đáng gì!”. Lại hỏi đã hứa gả cho ai rồi, vợ Thiệu đáp chưa, bà ta nói "Sợ gì không có bậc vương hầu làm rể quý”. *Chị em nhà họ Triệu: tức chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hơp Đức trong nội cung của Đường Minh Hoàng, được cho ở tại viện Chiêu Dương, rất được vua sủng ái. Vợ Thiệu than “Nhà vương hầu thì không dám mong, chỉ cần tìm được thằng bé nào có học là tốt lắm rồi. Của nợ nhà ta cứ chọn lựa này nọ, cả chục người không ưng được một đám, thật chẳng hiểu nó muốn những gì”. Bà Giả nói "Phu nhân không cần phải trách móc, người đẹp như thế chẳng biết kiếp trước tu được bao nhiêu phúc đức mới cưới được kia. Hôm rồi có một chuyện rất buồn cười, là lang quân họ Sài nói thấy nhan sắc cô nương đây ở đám tang nhà ông Mỗ, xin dâng ngàn vàng làm sính lễ, há chẳng phải cú đói mơ sánh đôi với thiên nga sao? Già này đã mắng cho mới chịu thôi đấy!”. Vợ Thiệu cười khẽ chưa đáp, bà ta lại nói "Chỉ vì là nhà Tú tài khó mà sánh đôi, chứ nếu nhà khác thì như thế mất ít mà được nhiều, cũng nên ưng thuận". Vợ Thiệu lại cười không đáp, bà ta bèn vỗ tay nói "Phải rồi, đứng về phía già này mà nói thì làm thế là sai đấy. Hàng ngày già được phu nhân yêu thương, lên thềm còn được ngồi xếp bằng cho uống rượu, chứ phu nhân mà được ngàn vàng, ra xe ngựa vào lầu gác thì già tới cổng sẽ bị người gác cổng thét đuổi ra ngay”. Vợ Thiệu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đứng lên vào nói chuyện với chồng, lát sau ra gọi con gái vào, lát sau ba người cùng ra. Vợ Thiệu cười nói "Con nhãi nhà ta lạ thật, bao nhiêu đám tốt đều không chịu mà nghe nói làm vợ lẽ lại ưng, chỉ sợ các bậc văn nhân cười cho". Bà Giả nói "Nếu về đó mà sinh được một tiểu ca, thì đại phu nhân mà bằng được à?". Nói xong kể lại việc Sài định ở riêng, Thiệu càng mừng rỡ bèn gọi con gái nói “Cứ thử trò chuyện với bà Giả đi, việc này là do ngươi tự chủ trương, về sau đừng có hối hận mà oán trách cha mẹ". Cô gái ngượng nghịu nói "Cha mẹ được phụng dưỡng chu đáo thì công nuôi con không uổng. Huống hồ con tự thấy mình phận bạc, nếu làm vợ chính ắt sẽ bị giảm thọ, nếu phải chịu đựng đau khổ chút ít thì cũng chưa chắc không phải là điều may. Hôm trước nhìn thấy chàng Sài, cũng có phúc tướng, con cháu ắt có kẻ làm nên". Bà mối cả mừng chạy về báo, Sài mừng rỡ vì được quá cả lòng mong ước, lập tức đem ngàn vàng sắp xe kiệu tới cưới cô gái về ở nhà riêng, tôi tớ không ai dám nói một câu. Cô gái nói với Sài rằng “Chàng tính toán có thể nói cũng như chim én làm tổ trên rèm[B]*[/B], không phải là kế lâu dài. Ngậm miệng lựa lời để giữ kín chuyện liệu có được không? Chẳng bằng xin cứ về nhà cho sớm, nói thật ra ngay thì tai họa còn nhỏ". Sài lo là nàng sẽ bị đày đọa, nàng nói "Trên đời không có ai là kẻ không thể cảm hóa được, ta cứ giữ cẩn thận không có lỗi lầm thì bà ta làm sao giận được?". Sài nói "Không phải thế đâu, bà ta hung dữ phi thường, không thể nói tình lý mà cảm hóa được". Cô gái nói “Thân làm lẽ mọn thì bị hành hạ là phải thôi, nếu không chịu thế mà cứ tạm bợ cầu sống thì liệu có được lâu dài không?", Sài cho là đúng nhưng rốt lại vẫn chần chừ không dám quyết. *Chim én làm tổ trên rèm: lấy ý lời của Quý Trát thời Xuân thu nói với Tôn Văn Tử, chỉ người tính việc trước mắt mà không nghĩ tới tai họa về lâu