Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164989" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 89 - 90 -</strong></p><p>Lý Bá Ngôn</p><p>(Lý Bá Ngôn)</p><p></p><p>Lý sinh tên Bá Ngôn là người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), cương trực can đảm. Chợt mắc bệnh nặng, người nhà mang thuốc cho uống, Lý từ chối nói “Bệnh của ta không phải là thuốc mà chữa được, vì chức Diêm Vương ở âm ty bị khuyết nên ta tạm đi giữ ấn triện thôi, đừng chôn ta, cứ để đấy đợi". Hôm ấy Lý chết, thấy có nghi trượng tới đón đi, vào tới một nơi cung điện có người dâng áo mão Diêm Vương, nha lại đứng hầu rất nghiêm chỉnh.</p><p></p><p>Trên bàn sổ sách chất đống, có một vụ án là tên Mỗ ở Giang Nam, tính lại bình sinh đã cưỡng gian tám mươi hai người đàn bà con gái nhà lương thiện, tra xét thì thấy đủ cả chứng cứ không sai, xét theo luật âm ty phải chịu tội bào lạc. Dưới thềm có cây cột đồng cao tám chín thước, chu vi khoảng một ôm, ruột rỗng để đổ than lửa vào đó, trong ngoài đều đỏ rực. Đám quỷ tốt lấy chùy sắt có gai nhọn đánh giải Mỗ tới, bắt giang tay khuỳnh chân trèo lên. Lên tới đỉnh cột thì khói bốc mù mịt, đoàng một tiếng nổ tung ra như ống pháo tre, thân thể rơi xuống, nằm co quắp một hồi mới tỉnh lại. Đám quỷ tốt lại đánh bắt trèo lên, lại nổ ra rơi xuống như lần trước, tới lần thứ ba chỉ còn là một đám khói là là mặt đất rồi tan ra, không sao còn có thể trở thành hình người nữa.</p><p></p><p>Lại tới một vụ khác, là Vương Mỗ người cùng huyện, bị cha người tỳ nữ kiện là bắt cóc con gái, Vương vốn là thông gia với sinh. Trước là có một người bán tỳ nữ, Vương biết là y bất chính nhưng thấy giá hời bèn mua về. Đến lúc ấy Vương bị bạo bệnh chết, hôm sau bạn Vương là Chu lại gặp bên đường, biết là ma bỏ chạy về nhà, Vương cũng theo vào. Chu sợ hãi ra gặp hỏi định làm gì. Vương đáp "Phiền ông xuống làm chứng giùm dưới âm ty", Chu kinh ngạc hỏi làm chứng việc gì, Vương đáp "Ta mua tỳ nữ theo đúng giá, nay bị vu là bắt cóc, việc này chính ông chứng kiến, xin nói cho một câu làm tin, không cần nói gì khác". Chu cố từ chối, Vương bỏ ra nói "Sợ chuyện này thì ông không làm chủ được thôi”.</p><p>Không bao lâu quả nhiên Chu chết, cùng bị giải tới Diêm Vương đối chất. Lý thấy Vương trong lòng ngầm có ý thiên vị, chợt trên nóc điện có ngọn lửa bùng lên, rường cột cháy phùng phừng, Lý cả sợ đứng bật dậy, viên lại ngầm bước tới sau lưng nói "Âm ty không phải như dương thế, không thể có một chút ý niệm riêng tư, xin ông bỏ ngay ý ấy thì lửa sẽ tự tắt". Lý bèn ngưng thần gạt bỏ tạp niệm, ngọn lửa tắt ngay. Kế hỏi cung, vương và cha người tỳ nữ tranh cãi không thôi, hỏi Chu thì Chu cứ theo sự thật thưa lên. Vương bị kết án cố ý phạm tội, phạt đánh gậy, đánh xong Lý sai đem cả về cho hồi sinh. Vương và Chu đều chết ba ngày rồi sống lại.</p><p>Lý xét việc xong, có xe kiệu đưa về, giữa đường gặp một bọn vài trăm người sứt đầu cụt chân nằm rạp dướỉ đất van xin. Lý dừng xe hỏi thì là ma quỷ chết xa quê muốn trở về nhưng sợ dọc đường bị ngăn trở, xin dẫn đường cho. Lý nói "Ta coi việc Diêm Vương chỉ có ba ngày, nay đã thôi giữ chức, làm sao giúp được". Đám ma nói "Hồ sinh ở thôn nam sắp lập đàn chay tế độ, xin ông nói giùm", Lý ưng thuận. Về tới nhà thì tùy tùng đều quay đi, Lý mới sống lại.</p><p></p><p>Hồ sinh tự Thủy Tâm chơi thân với Lý, nghe nói Lý sống lại bèn tới thăm, Lý hỏi ngay lúc nào mở đàn chay. Hồ kinh ngạc nói "Sau cơn binh lửa, ta may mà vợ con được vô sự, hôm trước bàn với bà nó định làm điều tâm nguyện ấy nhưng chưa từng nói với một ai, sao ông biết được?". Lý kể lại mọi chuyện, Hồ than "Một câu vừa thốt ra trong phòng kín mà đã đồn đại khắp chốn u minh, thật đáng sợ!", rồi cung kính nhận lời mà về.</p><p></p><p>Hôm sau Lý qua nhà Vương, Vương còn nằm bệnh, thấy Lý vào lập tức kính cẩn đứng lên tạ ơn đã che chở giúp đỡ cho. Lý nói "Pháp luật không thể nương nhẹ tha thứ gì cả, nay ông may vẫn không sao chứ?". Vương đáp "Nay thì không bị gì khác, chỉ những chỗ bị đánh thì làm mủ thôi”. Hơn hai mươi ngày sau mới lành hẳn, thịt thối ở mông rụng ra, còn lại những vết sẹo như lằn gậy in xuống vậy.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Hình phạt dưới âm ty còn thảm độc hơn trên dương thế, khiển trách cũng nặng nề hơn, nhưng không ai can thiệp xin xỏ gì được nên kẻ chịu hình phạt thảm khốc cũng không hờn oán. Ai dám nói nơi mộ huyệt không có ánh sáng mặt trời? Ta chỉ hờn không có ngọn lửa nào thiêu đốt sảnh đường trị dân trên dương thế mà thôi. </em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>090. Hoàng Cửu Lang </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Hoàng Cửu Lang)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hà Sư Tham tự Tử Túc làm phòng học ở phía đông Thiều Khê (ở núi Thiên Mục tỉnh Chiết Giang). Cửa nhà học nhìn ra cánh đồng rộng, xế chiều ngẫu nhiên ra ngoài thấy có người đàn bà cưỡi lừa đi tới, một thiếu niên theo sau. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi, phong thái nhàn nhã, thiếu niên thì khoảng mười lăm mười sáu, phong tư xinh đẹp còn hơn cả giai nhân. Hà sinh vốn có bệnh thích đàn ông, thấy thiếu niên điên đảo cả thần hồn, nhón chân nhìn theo đến khi mất hút mới trở về.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hôm sau lại ra đứng đón, đến sẩm tối thiếu niên mới tới. Sinh niềm nở bước ra đón, cười hỏi đi đâu về, thiếu niên đáp là từ nhà ông ngoại về. Sinh mời vào nghỉ chân, thiếu niên từ chối nói là không rảnh, sinh lôi kéo mãi bèn vào, ngồi giây lát lại đứng lên cáo từ, không thể giữ lại được. Sinh dắt tay đưa ra, ân cần dặn lúc nào tiện đường cứ ghé chơi, thiếu niên dạ dạ rồi đi. Sinh từ đó cứ ngơ ngẩn nhớ nhưng, ra vào trông ngóng cả ngày.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Một hôm lúc mặt trời đang lặn thiếu niên chợt tới, sinh cả mừng mời vào, sai tiểu đồng dọn rượu tiếp đãi. Hỏi tên họ, thiếu niên đáp là họ Hoàng, bày vai thứ chín, vì còn nhỏ nên chưa có tên tự. Hỏi sao hay qua lại đường này, thiếu niên đáp "Mẹ ta ở bên nhà ông ngoại, hay có bệnh nên ta phải qua thăm”. Rượu được vài tuần thì cáo từ ra về, sinh nắm tay giữ lại, khóa chặt cửa, Cửu lang không biết làm sao, bẽn lẽn ngồi xuống lại. Sinh thắp đèn cùng trò chuyện, thấy thiếu niên nhỏ nhẻ như con gái, buông lời chọc ghẹo thì càng có vẻ thẹn thùng, quay mặt vào vách. Lát sau cùng đi ngủ, sinh ôm chặt lấy vuốt ve mơn trớn đòi này nọ. Cửu lang tức giận nói "Ta cho rằng ông là kẻ sĩ phong nhã nên mới qua lại, nay lại làm như thế thật chẳng khác gì cầm thú”. Không bao lâu, sao trời chỉ còn thưa thớt, Cửu lang bỏ về. Sinh sợ Cửu lang sẽ tuyệt giao, lại ra cửa chờ, qua lại đăm đăm trông ngóng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Qua mấy hôm Cửu lang mới tới, sinh ra đón tạ lỗi, ép kéo vào nhà, giục ngồi trò chuyện cười nói, thầm lấy làm may mắn vì Cửu lang không để bụng chuyện cũ. Cửu lang nói "Tình thương yêu của ông ta đã khắc sâu vào lòng, nhưng thân ái đâu cứ phải làm thế". Rồi đang đêm ra về, sinh buồn bực như mất vật quý, quên ăn bỏ ngủ, ngày càng héo hắt, chỉ hàng ngày sai tiểu đồng ra cổng chờ đợi. Một hôm Cửu lang ngang qua cổng, định đi thẳng luôn nhưng tiểu đồng ra nắm áo kéo vào. Thấy sinh tiều tụy, Cửu lang kinh sợ hỏi han. Sinh kể thật đầu đuôi, nước mắt rơi lã chã. Cửu lang nói nhỏ "Cái ý thương mến nhau ấy thật đáng cảm kích, nhưng đã chẳng ích lợi gì cho đệ mà còn làm hại cho ông, nên không muốn thôi. Chứ nếu ông đã thích thì ta có tiếc gì".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh cả mừng, Cửu lang đi rồi thấy bệnh tật phút chốc tiêu tan. Vài hôm hoàn toàn bình phục rồi quả nhiên Cửu lang lại tới, cùng nhau vui vầy rồi nói "Nay nể lòng chiều ông, xin đừng làm như thế nữa". Kế nói "Có việc muốn nhờ, không biết ông có chịu giúp không", sinh hỏi việc gì, Cửu lang đáp “Mẹ ta bị đau tim, chỉ có Tiên thiên đan của quan Thái y Tề Dã Vương chữa được, ông chơi thân với ông ấy chắc sẽ xin được", sinh hứa sẽ xin cho. Lúc Cửu lang ra đi lại dặn dò, sinh bèn vào thành xin thuốc, chiều tối mang về. Cửu lang mừng rỡ cảm ơn ca ngợi, nói "Xin tìm cho ông một mỹ nhân, còn hơn đệ gấp vạn lần". Sinh hỏi là ai, Cửu lang đáp "Đệ có người biểu muội xinh đẹp vô song, nếu ông ưng thuận đệ sẽ làm mai cho".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh cười khẽ không đáp, Cửu lang cầm thuốc về. Ba hôm sau lại tới xin thuốc, sinh giận vì tới muộn, lời lẽ có ý bực túc. Cửu lang nói "Bản ý vốn không muốn làm hại ông nên không tới thường, nay ông đã không rộng lượng cho, thì xin đừng hối hận". Từ đó tối nào cũng vui vầy với nhau, mà cứ ba ngày lại xin thuốc một lần. Tề lấy làm lạ vì cứ xin mãi, nói "Thuốc này ai uống ba lần cũng khỏi bệnh, sao lâu quá vẫn không khỏi thế?", rồi lấy ba tễ trao cả cho, lại nhìn sinh nói "Ông khí sắc tối tăm, có bệnh phải không?", sinh đáp "Không". Tề bèn cầm tay bắt mạch, giật mình nói "Ông có quỷ mạch, bệnh ở mạch Thiếu âm, nếu không tự gìn giữ thì chết đấy”.</p><p>Sinh về kể lại, Cửu lang than "Quả thật là danh y, nói thật ta là hồ, sợ không phải là điều may cho ông". Sinh ngờ là dối trá nên giấu bớt thuốc lại không đưa hết vì sợ Cửu lang không tới nữa. Không bao lâu quả nhiên sinh bị bệnh, rước Tề tới xem, Tề nói "Trước đây ông không nghe ta, nay thần khí đã tan tác, thầy giỏi nào chữa được nữa?”. Cửu lang hàng ngày tới chăm sóc, nói "Không nghe lời ta, quả đến nông nỗi này", kế sinh chết, Cửu lang khóc lớn rồi đi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trước là trong huyện có Thái sử Mỗ lúc trẻ cùng học với sinh, năm mười bảy tuổi đã làm Hàn lâm. Lúc ấy phiên vương đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) tham bạo mà thích ăn của đút, các quan trong triều không ai dám nói. Ông bèn dâng sớ hặc tội, bị kết tội quá phận cách chức. Phiên vương lại được thăng chức Tuần phủ tỉnh ấy, hàng ngày cứ rình ông sơ hở để bắt tội. Ông lúc trẻ có tiếng tài giỏi, có một phiên vương làm phản coi trọng, lúc ấy Tuần phủ bắt được thư từ qua lại giữa đôi bên đem tới uy hiếp, ông sợ treo cổ tự tử, phu nhân cũng tự thắt cổ chết.</p><p>Qua đêm chợt ông sống lại nói “Ta là Hà Tử Túc”. Người nhà hỏi han thấy đều nói chuyện nhà họ Hà, biết là Hà mượn xác hoàn hồn, giữ lại không được bèn cho về nhà cũ. Tuần phủ ngờ là gian trá, cũng muốn đẩy vào chỗ chết bèn sai người tới đòi ngàn vàng, sinh giả vâng dạ nhưng vô cùng lo lắng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Chợt Cửu lang tới, cùng nhau mừng rỡ trò chuyện, vừa mừng vừa tủi. Kế lại muốn cùng vui vầy với nhau, Cửu lang nói "ông có tới ba mạng sống à?", sinh đáp "Ta hối vì sống lo chẳng bằng chết sướng”, nhân kể lại chuyện oan khổ. Cửu lang nghĩ ngợi rồi nói "May mà ông còn sống lại gặp nhau. Ông còn chưa có vợ, trước ta đã nói biểu muội xinh đẹp đa mưu, có thể giúp ông". Sinh muốn gặp mặt một lần, Cửu lang nói "Không khó, ngày mai nàng cùng tới thăm mẹ ta, cũng đi qua đây, ông giả làm anh của đệ, ta sẽ giả khát vào xin nước uống. ông cứ nói Lừa chạy mất rồi, thế là xong”. Bàn tính xong Cửu lang ra về.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Gần trưa hôm sau quả nhiên Cửu lang cùng một nữ lang đi ngang cổng, sinh ra chắp tay trò chuyện dằng dai, liếc thấy nữ lang mắt phượng mày ngài, quả thật xinh đẹp như tiên. Cửu lang đòi uống trà, sinh mời vào nhà, Cửu lang nói “Tam muội đừng ngại, đây là anh em kết nghĩa của anh, ghé vào nghỉ một chút không hề gì", rồi đỡ nàng xuống, buộc lừa ngoài cổng cùng vào. Sinh tự pha trà mời, đưa mắt nhìn Cửu lang nói “Trước đây ông nói chưa đủ đâu, hôm nay đúng là ta được chỗ để chết rồi". Cô gái như biết nói tới mình, rời ghế đứng phắt dậy, khẽ nói "Đi thôi".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh nhìn ra ngoài nói "Lừa chạy mất rồi". Cửu lang vội vàng chạy ra. Sinh ôm cô gái đòi giao hoan, cô gái đỏ bừng cả mặt mày, lính quýnh như con chó bị nhốt, gọi Cửu huynh nhưng không thấy đáp, bèn nói "Chàng đã có vợ rồi, sao lại làm mất danh tiết người ta", sinh bèn phân trần rằng mình không có vợ, nàng nói “Nếu dám thề rằng không phụ rẫy nhau, thì thiếp xin vâng lời". Sinh bèn chỉ lên mặt trời thề thốt, cô gái bèn không chống cự nữa. Xong đâu đấy rồi Cửu lang bước vào, cô gái hầm hầm nét mặt trách mắng, Cửu lang nói "Đây là Hà Tử Túc, trước là danh sĩ, nay là Thái sử, chơi thân với anh. Người này có thể nương tựa được, nếu cậu mợ nghe thấy chắc cũng không phiền giận gì đâu”. Trời xế chiều, sinh giữ lại không cho đi, cô gái sợ cô lo lắng, Cửu lang nhận sẽ lo hết rồi lên lừa ra đi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Được vài hôm, có người đàn bà dắt một tỳ nữ tới, tuổi trạc bốn mươi, phong nhã xinh đẹp giống hệt Tam nương. Sinh gọi cô gái ra xem thì quả là mẹ nàng. Bà nhìn con gái kinh ngạc hỏi sao lại ở đây, nàng thẹn thùng không đáp, sinh bèn mời vào lạy chào rồi kể rõ. Người đàn bà cười nói "Cửu lang thật là tính khí trẻ con, sao không bàn trước". Cô gái vào bếp làm thức ăn mời mẹ, bà ăn xong rồi về. Sinh từ khi lấy được vợ đẹp trong lòng vui sướng, nhưng nỗi lo lắng còn dó nên thường chau mày nghĩ ngợi. Cô gái hỏi, sinh kể rõ đầu đuôi, nàng cười nói “Chuyện đó thì một mình Cửu huynh cũng giúp được, chàng việc gì phải lo". Sinh hỏi nguyên do, nàng đáp "Nghe nói quan Tuần phủ thích thanh sắc, chuyện thằng nhãi con ngu ngốc ấy thích đều là sở trường của Cửu huynh. Đem cái y thích mà dâng, thì thù oán gì mà y không bỏ qua". Sinh sợ Cửu lang không chịu, cô gái nói "Phải năn nỉ thôi”.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Qua hôm sau, sinh thấy Cửu lang tới, bèn khép nép ra đón, Cửu lang ngạc nhiên nói "Hai đời giao du đã biết rõ nhau, dù cho tan xương nát thịt cũng không dám tiếc, sao lại đối xử với nhau như thế?”. Sinh kể lại việc mình và vợ bàn tính, Cửu lang có vẻ ngần ngừ, cô gái nói "Thiếp thất thân với Hà lang là vì ai gây nên? Nếu để Hà lang nửa đường đứt gánh thì thiếp sẽ ra sao?", Cửu lang bất đắc dĩ phải ưng thuận. Sinh bèn cùng Cửu lang bàn tính, gởi thư tới bạn thân là Vương Thái sử, lại gởi gắm Cửu lang.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Vương hiểu ý, mở tiệc lớn mời Tuần phủ tới, sai Cửu lang mặc y phục đàn bà ra múa khúc Thiên ma vũ, xinh đẹp như con gái. Tuần phủ thích lắm, xin Vương cho trả nhiều tiền để mua Cửu lang nhưng vẫn sợ không được. Vương làm ra vẻ nghĩ ngợi như khó xử, ngần ngừ hồi lâu rồi tỏ ý sinh muốn dâng Cửu lang. Tuần phủ vui mừng không căm giận gì sinh nữa, từ khi được Cửu lang, ăn ngủ gì cũng có nhau, có hơn mười người thiếp trẻ đẹp đều coi như đất bùn, cung phụng cái ăn cái mặc cho Cửu lang như bậc vương giả, ban cho vàng bạc hàng vạn lượng. Được nửa năm Tuần phủ ngã bệnh, Cửu lang biết là sắp chết bèn chở hết vàng bạc gấm vóc về nhà sinh. Kế Tuần phủ chết, Cửu lang bỏ tiền ra xây nhà cửa mua tôi tớ, mẹ con cùng cậu mợ đều tới đó ở chung. Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ.</p><p><em>(Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ). Ta có đùa bình một bài, cũng chép cả vào đây.</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trai gái ở chung, là đạo thường chồng vợ, khô ướt thông suốt, ấy khiếu chính âm dương. Chờ trăng đón gió<strong>*</strong> còn chuốc danh nhơ, cắt áo chia đào<strong>**</strong>, khó che tiếng xấu. Người đều là lực sĩ, đường chim bay mới được mở ra, động chẳng phải Đào Nguyên, sào ngư phủ sao cho chọc xuống. Nay Mỗ theo lối dưới mà quên trở lại, bỏ đường chính mà chẳng đi theo. Mây mưa chưa hừng, trên dưới liền tay sờ mó, âm dương ngược thế, trong ngoài cứ thế làm gian. Ao hoa thành chốn không dùng, nói bậy sư già nhập định, động Mán là vùng không cỏ, lại sai tướng chột vung gươm.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>* Chờ trăng đón gió: nguyên văn là “nghênh phong đãi nguyệt", chữ trong câu thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường "Đãi nguyệt Tây sương hạ, Nghênh phong hộ bán khai” (Chờ trăng hiên thấp mái, Đón gió cửa không cài), đây chỉ việc hẹn hò trai gái. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>** Cắt áo chia đào: nguyên văn là “đoạn tụ” và "phân đào” Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền, có lần ngủ chung trở dậy thấy Đổng Hiền nằm đè lên tay áo mình, bèn cắt tay áo để Đổng Hiền không bị mất giấc ngủ. Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, có lần cùng dạo trong vườn, Di Tử Hà hái một trái đào chín, cắn một miếng rồi đút cho Vệ Linh công. Đây chỉ việc đàn ông thích đàn ông.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Buộc Xích thố ngoài viên môn, như toan bắn kích<strong>*</strong>”, mò cung lớn trong quốc khố, những muốn phá rào<strong>**</strong>. Hay là nhà Giám mộng cá vàng<strong>***</strong>, thăm tri giao đêm trước, rõ ràng họ Vương dùi mận đỏ<strong>****</strong>, đòi báo đáp kiếp sau. Rừng Hắc Tùng người ngựa thường qua, vốn là yên ổn, phủ Hoàng Long nước triều chợt tới, lấy gì chặn ngăn. Phải chặt đứt cây gậy đâm xoi, mà nút kín con đường đưa đón.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Buộc Xích thố ... bắn kích: lấy tích Lữ Bố thời Hậu Hán bắn kích giải hòa cho Lưu Bị và Kỷ Linh tướng của Viên Thuật, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông. </p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>**Mò cung lớn ... phá rào: lấy tích Dương Hổ thời Xuân thu lấy trộm cung lớn trong quốc khố, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*** Nhà Giám mộng cá vàng: Nhĩ đàm chép Vương Tế tửu ở Nam Kinh thân thiết với một viên Giám sinh, người ấy nằm mơ thấy có con cá chiên vàng từ đũng quần rơi ra, kể lại với bạn bè. Đám Giám sinh đùa nói "Giấc mơ của Mỗ rất nhiêu khê. Chuyện cá chiên vàng xoi vào mông rất đáng ngờ, chắc là Vương học sĩ đang đêm tới thăm người thương”.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p>**** Họ Vương dùi mận đỏ: Tấn thư, Vương Nhung truyện chép nhà Vương Nhung có cây mận ngon, Vương hái quả bán nhưng sợ người ta lấy giống, nên trước khi bán là dùng kim đâm phá hỏng hạt mận, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 91 - 92 -</strong></p><p>Cô Gái Ở Kim Lăng</p><p>(Kim Lăng Nữ Tử)</p><p></p><p>Người dân ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) là Triệu Mỗ có việc vào thành trở về, gặp một cô gái mặc áo trắng khóc than bên đường rất thảm thiết. Triệu liếc thấy xinh đẹp thích lắm, dùng lại nhìn chằm chằm không chịu đi. Cô gái gạt lệ nói "Ông kia đường không chịu đi lại cứ nhìn ta”. Triệu nói "Ta thấy đồng không mông quạnh mà nàng đau xót khóc lóc nên thật rất thương tâm". Cô gái nói "Chồng chết không biết về đâu nên đau lòng thôi". Triệu khuyên nên lấy chồng khác, nàng đáp "Một thân lưu lạc, biết ai mà chọn? Nếu được nương tựa thì làm vợ lẽ cũng được". Triệu mừng rỡ xin đứng ra bảo bọc, cô gái bèn đi theo. Triệu vì nhà ở xa, định tìm ngựa đỡ chân, cô gái nói không cần rồi bước lên trước, lãng đãng đi mau như chạy.</p><p></p><p>Về tới nhà rồi, nàng lo việc nhà rất chăm chỉ, được hơn hai năm nói với Triệu "Cảm vì chàng thương mến nên theo về, thấm thoát đã hai năm, nay phải đi thôi”. Triệu hỏi "Trước nàng nói không biết về đâu, nay định tới nơi nào?", nàng đáp "Lúc ấy chỉ là nói dối thế thôi, chứ đâu lại không còn nơi về? Cha thiếp bán thuốc ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nếu chàng muốn gặp nhau thì nên chở thuốc tới, sẽ giúp đỡ cho ít nhiều đi đường". Triệu tính toán định thuê xe ngựa cho, nàng từ tạ rồi ra cửa đi thẳng, Triệu đuổi theo không kịp, trong chớp mắt đã mất hút.</p><p>Lâu sau Triệu càng nhung nhớ, bèn mua thuốc chở lên Kim Lăng, gởi hàng ở quán trọ rồi ra phố, chợt có ông già ở hiệu thuốc nhìn ra nói "Con rể tới rồi", rồi ra kéo vào. Cô gái đang giặt áo trong sân, thấy Triệu không nói cũng không cười, cứ mãi miết giặt giũ. Triệu uất ức bỏ ngay ra, ông già lại kéo trở vào, nàng vẫn không nhìn ngó gì tới. Ông già bảo dọn cơm rượu thết đãi, định tặng tiễn cho Triệu thật hậu, cô gái ngăn lại nói "Y bạc phúc, có cho nhiều cũng không hưởng được, chỉ cần an ủi nỗi vất vả tới đây, lựa ra mười mấy bài thuốc trao cho là thừa cơm áo một đời rồi". Ông già hỏi tới số thuốc Triệủ mang lên, nàng đáp “Đã ngã giá rồi, đang để cả ở đây". Ông già bèn đưa bài thuốc ra, trao tiền cho Triệu về. Dùng thử các bài thuốc thì hiệu nghiệm phi thường, đến nay có người ở Nghi Thủy còn biết bài thuốc lấy vỏ trái vải giã nát ra hứng nước mưa ở mái tranh để tẩy nốt ruồi, là một trong những bài ấy, rất có công hiệu.</p><p></p><p><strong>092. Liên Tỏa</strong></p><p><strong>(Liên Tỏa)</strong></p><p></p><p>Dương Vu Úy dời nhà tới ở cạnh sông Tứ Thủy, phòng học liền với cánh đồng rộng, ngoài tường có nhiều ngôi mộ cổ. Đêm nghe cành lá bạch dương rung ào ào như sóng dâng, khuya dậy thắp đèn ngồi, đang buồn bã bâng khuâng chợt nghe ngoài tường có tiếng người ngâm thơ rằng " Nguyên dạ thê phong khích đảo xuy, Lưu oanh nặc thảo phục triêm vi" (Hiu hắt đêm rằm gió lạnh qua, Lập lòe đom đóm đậu màn là), ngâm đi ngâm lại, âm thanh rất não nùng, Dương lắng tai nghe kỹ thấy dịu dàng như tiếng con gái, lấy làm ngờ vực. Hôm sau ra ngoài tường xem không thấy vết chân người nào cả, duy có một sợi dây lụa tía rơi trong bụi gai, bèn nhặt về để trên bậu cửa sổ. Đến canh hai lại nghe tiếng ngâm nga như đêm trước, Dương bắc ghế leo lên nhìn ra thì tiếng ngâm vụt tắt, biết đó là ma nhưng rất thích.</p><p></p><p>Đêm sau ra núp chờ bên tường, vừa hết canh một thấy có một cô gái trong đám cỏ lững thững đi ra, tỳ tay vào gốc cây nhỏ cúi đầu buồn bã ngâm nga. Dương khẽ đằng hắng, nàng vội lui vào đám cỏ rậm biến mất. Từ đó Dương cứ ra chờ, một đêm đợi cô gái vừa ngâm xong, liền cách tường đọc tiếp rằng "U tình khổ tự hà nhân kiến, Thúy tụ đơn hàn nguyệt thượng thì" (Tình riêng mối khổ nào ai rõ, áo biếc mong manh dưới nguyệt tà), hồi lâu vẫn thấy im ắng. Dương bèn trở vào phòng, vừa ngồi xuống chợt thấy một cô gái đẹp từ ngoài bước vào, khép nép nói "Chàng vốn là văn nhân phong nhã mà bấy lâu nay thiếp cứ sợ sệt trốn tránh". Dương mừng rỡ kéo nàng ngồi, thấy ẻo lả như mặc áo không nổi. Hỏi quê quán nơi nào, ở đây bao lâu rồi, nàng đáp “Thiếp là người quận Lũng Tây (tỉnh Cam Túc) theo cha lưu lạc tới đây, năm mười bảy tuổi bị bạo bệnh chết, đến nay đã hơn hai chục năm rồi. Hồn ở suối vàng, thây vùi đồng trống, trơ trọi một mình, hai câu thơ thường ngâm là của thiếp làm ra để gởi gắm niềm u hận, lâu nay vẫn muốn làm trọn bài nhưng nghĩ không ra, được chàng nối giùm nên thiếp ở dưới suối vàng lấy làm vui sướng". Dương muốn cùng giao hoan, nàng cau mày nói "Xương nát dưới dạ đài không như người sống, nếu còn nọ kia sẽ làm người ta tổn thọ, thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử", Dương mới thôi. Đùa thò tay nắn bóp ngực nàng thì đầu vú còn son, rõ ràng vẫn là xử nữ, lại muốn nhìn đôi hài dưới chân. Nàng cúi mặt cười nói "Anh chàng si cuồng tò mò quá". Dương cầm chân nàng đùa giỡn, thấy hài làm bằng gấm màu nguyệt bạch nhỏ như bó tơ, nhìn kỹ thấy một chiếc thiếu giải lụa tía. Hỏi sao không buộc cả hai chiếc, nàng đáp "Đêm trước sợ chàng bỏ chạy, không biết đánh rơi chỗ nào". Dương nói "Để ta thay sợi khác cho nàng rồi lấy sợi dây lụa tía trên bậu cửa sổ đưa cho cô gái. Nàng ngạc nhiên hỏi ở đâu ra, Dương kể lại nàng bèn giắt vào thắt lưng. Kế mở xem sách vở trên bàn, chợt thấy tập <em>Liên xướng cưng từ</em><strong>*</strong> cảm khái nói "Lúc thiếp còn sống rất thích đọc tập thơ này, giờ nhìn thấy, giống như đang trong mơ vậy". Dương cùng nói chuyện văn thơ, thấy nàng thông minh đáng yêu, chong đèn trò chuyện như gặp bạn quý.</p><p></p><p>*Liên xướng cung từ: tên tập thơ của Nguyên Chẩn, nhà thơ thời Đường.</p><p></p><p>Từ đó cứ đêm đến nghe tiếng ngâm thơ khe khẽ thì thấy nàng tới. Thường dặn Dương rằng “Xin chàng giữ kín đừng cho ai biết, thiếp từ nhỏ vẫn nhút nhát nên sợ có khách khứa hung dữ hiếp đáp" Dương ưng thuận. Hai người vui như cá nước gặp nhau, tuy chưa thật là vợ chồng nhưng trong chốn phòng khuê còn âu yếm đằm thắm hơn cả vợ chồng. Cô gái thường trước đèn chép sách cho Dương, nét chữ đoan chính đẹp đẽ. Lại tự chọn một trăm bài <em>Cung từ</em> chép để ngâm nga, còn dặn Dương sắm bàn cờ vây, mua đàn tỳ bà, đêm đêm dạy Dương đánh cờ, không thì nàng so phím lên dây gảy khúc <em>Mưa sa tàu chuối bên song</em> khiến người phải não lòng. Dương không nỡ nghe hết khúc, thì nàng gảy bản <em>Tiếng oanh trong vườn buổi sớm</em>, chợt Dương thấy trong lòng khoan khoái. Thường chong đèn vui chơi quên cả đêm dài, thấy ánh mai hiện ra trên cửa sổ nàng mới vội vã ra đi.</p><p></p><p>Một hôm Tiết sinh tới chơi, gặp lúc Dương đang ngủ trưa, thấy trong nhà đủ cả bàn cờ nhạc khí, biết không phải là những môn Dương giỏi. Lại lật sách vở xem, gặp tập Cung từ thấy nét chữ ngay thẳng đẹp đẽ không phải chữ Dương, càng thêm ngờ vực. Dương thức dậy, Tiết hỏi bàn cờ nhạc khí từ đâu ra, Dương đáp là đang muốn học, lại hỏi về quyển thơ, Dương nói thác là mượn của bạn bè. Tiết giở ra xem đi xem lại, tới tờ cuối thấy có hàng chữ nhỏ đề ngày ấy tháng ấy Liên Tỏa viết bèn cười nói "Đây là tên con gái mà, sao dối nhau quá thế?”. Dương bí quá không biết trả lời thế nào, Tiết càng hỏi riết. Dương không chịu nói, Tiết bèn lấy tập thơ bỏ túi, Dương cùng đường phải nói thật.</p><p></p><p>Tiết xin cho gặp một lần, Dương nhắc lại lời Liên Tỏa dặn. Tiết càng hâm mộ cứ thiết tha xin gặp, Dương bất đắc dĩ đành nhận lời. Khuya cô gái tới, Dương tỏ ý Tiết, nàng giận nói "Trước đã dặn thế nào, mà lại ba hoa với người ta!". Dương kể lại sự tình để phân trần, nàng nói “Duyên phận với chàng đến đây là hết rồi”. Dương tìm đủ lời năn nỉ khuyên giải mà nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói "Thiếp phải tạm lánh mặt". Hôm sau Tiết tới, Dương cho biết là Liên Tỏa không chịu, Tiết ngờ là kiếm cớ thoái thác, chiều tối rủ hai bạn học nữa tới, dằng dai không chịu ra về, làm ầm ĩ suốt đêm, Dương bực lắm nhưng không biết làm sao. Họ thấy mấy đêm liền không có gì lạ cũng chán, dần dần yên lặng, chợt nghe tiếng ngâm thơ, cùng lắng tai nghe, thấy rất buồn thảm. Tiết còn đang chăm chú nghe, trong bọn có một người bạn học võ là Vương sinh lượm hòn đá to ném ra nói lớn “Làm bộ làm tịch không chịu ra mặt, thơ có ra gì mà ngâm nga sướt mướt nghe phát bực”, tiếng ngâm thơ tắt liền. Mọi người rất tức, Dương thì bực bội ra mặt. Hôm sau họ mới chịu đi, Dương ngủ một mình ở phòng sách chờ cô gái trở lại nhưng nàng biệt tăm.</p><p></p><p>Qua hai hôm nàng chợt tới khóc nói "Chàng đón những khách hung tợn tới làm thiếp sợ gần chết". Dương chưa kịp xin lỗi, nàng đã bước ngay ra, nói "Thiếp đã nói duyên phận với chàng hết rồi, từ đây xin vĩnh biệt". Dương định kéo lại thì nàng đã biến mất, suốt hơn tháng sau không thấy tới nữa. Dương nhớ nhung tới mức gầy ốm nhưng không còn cách nào gặp được nàng. Một đêm đang ngồi uống rượu một mình, chợt cô gái vén rèm bước vào. Dương mừng quá, nói "Nàng tha thứ cho ta rồi sao?”. Cô gái chảy nước mắt im lặng không đáp, hỏi mãi thì nàng muốn nói lại thôi, kế nói "Tức giận bỏ đi, lại có chuyện nguy cấp phải nhờ người, nghĩ mà hổ thẹn". Dương gặng hỏi mấy lần, nàng nói “Có một tên lính lệ thô bỉ không biết ở đâu tới ép thiếp phải làm vợ lẽ của y. Thiếp nghĩ mình là con nhà thanh bạch, há lại chịu khuất phục một tên quỷ tốt, nhưng một thân yếu đuối làm sao chống cự. Nếu chàng coi thiếp như vợ chồng thì chắc không để mặc thiếp phải khổ". Dương cả giận, căm tức tưởng chết nhưng lo người với ma khác loài, không thể giúp nàng được. Cô gái nói "Đêm mai cứ đi ngủ sớm, thiếp nhờ chàng trong mộng vậy". Rồi cùng nhau chuyện trò đợi sáng, lúc nàng ra đi dặn Dương đi ngủ để giữ cái hẹn buổi tối, Dương theo lời.</p><p></p><p>Buổi chiều uống vài chén rượu rồi nhân lúc ngà ngà lên giường, để nguyên áo mà ngủ. Chợt thấy cô gái tới, đưa cho thanh bội đao rồi cầm tay dắt đi. Tới một căn nhà, vừa vào đóng cửa trò chuyện thì nghe có người đập cửa cô gái hoảng sợ nói "Kẻ thù tới đấy". Dương mở cửa sấn ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu quai nón tua tủa như lông nhím, tức giận thét đuổi đi. Tên lính trợn mắt quát lại, lời lẽ rất ngạo mạn. Dương cả giận sấn vào, y vác đá ném như mưa, Dương bị ném trúng tay không cầm đao được nữa. Đang lúc nguy cấp, chợt thấy xa xa có một người đeo cung tên đi săn, nhìn kỹ chính là Vương sinh, bèn kêu lớn cầu cứu. Vương sinh giương cung chạy tới bắn trúng đùi tên lính, lại bắn thêm một phát giết chết luôn. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi duyên cớ, Dương kể lại đầu đuôi. Vương mừng đã chuộc được lỗi trước, bèn cùng vào nhà. Cô gái thẹn thùng sợ sệt đứng xa nhìn không nói một câu. Trên bàn có thanh đao nhỏ dài hơn một thước khảm vàng ngọc, rút ra khỏi vỏ thì long lanh sáng quắc. Vương khen ngợi không nỡ rời tay, trò chuyện qua loa với Dương, thấy cô gái sợ sệt rất đáng thương bèn bước ra chia tay rồi đi.</p><p></p><p>Dương cũng ra về, tới cổng thì ngã chúi, giật mình tỉnh dậy nghe gà trong thôn gáy ran. Thấy cánh tay đau buốt, sáng ra nhìn kỹ thì da thịt sưng lên đỏ bầm. Trưa Vương sinh tới, nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương hỏi "Mơ thấy bắn tên phải không?", Vương lấy làm lạ sao Dương biết. Dương đưa tay cho xem rồi nói rõ duyên cớ. Vương nhớ lại người đẹp trong mộng, hận chưa được thấy người thật, nhưng nghe may có chút công với cô gái nên lại xin cho được gặp. Đêm đến cô gái tới cảm tạ, Dương quy công cho Vương sinh rồi tỏ bày lòng thành của Vương. Nàng nói “Cái ơn giúp đỡ làm sao dám quên, nhưng y mạnh mẽ dữ tợn, thật thiếp sợ quá”. Kế lại nói "Y thích thanh bội đao của thiếp, thanh đao ấy là cha thiếp ngày trước mua ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông) hết trăm lượng vàng. Thiếp thích nên cha cho tua buộc tơ vàng, vỏ nạm minh châu, cha thương thiếp mệnh bạc nên bỏ vào quan tài chôn theo. Nay xin dứt tình đưa tặng, y thấy đao cũng như gặp thiếp vậy”.</p><p></p><p>Hôm sau Dương tỏ ý ấy Vương thích lắm. Đến đêm, cô gái quả đem thanh đao tới, nói “chàng dặn y giữ cho kỹ, đây không phải là vật ở Trung Hoa đâu”, từ đó lại lui tới nhà Dương như trước. Vài tháng sau chợt nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như định nói gì, nhưng hai ba lần đỏ mặt rồi thôi. Dương ôm nàng hỏi han, nàng đáp "Lâu nay được chàng yêu mến, tiếp nhận sinh khí người sống, hàng ngày ăn những thức nấu nướng nên mớ xương khô chợt có sinh cơ, nhưng phải có tinh huyết của người sống mới có thể sống lại”. Dương cười nói "Vì nàng không muốn chứ ta có tiếc gì đâu”. Cô gái nói “Thiếp tiếp nhận tinh khí rồi thì chàng ắt ốm nặng hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc là khỏi", bèn cùng nhau giao hoan. Kế nàng mặc áo trở dậy, lại nói "Còn phải có một giọt máu tươi, chàng nhịn đau cho nhau đươc không?” Dương liền cầm dao sắc tự đâm vào tay lấy máu, cô gái nằm trên giường bảo nhỏ máu vào rốn, xong rồi đứng dậy nói "Thiếp không tới nữa. Chàng nhớ là sau đây một trăm ngày ra trước mộ thiếp, thấy có con chim xanh kêu trên ngọn cây thì lập tức đào lên". Dương hứa theo lời. Lúc nàng ra cửa lại dặn “Chàng nhớ kỹ đừng quên, sớm hay trễ hơn đều không được đâu”, rồi đi.</p><p></p><p>Hơn mười ngày sau quả Dương phát bệnh, bụng trướng lên gần chết, thầy lang cho uống thuốc, xổ ra hôi thối như bùn, đúng mười hai hôm thì khỏi. Tính đủ trăm ngày, sai gia nhân mang cuốc ra chờ sẵn bên mộ, lúc mặt trời xế bóng quả thấy hai con chim xanh hót. Dương mừng nói “Đến lúc rồi", rồi phát gai đào mồ, thấy quan tài đã mục nát mà dung mạo cô gái vẫn như còn sống, sờ vào người thấy âm ấm liền lấy chăn bọc lại khiêng về đặt vào phòng kín. Lát sau có hơi thở như sợi tơ, từ từ đổ nước cho, nửa đêm thì nàng sống lại. Thường nói với Dương "Hơn hai mươi năm<strong>*</strong> mà thấy như một giấc mộng thôi".</p><p></p><p>* Hơn hai mươi năm: cả hai bản Đài Loan và Hương Cảng đều in là, thập dư niên" (hơn mười năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, vì bên trên nhân vật Liên Tỏa có nói là đã chết hơn hai mươi năm. Đây tạm đính như trên. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 93 -</strong></p><p>Bạch Vu Ngọc</p><p>(Bạch Vu Ngọc)</p><p></p><p>Ngô Quân tự Thanh Am lúc trẻ đã nổi tiếng, quan Thái sử họ Cát đọc thấy văn bài thường khen ngợi, nhờ người quen mời tới nhà, thấy ngôn ngữ phong thái bèn nói "Chẳng lẽ có tài như Ngô sinh mà nghèo hèn mãi sao?". Nhân nhờ người đánh tiếng, nói "Nếu Thanh Am gắng sức thi đỗ thì ta gả con gái cho". Lúc ấy Thái sử có cô con gái tuyệt đẹp, sinh nghe thế cả mừng, rất tự tin sẽ thi đỗ. Kế thi hương bị đánh rớt, bèn nhờ người nói với Thái sử rằng nhất định sẽ được giàu sang, chỉ không biết sớm hay muộn thôi, xin chờ cho ba năm nữa, nếu mình không thành danh hãy gả chồng cho tiểu thư, từ đó càng ra sức học hành.</p><p>Một đêm sáng trăng có người Tú tài tới thăm, da trắng râu ngắn, vóc nhỏ móng tay dài. Hỏi từ đâu tới, khách tự xưng là họ Bạch, tự Vu Ngọc, cùng chuyện trò vài câu thấy hợp nên thích lắm, mời ngủ lại. Sáng ra Bạch sắp lên đường, sinh dặn có qua ngang tiện đường nhớ ghé chơi. Bạch cảm vì ân cần, xin lần sau cho ở nhờ, hẹn ngày tới rồi chia tay. Đến ngày hẹn, có một người đầy tớ đem các vật dụng nhà bếp tới trước, kế Bạch tới, cưỡi con ngựa thần thái như con rồng, sinh để một gian nhà riêng cho Bạch ở. Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình ở lại sớm tối cùng sinh gần gũi, rất vui vẻ tương đắc.</p><p></p><p>Sinh thấy những sách Bạch đọc đều không phải loại thường thấy, cũng tuyệt nhiên không có loại sách văn chương khoa cử nên ngạc nhiên hỏi. Bạch cười đáp "Kẻ sĩ ai có chí người ấy, ta không phải là người trong trường công danh”. Thường đêm, Bạch mời sinh qua uống rượu, đưa một quyển sách cho xem, đều là dạy thuật đạo dẫn dưỡng sinh, nhiều chỗ không hiểu nổi, sinh thấy viễn vông nên bỏ đó. Hôm khác Bạch nói "Quyển sách ta đưa hôm trước là con đường tu luyện, chiếc thang lên tiên đấy". Sinh cười nói "Việc gấp của ta không phải ở đó, vả lại muốn thành tiên ắt phải dứt hết lòng trần, bỏ hết ham muốn, nhưng ta có tật xấu nên chưa làm được” Bạch hỏi vì sao, sinh đáp phải lo có người nối dõi. Bạch hỏi "Vậy sao vẫn không lấy vợ?”, sinh cười đáp “Quả nhân có tật xấu, quả nhân thích sắc đẹp". Bạch cũng cười nói "Xin nhà vua đừng thích cái sắc nhỏ, ông thích sắc đẹp ra sao?"<strong>*</strong>. Sinh kể lại việc Thái sử, Bạch ngờ rằng con gái Thái sử chưa chắc đã thật đẹp. Sinh nói "Chuyện đó thì xa gần đều biết, không phải tiểu sinh không có mắt đâu”, Bạch cười khẽ rồi im lặng.</p><p></p><p>*Quả nhân... sắc nhỏ: nguyên văn là “Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc”, và "Vương thỉnh vô hiếu tiểu sắc", câu đầu là lời Tề Hoàn công thời Xuân thu nói với Quản Trọng, câu sau là nhại lời Mạnh Tử nói với Đằng Văn công "Vương hà tất viết lợi", đây hai nhân vật dùng để nói đùa với nhau.</p><p></p><p>Hôm sau chợt sắp hành lý chào đi, sinh buồn bã cùng trò chuyện, quyến luyến không dứt ra được, Bạch bèn sai tiểu đồng mang hành lý đi trước. Hai người còn đang bịn rịn, chợt thấy một con ve xanh sè sè đáp xuống bàn. Bạch chào nói “Ngựa xe đã tới, từ nay xin giã biệt. Nếu ông nhớ nhau thì cứ quét cái giường ta nằm mà ngủ”. Sinh đang muốn hỏi lại thì trong chớp mắt Bạch đã chỉ còn nhỏ như ngón tay, nhảy lên cưỡi trên lưng con ve, e e bay lên biến mất trong mây. Sinh lúc ấy mới biết Bạch không phải là người thường, kinh ngạc than thở hồi lâu, buồn bực như mất của quý. Mấy hôm sau chợt trời mưa phùn, sinh càng nhớ Bạch, nhìn tới chỗ giường Bạch nằm thấy vết chân chuột chi chít, cảm khái quét dọn rồi trải chiếu lên nằm ngủ. Giây lát thấy đứa tiểu đồng của Bạch tới mời bèn vui vẻ đi theo.</p><p></p><p>Chợt có con phượng đáp xuống, tiểu đồng giục sinh "Đường tối khó đi, cưỡi nó đỡ chân cũng được". Sinh lo con chim nhỏ không chở nổi, tiểu đồng nói "Ông cứ cưỡi thử xem sao". Sinh theo lời thì thấy ngồi còn thừa chỗ, tiểu đồng cũng ngồi ghé trên đuôi, chim giương cánh soạt một tiếng bay thẳng lên không. Không bao lâu, thấy một cái cổng sơn son, tiểu đồng bước xuống trước rồi đỡ sinh cùng xuống. Sinh hỏi đây là nơi đâu, tiểu đồng đáp "Đây là cổng trời". Bên cửa có con cọp lớn ngồi chồm chổm, sinh sợ hãi, tiểu đồng bèn lấy mình che cho cùng vào, thấy phong cảnh khắp nơi đều khác hẳn thế gian.</p><p></p><p>Tiểu đồng dẫn vào cung Quảng Hàn, bên trong lấy thủy tinh làm bậc thềm, người đi lên như đang giữa tấm gương, có hai cây quế lớn vấn vít lấy nhau, mùi hương theo gió thơm tho không dứt, đình tạ cửa sổ đều sơn son. Lúc lúc lại có mỹ nhân ra vào, người nào cũng xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp. Tiểu đồng nói mỹ nhân ở cung Vương Mẫu còn xinh đẹp hơn nhưng sợ ông chủ đợi lâu, không thể thơ thẩn rồi dắt sinh đi mau ra. Giây lát thấy Bạch đứng chờ ngoài cửa, cầm tay sinh đưa vào thấy trước nhà suối trong cát trắng, tiếng chảy róc rách, thềm ngọc hiên son như cung điện vua chúa, vừa ngồi xuống đã có hai thị nữ trẻ bưng trà lên mời. Kế Bạch sai dọn rượu, có bốn mỹ nhân khép nép hầu hạ chung quanh, vừa thấy trong lưng hơi ngứa thì mỹ nhân đã lấy móng tay dài gãi giùm.</p><p></p><p>Sinh thấy tâm thần phiêu diêu, quên cả là mình đang ở đâu, lúc đã ngà ngà say không tự chủ được nữa, cười liếc mỹ nhân, kéo lại nói nhỏ, mỹ nhân mỉm cười né ra. Bạch sai đàn hát chuốc rượu, một nàng mặc áo hồng bưng chén rượu mời khách rồi đứng trước tiệc cất tiếng hát du dương, các nàng khác gõ sênh phách réo rắt họa theo. Kế tới một nàng mặc xiêm xanh cũng chuốc rượu rồi hát, còn một nàng mặc áo tía, một nàng mặc áo màu nguyệt bạch cứ cười khúc khích đùn đẩy nhau không chịu bước ra. Bạch sai mỗi nàng mời một chén hát một bài, nàng áo tía bèn bước lên rót rượu. Sinh mượn cớ đón chén rượu đùa nắm lấy cổ tay, nàng bật cười buột tay làm rơi chén rượu xuống đất Bạch trách mắng, nàng nhặt chén lên mỉm cười, cúi đầu nói khẽ "Da lạnh như tay ma mà cố nắm tay người ta?". Bạch cười lớn, phạt nàng phải múa hát một mình. Nàng múa xong, nàng áo nguyệt bạch lại mời một chén, sinh từ chối nói không uống nổi nữa. Cô gái bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, sinh bèn gượng uống. Nhìn kỹ bốn nàng thấy phong thái yêu kiều, người nào cũng xinh đẹp tuyệt thế, sinh nói với chủ nhân "Người đẹp trên đời, ta mong được một mà còn khó khăn, ông thì tụ họp bấy nhiêu giai nhân, có thể cho nhau hưởng thú tiêu hồn không?”