dài. Một hôm Sài đi vắng, cô gái mặc áo tỳ nữ ra cửa, sai đầy tớ dắt con ngựa cái già, có một bà già ôm cái bọc đi theo tới nhà Vợ Sài ở, lạy rạp xuống đất tự bày tỏ. Vợ Sài lúc đầu nổi giận, kế nghĩ nàng tự tới thú có thể tha thứ lại thấy ăn mặc khiêm nhường hèn mọn, cũng hơi nguôi giận bèn sai tỳ nữ lấy áo gấm ra cho mặc, nói "Ta bị gả bạc bẽo kia rêu rao nói xấu với mọi người nên chịu tiếng oan, chứ thật ra đều là vì chồng bất nghĩa, bọn tỳ thiếp mất nết có chỗ mà khích bác, ngươi nghĩ xem kẻ giấu vợ cưới thiếp còn có phải là người không kia chứ? Cô gái nói "Xem kỹ thì ông ấy cũng hơi hối hận, chỉ là không chịu xuống nước đó thôi. Lời ngạn nói Người trên không chịu thua người dưới, còn theo lễ mà bàn thì vợ đối với chồng cũng như con đối với cha, vợ thứ đối với vợ cả vậy. Nếu phu nhân chịu tỏ ra vui vẻ niềm nở thì có thể làm cho ông ấy hết hờn oán". Vợ Sài nói "Tự y không chịu tới đây chứ ta có làm gì đâu?", rồi lập tức sai các tỳ nữ dọn phòng cho cô gái ở, tuy không vui lắm nhưng cũng yên lòng. Sài nghe tin cô gái tới nhà vô cùng hoảng sợ, thầm nghĩ dê vào miệng cọp thì không sao sống nổi, vội chạy mau về thì thấy trong nhà yên ắng, mới được yên lòng. Cô gái ra cửa đón tiếp khuyên lơn, bảo tới phòng vợ cả Sài tỏ vẻ khó khăn, nàng khóc ròng, Sài mới xiêu lòng. Cô gái tới gặp vợ Sài nói "Lang quân vừa về, tự thấy xấu hổ không còn mặt mũi nào tới gặp phu nhân, xin phu nhân tới cười cho một tiếng". Vợ Sài không chịu, nàng nói "Thiếp đã nói rồi, chồng đối với vợ cũng như vợ cả đối với vợ lẽ. Mạnh Quang nâng án ngang mày[B]*[/B] mà người ta không cho là nịnh nọt là vì sao? Vì phận sự phải như thế thôi". Vợ Sài theo lời, tới gặp Sài nói "Chàng như con thỏ khôn có ba hang, về đây làm gì?". Sài lừ mắt không đáp, cô gái lấy khuỷu tay huých ra hiệu bèn nhăn nhó cười gượng, vợ mới hơi dịu nét mặt. *Mạnh Quang nâng án ngang mày: Hậu Hán thư, Lương Hồng truyện chép Lương Hồng lúc hàn vi có vợ là nàng Mạnh Quang, xấu người nhưng hiền đức, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn đều kính cẩn nâng mâm ngang mày (cử án tề mi). Lúc vợ Sài ra, cô gái đẩy Sài theo, lại dặn nhà bếp làm tiệc, từ đó vợ chồng Sài lại hòa thuận. Cô gái sáng dậy sớm mặc áo xanh tới hầu vợ Sài, bưng nước rửa mặt, hầu hạ khăn lược, giữ lễ tỳ nữ rất cung kính. Sài vào phòng thì hết sức từ chối, hơn mười đêm mới cho ngủ lại một đêm, vợ Sài cũng thấy là hiền nhưng lại xấu hổ vì thấy mình không bằng nàng, thẹn thùng chuyển thành ghen ghét. Song cô gái hầu hạ cẩn thận, không có lỗi lầm nào để bới móc, có khi chửi mắng qua loa thì nàng chỉ vâng dạ. Một đêm vợ chồng có chuyện xích mích, sáng ra vợ Sài dậy trang điểm vẫn còn tức tối, cô gái bưng gương lỡ tay làm rơi vỡ, vợ Sài nắm tóc nàng trừng mắt nhìn. Cô gái sợ quá quỳ xuống cầu khẩn, vợ Sài không nguôi giận đánh luôn vài mươi roi. Sài không nhịn được nổi giận xông vào kéo nàng ra, vợ lu loa giằng lại. Sài nổi giận giật roi đánh vợ rách cả mặt mới bỏ đi, từ đó vợ chồng coi nhau như kẻ thù. Sài cấm cô gái không được tới phòng vợ nữa nhưng nàng không nghe, sáng ra dậy sớm quỳ ngoài màn, vợ Sài đập giường chửi lớn, quát đuổi đi không cho tới trước mặt, đêm ngày mắm môi nghiến lợi, rắp tâm chờ lúc nào Sài đi vắng sẽ trút hờn lên cô gái. Sài biết ý, gác hết mọi việc, đóng cửa ở nhà không giao du với ai cả. Vợ Sài không biết làm sao, chỉ hàng ngày đánh đập bọn tỳ nữ cho hả giận, tôi tớ trong nhà đều không chịu nổi. Từ khi vợ chồng xích mích, cô gái cũng không dám cho Sài ngủ ở phòng mình, Sài từ đó ngủ một mình, vợ nghe biết cũng hơi yên lòng. Có đứa tỳ nữ đã lớn vốn giảo hoạt, ngẫu nhiên trò chuyện với Sài, vợ Sài nghi là tư thông với nhau càng hành hạ tàn nhẫn, đứa tỳ nữ cứ lúc vắng người là căm tức chửi rủa. Một đêm tới phiên nó hầu, cô gái dặn Sài không được cho tới, nói "Mặt cô ta có sát cơ, khó lường lắm". Sài theo lời gọi tới, giả vờ hỏi tại sao làm điều ám muội, đứa tỳ nữ khiếp sợ không đáp được, Sài càng nghi ngờ, xét trong áo tìm được con dao sắc, nó không còn lời gì để nói, chỉ quỳ mọp xin tha chết. Sài muốn đánh đòn, cô gái ngăn lại nói “Sợ phu nhân nghe được thì nó không còn cách sống. Tội nó vẫn không thể tha được, nhưng chẳng bằng bán đi cho nó được toàn mạng mà ta còn được tiền". Sài cho là phải, gặp lúc có người mua tỳ thiếp vội bán đi. Vợ Sài thấy không bàn bạc gì với mình bèn trách móc chồng, lại giận lây qua cô gái, chửi mắng càng tàn tệ. Sài uất ức nhìn cô gái nói "Đây là nàng tự chuốc lấy đấy nhé, nếu trước cứ để cho nó giết đi thì làm gì có ngày hôm nay?", nói xong bỏ đi. Vợ Sài thấy lời nói kỳ quái, hỏi khắp cả người hầu nhưng không ai biết, hỏi cô gái nàng cũng không đáp, càng bực dọc phiền muộn, túm áo nàng chửi té tát. Sài bèn quay vào nói rõ mọi chuyện, vợ Sài cả kinh dịu giọng với cô gái, nhưng lại chuyển sang giận là không nói sớm với mình. Sài cho rằng vợ đã hết hiềm khích nên không đề phòng nữa, một hôm có việc đi xa, vợ Sài bèn gọi cô gái tới hỏi tội, nói "Kẻ giết chủ thì tội không tha được, người tha nó là có ý gì?". Cô gái bị bất ngờ không đáp được, vợ Sài bèn nung đỏ sắt đốt mặt nàng, muốn phá hủy dung mạo. Đám tớ gái đều bất bình thay, nghe tiếng rú người nhà đều khóc lớn xin chịu chết thay nàng. Vợ Sài thấy thế không đốt mặt nữa, lấy kim đâm vào sườn nàng hơn hai mươi nhát mới đuổi đi. Sài về thấy mặt cô gái bị thương, cả giận muốn qua tìm vợ, nàng nắm áo kéo lại nói “Thiếp đã biết rõ nơi đây là chậu lửa nhưng vẫn dám vào, chứ lúc lấy chàng há cho rằng nhà chàng là thiên đường hay sao? Cũng vì biết mình bạc phận nên làm thế để tạo vật bớt ghét thôi. Yên lòng nhịn nhục chịu khổ thì còn có lúc hết tai họa, chứ nếu lại làm trời tức giận, thì hố thẳm đã lấp bằng lại sụt xuống mất". Rồi lấy thuốc băng bó những chỗ bị đất, vài ngày thì hơi đỡ, chợt cầm gương soi mừng rỡ nói rằng "Hôm nay thì chàng nên chúc mừng thiếp, bà ta nung đất làm đứt hết nhữug nét mờ tối trên mặt thiếp rồi". Rồi lại sớm tới phụng sự vợ cả, chu đáo kính cẩn như xưa. Kim trước thấy mọi người khóc lóc tự biết mình đã bị cô lập, hơi có ý hối hận, thường gọi cô gái vào cùng làm việc với mình, lời nói sắc mặt đều ôn hòa. Hơn một tháng chợt bị bệnh không ăn uống gì được, Sài giận là không chết ngay, không ngó ngàng gì tới. Vài hôm sau thì bụng Kim trướng lên to như cái trống, ngày đêm nằm rũ liệt, cô gái hầu hạ quên ăn quên ngủ, Kim càng biết ơn nàng. Cô gái nói là mình biết y lý, nhưng Kim nghĩ trước đây mình hành hạ nàng quá tàn ác, ngờ là nàng sẽ báo thù nên cố từ tạ. Kim là người coi sóc việc nhà có khuôn phép, tôi tớ đều răm rắp