.</p><p>Bạch cười nói "Túc hạ trong lòng đã có giai nhân rồi, thế này đâu đã đủ lọt vào mắt?". Sinh nói "Nay ta mới biết kiến thức của mình còn hẹp hòi". Bạch gọi tất cả các cô gái tới cho chọn, sinh mê mệt không biết chọn ai. Bạch nghĩ nàng áo tía có cái duyên nắm tay, bèn sai lo giường nệm hầu khách. Kế cùng chung chăn chung gối, hết sức yêu thương, sinh đòi tặng một vật làm kỷ niệm, nàng tháo chiếc xuyến vàng ở cổ tay đưa cho. Chợt đứa tiểu đồng vào nói “Tiên phàm khác nhau, ông nên đi ngay", cô gái vội trỗi dậy đi ra. Sinh hỏi ông chủ, tiểu đồng nói "Ông chủ ta đi chầu Ngọc Hoàng, lúc đi có dặn ta tiễn khách về". Sinh buồn bã theo ra, lại theo lối cũ, gần tới cổng quay lại nhìn thì tiểu đồng đã đi đâu mất. Con cọp gầm thét chồm lên, sinh sợ hãi bỏ chạy, nhìn xuống dưới thấy mờ mịt nhưng chân đã lọt xuống, giật mình tỉnh dậy thì phía đông đã hừng sáng. Vừa giũ áo đứng lên thì có một vật rơi nhẹ xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc xuyến, càng lấy làm lạ.</p><p></p><p>Từ đó ý nghĩ lúc trước thành nguội lạnh, thường muốn tìm tiên học đạo nhưng còn lo về nỗi không có con nối dõi. Qua hơn mười tháng, một hôm sinh ngủ trưa mơ thấy nàng áo tía từ ngoài vào, bế một đứa nhỏ nói “Đây là xương máu của chàng, trên trời không giữ lại được nên xin đem tới trả chàng", rồi đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vạt áo sinh đắp cho nó rồi vội vã định đi. Sinh ép cùng giao hoan, kế nàng nói “Lần trước là động phòng, lần này là vĩnh quyết, vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí, may ra còn có lúc gặp lại”.</p><p></p><p>Sinh tỉnh giấc thấy đứa nhỏ nằm trong bọc tã trên giường, liền bế vào nói với mẹ. Mẹ mừng rỡ, thuê vú nuôi cháu, đặt tên là Mộng Tiên. Rồi đó sinh sai người báo cho Thái sử rằng mình sắp đi ở ẩn xin kén rể khác. Thái sử không chịu, sinh cố từ chối. Thái sử kể cho con gái, nàng nói "Xa gần chẳng ai không biết con đã hứa làm vợ Ngô lang, nay thay đổi hóa ra là hai chồng sao?", Thái sử đem lời ấy nói với sinh. Sinh nói "Ta chẳng những không có chí về việc công danh mà còn tuyệt tình về đường gia thất nữa, sở dĩ không vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi”. Thái sử lại bàn với con gái, nàng nói "Ngô lang nghèo thì con cam phận rau cháo, Ngô lang đi thì con xin thờ mẹ chồng, quyết không theo người khác".</p><p></p><p>Sinh sai người qua lại hai ba lần cũng không xong, Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe kiệu đưa con gái về nhà chồng. Sinh cảm là người hiền đức, rất mực kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất có hiếu, chiều chuộng hầu hạ còn hơn con gái nhà nghèo. Qua hai năm mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang lo liệu tang lễ rất tươm tất. Sinh nói "Được người vợ như nàng, ta còn lo gì. Nhưng nghĩ một người đắc đạo bỏ nhà lên tiên, ta sắp đi xa, việc nhà xin phó thác cho nàng". Nàng thản nhiên không hề giữ lại, sinh bèn ra đi.</p><p></p><p>Nàng ngoài lo mưu sinh, trong dạy con côi, đều có phép tắc. Mộng Tiên dần dần lớn lên, vô cùng thông minh, mười bốn tuổi thi khoa Thần đồng đỗ Cử nhân, mười lăm tuổi vào Hàn lâm viện, triều đình phong tặng nhưng không biết tên mẹ đẻ nên chỉ có bà Cát được phong tặng mà thôi. Đến ngày tế, Mộng Tiên hỏi cha ở đâu, bà Cát nói rõ, Mộng Tiên muốn từ quan đi tìm cha, bà nói “Cha con rời nhà đến nay đã hơn mười năm, chắc đã lên tiên rồi, biết đâu mà tìm".</p><p></p><p>Sau Mộng Tiên phụng chỉ ra tế ở Nam Nhạc, giữa đường gặp cướp, đang lúc nguy cấp có một đạo sĩ cầm gươm xông vào đánh, bọn cướp thua chạy tán loạn nên được giải vây. Mộng Tiên cảm ơn đạo sĩ, tặng tiền nhưng y không nhận, đưa ra một phong thư nói “Ta có người bạn cũ cùng làng với đại nhân, phiền đưa giùm lá thư thăm hỏi". Mộng Tiên hỏi họ tên người ấy, đạo sĩ đáp là Vương Lâm, nhưng nhớ lại trong thôn không có ai tên ấy, đạo sĩ nói “Người ấy con nhà hèn mọn nên ông không biết thôi”. Lúc từ giã lại đưa ra một chiếc xuyến vàng, nói "Đây là vật dùng của đàn bà con gái, bần đạo nhặt được nhưng không dùng gì tới, xin biếu ông luôn”.</p><p></p><p>Mộng Tiên thấy chiếc xuyến chạm trổ rất tinh xảo, đem về đưa phu nhân. Phu nhân thích lắm, sai thợ khéo theo đúng kiểu làm thêm chiếc nữa, nhưng không sao tinh xảo bằng được. Mộng Tiên hỏi khắp trong thôn thì không có ai tên Vương Lâm, bèn lén mở phong thư ra xem, thấy phía trên viết như sau:</p><p></p><p><em>Ba năm loan phượng</em></p><p><em>Chia cách đôi miền</em></p><p><em>Nuôi con chôn mẹ</em></p><p><em>Toàn cậy nàng hiền</em></p><p><em>Lấy gì báo đức?</em></p><p><em>Tặng thuốc một viên</em></p><p><em>Cắt ra mà uống</em></p><p><em>Có thể thành tiên</em></p><p></p><p>Dưới viết "Kính gửi Phu nhân Lâm nương". Mộng Tiên đọc xong không hiểu là gởi ai bèn cầm tới kể với mẹ. Bà Cát đọc xong khóc nói "Đây là thư của cha con gửi về nhà, Lâm là tiểu tự của ta", Mộng Tiên mới sực hiểu ra “Vương Lâm" là chiết tự chữ “Lâm“<strong>*</strong>, ân hận không thôi. Lại đưa chiếc xuyến cho mẹ xem, bà Cát nói "Đây là di vật của mẹ đẻ con, lúc cha con còn ở nhà vẫn đưa cho ta xem". Mộng Tiên thấy viên thuốc bằng hạt đậu lớn, vui mừng nói "Cha đã thành tiên, mẹ uống viên thuốc này ắt được trường sinh” nhưng bà Cát chưa muốn uống ngay, bèn nhận lấy cất đi.</p><p></p><p>*Vương Lâm"... chữ "Lâm”: đây theo lối chiết tự trong chữ Hán. Chữ Lâm (ngọc lâm) đây gồm bộ ngọc và chữ lâm (rừng), nhưng bộ ngọc thường viết giảm một chấm nên thành chữ vương.</p><p></p><p>Gặp lúc Thái sử qua thăm cháu, bà đọc bức thư của Ngô lang cho ông nghe, nhân mang viên thuốc ra chúc thọ. Thái sử cắt làm đôi cho cha con cùng uống, trong giây lát thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên. Năm ấy Thái sử đã bảy mươi tuổi, già nua yếu ớt lắm rồi mà chợt thấy sức lực cuồn cuộn dưới da thịt, lúc về bỏ kiệu xuống bộ đi rất nhanh, bọn gia nhân chạy theo mướt mồ hôi mới kịp. Năm sau đô thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không tắt, mọi người đêm không dám ngủ, tụ tập ở sân. Thấy lửa cứ lan ra, dần dần tới lối xóm, cả nhà nhớn nhác không biết làm sao.</p><p></p><p>Bỗng chiếc xuyến vàng ở tay phu nhân soạt một tiếng thoát khỏi tay bay ra, nhìn theo thấy to mấy mẫu úp quanh trên nhà, hình dáng như vành trăng, chỗ mối nối hướng về phía đông nam, nhìn thấy rất rõ ràng, mọi người đều kinh ngạc. Giây lát ngọn lửa từ phía tây lan tới, tới gần cái vành thì tạt qua phía đông. Khi thế lửa đã dịu, phu nhân đang thầm nghĩ chắc mất chiếc xuyến rồi, không sao lấy lại được nữa chợt thấy ánh vàng vụt thu lại, chiếc xuyến rơi leng keng ngay dưới chân. Mấy vạn nhà dân trong thành đều cháy sạch, chung quanh đều ra tro, chỉ có nhà họ Ngô là không bị gì, duy có một ngôi lầu nhỏ ở phía đông nam bị cháy rụi, tức là nơi mối nối của chiếc xuyến để hở ra. Bà Cát hơn năm mươi tuổi mà có người gặp, thấy chỉ như ngoài hai mươi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 94 - 96 -</strong></p><p>Nước Dạ Xoa</p><p>(Dạ Xoa Quốc)</p><p></p><p>Họ Từ ở đất Giao Châu (huyện Ngô Châu tỉnh Quảng Tây) vượt biển đi buôn, bị bão thổi bạt thuyền. Mở mắt thấy tới một xứ núi cao rừng rậm, cho rằng có người ở bèn buộc thuyền đem theo lương khô lên bờ. Vừa vào thì thấy hai bên núi đều có cửa hang dày đặc như lỗ tổ ong, phía trong như có tiếng người. Bèn tới ngoài một cửa hang nhìn vào, thấy có hai con dạ xoa răng tua tủa như dao, mắt sáng quắc như đèn đang lấy móng xé một con hươu ăn sống, hồn bay phách lạc vội chạy lui lại thì dạ xoa quay lại nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt vào. Hai con nói chuyện với nhau, tiếng như chim kêu thú gào, rồi tranh nhau xé nát áo Từ như muốn ăn tươi nuốt sống. Từ cả sợ quá vội lấy lương khô thịt khô trong túi ra đưa, chúng chia nhau ăn có vẻ ngon lành lắm rồi lại lục cái túi. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa tức giận lại túm lấy Từ. Từ năn nỉ “Tha cho ta đi, trong thuyền ta có nồi niêu, có thể nấu nướng được". Dạ xoa không hiểu, vẫn tức giận. Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiểu bèn theo Từ ra thuyền.</p><p></p><p>Từ đem nồi vào hang, gom củi nhen lửa nấu chín thịt hươu còn lại đưa cho dạ xoa, hai con vật ăn xong thích lắm. Đêm đến chúng vần khối đá lớn lấp cửa hang như có ý sợ Từ bỏ trốn. Từ nằm co quắp xa xa, chỉ sợ không sao sống được. Trời sáng hai con vật ra, lại lấp chặt cửa hang, lát sau mang về một con hươu đưa cho Từ. Từ lột da, múc nước chảy ở cuối hang luộc thịt làm mấy nồi, giây lát có một bầy mấy con dạ xoa kéo tới ăn ngấu nghiến hết sạch, rồi cùng chỉ vào cái nồi như chê nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn như người ta vẫn thường dùng. Từ đó cả bầy cứ đem tới nào nai nào sói cho Từ nấu, thịt chín rồi thì gọi Từ cùng ăn. Được vài ngày, dạ xoa dần dà quen Từ, khi đi không vần đá lấp cửa hang nhốt lại nữa mà đối xử như cùng trong bầy.</p><p></p><p>Từ dần dần xét tiếng kêu của chúng mà xem ý tứ rồi tập kêu theo, nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa càng thích, đưa một dạ xoa cái tới làm vợ Từ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần, dạ xoa cái tới ngủ chung, cùng Từ ăn nằm thích lắm, thường đem thịt cho Từ ăn như vợ chồng con người vậy. Một hôm cả bầy dậy sớm, lấy chuỗi hạt minh châu đeo quanh cổ thay phiên nhau ra cửa như chờ khách quý, lại bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi dạ xoa cái, nó đáp đây là tiết Thiên thọ. Dạ xoa cái ra nói với bầy rằng "Từ lang không có vòng đeo cổ". Mỗi con bèn trích trong chuỗi minh châu của mình năm hạt đưa nó, nó cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình ra, được tất cả năm mươi hạt rồi lấy dây cỏ xỏ thành một chuỗi đeo vào cổ cho Từ, Từ xem kỹ thấy mỗi hạt đều đáng giá hàng trăm đồng vàng. Lát sau cả bầy đều ra ngoài, Từ nấu thịt xong, dạ xoa cái vào bảo đi, nói là ra đón thiên vương.</p><p></p><p>Tới một cái hang lớn rộng chừng một mẫu, giữa có tảng đá to bằng phẳng như cái bàn, chung quanh đều có chỗ ngồi bằng đá, một chỗ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu, hai ba chục dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Giây lát gió to tung bụi bay mù mịt, cả bọn vội vàng ra đón, thấy một con vật to lớn hình thù như dạ xoa chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi ngất ngưỡng trên bệ, đưa mắt nhìn khắp chung quanh. Bầy dạ xoa theo vào chia ngồi xuống hai bên, đầu ngẩng cao, hai cánh tay chắp thành hình chữ thập trước ngực. Con vật đếm cả bọn rồi hỏi "Bọn Ngọa My Sơn có mặt cả ở đây không?", cả bầy cùng dạ. Nó nhìn Từ hỏi “Từ đâu tới?”, dạ xoa cái thưa là chồng, cả bầy đều ca ngợi Từ biết nấu thịt. Lập tức hai ba dạ xoa chạy đi lấy thịt chín bày lên, con vật bốc ăn no, hết sức khen ngợi, bảo phải cung đốn thường xuyên. Lại quay nhìn Từ hỏi "Vòng hạt sao ngắn thế?", cả bọn thưa “Mới tới nên chưa đủ”. Con vật rút mười hạt trong chuỗi hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào cũng to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn, dạ xoa cái vội đón lấy đeo vào cho Từ, Từ cũng chắp tay nói tiếng dạ xoa tạ ơn.</p><p></p><p>Kế con vật ra khỏi hang, lướt gió đi nhanh như bay, cả bầy bèn ăn chỗ thịt còn lại rồi tan đi. Được hơn bốn năm, vợ Từ sinh ba, hai trai một gái, đều có hình người chứ không giống mẹ. Bầy dạ xoa đều rất thích ba đứa nhỏ, cùng vỗ về đùa giỡn với chúng. Một hôm cả hang đi vắng, chỉ còn một mình Từ, chợt một dạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm, Từ không chịu, nó tức giận quật Từ xuống đất. Vợ Từ từ ngoài vào, nổi giận đánh nhau, cắn đứt tai nó. Giây lát con đực chồng nó về, gỡ ra đuổi nó đi, từ đó dạ xoa cái giữ rịt lấy Từ không rời. Lại ba năm sau, ba đứa trẻ biết đi, Từ dạy chúng tiếng người, dần dần biết nói, bập bẹ như người, tuy còn nhỏ nhưng trèo núi như đi trên đất bằng, khắng khít với Từ như cha con loài người.</p><p></p><p>Một hôm dạ xoa cái và một trai một gái ra ngoài, nửa ngày chưa về mà gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê, dẫn con trai tới bờ biển. Thấy chiếc thuyền cũ vẫn còn, định cùng nhau trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm về tới Giao Châu, tới nhà thì vợ đã cải giá. Từ bán hai hạt châu được rất nhiều tiền, trong nhà dư dật. Đứa con lấy tên là Bưu, mười bốn mười lăm tuổi đã có thể nhấc nổi vật nặng trăm thạch, tính thô mãng thích đánh nhau. Viên Tổng súy đất Giao gặp lấy làm lạ, trao cho chức Thiên tổng. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong Phó tướng.</p><p></p><p>Lúc ấy có một lái buôn đi biển cũng bị gió bạt tới Ngọa My, vừa lên bờ thì gặp một thiếu niên, lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là người Trung Quốc liền tới hỏi han, người lái buôn nói rõ. Thiếu niên dẫn tới hẻm núi vắng, đưa vào một hang đá . nhỏ, bên ngoài toàn là cây cỏ gai góc, dặn chớ ra ngoài. Đi hồi lâu quay về đem thịt hươu cho người lái buôn ăn, nói cha mình cũng là người Giao Châu, người lái buôn hỏi ra thì là Từ, lúc đi buôn có biết nhau bèn nói "Ông ta là bạn ta, nay đứa con trai đang làm Phó tướng". Thiếu niên không hiểu Phó tướng là gì người ấy nói "Đó là chức quan ở Trung Quốc”. Thiếu niên lại hỏi quan là gì, người ấy đáp “Ra đường thì cưỡi ngựa đi xe, vào nhà thì ngồi trên sảnh đường, gọi một tiếng thì trăm người dạ, ai gặp cũng không dám nhìn thẳng, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan". Thiếu niên có vẻ thích lắm, người lái buôn nói "Tôn quân đã ở Giao Châu, sao còn chịu ở đây lâu thế?". Thiếu niên kể lại sự tình.</p><p></p><p>Người lái buôn khuyên nên về nam, thiếu niên nói "Ta cũng thường có ý ấy, song mẹ ta không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác, vả lại nếu đồng loại mà biết sẽ làm hại nên còn chần chừ". Rồi đi ra, nói "Đợi gió bắc nổi ta sẽ đưa ông về, phiền ông tới báo cho cha anh ta biết tin". Người lái buôn ẩn trong hang gần nửa năm, có lần nhìn qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài sợ lắm, không dám động đậy. Một hôm gió bắc ù ù nổi, thiếu niên chợt tới, dẫn người lái buôn trốn ra, dặn "Đừng quên điều ta nhờ”, người lái buôn vâng dạ rồi về, tới Giao Châu vào ngay phủ Phó tướng kể lại những điều đã gặp. Bưu nghe chuyện chạnh lòng muốn đi tìm mẹ và em, cha lo biển khơi sóng gió, yêu vật hung dữ, nguy hiểm khó lòng nên hết sức ngăn cản. Bưu đấm ngực kêu khóc, cha phải cho đi.</p><p></p><p>Bưu tới trình với Tổng súy đất Giao, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược, trôi dạt trên biển nửa tháng, nhìn quanh chỉ thấy mênh mông trời nước không bờ, không phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp con sóng to ngất trời, thuyền bị lật úp, Bưu rơi xuống biển bị sóng cuốn hồi lâu thì được một con vật kéo đi. Tới một nơi thấy có nhà cửa, nhìn thấy con vật ấy có hình dáng dạ xoa, bèn nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa kinh ngạc hỏi han, Bưu nói rõ là mình định đi đâu, dạ xoa mừng rỡ nói "Ngọa My là quê cũ của ta, đường đột thế này thật có lỗi. Ông đã đi chệch đường tám ngàn dặm, đây là đường tới nước Độc Long, không phải lối đến Ngọa My". Rồi tìm thuyền đưa Bưu xuống, dạ xoa bơi dưới nước đẩy thuyền đi nhanh như tên bắn, chớp mắt đã vượt ngàn dặm, qua một đêm thì tới bờ bắc Ngọa My.</p><p></p><p>Thấy trên bờ có một thiếu niên quanh quẩn trông ngóng, Bưu biết trên núi không có loài người ở, ngờ đó là em, tới gần hỏi quả đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc, kế Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, em trai nói đều mạnh khỏe bình yên. Bưu muốn tới thăm, em trai ngăn lại, trời tối quay đi. Bưu trở ra cám ơn dạ xoa đưa mình tới thì nó đã đi mất. Không bao lâu mẹ và em gái cùng tới, vừa thấy Bưu đã khóc ròng. Bưu nói ý mình, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo "Sợ đến sẽ bị người làm nhục". Bưu nói "Con ở Trung Quốc rất quý hiển, ai dám coi thường". Khi đã quyết ý về Giao Châu thì lại gặp gió ngược không đi được, mẹ con đang lúng túng thì cánh buồm xoay về phía nam kêu phần phật, Bưu mừng nói “Trời giúp ta rồi”. Mẹ con theo nhau lên thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới Giao Châu, người trên bờ nhìn thấy đều bỏ chạy.</p><p></p><p>Bưu chia quần áo cho ba người, về tới nhà, mẹ dạ xoa thấy Từ thì giận dữ chửi mắng vì ra đi không bàn với mình, Từ phải xin lỗi mãi. Gia nhân tới chào chủ mẫu, người nào cũng run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc, cho mặc đẹp ăn ngon, mẹ dạ xoa dần dần vui vẻ yên lòng. Cả mẹ và con gái đều mặc nam trang, được vài tháng mẹ dần biết tiếng người, hai em thì trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái đặt tên là Dạ Nhi, đều rất khỏe mạnh. Bưu xấu hổ vì em không biết chữ, cho Báo học hành. Báo rất thông minh, kinh sử chỉ đọc qua là hiểu nhưng không muốn học văn, Bưu bèn cho tập cưỡi ngựa bắn cung, sau đỗ Tiến sĩ võ, lấy con gái viên Du kích họ A.</p><p></p><p>Dạ Nhi thì vì khác loài không ai lấy, sau có viên Thủ bị họ Viên dưới trướng Bưu góa vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng trăm thạch, ngoài trăm bước bắn trúng chim nhỏ, không sai một phát. Viên mỗi khi đánh dẹp thường đưa vợ cùng đi, dần làm tới chức Đồng tri tướng quân, một nửa công trạng là do vợ lập. Báo năm ba mươi tư tuổi được đeo ấn Tướng quân, mẹ cũng thường theo đi đánh dẹp phía nam, mỗi khi gặp đám giặc mạnh là mặc giáp cầm gươm tiếp ứng cho con, quân giặc trông thấy là sợ hãi lui chạy. Nhà vua xuống chiếu phong tước nam, Báo thay mẹ dâng sớ từ chối, được phong Phu nhân.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Phu nhân dạ xoa là chuyện ngày nay ít nghe, nhưng nghĩ kỹ thì không ít đâu, trong phòng nhà nào cũng thường có dạ xoa đấy thôi.</em></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p><strong>095. Cướp Già </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Lão Hào)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hình Đức người Trạch Châu (huyện Tấn Thành tỉnh Sơn Tây) là tay kiệt hiệt trong bọn lục lâm, có thể phát tên liên tiếp nhiều mũi, nổi tiếng là tuyệt kỹ, bình sinh phóng khoáng không để ý tới chuyện kiếm tiền, ra cửa mới nhìn lại túi. Các nhà buôn lớn ở hai kinh<strong>*</strong> đều thích đi chung với Hình vì dọc đường chắc chắn sẽ được yên ổn. Gặp lúc đầu mùa đông, có hai ba người khách buôn tới vay ít tiền rồi rủ Hình cùng đi, Hình cũng dốc túi góp vốn với họ. Bạn Hình có người bói giỏi, Hình tới hỏi, người bạn gieo quẻ rồi nói "Quẻ này rất xấu, làm gì cũng không những không có lời mà còn cụt vốn". Hình không vui, đã định thôi không đi nữa nhưng mấy người khách cứ ép lên đường ngay.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Hai kinh: tức Trường An và Lạc Dương, hai trung tâm chính trị và kinh tế ở Trung Quốc thời cổ.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Tới kinh quả nhiên buôn bán thua lỗ, giữa tháng chạp Hình cưỡi ngựa rời kinh, tự nghĩ qua năm mới không có tiền, càng thêm phiền muộn. Lúc ấy là buổi sáng, hơi mù ngập đồng, Hình phóng nhanh tới một quán rượu cạnh đường, cởi hành lý gọi rượu. Thấy một ông già tóc bạc trắng ngồi cùng hai thiếu niên uống rượu chỗ của sổ phía bắc, có một đứa tiểu đồng đứng hầu, tóc xõa rối tung. Hình ngồi bàn phía nam, đối diện với ông già. Đứa tiểu đồng bưng rượu lỡ tay làm đổ mâm vấy cả thức ăn vào áo ông già, một thiếu niên tức giận đứng dậy kéo tai nó rồi lấy khăn lau áo cho ông già. Kế lại thấy trên cổ tay đứa tiểu đồng có đeo một chuỗi đạn sắt dày khoảng nửa tấc, mỗi viên nặng khoảng hơn hai lượng. Ăn uống xong ông già bảo thiếu niên lấy bọc tiền trong túi da đổ ra trên bàn, tính toán trả tiền xong còn đủ uống thêm mấy chén nữa, bèn cất trở vào.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Thiếu niên dắt một con ngựa đen buộc dưới tàu ra, đỡ ông già lên, đứa tiểu đồng cũng nhảy lên ngựa đi theo. Hai thiếu niên thì đều đeo cung tên trên lưng, thúc ngựa cùng ra. Hình nhìn trộm thấy họ có nhiều tiền, lại đang lúc túng quẫn, máu tham nổi lên vội trả tiền đuổi theo, thấy ông già và đứa tiểu đồng đang thủng thỉnh phía trước bèn rẽ xuống đường tắt phóng ngựa vòng lên chặn trước ông già, kéo căng dây cung chĩa thẳng tên trợn mắt hăm dọa. Ông già cúi xuống tháo chiếc giày bên chân trái ra cười khẽ nói "Người không biết lão cướp già này à?". Hình bắn thử một phát, ông già ngã người trên yên ngựa giơ chân lên lấy hai ngón cặp mũi tên rồi cười nói "Tài nghề chỉ có bấy nhiêu thì chưa đáng là địch thủ của cha ngươi đâu”. Hình nổi giận giở tuyệt kỹ ra, mũi trước vừa phát đi, mũi sau lại xé gió bay tới. Ông già vươn tay chụp được mũi trước nhưng dường như không đề phòng tên liên châu nên bị mũi sau bắn trúng miệng ngã lăn xuống ngựa, miệng ngậm tên, mắt trợn ngược, đứa tiểu đồng cũng vội xuống ngựa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hình mừng rỡ cho là ông ta đã chết bèn phóng tới gần, ông già phun mũi tên ra nhảy choàng dậy vỗ tay nói "Sao vừa gặp nhau đã giở độc thủ ra thế?”. Hình cả kinh, con ngựa cũng giật mình phóng đi, vì thế biết ông già là người lạ, không dám quay lại nữa. Đi được ba bốn mươi dặm thấy có một bọn gia nhân nhà quan chở đồ đạc về kinh, Hình đánh cướp luôn, tính ra được khoảng hơn ngàn vàng, lại bắt đầu hăng hái. Đang lúc phóng nhanh chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa, ngoảnh nhìn thì thấy đứa tiểu đồng đã thay con ngựa khác đuổi tới như bay, quát lớn "Thằng kia đừng chạy, số hàng vừa cướp được phải chia đôi". Hình hỏi "Ngươi có biết Liên châu tiễn Hình mỗ không?", nó đáp "Ta vừa được lãnh giáo rồi".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hình nhìn bộ dạng nó không có gì là khỏe mạnh, lại không thấy có cung tên nên xem thường, phát luôn ba mũi tên liên châu nối nhau không dứt như bầy chim ào ạt bay ra. Đứa tiểu đồng không hề hoang mang, giơ tay bắt hai mũi, há miệng cắn một mũi rồi cười nói "Tài nghề như thế thì nhục nhã thật, cha ngươi đi gấp quá không kịp mang cung, vật này vô dụng, xin trả lại ngay", rồi rút chuỗi đạn sắt trên tay xỏ vào mũi tên lấy hết sức phóng trả. Mũi tên rít gió bay tới, Hình vội lấy dây cung gạt ra, vừa chạm vào chuỗi đạn sắt thì phựt một tiếng, dây cung đứt đôi, cánh cung cũng bị sứt một mảnh.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hình khiếp đảm, chưa kịp bỏ chạy thì mũi kế lại lướt qua mang tai, bất giác ngã ngựa. Đứa tiểu đồng xuống ngựa tới túm lấy, Hình nằm dưới đất lấy cánh cung đánh trả. Đứa tiểu đồng tức giận giật cung bẻ làm đôi, lại chập đôi bẻ làm tư ném đi, rồi một tay nắm hai tay, một chân đạp lên hai đùi Hình, tay nắm chặt như dây trói, chân đạp nặng như đá đè, Hình hết sức vùng vẫy mà không sao nhúc nhích được. Trên lưng Hình có thắt sợi dây lưng dày hai lớp, rộng bằng ba ngón tay, đứa tiểu đồng lấy một tay giật ra, sợi dây theo tay đứt tả tơi như tro. Lấy hết tiền của Hình xong, nó nhảy lên ngựa giơ tay một cái, một tràng vó ngựa vừa vang lên thì người đã mất hút. Hình về tới nhà, sau đó trở nên lương thiện, thường kể lại cho người ta nghe chuyện ấy không hề lấy làm xấu hổ. Chuyện này cũng phảng phất như chuyện Lưu Đông Sơn<strong>*</strong>.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Chuyện Lưu Đông Sơn: chưa rõ nội dung, nhưng bản Hương Cảng chú là chép trong Cửu thược tập của Tống ấu Thanh.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>096. Cơ Sinh </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Cơ Sinh)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Nhà họ Ngạc ở Nam Dương (tỉnh thành Hà Nam) bị hồ quấy phá, tiền bạc đồ dùng cứ bị lấy trộm, chửi mắng thì càng phá phách thêm. Ngạc có cháu ngoại là Cơ sinh, là kẻ danh sĩ, tính vốn không chịu bị ràng buộc, cứ đốt hương khấn khứa năn nỉ thay Ngạc nhưng hồ không nghe. Lại khấn khứa xin tha cho nhà ông ngoại, bảo cứ về nhà mình mà phá phách, hồ cũng không chịu, người ta đều cười. Sinh nói “Hồ có thể biến hóa thì ắt biết suy nghĩ, nên ta cố dẫn dắt cho vào đường chính", cứ hai ba hôm lại khấn khứa một lần. Tuy vẫn không hiệu nghiệm nhưng cứ sinh tới thì hồ không phá phách gì nữa, vì vậy Ngạc thường giữ sinh ngủ lại.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sinh đêm đêm cứ nhìn lên trời khấn khứa ngày càng thêm kiên tâm. Một hôm sinh về nhà, đang ngồi một mình trong phòng, chợt cửa phòng từ từ khép lại, sinh đứng lên kính cẩn nói “Hồ huynh tới đấy ư?”, nhưng không có tiếng động nào khác nữa. Một đêm cánh cổng tự mở ra, sinh nói "Nếu đúng là hồ huynh giáng lâm thì đó là vì tiểu sinh khấn khứa nài nỉ, ngại gì mà không cho gặp mặt?”, thì lại yên ắng, nhưng có hai trăm đồng tiền để ở đầu bàn, sáng ra nhìn tới đã mất rồi. Đến đêm sinh lại để thêm vài trăm đồng, giữa khuya nghe ngoài màn có tiếng động, sinh nói "Lại tới đấy ư? Có sẵn vài trăm đồng tiền để đó phòng khi huynh cần dùng, ta tuy không dư dả gì nhưng cũng chẳng phải loại keo kiệt, nếu huynh cần gấp để chi dùng cứ hỏi mà lấy có hề gì, cần chi phải lấy trộm?". Lát sau ra nhìn thấy chuỗi tiền bị rút mất hai trăm đồng, sinh vẫn để yên đó nhưng mấy đêm không bị mất nữa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Có con gà luộc định đãi khách thì mất, tối đến sinh lại đặt thêm bầu rượu vào đó, nhưng từ đó hồ tuyệt tích luôn. Nhà họ Ngạc thì vẫn bị quấy phá như cũ, sinh qua khấn nói "Ta để tiền mà ông không cầm, để rượu mà ông không uống, còn ông ngoại ta già yếu, sao cứ quấy phá mãi thế? Ta có sắp sẵn vật mọn, đêm nay nhờ ông tới lấy giúp". Rồi lấy mười ngàn đồng tiền và một vò rượu gói lại đặt lên bàn, sinh nằm ngay bên cạnh nhưng cả đêm không thấy một tiếng động, tiền và rượu vẫn còn nguyên chỗ cũ, từ đó hết hẳn nạn hồ. Một hôm chiều tối sinh về nhà, mở cửa phòng sách thấy trên bàn có một bầu rượu, một đĩa thịt gà luộc và bốn trăm đồng tiền xâu bằng dây đỏ, là những món bị mất trước đây, biết là hồ đem tới.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Ngửi bầu rượu thấy thơm phức, rót ra thấy màu xanh biếc, uống vào vô cùng ngon ngọt, uống cạn bầu rượu thì hơi say, chợt nảy ý tham lam muốn đi ăn trộm bèn mở cổng bước ra. Nhớ lại trong thôn có một nhà giàu bèn tới đó nhảy qua tường, tuy tường cao nhưng nhảy lên rồi nhảy xuống nhẹ nhàng như có cánh, vào phòng xách luôn cái áo cừu, bưng cái đỉnh đồng trở ra quay về nhà đặt ở đầu giường rồi mới đi ngủ. Sáng ra cắp vào phòng vợ, vợ ngạc nhiên hỏi, sinh thì thào kể lại, dáng vui vẻ lắm. Vợ lúc đầu còn cho là sinh đùa, khi biết là thật hoảng sợ nói "Chàng vốn ngay thẳng, sao bỗng nhiên lại đi làm chuyện này?". Sinh thản nhiên không hề lấy làm lạ lùng, còn kể chuyện hồ có tình nghĩa. Vợ giật mình hiểu ra ắt là trong bình rượu có thuốc độc của hồ, nhân nghĩ đan sa có thể giải tà độc bèn lấy nghiền ra hòa vào rượu bảo sinh uống.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Giây lát chợt sinh rú lên nói “Tại sao ta lại đi ăn trộm?", vợ giải thích nguyên do, sinh thẫn thờ như mất của. Lại nghe nói nhà giàu bị trộm, cả làng đồn đại, sinh cả ngày bỏ ăn không biết làm sao, vợ bàn nhân đêm tối đem ném trả vào trong tường, sinh nghe theo. Nhà giàu lấy lại được vật bị mất, việc ấy mới lắng xuống. Sinh khảo khóa cuối năm đỗ đầu, lại được cử làm Chư sinh hạng ưu, theo lệ thì được thưởng gấp đôi. Đến ngày phát thưởng chợt trên xà nhà công thự có một tấm thiếp dán vào, trên viết "Cơ sinh là ăn trộm, lấy trộm áo cừu đỉnh đồng của ông Mỗ, sao lại được hạng ưu?". Xà nhà rất cao, không thể nhảy lên mà dán vào được, khảo quan lấy làm ngờ vực, cầm tấm thiếp hỏi sinh. Sinh ngạc nhiên, nghĩ việc này ngoài vợ ra thì không ai biết, huống hồ công thự canh gác nghiêm cẩn thì tấm thiếp từ đâu tới được, chợt sực nghĩ ra nói “Đây chắc là hồ làm ra". Rồi kể lại mọi việc không e ngại gì, khảo quan bèn thưởng thêm cho. Sinh vẫn tự nghĩ không làm gì nên tội với hồ, mấy lần mình sa hầm sẩy hang cũng chỉ là cái nhục của kẻ tiểu nhân, vì mình là kẻ tiểu nhân mà thôi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Cơ sinh muốn dẫn dắt kẻ tà đạo vào đường chính mà lại bị kẻ tà mê hoặc, chưa chắc là hồ đã có ác ý, có lẽ sinh đùa dẫn dắt thì hồ cũng đùa phá quấy thôi. Nhưng nếu thân không có túc căn, nhà không có vợ hiền, thì biết đâu lại chẳng như Nguyên Thiệp vẫn nói “Gia nhân, quả phụ vì trộm cắp nhơ danh rồi làm bậy luôn<strong>*</strong>”, sao! Ôi, đáng sợ thay!</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Nguyên Thiệp... làm bậy luôn: Tiền Hán thư, Du hiệp truyện chép Nguyên Thiệp làm Huyện lệnh Cốc Khẩu, tính ưa chiêu hiền đãi sĩ, có người môn khách nghèo bệnh chết, Thiệp tới tận nhà giúp đỡ tiền bạc tống táng chu đáo, lại thường chu cấp cho vợ con người ấy. Có người chê Thiệp bỏ tiền mua cái danh hào hiệp, Thiệp nói người ta ai cũng muốn làm đầy tớ trung thành, góa phụ trinh tiết, nhưng nếu trong nhà thiếu thốn phải trộm cắp nhơ danh thì sẽ làm bậy luôn, nên phải giúp đỡ cho họ giữ được tiếng trong sạch mà giữ lòng trong sạch. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 97 -</strong></p><p>Tướng Quân Khỏe Mạnh</p><p></p><p></p><p></p><p>(Đại Lực Tướng Quân)</p><p></p><p>Tra Y Hoàng là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tiết Thanh minh đi chơi, vào uống rượu trong một ngôi chùa hoang. Thấy trước điện phật có cái chuông cổ to bằng hai cái lu, trên dưới đầy vết tay bụi bặm còn mới, lấy làm ngờ vực bò xuống xem thì bên trong có cái giỏ tre đựng khoảng tám thăng, không biết chứa vật gì. Sai mấy người xúm lại nhấc lên mà không nổi, càng sợ bèn ngồi lại uống rượu chờ xem. Không bao lâu có một người ăn mày từ ngoài vào, đặt các thức cơm bánh xin được thành đống xuống cạnh chuông, một tay nhấc chuông lên, một tay bốc bỏ vào cái giỏ, mấy lượt như thế mới hết rồi đậy chuông lại bỏ đi. Lát sau trở lại bốc ăn, ăn xong lại đậy chuông lại, nhẹ nhàng như mở nắp rương, cả bọn đều sợ hãi. Tra hỏi "Anh là kẻ nam nhi, tại sao phải xin ăn?” người ấy đáp vì ăn khỏe quá nên không có ai thuê mướn. Tra thấy thế khuyên nên đầu quân, người ấy thở dài nói rằng không có người dẫn dắt.</p><p></p><p>Tra bèn dắt về nhà cho ăn uống, thấy ăn khỏe bằng năm sáu người. Lại may y phục cho, rồi tặng năm mươi đồng vàng làm lộ phí. Hơn mười năm sau, cháu của Tra làm Tri huyện ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), chợt có tướng quân Ngô Lục Nhất tới bái phỏng. Đang lúc chuyện trò, tướng quân hỏi Y Hoàng là người thế nào với ông, cháu Tra đáp “Đó là chú ta, quen biết tướng quân ở đâu?". Tướng quân nói "Đó là thầy ta, chia tay đã mười năm, lòng thường không quên, phiền ông nhắn với tiên sinh tới chơi một lần". Cháu Tra ậm ừ, tự nghĩ chú mình có tiếng văn chương, làm sao có được học trò theo nghề võ. Gặp lúc Y Hoàng tới, cháu kể lại, Y Hoàng quên bẵng không nhớ ra là ai nhưng thấy nói là thăm hỏi rất ân cần, lập tức sai đầy tớ dắt ngựa tới phủ tướng quân đưa danh thiếp xin yết kiến.</p><p></p><p>Tướng quân rảo bước ra đón tận ngoài cổng lớn, Tra thấy không hề quen biết, nghĩ thầm chắc là tướng quân lầm. Nhưng tướng quân tỏ vẻ rất cung kính, mời khách vào nhà, qua ba bốn lần cửa tới một chỗ có đàn bà con gái qua lại, Tra biết là nơi ăn ở của gia đình bèn dừng lại, tướng quân lại kéo đi. Giây lát lên một sảnh đường, những người cuốn rèm bưng ghế đều là tỳ thiếp trẻ đẹp. Tra vừa ngồi xuống, đang định hỏi thì tướng quân khẽ hất hàm, một người tỳ thiếp liền bưng mũ áo đại trào tới, tướng quân lập tức đứng dậy thay áo. Tra không biết tướng quân định làm gì thì các tỳ thiếp đều xắn tay áo, tướng quân sai mấy người xúm lại giữ chặt Tra ngồi yên không cho nhúc nhích rồi lạy phục xuống đất như ra mắt thiên tử vậy. Tra rất kinh ngạc không hiểu vì sao, tướng quân lạy xong lại vào thay áo ra ngồi, cười nói "Tiên sinh không nhớ thằng ăn mày nhấc cái chuông à?", Tra mới sực nhớ ra.</p><p></p><p>Kế đó mời lên thềm cao ăn yến, phường hát trong nhà ca múa ở dưới, lúc say rồi các tỳ thiếp xúm lại hầu hạ. Tướng quân vào trong bảo dọn giường cho Tra nghỉ rồi mới đi. Tra say rượu dậy muộn, tướng quân đã tới ngoài cửa phòng hỏi thăm mấy lần. Tra áy náy cáo từ muốn về, tướng quân sai đóng cổng lại không cho ra. Tra thấy tướng quân hàng ngày không làm gì khác, chỉ tính toán số tỳ thiếp và tôi tớ trong nhà, kiểm điểm xe ngựa, quần áo, vật dùng, bắt làm sổ sách, dặn không được để sót. Tra cho rằng đó là việc nhà của tướng quân nên cũng không hỏi gì.</p><p></p><p>Một hôm tướng quân cầm sổ sách tới nói với Tra “Kẻ bất tài này có được ngày hôm nay là nhờ ơn lớn của tiên sinh, một người một vật cũng không dám riêng tư, xin kính dâng tiên sinh một nửa”. Tra ngạc nhiên từ chối, tướng quân không nghe, đem tiền bạc ra có đến mấy vạn chia làm hai phần, kế theo sổ sách đem từ đồ cổ ngoạn tới bàn ghế giường tủ ra bày la liệt từ trong tới ngoài. Tra cố từ chối nhưng tướng quân không để ý gì tới, kê biên tên họ tôi tớ tỳ thiếp xong, lập tức ra lệnh đàn ông lo thu thập hành lý, đàn bà lo thu thập tư trang, dặn phải kính cẩn thờ phụng tiên sinh, mọi người dạ rân. Lại đích thân đưa các tỳ thiếp lên kiệu, sai bọn mã phu dắt lừa ngựa rầm rộ ra đi rồi quay lại chào Tra. Về sau Tra vướng vào cái án làm sử<strong>*</strong> bị bắt, sau cùng được tha đều là nhờ sức tướng quân.</p><p></p><p>*Cái án làm sử: xem chú thích đoạn Phụ lục.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ban ơn mà không hỏi gì tới tên họ, đúng là bậc trượng phu hào hiệp thời cổ. Mà tướng quân báo đáp cũng khẳng khái hào sảng, ngàn năm ít thấy, bụng dạ như thế thì ắt không thể chết già nơi ngòi rãnh. Xem đó đủ biết hai bậc hiền tài gặp nhau không phải là ngẫu nhiên đâu.</em></p><p></p><p><strong>Phụ Lục: Một Truyện Trong Cô Thặng Tuyết Cấu</strong></p><p><strong>(Phụ Lục Cô Thặng Tuyết Cấu Nhât Tắc)</strong></p><p></p><p>Hiếu Liêm họ Tra ở huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang tự Y Hoàng là người tài hoa tiêu sái, thường nói “Mắt thấy mênh mông, không sao gặp gỡ hết các bậc kỳ kiệt trong thiên hạ, nếu không tìm trong đám người thường thì không được". Cuối năm ở nhà, sai lấy rượu ra độc ẩm, khoảnh khắc mây mù giăng mắc, tuyết rơi mờ mịt, bèn đi dạo ra cổng xem có khách quý nào tới để cùng ngâm cảnh. Chợt thấy một người ăn mày tránh tuyết nép dưới vòm cổng, hiên ngang đứng thẳng, Hiếu liêm đứng nhìn hồi lâu thầm lấy làm lạ.</p><p></p><p>Nhân gọi vào ngồi, hỏi "Ta nghe nói trong chợ có một người ăn mày tay không cầm gậy, miệng như ngậm tăm, áo rách hở bụng mà không có vẻ đói rét, mọi người đều gọi là Thiết cái (ăn mày sắt), có phải là ngươi không?", người ấy đáp “Phải”. Lại hỏi “Uống rượu được không?”, người ấy đáp “Được Hiếu liêm bèn sai tiều đồng lấy chỗ rượu thừa trong bầu trút vào tô cho y uống, người ăn mày bưng tô uống một hơi hết sạch. Hiếu liêm thích quá lại sai quạt than hâm rượu, hẹn với y rằng “Ngươi uống một tô thì ta uống một chung, hết chỗ rượu này thì thôi” Người ăn mày uống liền hơn ba mươi tô mà mặt chưa đỏ, còn Hiếu liêm đã say nằm lăn ra chiếu. Tiểu đồng xốc nách dìu vào nhà trong, người ăn mày đứng lên, lại bước ra đứng dưới vòm cổng. Đến sáng tuyết ngừng rơi, Hiếu liêm tỉnh rượu nói với gia nhân rằng "Đêm qua ta cùng Thiết cái đối ẩm vui quá, thấy quần áo y rách rưới, lấy gì chống rét cho được, lấy cái áo bông của ta đem cho y". Người ăn mày khoác áo rồi đi, cũng không xin vào tạ ơn chủ nhân.</p><p></p><p>Năm sau Hiếu liêm tới ngụ trong chùa Tường Minh ở Hàng Châu (tỉnh thành chiết Giang), lúc cuối xuân cùng bạn bè mang rượu đi chơi trên hồ. Chợt gặp người ăn mày ấy ở đình Phóng Hạc (tại Cô Sơn ở Tây Hồ), áo hở khuỷu tay, chân trần không dép ngẩng đầu đi một mình, bèn kéo về chùa, hỏi cái áo cho ngày trước đâu? Y đáp "Đang là tiết xuân, dùng nó làm gì? Ta đã bán lấy tiền gởi cả vào quán rượu rồi". Hiếu liêm nghe thế lấy làm lạ, nhân hỏi đã từng học chữ chưa, y đáp "Nếu không học chữ đọc sách thì đã không làm ăn mày". Hiếu liêm chạnh lòng, cho tắm rửa ăn mặc sạch sẽ rồi hỏi tên họ quê quán, người ăn mày nói "Ta là hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình<strong>*</strong>, nhà ở Việt Hải (tỉnh Quảng Đông), tên là Lục Kỳ.</p><p></p><p>*Hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình: nguyên văn là "Hệ xuất Diên Lăng, tâm nghĩa Khúc Nghịch”. Diên Lăng là địa danh thuộc huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, là nơi ở của Ngô Quý Trát thời Xuân thu, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình họ Ngô. Khúc Nghịch tức Khúc Nghịch hầu, tước phong của Trần Bình, một trong Hán triều tam kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, ba khai quốc công thần bậc nhất của nhà Hán, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình có hoài bão lớn lao.</p><p></p><p>Chỉ vì cha anh mất sớm, tính lại ưa cờ bạc nên tới nỗi lưu lạc giang hồ, trôi nổi như thế này. Nhân nghĩ gõ cửa xin ăn thì người hiền ngày xưa có khi cũng không tránh được, ta là hạng người nào mà dám cho đó là cái nhục, không nghĩ rằng gặp được minh công coi trọng kẻ phong trần, ra ơn lúc gặp gỡ. Ta tuy không phải kẻ thiếu niên ở Hoài âm<strong>*</strong> nhưng cái ơn một bữa cơm cũng đâu dám quên?". Hiếu liêm vội đứng dậy nắm tay y nói "Ngô sinh vốn là bậc kỳ kiệt trên đời mà ta lại coi là bạn rượu, để mất Ngô sinh rồi". Bèn sai sư trong chùa mua một thạch rượu Lê hoa xuân uống với nhau trọn ngày, giữ lại cả tháng rồi tặng tiền đi đường, bảo về Việt Đông.</p><p></p><p>*Thiếu Hoài âm: tức Hàn Tín, người huyện Hoài âm, Phá Sở Nguyên nhung của Hán Cao tổ Lưu Bang, là người cầm quân đánh bại Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, kết thúc cục diện Hán Sở tranh hùng. Lúc Hàn Tín còn hàn vi ra câu cá ở bờ sông, được một bà già giặt vải (Phiếu mẫu) cho ăn cơm suốt cả tháng. Sau Tín lập nên công nghiệp, đem ngàn lượng vàng về tạ ơn bà.</p><p></p><p>Lục Kỳ nhiều đời ở Triều Châu (tỉnh Quảng Đông), từng học Thi Thư nhưng vì say mê cờ bạc mà gia tài khánh tận, gởi thân làm phu trạm nên đường đi cửa ải hình thế hiểm trở ra sao đều biết rất rõ. Lúc ấy thiên hạ vừa định<strong>*</strong>, vương sư từ Chiết Giang tiến vào Quảng Đông, chiến thuyền liên tiếp nối nhau, cờ xí đỏ rực chiêng trống ầm ầm suốt mấy trăm dặm không dứt, qua các thành ấp quận huyện cư dân đều chạy trốn về thôn xóm, trên đường không một bóng người.