nghe lệnh nhưng từ khi mắc bệnh thì họ cũng bỏ bê việc nhà. Sài phải đích thân đứng ra coi sóc bận bịu vất vả nhưng gạo muối trong nhà không ăn mà tự hết, vì vậy lại có ý muốn vợ khỏe lại để coi sóc việc nhà, bèn đón thầy về cắt thuốc. Kim nói rằng mình uất ức sinh bệnh nên thầy nào bắt mạch cũng bảo là bị bệnh uất kết, đổi qua mấy thầy mà vẫn không khỏi, ngày càng nguy hơn. Lại định sắc thuốc, cô gái bước lên nói "Loại thuốc này thì hàng trăm thang cũng vô ích, chỉ làm bệnh nặng thêm thôi”. Kim không tin, cô gái ngầm lấy thuốc riêng tráo vào, Kim uống xong, trong khoảng một bữa ăn thì đi ngoài ba lần liên tiếp, bệnh như khỏi hẳn, càng cười là cô gái nói sai, rên rỉ gọi nàng hỏi "Vị nữ Hoa Đà[B]*[/B] kia, nay thì thế nào?”. Cô gái cùng đám tỳ nữ đều cười, Kim hỏi nguyên do, mọi người mới nói thật. Kim khóc nói "Thiếp hàng ngày vẫn đội ơn như trời che đất chở của nàng mà không biết, từ nay về sau xin tuy vẫn giữ việc gia chính nhưng được nghe nàng dạy bảo". *Nữ Hoa Đà: Hoa Đà là một vị danh y nổi tiếng ở Trung Hoa thời Tam quốc, đây Kim thị có ý chế nhạo nên gọi cô gái họ Thiệu như vậy. Không bao lâu Kim khỏi bệnh, Sài mở tiệc ăn mừng, cô gái cầm bầu rượu đứng hầu bên cạnh, Kim đứng dậy giật lấy cái bầu rượu, kéo nàng ngồi sánh vai với mình. Đến khuya cô gái kiếm cớ rời bàn tiệc, Kim sai hai tỳ nữ kéo trở lại ép cùng mình ngủ chung với Sài, từ đó công việc thì cùng bàn ăn uống thì cùng mâm, chị em ruột cũng không hòa thuận bằng. Không bao lâu cô gái sinh được một trai, sinh nở xong hay bị bệnh, Kim đích thân chăm sóc như hầu hạ mẹ ruột. Về sau Kim bị mắc chứng đau tim, mỗi khi lên con đau thì mặt mày tái xanh chỉ muốn chết. Cô gái vội mua mấy mũi châm bạc, khi Kim lên cơn đau như tắt thở, nàng lại theo huyệt châm cứu thì lập tức hết đau. Hơn mười ngày lại phát đau, nàng lại châm, qua sáu bảy ngày lại phát, tuy cô gái châm cứu là theo tay hết đau ngay, không tới nỗi khổ sở lắm, nhưng Kim trong lòng cứ nơm nớp sợ bệnh lại phát. Một đêm nằm mơ thấy tới một nơi như đền miếu, tượng thần trong điện đều cử động, thần hỏi "Ngươi là Kim thị phải không? Ngươi tội ác đa đoan, lẽ ra đã tận số rồi, nhưng nghĩ ngươi biết sửa lỗi nên chỉ giáng tai họa để trừng phạt qua loa thôi. Trước đây giết hai nàng tỳ thiếp thì đó là chuyện quả báo, chứ Thiệu thị có tội gì mà tàn nhẫn đến thế? Việc ngươi đánh đập nàng thì đã có Sài sinh trừng trị rồi, cũng coi như đã xong, nhưng ngươi còn thiếu một vết nung trên mặt và hai mươi ba nhát kim đâm vào sườn nàng, nay bị đau ba lần chỉ mới đủ số lẻ, lại muốn hết hẳn bệnh kia à? Ngày mai sẽ phát lại đấy?". Kim tỉnh dậy sợ lắm, còn nghĩ rằng mộng mị không thật nhưng ăn sáng xong quả lên cơn đau, còn hơn cả mấy lần trước. Cô gái tới châm cho, cơn đau theo tay giảm ngay nhưng nàng ngờ vực nói "Bệnh này chỉ cần chữa như thế thôi mà sao gốc bệnh không dứt? Xin đốt ngãi để cứu, không thế không được, có điều sợ phu nhân không chịu nổi”. Kim nhớ lại giấc mộng nên không tỏ vẻ khó khăn, nhưng lúc cắn răng rên rỉ chịu đau lại nghĩ thầm còn mười chín vết đâm, không biết sẽ biến chứng ra những gì, chẳng bằng cứ chịu khổ luôn một hôm cho hết nợ, về sau khỏi phải chịu khổ nữa nên lúc mồi ngãi cứu cháy tàn rồi lại xin cô gái làm tiếp. Cô gái cười nói "Chuyện châm cứu chẳng