</p><p></p><p>*Thiên hạ vừa định: chỉ lúc nhà Thanh đã đàn áp được nhiều phong trào phản Thanh phục Minh, bắt đầu khẳng định được quyền thống trị ở Trung Hoa.</p><p></p><p>Lục Kỳ một mình thản nhiên đi tới bị đội tiền tiêu bắt giải về dưới trướng, nhân đó xin ra mắt chủ tướng, thưa rõ về hình thế đất Việt Trung (tỉnh Quảng Đông), nói có thể truyền hịch mà bình định. Kỳ có ba mươi anh em kết nghĩa, vốn có tiếng anh hùng giỏi võ, chỉ vì thiên hạ vô chủ nên tụ tập bè đảng chiếm cứ đất đai làm cướp. Nay gặp lúc Hoàng thượng lên ngôi, thiên binh nam chinh, chính là lúc cứu vớt dân đen, sử dụng hào kiệt, bèn cho Kỳ đem ba mươi tờ văn thư phong chức đi trước chia cấp cho quần hùng, người gần ra hàng, người xa hưởng ứng, chưa đầy một tháng đã hình thành cái thế phá giặc như chẻ tre.</p><p>Chủ tướng theo lời Lục Kỳ, đất Việt bèn yên. Từ đó Lục Kỳ bày mưu tính kế, nói gì trúng đó, những kẻ có sức khỏe cũng không chống được, đánh đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) phá đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên) nhiều lần lập kỳ công, trong vòng vài năm được thăng tới chức Thông tỉnh Thủy lục Đề đốc. Lúc Lục Kỳ lưu lạc chưa gặp thời, tự nghĩ rằng mình phải làm ăn mày hèn hạ suốt đời, gặp được Tra Hiếu liêm cởi áo tặng vàng, lại nổi tiếng là bậc kỳ kiệt trong thiên hạ nên trong lòng mừng rỡ hăng hái, trong quân ngũ ra sức lập công, dần làm tới bậc nguyên nhung, thường nói "Thiên hạ có một người tri kỷ, không ai được như Tra Hiếu liêm".</p><p></p><p>Đầu niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mở phủ Đề đốc ở Tuần Châu (tỉnh Quảng Đông), lập tức sai nha tướng đem ba ngàn lượng vàng về để sẵn trong nhà rồi gửi thư mời Tra Hiếu liên tới đất Việt, chuẩn bị đầy đủ thuyền bè xe kiệu. Tra vừa qua Mai Lĩnh thì Ngô công tử đã đón đường vái lạy đón rước, giữ lễ rất mực cung kính, còn cách tỉnh thành hai mười dặm thì Ngô tự ra đón, đem nghi vệ dẫn đường như bậc vương hầu. Hiếu liêm về tới phủ thì Ngô phục lạy dập đầu, tự nói "Thằng ăn mày hèn hạ ngày xưa nếu không gặp được tiên sinh thì làm gì có ngày hôm nay. Nay may được tỉên sinh quá bộ tới chơi, dẫu nát thân ăn mày này cũng không đủ báo ơn”.</p><p></p><p>Tra ở đó một năm, Ngô tuy việc quân bận rộn nhưng ai được Tra tiên sinh nói giúp một lời thì Ngô lập tức nghe theo, nhờ vậy Tra được người ta biếu xén có tới hàng vạn lượng vàng. Đến khi Tra về, Ngô đem ba ngàn lượng vàng ra tiễn tặng, nói “Không dám nói là đền ơn, chỉ là để ghi lại lòng cảm kích của kẻ thiếu niên ở Hoài âm mà thôi". Trước là ở Thiều Trung (tỉnh Chiết Giang) có nhà giàu Trang Đình Việt mua được bộ sử của Chu Tướng quốc, tìm mời các danh sĩ vùng Tam Ngô (Tô Châu, Nhuận Châu, Hồ Châu) san định tu sửa, khắc in lưu truyền. Đầu sách có kể ra mười mấy ngườitham gia san định, vì Tra Hiếu liêm là bậc danh sĩ nên cũng kể vào. Không bao lâu cái án làm sử riêng<strong>*</strong> phát ra, ai dính líu đều bị khép trọng tội. Ngô ra sức tâu bày nên Tra Hiếu liêm mới thoát chết.</p><p></p><p>*Cái án làm sử riêng: tức vụ án Minh thư tập lược nổi tiếng thời Thanh. Trang Đình Long người Hồ Châu mua được bản thảo bộ Minh sử của tướng quốc nhà Minh Chu Quốc Trinh bèn dựa vào đó biên soạn thêm, mời nhiều danh sĩ Giang Nam san định bình chú, đặt tên sách là Minh thư tập lược, khắc bản lưu hành. Vì trong sách có dùng niên hiệu các vua nhà Minh, lời lẽ cũng nhiều chỗ động chạm tới nhà Thanh, nên gây ra vụ án lớn, có đến hàng trăm danh sĩ bị bắt, những người in sách bán sách mua sách cũng bị liên lụy, hàng vạn người tan cửa nát nhà náo động một thời.</p><p></p><p>Hiếu liêm từ đó về sau càng thả tình ở thơ rượu, dốc hết tiền bạc mua mười hai người con gái xinh đẹp dạy cho múa hát. Mỗi lúc đêm thanh mở tiệc thì buông rèm thắp đèn ca múa, châu ngọc khua ran, mỹ nữ yêu kiều, ai nhìn thấy cũng phải ngây ngất. Phu nhân của Hiếu liêm cũng giỏi âm luật, thường đích thân ra gõ phách cho đám ca kỹ trong nhà múa hát, sửa cho những chỗ sai, vì vậy phường nữ nhạc của họ Tra nổi tiếng nhất ở vùng Chiết Trung.</p><p></p><p>Trước kia lúc Hiếu liêm ở mạc phủ Quảng Đông thấy vườn hoa trong phủ cực đẹp, trong có một tòa giả sơn bằng đá thạch anh cao hơn hai trượng, lóng lánh đẹp đẽ như là quỷ thần tạc ra, rất ưa thích bèn đề cho hai chữ "Xu Vân" (Mây the). Qua tuần sau lại ra xem thì tòa giả sơn không còn, té ra Ngô đã sai lấy thuyền lớn chở về nhà Hiếu liêm, qua sông lên núi tốn phí tới hàng ngàn quan tiền. Nay Hiếu liêm đã chết, ca kỹ đã già, vườn hoang ao cạn mà tòa giả sơn vẫn còn.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển VI - 98 - 99</strong></p><p>Lưu Hải Thạch</p><p>(Lưu Hải Thạch)</p><p></p><p>Lưu Hải Thạch người huyện Bồ Đài (tỉnh Sơn Đông), tránh loạn tới ở Tân Châu (thuộc tỉnh Cát Lâm). Năm ấy mười bốn tuổi học cùng thầy với người học trò ở Tân Châu là Lưu Thương Khách, nhân chơi thân với nhau nên kết nghĩa anh em. Không bao lâu cha mẹ Hải Thạch mất, Hải Thạch mang hài cốt về quê, từ đó bặt tin. Thương Khách nhà khá giả, đến năm bốn mươi tuổi có hai con trai, con trưởng là Cát, mười bảy tuổi đã là danh sĩ trong huyện, con thứ cũng thông minh. Thương Khách lại nộp sính lễ cưới con gái nhà họ Nghê trong huyện, rất yêu dấu. Nửa năm sau con trưởng đau óc rồi chết, vợ chồng đều buồn rầu. Không bao lâu vợ lại mắc bệnh chết, vài tháng sau con dâu trưởng cũng chết, rồi tôi tớ cũng nối nhau chết, Thương Khách vô cùng thương xót đau buồn.</p><p></p><p>Một hôm đang ngồi buồn bã chợt người giữ cổng vào báo là Hải Thạch tới, Thương Khách mừng rỡ vội ra cổng đón vào. Đang định hỏi thăm sức khỏe, chợt Hải Thạch kinh ngạc nói "Anh có cái tai vạ chết sạch cả nhà mà không biết sao?", Thương Khách ngạc nhiên không hiểu ý tứ. Hải Thạch nói “Lâu quá không có tin tức, vẫn thầm nghĩ gần đây anh không được vui". Thương Khách sa nước mắt kể lại mọi chuyện, Hải Thạch than thở hồi lâu rồi cười nói “Tai ương chưa hết, lúc nãy là phúng điếu cho anh, nhưng may là anh gặp được ta, vậy xin chúc mừng anh". Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp chắc anh học được nghề thuốc giỏi lắm phải không?”. Hải Thạch đáp “Chuyện đó thì không phải sở trường, nhưng những môn coi đất xem nhà thì có học".</p><p></p><p>Thương Khách mừng rỡ xin xem nhà cho, Hải Thạch bèn vào trong xem khắp trước sau, kế xin cho gặp mặt hết mọi người trong nhà. Thương Khảch theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thê thiếp gia nhân tới sảnh đường, Hải Thạch nhìn kỹ từng người, tới họ Nghê thì ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy cô gái họ Nghê run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn hơn hai thước. Hải Thạch lấy thước đánh vào đầu, nghe leng keng như gõ vào đá. Hải Thạch nắm tóc cô ta xem sau gáy, thấy có mấy cọng lông trắng, toan nhổ thì cô gái rụt cổ quỳ xương kêu khóc xin tha đừng nhổ. Hải Thạch giận dữ nói “Ngươi chưa bỏ hết lòng hung ác à?", rồi nhổ cả ra, cô gái lập tức biến thành con vật đen như con mèo mun, mọi người cả sợ.</p><p></p><p>Hải Thạch tóm lấy bỏ vào tay áo, quay lại nhìn con dâu thứ của Thương Khách nói “Cháu bị ngấm chất độc đã nhiều, trên lưng ắt có sự lạ, xin cho ta xem”. Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai Lưu phải ép vén lên, thấy trên lưng có sợi lông trắng dài khoảng bốn đất tay. Hải Thạch lấy trâm khều ra, nói "Sợi lông này đã mọc lâu rồi, chỉ bảy ngày nữa ắt không sao cứu được". Lại xem tới lưng con trai Lưu thì cũng có sợi lông trắng nhưng chỉ mới dài khoảng hai đốt tay, bèn nói “Thế này thì hơn một tháng sẽ chết". Rồi xem khắp từ Thương Khách tới gia nhân, khều ra hết cho, nói "Nếu ta không tới, thì chắc cả nhà không ai sống nổi". Lưu hỏi đó là con gì, Hải Thạch đáp "Cũng là hồ thôi, nhưng hút tinh khí người ta để tu luyện, chuyên làm chết người”.</p><p></p><p>Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp ông, sao lại có phép thuật thần diệu như vậy, hay đã thành tiên rồi ư?”. Hải Thạch cười đáp "Chỉ là theo thầy học chút thuật mọn thôi, đâu đáng nói là tiên?". Hỏi thầy là ai, Hải Thạch đáp "Là Sơn Thạch đạo nhân. Con vật này thì ta không thể giết, định sẽ mang về nộp cho thầy". Nói xong cáo từ, xem lại thấy trong tay áo trống không giật mình nói "Nó chạy mất rồi, ở cuối đuôi còn sợi lông lớn chưa nhổ nên nó trốn được". Mọi người đều hoảng sợ, Hải Thạch nói "Nó đã bị nhổ hết lông trên cổ thì không thể biến ra hình người nữa, chỉ có thể biến thành thú, chắc chưa chạy xa đâu". Bèn vào phòng xem xét lũ mèo, lại ra cổng tắc lưỡi gọi chó, đều nói là không có.</p><p></p><p>Tới mở cửa chuồng heo xem thì cười nói “Nó đây rồi". Thương Khách nhìn, thấy trong chuồng dư ra một con heo, nghe tiếng Hải Thạch cười thì nằm mọp xuống không dám động đậy. Hải Thạch nắm tai kéo ra, thấy ở chót đuôi có một sợi lông trắng cứng như cây kim, đang định nhổ thì con heo giãy giụa kêu khóc không cho nhổ. Hải Thạch nói “Ngươi làm ác đã nhiều mà bị nhổ một sợi lông cũng không muốn à?". Rồi nhổ luôn ra, con heo lập tức biến thành chồn, Hải Thạch bỏ vào tay áo định đi luôn, Thương Khách giữ mãi mới ở lại ăn một bữa cơm. Hỏi khi nào lại gặp nhau, Hải Thạch đáp "Chuyện đó khó biết trước, nhưng thầy ta có lời nguyền nên thường sai bọn ta ngao du khắp nơi cứu giúp cho người ta, cũng có thể sẽ gặp lại". Sau khi chia tay, Thương Khách nhớ lại tên đạo nhân mới sực hiểu, nói "Hải Thạch thành tiên rồi". Chữ <em>sơn</em> và chữ <em>thạch</em> hơp lại thành chữ <em>Nham</em>, chính là tên húy của tiên ông Lữ Động Tân.</p><p></p><p></p><p><strong>099. Ngọn Đèn Chó</strong></p><p><strong>(Khuyển Đăng)</strong></p><p></p><p>Nhà Quang lộc tự khanh Hàn Đại Thiên có người đầy tớ đêm ngủ ngoài hè, thấy trên lầu có ánh đèn như sao sáng. Không bao lâu ánh đèn lập lòe rơi xuống, tới đất thì biến thành con chó, hé mắt nhìn thấy nó đi vòng ra sau nhà. Vội vùng dậy lẻn theo xem, vào tới trong vườn thấy biến thành cô gái, biết là hồ bèn quay lại chỗ ngủ. Lát sau cô gái từ sau nhà tới, y vờ ngủ để chờ xem sao, cô gái bèn tới nằm đè lên. Y làm ra vẻ vừa tỉnh ngủ, hỏi là ai. Cô gái không đáp, y nói “ánh đèn trên lầu là nàng đấy phải không?". Cô gái đáp “Đã biết rồi còn hỏi làm gì”, rồi ngủ với nhau. Từ đó cứ sáng đi khuya tới, dần dần thành lệ.</p><p></p><p>Chủ nhân biết được, sai hai người đầy tớ khác cùng tới ngủ kèm, nhưng cứ khi họ tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm dưới đất, cũng không biết rơi khỏi giường lúc nào. Chủ nhân càng tức giận, nói với người đầy tớ “Lúc nào nó tới thì phải bắt đem tới đây, nếu không thì ăn đòn”. Người đầy tớ không dám nói gì, dạ dạ lui ra, nhưng nghĩ bắt cô ta rất khó, mà không bắt thì sợ bị tội trăn trở không biết làm sao. Chợt nhớ ra cô gái có chiếc áo lót mình màu đỏ, thường mặc sát vào người chưa lần nào cởi ra, ắt đó là chỗ yếu hại, có thể nắm lấy nó để uy hiếp.</p><p></p><p>Nửa đêm cô gái tới, hỏi "Chủ nhân dặn anh bắt ta phải không?”, y đáp "Đúng là có chuyện đó, nhưng hai ta ân tình thắm thiết, nỡ nào ta chịu?". Kế đó cùng lên giường, y lén cởi chiếc áo lót, cô gái vội kêu lên, giãy giụa vùng ra chạy mất, từ đó biệt tăm luôn. Sau người đầy tớ từ nơi khác về, xa xa nhìn thấy cô gái ngồi cạnh đường, tới gần thì nàng lấy tay áo che mặt. Y xuống ngựa gọi rồi hỏi "Sao lại làm thế?”. Cô gái đứng dậy cầm tay y nói "Ta vẫn cho là chàng đã quên tình cũ, nay thấy có ý quyến luyến cố nhân thì có thể tha thứ. Chuyện trước đây là theo lệnh chủ nhân, cũng không trách chàng được. Nhưng duyên phận đã hết, nay có bữa tiệc nhỏ xin mời vào uống để chia tay”.</p><p></p><p>Lúc ấy đang đầu mùa thu, lúa mì đang tốt, cô gái dắt y chui vào đám ruộng, thấy bên trong có một tòa phủ đệ lớn. Y buộc ngựa rồi vào, thấy trong sảnh đường đã bày đầy rượu thịt, ngồi vào bàn thì đám tỳ nữ liên tiếp đưa thức ăn lên. Mặt trời sắp lặn, người đầy tớ có việc phải về báo với chủ nhân bèn chia tay. Khi trở ra thấy vẫn là ruộng lúa mì như cũ.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 100 -</strong></p><p>Liên Thành</p><p>(Liên Thành)</p><p></p><p>Kiều sinh người huyện Tấn Ninh (tỉnh Vân Nam), thuở trẻ rất nổi tiếng. Năm hơn hai mươi tuổi tính gan dạ, chơi thân với Cố sinh, khi Cố mất thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan huyện lấy văn chương cùng sinh giao du thân mật, kế mất tại chức, gia đình nấn ná mãi không về được, sinh bỏ hết gia tài ra đưa linh cữu về quê quán, khứ hồi hơn hai ngàn dặm, vì thế sĩ lâm càng trọng, nhưng từ đó nhà cửa ngày càng sa sút. Hiếu liêm họ Sử có con gái tên Liên Thành, giỏi thêu thùa, lại biết chữ nên Hiếu liêm rất thương yêu, đem bức tranh Thiếu nữ ngồi thêu mỏi mệt của nàng thêu ra cho các văn sĩ thiếu niên đề vịnh, ý muốn qua đó kén rể. Sinh hiến bài thơ như sau:</p><p></p><p><em>Dung hoàn cao kết lục bà sa,</em></p><p><em>Tảo hướng lan song tú bích hà</em></p><p><em>Thích đáo uyên ương hồn dục đoạn</em></p><p><em>Ám đình châm tiễn kiển song nga </em></p><p>(Tóc xanh cao búi dáng thơ ngây</p><p>Sáng tới song thêu cảnh ráng mây</p><p>Thêu tới uyên ương hồn tựa đứt</p><p>Lén ngừng kim chỉ khẽ chau mày</p><p>Lại một bàì khen nàng thêu khéo rằng:</p><p><em>Tú tiễn khiêu lai tự tả sinh,</em></p><p><em>Bức trung hoa điểu tự thiên thành</em></p><p><em>Đương niên chức cẩm phi trường kỹ</em></p><p><em>Hạnh bả hồi văn cảm thánh minh</em></p><p>(Thêu như sống thật thấy tài chưa?</p><p>Hoa điểu trời xanh há kém thua</p><p>Hơn hẳn năm xưa người dệt gấm</p><p>Hồi văn may được cảm lòng vua)<strong>*</strong></p><p></p><p>*Tranh gấm... lòng vua: theo Trữ tình thi, đời Đường Vũ tông nàng họ Hầu có chồng là Trương Thấu làm tướng ra đồn thú ở biên cương mười năm không được về, nàng bèn thêu bài thơ hồi văn theo hình con rùa (tức bài thơ mà các dòng chữ đan chéo vào nhau trở đi trở lại tạo ra các ô hình quả trám giống mai rùa, chỗ nhô ra giống đầu rùa là chỗ bắt đầu bài thơ), tới cửa khuyết dâng lên Vũ tông, vua cảm động bèn cho Trương Thấu về.</p><p></p><p>Cô gái được thơ mừng lắm, trước mặt cha cứ khen sinh nức nở, nhưng cha chê sinh nghèo. Nàng gặp ai cũng ca ngợi sinh, lại sai bà vú giả vâng lệnh cha đem tiền tặng giúp sinh học hành. Sinh than rằng "Liên Thành là tri kỷ của ta", từ đó trong lòng luôn mơ tưởng như kẻ khát muốn uống nước. Kế Sử Hiếu liêm nhận hứa gả nàng cho con nhà buôn muối Vương Hóa Thành, sinh mới tuyệt vọng, nhưng mộng hồn vẫn còn tơ tưởng.</p><p></p><p>Ít lâu sau, nàng mắc bệnh nặng nằm liệt giường, có nhà sư Tây Vực nói mình có thể chữa được, nhưng phải có một đồng cân thịt ở ngực đàn ông để trộn thuốc. Sử sai người tới nhà họ Vương nói với con rể, con rể cười nói “Ông già ngây đòi cắt thịt ở ngực ta sao?". Người ấy về kể lại, Sử tức giận nói với mọi người rằng ai có thể cắt thịt cứu con gái thì sẽ gả nàng luôn cho. Sinh nghe tin tới nhà Sử, tự cầm đao bén cắt thịt trước ngực trao cho nhà sư máu ướt đẫm cả áo, nhà sư rịt thuốc cho mới hết. Nhà sư trộn thịt với thuốc thành ba viên cho uống trong ba ngày, cô gái liền khỏi bệnh. Sử định làm theo lời hứa, nhưng trước tiên cho họ Vương biết, Vương nổi giận định kiện. Sử bèn làm tiệc mời sinh, bày ngàn vàng trên án, nói “Mang ơn rất nặng, xin được báo đáp", rồi nói rõ lý do nuốt lời. Sinh không vui, nói "Ta sở dĩ không tiếc miếng thịt trên ngực là để báo đáp người tri kỷ chứ có bán thịt đâu”, rồi phẩy tay áo bỏ về.</p><p></p><p>Cô gái nghe thấy trong lòng không nỡ, nhờ bà vú tới an ủi, lại nói "Tài hoa như chàng chắc không phải khổ lâu, lo gì trên đời thiếu giai nhân. Ta thường nằm mơ thấy điềm không lành, ba năm nữa ắt chết, chàng không cần tranh giành con người sắp chết này". Sinh nói với bà vú "Kẻ sĩ chết cho người biết mình chứ không vì sắc đẹp. Ta sợ Liên Thành chưa thật biết ta, chứ nếu nàng biết thật thì không lấy nhau cũng có hề gì". Bà vú thay nàng thề thốt bày tỏ lòng thành, sinh nói “Nếu đúng thế thì lúc nào gặp nhau, chỉ cần nàng cười với ta một cái thì dù chết cũng không ân hận gì", bà vú bèn trở về. Mấy hôm sau sinh tình cờ ra đường, gặp cô gái từ nhà chú về, đưa mắt liếc sinh nhoẻn miệng cười. Sinh cả mừng nói "Liên Thành quả thật biết ta".</p><p></p><p>Gặp lúc họ Vương qua bàn chọn ngày đón dâu, bệnh cũ của cô gái lại phát, vài tháng thì chết. Sinh tới viếng tang, đau lòng gào lớn một tiếng rồi chết luôn. Sử cho khiêng về nhà, sinh tự biết mình đã chết nhưng cũng không buồn bã gì, cứ đi ra khỏi thôn, muốn gặp Liên Thành một lần. Xa thấy trên đường phía tây bắc người đi nườm nượp như kiến, sinh trà trộn chen lẫn vào đó. Giây lát vào một dinh thự gặp ngay Cố sinh. Cố kinh ngạc hỏi "Sao ông lại tới đây?", rồi lập tức cầm tay sinh định dắt về. Sinh thở dài nói tâm nguyện còn chưa xong, Cố nói “Ta coi sổ sách ở đây cũng được tín nhiệm, nếu giúp đỡ đỡ gì thật không dám tiếc". Sinh hỏi Liên Thành, Cố lập tức dẫn đi, qua mấy nơi thì thấy Liên Thành cùng một nữ lang áo trắng đang buồn bã ngồi ở góc hành lang.</p><p></p><p>Nàng thấy sinh tới đứng bật dậy như rất mừng rỡ, hỏi sao tới đây. Sinh đáp "Nàng chết, ta đâu dám sống". Liên Thành khóc nói “Kẻ phụ nghĩa thế này còn không phỉ nhổ bỏ đi, chết theo làm gì? Nhưng đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, thề kiếp sau sẽ báo đáp". Sinh nói với Cố “Ông có việc xin cứ đi, ta vui sướng được chết chứ không thích sống nữa, nhưng phiền ông tra lại sổ sách xem Liên Thành thác sinh ở đâu để ta đi theo”, Cố gật đầu rồi đi. Nữ lang áo trắng hỏi sinh là ai, Liên Thành kể lại, nữ lang nghe xong như cũng ngậm ngùi. Liên Thành nói với sinh "Nàng này cùng họ với thiếp, tên Tân Nương, con gái quan Thái thú Trường Sa, cùng đi một đường tới đây nên rất thương yêu nhau”. Sinh liếc thấy nàng có vẻ dễ thương, đang định hỏi rõ hơn thì Cố đã quay lại nhìn sinh chúc mừng "Ta đã lo liệu cho ông xong rồi, nương tử đây nay được theo ông hoàn hồn, được chứ?".</p><p></p><p>Hai người cùng mừng rỡ, đang định từ biệt thì Tân Nương khóc lớn nói “Chị đi thì em biết về đâu? Xin rủ lòng thương xót cứu cho em được theo hầu”. Liên Thành thương xót nhưng không biết làm sao, quay qua bàn với sinh, sinh lại năn nỉ Cố. Cố tỏ vẻ khó khăn, nói là không được, sinh năn nỉ mãi bèn nói "Để ta thử làm bừa xem sao" rồi đi. Khoảng ăn xong bữa cơm thì quay lại xua tay nói "Biết mà, thật là vạn phần không sao giúp được". Tân Nương nghe thế nghẹn ngào khóc lóc, cứ nép vào Liên Thành chỉ sợ nàng đi mất, buồn bã không biết làm sao, chỉ nhìn nhau im lặng, nét mặt thê thảm khiến người ngoài cũng phải mủi lòng. Cố sinh phát phẫn nói “Thôi ông cứ đưa Tân Nương theo, nếu chẳng may có chuyện gì tiểu sinh xin chịu hết", Tân Nương mới mừng rỡ theo sinh ra. Sinh lo cho nàng đường xa không có ai đi cùng, Tân Nương nói "Thiếp đi theo chàng chứ không muốn về nhà". Sinh nói "Nàng ngây quá, không về thì làm sao sống lại được. Ngày khác ta tới Hồ Nam, xin đừng lánh mặt là may rồi".</p><p></p><p>Vừa lúc có hai bà già nhận trát tới Tràng Sa, sinh gởi Tân Nương theo, Tân Nương khóc từ biệt lên đường. Trên đường về Liên Thành đi rất chậm, cứ hơn dặm lại nghỉ, nghỉ hơn mười lần mới thấy cổng làng. Liên Thành nói "Sau khi sống lại e lại có chuyện lật lọng, xin cứ đòi lấy xác thiếp, thiếp sống lại ở nhà chàng mới không phải ăn năn về sau”, sinh cho là đúng. Bèn cùng nhau về nhà sinh, cô gái run rẩy như không đi nổi, sinh phải đứng lại chờ. Nàng nói "Thiếp tới đây thấy chân tay run rẩy như không tự chủ được, e không được toại nguyện, phải bàn bạc thật kỹ, nếu không thì sau khi sống lại làm sao theo ý mình được?". Hai người cùng vào gian phòng cạnh nơi quàn quan tài, im lặng một lúc thì Liên Thành cười hỏi "Chàng có ghét thiếp không?”. Sinh ngạc nhiên hỏi sao nói thế, nàng thẹn thùng đáp “Sợ việc không xong thì lại phụ chàng lần nữa, xin lấy hồn báo đáp chàng trước". Sinh mừng rỡ, cùng nàng giao hoan hết sức đằm thắm, vì vậy lưu luyến không rời, ở cùng nhau luôn ba ngày. Liên Thành nói "Lời ngạn có câu Nàng dâu có xấu cũng phải ra mắt cha mẹ chồng, cứ bịn rịn ở đây không phải là kế lâu dài”, rồi nàng giục sinh vào nhập hồn, vừa tới cạnh quan tài thì sinh giật mình sống dậy.</p><p></p><p>Người nhà kinh ngạc lấy nước cháo đổ cho, sinh bèn sai người mời Sử tới, xin cho được đem xác Liên Thành về, nói là có thể làm cho nàng sống lại. Sử mừng rỡ theo lời, vừa khiêng nàng tới nhà sinh, nhìn lại thì đã sống lại. Nàng nói với cha rằng "Con đã trao thân cho Kiều lang, không có lý nào trở về, nếu có chuyện gì thay đổi thì chỉ có chết mà thôi", Sử về sai tớ gái qua hầu hạ nàng. Họ Vương nghe tin làm đơn kiện, quan ăn hối lộ xử bắt nàng về lại nhà Vương. Sinh phẫn hận muốn chết, nhưng cũng không biết làm sao. Liên Thành tới nhà Vương, phẫn uất bỏ ăn uống, chỉ mong chết ngay, cứ lúc vắng người là treo cổ lên xà nhà. Qua hôm sau bệnh càng nặng, hơi thở thoi thóp, Vương sợ đưa nàng về nhà Sử, Sử lại cho khiêng về nhà sinh, Vương biết nhưng đành phải bỏ đó.</p><p></p><p>Liên Thành khỏi bệnh, thường nhớ Tân Nương, muốn gởi thư thăm hỏi nhưng vì đường xa đi lại khó khăn. Một hôm gia nhân vào thưa ngoài cổng có xe ngựa khách lạ, vợ chồng chạy ra xem thì Tân Nưong đã vào tới sân, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Quan Thái thú đích thân đưa con gái tới, sinh mời vào nhà. Thái thú nói “Tiểu nữ nhờ ông mà được sống lại, thề không lấy ai khác, hôm nay ta làm theo ý nó", sinh bèn vái lạy theo lễ con rể cha vợ. Sử Hiếu liêm cũng tới ba nhà đoàn tụ rất vui vẻ. Sinh tên Niên, tự Đại Niên.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Một nụ cười mà biết nhau, đem thân theo về, người đời có kẻ cho là ngây, nhưng như thế thì chẳng lẽ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Điền Hoành<strong>*</strong> đều ngu cả sao? Đó là bởi người biết mình rất ít nên lấy làm quý, bậc hào kiệt vì thế mà cảm động không thể làm chủ được. Ngoảnh nhìn bốn biển mênh mang, những bậc anh tài đều xiêu lòng vì một cái cười của người đẹp thôi, nghĩ đáng buồn thay.</em></p><p></p><p>*Năm trăm... Điền Hoành: Điền Hoành là tướng nước Tề thời Hán Sở tranh hùng. Khi tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Tề, Điền Hoành hết sức chống cự không được bèn dẫn năm trăm tráng sĩ dưới quyền ra hải đảo sống, nhất định không chịu theo Hán. Sau Lưu Bang đánh bại được Hạng Vũ, sợ Điền Hoành gây loạn bèn sai người ra ép Hoành về kinh. Hoành tới nơi không chịu đầu hàng, Lưu Bang sai giết, kế lại sai người ra chiêu dụ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Hoành. Năm trăm người nghe tin Hoành chết đều lần lượt đâm cổ tự tử, nhất định không theo nhà Hán.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 101 - 102 -</strong></p><p>Uông Sĩ Tú (Uông Sĩ Tú)</p><p></p><p>Uông Sĩ Tú người đất Lô Châu (huyện Hợp Phì tỉnh An Huy), tính gan dạ khỏe mạnh, có thể nhấc được cái cối đá. Cha con đều giỏi đá cầu, năm cha hơn bốn mươi tuổi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đi Hồ Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc ấy trăng rằm mọc ở phía đông, mặt nước phẳng lặng như tấm lụa. Uông đang ngắm cảnh chợt có năm người dưới hồ nhô lên, cắp theo chiếc chiếu to trải lên mặt hồ, rộng chừng nửa mẫu, rồi lăng xăng bày rượu thịt, cốc chén va nhau thành tiếng nhưng không vang như tiếng sành sứ. Bày xong, ba người ngồi xuống, hai người hầu rượu.</p><p></p><p>Trong ba người ngồi có một mặc áo vàng, hai mặc áo trắng, đều đội khăn đen cao vót, phía dưới liền luôn với vai áo, kiểu dáng rất kỳ lạ nhưng ánh trăng chập chờn không sao nhìn rõ. Hai người hầu đều mặc áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già. Chỉ nghe người áo vàng nói "Đêm nay trăng đẹp quá, phải uống thật say” Người áo trắng nói "Phong cảnh đêm nay giống hệt hôm Quảng Lợi vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa". Ba người chuốc rượu lẫn nhau, uống rất ngon lành nhưng nói hơi khẽ nên không nghe thấy gì nữa. Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha nhưng nghe giọng nói lại không phải. Sắp hết canh hai, chợt một người nói "Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đá cầu một lúc cho vui". Lập tức thấy đứa tiểu đồng nhảy xuống nước mang lên một vật hình tròn to đầy một ôm, bên trong như chứa thủy ngân, trong ngoài sáng quắc. Ba người ngồi đứng cả dậy, người áo vàng gọi ông già cùng đá, quả cầu bay cao hơn trượng, lấp loáng chói mắt. Chợt nghe "bình" một tiếng, quả cầu bay ra xa lọt vào thuyền.</p><p></p><p>Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy mềm nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá vỡ, quả cầu vọt lên gần một trượng, chất sáng bên trong bắn ra rót xuống như cầu vồng rồi rơi mau xuống, quả cầu cũng như ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, kêu ùng ục rồi mất tăm. Mấy người trên tiệc đều nổi giận nói “Thằng tục tử nào làm bọn ta mất hứng thế?” Người hầu già cười nói “Không kém không kém, đó là ngón Quặt sao băng của nhà ta đấy” Người áo trắng bực giọng bỡn cọt ấy, túc giận nói “Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám đùa hả? Mau cùng thằng nhỏ qua bắt tên ngông cuồng lại đây, không thì đầu gối sẽ được ăn chùy đấy". Uông thấy không còn chỗ nào trốn được nên cũng không sợ nữa, xách đao ra đứng giữa thuyền.</p><p></p><p>Thấy ông già và đứa tiểu đồng cầm binh khí tới, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội gọi lớn "Cha ơi! Con đây mà!". Ông già cả sợ nhìn con buồn thảm, đứa tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già nói "Con trốn ngay đi, nếu không thì chết cả hai cha con bây giờ”. Chưa dứt lời thì cả ba người kia đã lên tới trên thuyền, người nào cũng mặt mũi đen sì, mắt to hơn trái lựu, túm lấy ông già lôi đi. Uông cố sức giằng lại, thuyền chòng chành đứt cả dây neo. Uông dùng đao chém vào tay họ, một cánh tay rơi xuống, người áo vàng bỏ chạy. Một người áo trắng sấn vào Uông, Uông chém sả vào đầu, y rơi tõm xuống nước, cả bọn biến mất. Uông định giong thuyền đi luôn trong đêm thì thấy có cái mõm to nhô lên mặt nước, sâu rộng như cái giếng, nước hồ bốn bên rót vào, réo lên ào ào. Lát sau nó phun nước ra, sóng cao tận sao trời, hàng vạn chiếc thuyền cùng chòng chành, người trên hồ đều khiếp đảm.</p><p></p><p>Trên thuyền có hai cái trống đá đều nặng cả trăm cân, Uông nhấc một cái ném xuống đánh ầm như sét, sóng nước êm dần, ném luôn cái nữa thì sóng gió tắt hết. Uông ngờ cha là ma, ông già nói “Số ta chưa chết, mười chín người cùng đắm thuyền đều bị yêu quái ăn thịt, ta nhờ biết đá cầu nên được toàn tính mạng. Bọn yêu đắc tội với Long quân sông Tiền Đường nên trốn qua hồ Động Đình này, cả ba đều là cá thành tinh, quả cầu kia là bong bóng cá". Cha con vui mừng, đang đêm chèo thuyền đi ngay. Trời sáng thấy trong thuyền có cái vây cá đường kính tới bốn năm thước, chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứt được đêm qua.</p><p></p><p></p><p><strong>102. Tiểu Nhị</strong></p><p><strong> (Tiểu Nhị)</strong></p><p></p><p>Triệu Vượng người huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông), vợ chồng đều thờ Phật, không ăn mặn, người trong vùng xếp vào hạng thiện nhân. Nhà cũng khá giả, có một con gái tên là Tiểu Nhị rất thông minh xinh đẹp, Triệu rất thương yêu. Năm nàng sáu tuổi, được cho theo anh là Trường Xuân cùng đi học, qua năm năm thì thuộc làu cả Ngũ kinh. Có Đinh sinh là bạn học, lớn hơn ba tuổi, dáng người nho nhã phong lưu rất say mê nàng, nói với mẹ tới cầu hôn với họ Triệu, nhưng Triệu muốn gả nàng cho nhà đại gia nên chối từ. Không bao lâu Triệu bị Bạch Liên giáo mê hoặc, khi Từ Hồng Nho làm phản, cả nhà đều theo giặc.</p><p></p><p>Tiểu Nhị học giỏi thông minh, phàm những phép thuật cắt giấy làm quân, rải đậu làm ngựa cho qua là hiểu ngay. Có sáu cô gái nhỏ theo làm đồ đệ của Từ thì nàng giỏi nhất, nhờ vậy họa được hết phép thuật của Từ. Triệu nhờ có con gái như vậy nên được Từ trọng dụng. Năm ấy Đinh mười tám tuổi, đã vào học trường huyện nhưng không chịu cưới vợ vì không quên Triệu Nhị, bèn ngầm trốn đi tới xin làm quan của Từ. Cô gái gặp Đinh rất mừng rỡ, đối xử trọng hậu khác hẳn người thường. Cô gái vì là học trò giỏi của Từ, được coi sóc việc cơ nên đi đêm về hôm cha mẹ cũng không ngăn cấm được. Đêm nào nàng cũng gặp Đinh, thường đuổi hết những người hầu đi, đến canh ba mới về.</p><p></p><p>Đinh nói riêng với nàng rằng "Tiểu sinh tới đây, nàng có biết ý mọn là gì không?", cô gái đáp không biết. Đinh đáp "Ta không phải muốn cầu danh vị, sở dĩ tới đây thật ra cũng vì nàng mà thôi. Bọn tả đạo chẳng làm được chuyện gì đâu, chỉ chuốc lấy diệt vong thôi, nàng là người thông tuệ mà không nghĩ tới điều đó sao? Nếu trốn đi với ta, thì quyết không phụ nhau”. Cô gái sực nghĩ ra, chợt như tỉnh mộng, nói “Bỏ cha mẹ mà đi thì bất nghĩa, xin để ta nói với hai người đã". Rồi vào trình bày lợi hại, Triệu không nghe, nói "Thầy ta là bậc thần nhân, há lại lầm lẫn sao?”. Nàng biết không thể can ngăn, bèn búi tóc lại lấy ra hai con diều bằng giấy rồi cùng Đinh mỗi người cưỡi lên một con, diều vỗ cánh phành phạch như gọi nhau rồi sát cánh bay lên. Đến sáng tới địa giới huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông), nàng lấy ngón tay búng vào cổ diều, hai con diều xếp cánh hạ xuống. Cô gái cất diều đi, lấy ra hai cỗ lừa rồi cùng tới làng Sơn âm, nói thác là người chạy loạn, thuê nhà ở lại đó.</p><p></p><p>Hai người vội vã ra đi nên không mang theo bao nhiêu tiền bạc, củi nước không đủ, Đinh rất lo lắng, nhưng hỏi láng giềng chẳng ai chịu cho vay mượn. Cô gái lại không hề tỏ vẻ lo buồn, cứ cầm bán vòng xuyến, đóng cửa ở yên với nhau. Đêm đến vặn nhỏ đèn ngồi nhớ lại những sách đã học. Láng giềng bên tây họ Ông, là kẻ kiệt hiệt trong bọn lục lâm, một hôm về nhà, cô gái nói "Có láng giềng như thế ta còn lo gì nữa. Hãy mượn ngàn vàng, liệu y cho không?”. Đinh cho là khó, cô gái nói “Ta sẽ bắt y tình nguyện đưa chứ”. Rồi cắt giấy làm hình Phán quan âm ty đặt dưới đất, lấy cái lồng gà úp lên rồi kéo Đinh lên giường hâm rượu uống.</p><p></p><p>Lấy sách <em>Chu lễ</em> làm tửu lệnh, cứ nói quyển ấy trang nào dòng nào rồi cùng mở ra xem, ai được chữ có bộ <em>thực</em> (ăn), bộ <em>thủy</em> (nước), bộ <em>dậu</em> (như chữ tửu) thì phải uống, được chữ <em>tửu</em> (rượu) thì phải uống gấp đôi. Kế cô gái được chữ <em>tửu</em>, Đinh lấy chén lớn rót đầy rượu bắt uống ngay, nàng bèn khấn “Nếu mượn được vàng về thì chàng phải được bộ <em>ẩm</em>”. Đinh giở sách được chữ <em>miết</em> (ba ba), cô gái cười lớn nói “Chàng được chữ miết, phải uống say như con ba ba". Đang tranh cãi ầm lên chợt nghe trong cái lồng gà có tiếng lạch cạch, cô gái bước xuống nói “Tới rồi", rồi mở ra xem thì thấy vàng nén chất đống, Đinh vô cùng kinh ngạc mừng rỡ. Về sau bà vú nhà họ Ông bế trẻ qua chơi, nói vụng rằng “Chủ nhân vừa về tới nhà, đang đốt đèn ngồi chợt mặt đất xé ra sâu không biết là bao nhiêu, có một vị Phán quan từ dưới bước lên nói ‘Ta là sai dịch dưới âm ty. Thái Sơn Đế quân hội các ty tào ở âm phủ làm quyển sách ghi chép tội ác của bọn trộm cướp, làm một ngàn ngọn đèn mỗi ngọn nặng mười lượng vàng, người nào cúng một trăm ngọn thì dược xóa hết tội lỗi’. Chủ ta sợ quá thắp hương khấn khứa rồi cúng một ngàn lượng vàng. Phán quan cầm lấy bước xuống dưới, mặt đất lại khép lại”. Hai vợ chồng nghe thế cố ý tặc lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc.</p><p></p><p>Từ đó dần dần mua trâu ngựa, nuôi đầy tớ, xây nhà cửa. Bọn vô lại trong làng thấy giàu có bèn họp đảng nhân đêm tới đánh cướp nhà Đinh. Vợ chồng Đinh vừa tỉnh giấc thì thấy đèn đuốc sáng rực, bọn cướp đã đứng đầy trong nhà. Hai tên bắt lấy Đinh, lại một tên khác thò tay vào bụng cô gái, cô gái vùng ra chỉ tay quát "Đứng im", tất cả mười ba tên cướp đều trợn mắt đớ lưỡi đứng sững ra như tượng gỗ. Cô gái mới mặc áo bước xuống giường gọi gia nhân, trói cả bọn lại hỏi cung rõ ràng xong bèn nói "Người ở phương xa tới nương náu, lẽ ra phải giúp đỡ, sao lại bất nhân như thế? Người ta ai cũng có lúc này lúc khác, các ngươi cùng quẫn thì cứ nói rõ, ta há lại nỡ giàu có đủ ăn một mình sao? Cái thói sài lang lẽ ra phải giết hết, nhưng ta không nỡ, hãy tạm tha cho một lần, nếu tái phạm sẽ không tha đâu”, bọn cướp dập đầu lạy tạ rồi đi.</p><p></p><p>Không bao lâu Từ Hồng Nho bị bắt, vợ chồng và con trai họ Triệu đều bị chém, sinh bỏ tiền tới xin chuộc đứa con nhỏ của Trường Xuân mang về. Đứa nhỏ lúc ấy ba tuổi, Đinh nuôi nấng như con ruột, cho lấy họ Đinh, đặt tên là Thừa Triệu, từ đó người làng dần dần biết nó là hậu duệ của Bạch Liên giáo. Gặp lúc có cào cào phá lúa, cô gái lấy giấy cắt làm mấy trăm con ó thả trên ruộng, cào cào đều tránh xa không dám vào ruộng nhà, nhờ thế không bị tổn hại gì. Người làng đều ghen ghét kéo nhau lên thưa quan rằng nàng là dư đảng của Từ Hồng Nho, quan thấy nhà Đinh giàu cũng muốn làm tiền, bèn bắt Đinh. Đinh đem nhiều tiền lo lót với quan mới được thả. Cô gái nói "Lui tới buôn bán là kế tạm bợ, thế nào cũng bị tổn thất, mà đây là nơi làng xóm rắn rết, không thể ở lâu được”. Nhân bán hết cơ nghiệp dời đi, tới ở ngoài cửa Tây huyện thành.</p><p></p><p>Cô gái là người lanh lợi khéo léo, giỏi buôn bán, làm ăn còn hơn cả đàn ông. Mở xưởng làm đồ pha lê, chỉ vẽ cho thợ cách làm, hàng làm ra đều tinh xảo đẹp đẽ những xưởng khác không sao bằng được, vì vậy bán giá cao mà vẫn chạy. Được vài năm càng thêm giàu có, nhưng cô gái đốc thúc tôi tớ rất nghiêm, nhà có hàng trăm người ăn nhưng không ai dám lười biếng. Lúc rảnh thường cùng Đinh pha trà đánh cờ hoặc đọc sách làm vui. Từ tiền gạo thu chi cho tới công việc tôi tớ cứ năm ngày lại xem xét một lần, cô gái cầm thẻ, Đinh thì ghi sổ, đọc rõ từng việc. Người siêng năng thì thưởng theo thứ bậc, người lười biếng thì đánh roi bắt quỳ, ngày hôm ấy thì không làm việc ban đêm, vợ chồng dọn rượu thịt gọi gia nhân vào ăn uống hò hát làm vui.</p><p></p><p>Cô gái xét việc sáng suốt như thần, mọi người không ai dám lừa dối nhưng nàng thường công xứng đáng nên công việc đều trót lọt. Trong làng có hơn hai trăm nhà, nhà nào nghèo thì giúp vốn cho làm ăn, nhờ thế vùng ấy không có ai lười biếng rong chơi. Gặp lúc đại hạn, nàng bảo người trong thôn đắp đàn ngoài ruộng, đang đêm ngồi kiệu ra đó lên đàn làm phép đảo vũ, lập tức mưa ngọt đổ xuống, trong năm dặm đều ngập bàn chân, mọi người càng cho là thần. Cô gái ra ngoài ít khi che mặt, người trong làng đều nhìn thấy, có bọn thiếu niên tụ tập bàn vụng rằng nàng đẹp nhưng khi gặp nàng đều kính cẩn không dám nhìn thẳng mặt. Cứ tới mùa thu lại cho tiền bọn trẻ con chưa đủ sức làm ruộng trong thôn thuê cắt cỏ đồ tô, qua hai mươi năm chất đống đầy trong nhà, người ta trộm chê cười. Gặp lúc Sơn Đông đói kém, người ta phải ăn thịt nhau, cô gái đem cỏ nấu cháo cấp cho kẻ đói, các thôn chung quanh đều nhờ vào đó mà sống, không ai phải bỏ đi.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Những điều Tiểu Nhị làm đều là nhờ sức trời chứ không phải là sức người làm được. Nhưng nếu không có một lời nói của Đinh sinh làm cho tỉnh ngộ, thì đã chết lâu rồi. Từ đó mà xem thì những người ôm cái tài phi thường trên đời song lầm lẫn nhập đảng với bọn xấu mà chết chắc cũng không ít. Biết đâu trong sáu người bạn cùng học với Tiểu Nhị cũng có người như nàng, khiến người ta phải hận vì họ không gặp được người như Đinh sinh vậy.</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 103 - 104 -</strong></p><p>Canh Nương</p><p>(Canh Nương)</p><p></p><p>Kim Đại Dụng là con nhà thế gia cũ ở Trung Châu (tỉnh Hà Nam), cưới con gái quan Thái thú họ Vưu tên Canh Nương, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Vì có bọn giặc nổi loạn, mọi người đều bỏ nhà tìm nơi trốn tránh, Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng dắt vợ chạy loạn, tự nói là Vương Thập Bát ở đất Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), tình nguyện dẫn đường. Kim vui mừng, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau. Tới Hà Thượng, Canh Nương nói thầm với chồng “Đừng đi chung thuyền với người này. Yđã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường", Kim ưng thuận.</p><p></p><p>Nhưng Vương đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp, rất là sốt sắng nên Kim không nỡ từ chối để đi riêng. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Vương cùng ngồi với Canh Nương trong thuyền, thấy ý tứ cũng hiền hậu dịu dàng, Vương thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu. Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Kim nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Vương mời cha con Kim ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Kim xuống sông. Cha Kim nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Kim nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Vương mới kêu cứu. Lúc mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã rình thấy mọi việc, kế nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói “Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?".</p><p></p><p>Vương vào thuyền khuyên "Nương tử đừng lo, xin theo ta về Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại". Nàng nín khóc nói "Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi", Vương cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Vương bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói "Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra". Vương đánh vợ, vợ la lớn "Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người". Vương tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Vương kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi.</p><p></p><p>Không bao lâu tới Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Vương nói “Vợ con chết đuối, mới lấy người này”. Về tới phòng riêng, Vương lại muốn giở trò này nọ, Canh Nương cười nói “Đàn ông ngót ba chục tuổi mà còn chưa biết xử sự. Cho dù là mua tỳ thiếp thì đêm thành thân cũng phải có chén rượu nhạt, nhà anh giàu có thì chuyện ấy cũng không khó, chứ lặng ngắt nhìn nhau thì còn ra thể thống gì?”. Vương mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Canh Nương nâng chén mời rất ân cần. Vương dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Vương không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Canh Nương dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Vương. Vương còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Canh Nương ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Vương không chết ngay, rú lên vùng dậy, nàng bồi thêm nhát nữa mới chết.</p><p></p><p>Mẹ Vương nghe có tiếng chạy qua hỏi, nàng cũng giết nốt. Em trai Vương là Thập Cửu biết chuyện chạy tới, Canh Nương tự biết không thoát được vội tự tử nhưng lưỡi dao đã cùn không cứa sâu được, vội mở cửa bỏ chạy. Thập Cửu đuổi tới thì nàng đã nhảy xuống ao rồi. Thập Cửu gọi láng giềng cứu lên thì nàng đã chết nhưng dung mạo vẫn tươi đẹp như khi còn sống. Mọi người cùng vào xem xác Vương, thấy có bức thư trên cửa sổ, mở ra xem thì là thư của nàng kể rõ sự oan khổ, đều cho rằng nàng trinh liệt, bàn nhau góp tiền chôn cất. Sáng ra có mấy ngàn người tới xem, nhìn thấy dung mạo nàng đều vái lạy. Trọn ngày thì quyên được trăm lượng vàng, chôn nàng ở phía nam thành, những kẻ hiếu sự còn đem mão ngọc áo bào liệm cho nàng, xây mộ rất to cao.</p><p></p><p>Lúc trước Kim sinh rơi xuống sông bám được tấm ván trôi trên sông nên không chết, chiều hôm sau trôi tới Hoài Thượng thì gặp một chiếc thuyền nhỏ vớt lên. Thuyền này là của nhà phú hộ họ Doãn đặt trên sông để cứu người chết đuối, Kim tỉnh lại rồi bèn tới tạ ơn ông Doãn, ông đối xử rất tử tế, giữ Kim ở lại nhờ dạy con mình học. Kim không rõ cha mẹ sống chết ra sao, đang còn ngần ngại chưa quyết thì có người tới thưa ông Doãn rằng vừa vớt được xác hai ông bà già. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy tới nhìn mặt quả đúng. Ông Doãn sắm quan tài chôn cất cho, sinh đang đau đón khóc lóc, lại nghe báo vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim sinh. Kim giật mình gạt lệ ra xem thì người đàn bà đã tới, không phải Canh Nương mà là vợ Vương Thập Bát. Nàng nhìn Kim khóc lớn, nói xin đừng bỏ nhau. Kim nói “Ta đang lúc lòng dạ rối bời, còn rảnh đâu mà lo cho vợ người khác?”, nàng càng đau xót. Doãn hỏi rõ đầu đuôi, mừng là đạo trời báo ứng, khuyên Kim lấy nàng làm vợ. Kim chối từ nói đang có tang, vả lại đang định báo thù cho cha mẹ, sợ nàng yếu ớt sẽ bị liên lụy. Nàng nói "Nói như chàng thì giả như Canh Nương còn sống chàng cũng vì việc cư tang và báo thù mà bỏ hay sao?”. Doãn khen lời ấy, xin tạm thu dưỡng nàng thay, Kim mới ưng thuận. Hôm chôn cất cha mẹ Kim nàng cũng mặc tang phục khóc lóc như là cha mẹ chồng thật.</p><p></p><p>Chôn cất xong, Kim định giắt dao đeo bị xin ăn tìm tới Quảng Lăng, nàng ngăn lại nói "Thiếp họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với gã lang sói ấy, lúc trước y nói ở Quảng Lăng là dối trá. Vã lại bọn thủy khấu chốn sông hồ có một nửa là đồng đảng của y, coi chừng thù không trả được mà rước vạ vào thân”. Kim ngần ngừ không biết tính sao, chợt có tin đồn về chuyện cô gái giết chết kẻ thù, khắp một vùng sông hồ đều xôn xao, nói rõ ràng cả tên họ. Kim nghe được một phen hả dạ nhưng càng đau đớn, chối từ không lấy Đường thị, nói "May mà ta không bị mang nhục, nhưng trong nhà có người vợ trinh liệt như thế thì đâu nỡ phụ lòng mà cưới vợ nữa”. Đường thị nói đã bàn bạc thành chuyện rồi, không chịu giữa đường chia tay, nguyện làm nàng hầu vợ lẽ.</p><p></p><p>Gặp lúc có Phó Tướng quân họ Viên quen biết Doãn, nhân lên đường phó nhiệm ở miền tây ghé thăm, gặp Kim rất thích, mời theo làm Ký thất. Không bao lâu sau giặc cướp nổi loạn phạm vào kinh đô, Viên đánh dẹp lập công lớn, Kim cũng tham dự việc quân cơ, được bảo cư phong chức Du kích trở về, lúc ấy vợ chồng mới làm lễ thành thân. Vài hôm sau Kim dắt vợ đi Kim Lăng viếng mộ Canh Nương, ngang huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) định lên Kim Sơn ngắm cảnh. Đang xuôi dòng chợt có chiếc thuyền đi ngược chiều, trong có một bà già và một thiếu phụ, ngạc nhiên vì thấy thiếu phụ rất giống Canh Nương. Thuyền Kim lướt mau qua, thiếu phụ nhô ra cửa sổ nhìn Kim, càng thấy thần thái giống nàng. Kim kinh ngạc ngờ vực không dám đuổi theo hỏi, vội gọi lớn “Nhìn lũ vịt con đang bay trên trời kìa” Thiếu phụ nghe thấy cũng lớn tiếng gọi "Chó con lại muốn ăn thịt mèo sao?", đó là lời nói lóng của vợ chồng vẫn đùa nhau trong phòng riêng ngày xưa.</p><p></p><p>Kim giật mình cho quay chèo đuổi theo, tới gần thì quả là Canh Nương. Con hầu đỡ Canh Nương qua thuyền Kim, vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, người trên thuyền đều thương cảm. Đường thị lấy lễ vợ thiếp chào Canh Nương, Canh Nương ngạc nhiên hỏi, Kim bèn kể lại mọi chuyện. Canh Nương cầm tay Đường thị nói "Trò chuyện một lần với nhau trên thuyền, lòng vẫn không quên, không ngờ nay lại được Hồ Việt một nhà. Đội ơn thay mặt chôn cất cha mẹ chồng, lẽ ra ta phải tạ ơn trước, sao lại làm lễ với nhau như thế?”. Bèn so tuổi tác Đường thị kém một tuổi nên làm em.</p><p></p><p>Trước là canh Nương đã được chôn cất, cũng không tự biết đã bao lâu, chợt nghe có người gọi nói "Canh Nương, chồng ngươi không chết đâu, rồi vợ chồng sẽ được sum họp”, liền thấy như vừa tỉnh mộng. Sờ thấy bốn phía đều là vách tường, mới hiểu ra rằng mình chết đi đã được chôn, nhưng chỉ thấy hơi buồn bực chứ cũng không có gì khổ sở. Có bọn thiếu niên bất lương biết nàng có nhiều vật tùy táng quý giá bèn đào mộ phá quan tài, đang định tìm tòi nhặt nhạnh thì thấy Canh Nương vẫn còn sống, cả bọn đều khiếp đảm. Canh Nương sợ chúng làm hại nên năn nỉ, nói "May có các ông tới nên ta lại được nhìn thấy mặt trời, bao nhiêu trâm vòng xin cứ lấy hết, xin đem bán ta cho chùa làm ni cô thì có thể cũng được thêm ít nhiều, ta không nói lộ ra với ai đâu"</p><p>Bọn trộm dập đầu nói "Nương tử trinh liệt, thần người đều khâm phục. Bọn tiểu nhân chẳng qua vì nghèo túng hết cách sống mà phải làm việc bất nhân này, chỉ cần nương tử không nói lộ ra là may lắm rồi, chứ đâu dám bán nương tử làm ni cô". Canh Nương đáp "Đó là tự ta muốn mà”. Một tên nói "Cảnh phu nhân ở Trấn Giang góa chồng mà không có con, nếu gặp được nương tử ắt là mừng lắm". Canh Nương tạ ơn rồi tự tháo hết các vật châu báu trang sức ra đưa, bọn trộm không dám nhận. Nàng cố ép, cả bọn cùng lạy tạ nhận lấy rồi chở nàng đi. Tới nhà Cảnh phu nhân, họ nói thác rằng nàng bị gió bạt thuyền lạc tới đây. Cảnh phu nhân nhà giàu có mà lớn tuổi góa chồng vò võ một mình, gặp Canh Nương cả mừng, coi như con đẻ, hôm ấy là hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về. Canh Nương kể hết đầu đuôi xong, Kim bèn qua thuyền lạy mẹ. Phu nhân tiếp đãi như con rể, mời tới nhà chơi mấy ngày mới cho về từ đó vợ chồng qua lại nhà bà luôn luôn.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Trước biến cố lớn, kẻ dâm thì cầu sống mà người trinh thì thà chết, kẻ sống thì khiến người ta xốn mắt, người chết thì khiến người ta rơi lệ vậy. Đến như cười nói không sợ, vung đao báo thù thì các bậc trượng phu nghĩa liệt ngàn xưa cũng có mấy người sánh được? Ai nói đàn bà con gái không thể theo kịp bậc anh hùng. </em></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p><strong>104. Cung Mộng Bật </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Cung Mộng Bật)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Liễu Phương Hoa người Bảo Định (tỉnh thành Hà Bắc), giàu có nhất vùng, tính phóng khoáng hiếu khách, trên tiệc thường có hàng trăm người. Giúp người nguy cấp thì ngàn vàng cũng không tiếc, bạn bè khách khứa vay mượn không trả là thường. Liễu chỉ có một người khách tên Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây là không hề nhờ vả xin xỏ gì, mỗi lần tới chơi thì ở lại cả năm, ngôn ngữ trang nhã, phong thái tiêu sái, Liễu cùng ăn ở chuyện trò nhiều nhất. Con trai Liễu tên Hòa, lúc ấy còn nhỏ, gọi Cung là chú, Cung cũng thích đùa giỡn với Hòa. Mỗi lần Hòa ở trường học về thì cùng gỡ gạch lát dưới nền nhà lên vùi đá sỏi xương giả như chôn giấu vàng bạc làm vui. Nhà có năm gian, đào bới chôn giấu khắp cả. Mọi người cười là tính khí trẻ con nhưng Hòa lại rất yêu thích Cung, thân thiết với Cung hơn tất cả mọi người.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hơn mười năm sau nhà sa sút dần, không thể thỏa mãn lòng mong cầu của nhiều người nên khách thưa dần, nhưng vẫn thường có mười mấy người hội họp chuyện trò đến sáng. Đến lúc Liễu già thì nhà ngày càng sa sút, nhưng còn cắt ruộng đất bán được tiền mà đãi khách. Hòa cũng phung phí, theo gương cha mời thết đám bạn nhỏ, Liễu cũng không ngăn cấm. Không bao lâu Liễu bệnh chết, nhà nghèo đến nỗi không mua được quan tài. Cung bèn bỏ tiền túi ra lo liệu việc tang cho Liễu, Hòa càng biết ơn, việc lớn nhỏ gì cũng nhờ chú Cung. Mỗi lần Cung đi đâu về ắt có cất gạch đá trong tay áo, vào tới nhà thì ném vào những chỗ khuất, chẳng ai hiểu để làm gì. Hòa trò chuyện với Cung thường lo nghèo khổ, Cung nói “Cháu không biết cái khó nhọc của việc kiếm tiền, đừng nói là không có tiền, dù có ngàn vàng đưa cháu cũng sẽ hết sạch ngay. Kẻ nam nhi chỉ lo không tự lập thân được chứ lo gì nghèo?".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Một hôm Cung từ giã, Hòa khóc dặn trở lại mau, Cung ừ rồi đi. Hòa nghèo quá không đủ sống, trong nhà còn món gì cứ đem cầm bán, dần dần hết sạch. Hàng ngày mong Cung tới lo toan giúp đỡ cho, nhưng Cung vắng tăm bặt tích như hạc vàng một đi không về lại. Trước kia lúc Liễu còn sống đã hỏi con gái họ Hoàng ở huyện Vô Cực (tỉnh Hà Bắc) cho Hòa, nhà ấy cũng giàu có, sau nghe tin Liễu sa sút nên ngầm có ý hối hôn. Khi Liễu chết Hòa báo tang Hoàng cũng không tới phúng điếu, còn nghĩ vì đường xa nên bỏ qua. Hòa mãn tang xong, mẹ sai tự tới nhà nhạc gia xin hẹn ngày cưới, có ý mong Hoàng thương xót giúp đỡ cho. Hòa tới, Hoàng nghe nói áo cũ giày rách bèn bảo người giữ cổng không cho vào, nhắn "Trở về lo được trăm lượng vàng hãy tới, nếu không từ nay xin thôi". Hòa nghe thế khóc lớn, có bà già họ Lưu ở nhà đối diện với Hoàng thương xót đem cơm cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, an ủi bảo về.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Mẹ Hòa cũng buồn bã uất ức nhưng không biết làm sao, nhân nhớ tới khách khứa ngày xưa mười người có tới tám chín vay mượn chưa trả, liền bảo Hòa chọn những kẻ giàu có mà tới xin họ giúp đỡ. Hòa nói “Trước kia họ giao du với nhà ta chỉ vì tiền bạc của nhà ta thôi. Nếu con giong ngựa hay ngồi xe lớn thì dù mượn ngàn lượng vàng cũng không khó, nhưng nay nhà ta nghèo khó thế này, còn ai nhớ ơn xưa nghĩa cũ. Vả lại cha cho người ta vay không hề làm giấy tờ gì, khó có bằng cớ mà đòi nợ". Mẹ cứ ép, Hòa vâng lời, đi suốt hơn hai mươi ngày không đòi được một đồng, chỉ có người kép hát Lý Tứ xưa thường được Liễu giúp đỡ nghe chuyện tới tặng một đồng vàng. Mẹ con cùng khóc lớn, từ đó thôi không trông mong gì ai nữa. Cô gái họ Hoàng đến tuổi lấy chồng, nghe cha dứt tình với Hòa thầm cho là không phải. Hoàng muốn gả cho người khác, nàng khóc nói “Liễu lang không phải sinh ra đã nghèo, giả như nay giàu hơn thì kẻ hỏi cưới con có cướp được của chàng không? Nay thấy nghèo lại bỏ thì bất nhân lắm".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hoàng không vui, tìm đủ cách khuyên mà rốt lại cũng không làm nàng lay chuyển được. Hai vợ chồng cùng tức giận, sớm tối chửi mắng, cô gái cũng vẫn thế. Không bao lâu, đang đêm có bọn cướp vào nhà, vợ chồng Hoàng bị nướng dùi đốt thịt tra khảo chết đi sống lại, bao nhiêu của cải đều bị cướp sạch. Thấm thoát qua ba năm, nhà càng sa sút. Có nhà buôn nghe tiếng cô gái đẹp, xin nộp sính lễ năm mươi lượng vàng, Hoàng thấy nhiều tiền bèn ưng thuận, định ép con gái bằng được. Cô gái đoán biết, mặc áo rách bôi đen mặt, nhân đêm bỏ trốn, xin ăn dọc đường, trải hai tháng mới tới Bảo Định, hỏi thăm nhà Hòa rồi tìm thẳng vào. Mẹ Hòa ngỡ là vợ kẻ ăn mày bèn xua đuổi, nàng nức nở thưa rõ, bà nắm tay nàng chảy nước mắt nói “Sao con lại ra nông nổi này”. Cô gái lại khóc lóc kể hết đầu đuôi, mẹ con Hòa đều khóc. Kế múc nước cho nàng tắm rửa, thấy nhan sắc xinh đẹp, mặt mũi sáng sủa, mẹ con cùng mừng rỡ.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Nhưng nhà ba miệng ăn, mỗi ngày chỉ được một bữa, mẹ khóc nói "Mẹ con ta phải chịu cực khổ đã đành, chỉ thương cho nàng dâu thảo của ta thôi”. Nàng cười an ủi bà rằng "Con dâu của mẹ lúc trong đám ăn mày đã nếm đủ mùi cực khổ, hôm nay nhìn lại thấy như thiên đường khác với địa ngục vậy”, mẹ mới vui vẻ. Một hôm cô gái vào gian nhà bỏ không thấy cỏ dại mọc lan khắp nơi, tới phòng trong thì bụi bặm phủ đầy. Trong góc tối có vật gì đó chất thành đống, bước vào thấy vướng chân, nhặt lên xem thì toàn là bạc ròng, giật mình chạy về nói với Hòa. Hòa theo nàng vào xem, thì những gạch ngói ngày xưa Cung ném vào đó đều trở thành bạc nén trắng xóa. Nhân nhớ lại lúc còn nhỏ thường cùng Cung chôn gạch đá trong nhà, biết đâu đều là vàng bạc. Nhưng nhà cũ đã đem cầm cho láng giềng, vội qua chuộc lại thì thấy gạch lát nền đã vỡ cả, những chỗ chôn gạch ngói ngày xưa đều lộ cả ra, vô cùng thất vọng. Đến khi đào tìm dưới đất thì thấy toàn là bạc ròng sáng loáng, trong chốc lát trở thành giàu có ức vạn. Nhờ vậy chuộc ruộng vườn thuê tôi tớ, nhà cửa hoa lệ còn hơn ngày xưa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hòa vì thế hăng hái tự nhủ "Nếu không cố gắng lập thân, thật là phụ lòng chú Cung của ta", rồi ra sức học hành, ba năm sau đỗ Cử nhân. Bèn đích thân đem trăm lượng vàng tới tạ ơn bà Lưu, y phục rực rỡ lóa mắt, mười mấy tùy tùng khỏe mạnh đều cưỡi ngựa đẹp như rồng. Bà Lưu chỉ có một gian nhà, khách phải ngồi cả lên giường, người ngựa ồn ào vang động cả xóm. Hoàng từ khi con gái trốn đi, người nhà buôn đòi lại món tiền sính lễ, nhưng đã tiêu mất một nửa nên phải bán nhà mới trả được. Vì thế trở thành cùng quẫn như Hòa ngày xưa, nay nghe rể cũ giàu có sang trọng chỉ đóng cửa tự thương thân mà thôi. Bà Lưu mua rượu dọn tiệc đãi Hòa, nhân kể con gái Hoàng hiền, tỏ ý tiếc vì nàng bỏ nhà đi mất, rồi hỏi Hòa lấy vợ chưa, Hòa đáp rồi. Ăn uống xong, Hòa cố mời bà đi xem mặt vợ mình, rồi chở cùng về.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Tới nhà, nàng ăn mặc lộng lẫy bước ra, tỳ nữ xúm quanh như tiên, gặp nhau cùng sửng sốt, rồi cùng nhắc lại chuyện cũ, nhân hỏi thăm tin tức cha mẹ. Bà Lưu ở lại vài ngày, được tiếp đãi rất tử tế, may sắm quần áo mới rồi cho đưa về. Bà qua nhà Hoàng, kể lại tin tức cô gái và nhắn lời nàng hỏi thăm, vợ chồng cả kinh. Bà Lưu khuyên tới thăm con gái nhưng Hoàng có vẻ ngần ngại, kế khổ cực quá không chịu nổi nên bất đắc dĩ phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cổng trừng mắt nhìn, suốt ngày không nhắn gì được. Mãi sau có một bà già đi ra, Hoàng nhũn nhặn năn nỉ, tự nói họ tên, nhờ lén báo cho con gái biết.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Một lát bà già trở ra dắt Hoàng vào căn nhà phụ, nói "Nương tử rất muốn gặp ông một lần nhưng sợ lang quân biết nên phải chờ cơ hội thuận tiện. Ông tới đây bao lâu, đã ăn gì chưa?", Hoàng được dịp kể lể nỗi khổ. Người đàn bà đem một bầu rượu, hai đĩa thức ăn bày ra trước mặt Hoàng, lại đặt lên năm đồng vàng, nói "Lang quân đang ăn tiệc ở trong phòng, e nương tử không tới được. Sáng mai ông nên đi sớm, chớ để lang quân biết". Hoàng vâng dạ, sáng dậy mang gói ra thì cổng chưa mở, phải đứng chờ. Chợt có tiếng ồn ào nói ông chủ đi ra, Hoàng định nép mình tránh mặt nhưng Hòa đã nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi là ai. Tất cả gia nhân đều im lặng, Hòa giận nói "Ắt là kẻ gian, cứ bắt giải lên quan!". Chúng dạ vang đổ ra trói Hoàng vào gốc cây, Hoàng vừa sợ vừa thẹn không biết nói gì. Không bao lâu người đàn bà hôm qua ra quỳ xuống thưa "Đây là cậu ruột ta, tới lúc chặp tối nên chưa kịp thưa với ông chủ?", Hòa bèn sai cởi trói. Bà già dẫn Hoàng ra, nói "Vì ta quên dặn người giữ cổng nên có chuyện rắc rối. Nương tử nhắn rằng lúc nào tưởng nhớ cứ nói bà nhà giả làm người bán hoa đi với bà Lưu tới".</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p>Hoàng vâng dạ, về nhà kể chuyện với vợ, bà nhớ con gái vội qua nói với bà Lưu, bà Lưu bèn cùng đi, tới nhà Hòa qua hơn mười lớp cửa mới tới chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, đeo châu ngọc khắp mình, hương thơm ngào ngạt, thỏ thẻ kêu một tiếng thì tỳ nữ tớ gái xúm tới nhắc ghế mang gối, pha trà mời khách. Mẹ con nói tiếng lóng chuyện trò, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm tới dọn phòng cho hai bà già nghỉ, thấy nệm ấm gối êm, nhà mình năm xưa tuy giàu có cũng chưa từng dùng qua. Lưu lại năm ba ngày, nàng đối xử rất chu tất, bà dẫn nàng ra chỗ vắng khóc lóc hối hận về việc sai trái ngày trước. Nàng nói "Mẹ con ta thì có lầm lỗi nào không bỏ qua được, nhưng chồng con tức giận không nguôi, chỉ sợ chàng biết thôi”, nên cứ khi Hòa tới thì bà liền tránh mặt.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Một hôm đang ngồi chơi chợt Hòa bước vào nhìn thấy nổi giận quát “Mụ nhà quê nào lại dám ngồi ngang hàng với nương tử thế kia? Nắm đầu tống cổ ra cho ta”. Bà Lưu vội bước lên nói "Đó là Vương tẩu làm nghề bán hoa, có họ với già, xin ông tha lỗi”. Hòa bèn chắp tay tạ lỗi rồi ngồi xuống nói "Bà đến chơi mấy hôm mà ta bận quá chưa hỏi chuyện được, lão súc sinh họ Hoàng còn sống không?". Bà Lưu đáp "Cả hai ông bà vẫn mạnh khỏe, có điều nghèo lắm, quan nhân quá giàu sang sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút”. Hòa đập bàn nói “Năm xưa không có bà thương xót cho bát cháo thì ta làm sao về tới được quê quán, nay còn muốn bắt lão mà lột da ra chứ nghĩ tình cái gì?", nói tới đó căm giận quá dậm chân đứng dậy chửi mắng. Cô gái bực tức nói "Họ dẫu bất nhân cũng là cha mẹ ta. Ta từ xa xôi tìm tới đây rách chân nát gót, cũng tự thấy không phụ lòng chàng, sao chàng trước mặt con mà chưi mắng cha, khiến người ta không chịu nổi", Hòa mới nguôi giận đứng dậy bỏ đi. Vợ Hoàng thẹn tím mặt từ giã ra về, cô gái lấy hai chục đồng vàng đưa riêng cho mẹ. Sau khi bà về, không có tin tức gì nữa.</p><p>Cô gái thương nhớ cha mẹ quá, Hòa bèn sai người tới mời, hai vợ chồng tới vẫn có vẻ thẹn thùng áy náy. Hòa xin lỗi nói "Năm trước ông bà tới chơi lại không nói rõ, khiến ta mắc tội rất nhiều”, Hoàng chỉ dạ dạ. Hòa may sắm quần áo mới cho, lưu lại hơn một tháng. Hoàng vẫn thấy áy náy, mấy lần xin về. Hòa tặng một trăm lượng vàng, nói “Người nhà buôn trước kia đưa năm mươi lượng, nay ta xin đưa gấp đôi". Hoàng thẹn toát mồ hôi nhận lấy. Hòa cho xe ngựa đưa về, cuối đời Hoàng sống cũng hơi dư dật.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Sau khi Ung Môn<strong>*</strong> khóc xong thì giày son vắng cổng khiến người ta uất ức đóng cửa tuyệt giao. Thế nhưng bạn tốt chôn cất, đá hóa ra vàng, không thể nói rằng đó không phải là sự báo đáp cho người khẳng khái được. Còn kẻ phòng khuê chỉ ngồi mà hưởng, nghiễm nhiên như phi tần trong cung vua, nếu không phải là người trung trinh kỳ lạ như nàng họ Hoàng thì ai có thể hưởng thụ như vậy mà không xấu hổ? Tạo vật không giáng họa ban phúc sai là như thế đấy.</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Ung Môn: Hoàn đàm tân luận chép Ung Môn Chu cầm đàn tới ra mắt Mạnh Thường quân nói “Ta trộm cho rằng túc hạ có điều đau buồn. Đạo trời vốn không thường, ngàn vạn năm sau tôn miếu ắt không ai thờ cúng, đài cao đã nghiêng, ao sâu đã lấp, trên mộ đầy gai góc, chồn cáo làm hang bên trong, trẻ chăn trâu giẫm đạp lên ca hát mà nói sự giàu sang của Mạnh Thường quân cũng chỉ thế này thôi sao”. Mạnh Thường quân ngậm ngùi rơi lệ, Ung Môn Chu nhân đó gảy thành khúc đàn. Đây ý nói người giàu sang nhưng đã chết cũng không ai đoái hoài tới nữa.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 105 - 106 -</strong></p><p>Người Thiếp Hồ</p><p>(Hồ Thiếp)</p><p></p><p>Lưu Động Cửu người huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), ngồi một mình trong dinh nghe ngoài sân có tiếng cười nói, dần tới gần rồi vào trong phòng. Nhìn ra thì là bốn cô gái, một nàng độ bốn mươi tuổi, một nàng khoảng ba mươi, một nàng chừng hai mươi tư hai mươi lăm, cuối cùng là một nàng còn để tóc xõa. Cả bốn đứng trước kỷ nhìn nhau cười, Lưu vốn biết trong dinh nhiều hồ nên không ngó tới. Giây lát, nàng để tóc xõa rút ra chiếc khăn hồng đùa ném lên mặt Lưu. Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn. Bốn nàng cười rồi đi.</p><p></p><p>Một hôm nàng lớn nhất tới nói với Lưu "Em gái ta có nhân duyên với ông, xin đừng chê là hèn hạ”. Lưu ừ bừa, nàng ấy liền đi. Lát sau cùng một tỳ nữ dẫn nàng để tóc xõa tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói "Thật là đẹp đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc, cố mà hầu hạ Lưu lang, ta về đây". Lưu nhìn kỹ thấy nàng xinh đẹp vô song, bèn cùng vui vầy. Hỏi tới lai lịch, nàng nói “Thiếp không phải là người, nhưng thật ra cũng là người. Thiếp là con gái quan tiền nhiệm ở đây, bị hồ làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ hồ làm phép cho sống lại, cũng biến hóa như hồ vậy”. Lưu thò tay sờ phía sau, nàng hiểu ý cười nói "Chàng định nói là hồ thì có đuôi chứ gì?", rồi quay người lạỉ nói "Thử sờ xem nào”. Từ đó nàng ở lại luôn, đứng ngồi đều có đứa tỳ nữ ở bên, gia nhân đều tôn kính gọi là bà thứ, tôi tớ lên chào ra mắt đều được thưởng rất hậu.</p><p></p><p>Gặp dịp sinh nhật của Lưu, khách khứa đông đảo, tính ra tới ba chục mâm, phải có nhiều đầu bếp, đã sức gọi từ trước nhưng chỉ có một hai người tới, Lưu bực tức lắm. Cô gái biết được bèn nói "Đừng lo, số đầu bếp đã không đủ dùng thì cứ cho mấy người tới về luôn cho xong. Thiếp tuy kém cỏi nhưng nấu ba chục mâm cũng chẳng phải khó". Lưu mừng rỡ, sai mang cá thịt tỏi gừng vào tư thất, gia nhân chỉ nghe tiếng dao thớt khua ran không dứt. Cửa trong đặt một chiếc bàn, những người hầu để mâm lên đó, quay đi quay lại đã đầy thức ăn, bưng xong lại quay lại, hơn mười người đi lại liên tiếp mà lấy bao nhiêu cũng có. Sau cùng người hầu vào gọi lấy bánh canh, bên trong nói "ông chủ không dặn trước, gấp gáp thế này làm sao có được?". Kế lại nói "Không còn cách nào, đành phải mượn vậy”. Giây lát gọi vào lấy bánh canh, nhìn lại thì thấy đã có hơn ba chục tô bánh canh bốc khói đặt trên bàn. Khách về rồi, nàng nói với Lưu "Phải đưa tiền trả tiền bánh canh cho nhà nọ". Lưu sai đem tiền tới nhà ấy thì họ mất bánh canh còn đang kinh ngạc, khi người nhà Lưu tới trả tiền mới hết ngờ vực.</p><p></p><p>Một hôm uống rượu đêm, Lưu chợt thèm rượu nếp đắng Sơn Đông, nàng xin đi lấy rồi ra cửa đi. Giây lát trở về nói "Được một vò ngoài cửa, đủ uống mấy ngày rồi". Lưu ra xem, quả có một vò, đúng là thứ rượu mới cất ở nhà. Qua vài hôm, phu nhân sai hai người đầy tớ tới Phần Châu, giữa đường một người nói "Nghe nói phu nhân chồn hồ thưởng rộng rãi, chuyến này mà được tiền thưởng ta sẽ mua một cái áo lông chiên". Nàng ở dinh đã biết cả, nói với Lưu “Người nhà ở quê sắp tới, đáng giận thằng đầy tớ vô lễ, phải trị mới được". Hôm sau người đầy tớ vừa vào trong thành, đầu đã đau nhức, tới dinh thì ôm đầu kêu gào, mọi người đều bàn đi tìm thầy thuốc. Lưu cười nói “Không cần chữa, đến lúc sẽ tự hết", mọi người ngờ là y phạm tội với bà thứ.</p><p></p><p>Người đầy tớ tự nghĩ mới tới đây chưa kịp cởi hành lý ra thì đã làm gì nên tội, nhưng không biết kêu van với ai đành phải bò tới năn nỉ. Trong rèm có tiếng nói "Ngươi gọi phu nhân là đủ rồi, sao còn nói chữ hồ?". Người đầy tớ sực nhớ ra, lạy lục không thôi. Trong rèm lại nói "Đã muốn có áo lông chiên sao lại vô lễ thế?”, kế nói tiếp "Ngươi khỏi rồi đấy”, dứt câu thì người đầy tớ thấy hết đau, lạy tạ định lui ra, chợt trong rèm ném ra một cái bọc, nói "Đây là một cái áo lông dê non, ngươi cầm đi", y mở ra xem thì thấy có năm đồng vàng. Lưu hỏi tin nhà, người đầy tớ thưa đều được vô sự chỉ có đang đêm bị mất một vò rượu, tính lại ngày giờ thì đúng vào đêm nàng đi lấy rượu. Mọi người kính sợ nàng có phép thần thông, gọi là Thánh tiên.</p><p></p><p>Lưu vẽ tranh nàng, lúc ấy Trương Đạo Nhất làm quan Đề học sứ nghe chuyện lạ liền lấy tình đồng hương tới thăm Lưu xin được gặp mặt một lần, nàng từ chối. Lưu đưa bức tranh cho xem, Trương giật lấy đem về treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn khứa "Xinh đẹp như nàng muốn gì chẳng được, sao lại gởi thân cho lão già râu xồm? Hạ quan không thua kém gì Động Cửu, sao không chiếu cố cho nhau một lần”. Nàng ở dinh chợt nói với Lưu "Trương công vô lễ phải trừng phạt một chút". Một hôm Trương đang khấn khứa thấy như có ai cầm thước đánh mạnh vào trán đau điếng, cả sợ cuốn bức tranh sai người đem trả. Lưu hỏi vì sao trả lại, người ấy giấu việc Trương bị đánh mà bịa chuyện trả lời, Lưu cười hỏi "Trán chủ ngươi có đau không?", người ấy không dám nói dối phải kể thật.</p><p></p><p>Không bao lâu sau, rể Lưu là Nguyên sinh tới thăm, xin được ra mắt nhưng nàng từ chối. Nguyên nài nỉ mãi, Lưu hỏi “Con rể nào phải người ngoài, sao cự tuyệt quá thế?”. Nàng đáp "Con rể tới ra mắt ắt phải có gì tặng, nhưng y mong cầu quá lắm, ta tự thấy không làm vừa lòng y được nên không muốn gặp đó thôi”. Kế Nguyên lại cố nài nỉ, nàng hứa mười ngày sẽ cho ra mắt. Đến ngày hẹn Nguyên vào, đứng ngoài rèm chắp tay vái rồi hỏi thăm sức khỏe, chỉ thấy loáng thoáng dung mạo nhưng không dám nhìn kỹ. Kế lui ra, đi được mấy bước cứ ngoảnh lại nhìn chằm chằm, chỉ nghe tiếng nàng nói "Con rể quay lại kìa", dứt lời cười lớn, lanh lảnh như tiếng cú rúc. Nguyên nghe thấy gân cốt nhũn cả ra, run rẫy tựa mất hồn.</p><p></p><p>Ra ngoài ngồi hồi lâu mới hơi định thần, bèn nói “Vừa nghe tiếng cười như nghe tiếng sét, thật không biết mình còn sống hay đã chết” Giây lát người tỳ nữ vâng lệnh nàng đem ra hai mươi lượng vàng tặng Nguyên, Nguyên nhận rồi nói "Thánh tiên hàng ngày ở với ông chồng, há lại không biết tính ta phung phí chứ không quen dùng món tiền nhỏ sao?” Nàng nghe thế nói "Ta vẫn biết là thế, nhưng vừa lúc hết tiền, mới rồi cùng bạn bè đi Biện Lương (tỉnh thành Hà Nam) thì thành bị Hà Bá chiếm cứ, kho tàng đều ngập dưới nước, lặn xuống lấy mỗi người chỉ được bấy nhiêu, làm sao đầy được túi tham không đáy của y. Vả lại nếu ta tặng cho thật hậu thì y phúc bạc cũng không thể hưởng được đâu".</p><p></p><p>Phàm mọi việc cô gái đều có thể biết trước nên có việc gì nghi ngờ cứ bàn với nàng là quyết được ngay. Một hôm đang cùng ngồi chuyện trò, chợt nàng ngữa mặt lên trời cả kinh nói “Đại nạn sắp tới, làm sao bây giờ”. Lưu hoảng sợ hỏi người trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói "Tất cả vô sự, chỉ có nhị công tử là đáng lo. Không bao lâu nơi đây sẽ thành chiến trường, chàng nên xin đi công cán nơi xa mới khỏi nạn”. Lưu theo lời, xin quan trên cho đi áp tải lương tiền tới Vân Nam Quý Châu. Đường sá xa xôi, ai nghe cũng thương xót cho Lưu, duy có cô gái lấy làm vui mừng. Không bao lâu Khương Khôi làm phản<strong>*</strong>, Phần Châu bị giặc chiếm làm sào huyệt, con trai thứ hai của Lưu từ Sơn Đông tới thì vừa gặp loạn, bị giết chết. Thành bị hãm, quan lại đều bị hại, chỉ có Lưu đi công cán nơi xa được thoát, đến khi yên giặc mới trở về.</p><p></p><p>*Khương Khôi làm phản: Khương Khôi là người cuối thời Minh, giữ chức Tổng binh Đại Đồng, khi Lý Tự Thành đánh tới thì Khôi đem thành đầu hàng, theo Tự Thành chống nhà Minh.</p><p></p><p>Sau Lưu dính líu vào vụ án lớn bị bãi chức, nghèo túng tới mức ngày không lo đủ hai bữa cơm, quan lại còn đòi hỏi hạch sách rất nhiều nên cùng quẫn lo lắng muốn chết. Nàng nói "Đừng lo, dưới gầm giường có chôn ba ngàn đồng vàng, cũng đủ chi tiêu”. Lưu mừng rỡ hỏi đánh cắp được ở đâu, nàng đáp "Của vô chủ trong thiên hạ muốn lấy bao nhiêu cũng có, cần gì phải trộm cắp?". Lưu dùng số tiền ấy lo lót được thoát tội về quê, cô gái cũng đi theo. Vài năm sau chợt bỏ đi, để lại cái túi giấy chứa mấy vật lại cho Lưu, trong có lá phướn nhỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc, mọi người đều cho là điềm bất tường, kế Lưu chết.</p><p> </p><p><strong>106. Thần Sấm Sét</strong></p><p><strong>(Lôi Tào)</strong></p><p></p><p>Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình Tử lúc nhỏ ở cùng làng, lớn lên học cùng trường, chơi với nhau rất thân. Hạ thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã nổi tiếng, Nhạc dốc lòng kính ái, Hạ cũng thường khuyên dạy cho không biết mỏi. Nhạc học hành ngày càng tấn tới nhờ vậy cũng nổi tiếng, nhưng khoa cử lận đận, cứ đi thi là rớt. Không bao lâu Hạ mắc bệnh dịch chết, nhà nghèo không chôn cất nổi, Nhạc khẳng khái đứng ra lo liệu, Hạ còn vợ góa con côi thì thường lui tới thăm hỏi, kiếm được chút ít gì cũng chia cho một nửa. Vợ con Hạ nhờ vậy mới sống được, các bậc sĩ đại phu vì thế càng khen Nhạc hiền. Nhà Nhạc không có của cải gì nhiều, lại còn chu cấp cho vợ con Hạ nên gia cảnh ngày càng sa sút, bèn than "Tài học như Bình Tử mà còn phải lận đận rồi chết, huống chi là ta? Sự giàu sang ở đời phải đúng lúc, nếu cứ lo lắng tròn năm thì e sẽ chết trước cả giống vật nơi ngòi rãnh, phí cả một đời, chẳng bằng lo liệu cho sớm".</p><p></p><p>Từ đó Nhạc bỏ học đi buôn, làm ăn nửa năm thì cảnh nhà hơi khá lên. Một hôm đi buôn tới Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), vào nghỉ trong quán trọ thấy một người cao lớn, bắp thịt cuồn cuộn cứ quanh quẩn cạnh chỗ mình ngồi, sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi "Muốn ăn cơm không?", người ấy cũng im lặng. Nhạc đẩy mâm ra mời, y lấy tay bốc ăn, trong giây lát hết sạch. Nhạc lại gọi thêm một mâm mấy phần cơm, y lại ăn hết, Nhạc bèn bảo chủ quán cắt thịt heo, bóc bánh chưng đầy mâm, y lại ăn sạch mấy phần nữa mới no, cảm tạ nói "Ba năm nay chưa từng được bữa nào ăn no thế này". Nhạc hỏi "Ông là bậc tráng sĩ sao lại lưu lạc khổ cực tới mức này?”, y đáp “Ta mắc tội với trời, không thể nói ra được”. Nhạc hỏi quê quán nhà cửa, y đáp "Trên bộ không có nhà cửa, dưới nước không có ghe thuyền, chỉ sáng vào trong làng tối ra ngoàí ruộng thôi".</p><p></p><p>Nhạc sửa soạn hành lý ra đi, người ấy đi theo, bịn rịn không rời. Nhạc từ tạ, y nói "Ông sắp gặp nạn lớn, ta không nỡ quên cái ơn cho một bữa ăn”. Nhạc lấy làm lạ, bèn cho y đi cùng, trên đường kéo vào quán ăn cơm, y từ chối nói “Cả năm ta chỉ ăn vài bữa thôi", Nhạc càng lấy làm lạ. Hôm sau qua sông, chợt sóng gió nổi lên, ghe thuyền chở thuê đều đắm cả, Nhạc và người ấy cũng chìm xuống sông. Lát sau gió lặng sóng yên, y cõng Nhạc đạp sóng ngoi lên, đưa Nhạc lên một chiếc thuyền khách rồi lại rẽ nước đi. Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc qua dặn ngồi đó giữ rồi nhảy xuống nước, trồi lên thì hai tay xách hàng hóa bị chìm ném vào thuyền rồi lại lặn xuống, mấy lần lên xuống thì hàng hóa bị chìm được vớt lên đầy cả thuyền.</p><p></p><p>Nhạc cảm tạ nói “Ông cứu sống ta là quá đủ rồi, đâu dám mong lấy lại được hàng hóa” Kiểm lại của cải thấy không bị mất gì, càng mừng rỡ kính phục y là thần, định dong thuyền đi thì y từ biệt, Nhạc cố giữ cùng qua sông. Kế cười nói “Cái nạn thế này mà chỉ mất có một chiếc trâm vàng”, người ấy muốn lại xuống nước tìm, Nhạc đang ngăn lại bảo thôi thì y đã nhảy xuống nước mất hút. Nhạc kinh ngạc hồi lâu, chợt thấy y tươi cười trồi lên đưa cho chiếc trâm, nói “May là cũng tìm thấy”, người trên sông ai cũng kinh lạ. Nhạc đưa người ấy về nhà, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu. Cứ mười mấy ngày y mới ăn một bữa, mà ăn thì ăn rất nhiều.</p><p></p><p>Một hôm từ giã đi, Nhạc cố giữ lại, vừa lúc trời tối tăm như muốn mưa, nghe có tiếng sấm. Nhạc nói “Không biết quang cảnh trong mây ra sao, sấm sét là vật gì, làm sao lên được trên trời mà xem một lần mới hết thắc mắc”. Người ấy cười nói “ông muốn lên mây chơi à?”. Giây lát chợt Nhạc thấy trong người mỏi mệt quá, lăn ra giường thiu thiu ngủ, khi tỉnh thấy người đong đưa không giống như đang nằm trên giường. Mở mắt nhìn thì thấy đang trong mây, chung quanh trắng toát như bông, hoảng sợ vùng dậy thấy váng vất như đang đi thuyền, dưới chân thì mềm mại không phải là đất, ngẩng đầu thì thấy tinh tú ngay trước mắt, nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Nhìn kỹ thấy các ngôi sao khảm vào bầu trời như hạt sen trong gương sen, ngôi lớn bằng cái khạp, ngôi vừa bằng cái vò, ngôi nhỏ bằng cốc chén, lấy tay lắc thử thấy sao lớn bám chặt không nhúc nhích, sao nhỏ thì lung lay như có thể hái xuống. Liền hái lấy một ngôi cất vào tay áo rồi vén mây nhìn xuống thì bể bạc mênh mông, thấy thành quách nhỏ như hạt đậu, kinh ngạc tự nghĩ nếu lỡ hụt chân một cái thì còn gì là mạng.</p><p></p><p>Bỗng thấy hai con rồng uốn lượn kéo một chiếc xe căng màn chạy tới, đuôi ngoắt thành tiếng vun vút như roi trâu. Trong xe có cái bồn chu vi mấy trượng đựng đầy nước, có mấy mươi người cầm gáo múc nước tưới khắp trên mây. Họ thấy Nhạc đều lấy làm lạ, Nhạc nhìn kỹ thì thấy trong bọn có người tráng sĩ bạn mình. Y nói với mọi người "Đây là bạn ta", rồi đưa Nhạc một cái gáo bảo múc nước mà tưới. Lúc đó trời đang đại hạn, Nhạc đón lấy cái gáo, vén mây nhìn về phía quê chăm chỉ múc tưới. Lát sau người bạn nói với Nhạc "Ta vốn là thần sấm sét, vì trước đây làm mưa sai hẹn nên bị phạt đày ba năm, nay đã mãn hạn, từ đây xin vĩnh biệt". Rồi lấy sợi dây buộc xe dài cả vạn thước bảo Nhạc bám vào một đầu để thả xuống đất. Nhạc lo dây đứt, y cười nói không hề gì, Nhạc theo lời bám vào, thấy lơ lửng trong chớp mắt đã tới mặt đất, nhìn lại thì đang đứng ngoài làng, sợi dây thì thu dần vào trong mây không thấy đâu nữa.</p><p></p><p>Lúc ấy hạn hán đã lâu mới có trận mưa, nhưng ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, chỉ có làng Nhạc thì hồ rạch tràn đầy. Về tới nhà Nhạc mò lại trong tay áo thì ngôi sao đã hái vẫn còn, đem đặt lên bàn thì đen như hòn đá, đến đêm thì long lanh sáng rực chiếu rọi khắp nhà. Nhạc càng quý báu gói lại cất kỹ, mỗi khi có khách quý thì mang ra thay đèn uống rượu ban đêm, nhìn thẳng vào thấy ánh sáng chói cả mắt. Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ngôi sao chải tóc chợt thấy ánh sáng thu nhỏ mờ dần chỉ còn như con đom đóm, lại động đậy bay lên, giật nảy mình định kêu lên thì ngôi sao đã chui tọt vào miệng, vừa khạc thì đã xuống tới cổ họng. Nàng sợ hãi chạy vào kể cho Nhạc, Nhạc cũng lấy làm lạ.</p><p></p><p>Kế nằm ngủ mơ thấy Hạ Bình Tử tới nói “Ta là sao Thiếu Vi những việc ông giúp cho ta vẫn nhớ không quên. Lại nhờ ông thương mến đem ta trên trời về, có thể nói là có duyên với nhau, nay xin làm người nối dõi cho ông để đền ơn lớn". Lúc ấy Nhạc đã ba mươi tuổi vẫn chưa có con, mơ thấy thế mừng lắm. Từ đó vợ có mang, khi lâm bồn có ánh sáng chiếu khắp nhà như lúc đặt ngôi sao trên bàn, nhân đó đặt tên con là Tinh Nhi. Tinh Nhi khôn ngoan lạ thường, năm mười sáu tuổi thi đỗ Tiến sĩ.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ông Nhạc nổi tiếng văn chương một thời, chợt thấy việc theo đuổi công danh đến già không hợp với mình liền vứt ngọn bút như cởi chiếc dép, có khác gì Ban Siêu ném bút<strong>*</strong>! Đến như thần sấm sét cảm ơn cho ăn, sao Thiếu Vi đáp tình bạn cũ, há phải là thần nhân đền đáp ơn riêng đâu mà là tạo vật báo đáp cho bậc hiền hào đấy.</em></p><p></p><p>*Ban Siêu ném bút: nguyên văn là "Yến hạm đầu bút". Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện chép Ban Siêu thuở trẻ nhà nghèo phải làm việc chép thuê trong dinh quan để sống, gặp người thầy tướng nói "Ông hàm én đầu hổ (yến hạm hổ đầu), bay cao mà ăn thịt, đó là tướng được phong hầu ngoài vạn dặm", Siêu ném bút than “Đại trượng phu phải lập công nơi đất lạ để được phong hầu, chứ sao có thể theo việc bút nghiên mãi được”. Sau đi sứ Tây Vực có công được phong tước Định Viễn hầu. Đây tác giả có ý nói ngược lại.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 107 - 109 -</strong></p><p>Bùa Đánh Bạc</p><p>(Đổ Phù)</p><p></p><p>Đạo sĩ họ Hàn ở miếu Thiên Tề trong huyện ta giỏi phép thuật, mọi người đều gọi là tiên. Cha ta chơi thân với ông, cứ có dịp vào thành là ghé thăm. Một hôm cha ta cùng chú ta vào thành, định tới thăm thì gặp Hàn trên đường, Hàn đưa chìa khóa nói "Xin cứ tới mở cửa vào ngồi đợi một lúc, ta sẽ về ngay”. Cha ta theo lời, tới miếu mở cửa vào thì Hàn đã ngồi ở trong, những việc như vậy rất nhiều. Trước trong họ hàng có người hay cờ bạc, qua cha ta nên cũng quen Hàn, gặp lúc có một nhà sư ở chùa Thiên Phật tới, rất sành cờ bạc, đánh bạc rất lớn. Người ấy gặp thích lắm, mang tiền tới chơi, thua nặng, càng cay cú. Về cầm bán nhà cửa ruộng vườn tới chơi tiếp, hết đêm thì thua sạch, chán nản bất đắc chí ra về, tiện đường ghé Hàn, đầu óc thẫn thờ, ngôn ngữ thất thố. Hàn hỏi, người ấy kể lại mọi chuyện, Hàn cười nói "Thường đánh bạc thì không ai không thua, nếu ngươi chừa đánh bạc được thì ta sẽ giúp lấy tiền lại cho". Người ấy nói "Nếu lấy lại được thì xin đem chày sắt đập nát hết xúc xắc". Hàn bèn lấy giấy vẽ bùa đưa cho bảo giắt vào thắt lưng, dặn "Nếu lấy lại được hết tiền thua rồi phải thôi ngay, không nên được voi đòi tiên". Lại đưa cho một ngàn đồng tiền, hẹn khi thắng rồi thì trả lại, người ấy cả mừng ra đi.