lẽ cứ muốn là làm à?", Kim nói "Không cần chọn huyệt đạo gì cả, xin cứ phiền đốt cho mười chín chỗ", cô gái cười bò ra không chịu. Kim càng nài nỉ, trở dậy quỳ trên giường lạy lục, cô gái vẫn không nỡ. Kim bèn kể thật lại giấc mộng, nàng bèn châm chước theo kinh mạch đốt cho đủ số. Từ đó Kim bình phục, quả nhiên không bị lên cơn đau nữa, tự mình ăn năn, đối xử với người dưới cũng không bao giờ có vẻ giận dữ. Đứa con trai tên là Tuấn, tuấn tú thông minh hơn người, cô gái nói "Đứa nhỏ này có tướng làm quan đây". Năm tám tuổi Tuấn nổi tiếng là thần đồng, năm mười lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ được trao chức Hàn lâm. Năm ấy vợ chồng Sài đều bốn mươi tuổi, Thiệu phu nhân khoảng ba mươi hai, ba mươi ba tuổi mà thôi, đem xe kiệu về thăm cha mẹ, làng xóm đều cho là vinh dự. ông Thiệu sau khi gả con gái thì nhà giàu hẳn lên nhưng các bậc văn nhân đều không muốn giao du, đến lúc ấy mới có người lui tới. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Đàn bà ghen tuông xảo quyệt, đó là tính trời, nhưng kẻ làm tỳ thiếp lại khoe đẹp khoe khôn thì chỉ làm vợ cả thêm tức giận. Than ôi, tai họa là từ đó mà tới đấy. Như Thiệu thị chịu yên thân giữ phận, bị đày đọa bao nhiêu cũng không đổi lòng thì làm sao vợ lớn hành hạ thêm được! Còn như Kim thị được cứu sống mấy lần mới ăn năn tỉnh ngộ, than ôi, con người lại như thế ư! Bắt trả đủ số chứ không trị tội thêm, cũng là sự tha thứ của tạo hóa, mà lấy thuật làm nhân để trị kẻ ác, chẳng cũng điên đảo sao! Ta vẫn thấy kẻ ngu phu ngu phụ cứ đau ốm thì lập tức gọi đám đồng cốt ngu si tới mặc cho cắt da đốt thịt mà không dám rên rỉ, rất lấy làm lạ, đến nay mới hiểu.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 122 -[/B] Vị Tiên Họ Củng (Củng Tiên) Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với quý nhân rằng “Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là mãn nguyện rồi". Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như sắp đứt, sợ quá la ầm lên. Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt vương. Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa “Thần là người quê mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc thọ vương gia”. Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui, nói "Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?". Vương lại nghĩ những người ca hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa. Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói “Tính quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn”, nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi "Nghe nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?” đạo sĩ đáp "Có lẽ người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô thôi”. Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn. Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất. Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói "Ngủ một giấc say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết". Sau vương sai đám con gái nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau. Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca không, đạo sĩ đáp “Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng nào”. Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một câu, đạo sĩ cười nói “Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được”. Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói "Nếu nhất định muốn gặp nàng một lần thì mời vào đây". Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà liền khom người chui vào, lạí thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách, bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã. Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói "Duyên lạ hôm nay không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú” rồi viết lên vách rằng "Hầu môn tự hải cửu vô tung” (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo “Thùy thúc Tiêu lang kim hựu phùng” (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết tiếp “Tụ lý càn khôn chân cá đại” (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết “Ly nhân tư phụ tận bao dung” (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú. Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói với Thượng rằng "Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng, cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt". Thượng theo lời, trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng lên, nói "Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng. Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ. Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải chỉ ở việc tư tình thôi đâu”. Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói "Ta đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra”. Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo nói "Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi". Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ dặn "Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai", Thượng vâng lời. Lâu sau đạo sĩ chợt nói với Thượng "Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!”. Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp vương nói "Thần muốn chết". Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp “Đó là số trời đã định, còn nói gì được". Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước. Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là sinh được ngay. Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp "Thần không dám nói", gạn hỏi mấy lần Thượng mới dập đầu thưa “Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ”. Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa "Thiếp vào phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi” Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai. Vương cười nói "Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với nhau rồi?". Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn. Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh, "Tú” là ẩn nghĩa chữ "Tụ” (tay áo) vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói “Đây là sách trong phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ". Người ấy về nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương, không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì chó gà ở cõi Đào Nguyên[B]*[/B] đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó, thì chết già ở nơi ấy cũng được.[/I] *Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình hạnh phúc ở nhân gian. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top