</p><p></p><p>Nhà sư thấy chỉ có bấy nhiêu tiền coi thường không thèm chơi, người ấy cố ép, hẹn chỉ đánh một tiếng bạc thôi. Nhà sư cười ưng thuận, người ấy đặt cả một ngàn đồng tiền. Nhà sư gieo xúc xắc trước, chưa phân thắng bại, người ấy gieo liền thắng ngay. Nhà sư lại đánh hai ngàn đồng tiền, lại thua, dần dần tăng tới mười mấy ngàn đồng. Người ấy gieo lần đầu thì rõ ràng là điểm rất thấp quát lên một tiếng thì con xúc xắc lật lại thành điểm cao nhất, trong khoảnh khắc đã lấy lại được tất cả số tiền đã thua, nhưng nghĩ thầm kiếm thêm vài ngàn nữa cũng hay. Bèn đánh thêm thì thua ngay, lấy làm kỳ quái đứng lên nhìn lại thắt lưng thì lá bùa đã biến mất, cả sợ bèn thôi không chơi nữa. Bèn chở tiền về miếu, trả cho Hàn xong tính cả số bị thua trong tiếng bạc chót với số thắng được thì vừa khớp với số tiền bị thua trước đó. Liền xấu hổ xin lỗi về việc mất lá bùa, Hàn cười nói "Nó ở đây rồi, ta đã dặn đừng tham mà ông không chịu nghe nên đã lấy về"</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Cái làm thiên hạ khuynh gia bại sản không gì mau bằng cờ bạc, cái làm thiên hạ tổn đức mất nết không không gì mạnh bằng cờ bạc, sa vào rồi thì như rơi xuống biển mê không biết đâu là đáy. Phàm kẻ làm ruộng buôn bán đều có nghề nghiệp, kẻ học trò đọc sách càng tiếc thời giờ. Đọc sách cầm cày vốn là đường chính để thành gia, chén rượu chung trà cũng là niềm vui trên cõi thế. Thế mà lại theo bạn xấu rủ rê, suốt canh khuya đàn đúm. Nghiêng rương vét tủ, treo vàng mơ trên mấy tầng trời, la thắng thét ù, xin thần giúp trong trò ngu dại. Năm con xúc xắc đổ tựa gieo châu, mấy lá bài chia cầm như xòe quạt. Liếc bài người lại ngó bài mình, chán cho mắt quỷ, bài thì tốt mà kêu là xấu, giở đủ trò ma. Trước cửa tân khách chờ, còn lưu luyến bên sòng bạc, ở nhà cơm nước đợi, vẫn mê mãi với quân bài. Quên ăn bỏ ngủ, lâu ngày thành mê, mặt sạm môi chì, nhìn xem tựa quỷ. Đến lúc thua sạch tiền lưng, ngồi trơ mắt ếch. Nhìn vào sòng thì la hét vang rân, anh hùng ngứa ngáy, ngó lại túi thì trống không nhẵn nhụi, tráng sĩ thẫn thờ. Nghểnh cổ bồi hồi, biết tay trắng không sao chơi được, cúi đầu than thở, đến hừng đông mới chịu ra về. Ngang nhà người quen đang ngủ, sợ chó sủa ầm, thấy bụng mình đói cứ sôi, hờn nồi cạn sạch. Kế lại bán vợ đợ con, cũng muốn cầu may thủ vận, chẳng ngờ nắm lông lò lửa, chung quy đáy nước mò trăng. Lúc tàn mạt mới ngẫm lại mình, thấy đã ra người hạ tiện, đám cờ bạc hỏi ai giỏi nhất, đều tôn ấy bậc không quần. Thậm chí xoa bụng đói dài, phải đi làm cướp, gãi đầu tính lại, đành chịu xin ăn. Than ôi, cờ bạc chính là một con đường dẫn tới chỗ tổn đức mất nết, tan cửa nát nhà đấy.</em></p><p></p><p><strong>108. A Hà</strong></p><p><strong>(A Hà)</strong></p><p></p><p>Cảnh Tinh Giả người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ có tiếng tài giỏi, ở cạnh nhà Trần sinh, phòng sách chỉ cách nhau một bức tường ngắn. Một hôm vừa chập tối, Trần đi qua một bãi đất vắng nghe trong tiếng con gái khóc trong đám tùng bách, tới gần thấy trên cành cây mọc ngang có sợi dây vắt qua như sắp treo cổ tự tử. Trần hỏi han, cô gái gạt lệ nói "Mẹ đi xa gởi thiếp ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói tàn ác nuôi nấng không ra sao, bơ vơ thế này thì chết đi còn hơn”, nói xong lại khóc. Trần cởi sợi dây khuyên nàng tìm người mà lấy, nàng lo không có ai để nương tựa, Trần mời về nhà mình ở tạm, cô gái bèn đi theo. Về tới nhà khêu đèn nhìn kỹ thấy phong tư xinh đẹp, Trần rất thích, muốn làm ẩu, cô gái lớn tiếng chống cự, cãi nhau ồn ào vang qua bên kia vách. Cảnh sinh leo tường qua xem, Trần mới buông nàng ra. Cô gái thấy Cảnh cứ nhìn không chớp mắt, hồi lâu bỏ chạy, hai người cùng đuổi theo nhưng không biết nàng chạy về hướng nào.</p><p></p><p>Cảnh về nhà đóng cửa định đi ngủ thì cô gái lững thững trong phòng bước ra, ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Y đức ít phúc mỏng, không thể nương tựa suốt đời". Cảnh mừng lắm gạn hỏi tên họ quê quán, nàng nói "Tổ tiên thiếp ở đất Tề (tỉnh Sơn Đông) nên lấy chữ Tề làm họ, tiểu tự là A Hà". Cảnh buông lời trêu ghẹo, nàng cười không có vẻ chống cự gì lắm, bèn cùng ăn ở với nhau. Nhà hay có đông bè bạn lui tới, cô gái thường núp kín trong phòng. Qua mấy hôm nói “Thiếp phải tạm đi, nơi này đông người ồn ào mệt quá. Từ nay xin hẹn nhau buổi tối thôi". Cảnh hỏi nhà ở đâu nàng đáp "Cũng không xa lắm", rồi đi sớm, buổi tối quả nhiên lại tới.</p><p></p><p>Mấy hôm sau nàng lại nói "Hai ta tuy thương yêu nhau nhưng rốt lại vẫn là tự ý chung chạ. Nay cha đi làm quan ở miền tây, sáng mai phải theo mẹ đi, định tìm dịp thưa rõ rồi sẽ theo chàng trọn đời". Cảnh hỏi chia tay bao lâu, nàng hẹn khoảng một tuần rồi đi. Cảnh nghĩ ở nhà học không tiện, mà dọn vào ở nhà trong thì lo vợ ghen, tính không gì bằng bỏ vợ, bèn quyết ý. Vợ tới cứ mắng chửi, vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh nói với vợ “Cô chết sợ ta bị liên lụy, xin cứ về lại nhà cô", rồi giục đi mau. Vợ khóc lóc nói "Thiếp theo chàng mười năm chưa làm điều gì thất đức, sao quyết dứt tình như thế”. Cảnh không thèm nghe, càng đuổi đi gấp, vợ bèn ra cửa đi. Từ đó sơn phết tường vách, quét dọn nhà cửa, dài cổ trông ngóng A Hà, không ngờ tin tức vắng bặt như đá chìm xuống biển.</p><p></p><p>Vợ Cảnh bị đuổi rồi, mấy lần nhờ bạn thân nói giùm xin cho trở lại nhưng Cảnh không chịu, bèn lấy chồng họ Hạ Hầu. Làng Hạ Hầu gần nhà Cảnh, vì chuyện bờ ruộng nên nhiều đời có hiềm khích với nhau, Cảnh nghe tin ấy càng tức giận, nhưng còn đợi A Hà trở lại để tự an ủi lỗi lầm. Hơn một năm chẳng thấy tăm hơi, gặp ngày cúng Hải thần, trong ngoài đền trai gái tấp nập, Cảnh cũng tới đó. Xa xa thấy một cô gái rất giống Hà, Cảnh tới gần thì nàng chen vào đám đông, theo ra tới ngoài cổng thì nàng đi rất nhanh, Cảnh đuổi theo không kịp tức tối bỏ về.</p><p></p><p>Nửa năm sau Cảnh đi trên đường thấy một nữ lang mặc áo đỏ cưỡi ngựa đen có đầy tớ dắt cương đi tới, nhìn ra thì là A Hà, bèn hỏi kẻ tùy tùng nương tử là ai, y đáp là vợ kế công tử họ Trịnh ở thôn Nam. Cảnh lại hỏi công tử cưới bao lâu rồi, y đáp "Nửa tháng nay thôi". Cảnh đang nghĩ hay mình lầm, thì nữ lang nghe tiếng trò chuyện quay lại, Cảnh nhìn thì đúng là Hà. Thấy nàng đã lấy người khác, trong lòng giận sôi lên, kêu lớn "Nàng Hà sao lại quên lời hứa cũ?". Bọn tùy tùng nghe gọi bà chủ mình xúm lại toan đánh, cô gái vội ngăn lại vén khăn che mặt nói với Cảnh "Gã phụ lòng còn dám nhìn mặt nhau à?". Cảnh nói "Tự nàng phụ ta chứ ta phụ nàng lúc nào?”. Nàng đáp “Phụ phu nhân còn tệ hơn phụ ta, với người kết tóc trăm năm còn thế huống hồ với kẻ khác? Trước đây nhờ âm đức ông bà nên ngươi được ghi tên vào bảng thi đỗ, ta mới đem thân theo ngươi. Nay vì việc bỏ vợ, âm ty đã phạt tước giảm lộc số của ngươi rồi. Khoa này người đỗ thứ hai là Vương Xương thay vào tên ngươi đấy. Nay ta đã theo Trịnh quân, ngươi đừng mơ tưởng nữa".</p><p></p><p>Cảnh gục đầu cụp tai không dám mở miệng, nhìn thấy cô gái thúc ngựa phóng như bay, chỉ còn biết não nề mà thôi. Khoa thi ấy Cảnh trượt, người đỗ thứ hai quả họ Vương tên Xương, Trịnh cũng đỗ. Từ đó Cảnh mang tiếng phụ bạc, bốn mươi tuổi không có vợ, nhà càng sa sút, thường tới ăn chực ở nhà bạn bè. Một hôm ngẫu nhiên tới nhà Trịnh, Trịnh khoản đãi giữ lại ngủ đêm. Cô gái lén ra nhìn khách, thấy Cảnh thương xót hỏi Trịnh "Người khách ở nhà trên có phải là Cảnh Khánh Vân không?”. Trịnh hỏi vì sao biết, nàng nói "Lúc chưa lấy chàng từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng tử tế. Tính nết y tuy hèn nhưng âm đức tổ tiên chưa dứt, vả lại còn là cố nhân của chàng, cũng nên giúp đỡ cho trọn nghĩa bạn bè". Trịnh cho là phải, đưa áo quần mới cho Cảnh thay, giữ lại khoản đãi mấy ngày.</p><p></p><p>Nửa đêm Cảnh sắp đi ngủ có người tỳ nữ cầm hơn hai mươi đồng vàng vào tặng, cô gái thì đứng ngoài của sổ nói "Đó là của riêng ta đền đáp nghĩa cũ, nên về tìm cưới một người vợ tốt. May là phúc đức tổ tiên còn lớn, cũng đủ giúp cho con cháu. Từ nay nên ráng giữ nết, đừng để tổn thọ", Cảnh cảm tạ. Trở về bỏ ra hơn mười đồng vàng mua một tỳ nữ nhà thân hào, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai về sau liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội. Trịnh thì làm quan tới chức Lang trung bộ Lại, khi chết cô gái chôn cất xong trở về, vén rèm kiệu thì không có ai, bấy giờ mới biết nàng không phải là người. Ôi! kẻ vô lương được mới nới cũ, rốt lại tổ lật mà chim cũng bay, trời cao báo ứng cũng thảm độc lắm!</p><p></p><p><strong>109. Con Hồ Lông Lá</strong></p><p><strong>(Mao Hồ)</strong></p><p></p><p>Nhà nông Mã Thiên Vinh hơn hai mươi tuổi góa vợ, nghèo không cưới nổi vợ khác. Một hôm đang bừa ruộng, thấy một thiếu phụ ăn mặc đẹp đẽ xuyên bờ đạp lúa đi ngang, sắc mặt đỏ sậm, cũng có vẻ phong lưu. Mã ngờ là bị lạc đường, nhìn quanh không có ai bèn đùa trêu chọc, thiếu phụ cũng mỉm cười. Mã muốn giao hoan tại đó, nàng nói “Ban ngày ban mặt làm thế sao được? Chàng cứ về nhà khép cửa chờ, trời tối ta sẽ tới". Mã không tin, nàng thề sẽ tới, Mã nói rõ phương hướng cửa ngõ nhà mình, nàng bèn đi. Đến đêm quả tới, cùng nhau giao hoan, Mã thấy da thịt nàng rất mềm mại, thắp đèn soi thì da đỏ mỏng như trẻ sơ sinh, lông tơ đầy mình, lấy làm lạ. Lại ngờ vì lai lịch nàng không rõ ràng, nghĩ biết đâu là hồ liền đùa hỏi thử, nàng nhận ngay không hề e ngại. Mã nói "Đã là người tiên thì cầu gì được nấy, đã đội ơn thương yêu, sao không giúp luôn cho ta ít tiền qua cơn nghèo?". Nàng nhận lời, đêm sau tới, Mã hỏi tiền, nàng ra vẻ sửng sốt nói "Ta quên bẵng đi mất” lúc sắp đi Mã lại nhắc.</p><p></p><p>Đêm đến Mã hỏi lại quên món mình xin rồi phải không, nàng cười hẹn hôm khác. Qua mấy hôm Mã lại hỏi, nàng cười rút trong tay áo ra hai nén bạc đáng giá năm sáu lượng vàng, ngoài rìa có hoa văn nhỏ nhìn rất thích mắt. Mã mừng rỡ cất kỹ trong rương, nửa năm sau có việc cần dùng lấy đưa người ta xem, họ nói “Đây là chì mà". Đưa lên răng cắn quả gãy ngay, Mã sợ quá nhặt lấy trở về, đến đêm người đàn bà tới, Mã tức tối trách móc, nàng cười nói "Phần số của chàng mỏng manh lắm, không dùng được tiền thật đâu”, rồi cùng cười bỏ qua. Mã nói "Nghe nói hồ tiên đều là bậc quốc sắc, nhưng rất là không đúng". Người đàn bà nói "Bọn ta đều tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, chàng đã không có phúc hưởng một đồng vàng thì nhan sắc chim sa cá lặn làm sao hưởng thụ được? Ta xấu xí vấn không đủ để phụng sự bậc quý nhân, nhưng so với bọn chân to lưng gù thì là bậc quốc sắc đấy".</p><p></p><p>Qua mấy tháng chợt đưa cho Mã ba lượng vàng, nói “Chàng hỏi nhiều lần, ta vì thấy mạng chàng không thể có tiền để dành nên không cho, nay đến dịp cưới hỏi, xin đem số tiền cưới một người vợ để tặng chàng thay cho món quà chia tay”. Mã bày tỏ mình không có chuyện mai mối cưới hỏi gì cả, nàng nói "Một hai ngày nữa sẽ có bà mối tới”. Mã hỏi theo nàng thì vợ mình sắc đẹp ra sao, nàng đáp "Chàng muốn có bậc quốc sắc thì sẽ được bậc quốc sắc” Mã nói “Ta không dám mong tới đó, nhưng ba lượng vàng làm sao đủ cưới vợ”, nàng đáp "Đó là chủ ý của Nguyệt lão, không phải sức người làm được đâu”. Mã hỏi sao vội từ giã như thế nàng đáp "Đêm đêm tìm tới, rốt lại cũng không đâu vào đâu, vả lại chàng sẽ có vợ, giữ nhau tới cùng làm gì?". Sáng hôm sau ra đi, đưa Mã một gói thuốc bột, dặn "Sau khi chia tay e chàng lâm bệnh, cứ uống thuốc này là khỏi".</p><p></p><p>Hôm sau quả có bà mối tới, Mã trước tiên hỏi nhan sắc người con gái, bà ta đáp ở giữa khoảng xấu đẹp, hỏi tiền sính lễ là bao nhiêu, đáp chỉ khoảng bốn năm lượng vàng. Mã không nói giá cao, nhưng muốn nhìn thấy mặt. Bà mối ngại rằng con nhà tử tế không chịu ra mặt, kế hẹn cùng tới đó sẽ tùy cơ tìm cách cho xem mặt. Tới nơi, bà mối vào trước, bảo Mã đứng chờ ngoài thôn, hồi lâu trở ra nói "Được rồi, người họ hàng của ta cũng ở khu nhà ấy, xin chàng giả tới thăm người họ hàng của ta mà đi qua, chỉ cách gang tấc có thể nhìn rõ". Mã theo lời, quả nhiên thấy cô gái ngồi trên sảnh đường, ngã mình xuống giường sai người gãi lưng. Mã đi ngang nhìn lướt vào, thấy mặt mũi nàng quả đúng như bà mối đã nói.</p><p></p><p>Đến lúc bàn chuyện sính lễ, nhà gái không kèo nài gì cả, chỉ xin được một hai lượng vàng để mua sắm chút tư trang cho cô gái, Mã còn cò kè xin bớt. Kế nộp tiền sính lễ, tạ ơn bà mối và người làm hôn thư xong tính ra vừa hết ba lượng vàng, cũng không tốn thêm đồng nào. Kế chọn được ngày lành giờ tốt đón dâu, vợ vào tới nhà, Mã nhìn thì thấy bụng ỏng lung gù, cổ rụt như cổ rùa, nhìn xuống gấu quần thấy đôi hài dài cả thước mới sực nghĩ ra lời hồ nói là có lý do.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, có lẽ là lời hồ nữ đặt ra để đùa cợt, nhưng lời nói về phúc trạch thì quả rất đáng tin. Ta vẫn nói không phải là tổ tiên tu hành mấy đời thì không thể làm quan to, không phải là chính mình tu hành mấy đời thì không thể cưới vợ đẹp. Kẻ nào tin thuyết nhân quả ắt không cho rằng ta nói chuyện hoang đường.</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 110 -</strong></p><p>Thanh Mai (Thanh Mai)</p><p></p><p>Trình sinh người Bạch Hạ (thuộc huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô) tính không không chịu câu thúc. Một hôm từ ngoài về cởi đai áo thấy nặng như có vật gì bám vào, nhìn xuống không thấy gì nhưng vừa ngoảnh đi thì có cô gái sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cưỡi, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma, cô gái nói "Thiếp không phải là ma mà là hồ”. Trình nói "Đã được giai nhân thì cho dù là ma cũng không sợ, huống chi là hồ” bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai, thường nói với Trình đừng lấy vợ, ta sẽ sinh con trai cho chàng. Trình tin lời không lấy vợ, thân thích bạn bè đều đàm tiếu, Trình xiêu lòng lại lấy con gái nhà họ Vương ở Hồ Đông. Hồ nghe tin tức giận, tới cho con gái bú rồi giao cho Trình nói "Đây là món hàng phải bù tiền của nhà anh, nuôi sống hay giết chết là tùy anh, việc gì ta phải làm vú em cho người khác?", rồi ra của đi thẳng.</p><p></p><p>Thanh Mai lớn lên thông minh, dáng mạo thanh tú giống mẹ. Kế Trình bệnh chết, Vương thị tái giá gửi Thanh Mai cho người chú họ nuôi. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp lúc có Tiến sĩ họ Vương còn chờ bổ quan ở nhà, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ món tiền lớn mua về sai hầu hạ con gái mình là A Hỷ. Hỷ năm ấy mười bốn tuổi, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai thích lắm, cho ngủ chung phòng. Mai cũng khéo hầu hạ, có thể nhìn mặt biết ý chủ nên cả nhà đều thương mến. Trong huyện có Trương sinh tự Giới Thụ, nhà rất nghèo không có của cải gì, thuê nhà Vương ở, tính rất hiếu thuận, cẩn trọng chăm học. Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy sinh ngồi trên bậc thểm đá ăn cháo tấm, vào nhà nói chuyện với bà mẹ thì thấy trên bàn có cái giò heo. Lúc ấy cha sinh ốm, sinh vào đỡ cha đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo sinh, cha thấy lấy làm ân hận, sinh vội che vết bẩn ra ngoài tự gột rửa, chỉ sợ cha biết.</p><p></p><p>Mai thấy thế lạ lắm, về kể rồi nói với cô chủ “Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là kẻ tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì đó chính là Trương sinh đấy". Cô gái sợ cha mẹ chê sinh nghèo, Mai nói "Không phải, việc này là ở nương tử, nếu thấy là được, thiếp sẽ nói riêng để chàng nhờ người làm mối. Phu nhân ắt sẽ gọi nương tử tới hỏi, nương tử chỉ cần vâng dạ là tốt đẹp thôi”. Cô gái lại sợ nghèo hèn suốt đời sẽ bị người ta chê cười, Mai nói “Thiếp dám nói là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, quyết không lầm đâu”. Hôm sau Mai qua nói chuyện với bà Trương, bà hoảng sợ cho lời ấy là điềm không lành. Mai nói "Tiểu thư nghe nói tới công tử cho là hiền đức, thiếp đã biết ý nên mới nói thế. Người mối tới, hai người chúng ta nói giúp chêm thì việc có thể xong, mà nếu không được thì công tử cũng có gì nhục?", bà Trương nói "Được rồi", rồi nhờ bà bán hoa họ Hầu tới nói.</p><p></p><p>Phu nhân nghe nói phì cười, kể lại với Vương, Vương cũng cười lớn, gọi con gái tới kể lại ý Hầu thị. Cô gái chưa trả lời, Thanh Mai đã ra sức tán tụng Trương sinh hiền đức, đoan chắc là sẽ quý hiển. Phu nhân lại hỏi “Đây là việc trăm năm của con, nếu ăn nổi cháo tấm thì ta sẽ gả ngay". Cô gái cúi đầu hồi lâu rồi ngoảnh mặt vào vách nói "Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng không lâu, mà kẻ không nghèo thì không bao giờ tới bước đường cùng. Còn nếu số không tốt thì những bậc vương tôn gấm vóc trở thành không tấc đất cắm dùi có ít đâu? Việc này xin tùy cha mẹ”. Bản ý Vương bàn với con gái là cũng định tìm một trận cười, khi nghe nàng nói thế thì không vui, nói "Ngươi muốn lấy họ Trương sao?” Cô gái không đáp, hỏi lần nữa vẫn không đáp, Trương tức giận nói "Quân này cốt cách bần tiện không khá được, lại muốn xách bị làm vợ thằng ăn mày, sao không biết nhục mà chết đi cho rồi!". Cô gái đỏ mặt uất ức, rưng rưng nước mắt bước ra, bà mối cũng lủi trốn. Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình.</p><p></p><p>Mấy hôm sau đang đêm qua nhà sinh. Sinh đang đọc sách, giật mình hỏi tới làm gì, thấy nàng ăn nói úp mở liền nghiêm nét mặt từ khước. Mai khóc nói “Thiếp là con nhà tử tế chứ không phải kẻ dâm bôn, thấy chàng hiền đức nên xin theo nương tựa". Sinh nói “Nàng yêu mà bảo ta là người hiền đức, nhưng đang đêm qua lại thì kẻ tự trọng cũng không làm, huống hồ là người hiền đức ư? Phàm trước tư thông mà sau nên vợ chồng, người quân tử còn cho là không được, huống chi nếu không thể nên vợ chồng thì hai bên sẽ tự đặt mình vào đâu?” Mai hỏi “Vậy nếu vạn nhất mà nên được vợ chồng thì có chịu cưu mang cho nhau không?". Sinh đáp “Được người như nàng thì còn mong gì hơn, nhưng có ba điều không thể làm sao được nên không dám khinh suất nhận lời". Mai hỏi "Ba điều gì?", sinh đáp "Nàng không thể tự chủ thì không thể làm sao được, nếu nàng có thể tự chủ mà cha mẹ ta không bằng lòng thì không thể làm sao được, nếu cha mẹ ta bằng lòng mà thân nàng cao giá, ta nghèo không lo nổi thì càng không biết làm sao được. Thôi nàng về ngay đi, chuyện giàn bầu ruộng dưa<strong>*</strong> đáng sợ lắm”. Mai sắp đi lại dặn "Nếu chàng có lòng, xin cùng lo toan", sinh nhận lời.</p><p></p><p>* Chuyện giàn bầu ruộng dưa: nguyên văn là "qua lý chi hiềm", lấy ý câu "Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan" (Đi ngang ruộng dưa thì đừng xỏ giày, đi ngang giàn bầu thì đừng sửa mũ), thì việc người quân tử thận trọng để tránh bị hiềm nghi.</p><p></p><p>Mai về, cô gái hỏi đi đâu, bèn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn toan đánh đòn, Mai khóc nói không có làm chuyện gì khác nhân kể thật mọi chuyện. Cô gái than “Không đi lại cẩu thả là có lễ phải thưa với cha mẹ là có hiếu, không khinh suất nhận lời là có tín. Có ba đức ấy ắt trời sẽ giúp, không lo gì nghèo đâu”. Kế hỏi “Em định thế nào?” Mai thưa "Làm vợ chàng". Cô gái cười nói "Con nhãi ngây có thể tự chủ sao?". Mai nói "Không được thì chỉ còn chết thôi". Cô gái nói "Ta sẽ làm cho ngươi được như nguyện", Mai dập đầu lạy tạ.</p><p></p><p>Lại qua vài hôm, Mai nói với cô gái "Hôm trước là nói đùa hay quả có lòng từ bi thật? Nếu quả thế thì còn chút việc mọn xin rủ lòng thương cho trọn". Cô gái hỏi việc gì, Mai đáp "Trương sinh không có nhiều tiền cưới vợ mà tiểu tỳ cũng không có sức tự chuộc mình, nếu đòi nhiều tiền thì có chịu gả thiếp cũng như không gả mà thôi". Cô gái ngẫm nghĩ rồi nói "Việc này thì ta không làm được rồi. Ta nói gả chồng cho ngươi sợ còn chưa được, huống hồ còn nói không đòi tiền chuộc, điều ấy thì đại nhân ắt không nghe, mà ta cũng không dám nói kia". Thanh Mai nghe thế nước mắt ròng ròng, chỉ xin thương xót cứu vớt. Cô gái nghĩ hồi lâu rồi nói "Thôi vậy, ta có để dành riêng được vài lượng vàng, sẽ dốc túi ra giúp”.</p><p></p><p>Mai lạy tạ, nhân lén qua nói với Trương. Mẹ Trương cả mừng tìm đủ cách vay mượn được đủ số cất đó chờ tin mừng. Vừa gặp lúc Vương được bổ làm Huyện lệnh Khúc ốc (tỉnh Sơn Tây), Hỷ nhân dịp nói với mẹ “Thanh Mai đã lớn, nay cha sắp phó nhiệm, chẳng bằng cho nó ra". Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại rủ rê con gái làm chuyện không hay, thường muốn gả đi mà sợ nàng không bằng lòng, nghe nàng nói thế mừng lắm. Qua hai ngày có người đàn bà làm thuê lên thưa lại ý của họ Trương, Vương cười nói "Nhà ấy chỉ xứng với tỳ nữ nhà ta thôi, lần trước sao càn rỡ thế. Nhưng mua tỳ thiếp nhà quan thì phải trả giá gấp đôi". Cô gái vội bước lên nói "Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán làm thiếp thì thật không nỡ". Vương bèn nhắn nhà họ Trương mang đủ số tiền mua ngày trước qua làm giấy tờ rồi gả Thanh Mai cho sinh.</p><p></p><p>Về tới nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ân cần chăm sóc còn hơn cả sinh, mà làm lụng lại siêng năng, ăn uống cực khổ vẫn vui vẻ, vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm việc thêu thùa, hàng bán rất chạy, người mua cứ tới chờ ở cửa chỉ sợ không mua được, có thêm ít tiền nên nhà cũng đỡ túng thiếu. Lại thường khuyên chồng đừng lo việc nhà mà bỏ lỡ việc học, mọi chuyện trong nhà tự xin cáng đáng cả. Nhân chủ cũ lên đường phó nhiệm, nàng qua tiễn A Hỷ. Hỷ thấy nàng khóc nói "Em có nơi có chốn rồi, chứ ta thì không biết sẽ ra sao". Mai đáp “Được thế này là nhờ ai mà dám quên, nhưng xin đừng nói là không bằng tiểu tỳ làm tiểu tỳ giảm thọ", rồi khóc mà chia tay nhau.</p><p></p><p>Vương tới đất Tấn nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng không đủ ăn, đầy tớ đều bỏ trốn. Lúc ấy có trận dịch lớn, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một bà già ở với cô gái, không bao lâu bà già cũng chết, cô gái càng lênh đênh khổ cực. Có bà già láng giềng khuyên đi lấy chồng, nàng nói "Ai chôn cất được cha mẹ sẽ xin theo về. Bà già thương xót cho đấu gạo rồi về, nửa tháng sau lại qua nói "Ta đã hết sức giúp nương tử nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không thể chôn cất cha mẹ cô, kẻ giàu thì chê cô là hậu duệ của gia dình sa sút, biết làm thế nào? Còn có một cách nhưng sợ nương tử không theo được thôi". Nàng hỏi "Cách gì?” bà đáp "Ở đây có Lý lang muốn lấy vợ lẽ, nếu nhìn thấy dung nhan nương tử thì dù đòi tống táng cha mẹ thật linh đình ắt cũng không tiếc tiền".</p><p></p><p>Nàng khóc òa nói "Thiếp là con quan mà phải đi làm lẽ người ta sao?”, bà già im lặng bỏ đi. Kế mỗi ngày nàng chỉ có một bữa cơm, cố sống để chờ người hỏi cưới nhưng được nửa năm thì không sao chi trì được nữa. Một hôm bà già tới, nàng khóc nói “Khốn đốn thế này chỉ muốn tự tử, sở dĩ còn chần chừ sống tạm chỉ vì quan tài cha mẹ còn đó, mình đã phơi xác nơi ngòi rãnh thì ai thu nhặt nắm xương song thân, nên nghĩ lại chăng bằng nghe theo lời bà". Bà già bèn dẫn Lý tới, vừa thoạt thấy nàng đã rất ưa thích, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, hai chiếc quan tài hạ huyệt xong thì đón cô gái về. Vào chào vợ cả, vợ cả vốn dữ tợn hay ghen, lúc đầu Lý chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là tỳ nữ mới mua. Đến khi gặp nàng vợ Lý đùng đùng nổi giận, đánh đập đuổi ra không cho vào nhà. Cô gái tóc tai rũ rượi, nước mắt giàn giụa, không còn nơi lui tới. Có ni cô già đi ngang thấy thế mời về ở cùng, nàng mừng rỡ theo về.</p><p></p><p>Vào tới trong am, nàng lạy xin xuống tóc cho, ni cô không cho, nói “Ta thấy nương tử không phải là kẻ chịu kiếp phong trần, trong am chén sành gạo xấu cũng tạm đủ sống, cứ tạm ở lại chờ thời, đến thời cô sẽ tự đi mà". Không bao lâu, bọn vô lại trong chợ thấy nàng đẹp, cứ tới đập cửa buông lời cợt nhã làm vui, ni cô không ngăn cấm được, nàng gào khóc định tự tử. Ni cô tới xin ông Mỗ ở bộ Lại ra yết thị nghiêm cấm đám thiếu niên vô lại mới hơi nín tiếng. Sau đang đêm có kẻ khoét tường nhà chùa, ni cô hô hoán mới bỏ đi, vì thế lại báo lên quan bộ Lại, bắt được tên cầm đầu đưa tới quận phạt roi mới dần dần được yên. Lại được hơn năm, có vị công tử nhà quyền quý đi qua am, thấy cô gái vô cùng kinh ngạc, ép ni cô dỗ dành nàng, lại đưa nhiều tiền đến đút lót. Ni cô tìm lời dịu ngọt nói “Nàng ta là con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về, để thong thả chắc chắn ta sẽ làm được theo lệnh". Lúc công tử đi rồi, cô gái toan uống thuốc độc tự tử, đêm nằm mơ thấy cha tới, buồn thảm nói "Ta không theo ý con khiến con phải tới nông nỗi này, ăn năn đã muộn nhưng con đừng vội chết, ước nguyện cũ vẫn có thể thành mà", nàng lấy làm lạ.</p><p></p><p>Sáng ra rửa mặt xong, ni cô nhìn thấy giật mình nói "Nhìn mặt em trọc khí đã tiêu hết, bọn càn rỡ không đáng lo nữa. Phúc sẽ tới, đừng quên già này đấy”, chưa dứt lời thì nghe tiếng gõ cửa, cô gái thất sắc nghĩ ắt là đầy tớ nhà công tử, ni cô ra mở cửa quả đúng. Bọn chúng xúm vào hỏi tính việc thế nào, ni cô ngọt ngào giả lả xin hoãn ba ngày nữa. Chúng nhắn lại lời chủ "Nếu việc không xong thì mụ vãi liệu hồn", ni cô líu ríu vâng dạ, chúng bèn bỏ đi. Cô gái vô cùng đau xót, lại muốn tự tử, ni cô ngăn lại. Nàng lo ba ngày nữa chúng trở lại không biết trả lời thế nào, ni cô nói “Có lão thân ở đây, chém giết gì cứ để ta chịu cho”.</p><p>Hôm sau vừa đến buổi trưa thì mưa như trút nước, chợt nghe có mấy người đập cửa réo gọi ầm ĩ, cô gái nghĩ rằng lại có chuyện, khiếp sợ không biết làm sao. Ni cô đội mưa ra mở cổng, thấy có chiếc kiệu thơm dừng lại, mấy người tỳ nữ đỡ một người đẹp bước ra, đám tùy tùng đều oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Ni cô ngạc nhiên hỏi thì họ đáp là gia quyến quan Tư lý tạm vào tránh mưa, bèn đưa vào trong điện dời sập mời ngồi. Bọn tỳ nữ tớ gái túa vào thiền phòng tìm chỗ nghỉ, vào trong thấy cô gái đẹp quá liền chạy ra bẩm với phu nhân. Không bao lâu tạnh mưa, phu nhân đứng lên xin đi xem thiền phòng, ni cô liền đưa vào. Phu nhân nhìn thấy cô gái giật nảy mình nhìn không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại hồi lâu, thì ra phu nhân không phải ai khác mà chính là Thanh Mai.</p><p></p><p>Hai người đều khóc lớn, nhân mới cùng kể lại chuyện đã qua, mới biết Trương ông đã ốm chết, Trương sinh mãn tang xong, liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội, được bổ làm Tư lý, đưa mẹ tới nơi phó nhiệm trước còn gia quyến đi sau. Cô gái than “Hôm nay nhìn nhau sao thấy như một trời một vực?". Mai cười đáp "May là nương tử gặp bước gian truân chưa lấy chồng, chính vì trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản trở thì làm sao có cuộc gặp gỡ này được, bên trong là có quỷ thần chứ không phải sức người làm được đâu”. Bèn lấy mũ ngọc áo gấm ra giục cô gái thay, nàng cúi đầu ngần ngừ, ni cô cũng khuyên nhủ. Cô gái lo cùng ở chung thì danh không được thuận, Mai nói “Danh phận đã có từ trước, tiểu tỳ đâu đám quên ơn lớn, vả lại cứ nghĩ xem Trương lang có phải là kẻ phụ nghĩa đâu?", rồi ép nàng thay quần áo, từ biệt ni cô ra đi.</p><p></p><p>Tới nơi, mẹ con Trương đều mừng rỡ, cô gái lạy nói "Ngày nay không mặt mũi nào nhìn mẹ!". Mẹ cười an ủi, nhân bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói "Nếu trong am chỉ còn một đường sống bằng sợi tơ thì cũng không chịu theo phu nhân tới đây đâu, nếu còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn ngồi niệm phật là đủ. Mai cười không nói gì, đến ngày ôm các thứ trang sức lộng lẫy đến, cô gái hai bề không biết tính sao. Giây lát nghe tiếng đàn sáo rộn rã, nàng càng không tự chủ được Mai sai đám tỳ nữ ép nàng mặc áo rồi kéo dìu ra. Thấy sinh mặc triều phục vái lạy, nàng bất giác cũng vái theo. Mai kéo nàng vào động phòng, nói "Để trống chỗ này chờ chị lâu rồi", kế ngoảnh nhìn sinh nói "Đêm nay được dịp đền ơn phải làm cho tốt đấy", rồi quay người bước ra.</p><p></p><p>Cô gái nắm ống quần kéo lại, Mai cười nói “Đừng giữ thiếp lại, chuyện này thì không làm thay nhau được đâu”, rồi gỡ ngón tay cô gái ra bỏ đi. Thanh Mai thờ phụng cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái, mà nàng vẫn thẹn thùng áy náy. Vì vậy mẹ bảo cùng gọi nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám bê trễ. Ba năm sau Trương được triệu về kinh, qua am ni cô, đem năm trăm lượng vàng để tạ ơn ni cô không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lượng, dựng đền Đại sĩ<strong>*</strong> lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương làm quan tới chức Thị lang, Trình phu nhân sinh được hai trai một gái, Vương phu nhân sinh được bốn trai một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong là Phu nhân.</p><p></p><p>*Đại sĩ: tức Quan âm Đại sĩ, một danh hiệu khác của Quan Thế âm Bồ tát.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói: </strong><em>Trời sinh người đẹp là để đền đáp cho những kẻ tài giỏi, nhưng những bậc vương công trên đời lại đem tặng cho đám con em nhà giàu sang khiến cho tạo vật có chuyện tranh giành. Nhưng lại ly ly kỳ kỳ, làm đủ cách để tác hợp cho người, hóa công cũng khổ làm sao! Chỉ có Thanh phu nhân riêng biết kẻ anh hùng lúc còn hàn vi, quyết tâm theo bằng được, đến chết mới thôi. Những kẻ nghiễm nhiên đội mão mặc áo lại bỏ đức hạnh mà mong sang giàu, sao mà thua trí một người tỳ nữ tới mức như vậy.</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164989, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 89 - 90 -[/B] Lý Bá Ngôn (Lý Bá Ngôn) Lý sinh tên Bá Ngôn là người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), cương trực can đảm. Chợt mắc bệnh nặng, người nhà mang thuốc cho uống, Lý từ chối nói “Bệnh của ta không phải là thuốc mà chữa được, vì chức Diêm Vương ở âm ty bị khuyết nên ta tạm đi giữ ấn triện thôi, đừng chôn ta, cứ để đấy đợi". Hôm ấy Lý chết, thấy có nghi trượng tới đón đi, vào tới một nơi cung điện có người dâng áo mão Diêm Vương, nha lại đứng hầu rất nghiêm chỉnh. Trên bàn sổ sách chất đống, có một vụ án là tên Mỗ ở Giang Nam, tính lại bình sinh đã cưỡng gian tám mươi hai người đàn bà con gái nhà lương thiện, tra xét thì thấy đủ cả chứng cứ không sai, xét theo luật âm ty phải chịu tội bào lạc. Dưới thềm có cây cột đồng cao tám chín thước, chu vi khoảng một ôm, ruột rỗng để đổ than lửa vào đó, trong ngoài đều đỏ rực. Đám quỷ tốt lấy chùy sắt có gai nhọn đánh giải Mỗ tới, bắt giang tay khuỳnh chân trèo lên. Lên tới đỉnh cột thì khói bốc mù mịt, đoàng một tiếng nổ tung ra như ống pháo tre, thân thể rơi xuống, nằm co quắp một hồi mới tỉnh lại. Đám quỷ tốt lại đánh bắt trèo lên, lại nổ ra rơi xuống như lần trước, tới lần thứ ba chỉ còn là một đám khói là là mặt đất rồi tan ra, không sao còn có thể trở thành hình người nữa. Lại tới một vụ khác, là Vương Mỗ người cùng huyện, bị cha người tỳ nữ kiện là bắt cóc con gái, Vương vốn là thông gia với sinh. Trước là có một người bán tỳ nữ, Vương biết là y bất chính nhưng thấy giá hời bèn mua về. Đến lúc ấy Vương bị bạo bệnh chết, hôm sau bạn Vương là Chu lại gặp bên đường, biết là ma bỏ chạy về nhà, Vương cũng theo vào. Chu sợ hãi ra gặp hỏi định làm gì. Vương đáp "Phiền ông xuống làm chứng giùm dưới âm ty", Chu kinh ngạc hỏi làm chứng việc gì, Vương đáp "Ta mua tỳ nữ theo đúng giá, nay bị vu là bắt cóc, việc này chính ông chứng kiến, xin nói cho một câu làm tin, không cần nói gì khác". Chu cố từ chối, Vương bỏ ra nói "Sợ chuyện này thì ông không làm chủ được thôi”. Không bao lâu quả nhiên Chu chết, cùng bị giải tới Diêm Vương đối chất. Lý thấy Vương trong lòng ngầm có ý thiên vị, chợt trên nóc điện có ngọn lửa bùng lên, rường cột cháy phùng phừng, Lý cả sợ đứng bật dậy, viên lại ngầm bước tới sau lưng nói "Âm ty không phải như dương thế, không thể có một chút ý niệm riêng tư, xin ông bỏ ngay ý ấy thì lửa sẽ tự tắt". Lý bèn ngưng thần gạt bỏ tạp niệm, ngọn lửa tắt ngay. Kế hỏi cung, vương và cha người tỳ nữ tranh cãi không thôi, hỏi Chu thì Chu cứ theo sự thật thưa lên. Vương bị kết án cố ý phạm tội, phạt đánh gậy, đánh xong Lý sai đem cả về cho hồi sinh. Vương và Chu đều chết ba ngày rồi sống lại. Lý xét việc xong, có xe kiệu đưa về, giữa đường gặp một bọn vài trăm người sứt đầu cụt chân nằm rạp dướỉ đất van xin. Lý dừng xe hỏi thì là ma quỷ chết xa quê muốn trở về nhưng sợ dọc đường bị ngăn trở, xin dẫn đường cho. Lý nói "Ta coi việc Diêm Vương chỉ có ba ngày, nay đã thôi giữ chức, làm sao giúp được". Đám ma nói "Hồ sinh ở thôn nam sắp lập đàn chay tế độ, xin ông nói giùm", Lý ưng thuận. Về tới nhà thì tùy tùng đều quay đi, Lý mới sống lại. Hồ sinh tự Thủy Tâm chơi thân với Lý, nghe nói Lý sống lại bèn tới thăm, Lý hỏi ngay lúc nào mở đàn chay. Hồ kinh ngạc nói "Sau cơn binh lửa, ta may mà vợ con được vô sự, hôm trước bàn với bà nó định làm điều tâm nguyện ấy nhưng chưa từng nói với một ai, sao ông biết được?". Lý kể lại mọi chuyện, Hồ than "Một câu vừa thốt ra trong phòng kín mà đã đồn đại khắp chốn u minh, thật đáng sợ!", rồi cung kính nhận lời mà về. Hôm sau Lý qua nhà Vương, Vương còn nằm bệnh, thấy Lý vào lập tức kính cẩn đứng lên tạ ơn đã che chở giúp đỡ cho. Lý nói "Pháp luật không thể nương nhẹ tha thứ gì cả, nay ông may vẫn không sao chứ?". Vương đáp "Nay thì không bị gì khác, chỉ những chỗ bị đánh thì làm mủ thôi”. Hơn hai mươi ngày sau mới lành hẳn, thịt thối ở mông rụng ra, còn lại những vết sẹo như lằn gậy in xuống vậy. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Hình phạt dưới âm ty còn thảm độc hơn trên dương thế, khiển trách cũng nặng nề hơn, nhưng không ai can thiệp xin xỏ gì được nên kẻ chịu hình phạt thảm khốc cũng không hờn oán. Ai dám nói nơi mộ huyệt không có ánh sáng mặt trời? Ta chỉ hờn không có ngọn lửa nào thiêu đốt sảnh đường trị dân trên dương thế mà thôi. [/I] [B]090. Hoàng Cửu Lang [/B] [B](Hoàng Cửu Lang)[/B] Hà Sư Tham tự Tử Túc làm phòng học ở phía đông Thiều Khê (ở núi Thiên Mục tỉnh Chiết Giang). Cửa nhà học nhìn ra cánh đồng rộng, xế chiều ngẫu nhiên ra ngoài thấy có người đàn bà cưỡi lừa đi tới, một thiếu niên theo sau. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi, phong thái nhàn nhã, thiếu niên thì khoảng mười lăm mười sáu, phong tư xinh đẹp còn hơn cả giai nhân. Hà sinh vốn có bệnh thích đàn ông, thấy thiếu niên điên đảo cả thần hồn, nhón chân nhìn theo đến khi mất hút mới trở về. Hôm sau lại ra đứng đón, đến sẩm tối thiếu niên mới tới. Sinh niềm nở bước ra đón, cười hỏi đi đâu về, thiếu niên đáp là từ nhà ông ngoại về. Sinh mời vào nghỉ chân, thiếu niên từ chối nói là không rảnh, sinh lôi kéo mãi bèn vào, ngồi giây lát lại đứng lên cáo từ, không thể giữ lại được. Sinh dắt tay đưa ra, ân cần dặn lúc nào tiện đường cứ ghé chơi, thiếu niên dạ dạ rồi đi. Sinh từ đó cứ ngơ ngẩn nhớ nhưng, ra vào trông ngóng cả ngày. Một hôm lúc mặt trời đang lặn thiếu niên chợt tới, sinh cả mừng mời vào, sai tiểu đồng dọn rượu tiếp đãi. Hỏi tên họ, thiếu niên đáp là họ Hoàng, bày vai thứ chín, vì còn nhỏ nên chưa có tên tự. Hỏi sao hay qua lại đường này, thiếu niên đáp "Mẹ ta ở bên nhà ông ngoại, hay có bệnh nên ta phải qua thăm”. Rượu được vài tuần thì cáo từ ra về, sinh nắm tay giữ lại, khóa chặt cửa, Cửu lang không biết làm sao, bẽn lẽn ngồi xuống lại. Sinh thắp đèn cùng trò chuyện, thấy thiếu niên nhỏ nhẻ như con gái, buông lời chọc ghẹo thì càng có vẻ thẹn thùng, quay mặt vào vách. Lát sau cùng đi ngủ, sinh ôm chặt lấy vuốt ve mơn trớn đòi này nọ. Cửu lang tức giận nói "Ta cho rằng ông là kẻ sĩ phong nhã nên mới qua lại, nay lại làm như thế thật chẳng khác gì cầm thú”. Không bao lâu, sao trời chỉ còn thưa thớt, Cửu lang bỏ về. Sinh sợ Cửu lang sẽ tuyệt giao, lại ra cửa chờ, qua lại đăm đăm trông ngóng. Qua mấy hôm Cửu lang mới tới, sinh ra đón tạ lỗi, ép kéo vào nhà, giục ngồi trò chuyện cười nói, thầm lấy làm may mắn vì Cửu lang không để bụng chuyện cũ. Cửu lang nói "Tình thương yêu của ông ta đã khắc sâu vào lòng, nhưng thân ái đâu cứ phải làm thế". Rồi đang đêm ra về, sinh buồn bực như mất vật quý, quên ăn bỏ ngủ, ngày càng héo hắt, chỉ hàng ngày sai tiểu đồng ra cổng chờ đợi. Một hôm Cửu lang ngang qua cổng, định đi thẳng luôn nhưng tiểu đồng ra nắm áo kéo vào. Thấy sinh tiều tụy, Cửu lang kinh sợ hỏi han. Sinh kể thật đầu đuôi, nước mắt rơi lã chã. Cửu lang nói nhỏ "Cái ý thương mến nhau ấy thật đáng cảm kích, nhưng đã chẳng ích lợi gì cho đệ mà còn làm hại cho ông, nên không muốn thôi. Chứ nếu ông đã thích thì ta có tiếc gì". Sinh cả mừng, Cửu lang đi rồi thấy bệnh tật phút chốc tiêu tan. Vài hôm hoàn toàn bình phục rồi quả nhiên Cửu lang lại tới, cùng nhau vui vầy rồi nói "Nay nể lòng chiều ông, xin đừng làm như thế nữa". Kế nói "Có việc muốn nhờ, không biết ông có chịu giúp không", sinh hỏi việc gì, Cửu lang đáp “Mẹ ta bị đau tim, chỉ có Tiên thiên đan của quan Thái y Tề Dã Vương chữa được, ông chơi thân với ông ấy chắc sẽ xin được", sinh hứa sẽ xin cho. Lúc Cửu lang ra đi lại dặn dò, sinh bèn vào thành xin thuốc, chiều tối mang về. Cửu lang mừng rỡ cảm ơn ca ngợi, nói "Xin tìm cho ông một mỹ nhân, còn hơn đệ gấp vạn lần". Sinh hỏi là ai, Cửu lang đáp "Đệ có người biểu muội xinh đẹp vô song, nếu ông ưng thuận đệ sẽ làm mai cho". Sinh cười khẽ không đáp, Cửu lang cầm thuốc về. Ba hôm sau lại tới xin thuốc, sinh giận vì tới muộn, lời lẽ có ý bực túc. Cửu lang nói "Bản ý vốn không muốn làm hại ông nên không tới thường, nay ông đã không rộng lượng cho, thì xin đừng hối hận". Từ đó tối nào cũng vui vầy với nhau, mà cứ ba ngày lại xin thuốc một lần. Tề lấy làm lạ vì cứ xin mãi, nói "Thuốc này ai uống ba lần cũng khỏi bệnh, sao lâu quá vẫn không khỏi thế?", rồi lấy ba tễ trao cả cho, lại nhìn sinh nói "Ông khí sắc tối tăm, có bệnh phải không?", sinh đáp "Không". Tề bèn cầm tay bắt mạch, giật mình nói "Ông có quỷ mạch, bệnh ở mạch Thiếu âm, nếu không tự gìn giữ thì chết đấy”. Sinh về kể lại, Cửu lang than "Quả thật là danh y, nói thật ta là hồ, sợ không phải là điều may cho ông". Sinh ngờ là dối trá nên giấu bớt thuốc lại không đưa hết vì sợ Cửu lang không tới nữa. Không bao lâu quả nhiên sinh bị bệnh, rước Tề tới xem, Tề nói "Trước đây ông không nghe ta, nay thần khí đã tan tác, thầy giỏi nào chữa được nữa?”. Cửu lang hàng ngày tới chăm sóc, nói "Không nghe lời ta, quả đến nông nỗi này", kế sinh chết, Cửu lang khóc lớn rồi đi. Trước là trong huyện có Thái sử Mỗ lúc trẻ cùng học với sinh, năm mười bảy tuổi đã làm Hàn lâm. Lúc ấy phiên vương đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) tham bạo mà thích ăn của đút, các quan trong triều không ai dám nói. Ông bèn dâng sớ hặc tội, bị kết tội quá phận cách chức. Phiên vương lại được thăng chức Tuần phủ tỉnh ấy, hàng ngày cứ rình ông sơ hở để bắt tội. Ông lúc trẻ có tiếng tài giỏi, có một phiên vương làm phản coi trọng, lúc ấy Tuần phủ bắt được thư từ qua lại giữa đôi bên đem tới uy hiếp, ông sợ treo cổ tự tử, phu nhân cũng tự thắt cổ chết. Qua đêm chợt ông sống lại nói “Ta là Hà Tử Túc”. Người nhà hỏi han thấy đều nói chuyện nhà họ Hà, biết là Hà mượn xác hoàn hồn, giữ lại không được bèn cho về nhà cũ. Tuần phủ ngờ là gian trá, cũng muốn đẩy vào chỗ chết bèn sai người tới đòi ngàn vàng, sinh giả vâng dạ nhưng vô cùng lo lắng. Chợt Cửu lang tới, cùng nhau mừng rỡ trò chuyện, vừa mừng vừa tủi. Kế lại muốn cùng vui vầy với nhau, Cửu lang nói "ông có tới ba mạng sống à?", sinh đáp "Ta hối vì sống lo chẳng bằng chết sướng”, nhân kể lại chuyện oan khổ. Cửu lang nghĩ ngợi rồi nói "May mà ông còn sống lại gặp nhau. Ông còn chưa có vợ, trước ta đã nói biểu muội xinh đẹp đa mưu, có thể giúp ông". Sinh muốn gặp mặt một lần, Cửu lang nói "Không khó, ngày mai nàng cùng tới thăm mẹ ta, cũng đi qua đây, ông giả làm anh của đệ, ta sẽ giả khát vào xin nước uống. ông cứ nói Lừa chạy mất rồi, thế là xong”. Bàn tính xong Cửu lang ra về. Gần trưa hôm sau quả nhiên Cửu lang cùng một nữ lang đi ngang cổng, sinh ra chắp tay trò chuyện dằng dai, liếc thấy nữ lang mắt phượng mày ngài, quả thật xinh đẹp như tiên. Cửu lang đòi uống trà, sinh mời vào nhà, Cửu lang nói “Tam muội đừng ngại, đây là anh em kết nghĩa của anh, ghé vào nghỉ một chút không hề gì", rồi đỡ nàng xuống, buộc lừa ngoài cổng cùng vào. Sinh tự pha trà mời, đưa mắt nhìn Cửu lang nói “Trước đây ông nói chưa đủ đâu, hôm nay đúng là ta được chỗ để chết rồi". Cô gái như biết nói tới mình, rời ghế đứng phắt dậy, khẽ nói "Đi thôi". Sinh nhìn ra ngoài nói "Lừa chạy mất rồi". Cửu lang vội vàng chạy ra. Sinh ôm cô gái đòi giao hoan, cô gái đỏ bừng cả mặt mày, lính quýnh như con chó bị nhốt, gọi Cửu huynh nhưng không thấy đáp, bèn nói "Chàng đã có vợ rồi, sao lại làm mất danh tiết người ta", sinh bèn phân trần rằng mình không có vợ, nàng nói “Nếu dám thề rằng không phụ rẫy nhau, thì thiếp xin vâng lời". Sinh bèn chỉ lên mặt trời thề thốt, cô gái bèn không chống cự nữa. Xong đâu đấy rồi Cửu lang bước vào, cô gái hầm hầm nét mặt trách mắng, Cửu lang nói "Đây là Hà Tử Túc, trước là danh sĩ, nay là Thái sử, chơi thân với anh. Người này có thể nương tựa được, nếu cậu mợ nghe thấy chắc cũng không phiền giận gì đâu”. Trời xế chiều, sinh giữ lại không cho đi, cô gái sợ cô lo lắng, Cửu lang nhận sẽ lo hết rồi lên lừa ra đi. Được vài hôm, có người đàn bà dắt một tỳ nữ tới, tuổi trạc bốn mươi, phong nhã xinh đẹp giống hệt Tam nương. Sinh gọi cô gái ra xem thì quả là mẹ nàng. Bà nhìn con gái kinh ngạc hỏi sao lại ở đây, nàng thẹn thùng không đáp, sinh bèn mời vào lạy chào rồi kể rõ. Người đàn bà cười nói "Cửu lang thật là tính khí trẻ con, sao không bàn trước". Cô gái vào bếp làm thức ăn mời mẹ, bà ăn xong rồi về. Sinh từ khi lấy được vợ đẹp trong lòng vui sướng, nhưng nỗi lo lắng còn dó nên thường chau mày nghĩ ngợi. Cô gái hỏi, sinh kể rõ đầu đuôi, nàng cười nói “Chuyện đó thì một mình Cửu huynh cũng giúp được, chàng việc gì phải lo". Sinh hỏi nguyên do, nàng đáp "Nghe nói quan Tuần phủ thích thanh sắc, chuyện thằng nhãi con ngu ngốc ấy thích đều là sở trường của Cửu huynh. Đem cái y thích mà dâng, thì thù oán gì mà y không bỏ qua". Sinh sợ Cửu lang không chịu, cô gái nói "Phải năn nỉ thôi”. Qua hôm sau, sinh thấy Cửu lang tới, bèn khép nép ra đón, Cửu lang ngạc nhiên nói "Hai đời giao du đã biết rõ nhau, dù cho tan xương nát thịt cũng không dám tiếc, sao lại đối xử với nhau như thế?”. Sinh kể lại việc mình và vợ bàn tính, Cửu lang có vẻ ngần ngừ, cô gái nói "Thiếp thất thân với Hà lang là vì ai gây nên? Nếu để Hà lang nửa đường đứt gánh thì thiếp sẽ ra sao?", Cửu lang bất đắc dĩ phải ưng thuận. Sinh bèn cùng Cửu lang bàn tính, gởi thư tới bạn thân là Vương Thái sử, lại gởi gắm Cửu lang. Vương hiểu ý, mở tiệc lớn mời Tuần phủ tới, sai Cửu lang mặc y phục đàn bà ra múa khúc Thiên ma vũ, xinh đẹp như con gái. Tuần phủ thích lắm, xin Vương cho trả nhiều tiền để mua Cửu lang nhưng vẫn sợ không được. Vương làm ra vẻ nghĩ ngợi như khó xử, ngần ngừ hồi lâu rồi tỏ ý sinh muốn dâng Cửu lang. Tuần phủ vui mừng không căm giận gì sinh nữa, từ khi được Cửu lang, ăn ngủ gì cũng có nhau, có hơn mười người thiếp trẻ đẹp đều coi như đất bùn, cung phụng cái ăn cái mặc cho Cửu lang như bậc vương giả, ban cho vàng bạc hàng vạn lượng. Được nửa năm Tuần phủ ngã bệnh, Cửu lang biết là sắp chết bèn chở hết vàng bạc gấm vóc về nhà sinh. Kế Tuần phủ chết, Cửu lang bỏ tiền ra xây nhà cửa mua tôi tớ, mẹ con cùng cậu mợ đều tới đó ở chung. Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ. [I](Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ). Ta có đùa bình một bài, cũng chép cả vào đây.[/I] Trai gái ở chung, là đạo thường chồng vợ, khô ướt thông suốt, ấy khiếu chính âm dương. Chờ trăng đón gió[B]*[/B] còn chuốc danh nhơ, cắt áo chia đào[B]**[/B], khó che tiếng xấu. Người đều là lực sĩ, đường chim bay mới được mở ra, động chẳng phải Đào Nguyên, sào ngư phủ sao cho chọc xuống. Nay Mỗ theo lối dưới mà quên trở lại, bỏ đường chính mà chẳng đi theo. Mây mưa chưa hừng, trên dưới liền tay sờ mó, âm dương ngược thế, trong ngoài cứ thế làm gian. Ao hoa thành chốn không dùng, nói bậy sư già nhập định, động Mán là vùng không cỏ, lại sai tướng chột vung gươm. * Chờ trăng đón gió: nguyên văn là “nghênh phong đãi nguyệt", chữ trong câu thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường "Đãi nguyệt Tây sương hạ, Nghênh phong hộ bán khai” (Chờ trăng hiên thấp mái, Đón gió cửa không cài), đây chỉ việc hẹn hò trai gái. ** Cắt áo chia đào: nguyên văn là “đoạn tụ” và "phân đào” Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền, có lần ngủ chung trở dậy thấy Đổng Hiền nằm đè lên tay áo mình, bèn cắt tay áo để Đổng Hiền không bị mất giấc ngủ. Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, có lần cùng dạo trong vườn, Di Tử Hà hái một trái đào chín, cắn một miếng rồi đút cho Vệ Linh công. Đây chỉ việc đàn ông thích đàn ông. Buộc Xích thố ngoài viên môn, như toan bắn kích[B]*[/B]”, mò cung lớn trong quốc khố, những muốn phá rào[B]**[/B]. Hay là nhà Giám mộng cá vàng[B]***[/B], thăm tri giao đêm trước, rõ ràng họ Vương dùi mận đỏ[B]****[/B], đòi báo đáp kiếp sau. Rừng Hắc Tùng người ngựa thường qua, vốn là yên ổn, phủ Hoàng Long nước triều chợt tới, lấy gì chặn ngăn. Phải chặt đứt cây gậy đâm xoi, mà nút kín con đường đưa đón. *Buộc Xích thố ... bắn kích: lấy tích Lữ Bố thời Hậu Hán bắn kích giải hòa cho Lưu Bị và Kỷ Linh tướng của Viên Thuật, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông. **Mò cung lớn ... phá rào: lấy tích Dương Hổ thời Xuân thu lấy trộm cung lớn trong quốc khố, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông. *** Nhà Giám mộng cá vàng: Nhĩ đàm chép Vương Tế tửu ở Nam Kinh thân thiết với một viên Giám sinh, người ấy nằm mơ thấy có con cá chiên vàng từ đũng quần rơi ra, kể lại với bạn bè. Đám Giám sinh đùa nói "Giấc mơ của Mỗ rất nhiêu khê. Chuyện cá chiên vàng xoi vào mông rất đáng ngờ, chắc là Vương học sĩ đang đêm tới thăm người thương”. **** Họ Vương dùi mận đỏ: Tấn thư, Vương Nhung truyện chép nhà Vương Nhung có cây mận ngon, Vương hái quả bán nhưng sợ người ta lấy giống, nên trước khi bán là dùng kim đâm phá hỏng hạt mận, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 91 - 92 -[/B] Cô Gái Ở Kim Lăng (Kim Lăng Nữ Tử) Người dân ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) là Triệu Mỗ có việc vào thành trở về, gặp một cô gái mặc áo trắng khóc than bên đường rất thảm thiết. Triệu liếc thấy xinh đẹp thích lắm, dùng lại nhìn chằm chằm không chịu đi. Cô gái gạt lệ nói "Ông kia đường không chịu đi lại cứ nhìn ta”. Triệu nói "Ta thấy đồng không mông quạnh mà nàng đau xót khóc lóc nên thật rất thương tâm". Cô gái nói "Chồng chết không biết về đâu nên đau lòng thôi". Triệu khuyên nên lấy chồng khác, nàng đáp "Một thân lưu lạc, biết ai mà chọn? Nếu được nương tựa thì làm vợ lẽ cũng được". Triệu mừng rỡ xin đứng ra bảo bọc, cô gái bèn đi theo. Triệu vì nhà ở xa, định tìm ngựa đỡ chân, cô gái nói không cần rồi bước lên trước, lãng đãng đi mau như chạy. Về tới nhà rồi, nàng lo việc nhà rất chăm chỉ, được hơn hai năm nói với Triệu "Cảm vì chàng thương mến nên theo về, thấm thoát đã hai năm, nay phải đi thôi”. Triệu hỏi "Trước nàng nói không biết về đâu, nay định tới nơi nào?", nàng đáp "Lúc ấy chỉ là nói dối thế thôi, chứ đâu lại không còn nơi về? Cha thiếp bán thuốc ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nếu chàng muốn gặp nhau thì nên chở thuốc tới, sẽ giúp đỡ cho ít nhiều đi đường". Triệu tính toán định thuê xe ngựa cho, nàng từ tạ rồi ra cửa đi thẳng, Triệu đuổi theo không kịp, trong chớp mắt đã mất hút. Lâu sau Triệu càng nhung nhớ, bèn mua thuốc chở lên Kim Lăng, gởi hàng ở quán trọ rồi ra phố, chợt có ông già ở hiệu thuốc nhìn ra nói "Con rể tới rồi", rồi ra kéo vào. Cô gái đang giặt áo trong sân, thấy Triệu không nói cũng không cười, cứ mãi miết giặt giũ. Triệu uất ức bỏ ngay ra, ông già lại kéo trở vào, nàng vẫn không nhìn ngó gì tới. Ông già bảo dọn cơm rượu thết đãi, định tặng tiễn cho Triệu thật hậu, cô gái ngăn lại nói "Y bạc phúc, có cho nhiều cũng không hưởng được, chỉ cần an ủi nỗi vất vả tới đây, lựa ra mười mấy bài thuốc trao cho là thừa cơm áo một đời rồi". Ông già hỏi tới số thuốc Triệủ mang lên, nàng đáp “Đã ngã giá rồi, đang để cả ở đây". Ông già bèn đưa bài thuốc ra, trao tiền cho Triệu về. Dùng thử các bài thuốc thì hiệu nghiệm phi thường, đến nay có người ở Nghi Thủy còn biết bài thuốc lấy vỏ trái vải giã nát ra hứng nước mưa ở mái tranh để tẩy nốt ruồi, là một trong những bài ấy, rất có công hiệu. [B]092. Liên Tỏa[/B] [B](Liên Tỏa)[/B] Dương Vu Úy dời nhà tới ở cạnh sông Tứ Thủy, phòng học liền với cánh đồng rộng, ngoài tường có nhiều ngôi mộ cổ. Đêm nghe cành lá bạch dương rung ào ào như sóng dâng, khuya dậy thắp đèn ngồi, đang buồn bã bâng khuâng chợt nghe ngoài tường có tiếng người ngâm thơ rằng " Nguyên dạ thê phong khích đảo xuy, Lưu oanh nặc thảo phục triêm vi" (Hiu hắt đêm rằm gió lạnh qua, Lập lòe đom đóm đậu màn là), ngâm đi ngâm lại, âm thanh rất não nùng, Dương lắng tai nghe kỹ thấy dịu dàng như tiếng con gái, lấy làm ngờ vực. Hôm sau ra ngoài tường xem không thấy vết chân người nào cả, duy có một sợi dây lụa tía rơi trong bụi gai, bèn nhặt về để trên bậu cửa sổ. Đến canh hai lại nghe tiếng ngâm nga như đêm trước, Dương bắc ghế leo lên nhìn ra thì tiếng ngâm vụt tắt, biết đó là ma nhưng rất thích. Đêm sau ra núp chờ bên tường, vừa hết canh một thấy có một cô gái trong đám cỏ lững thững đi ra, tỳ tay vào gốc cây nhỏ cúi đầu buồn bã ngâm nga. Dương khẽ đằng hắng, nàng vội lui vào đám cỏ rậm biến mất. Từ đó Dương cứ ra chờ, một đêm đợi cô gái vừa ngâm xong, liền cách tường đọc tiếp rằng "U tình khổ tự hà nhân kiến, Thúy tụ đơn hàn nguyệt thượng thì" (Tình riêng mối khổ nào ai rõ, áo biếc mong manh dưới nguyệt tà), hồi lâu vẫn thấy im ắng. Dương bèn trở vào phòng, vừa ngồi xuống chợt thấy một cô gái đẹp từ ngoài bước vào, khép nép nói "Chàng vốn là văn nhân phong nhã mà bấy lâu nay thiếp cứ sợ sệt trốn tránh". Dương mừng rỡ kéo nàng ngồi, thấy ẻo lả như mặc áo không nổi. Hỏi quê quán nơi nào, ở đây bao lâu rồi, nàng đáp “Thiếp là người quận Lũng Tây (tỉnh Cam Túc) theo cha lưu lạc tới đây, năm mười bảy tuổi bị bạo bệnh chết, đến nay đã hơn hai chục năm rồi. Hồn ở suối vàng, thây vùi đồng trống, trơ trọi một mình, hai câu thơ thường ngâm là của thiếp làm ra để gởi gắm niềm u hận, lâu nay vẫn muốn làm trọn bài nhưng nghĩ không ra, được chàng nối giùm nên thiếp ở dưới suối vàng lấy làm vui sướng". Dương muốn cùng giao hoan, nàng cau mày nói "Xương nát dưới dạ đài không như người sống, nếu còn nọ kia sẽ làm người ta tổn thọ, thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử", Dương mới thôi. Đùa thò tay nắn bóp ngực nàng thì đầu vú còn son, rõ ràng vẫn là xử nữ, lại muốn nhìn đôi hài dưới chân. Nàng cúi mặt cười nói "Anh chàng si cuồng tò mò quá". Dương cầm chân nàng đùa giỡn, thấy hài làm bằng gấm màu nguyệt bạch nhỏ như bó tơ, nhìn kỹ thấy một chiếc thiếu giải lụa tía. Hỏi sao không buộc cả hai chiếc, nàng đáp "Đêm trước sợ chàng bỏ chạy, không biết đánh rơi chỗ nào". Dương nói "Để ta thay sợi khác cho nàng rồi lấy sợi dây lụa tía trên bậu cửa sổ đưa cho cô gái. Nàng ngạc nhiên hỏi ở đâu ra, Dương kể lại nàng bèn giắt vào thắt lưng. Kế mở xem sách vở trên bàn, chợt thấy tập [I]Liên xướng cưng từ[/I][B]*[/B] cảm khái nói "Lúc thiếp còn sống rất thích đọc tập thơ này, giờ nhìn thấy, giống như đang trong mơ vậy". Dương cùng nói chuyện văn thơ, thấy nàng thông minh đáng yêu, chong đèn trò chuyện như gặp bạn quý. *Liên xướng cung từ: tên tập thơ của Nguyên Chẩn, nhà thơ thời Đường. Từ đó cứ đêm đến nghe tiếng ngâm thơ khe khẽ thì thấy nàng tới. Thường dặn Dương rằng “Xin chàng giữ kín đừng cho ai biết, thiếp từ nhỏ vẫn nhút nhát nên sợ có khách khứa hung dữ hiếp đáp" Dương ưng thuận. Hai người vui như cá nước gặp nhau, tuy chưa thật là vợ chồng nhưng trong chốn phòng khuê còn âu yếm đằm thắm hơn cả vợ chồng. Cô gái thường trước đèn chép sách cho Dương, nét chữ đoan chính đẹp đẽ. Lại tự chọn một trăm bài [I]Cung từ[/I] chép để ngâm nga, còn dặn Dương sắm bàn cờ vây, mua đàn tỳ bà, đêm đêm dạy Dương đánh cờ, không thì nàng so phím lên dây gảy khúc [I]Mưa sa tàu chuối bên song[/I] khiến người phải não lòng. Dương không nỡ nghe hết khúc, thì nàng gảy bản [I]Tiếng oanh trong vườn buổi sớm[/I], chợt Dương thấy trong lòng khoan khoái. Thường chong đèn vui chơi quên cả đêm dài, thấy ánh mai hiện ra trên cửa sổ nàng mới vội vã ra đi. Một hôm Tiết sinh tới chơi, gặp lúc Dương đang ngủ trưa, thấy trong nhà đủ cả bàn cờ nhạc khí, biết không phải là những môn Dương giỏi. Lại lật sách vở xem, gặp tập Cung từ thấy nét chữ ngay thẳng đẹp đẽ không phải chữ Dương, càng thêm ngờ vực. Dương thức dậy, Tiết hỏi bàn cờ nhạc khí từ đâu ra, Dương đáp là đang muốn học, lại hỏi về quyển thơ, Dương nói thác là mượn của bạn bè. Tiết giở ra xem đi xem lại, tới tờ cuối thấy có hàng chữ nhỏ đề ngày ấy tháng ấy Liên Tỏa viết bèn cười nói "Đây là tên con gái mà, sao dối nhau quá thế?”. Dương bí quá không biết trả lời thế nào, Tiết càng hỏi riết. Dương không chịu nói, Tiết bèn lấy tập thơ bỏ túi, Dương cùng đường phải nói thật. Tiết xin cho gặp một lần, Dương nhắc lại lời Liên Tỏa dặn. Tiết càng hâm mộ cứ thiết tha xin gặp, Dương bất đắc dĩ đành nhận lời. Khuya cô gái tới, Dương tỏ ý Tiết, nàng giận nói "Trước đã dặn thế nào, mà lại ba hoa với người ta!". Dương kể lại sự tình để phân trần, nàng nói “Duyên phận với chàng đến đây là hết rồi”. Dương tìm đủ lời năn nỉ khuyên giải mà nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói "Thiếp phải tạm lánh mặt". Hôm sau Tiết tới, Dương cho biết là Liên Tỏa không chịu, Tiết ngờ là kiếm cớ thoái thác, chiều tối rủ hai bạn học nữa tới, dằng dai không chịu ra về, làm ầm ĩ suốt đêm, Dương bực lắm nhưng không biết làm sao. Họ thấy mấy đêm liền không có gì lạ cũng chán, dần dần yên lặng, chợt nghe tiếng ngâm thơ, cùng lắng tai nghe, thấy rất buồn thảm. Tiết còn đang chăm chú nghe, trong bọn có một người bạn học võ là Vương sinh lượm hòn đá to ném ra nói lớn “Làm bộ làm tịch không chịu ra mặt, thơ có ra gì mà ngâm nga sướt mướt nghe phát bực”, tiếng ngâm thơ tắt liền. Mọi người rất tức, Dương thì bực bội ra mặt. Hôm sau họ mới chịu đi, Dương ngủ một mình ở phòng sách chờ cô gái trở lại nhưng nàng biệt tăm. Qua hai hôm nàng chợt tới khóc nói "Chàng đón những khách hung tợn tới làm thiếp sợ gần chết". Dương chưa kịp xin lỗi, nàng đã bước ngay ra, nói "Thiếp đã nói duyên phận với chàng hết rồi, từ đây xin vĩnh biệt". Dương định kéo lại thì nàng đã biến mất, suốt hơn tháng sau không thấy tới nữa. Dương nhớ nhung tới mức gầy ốm nhưng không còn cách nào gặp được nàng. Một đêm đang ngồi uống rượu một mình, chợt cô gái vén rèm bước vào. Dương mừng quá, nói "Nàng tha thứ cho ta rồi sao?”. Cô gái chảy nước mắt im lặng không đáp, hỏi mãi thì nàng muốn nói lại thôi, kế nói "Tức giận bỏ đi, lại có chuyện nguy cấp phải nhờ người, nghĩ mà hổ thẹn". Dương gặng hỏi mấy lần, nàng nói “Có một tên lính lệ thô bỉ không biết ở đâu tới ép thiếp phải làm vợ lẽ của y. Thiếp nghĩ mình là con nhà thanh bạch, há lại chịu khuất phục một tên quỷ tốt, nhưng một thân yếu đuối làm sao chống cự. Nếu chàng coi thiếp như vợ chồng thì chắc không để mặc thiếp phải khổ". Dương cả giận, căm tức tưởng chết nhưng lo người với ma khác loài, không thể giúp nàng được. Cô gái nói "Đêm mai cứ đi ngủ sớm, thiếp nhờ chàng trong mộng vậy". Rồi cùng nhau chuyện trò đợi sáng, lúc nàng ra đi dặn Dương đi ngủ để giữ cái hẹn buổi tối, Dương theo lời. Buổi chiều uống vài chén rượu rồi nhân lúc ngà ngà lên giường, để nguyên áo mà ngủ. Chợt thấy cô gái tới, đưa cho thanh bội đao rồi cầm tay dắt đi. Tới một căn nhà, vừa vào đóng cửa trò chuyện thì nghe có người đập cửa cô gái hoảng sợ nói "Kẻ thù tới đấy". Dương mở cửa sấn ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu quai nón tua tủa như lông nhím, tức giận thét đuổi đi. Tên lính trợn mắt quát lại, lời lẽ rất ngạo mạn. Dương cả giận sấn vào, y vác đá ném như mưa, Dương bị ném trúng tay không cầm đao được nữa. Đang lúc nguy cấp, chợt thấy xa xa có một người đeo cung tên đi săn, nhìn kỹ chính là Vương sinh, bèn kêu lớn cầu cứu. Vương sinh giương cung chạy tới bắn trúng đùi tên lính, lại bắn thêm một phát giết chết luôn. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi duyên cớ, Dương kể lại đầu đuôi. Vương mừng đã chuộc được lỗi trước, bèn cùng vào nhà. Cô gái thẹn thùng sợ sệt đứng xa nhìn không nói một câu. Trên bàn có thanh đao nhỏ dài hơn một thước khảm vàng ngọc, rút ra khỏi vỏ thì long lanh sáng quắc. Vương khen ngợi không nỡ rời tay, trò chuyện qua loa với Dương, thấy cô gái sợ sệt rất đáng thương bèn bước ra chia tay rồi đi. Dương cũng ra về, tới cổng thì ngã chúi, giật mình tỉnh dậy nghe gà trong thôn gáy ran. Thấy cánh tay đau buốt, sáng ra nhìn kỹ thì da thịt sưng lên đỏ bầm. Trưa Vương sinh tới, nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương hỏi "Mơ thấy bắn tên phải không?", Vương lấy làm lạ sao Dương biết. Dương đưa tay cho xem rồi nói rõ duyên cớ. Vương nhớ lại người đẹp trong mộng, hận chưa được thấy người thật, nhưng nghe may có chút công với cô gái nên lại xin cho được gặp. Đêm đến cô gái tới cảm tạ, Dương quy công cho Vương sinh rồi tỏ bày lòng thành của Vương. Nàng nói “Cái ơn giúp đỡ làm sao dám quên, nhưng y mạnh mẽ dữ tợn, thật thiếp sợ quá”. Kế lại nói "Y thích thanh bội đao của thiếp, thanh đao ấy là cha thiếp ngày trước mua ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông) hết trăm lượng vàng. Thiếp thích nên cha cho tua buộc tơ vàng, vỏ nạm minh châu, cha thương thiếp mệnh bạc nên bỏ vào quan tài chôn theo. Nay xin dứt tình đưa tặng, y thấy đao cũng như gặp thiếp vậy”. Hôm sau Dương tỏ ý ấy Vương thích lắm. Đến đêm, cô gái quả đem thanh đao tới, nói “chàng dặn y giữ cho kỹ, đây không phải là vật ở Trung Hoa đâu”, từ đó lại lui tới nhà Dương như trước. Vài tháng sau chợt nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như định nói gì, nhưng hai ba lần đỏ mặt rồi thôi. Dương ôm nàng hỏi han, nàng đáp "Lâu nay được chàng yêu mến, tiếp nhận sinh khí người sống, hàng ngày ăn những thức nấu nướng nên mớ xương khô chợt có sinh cơ, nhưng phải có tinh huyết của người sống mới có thể sống lại”. Dương cười nói "Vì nàng không muốn chứ ta có tiếc gì đâu”. Cô gái nói “Thiếp tiếp nhận tinh khí rồi thì chàng ắt ốm nặng hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc là khỏi", bèn cùng nhau giao hoan. Kế nàng mặc áo trở dậy, lại nói "Còn phải có một giọt máu tươi, chàng nhịn đau cho nhau đươc không?” Dương liền cầm dao sắc tự đâm vào tay lấy máu, cô gái nằm trên giường bảo nhỏ máu vào rốn, xong rồi đứng dậy nói "Thiếp không tới nữa. Chàng nhớ là sau đây một trăm ngày ra trước mộ thiếp, thấy có con chim xanh kêu trên ngọn cây thì lập tức đào lên". Dương hứa theo lời. Lúc nàng ra cửa lại dặn “Chàng nhớ kỹ đừng quên, sớm hay trễ hơn đều không được đâu”, rồi đi. Hơn mười ngày sau quả Dương phát bệnh, bụng trướng lên gần chết, thầy lang cho uống thuốc, xổ ra hôi thối như bùn, đúng mười hai hôm thì khỏi. Tính đủ trăm ngày, sai gia nhân mang cuốc ra chờ sẵn bên mộ, lúc mặt trời xế bóng quả thấy hai con chim xanh hót. Dương mừng nói “Đến lúc rồi", rồi phát gai đào mồ, thấy quan tài đã mục nát mà dung mạo cô gái vẫn như còn sống, sờ vào người thấy âm ấm liền lấy chăn bọc lại khiêng về đặt vào phòng kín. Lát sau có hơi thở như sợi tơ, từ từ đổ nước cho, nửa đêm thì nàng sống lại. Thường nói với Dương "Hơn hai mươi năm[B]*[/B] mà thấy như một giấc mộng thôi". * Hơn hai mươi năm: cả hai bản Đài Loan và Hương Cảng đều in là, thập dư niên" (hơn mười năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, vì bên trên nhân vật Liên Tỏa có nói là đã chết hơn hai mươi năm. Đây tạm đính như trên. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 93 -[/B] Bạch Vu Ngọc (Bạch Vu Ngọc) Ngô Quân tự Thanh Am lúc trẻ đã nổi tiếng, quan Thái sử họ Cát đọc thấy văn bài thường khen ngợi, nhờ người quen mời tới nhà, thấy ngôn ngữ phong thái bèn nói "Chẳng lẽ có tài như Ngô sinh mà nghèo hèn mãi sao?". Nhân nhờ người đánh tiếng, nói "Nếu Thanh Am gắng sức thi đỗ thì ta gả con gái cho". Lúc ấy Thái sử có cô con gái tuyệt đẹp, sinh nghe thế cả mừng, rất tự tin sẽ thi đỗ. Kế thi hương bị đánh rớt, bèn nhờ người nói với Thái sử rằng nhất định sẽ được giàu sang, chỉ không biết sớm hay muộn thôi, xin chờ cho ba năm nữa, nếu mình không thành danh hãy gả chồng cho tiểu thư, từ đó càng ra sức học hành. Một đêm sáng trăng có người Tú tài tới thăm, da trắng râu ngắn, vóc nhỏ móng tay dài. Hỏi từ đâu tới, khách tự xưng là họ Bạch, tự Vu Ngọc, cùng chuyện trò vài câu thấy hợp nên thích lắm, mời ngủ lại. Sáng ra Bạch sắp lên đường, sinh dặn có qua ngang tiện đường nhớ ghé chơi. Bạch cảm vì ân cần, xin lần sau cho ở nhờ, hẹn ngày tới rồi chia tay. Đến ngày hẹn, có một người đầy tớ đem các vật dụng nhà bếp tới trước, kế Bạch tới, cưỡi con ngựa thần thái như con rồng, sinh để một gian nhà riêng cho Bạch ở. Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình ở lại sớm tối cùng sinh gần gũi, rất vui vẻ tương đắc. Sinh thấy những sách Bạch đọc đều không phải loại thường thấy, cũng tuyệt nhiên không có loại sách văn chương khoa cử nên ngạc nhiên hỏi. Bạch cười đáp "Kẻ sĩ ai có chí người ấy, ta không phải là người trong trường công danh”. Thường đêm, Bạch mời sinh qua uống rượu, đưa một quyển sách cho xem, đều là dạy thuật đạo dẫn dưỡng sinh, nhiều chỗ không hiểu nổi, sinh thấy viễn vông nên bỏ đó. Hôm khác Bạch nói "Quyển sách ta đưa hôm trước là con đường tu luyện, chiếc thang lên tiên đấy". Sinh cười nói "Việc gấp của ta không phải ở đó, vả lại muốn thành tiên ắt phải dứt hết lòng trần, bỏ hết ham muốn, nhưng ta có tật xấu nên chưa làm được” Bạch hỏi vì sao, sinh đáp phải lo có người nối dõi. Bạch hỏi "Vậy sao vẫn không lấy vợ?”, sinh cười đáp “Quả nhân có tật xấu, quả nhân thích sắc đẹp". Bạch cũng cười nói "Xin nhà vua đừng thích cái sắc nhỏ, ông thích sắc đẹp ra sao?"[B]*[/B]. Sinh kể lại việc Thái sử, Bạch ngờ rằng con gái Thái sử chưa chắc đã thật đẹp. Sinh nói "Chuyện đó thì xa gần đều biết, không phải tiểu sinh không có mắt đâu”, Bạch cười khẽ rồi im lặng. *Quả nhân... sắc nhỏ: nguyên văn là “Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc”, và "Vương thỉnh vô hiếu tiểu sắc", câu đầu là lời Tề Hoàn công thời Xuân thu nói với Quản Trọng, câu sau là nhại lời Mạnh Tử nói với Đằng Văn công "Vương hà tất viết lợi", đây hai nhân vật dùng để nói đùa với nhau. Hôm sau chợt sắp hành lý chào đi, sinh buồn bã cùng trò chuyện, quyến luyến không dứt ra được, Bạch bèn sai tiểu đồng mang hành lý đi trước. Hai người còn đang bịn rịn, chợt thấy một con ve xanh sè sè đáp xuống bàn. Bạch chào nói “Ngựa xe đã tới, từ nay xin giã biệt. Nếu ông nhớ nhau thì cứ quét cái giường ta nằm mà ngủ”. Sinh đang muốn hỏi lại thì trong chớp mắt Bạch đã chỉ còn nhỏ như ngón tay, nhảy lên cưỡi trên lưng con ve, e e bay lên biến mất trong mây. Sinh lúc ấy mới biết Bạch không phải là người thường, kinh ngạc than thở hồi lâu, buồn bực như mất của quý. Mấy hôm sau chợt trời mưa phùn, sinh càng nhớ Bạch, nhìn tới chỗ giường Bạch nằm thấy vết chân chuột chi chít, cảm khái quét dọn rồi trải chiếu lên nằm ngủ. Giây lát thấy đứa tiểu đồng của Bạch tới mời bèn vui vẻ đi theo. Chợt có con phượng đáp xuống, tiểu đồng giục sinh "Đường tối khó đi, cưỡi nó đỡ chân cũng được". Sinh lo con chim nhỏ không chở nổi, tiểu đồng nói "Ông cứ cưỡi thử xem sao". Sinh theo lời thì thấy ngồi còn thừa chỗ, tiểu đồng cũng ngồi ghé trên đuôi, chim giương cánh soạt một tiếng bay thẳng lên không. Không bao lâu, thấy một cái cổng sơn son, tiểu đồng bước xuống trước rồi đỡ sinh cùng xuống. Sinh hỏi đây là nơi đâu, tiểu đồng đáp "Đây là cổng trời". Bên cửa có con cọp lớn ngồi chồm chổm, sinh sợ hãi, tiểu đồng bèn lấy mình che cho cùng vào, thấy phong cảnh khắp nơi đều khác hẳn thế gian. Tiểu đồng dẫn vào cung Quảng Hàn, bên trong lấy thủy tinh làm bậc thềm, người đi lên như đang giữa tấm gương, có hai cây quế lớn vấn vít lấy nhau, mùi hương theo gió thơm tho không dứt, đình tạ cửa sổ đều sơn son. Lúc lúc lại có mỹ nhân ra vào, người nào cũng xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp. Tiểu đồng nói mỹ nhân ở cung Vương Mẫu còn xinh đẹp hơn nhưng sợ ông chủ đợi lâu, không thể thơ thẩn rồi dắt sinh đi mau ra. Giây lát thấy Bạch đứng chờ ngoài cửa, cầm tay sinh đưa vào thấy trước nhà suối trong cát trắng, tiếng chảy róc rách, thềm ngọc hiên son như cung điện vua chúa, vừa ngồi xuống đã có hai thị nữ trẻ bưng trà lên mời. Kế Bạch sai dọn rượu, có bốn mỹ nhân khép nép hầu hạ chung quanh, vừa thấy trong lưng hơi ngứa thì mỹ nhân đã lấy móng tay dài gãi giùm. Sinh thấy tâm thần phiêu diêu, quên cả là mình đang ở đâu, lúc đã ngà ngà say không tự chủ được nữa, cười liếc mỹ nhân, kéo lại nói nhỏ, mỹ nhân mỉm cười né ra. Bạch sai đàn hát chuốc rượu, một nàng mặc áo hồng bưng chén rượu mời khách rồi đứng trước tiệc cất tiếng hát du dương, các nàng khác gõ sênh phách réo rắt họa theo. Kế tới một nàng mặc xiêm xanh cũng chuốc rượu rồi hát, còn một nàng mặc áo tía, một nàng mặc áo màu nguyệt bạch cứ cười khúc khích đùn đẩy nhau không chịu bước ra. Bạch sai mỗi nàng mời một chén hát một bài, nàng áo tía bèn bước lên rót rượu. Sinh mượn cớ đón chén rượu đùa nắm lấy cổ tay, nàng bật cười buột tay làm rơi chén rượu xuống đất Bạch trách mắng, nàng nhặt chén lên mỉm cười, cúi đầu nói khẽ "Da lạnh như tay ma mà cố nắm tay người ta?". Bạch cười lớn, phạt nàng phải múa hát một mình. Nàng múa xong, nàng áo nguyệt bạch lại mời một chén, sinh từ chối nói không uống nổi nữa. Cô gái bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, sinh bèn gượng uống. Nhìn kỹ bốn nàng thấy phong thái yêu kiều, người nào cũng xinh đẹp tuyệt thế, sinh nói với chủ nhân "Người đẹp trên đời, ta mong được một mà còn khó khăn, ông thì tụ họp bấy nhiêu giai nhân, có thể cho nhau hưởng thú tiêu hồn không?”. Bạch cười nói "Túc hạ trong lòng đã có giai nhân rồi, thế này đâu đã đủ lọt vào mắt?". Sinh nói "Nay ta mới biết kiến thức của mình còn hẹp hòi". Bạch gọi tất cả các cô gái tới cho chọn, sinh mê mệt không biết chọn ai. Bạch nghĩ nàng áo tía có cái duyên nắm tay, bèn sai lo giường nệm hầu khách. Kế cùng chung chăn chung gối, hết sức yêu thương, sinh đòi tặng một vật làm kỷ niệm, nàng tháo chiếc xuyến vàng ở cổ tay đưa cho. Chợt đứa tiểu đồng vào nói “Tiên phàm khác nhau, ông nên đi ngay", cô gái vội trỗi dậy đi ra. Sinh hỏi ông chủ, tiểu đồng nói "Ông chủ ta đi chầu Ngọc Hoàng, lúc đi có dặn ta tiễn khách về". Sinh buồn bã theo ra, lại theo lối cũ, gần tới cổng quay lại nhìn thì tiểu đồng đã đi đâu mất. Con cọp gầm thét chồm lên, sinh sợ hãi bỏ chạy, nhìn xuống dưới thấy mờ mịt nhưng chân đã lọt xuống, giật mình tỉnh dậy thì phía đông đã hừng sáng. Vừa giũ áo đứng lên thì có một vật rơi nhẹ xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc xuyến, càng lấy làm lạ. Từ đó ý nghĩ lúc trước thành nguội lạnh, thường muốn tìm tiên học đạo nhưng còn lo về nỗi không có con nối dõi. Qua hơn mười tháng, một hôm sinh ngủ trưa mơ thấy nàng áo tía từ ngoài vào, bế một đứa nhỏ nói “Đây là xương máu của chàng, trên trời không giữ lại được nên xin đem tới trả chàng", rồi đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vạt áo sinh đắp cho nó rồi vội vã định đi. Sinh ép cùng giao hoan, kế nàng nói “Lần trước là động phòng, lần này là vĩnh quyết, vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí, may ra còn có lúc gặp lại”. Sinh tỉnh giấc thấy đứa nhỏ nằm trong bọc tã trên giường, liền bế vào nói với mẹ. Mẹ mừng rỡ, thuê vú nuôi cháu, đặt tên là Mộng Tiên. Rồi đó sinh sai người báo cho Thái sử rằng mình sắp đi ở ẩn xin kén rể khác. Thái sử không chịu, sinh cố từ chối. Thái sử kể cho con gái, nàng nói "Xa gần chẳng ai không biết con đã hứa làm vợ Ngô lang, nay thay đổi hóa ra là hai chồng sao?", Thái sử đem lời ấy nói với sinh. Sinh nói "Ta chẳng những không có chí về việc công danh mà còn tuyệt tình về đường gia thất nữa, sở dĩ không vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi”. Thái sử lại bàn với con gái, nàng nói "Ngô lang nghèo thì con cam phận rau cháo, Ngô lang đi thì con xin thờ mẹ chồng, quyết không theo người khác". Sinh sai người qua lại hai ba lần cũng không xong, Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe kiệu đưa con gái về nhà chồng. Sinh cảm là người hiền đức, rất mực kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất có hiếu, chiều chuộng hầu hạ còn hơn con gái nhà nghèo. Qua hai năm mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang lo liệu tang lễ rất tươm tất. Sinh nói "Được người vợ như nàng, ta còn lo gì. Nhưng nghĩ một người đắc đạo bỏ nhà lên tiên, ta sắp đi xa, việc nhà xin phó thác cho nàng". Nàng thản nhiên không hề giữ lại, sinh bèn ra đi. Nàng ngoài lo mưu sinh, trong dạy con côi, đều có phép tắc. Mộng Tiên dần dần lớn lên, vô cùng thông minh, mười bốn tuổi thi khoa Thần đồng đỗ Cử nhân, mười lăm tuổi vào Hàn lâm viện, triều đình phong tặng nhưng không biết tên mẹ đẻ nên chỉ có bà Cát được phong tặng mà thôi. Đến ngày tế, Mộng Tiên hỏi cha ở đâu, bà Cát nói rõ, Mộng Tiên muốn từ quan đi tìm cha, bà nói “Cha con rời nhà đến nay đã hơn mười năm, chắc đã lên tiên rồi, biết đâu mà tìm". Sau Mộng Tiên phụng chỉ ra tế ở Nam Nhạc, giữa đường gặp cướp, đang lúc nguy cấp có một đạo sĩ cầm gươm xông vào đánh, bọn cướp thua chạy tán loạn nên được giải vây. Mộng Tiên cảm ơn đạo sĩ, tặng tiền nhưng y không nhận, đưa ra một phong thư nói “Ta có người bạn cũ cùng làng với đại nhân, phiền đưa giùm lá thư thăm hỏi". Mộng Tiên hỏi họ tên người ấy, đạo sĩ đáp là Vương Lâm, nhưng nhớ lại trong thôn không có ai tên ấy, đạo sĩ nói “Người ấy con nhà hèn mọn nên ông không biết thôi”. Lúc từ giã lại đưa ra một chiếc xuyến vàng, nói "Đây là vật dùng của đàn bà con gái, bần đạo nhặt được nhưng không dùng gì tới, xin biếu ông luôn”. Mộng Tiên thấy chiếc xuyến chạm trổ rất tinh xảo, đem về đưa phu nhân. Phu nhân thích lắm, sai thợ khéo theo đúng kiểu làm thêm chiếc nữa, nhưng không sao tinh xảo bằng được. Mộng Tiên hỏi khắp trong thôn thì không có ai tên Vương Lâm, bèn lén mở phong thư ra xem, thấy phía trên viết như sau: [I]Ba năm loan phượng Chia cách đôi miền Nuôi con chôn mẹ Toàn cậy nàng hiền Lấy gì báo đức? Tặng thuốc một viên Cắt ra mà uống Có thể thành tiên[/I] Dưới viết "Kính gửi Phu nhân Lâm nương". Mộng Tiên đọc xong không hiểu là gởi ai bèn cầm tới kể với mẹ. Bà Cát đọc xong khóc nói "Đây là thư của cha con gửi về nhà, Lâm là tiểu tự của ta", Mộng Tiên mới sực hiểu ra “Vương Lâm" là chiết tự chữ “Lâm“[B]*[/B], ân hận không thôi. Lại đưa chiếc xuyến cho mẹ xem, bà Cát nói "Đây là di vật của mẹ đẻ con, lúc cha con còn ở nhà vẫn đưa cho ta xem". Mộng Tiên thấy viên thuốc bằng hạt đậu lớn, vui mừng nói "Cha đã thành tiên, mẹ uống viên thuốc này ắt được trường sinh” nhưng bà Cát chưa muốn uống ngay, bèn nhận lấy cất đi. *Vương Lâm"... chữ "Lâm”: đây theo lối chiết tự trong chữ Hán. Chữ Lâm (ngọc lâm) đây gồm bộ ngọc và chữ lâm (rừng), nhưng bộ ngọc thường viết giảm một chấm nên thành chữ vương. Gặp lúc Thái sử qua thăm cháu, bà đọc bức thư của Ngô lang cho ông nghe, nhân mang viên thuốc ra chúc thọ. Thái sử cắt làm đôi cho cha con cùng uống, trong giây lát thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên. Năm ấy Thái sử đã bảy mươi tuổi, già nua yếu ớt lắm rồi mà chợt thấy sức lực cuồn cuộn dưới da thịt, lúc về bỏ kiệu xuống bộ đi rất nhanh, bọn gia nhân chạy theo mướt mồ hôi mới kịp. Năm sau đô thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không tắt, mọi người đêm không dám ngủ, tụ tập ở sân. Thấy lửa cứ lan ra, dần dần tới lối xóm, cả nhà nhớn nhác không biết làm sao. Bỗng chiếc xuyến vàng ở tay phu nhân soạt một tiếng thoát khỏi tay bay ra, nhìn theo thấy to mấy mẫu úp quanh trên nhà, hình dáng như vành trăng, chỗ mối nối hướng về phía đông nam, nhìn thấy rất rõ ràng, mọi người đều kinh ngạc. Giây lát ngọn lửa từ phía tây lan tới, tới gần cái vành thì tạt qua phía đông. Khi thế lửa đã dịu, phu nhân đang thầm nghĩ chắc mất chiếc xuyến rồi, không sao lấy lại được nữa chợt thấy ánh vàng vụt thu lại, chiếc xuyến rơi leng keng ngay dưới chân. Mấy vạn nhà dân trong thành đều cháy sạch, chung quanh đều ra tro, chỉ có nhà họ Ngô là không bị gì, duy có một ngôi lầu nhỏ ở phía đông nam bị cháy rụi, tức là nơi mối nối của chiếc xuyến để hở ra. Bà Cát hơn năm mươi tuổi mà có người gặp, thấy chỉ như ngoài hai mươi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 94 - 96 -[/B] Nước Dạ Xoa (Dạ Xoa Quốc) Họ Từ ở đất Giao Châu (huyện Ngô Châu tỉnh Quảng Tây) vượt biển đi buôn, bị bão thổi bạt thuyền. Mở mắt thấy tới một xứ núi cao rừng rậm, cho rằng có người ở bèn buộc thuyền đem theo lương khô lên bờ. Vừa vào thì thấy hai bên núi đều có cửa hang dày đặc như lỗ tổ ong, phía trong như có tiếng người. Bèn tới ngoài một cửa hang nhìn vào, thấy có hai con dạ xoa răng tua tủa như dao, mắt sáng quắc như đèn đang lấy móng xé một con hươu ăn sống, hồn bay phách lạc vội chạy lui lại thì dạ xoa quay lại nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt vào. Hai con nói chuyện với nhau, tiếng như chim kêu thú gào, rồi tranh nhau xé nát áo Từ như muốn ăn tươi nuốt sống. Từ cả sợ quá vội lấy lương khô thịt khô trong túi ra đưa, chúng chia nhau ăn có vẻ ngon lành lắm rồi lại lục cái túi. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa tức giận lại túm lấy Từ. Từ năn nỉ “Tha cho ta đi, trong thuyền ta có nồi niêu, có thể nấu nướng được". Dạ xoa không hiểu, vẫn tức giận. Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiểu bèn theo Từ ra thuyền. Từ đem nồi vào hang, gom củi nhen lửa nấu chín thịt hươu còn lại đưa cho dạ xoa, hai con vật ăn xong thích lắm. Đêm đến chúng vần khối đá lớn lấp cửa hang như có ý sợ Từ bỏ trốn. Từ nằm co quắp xa xa, chỉ sợ không sao sống được. Trời sáng hai con vật ra, lại lấp chặt cửa hang, lát sau mang về một con hươu đưa cho Từ. Từ lột da, múc nước chảy ở cuối hang luộc thịt làm mấy nồi, giây lát có một bầy mấy con dạ xoa kéo tới ăn ngấu nghiến hết sạch, rồi cùng chỉ vào cái nồi như chê nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn như người ta vẫn thường dùng. Từ đó cả bầy cứ đem tới nào nai nào sói cho Từ nấu, thịt chín rồi thì gọi Từ cùng ăn. Được vài ngày, dạ xoa dần dà quen Từ, khi đi không vần đá lấp cửa hang nhốt lại nữa mà đối xử như cùng trong bầy. Từ dần dần xét tiếng kêu của chúng mà xem ý tứ rồi tập kêu theo, nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa càng thích, đưa một dạ xoa cái tới làm vợ Từ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần, dạ xoa cái tới ngủ chung, cùng Từ ăn nằm thích lắm, thường đem thịt cho Từ ăn như vợ chồng con người vậy. Một hôm cả bầy dậy sớm, lấy chuỗi hạt minh châu đeo quanh cổ thay phiên nhau ra cửa như chờ khách quý, lại bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi dạ xoa cái, nó đáp đây là tiết Thiên thọ. Dạ xoa cái ra nói với bầy rằng "Từ lang không có vòng đeo cổ". Mỗi con bèn trích trong chuỗi minh châu của mình năm hạt đưa nó, nó cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình ra, được tất cả năm mươi hạt rồi lấy dây cỏ xỏ thành một chuỗi đeo vào cổ cho Từ, Từ xem kỹ thấy mỗi hạt đều đáng giá hàng trăm đồng vàng. Lát sau cả bầy đều ra ngoài, Từ nấu thịt xong, dạ xoa cái vào bảo đi, nói là ra đón thiên vương. Tới một cái hang lớn rộng chừng một mẫu, giữa có tảng đá to bằng phẳng như cái bàn, chung quanh đều có chỗ ngồi bằng đá, một chỗ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu, hai ba chục dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Giây lát gió to tung bụi bay mù mịt, cả bọn vội vàng ra đón, thấy một con vật to lớn hình thù như dạ xoa chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi ngất ngưỡng trên bệ, đưa mắt nhìn khắp chung quanh. Bầy dạ xoa theo vào chia ngồi xuống hai bên, đầu ngẩng cao, hai cánh tay chắp thành hình chữ thập trước ngực. Con vật đếm cả bọn rồi hỏi "Bọn Ngọa My Sơn có mặt cả ở đây không?", cả bầy cùng dạ. Nó nhìn Từ hỏi “Từ đâu tới?”, dạ xoa cái thưa là chồng, cả bầy đều ca ngợi Từ biết nấu thịt. Lập tức hai ba dạ xoa chạy đi lấy thịt chín bày lên, con vật bốc ăn no, hết sức khen ngợi, bảo phải cung đốn thường xuyên. Lại quay nhìn Từ hỏi "Vòng hạt sao ngắn thế?", cả bọn thưa “Mới tới nên chưa đủ”. Con vật rút mười hạt trong chuỗi hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào cũng to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn, dạ xoa cái vội đón lấy đeo vào cho Từ, Từ cũng chắp tay nói tiếng dạ xoa tạ ơn. Kế con vật ra khỏi hang, lướt gió đi nhanh như bay, cả bầy bèn ăn chỗ thịt còn lại rồi tan đi. Được hơn bốn năm, vợ Từ sinh ba, hai trai một gái, đều có hình người chứ không giống mẹ. Bầy dạ xoa đều rất thích ba đứa nhỏ, cùng vỗ về đùa giỡn với chúng. Một hôm cả hang đi vắng, chỉ còn một mình Từ, chợt một dạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm, Từ không chịu, nó tức giận quật Từ xuống đất. Vợ Từ từ ngoài vào, nổi giận đánh nhau, cắn đứt tai nó. Giây lát con đực chồng nó về, gỡ ra đuổi nó đi, từ đó dạ xoa cái giữ rịt lấy Từ không rời. Lại ba năm sau, ba đứa trẻ biết đi, Từ dạy chúng tiếng người, dần dần biết nói, bập bẹ như người, tuy còn nhỏ nhưng trèo núi như đi trên đất bằng, khắng khít với Từ như cha con loài người. Một hôm dạ xoa cái và một trai một gái ra ngoài, nửa ngày chưa về mà gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê, dẫn con trai tới bờ biển. Thấy chiếc thuyền cũ vẫn còn, định cùng nhau trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm về tới Giao Châu, tới nhà thì vợ đã cải giá. Từ bán hai hạt châu được rất nhiều tiền, trong nhà dư dật. Đứa con lấy tên là Bưu, mười bốn mười lăm tuổi đã có thể nhấc nổi vật nặng trăm thạch, tính thô mãng thích đánh nhau. Viên Tổng súy đất Giao gặp lấy làm lạ, trao cho chức Thiên tổng. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong Phó tướng. Lúc ấy có một lái buôn đi biển cũng bị gió bạt tới Ngọa My, vừa lên bờ thì gặp một thiếu niên, lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là người Trung Quốc liền tới hỏi han, người lái buôn nói rõ. Thiếu niên dẫn tới hẻm núi vắng, đưa vào một hang đá . nhỏ, bên ngoài toàn là cây cỏ gai góc, dặn chớ ra ngoài. Đi hồi lâu quay về đem thịt hươu cho người lái buôn ăn, nói cha mình cũng là người Giao Châu, người lái buôn hỏi ra thì là Từ, lúc đi buôn có biết nhau bèn nói "Ông ta là bạn ta, nay đứa con trai đang làm Phó tướng". Thiếu niên không hiểu Phó tướng là gì người ấy nói "Đó là chức quan ở Trung Quốc”. Thiếu niên lại hỏi quan là gì, người ấy đáp “Ra đường thì cưỡi ngựa đi xe, vào nhà thì ngồi trên sảnh đường, gọi một tiếng thì trăm người dạ, ai gặp cũng không dám nhìn thẳng, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan". Thiếu niên có vẻ thích lắm, người lái buôn nói "Tôn quân đã ở Giao Châu, sao còn chịu ở đây lâu thế?". Thiếu niên kể lại sự tình. Người lái buôn khuyên nên về nam, thiếu niên nói "Ta cũng thường có ý ấy, song mẹ ta không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác, vả lại nếu đồng loại mà biết sẽ làm hại nên còn chần chừ". Rồi đi ra, nói "Đợi gió bắc nổi ta sẽ đưa ông về, phiền ông tới báo cho cha anh ta biết tin". Người lái buôn ẩn trong hang gần nửa năm, có lần nhìn qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài sợ lắm, không dám động đậy. Một hôm gió bắc ù ù nổi, thiếu niên chợt tới, dẫn người lái buôn trốn ra, dặn "Đừng quên điều ta nhờ”, người lái buôn vâng dạ rồi về, tới Giao Châu vào ngay phủ Phó tướng kể lại những điều đã gặp. Bưu nghe chuyện chạnh lòng muốn đi tìm mẹ và em, cha lo biển khơi sóng gió, yêu vật hung dữ, nguy hiểm khó lòng nên hết sức ngăn cản. Bưu đấm ngực kêu khóc, cha phải cho đi. Bưu tới trình với Tổng súy đất Giao, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược, trôi dạt trên biển nửa tháng, nhìn quanh chỉ thấy mênh mông trời nước không bờ, không phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp con sóng to ngất trời, thuyền bị lật úp, Bưu rơi xuống biển bị sóng cuốn hồi lâu thì được một con vật kéo đi. Tới một nơi thấy có nhà cửa, nhìn thấy con vật ấy có hình dáng dạ xoa, bèn nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa kinh ngạc hỏi han, Bưu nói rõ là mình định đi đâu, dạ xoa mừng rỡ nói "Ngọa My là quê cũ của ta, đường đột thế này thật có lỗi. Ông đã đi chệch đường tám ngàn dặm, đây là đường tới nước Độc Long, không phải lối đến Ngọa My". Rồi tìm thuyền đưa Bưu xuống, dạ xoa bơi dưới nước đẩy thuyền đi nhanh như tên bắn, chớp mắt đã vượt ngàn dặm, qua một đêm thì tới bờ bắc Ngọa My. Thấy trên bờ có một thiếu niên quanh quẩn trông ngóng, Bưu biết trên núi không có loài người ở, ngờ đó là em, tới gần hỏi quả đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc, kế Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, em trai nói đều mạnh khỏe bình yên. Bưu muốn tới thăm, em trai ngăn lại, trời tối quay đi. Bưu trở ra cám ơn dạ xoa đưa mình tới thì nó đã đi mất. Không bao lâu mẹ và em gái cùng tới, vừa thấy Bưu đã khóc ròng. Bưu nói ý mình, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo "Sợ đến sẽ bị người làm nhục". Bưu nói "Con ở Trung Quốc rất quý hiển, ai dám coi thường". Khi đã quyết ý về Giao Châu thì lại gặp gió ngược không đi được, mẹ con đang lúng túng thì cánh buồm xoay về phía nam kêu phần phật, Bưu mừng nói “Trời giúp ta rồi”. Mẹ con theo nhau lên thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới Giao Châu, người trên bờ nhìn thấy đều bỏ chạy. Bưu chia quần áo cho ba người, về tới nhà, mẹ dạ xoa thấy Từ thì giận dữ chửi mắng vì ra đi không bàn với mình, Từ phải xin lỗi mãi. Gia nhân tới chào chủ mẫu, người nào cũng run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc, cho mặc đẹp ăn ngon, mẹ dạ xoa dần dần vui vẻ yên lòng. Cả mẹ và con gái đều mặc nam trang, được vài tháng mẹ dần biết tiếng người, hai em thì trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái đặt tên là Dạ Nhi, đều rất khỏe mạnh. Bưu xấu hổ vì em không biết chữ, cho Báo học hành. Báo rất thông minh, kinh sử chỉ đọc qua là hiểu nhưng không muốn học văn, Bưu bèn cho tập cưỡi ngựa bắn cung, sau đỗ Tiến sĩ võ, lấy con gái viên Du kích họ A. Dạ Nhi thì vì khác loài không ai lấy, sau có viên Thủ bị họ Viên dưới trướng Bưu góa vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng trăm thạch, ngoài trăm bước bắn trúng chim nhỏ, không sai một phát. Viên mỗi khi đánh dẹp thường đưa vợ cùng đi, dần làm tới chức Đồng tri tướng quân, một nửa công trạng là do vợ lập. Báo năm ba mươi tư tuổi được đeo ấn Tướng quân, mẹ cũng thường theo đi đánh dẹp phía nam, mỗi khi gặp đám giặc mạnh là mặc giáp cầm gươm tiếp ứng cho con, quân giặc trông thấy là sợ hãi lui chạy. Nhà vua xuống chiếu phong tước nam, Báo thay mẹ dâng sớ từ chối, được phong Phu nhân. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Phu nhân dạ xoa là chuyện ngày nay ít nghe, nhưng nghĩ kỹ thì không ít đâu, trong phòng nhà nào cũng thường có dạ xoa đấy thôi.[/I] [B]095. Cướp Già [/B] [B](Lão Hào)[/B] Hình Đức người Trạch Châu (huyện Tấn Thành tỉnh Sơn Tây) là tay kiệt hiệt trong bọn lục lâm, có thể phát tên liên tiếp nhiều mũi, nổi tiếng là tuyệt kỹ, bình sinh phóng khoáng không để ý tới chuyện kiếm tiền, ra cửa mới nhìn lại túi. Các nhà buôn lớn ở hai kinh[B]*[/B] đều thích đi chung với Hình vì dọc đường chắc chắn sẽ được yên ổn. Gặp lúc đầu mùa đông, có hai ba người khách buôn tới vay ít tiền rồi rủ Hình cùng đi, Hình cũng dốc túi góp vốn với họ. Bạn Hình có người bói giỏi, Hình tới hỏi, người bạn gieo quẻ rồi nói "Quẻ này rất xấu, làm gì cũng không những không có lời mà còn cụt vốn". Hình không vui, đã định thôi không đi nữa nhưng mấy người khách cứ ép lên đường ngay. *Hai kinh: tức Trường An và Lạc Dương, hai trung tâm chính trị và kinh tế ở Trung Quốc thời cổ. Tới kinh quả nhiên buôn bán thua lỗ, giữa tháng chạp Hình cưỡi ngựa rời kinh, tự nghĩ qua năm mới không có tiền, càng thêm phiền muộn. Lúc ấy là buổi sáng, hơi mù ngập đồng, Hình phóng nhanh tới một quán rượu cạnh đường, cởi hành lý gọi rượu. Thấy một ông già tóc bạc trắng ngồi cùng hai thiếu niên uống rượu chỗ của sổ phía bắc, có một đứa tiểu đồng đứng hầu, tóc xõa rối tung. Hình ngồi bàn phía nam, đối diện với ông già. Đứa tiểu đồng bưng rượu lỡ tay làm đổ mâm vấy cả thức ăn vào áo ông già, một thiếu niên tức giận đứng dậy kéo tai nó rồi lấy khăn lau áo cho ông già. Kế lại thấy trên cổ tay đứa tiểu đồng có đeo một chuỗi đạn sắt dày khoảng nửa tấc, mỗi viên nặng khoảng hơn hai lượng. Ăn uống xong ông già bảo thiếu niên lấy bọc tiền trong túi da đổ ra trên bàn, tính toán trả tiền xong còn đủ uống thêm mấy chén nữa, bèn cất trở vào. Thiếu niên dắt một con ngựa đen buộc dưới tàu ra, đỡ ông già lên, đứa tiểu đồng cũng nhảy lên ngựa đi theo. Hai thiếu niên thì đều đeo cung tên trên lưng, thúc ngựa cùng ra. Hình nhìn trộm thấy họ có nhiều tiền, lại đang lúc túng quẫn, máu tham nổi lên vội trả tiền đuổi theo, thấy ông già và đứa tiểu đồng đang thủng thỉnh phía trước bèn rẽ xuống đường tắt phóng ngựa vòng lên chặn trước ông già, kéo căng dây cung chĩa thẳng tên trợn mắt hăm dọa. Ông già cúi xuống tháo chiếc giày bên chân trái ra cười khẽ nói "Người không biết lão cướp già này à?". Hình bắn thử một phát, ông già ngã người trên yên ngựa giơ chân lên lấy hai ngón cặp mũi tên rồi cười nói "Tài nghề chỉ có bấy nhiêu thì chưa đáng là địch thủ của cha ngươi đâu”. Hình nổi giận giở tuyệt kỹ ra, mũi trước vừa phát đi, mũi sau lại xé gió bay tới. Ông già vươn tay chụp được mũi trước nhưng dường như không đề phòng tên liên châu nên bị mũi sau bắn trúng miệng ngã lăn xuống ngựa, miệng ngậm tên, mắt trợn ngược, đứa tiểu đồng cũng vội xuống ngựa. Hình mừng rỡ cho là ông ta đã chết bèn phóng tới gần, ông già phun mũi tên ra nhảy choàng dậy vỗ tay nói "Sao vừa gặp nhau đã giở độc thủ ra thế?”. Hình cả kinh, con ngựa cũng giật mình phóng đi, vì thế biết ông già là người lạ, không dám quay lại nữa. Đi được ba bốn mươi dặm thấy có một bọn gia nhân nhà quan chở đồ đạc về kinh, Hình đánh cướp luôn, tính ra được khoảng hơn ngàn vàng, lại bắt đầu hăng hái. Đang lúc phóng nhanh chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa, ngoảnh nhìn thì thấy đứa tiểu đồng đã thay con ngựa khác đuổi tới như bay, quát lớn "Thằng kia đừng chạy, số hàng vừa cướp được phải chia đôi". Hình hỏi "Ngươi có biết Liên châu tiễn Hình mỗ không?", nó đáp "Ta vừa được lãnh giáo rồi". Hình nhìn bộ dạng nó không có gì là khỏe mạnh, lại không thấy có cung tên nên xem thường, phát luôn ba mũi tên liên châu nối nhau không dứt như bầy chim ào ạt bay ra. Đứa tiểu đồng không hề hoang mang, giơ tay bắt hai mũi, há miệng cắn một mũi rồi cười nói "Tài nghề như thế thì nhục nhã thật, cha ngươi đi gấp quá không kịp mang cung, vật này vô dụng, xin trả lại ngay", rồi rút chuỗi đạn sắt trên tay xỏ vào mũi tên lấy hết sức phóng trả. Mũi tên rít gió bay tới, Hình vội lấy dây cung gạt ra, vừa chạm vào chuỗi đạn sắt thì phựt một tiếng, dây cung đứt đôi, cánh cung cũng bị sứt một mảnh. Hình khiếp đảm, chưa kịp bỏ chạy thì mũi kế lại lướt qua mang tai, bất giác ngã ngựa. Đứa tiểu đồng xuống ngựa tới túm lấy, Hình nằm dưới đất lấy cánh cung đánh trả. Đứa tiểu đồng tức giận giật cung bẻ làm đôi, lại chập đôi bẻ làm tư ném đi, rồi một tay nắm hai tay, một chân đạp lên hai đùi Hình, tay nắm chặt như dây trói, chân đạp nặng như đá đè, Hình hết sức vùng vẫy mà không sao nhúc nhích được. Trên lưng Hình có thắt sợi dây lưng dày hai lớp, rộng bằng ba ngón tay, đứa tiểu đồng lấy một tay giật ra, sợi dây theo tay đứt tả tơi như tro. Lấy hết tiền của Hình xong, nó nhảy lên ngựa giơ tay một cái, một tràng vó ngựa vừa vang lên thì người đã mất hút. Hình về tới nhà, sau đó trở nên lương thiện, thường kể lại cho người ta nghe chuyện ấy không hề lấy làm xấu hổ. Chuyện này cũng phảng phất như chuyện Lưu Đông Sơn[B]*[/B]. *Chuyện Lưu Đông Sơn: chưa rõ nội dung, nhưng bản Hương Cảng chú là chép trong Cửu thược tập của Tống ấu Thanh. [B]096. Cơ Sinh [/B] [B](Cơ Sinh)[/B] Nhà họ Ngạc ở Nam Dương (tỉnh thành Hà Nam) bị hồ quấy phá, tiền bạc đồ dùng cứ bị lấy trộm, chửi mắng thì càng phá phách thêm. Ngạc có cháu ngoại là Cơ sinh, là kẻ danh sĩ, tính vốn không chịu bị ràng buộc, cứ đốt hương khấn khứa năn nỉ thay Ngạc nhưng hồ không nghe. Lại khấn khứa xin tha cho nhà ông ngoại, bảo cứ về nhà mình mà phá phách, hồ cũng không chịu, người ta đều cười. Sinh nói “Hồ có thể biến hóa thì ắt biết suy nghĩ, nên ta cố dẫn dắt cho vào đường chính", cứ hai ba hôm lại khấn khứa một lần. Tuy vẫn không hiệu nghiệm nhưng cứ sinh tới thì hồ không phá phách gì nữa, vì vậy Ngạc thường giữ sinh ngủ lại. Sinh đêm đêm cứ nhìn lên trời khấn khứa ngày càng thêm kiên tâm. Một hôm sinh về nhà, đang ngồi một mình trong phòng, chợt cửa phòng từ từ khép lại, sinh đứng lên kính cẩn nói “Hồ huynh tới đấy ư?”, nhưng không có tiếng động nào khác nữa. Một đêm cánh cổng tự mở ra, sinh nói "Nếu đúng là hồ huynh giáng lâm thì đó là vì tiểu sinh khấn khứa nài nỉ, ngại gì mà không cho gặp mặt?”, thì lại yên ắng, nhưng có hai trăm đồng tiền để ở đầu bàn, sáng ra nhìn tới đã mất rồi. Đến đêm sinh lại để thêm vài trăm đồng, giữa khuya nghe ngoài màn có tiếng động, sinh nói "Lại tới đấy ư? Có sẵn vài trăm đồng tiền để đó phòng khi huynh cần dùng, ta tuy không dư dả gì nhưng cũng chẳng phải loại keo kiệt, nếu huynh cần gấp để chi dùng cứ hỏi mà lấy có hề gì, cần chi phải lấy trộm?". Lát sau ra nhìn thấy chuỗi tiền bị rút mất hai trăm đồng, sinh vẫn để yên đó nhưng mấy đêm không bị mất nữa. Có con gà luộc định đãi khách thì mất, tối đến sinh lại đặt thêm bầu rượu vào đó, nhưng từ đó hồ tuyệt tích luôn. Nhà họ Ngạc thì vẫn bị quấy phá như cũ, sinh qua khấn nói "Ta để tiền mà ông không cầm, để rượu mà ông không uống, còn ông ngoại ta già yếu, sao cứ quấy phá mãi thế? Ta có sắp sẵn vật mọn, đêm nay nhờ ông tới lấy giúp". Rồi lấy mười ngàn đồng tiền và một vò rượu gói lại đặt lên bàn, sinh nằm ngay bên cạnh nhưng cả đêm không thấy một tiếng động, tiền và rượu vẫn còn nguyên chỗ cũ, từ đó hết hẳn nạn hồ. Một hôm chiều tối sinh về nhà, mở cửa phòng sách thấy trên bàn có một bầu rượu, một đĩa thịt gà luộc và bốn trăm đồng tiền xâu bằng dây đỏ, là những món bị mất trước đây, biết là hồ đem tới. Ngửi bầu rượu thấy thơm phức, rót ra thấy màu xanh biếc, uống vào vô cùng ngon ngọt, uống cạn bầu rượu thì hơi say, chợt nảy ý tham lam muốn đi ăn trộm bèn mở cổng bước ra. Nhớ lại trong thôn có một nhà giàu bèn tới đó nhảy qua tường, tuy tường cao nhưng nhảy lên rồi nhảy xuống nhẹ nhàng như có cánh, vào phòng xách luôn cái áo cừu, bưng cái đỉnh đồng trở ra quay về nhà đặt ở đầu giường rồi mới đi ngủ. Sáng ra cắp vào phòng vợ, vợ ngạc nhiên hỏi, sinh thì thào kể lại, dáng vui vẻ lắm. Vợ lúc đầu còn cho là sinh đùa, khi biết là thật hoảng sợ nói "Chàng vốn ngay thẳng, sao bỗng nhiên lại đi làm chuyện này?". Sinh thản nhiên không hề lấy làm lạ lùng, còn kể chuyện hồ có tình nghĩa. Vợ giật mình hiểu ra ắt là trong bình rượu có thuốc độc của hồ, nhân nghĩ đan sa có thể giải tà độc bèn lấy nghiền ra hòa vào rượu bảo sinh uống. Giây lát chợt sinh rú lên nói “Tại sao ta lại đi ăn trộm?", vợ giải thích nguyên do, sinh thẫn thờ như mất của. Lại nghe nói nhà giàu bị trộm, cả làng đồn đại, sinh cả ngày bỏ ăn không biết làm sao, vợ bàn nhân đêm tối đem ném trả vào trong tường, sinh nghe theo. Nhà giàu lấy lại được vật bị mất, việc ấy mới lắng xuống. Sinh khảo khóa cuối năm đỗ đầu, lại được cử làm Chư sinh hạng ưu, theo lệ thì được thưởng gấp đôi. Đến ngày phát thưởng chợt trên xà nhà công thự có một tấm thiếp dán vào, trên viết "Cơ sinh là ăn trộm, lấy trộm áo cừu đỉnh đồng của ông Mỗ, sao lại được hạng ưu?". Xà nhà rất cao, không thể nhảy lên mà dán vào được, khảo quan lấy làm ngờ vực, cầm tấm thiếp hỏi sinh. Sinh ngạc nhiên, nghĩ việc này ngoài vợ ra thì không ai biết, huống hồ công thự canh gác nghiêm cẩn thì tấm thiếp từ đâu tới được, chợt sực nghĩ ra nói “Đây chắc là hồ làm ra". Rồi kể lại mọi việc không e ngại gì, khảo quan bèn thưởng thêm cho. Sinh vẫn tự nghĩ không làm gì nên tội với hồ, mấy lần mình sa hầm sẩy hang cũng chỉ là cái nhục của kẻ tiểu nhân, vì mình là kẻ tiểu nhân mà thôi. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Cơ sinh muốn dẫn dắt kẻ tà đạo vào đường chính mà lại bị kẻ tà mê hoặc, chưa chắc là hồ đã có ác ý, có lẽ sinh đùa dẫn dắt thì hồ cũng đùa phá quấy thôi. Nhưng nếu thân không có túc căn, nhà không có vợ hiền, thì biết đâu lại chẳng như Nguyên Thiệp vẫn nói “Gia nhân, quả phụ vì trộm cắp nhơ danh rồi làm bậy luôn[B]*[/B]”, sao! Ôi, đáng sợ thay![/I] *Nguyên Thiệp... làm bậy luôn: Tiền Hán thư, Du hiệp truyện chép Nguyên Thiệp làm Huyện lệnh Cốc Khẩu, tính ưa chiêu hiền đãi sĩ, có người môn khách nghèo bệnh chết, Thiệp tới tận nhà giúp đỡ tiền bạc tống táng chu đáo, lại thường chu cấp cho vợ con người ấy. Có người chê Thiệp bỏ tiền mua cái danh hào hiệp, Thiệp nói người ta ai cũng muốn làm đầy tớ trung thành, góa phụ trinh tiết, nhưng nếu trong nhà thiếu thốn phải trộm cắp nhơ danh thì sẽ làm bậy luôn, nên phải giúp đỡ cho họ giữ được tiếng trong sạch mà giữ lòng trong sạch. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 97 -[/B] Tướng Quân Khỏe Mạnh (Đại Lực Tướng Quân) Tra Y Hoàng là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tiết Thanh minh đi chơi, vào uống rượu trong một ngôi chùa hoang. Thấy trước điện phật có cái chuông cổ to bằng hai cái lu, trên dưới đầy vết tay bụi bặm còn mới, lấy làm ngờ vực bò xuống xem thì bên trong có cái giỏ tre đựng khoảng tám thăng, không biết chứa vật gì. Sai mấy người xúm lại nhấc lên mà không nổi, càng sợ bèn ngồi lại uống rượu chờ xem. Không bao lâu có một người ăn mày từ ngoài vào, đặt các thức cơm bánh xin được thành đống xuống cạnh chuông, một tay nhấc chuông lên, một tay bốc bỏ vào cái giỏ, mấy lượt như thế mới hết rồi đậy chuông lại bỏ đi. Lát sau trở lại bốc ăn, ăn xong lại đậy chuông lại, nhẹ nhàng như mở nắp rương, cả bọn đều sợ hãi. Tra hỏi "Anh là kẻ nam nhi, tại sao phải xin ăn?” người ấy đáp vì ăn khỏe quá nên không có ai thuê mướn. Tra thấy thế khuyên nên đầu quân, người ấy thở dài nói rằng không có người dẫn dắt. Tra bèn dắt về nhà cho ăn uống, thấy ăn khỏe bằng năm sáu người. Lại may y phục cho, rồi tặng năm mươi đồng vàng làm lộ phí. Hơn mười năm sau, cháu của Tra làm Tri huyện ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), chợt có tướng quân Ngô Lục Nhất tới bái phỏng. Đang lúc chuyện trò, tướng quân hỏi Y Hoàng là người thế nào với ông, cháu Tra đáp “Đó là chú ta, quen biết tướng quân ở đâu?". Tướng quân nói "Đó là thầy ta, chia tay đã mười năm, lòng thường không quên, phiền ông nhắn với tiên sinh tới chơi một lần". Cháu Tra ậm ừ, tự nghĩ chú mình có tiếng văn chương, làm sao có được học trò theo nghề võ. Gặp lúc Y Hoàng tới, cháu kể lại, Y Hoàng quên bẵng không nhớ ra là ai nhưng thấy nói là thăm hỏi rất ân cần, lập tức sai đầy tớ dắt ngựa tới phủ tướng quân đưa danh thiếp xin yết kiến. Tướng quân rảo bước ra đón tận ngoài cổng lớn, Tra thấy không hề quen biết, nghĩ thầm chắc là tướng quân lầm. Nhưng tướng quân tỏ vẻ rất cung kính, mời khách vào nhà, qua ba bốn lần cửa tới một chỗ có đàn bà con gái qua lại, Tra biết là nơi ăn ở của gia đình bèn dừng lại, tướng quân lại kéo đi. Giây lát lên một sảnh đường, những người cuốn rèm bưng ghế đều là tỳ thiếp trẻ đẹp. Tra vừa ngồi xuống, đang định hỏi thì tướng quân khẽ hất hàm, một người tỳ thiếp liền bưng mũ áo đại trào tới, tướng quân lập tức đứng dậy thay áo. Tra không biết tướng quân định làm gì thì các tỳ thiếp đều xắn tay áo, tướng quân sai mấy người xúm lại giữ chặt Tra ngồi yên không cho nhúc nhích rồi lạy phục xuống đất như ra mắt thiên tử vậy. Tra rất kinh ngạc không hiểu vì sao, tướng quân lạy xong lại vào thay áo ra ngồi, cười nói "Tiên sinh không nhớ thằng ăn mày nhấc cái chuông à?", Tra mới sực nhớ ra. Kế đó mời lên thềm cao ăn yến, phường hát trong nhà ca múa ở dưới, lúc say rồi các tỳ thiếp xúm lại hầu hạ. Tướng quân vào trong bảo dọn giường cho Tra nghỉ rồi mới đi. Tra say rượu dậy muộn, tướng quân đã tới ngoài cửa phòng hỏi thăm mấy lần. Tra áy náy cáo từ muốn về, tướng quân sai đóng cổng lại không cho ra. Tra thấy tướng quân hàng ngày không làm gì khác, chỉ tính toán số tỳ thiếp và tôi tớ trong nhà, kiểm điểm xe ngựa, quần áo, vật dùng, bắt làm sổ sách, dặn không được để sót. Tra cho rằng đó là việc nhà của tướng quân nên cũng không hỏi gì. Một hôm tướng quân cầm sổ sách tới nói với Tra “Kẻ bất tài này có được ngày hôm nay là nhờ ơn lớn của tiên sinh, một người một vật cũng không dám riêng tư, xin kính dâng tiên sinh một nửa”. Tra ngạc nhiên từ chối, tướng quân không nghe, đem tiền bạc ra có đến mấy vạn chia làm hai phần, kế theo sổ sách đem từ đồ cổ ngoạn tới bàn ghế giường tủ ra bày la liệt từ trong tới ngoài. Tra cố từ chối nhưng tướng quân không để ý gì tới, kê biên tên họ tôi tớ tỳ thiếp xong, lập tức ra lệnh đàn ông lo thu thập hành lý, đàn bà lo thu thập tư trang, dặn phải kính cẩn thờ phụng tiên sinh, mọi người dạ rân. Lại đích thân đưa các tỳ thiếp lên kiệu, sai bọn mã phu dắt lừa ngựa rầm rộ ra đi rồi quay lại chào Tra. Về sau Tra vướng vào cái án làm sử[B]*[/B] bị bắt, sau cùng được tha đều là nhờ sức tướng quân. *Cái án làm sử: xem chú thích đoạn Phụ lục. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ban ơn mà không hỏi gì tới tên họ, đúng là bậc trượng phu hào hiệp thời cổ. Mà tướng quân báo đáp cũng khẳng khái hào sảng, ngàn năm ít thấy, bụng dạ như thế thì ắt không thể chết già nơi ngòi rãnh. Xem đó đủ biết hai bậc hiền tài gặp nhau không phải là ngẫu nhiên đâu.[/I] [B]Phụ Lục: Một Truyện Trong Cô Thặng Tuyết Cấu[/B] [B](Phụ Lục Cô Thặng Tuyết Cấu Nhât Tắc)[/B] Hiếu Liêm họ Tra ở huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang tự Y Hoàng là người tài hoa tiêu sái, thường nói “Mắt thấy mênh mông, không sao gặp gỡ hết các bậc kỳ kiệt trong thiên hạ, nếu không tìm trong đám người thường thì không được". Cuối năm ở nhà, sai lấy rượu ra độc ẩm, khoảnh khắc mây mù giăng mắc, tuyết rơi mờ mịt, bèn đi dạo ra cổng xem có khách quý nào tới để cùng ngâm cảnh. Chợt thấy một người ăn mày tránh tuyết nép dưới vòm cổng, hiên ngang đứng thẳng, Hiếu liêm đứng nhìn hồi lâu thầm lấy làm lạ. Nhân gọi vào ngồi, hỏi "Ta nghe nói trong chợ có một người ăn mày tay không cầm gậy, miệng như ngậm tăm, áo rách hở bụng mà không có vẻ đói rét, mọi người đều gọi là Thiết cái (ăn mày sắt), có phải là ngươi không?", người ấy đáp “Phải”. Lại hỏi “Uống rượu được không?”, người ấy đáp “Được Hiếu liêm bèn sai tiều đồng lấy chỗ rượu thừa trong bầu trút vào tô cho y uống, người ăn mày bưng tô uống một hơi hết sạch. Hiếu liêm thích quá lại sai quạt than hâm rượu, hẹn với y rằng “Ngươi uống một tô thì ta uống một chung, hết chỗ rượu này thì thôi” Người ăn mày uống liền hơn ba mươi tô mà mặt chưa đỏ, còn Hiếu liêm đã say nằm lăn ra chiếu. Tiểu đồng xốc nách dìu vào nhà trong, người ăn mày đứng lên, lại bước ra đứng dưới vòm cổng. Đến sáng tuyết ngừng rơi, Hiếu liêm tỉnh rượu nói với gia nhân rằng "Đêm qua ta cùng Thiết cái đối ẩm vui quá, thấy quần áo y rách rưới, lấy gì chống rét cho được, lấy cái áo bông của ta đem cho y". Người ăn mày khoác áo rồi đi, cũng không xin vào tạ ơn chủ nhân. Năm sau Hiếu liêm tới ngụ trong chùa Tường Minh ở Hàng Châu (tỉnh thành chiết Giang), lúc cuối xuân cùng bạn bè mang rượu đi chơi trên hồ. Chợt gặp người ăn mày ấy ở đình Phóng Hạc (tại Cô Sơn ở Tây Hồ), áo hở khuỷu tay, chân trần không dép ngẩng đầu đi một mình, bèn kéo về chùa, hỏi cái áo cho ngày trước đâu? Y đáp "Đang là tiết xuân, dùng nó làm gì? Ta đã bán lấy tiền gởi cả vào quán rượu rồi". Hiếu liêm nghe thế lấy làm lạ, nhân hỏi đã từng học chữ chưa, y đáp "Nếu không học chữ đọc sách thì đã không làm ăn mày". Hiếu liêm chạnh lòng, cho tắm rửa ăn mặc sạch sẽ rồi hỏi tên họ quê quán, người ăn mày nói "Ta là hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình[B]*[/B], nhà ở Việt Hải (tỉnh Quảng Đông), tên là Lục Kỳ. *Hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình: nguyên văn là "Hệ xuất Diên Lăng, tâm nghĩa Khúc Nghịch”. Diên Lăng là địa danh thuộc huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, là nơi ở của Ngô Quý Trát thời Xuân thu, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình họ Ngô. Khúc Nghịch tức Khúc Nghịch hầu, tước phong của Trần Bình, một trong Hán triều tam kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, ba khai quốc công thần bậc nhất của nhà Hán, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình có hoài bão lớn lao. Chỉ vì cha anh mất sớm, tính lại ưa cờ bạc nên tới nỗi lưu lạc giang hồ, trôi nổi như thế này. Nhân nghĩ gõ cửa xin ăn thì người hiền ngày xưa có khi cũng không tránh được, ta là hạng người nào mà dám cho đó là cái nhục, không nghĩ rằng gặp được minh công coi trọng kẻ phong trần, ra ơn lúc gặp gỡ. Ta tuy không phải kẻ thiếu niên ở Hoài âm[B]*[/B] nhưng cái ơn một bữa cơm cũng đâu dám quên?". Hiếu liêm vội đứng dậy nắm tay y nói "Ngô sinh vốn là bậc kỳ kiệt trên đời mà ta lại coi là bạn rượu, để mất Ngô sinh rồi". Bèn sai sư trong chùa mua một thạch rượu Lê hoa xuân uống với nhau trọn ngày, giữ lại cả tháng rồi tặng tiền đi đường, bảo về Việt Đông. *Thiếu Hoài âm: tức Hàn Tín, người huyện Hoài âm, Phá Sở Nguyên nhung của Hán Cao tổ Lưu Bang, là người cầm quân đánh bại Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, kết thúc cục diện Hán Sở tranh hùng. Lúc Hàn Tín còn hàn vi ra câu cá ở bờ sông, được một bà già giặt vải (Phiếu mẫu) cho ăn cơm suốt cả tháng. Sau Tín lập nên công nghiệp, đem ngàn lượng vàng về tạ ơn bà. Lục Kỳ nhiều đời ở Triều Châu (tỉnh Quảng Đông), từng học Thi Thư nhưng vì say mê cờ bạc mà gia tài khánh tận, gởi thân làm phu trạm nên đường đi cửa ải hình thế hiểm trở ra sao đều biết rất rõ. Lúc ấy thiên hạ vừa định[B]*[/B], vương sư từ Chiết Giang tiến vào Quảng Đông, chiến thuyền liên tiếp nối nhau, cờ xí đỏ rực chiêng trống ầm ầm suốt mấy trăm dặm không dứt, qua các thành ấp quận huyện cư dân đều chạy trốn về thôn xóm, trên đường không một bóng người. *Thiên hạ vừa định: chỉ lúc nhà Thanh đã đàn áp được nhiều phong trào phản Thanh phục Minh, bắt đầu khẳng định được quyền thống trị ở Trung Hoa. Lục Kỳ một mình thản nhiên đi tới bị đội tiền tiêu bắt giải về dưới trướng, nhân đó xin ra mắt chủ tướng, thưa rõ về hình thế đất Việt Trung (tỉnh Quảng Đông), nói có thể truyền hịch mà bình định. Kỳ có ba mươi anh em kết nghĩa, vốn có tiếng anh hùng giỏi võ, chỉ vì thiên hạ vô chủ nên tụ tập bè đảng chiếm cứ đất đai làm cướp. Nay gặp lúc Hoàng thượng lên ngôi, thiên binh nam chinh, chính là lúc cứu vớt dân đen, sử dụng hào kiệt, bèn cho Kỳ đem ba mươi tờ văn thư phong chức đi trước chia cấp cho quần hùng, người gần ra hàng, người xa hưởng ứng, chưa đầy một tháng đã hình thành cái thế phá giặc như chẻ tre. Chủ tướng theo lời Lục Kỳ, đất Việt bèn yên. Từ đó Lục Kỳ bày mưu tính kế, nói gì trúng đó, những kẻ có sức khỏe cũng không chống được, đánh đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) phá đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên) nhiều lần lập kỳ công, trong vòng vài năm được thăng tới chức Thông tỉnh Thủy lục Đề đốc. Lúc Lục Kỳ lưu lạc chưa gặp thời, tự nghĩ rằng mình phải làm ăn mày hèn hạ suốt đời, gặp được Tra Hiếu liêm cởi áo tặng vàng, lại nổi tiếng là bậc kỳ kiệt trong thiên hạ nên trong lòng mừng rỡ hăng hái, trong quân ngũ ra sức lập công, dần làm tới bậc nguyên nhung, thường nói "Thiên hạ có một người tri kỷ, không ai được như Tra Hiếu liêm". Đầu niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mở phủ Đề đốc ở Tuần Châu (tỉnh Quảng Đông), lập tức sai nha tướng đem ba ngàn lượng vàng về để sẵn trong nhà rồi gửi thư mời Tra Hiếu liên tới đất Việt, chuẩn bị đầy đủ thuyền bè xe kiệu. Tra vừa qua Mai Lĩnh thì Ngô công tử đã đón đường vái lạy đón rước, giữ lễ rất mực cung kính, còn cách tỉnh thành hai mười dặm thì Ngô tự ra đón, đem nghi vệ dẫn đường như bậc vương hầu. Hiếu liêm về tới phủ thì Ngô phục lạy dập đầu, tự nói "Thằng ăn mày hèn hạ ngày xưa nếu không gặp được tiên sinh thì làm gì có ngày hôm nay. Nay may được tỉên sinh quá bộ tới chơi, dẫu nát thân ăn mày này cũng không đủ báo ơn”. Tra ở đó một năm, Ngô tuy việc quân bận rộn nhưng ai được Tra tiên sinh nói giúp một lời thì Ngô lập tức nghe theo, nhờ vậy Tra được người ta biếu xén có tới hàng vạn lượng vàng. Đến khi Tra về, Ngô đem ba ngàn lượng vàng ra tiễn tặng, nói “Không dám nói là đền ơn, chỉ là để ghi lại lòng cảm kích của kẻ thiếu niên ở Hoài âm mà thôi". Trước là ở Thiều Trung (tỉnh Chiết Giang) có nhà giàu Trang Đình Việt mua được bộ sử của Chu Tướng quốc, tìm mời các danh sĩ vùng Tam Ngô (Tô Châu, Nhuận Châu, Hồ Châu) san định tu sửa, khắc in lưu truyền. Đầu sách có kể ra mười mấy ngườitham gia san định, vì Tra Hiếu liêm là bậc danh sĩ nên cũng kể vào. Không bao lâu cái án làm sử riêng[B]*[/B] phát ra, ai dính líu đều bị khép trọng tội. Ngô ra sức tâu bày nên Tra Hiếu liêm mới thoát chết. *Cái án làm sử riêng: tức vụ án Minh thư tập lược nổi tiếng thời Thanh. Trang Đình Long người Hồ Châu mua được bản thảo bộ Minh sử của tướng quốc nhà Minh Chu Quốc Trinh bèn dựa vào đó biên soạn thêm, mời nhiều danh sĩ Giang Nam san định bình chú, đặt tên sách là Minh thư tập lược, khắc bản lưu hành. Vì trong sách có dùng niên hiệu các vua nhà Minh, lời lẽ cũng nhiều chỗ động chạm tới nhà Thanh, nên gây ra vụ án lớn, có đến hàng trăm danh sĩ bị bắt, những người in sách bán sách mua sách cũng bị liên lụy, hàng vạn người tan cửa nát nhà náo động một thời. Hiếu liêm từ đó về sau càng thả tình ở thơ rượu, dốc hết tiền bạc mua mười hai người con gái xinh đẹp dạy cho múa hát. Mỗi lúc đêm thanh mở tiệc thì buông rèm thắp đèn ca múa, châu ngọc khua ran, mỹ nữ yêu kiều, ai nhìn thấy cũng phải ngây ngất. Phu nhân của Hiếu liêm cũng giỏi âm luật, thường đích thân ra gõ phách cho đám ca kỹ trong nhà múa hát, sửa cho những chỗ sai, vì vậy phường nữ nhạc của họ Tra nổi tiếng nhất ở vùng Chiết Trung. Trước kia lúc Hiếu liêm ở mạc phủ Quảng Đông thấy vườn hoa trong phủ cực đẹp, trong có một tòa giả sơn bằng đá thạch anh cao hơn hai trượng, lóng lánh đẹp đẽ như là quỷ thần tạc ra, rất ưa thích bèn đề cho hai chữ "Xu Vân" (Mây the). Qua tuần sau lại ra xem thì tòa giả sơn không còn, té ra Ngô đã sai lấy thuyền lớn chở về nhà Hiếu liêm, qua sông lên núi tốn phí tới hàng ngàn quan tiền. Nay Hiếu liêm đã chết, ca kỹ đã già, vườn hoang ao cạn mà tòa giả sơn vẫn còn. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển VI - 98 - 99[/B] Lưu Hải Thạch (Lưu Hải Thạch) Lưu Hải Thạch người huyện Bồ Đài (tỉnh Sơn Đông), tránh loạn tới ở Tân Châu (thuộc tỉnh Cát Lâm). Năm ấy mười bốn tuổi học cùng thầy với người học trò ở Tân Châu là Lưu Thương Khách, nhân chơi thân với nhau nên kết nghĩa anh em. Không bao lâu cha mẹ Hải Thạch mất, Hải Thạch mang hài cốt về quê, từ đó bặt tin. Thương Khách nhà khá giả, đến năm bốn mươi tuổi có hai con trai, con trưởng là Cát, mười bảy tuổi đã là danh sĩ trong huyện, con thứ cũng thông minh. Thương Khách lại nộp sính lễ cưới con gái nhà họ Nghê trong huyện, rất yêu dấu. Nửa năm sau con trưởng đau óc rồi chết, vợ chồng đều buồn rầu. Không bao lâu vợ lại mắc bệnh chết, vài tháng sau con dâu trưởng cũng chết, rồi tôi tớ cũng nối nhau chết, Thương Khách vô cùng thương xót đau buồn. Một hôm đang ngồi buồn bã chợt người giữ cổng vào báo là Hải Thạch tới, Thương Khách mừng rỡ vội ra cổng đón vào. Đang định hỏi thăm sức khỏe, chợt Hải Thạch kinh ngạc nói "Anh có cái tai vạ chết sạch cả nhà mà không biết sao?", Thương Khách ngạc nhiên không hiểu ý tứ. Hải Thạch nói “Lâu quá không có tin tức, vẫn thầm nghĩ gần đây anh không được vui". Thương Khách sa nước mắt kể lại mọi chuyện, Hải Thạch than thở hồi lâu rồi cười nói “Tai ương chưa hết, lúc nãy là phúng điếu cho anh, nhưng may là anh gặp được ta, vậy xin chúc mừng anh". Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp chắc anh học được nghề thuốc giỏi lắm phải không?”. Hải Thạch đáp “Chuyện đó thì không phải sở trường, nhưng những môn coi đất xem nhà thì có học". Thương Khách mừng rỡ xin xem nhà cho, Hải Thạch bèn vào trong xem khắp trước sau, kế xin cho gặp mặt hết mọi người trong nhà. Thương Khảch theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thê thiếp gia nhân tới sảnh đường, Hải Thạch nhìn kỹ từng người, tới họ Nghê thì ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy cô gái họ Nghê run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn hơn hai thước. Hải Thạch lấy thước đánh vào đầu, nghe leng keng như gõ vào đá. Hải Thạch nắm tóc cô ta xem sau gáy, thấy có mấy cọng lông trắng, toan nhổ thì cô gái rụt cổ quỳ xương kêu khóc xin tha đừng nhổ. Hải Thạch giận dữ nói “Ngươi chưa bỏ hết lòng hung ác à?", rồi nhổ cả ra, cô gái lập tức biến thành con vật đen như con mèo mun, mọi người cả sợ. Hải Thạch tóm lấy bỏ vào tay áo, quay lại nhìn con dâu thứ của Thương Khách nói “Cháu bị ngấm chất độc đã nhiều, trên lưng ắt có sự lạ, xin cho ta xem”. Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai Lưu phải ép vén lên, thấy trên lưng có sợi lông trắng dài khoảng bốn đất tay. Hải Thạch lấy trâm khều ra, nói "Sợi lông này đã mọc lâu rồi, chỉ bảy ngày nữa ắt không sao cứu được". Lại xem tới lưng con trai Lưu thì cũng có sợi lông trắng nhưng chỉ mới dài khoảng hai đốt tay, bèn nói “Thế này thì hơn một tháng sẽ chết". Rồi xem khắp từ Thương Khách tới gia nhân, khều ra hết cho, nói "Nếu ta không tới, thì chắc cả nhà không ai sống nổi". Lưu hỏi đó là con gì, Hải Thạch đáp "Cũng là hồ thôi, nhưng hút tinh khí người ta để tu luyện, chuyên làm chết người”. Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp ông, sao lại có phép thuật thần diệu như vậy, hay đã thành tiên rồi ư?”. Hải Thạch cười đáp "Chỉ là theo thầy học chút thuật mọn thôi, đâu đáng nói là tiên?". Hỏi thầy là ai, Hải Thạch đáp "Là Sơn Thạch đạo nhân. Con vật này thì ta không thể giết, định sẽ mang về nộp cho thầy". Nói xong cáo từ, xem lại thấy trong tay áo trống không giật mình nói "Nó chạy mất rồi, ở cuối đuôi còn sợi lông lớn chưa nhổ nên nó trốn được". Mọi người đều hoảng sợ, Hải Thạch nói "Nó đã bị nhổ hết lông trên cổ thì không thể biến ra hình người nữa, chỉ có thể biến thành thú, chắc chưa chạy xa đâu". Bèn vào phòng xem xét lũ mèo, lại ra cổng tắc lưỡi gọi chó, đều nói là không có. Tới mở cửa chuồng heo xem thì cười nói “Nó đây rồi". Thương Khách nhìn, thấy trong chuồng dư ra một con heo, nghe tiếng Hải Thạch cười thì nằm mọp xuống không dám động đậy. Hải Thạch nắm tai kéo ra, thấy ở chót đuôi có một sợi lông trắng cứng như cây kim, đang định nhổ thì con heo giãy giụa kêu khóc không cho nhổ. Hải Thạch nói “Ngươi làm ác đã nhiều mà bị nhổ một sợi lông cũng không muốn à?". Rồi nhổ luôn ra, con heo lập tức biến thành chồn, Hải Thạch bỏ vào tay áo định đi luôn, Thương Khách giữ mãi mới ở lại ăn một bữa cơm. Hỏi khi nào lại gặp nhau, Hải Thạch đáp "Chuyện đó khó biết trước, nhưng thầy ta có lời nguyền nên thường sai bọn ta ngao du khắp nơi cứu giúp cho người ta, cũng có thể sẽ gặp lại". Sau khi chia tay, Thương Khách nhớ lại tên đạo nhân mới sực hiểu, nói "Hải Thạch thành tiên rồi". Chữ [I]sơn[/I] và chữ [I]thạch[/I] hơp lại thành chữ [I]Nham[/I], chính là tên húy của tiên ông Lữ Động Tân. [B]099. Ngọn Đèn Chó[/B] [B](Khuyển Đăng)[/B] Nhà Quang lộc tự khanh Hàn Đại Thiên có người đầy tớ đêm ngủ ngoài hè, thấy trên lầu có ánh đèn như sao sáng. Không bao lâu ánh đèn lập lòe rơi xuống, tới đất thì biến thành con chó, hé mắt nhìn thấy nó đi vòng ra sau nhà. Vội vùng dậy lẻn theo xem, vào tới trong vườn thấy biến thành cô gái, biết là hồ bèn quay lại chỗ ngủ. Lát sau cô gái từ sau nhà tới, y vờ ngủ để chờ xem sao, cô gái bèn tới nằm đè lên. Y làm ra vẻ vừa tỉnh ngủ, hỏi là ai. Cô gái không đáp, y nói “ánh đèn trên lầu là nàng đấy phải không?". Cô gái đáp “Đã biết rồi còn hỏi làm gì”, rồi ngủ với nhau. Từ đó cứ sáng đi khuya tới, dần dần thành lệ. Chủ nhân biết được, sai hai người đầy tớ khác cùng tới ngủ kèm, nhưng cứ khi họ tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm dưới đất, cũng không biết rơi khỏi giường lúc nào. Chủ nhân càng tức giận, nói với người đầy tớ “Lúc nào nó tới thì phải bắt đem tới đây, nếu không thì ăn đòn”. Người đầy tớ không dám nói gì, dạ dạ lui ra, nhưng nghĩ bắt cô ta rất khó, mà không bắt thì sợ bị tội trăn trở không biết làm sao. Chợt nhớ ra cô gái có chiếc áo lót mình màu đỏ, thường mặc sát vào người chưa lần nào cởi ra, ắt đó là chỗ yếu hại, có thể nắm lấy nó để uy hiếp. Nửa đêm cô gái tới, hỏi "Chủ nhân dặn anh bắt ta phải không?”, y đáp "Đúng là có chuyện đó, nhưng hai ta ân tình thắm thiết, nỡ nào ta chịu?". Kế đó cùng lên giường, y lén cởi chiếc áo lót, cô gái vội kêu lên, giãy giụa vùng ra chạy mất, từ đó biệt tăm luôn. Sau người đầy tớ từ nơi khác về, xa xa nhìn thấy cô gái ngồi cạnh đường, tới gần thì nàng lấy tay áo che mặt. Y xuống ngựa gọi rồi hỏi "Sao lại làm thế?”. Cô gái đứng dậy cầm tay y nói "Ta vẫn cho là chàng đã quên tình cũ, nay thấy có ý quyến luyến cố nhân thì có thể tha thứ. Chuyện trước đây là theo lệnh chủ nhân, cũng không trách chàng được. Nhưng duyên phận đã hết, nay có bữa tiệc nhỏ xin mời vào uống để chia tay”. Lúc ấy đang đầu mùa thu, lúa mì đang tốt, cô gái dắt y chui vào đám ruộng, thấy bên trong có một tòa phủ đệ lớn. Y buộc ngựa rồi vào, thấy trong sảnh đường đã bày đầy rượu thịt, ngồi vào bàn thì đám tỳ nữ liên tiếp đưa thức ăn lên. Mặt trời sắp lặn, người đầy tớ có việc phải về báo với chủ nhân bèn chia tay. Khi trở ra thấy vẫn là ruộng lúa mì như cũ. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 100 -[/B] Liên Thành (Liên Thành) Kiều sinh người huyện Tấn Ninh (tỉnh Vân Nam), thuở trẻ rất nổi tiếng. Năm hơn hai mươi tuổi tính gan dạ, chơi thân với Cố sinh, khi Cố mất thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan huyện lấy văn chương cùng sinh giao du thân mật, kế mất tại chức, gia đình nấn ná mãi không về được, sinh bỏ hết gia tài ra đưa linh cữu về quê quán, khứ hồi hơn hai ngàn dặm, vì thế sĩ lâm càng trọng, nhưng từ đó nhà cửa ngày càng sa sút. Hiếu liêm họ Sử có con gái tên Liên Thành, giỏi thêu thùa, lại biết chữ nên Hiếu liêm rất thương yêu, đem bức tranh Thiếu nữ ngồi thêu mỏi mệt của nàng thêu ra cho các văn sĩ thiếu niên đề vịnh, ý muốn qua đó kén rể. Sinh hiến bài thơ như sau: [I]Dung hoàn cao kết lục bà sa, Tảo hướng lan song tú bích hà Thích đáo uyên ương hồn dục đoạn Ám đình châm tiễn kiển song nga [/I] (Tóc xanh cao búi dáng thơ ngây Sáng tới song thêu cảnh ráng mây Thêu tới uyên ương hồn tựa đứt Lén ngừng kim chỉ khẽ chau mày Lại một bàì khen nàng thêu khéo rằng: [I]Tú tiễn khiêu lai tự tả sinh, Bức trung hoa điểu tự thiên thành Đương niên chức cẩm phi trường kỹ Hạnh bả hồi văn cảm thánh minh[/I] (Thêu như sống thật thấy tài chưa? Hoa điểu trời xanh há kém thua Hơn hẳn năm xưa người dệt gấm Hồi văn may được cảm lòng vua)[B]*[/B] *Tranh gấm... lòng vua: theo Trữ tình thi, đời Đường Vũ tông nàng họ Hầu có chồng là Trương Thấu làm tướng ra đồn thú ở biên cương mười năm không được về, nàng bèn thêu bài thơ hồi văn theo hình con rùa (tức bài thơ mà các dòng chữ đan chéo vào nhau trở đi trở lại tạo ra các ô hình quả trám giống mai rùa, chỗ nhô ra giống đầu rùa là chỗ bắt đầu bài thơ), tới cửa khuyết dâng lên Vũ tông, vua cảm động bèn cho Trương Thấu về. Cô gái được thơ mừng lắm, trước mặt cha cứ khen sinh nức nở, nhưng cha chê sinh nghèo. Nàng gặp ai cũng ca ngợi sinh, lại sai bà vú giả vâng lệnh cha đem tiền tặng giúp sinh học hành. Sinh than rằng "Liên Thành là tri kỷ của ta", từ đó trong lòng luôn mơ tưởng như kẻ khát muốn uống nước. Kế Sử Hiếu liêm nhận hứa gả nàng cho con nhà buôn muối Vương Hóa Thành, sinh mới tuyệt vọng, nhưng mộng hồn vẫn còn tơ tưởng. Ít lâu sau, nàng mắc bệnh nặng nằm liệt giường, có nhà sư Tây Vực nói mình có thể chữa được, nhưng phải có một đồng cân thịt ở ngực đàn ông để trộn thuốc. Sử sai người tới nhà họ Vương nói với con rể, con rể cười nói “Ông già ngây đòi cắt thịt ở ngực ta sao?". Người ấy về kể lại, Sử tức giận nói với mọi người rằng ai có thể cắt thịt cứu con gái thì sẽ gả nàng luôn cho. Sinh nghe tin tới nhà Sử, tự cầm đao bén cắt thịt trước ngực trao cho nhà sư máu ướt đẫm cả áo, nhà sư rịt thuốc cho mới hết. Nhà sư trộn thịt với thuốc thành ba viên cho uống trong ba ngày, cô gái liền khỏi bệnh. Sử định làm theo lời hứa, nhưng trước tiên cho họ Vương biết, Vương nổi giận định kiện. Sử bèn làm tiệc mời sinh, bày ngàn vàng trên án, nói “Mang ơn rất nặng, xin được báo đáp", rồi nói rõ lý do nuốt lời. Sinh không vui, nói "Ta sở dĩ không tiếc miếng thịt trên ngực là để báo đáp người tri kỷ chứ có bán thịt đâu”, rồi phẩy tay áo bỏ về. Cô gái nghe thấy trong lòng không nỡ, nhờ bà vú tới an ủi, lại nói "Tài hoa như chàng chắc không phải khổ lâu, lo gì trên đời thiếu giai nhân. Ta thường nằm mơ thấy điềm không lành, ba năm nữa ắt chết, chàng không cần tranh giành con người sắp chết này". Sinh nói với bà vú "Kẻ sĩ chết cho người biết mình chứ không vì sắc đẹp. Ta sợ Liên Thành chưa thật biết ta, chứ nếu nàng biết thật thì không lấy nhau cũng có hề gì". Bà vú thay nàng thề thốt bày tỏ lòng thành, sinh nói “Nếu đúng thế thì lúc nào gặp nhau, chỉ cần nàng cười với ta một cái thì dù chết cũng không ân hận gì", bà vú bèn trở về. Mấy hôm sau sinh tình cờ ra đường, gặp cô gái từ nhà chú về, đưa mắt liếc sinh nhoẻn miệng cười. Sinh cả mừng nói "Liên Thành quả thật biết ta". Gặp lúc họ Vương qua bàn chọn ngày đón dâu, bệnh cũ của cô gái lại phát, vài tháng thì chết. Sinh tới viếng tang, đau lòng gào lớn một tiếng rồi chết luôn. Sử cho khiêng về nhà, sinh tự biết mình đã chết nhưng cũng không buồn bã gì, cứ đi ra khỏi thôn, muốn gặp Liên Thành một lần. Xa thấy trên đường phía tây bắc người đi nườm nượp như kiến, sinh trà trộn chen lẫn vào đó. Giây lát vào một dinh thự gặp ngay Cố sinh. Cố kinh ngạc hỏi "Sao ông lại tới đây?", rồi lập tức cầm tay sinh định dắt về. Sinh thở dài nói tâm nguyện còn chưa xong, Cố nói “Ta coi sổ sách ở đây cũng được tín nhiệm, nếu giúp đỡ đỡ gì thật không dám tiếc". Sinh hỏi Liên Thành, Cố lập tức dẫn đi, qua mấy nơi thì thấy Liên Thành cùng một nữ lang áo trắng đang buồn bã ngồi ở góc hành lang. Nàng thấy sinh tới đứng bật dậy như rất mừng rỡ, hỏi sao tới đây. Sinh đáp "Nàng chết, ta đâu dám sống". Liên Thành khóc nói “Kẻ phụ nghĩa thế này còn không phỉ nhổ bỏ đi, chết theo làm gì? Nhưng đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, thề kiếp sau sẽ báo đáp". Sinh nói với Cố “Ông có việc xin cứ đi, ta vui sướng được chết chứ không thích sống nữa, nhưng phiền ông tra lại sổ sách xem Liên Thành thác sinh ở đâu để ta đi theo”, Cố gật đầu rồi đi. Nữ lang áo trắng hỏi sinh là ai, Liên Thành kể lại, nữ lang nghe xong như cũng ngậm ngùi. Liên Thành nói với sinh "Nàng này cùng họ với thiếp, tên Tân Nương, con gái quan Thái thú Trường Sa, cùng đi một đường tới đây nên rất thương yêu nhau”. Sinh liếc thấy nàng có vẻ dễ thương, đang định hỏi rõ hơn thì Cố đã quay lại nhìn sinh chúc mừng "Ta đã lo liệu cho ông xong rồi, nương tử đây nay được theo ông hoàn hồn, được chứ?". Hai người cùng mừng rỡ, đang định từ biệt thì Tân Nương khóc lớn nói “Chị đi thì em biết về đâu? Xin rủ lòng thương xót cứu cho em được theo hầu”. Liên Thành thương xót nhưng không biết làm sao, quay qua bàn với sinh, sinh lại năn nỉ Cố. Cố tỏ vẻ khó khăn, nói là không được, sinh năn nỉ mãi bèn nói "Để ta thử làm bừa xem sao" rồi đi. Khoảng ăn xong bữa cơm thì quay lại xua tay nói "Biết mà, thật là vạn phần không sao giúp được". Tân Nương nghe thế nghẹn ngào khóc lóc, cứ nép vào Liên Thành chỉ sợ nàng đi mất, buồn bã không biết làm sao, chỉ nhìn nhau im lặng, nét mặt thê thảm khiến người ngoài cũng phải mủi lòng. Cố sinh phát phẫn nói “Thôi ông cứ đưa Tân Nương theo, nếu chẳng may có chuyện gì tiểu sinh xin chịu hết", Tân Nương mới mừng rỡ theo sinh ra. Sinh lo cho nàng đường xa không có ai đi cùng, Tân Nương nói "Thiếp đi theo chàng chứ không muốn về nhà". Sinh nói "Nàng ngây quá, không về thì làm sao sống lại được. Ngày khác ta tới Hồ Nam, xin đừng lánh mặt là may rồi". Vừa lúc có hai bà già nhận trát tới Tràng Sa, sinh gởi Tân Nương theo, Tân Nương khóc từ biệt lên đường. Trên đường về Liên Thành đi rất chậm, cứ hơn dặm lại nghỉ, nghỉ hơn mười lần mới thấy cổng làng. Liên Thành nói "Sau khi sống lại e lại có chuyện lật lọng, xin cứ đòi lấy xác thiếp, thiếp sống lại ở nhà chàng mới không phải ăn năn về sau”, sinh cho là đúng. Bèn cùng nhau về nhà sinh, cô gái run rẩy như không đi nổi, sinh phải đứng lại chờ. Nàng nói "Thiếp tới đây thấy chân tay run rẩy như không tự chủ được, e không được toại nguyện, phải bàn bạc thật kỹ, nếu không thì sau khi sống lại làm sao theo ý mình được?". Hai người cùng vào gian phòng cạnh nơi quàn quan tài, im lặng một lúc thì Liên Thành cười hỏi "Chàng có ghét thiếp không?”. Sinh ngạc nhiên hỏi sao nói thế, nàng thẹn thùng đáp “Sợ việc không xong thì lại phụ chàng lần nữa, xin lấy hồn báo đáp chàng trước". Sinh mừng rỡ, cùng nàng giao hoan hết sức đằm thắm, vì vậy lưu luyến không rời, ở cùng nhau luôn ba ngày. Liên Thành nói "Lời ngạn có câu Nàng dâu có xấu cũng phải ra mắt cha mẹ chồng, cứ bịn rịn ở đây không phải là kế lâu dài”, rồi nàng giục sinh vào nhập hồn, vừa tới cạnh quan tài thì sinh giật mình sống dậy. Người nhà kinh ngạc lấy nước cháo đổ cho, sinh bèn sai người mời Sử tới, xin cho được đem xác Liên Thành về, nói là có thể làm cho nàng sống lại. Sử mừng rỡ theo lời, vừa khiêng nàng tới nhà sinh, nhìn lại thì đã sống lại. Nàng nói với cha rằng "Con đã trao thân cho Kiều lang, không có lý nào trở về, nếu có chuyện gì thay đổi thì chỉ có chết mà thôi", Sử về sai tớ gái qua hầu hạ nàng. Họ Vương nghe tin làm đơn kiện, quan ăn hối lộ xử bắt nàng về lại nhà Vương. Sinh phẫn hận muốn chết, nhưng cũng không biết làm sao. Liên Thành tới nhà Vương, phẫn uất bỏ ăn uống, chỉ mong chết ngay, cứ lúc vắng người là treo cổ lên xà nhà. Qua hôm sau bệnh càng nặng, hơi thở thoi thóp, Vương sợ đưa nàng về nhà Sử, Sử lại cho khiêng về nhà sinh, Vương biết nhưng đành phải bỏ đó. Liên Thành khỏi bệnh, thường nhớ Tân Nương, muốn gởi thư thăm hỏi nhưng vì đường xa đi lại khó khăn. Một hôm gia nhân vào thưa ngoài cổng có xe ngựa khách lạ, vợ chồng chạy ra xem thì Tân Nưong đã vào tới sân, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Quan Thái thú đích thân đưa con gái tới, sinh mời vào nhà. Thái thú nói “Tiểu nữ nhờ ông mà được sống lại, thề không lấy ai khác, hôm nay ta làm theo ý nó", sinh bèn vái lạy theo lễ con rể cha vợ. Sử Hiếu liêm cũng tới ba nhà đoàn tụ rất vui vẻ. Sinh tên Niên, tự Đại Niên. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Một nụ cười mà biết nhau, đem thân theo về, người đời có kẻ cho là ngây, nhưng như thế thì chẳng lẽ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Điền Hoành[B]*[/B] đều ngu cả sao? Đó là bởi người biết mình rất ít nên lấy làm quý, bậc hào kiệt vì thế mà cảm động không thể làm chủ được. Ngoảnh nhìn bốn biển mênh mang, những bậc anh tài đều xiêu lòng vì một cái cười của người đẹp thôi, nghĩ đáng buồn thay.[/I] *Năm trăm... Điền Hoành: Điền Hoành là tướng nước Tề thời Hán Sở tranh hùng. Khi tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Tề, Điền Hoành hết sức chống cự không được bèn dẫn năm trăm tráng sĩ dưới quyền ra hải đảo sống, nhất định không chịu theo Hán. Sau Lưu Bang đánh bại được Hạng Vũ, sợ Điền Hoành gây loạn bèn sai người ra ép Hoành về kinh. Hoành tới nơi không chịu đầu hàng, Lưu Bang sai giết, kế lại sai người ra chiêu dụ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Hoành. Năm trăm người nghe tin Hoành chết đều lần lượt đâm cổ tự tử, nhất định không theo nhà Hán. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 101 - 102 -[/B] Uông Sĩ Tú (Uông Sĩ Tú) Uông Sĩ Tú người đất Lô Châu (huyện Hợp Phì tỉnh An Huy), tính gan dạ khỏe mạnh, có thể nhấc được cái cối đá. Cha con đều giỏi đá cầu, năm cha hơn bốn mươi tuổi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đi Hồ Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc ấy trăng rằm mọc ở phía đông, mặt nước phẳng lặng như tấm lụa. Uông đang ngắm cảnh chợt có năm người dưới hồ nhô lên, cắp theo chiếc chiếu to trải lên mặt hồ, rộng chừng nửa mẫu, rồi lăng xăng bày rượu thịt, cốc chén va nhau thành tiếng nhưng không vang như tiếng sành sứ. Bày xong, ba người ngồi xuống, hai người hầu rượu. Trong ba người ngồi có một mặc áo vàng, hai mặc áo trắng, đều đội khăn đen cao vót, phía dưới liền luôn với vai áo, kiểu dáng rất kỳ lạ nhưng ánh trăng chập chờn không sao nhìn rõ. Hai người hầu đều mặc áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già. Chỉ nghe người áo vàng nói "Đêm nay trăng đẹp quá, phải uống thật say” Người áo trắng nói "Phong cảnh đêm nay giống hệt hôm Quảng Lợi vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa". Ba người chuốc rượu lẫn nhau, uống rất ngon lành nhưng nói hơi khẽ nên không nghe thấy gì nữa. Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha nhưng nghe giọng nói lại không phải. Sắp hết canh hai, chợt một người nói "Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đá cầu một lúc cho vui". Lập tức thấy đứa tiểu đồng nhảy xuống nước mang lên một vật hình tròn to đầy một ôm, bên trong như chứa thủy ngân, trong ngoài sáng quắc. Ba người ngồi đứng cả dậy, người áo vàng gọi ông già cùng đá, quả cầu bay cao hơn trượng, lấp loáng chói mắt. Chợt nghe "bình" một tiếng, quả cầu bay ra xa lọt vào thuyền. Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy mềm nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá vỡ, quả cầu vọt lên gần một trượng, chất sáng bên trong bắn ra rót xuống như cầu vồng rồi rơi mau xuống, quả cầu cũng như ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, kêu ùng ục rồi mất tăm. Mấy người trên tiệc đều nổi giận nói “Thằng tục tử nào làm bọn ta mất hứng thế?” Người hầu già cười nói “Không kém không kém, đó là ngón Quặt sao băng của nhà ta đấy” Người áo trắng bực giọng bỡn cọt ấy, túc giận nói “Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám đùa hả? Mau cùng thằng nhỏ qua bắt tên ngông cuồng lại đây, không thì đầu gối sẽ được ăn chùy đấy". Uông thấy không còn chỗ nào trốn được nên cũng không sợ nữa, xách đao ra đứng giữa thuyền. Thấy ông già và đứa tiểu đồng cầm binh khí tới, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội gọi lớn "Cha ơi! Con đây mà!". Ông già cả sợ nhìn con buồn thảm, đứa tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già nói "Con trốn ngay đi, nếu không thì chết cả hai cha con bây giờ”. Chưa dứt lời thì cả ba người kia đã lên tới trên thuyền, người nào cũng mặt mũi đen sì, mắt to hơn trái lựu, túm lấy ông già lôi đi. Uông cố sức giằng lại, thuyền chòng chành đứt cả dây neo. Uông dùng đao chém vào tay họ, một cánh tay rơi xuống, người áo vàng bỏ chạy. Một người áo trắng sấn vào Uông, Uông chém sả vào đầu, y rơi tõm xuống nước, cả bọn biến mất. Uông định giong thuyền đi luôn trong đêm thì thấy có cái mõm to nhô lên mặt nước, sâu rộng như cái giếng, nước hồ bốn bên rót vào, réo lên ào ào. Lát sau nó phun nước ra, sóng cao tận sao trời, hàng vạn chiếc thuyền cùng chòng chành, người trên hồ đều khiếp đảm. Trên thuyền có hai cái trống đá đều nặng cả trăm cân, Uông nhấc một cái ném xuống đánh ầm như sét, sóng nước êm dần, ném luôn cái nữa thì sóng gió tắt hết. Uông ngờ cha là ma, ông già nói “Số ta chưa chết, mười chín người cùng đắm thuyền đều bị yêu quái ăn thịt, ta nhờ biết đá cầu nên được toàn tính mạng. Bọn yêu đắc tội với Long quân sông Tiền Đường nên trốn qua hồ Động Đình này, cả ba đều là cá thành tinh, quả cầu kia là bong bóng cá". Cha con vui mừng, đang đêm chèo thuyền đi ngay. Trời sáng thấy trong thuyền có cái vây cá đường kính tới bốn năm thước, chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứt được đêm qua. [B]102. Tiểu Nhị[/B] [B] (Tiểu Nhị)[/B] Triệu Vượng người huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông), vợ chồng đều thờ Phật, không ăn mặn, người trong vùng xếp vào hạng thiện nhân. Nhà cũng khá giả, có một con gái tên là Tiểu Nhị rất thông minh xinh đẹp, Triệu rất thương yêu. Năm nàng sáu tuổi, được cho theo anh là Trường Xuân cùng đi học, qua năm năm thì thuộc làu cả Ngũ kinh. Có Đinh sinh là bạn học, lớn hơn ba tuổi, dáng người nho nhã phong lưu rất say mê nàng, nói với mẹ tới cầu hôn với họ Triệu, nhưng Triệu muốn gả nàng cho nhà đại gia nên chối từ. Không bao lâu Triệu bị Bạch Liên giáo mê hoặc, khi Từ Hồng Nho làm phản, cả nhà đều theo giặc. Tiểu Nhị học giỏi thông minh, phàm những phép thuật cắt giấy làm quân, rải đậu làm ngựa cho qua là hiểu ngay. Có sáu cô gái nhỏ theo làm đồ đệ của Từ thì nàng giỏi nhất, nhờ vậy họa được hết phép thuật của Từ. Triệu nhờ có con gái như vậy nên được Từ trọng dụng. Năm ấy Đinh mười tám tuổi, đã vào học trường huyện nhưng không chịu cưới vợ vì không quên Triệu Nhị, bèn ngầm trốn đi tới xin làm quan của Từ. Cô gái gặp Đinh rất mừng rỡ, đối xử trọng hậu khác hẳn người thường. Cô gái vì là học trò giỏi của Từ, được coi sóc việc cơ nên đi đêm về hôm cha mẹ cũng không ngăn cấm được. Đêm nào nàng cũng gặp Đinh, thường đuổi hết những người hầu đi, đến canh ba mới về. Đinh nói riêng với nàng rằng "Tiểu sinh tới đây, nàng có biết ý mọn là gì không?", cô gái đáp không biết. Đinh đáp "Ta không phải muốn cầu danh vị, sở dĩ tới đây thật ra cũng vì nàng mà thôi. Bọn tả đạo chẳng làm được chuyện gì đâu, chỉ chuốc lấy diệt vong thôi, nàng là người thông tuệ mà không nghĩ tới điều đó sao? Nếu trốn đi với ta, thì quyết không phụ nhau”. Cô gái sực nghĩ ra, chợt như tỉnh mộng, nói “Bỏ cha mẹ mà đi thì bất nghĩa, xin để ta nói với hai người đã". Rồi vào trình bày lợi hại, Triệu không nghe, nói "Thầy ta là bậc thần nhân, há lại lầm lẫn sao?”. Nàng biết không thể can ngăn, bèn búi tóc lại lấy ra hai con diều bằng giấy rồi cùng Đinh mỗi người cưỡi lên một con, diều vỗ cánh phành phạch như gọi nhau rồi sát cánh bay lên. Đến sáng tới địa giới huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông), nàng lấy ngón tay búng vào cổ diều, hai con diều xếp cánh hạ xuống. Cô gái cất diều đi, lấy ra hai cỗ lừa rồi cùng tới làng Sơn âm, nói thác là người chạy loạn, thuê nhà ở lại đó. Hai người vội vã ra đi nên không mang theo bao nhiêu tiền bạc, củi nước không đủ, Đinh rất lo lắng, nhưng hỏi láng giềng chẳng ai chịu cho vay mượn. Cô gái lại không hề tỏ vẻ lo buồn, cứ cầm bán vòng xuyến, đóng cửa ở yên với nhau. Đêm đến vặn nhỏ đèn ngồi nhớ lại những sách đã học. Láng giềng bên tây họ Ông, là kẻ kiệt hiệt trong bọn lục lâm, một hôm về nhà, cô gái nói "Có láng giềng như thế ta còn lo gì nữa. Hãy mượn ngàn vàng, liệu y cho không?”. Đinh cho là khó, cô gái nói “Ta sẽ bắt y tình nguyện đưa chứ”. Rồi cắt giấy làm hình Phán quan âm ty đặt dưới đất, lấy cái lồng gà úp lên rồi kéo Đinh lên giường hâm rượu uống. Lấy sách [I]Chu lễ[/I] làm tửu lệnh, cứ nói quyển ấy trang nào dòng nào rồi cùng mở ra xem, ai được chữ có bộ [I]thực[/I] (ăn), bộ [I]thủy[/I] (nước), bộ [I]dậu[/I] (như chữ tửu) thì phải uống, được chữ [I]tửu[/I] (rượu) thì phải uống gấp đôi. Kế cô gái được chữ [I]tửu[/I], Đinh lấy chén lớn rót đầy rượu bắt uống ngay, nàng bèn khấn “Nếu mượn được vàng về thì chàng phải được bộ [I]ẩm[/I]”. Đinh giở sách được chữ [I]miết[/I] (ba ba), cô gái cười lớn nói “Chàng được chữ miết, phải uống say như con ba ba". Đang tranh cãi ầm lên chợt nghe trong cái lồng gà có tiếng lạch cạch, cô gái bước xuống nói “Tới rồi", rồi mở ra xem thì thấy vàng nén chất đống, Đinh vô cùng kinh ngạc mừng rỡ. Về sau bà vú nhà họ Ông bế trẻ qua chơi, nói vụng rằng “Chủ nhân vừa về tới nhà, đang đốt đèn ngồi chợt mặt đất xé ra sâu không biết là bao nhiêu, có một vị Phán quan từ dưới bước lên nói ‘Ta là sai dịch dưới âm ty. Thái Sơn Đế quân hội các ty tào ở âm phủ làm quyển sách ghi chép tội ác của bọn trộm cướp, làm một ngàn ngọn đèn mỗi ngọn nặng mười lượng vàng, người nào cúng một trăm ngọn thì dược xóa hết tội lỗi’. Chủ ta sợ quá thắp hương khấn khứa rồi cúng một ngàn lượng vàng. Phán quan cầm lấy bước xuống dưới, mặt đất lại khép lại”. Hai vợ chồng nghe thế cố ý tặc lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc. Từ đó dần dần mua trâu ngựa, nuôi đầy tớ, xây nhà cửa. Bọn vô lại trong làng thấy giàu có bèn họp đảng nhân đêm tới đánh cướp nhà Đinh. Vợ chồng Đinh vừa tỉnh giấc thì thấy đèn đuốc sáng rực, bọn cướp đã đứng đầy trong nhà. Hai tên bắt lấy Đinh, lại một tên khác thò tay vào bụng cô gái, cô gái vùng ra chỉ tay quát "Đứng im", tất cả mười ba tên cướp đều trợn mắt đớ lưỡi đứng sững ra như tượng gỗ. Cô gái mới mặc áo bước xuống giường gọi gia nhân, trói cả bọn lại hỏi cung rõ ràng xong bèn nói "Người ở phương xa tới nương náu, lẽ ra phải giúp đỡ, sao lại bất nhân như thế? Người ta ai cũng có lúc này lúc khác, các ngươi cùng quẫn thì cứ nói rõ, ta há lại nỡ giàu có đủ ăn một mình sao? Cái thói sài lang lẽ ra phải giết hết, nhưng ta không nỡ, hãy tạm tha cho một lần, nếu tái phạm sẽ không tha đâu”, bọn cướp dập đầu lạy tạ rồi đi. Không bao lâu Từ Hồng Nho bị bắt, vợ chồng và con trai họ Triệu đều bị chém, sinh bỏ tiền tới xin chuộc đứa con nhỏ của Trường Xuân mang về. Đứa nhỏ lúc ấy ba tuổi, Đinh nuôi nấng như con ruột, cho lấy họ Đinh, đặt tên là Thừa Triệu, từ đó người làng dần dần biết nó là hậu duệ của Bạch Liên giáo. Gặp lúc có cào cào phá lúa, cô gái lấy giấy cắt làm mấy trăm con ó thả trên ruộng, cào cào đều tránh xa không dám vào ruộng nhà, nhờ thế không bị tổn hại gì. Người làng đều ghen ghét kéo nhau lên thưa quan rằng nàng là dư đảng của Từ Hồng Nho, quan thấy nhà Đinh giàu cũng muốn làm tiền, bèn bắt Đinh. Đinh đem nhiều tiền lo lót với quan mới được thả. Cô gái nói "Lui tới buôn bán là kế tạm bợ, thế nào cũng bị tổn thất, mà đây là nơi làng xóm rắn rết, không thể ở lâu được”. Nhân bán hết cơ nghiệp dời đi, tới ở ngoài cửa Tây huyện thành. Cô gái là người lanh lợi khéo léo, giỏi buôn bán, làm ăn còn hơn cả đàn ông. Mở xưởng làm đồ pha lê, chỉ vẽ cho thợ cách làm, hàng làm ra đều tinh xảo đẹp đẽ những xưởng khác không sao bằng được, vì vậy bán giá cao mà vẫn chạy. Được vài năm càng thêm giàu có, nhưng cô gái đốc thúc tôi tớ rất nghiêm, nhà có hàng trăm người ăn nhưng không ai dám lười biếng. Lúc rảnh thường cùng Đinh pha trà đánh cờ hoặc đọc sách làm vui. Từ tiền gạo thu chi cho tới công việc tôi tớ cứ năm ngày lại xem xét một lần, cô gái cầm thẻ, Đinh thì ghi sổ, đọc rõ từng việc. Người siêng năng thì thưởng theo thứ bậc, người lười biếng thì đánh roi bắt quỳ, ngày hôm ấy thì không làm việc ban đêm, vợ chồng dọn rượu thịt gọi gia nhân vào ăn uống hò hát làm vui. Cô gái xét việc sáng suốt như thần, mọi người không ai dám lừa dối nhưng nàng thường công xứng đáng nên công việc đều trót lọt. Trong làng có hơn hai trăm nhà, nhà nào nghèo thì giúp vốn cho làm ăn, nhờ thế vùng ấy không có ai lười biếng rong chơi. Gặp lúc đại hạn, nàng bảo người trong thôn đắp đàn ngoài ruộng, đang đêm ngồi kiệu ra đó lên đàn làm phép đảo vũ, lập tức mưa ngọt đổ xuống, trong năm dặm đều ngập bàn chân, mọi người càng cho là thần. Cô gái ra ngoài ít khi che mặt, người trong làng đều nhìn thấy, có bọn thiếu niên tụ tập bàn vụng rằng nàng đẹp nhưng khi gặp nàng đều kính cẩn không dám nhìn thẳng mặt. Cứ tới mùa thu lại cho tiền bọn trẻ con chưa đủ sức làm ruộng trong thôn thuê cắt cỏ đồ tô, qua hai mươi năm chất đống đầy trong nhà, người ta trộm chê cười. Gặp lúc Sơn Đông đói kém, người ta phải ăn thịt nhau, cô gái đem cỏ nấu cháo cấp cho kẻ đói, các thôn chung quanh đều nhờ vào đó mà sống, không ai phải bỏ đi. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Những điều Tiểu Nhị làm đều là nhờ sức trời chứ không phải là sức người làm được. Nhưng nếu không có một lời nói của Đinh sinh làm cho tỉnh ngộ, thì đã chết lâu rồi. Từ đó mà xem thì những người ôm cái tài phi thường trên đời song lầm lẫn nhập đảng với bọn xấu mà chết chắc cũng không ít. Biết đâu trong sáu người bạn cùng học với Tiểu Nhị cũng có người như nàng, khiến người ta phải hận vì họ không gặp được người như Đinh sinh vậy.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 103 - 104 -[/B] Canh Nương (Canh Nương) Kim Đại Dụng là con nhà thế gia cũ ở Trung Châu (tỉnh Hà Nam), cưới con gái quan Thái thú họ Vưu tên Canh Nương, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Vì có bọn giặc nổi loạn, mọi người đều bỏ nhà tìm nơi trốn tránh, Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng dắt vợ chạy loạn, tự nói là Vương Thập Bát ở đất Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), tình nguyện dẫn đường. Kim vui mừng, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau. Tới Hà Thượng, Canh Nương nói thầm với chồng “Đừng đi chung thuyền với người này. Yđã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường", Kim ưng thuận. Nhưng Vương đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp, rất là sốt sắng nên Kim không nỡ từ chối để đi riêng. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Vương cùng ngồi với Canh Nương trong thuyền, thấy ý tứ cũng hiền hậu dịu dàng, Vương thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu. Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Kim nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Vương mời cha con Kim ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Kim xuống sông. Cha Kim nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Kim nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Vương mới kêu cứu. Lúc mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã rình thấy mọi việc, kế nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói “Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?". Vương vào thuyền khuyên "Nương tử đừng lo, xin theo ta về Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại". Nàng nín khóc nói "Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi", Vương cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Vương bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói "Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra". Vương đánh vợ, vợ la lớn "Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người". Vương tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Vương kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi. Không bao lâu tới Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Vương nói “Vợ con chết đuối, mới lấy người này”. Về tới phòng riêng, Vương lại muốn giở trò này nọ, Canh Nương cười nói “Đàn ông ngót ba chục tuổi mà còn chưa biết xử sự. Cho dù là mua tỳ thiếp thì đêm thành thân cũng phải có chén rượu nhạt, nhà anh giàu có thì chuyện ấy cũng không khó, chứ lặng ngắt nhìn nhau thì còn ra thể thống gì?”. Vương mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Canh Nương nâng chén mời rất ân cần. Vương dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Vương không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Canh Nương dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Vương. Vương còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Canh Nương ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Vương không chết ngay, rú lên vùng dậy, nàng bồi thêm nhát nữa mới chết. Mẹ Vương nghe có tiếng chạy qua hỏi, nàng cũng giết nốt. Em trai Vương là Thập Cửu biết chuyện chạy tới, Canh Nương tự biết không thoát được vội tự tử nhưng lưỡi dao đã cùn không cứa sâu được, vội mở cửa bỏ chạy. Thập Cửu đuổi tới thì nàng đã nhảy xuống ao rồi. Thập Cửu gọi láng giềng cứu lên thì nàng đã chết nhưng dung mạo vẫn tươi đẹp như khi còn sống. Mọi người cùng vào xem xác Vương, thấy có bức thư trên cửa sổ, mở ra xem thì là thư của nàng kể rõ sự oan khổ, đều cho rằng nàng trinh liệt, bàn nhau góp tiền chôn cất. Sáng ra có mấy ngàn người tới xem, nhìn thấy dung mạo nàng đều vái lạy. Trọn ngày thì quyên được trăm lượng vàng, chôn nàng ở phía nam thành, những kẻ hiếu sự còn đem mão ngọc áo bào liệm cho nàng, xây mộ rất to cao. Lúc trước Kim sinh rơi xuống sông bám được tấm ván trôi trên sông nên không chết, chiều hôm sau trôi tới Hoài Thượng thì gặp một chiếc thuyền nhỏ vớt lên. Thuyền này là của nhà phú hộ họ Doãn đặt trên sông để cứu người chết đuối, Kim tỉnh lại rồi bèn tới tạ ơn ông Doãn, ông đối xử rất tử tế, giữ Kim ở lại nhờ dạy con mình học. Kim không rõ cha mẹ sống chết ra sao, đang còn ngần ngại chưa quyết thì có người tới thưa ông Doãn rằng vừa vớt được xác hai ông bà già. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy tới nhìn mặt quả đúng. Ông Doãn sắm quan tài chôn cất cho, sinh đang đau đón khóc lóc, lại nghe báo vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim sinh. Kim giật mình gạt lệ ra xem thì người đàn bà đã tới, không phải Canh Nương mà là vợ Vương Thập Bát. Nàng nhìn Kim khóc lớn, nói xin đừng bỏ nhau. Kim nói “Ta đang lúc lòng dạ rối bời, còn rảnh đâu mà lo cho vợ người khác?”, nàng càng đau xót. Doãn hỏi rõ đầu đuôi, mừng là đạo trời báo ứng, khuyên Kim lấy nàng làm vợ. Kim chối từ nói đang có tang, vả lại đang định báo thù cho cha mẹ, sợ nàng yếu ớt sẽ bị liên lụy. Nàng nói "Nói như chàng thì giả như Canh Nương còn sống chàng cũng vì việc cư tang và báo thù mà bỏ hay sao?”. Doãn khen lời ấy, xin tạm thu dưỡng nàng thay, Kim mới ưng thuận. Hôm chôn cất cha mẹ Kim nàng cũng mặc tang phục khóc lóc như là cha mẹ chồng thật. Chôn cất xong, Kim định giắt dao đeo bị xin ăn tìm tới Quảng Lăng, nàng ngăn lại nói "Thiếp họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với gã lang sói ấy, lúc trước y nói ở Quảng Lăng là dối trá. Vã lại bọn thủy khấu chốn sông hồ có một nửa là đồng đảng của y, coi chừng thù không trả được mà rước vạ vào thân”. Kim ngần ngừ không biết tính sao, chợt có tin đồn về chuyện cô gái giết chết kẻ thù, khắp một vùng sông hồ đều xôn xao, nói rõ ràng cả tên họ. Kim nghe được một phen hả dạ nhưng càng đau đớn, chối từ không lấy Đường thị, nói "May mà ta không bị mang nhục, nhưng trong nhà có người vợ trinh liệt như thế thì đâu nỡ phụ lòng mà cưới vợ nữa”. Đường thị nói đã bàn bạc thành chuyện rồi, không chịu giữa đường chia tay, nguyện làm nàng hầu vợ lẽ. Gặp lúc có Phó Tướng quân họ Viên quen biết Doãn, nhân lên đường phó nhiệm ở miền tây ghé thăm, gặp Kim rất thích, mời theo làm Ký thất. Không bao lâu sau giặc cướp nổi loạn phạm vào kinh đô, Viên đánh dẹp lập công lớn, Kim cũng tham dự việc quân cơ, được bảo cư phong chức Du kích trở về, lúc ấy vợ chồng mới làm lễ thành thân. Vài hôm sau Kim dắt vợ đi Kim Lăng viếng mộ Canh Nương, ngang huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) định lên Kim Sơn ngắm cảnh. Đang xuôi dòng chợt có chiếc thuyền đi ngược chiều, trong có một bà già và một thiếu phụ, ngạc nhiên vì thấy thiếu phụ rất giống Canh Nương. Thuyền Kim lướt mau qua, thiếu phụ nhô ra cửa sổ nhìn Kim, càng thấy thần thái giống nàng. Kim kinh ngạc ngờ vực không dám đuổi theo hỏi, vội gọi lớn “Nhìn lũ vịt con đang bay trên trời kìa” Thiếu phụ nghe thấy cũng lớn tiếng gọi "Chó con lại muốn ăn thịt mèo sao?", đó là lời nói lóng của vợ chồng vẫn đùa nhau trong phòng riêng ngày xưa. Kim giật mình cho quay chèo đuổi theo, tới gần thì quả là Canh Nương. Con hầu đỡ Canh Nương qua thuyền Kim, vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, người trên thuyền đều thương cảm. Đường thị lấy lễ vợ thiếp chào Canh Nương, Canh Nương ngạc nhiên hỏi, Kim bèn kể lại mọi chuyện. Canh Nương cầm tay Đường thị nói "Trò chuyện một lần với nhau trên thuyền, lòng vẫn không quên, không ngờ nay lại được Hồ Việt một nhà. Đội ơn thay mặt chôn cất cha mẹ chồng, lẽ ra ta phải tạ ơn trước, sao lại làm lễ với nhau như thế?”. Bèn so tuổi tác Đường thị kém một tuổi nên làm em. Trước là canh Nương đã được chôn cất, cũng không tự biết đã bao lâu, chợt nghe có người gọi nói "Canh Nương, chồng ngươi không chết đâu, rồi vợ chồng sẽ được sum họp”, liền thấy như vừa tỉnh mộng. Sờ thấy bốn phía đều là vách tường, mới hiểu ra rằng mình chết đi đã được chôn, nhưng chỉ thấy hơi buồn bực chứ cũng không có gì khổ sở. Có bọn thiếu niên bất lương biết nàng có nhiều vật tùy táng quý giá bèn đào mộ phá quan tài, đang định tìm tòi nhặt nhạnh thì thấy Canh Nương vẫn còn sống, cả bọn đều khiếp đảm. Canh Nương sợ chúng làm hại nên năn nỉ, nói "May có các ông tới nên ta lại được nhìn thấy mặt trời, bao nhiêu trâm vòng xin cứ lấy hết, xin đem bán ta cho chùa làm ni cô thì có thể cũng được thêm ít nhiều, ta không nói lộ ra với ai đâu" Bọn trộm dập đầu nói "Nương tử trinh liệt, thần người đều khâm phục. Bọn tiểu nhân chẳng qua vì nghèo túng hết cách sống mà phải làm việc bất nhân này, chỉ cần nương tử không nói lộ ra là may lắm rồi, chứ đâu dám bán nương tử làm ni cô". Canh Nương đáp "Đó là tự ta muốn mà”. Một tên nói "Cảnh phu nhân ở Trấn Giang góa chồng mà không có con, nếu gặp được nương tử ắt là mừng lắm". Canh Nương tạ ơn rồi tự tháo hết các vật châu báu trang sức ra đưa, bọn trộm không dám nhận. Nàng cố ép, cả bọn cùng lạy tạ nhận lấy rồi chở nàng đi. Tới nhà Cảnh phu nhân, họ nói thác rằng nàng bị gió bạt thuyền lạc tới đây. Cảnh phu nhân nhà giàu có mà lớn tuổi góa chồng vò võ một mình, gặp Canh Nương cả mừng, coi như con đẻ, hôm ấy là hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về. Canh Nương kể hết đầu đuôi xong, Kim bèn qua thuyền lạy mẹ. Phu nhân tiếp đãi như con rể, mời tới nhà chơi mấy ngày mới cho về từ đó vợ chồng qua lại nhà bà luôn luôn. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Trước biến cố lớn, kẻ dâm thì cầu sống mà người trinh thì thà chết, kẻ sống thì khiến người ta xốn mắt, người chết thì khiến người ta rơi lệ vậy. Đến như cười nói không sợ, vung đao báo thù thì các bậc trượng phu nghĩa liệt ngàn xưa cũng có mấy người sánh được? Ai nói đàn bà con gái không thể theo kịp bậc anh hùng. [/I] [B]104. Cung Mộng Bật [/B] [B](Cung Mộng Bật)[/B] Liễu Phương Hoa người Bảo Định (tỉnh thành Hà Bắc), giàu có nhất vùng, tính phóng khoáng hiếu khách, trên tiệc thường có hàng trăm người. Giúp người nguy cấp thì ngàn vàng cũng không tiếc, bạn bè khách khứa vay mượn không trả là thường. Liễu chỉ có một người khách tên Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây là không hề nhờ vả xin xỏ gì, mỗi lần tới chơi thì ở lại cả năm, ngôn ngữ trang nhã, phong thái tiêu sái, Liễu cùng ăn ở chuyện trò nhiều nhất. Con trai Liễu tên Hòa, lúc ấy còn nhỏ, gọi Cung là chú, Cung cũng thích đùa giỡn với Hòa. Mỗi lần Hòa ở trường học về thì cùng gỡ gạch lát dưới nền nhà lên vùi đá sỏi xương giả như chôn giấu vàng bạc làm vui. Nhà có năm gian, đào bới chôn giấu khắp cả. Mọi người cười là tính khí trẻ con nhưng Hòa lại rất yêu thích Cung, thân thiết với Cung hơn tất cả mọi người. Hơn mười năm sau nhà sa sút dần, không thể thỏa mãn lòng mong cầu của nhiều người nên khách thưa dần, nhưng vẫn thường có mười mấy người hội họp chuyện trò đến sáng. Đến lúc Liễu già thì nhà ngày càng sa sút, nhưng còn cắt ruộng đất bán được tiền mà đãi khách. Hòa cũng phung phí, theo gương cha mời thết đám bạn nhỏ, Liễu cũng không ngăn cấm. Không bao lâu Liễu bệnh chết, nhà nghèo đến nỗi không mua được quan tài. Cung bèn bỏ tiền túi ra lo liệu việc tang cho Liễu, Hòa càng biết ơn, việc lớn nhỏ gì cũng nhờ chú Cung. Mỗi lần Cung đi đâu về ắt có cất gạch đá trong tay áo, vào tới nhà thì ném vào những chỗ khuất, chẳng ai hiểu để làm gì. Hòa trò chuyện với Cung thường lo nghèo khổ, Cung nói “Cháu không biết cái khó nhọc của việc kiếm tiền, đừng nói là không có tiền, dù có ngàn vàng đưa cháu cũng sẽ hết sạch ngay. Kẻ nam nhi chỉ lo không tự lập thân được chứ lo gì nghèo?". Một hôm Cung từ giã, Hòa khóc dặn trở lại mau, Cung ừ rồi đi. Hòa nghèo quá không đủ sống, trong nhà còn món gì cứ đem cầm bán, dần dần hết sạch. Hàng ngày mong Cung tới lo toan giúp đỡ cho, nhưng Cung vắng tăm bặt tích như hạc vàng một đi không về lại. Trước kia lúc Liễu còn sống đã hỏi con gái họ Hoàng ở huyện Vô Cực (tỉnh Hà Bắc) cho Hòa, nhà ấy cũng giàu có, sau nghe tin Liễu sa sút nên ngầm có ý hối hôn. Khi Liễu chết Hòa báo tang Hoàng cũng không tới phúng điếu, còn nghĩ vì đường xa nên bỏ qua. Hòa mãn tang xong, mẹ sai tự tới nhà nhạc gia xin hẹn ngày cưới, có ý mong Hoàng thương xót giúp đỡ cho. Hòa tới, Hoàng nghe nói áo cũ giày rách bèn bảo người giữ cổng không cho vào, nhắn "Trở về lo được trăm lượng vàng hãy tới, nếu không từ nay xin thôi". Hòa nghe thế khóc lớn, có bà già họ Lưu ở nhà đối diện với Hoàng thương xót đem cơm cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, an ủi bảo về. Mẹ Hòa cũng buồn bã uất ức nhưng không biết làm sao, nhân nhớ tới khách khứa ngày xưa mười người có tới tám chín vay mượn chưa trả, liền bảo Hòa chọn những kẻ giàu có mà tới xin họ giúp đỡ. Hòa nói “Trước kia họ giao du với nhà ta chỉ vì tiền bạc của nhà ta thôi. Nếu con giong ngựa hay ngồi xe lớn thì dù mượn ngàn lượng vàng cũng không khó, nhưng nay nhà ta nghèo khó thế này, còn ai nhớ ơn xưa nghĩa cũ. Vả lại cha cho người ta vay không hề làm giấy tờ gì, khó có bằng cớ mà đòi nợ". Mẹ cứ ép, Hòa vâng lời, đi suốt hơn hai mươi ngày không đòi được một đồng, chỉ có người kép hát Lý Tứ xưa thường được Liễu giúp đỡ nghe chuyện tới tặng một đồng vàng. Mẹ con cùng khóc lớn, từ đó thôi không trông mong gì ai nữa. Cô gái họ Hoàng đến tuổi lấy chồng, nghe cha dứt tình với Hòa thầm cho là không phải. Hoàng muốn gả cho người khác, nàng khóc nói “Liễu lang không phải sinh ra đã nghèo, giả như nay giàu hơn thì kẻ hỏi cưới con có cướp được của chàng không? Nay thấy nghèo lại bỏ thì bất nhân lắm". Hoàng không vui, tìm đủ cách khuyên mà rốt lại cũng không làm nàng lay chuyển được. Hai vợ chồng cùng tức giận, sớm tối chửi mắng, cô gái cũng vẫn thế. Không bao lâu, đang đêm có bọn cướp vào nhà, vợ chồng Hoàng bị nướng dùi đốt thịt tra khảo chết đi sống lại, bao nhiêu của cải đều bị cướp sạch. Thấm thoát qua ba năm, nhà càng sa sút. Có nhà buôn nghe tiếng cô gái đẹp, xin nộp sính lễ năm mươi lượng vàng, Hoàng thấy nhiều tiền bèn ưng thuận, định ép con gái bằng được. Cô gái đoán biết, mặc áo rách bôi đen mặt, nhân đêm bỏ trốn, xin ăn dọc đường, trải hai tháng mới tới Bảo Định, hỏi thăm nhà Hòa rồi tìm thẳng vào. Mẹ Hòa ngỡ là vợ kẻ ăn mày bèn xua đuổi, nàng nức nở thưa rõ, bà nắm tay nàng chảy nước mắt nói “Sao con lại ra nông nổi này”. Cô gái lại khóc lóc kể hết đầu đuôi, mẹ con Hòa đều khóc. Kế múc nước cho nàng tắm rửa, thấy nhan sắc xinh đẹp, mặt mũi sáng sủa, mẹ con cùng mừng rỡ. Nhưng nhà ba miệng ăn, mỗi ngày chỉ được một bữa, mẹ khóc nói "Mẹ con ta phải chịu cực khổ đã đành, chỉ thương cho nàng dâu thảo của ta thôi”. Nàng cười an ủi bà rằng "Con dâu của mẹ lúc trong đám ăn mày đã nếm đủ mùi cực khổ, hôm nay nhìn lại thấy như thiên đường khác với địa ngục vậy”, mẹ mới vui vẻ. Một hôm cô gái vào gian nhà bỏ không thấy cỏ dại mọc lan khắp nơi, tới phòng trong thì bụi bặm phủ đầy. Trong góc tối có vật gì đó chất thành đống, bước vào thấy vướng chân, nhặt lên xem thì toàn là bạc ròng, giật mình chạy về nói với Hòa. Hòa theo nàng vào xem, thì những gạch ngói ngày xưa Cung ném vào đó đều trở thành bạc nén trắng xóa. Nhân nhớ lại lúc còn nhỏ thường cùng Cung chôn gạch đá trong nhà, biết đâu đều là vàng bạc. Nhưng nhà cũ đã đem cầm cho láng giềng, vội qua chuộc lại thì thấy gạch lát nền đã vỡ cả, những chỗ chôn gạch ngói ngày xưa đều lộ cả ra, vô cùng thất vọng. Đến khi đào tìm dưới đất thì thấy toàn là bạc ròng sáng loáng, trong chốc lát trở thành giàu có ức vạn. Nhờ vậy chuộc ruộng vườn thuê tôi tớ, nhà cửa hoa lệ còn hơn ngày xưa. Hòa vì thế hăng hái tự nhủ "Nếu không cố gắng lập thân, thật là phụ lòng chú Cung của ta", rồi ra sức học hành, ba năm sau đỗ Cử nhân. Bèn đích thân đem trăm lượng vàng tới tạ ơn bà Lưu, y phục rực rỡ lóa mắt, mười mấy tùy tùng khỏe mạnh đều cưỡi ngựa đẹp như rồng. Bà Lưu chỉ có một gian nhà, khách phải ngồi cả lên giường, người ngựa ồn ào vang động cả xóm. Hoàng từ khi con gái trốn đi, người nhà buôn đòi lại món tiền sính lễ, nhưng đã tiêu mất một nửa nên phải bán nhà mới trả được. Vì thế trở thành cùng quẫn như Hòa ngày xưa, nay nghe rể cũ giàu có sang trọng chỉ đóng cửa tự thương thân mà thôi. Bà Lưu mua rượu dọn tiệc đãi Hòa, nhân kể con gái Hoàng hiền, tỏ ý tiếc vì nàng bỏ nhà đi mất, rồi hỏi Hòa lấy vợ chưa, Hòa đáp rồi. Ăn uống xong, Hòa cố mời bà đi xem mặt vợ mình, rồi chở cùng về. Tới nhà, nàng ăn mặc lộng lẫy bước ra, tỳ nữ xúm quanh như tiên, gặp nhau cùng sửng sốt, rồi cùng nhắc lại chuyện cũ, nhân hỏi thăm tin tức cha mẹ. Bà Lưu ở lại vài ngày, được tiếp đãi rất tử tế, may sắm quần áo mới rồi cho đưa về. Bà qua nhà Hoàng, kể lại tin tức cô gái và nhắn lời nàng hỏi thăm, vợ chồng cả kinh. Bà Lưu khuyên tới thăm con gái nhưng Hoàng có vẻ ngần ngại, kế khổ cực quá không chịu nổi nên bất đắc dĩ phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cổng trừng mắt nhìn, suốt ngày không nhắn gì được. Mãi sau có một bà già đi ra, Hoàng nhũn nhặn năn nỉ, tự nói họ tên, nhờ lén báo cho con gái biết. Một lát bà già trở ra dắt Hoàng vào căn nhà phụ, nói "Nương tử rất muốn gặp ông một lần nhưng sợ lang quân biết nên phải chờ cơ hội thuận tiện. Ông tới đây bao lâu, đã ăn gì chưa?", Hoàng được dịp kể lể nỗi khổ. Người đàn bà đem một bầu rượu, hai đĩa thức ăn bày ra trước mặt Hoàng, lại đặt lên năm đồng vàng, nói "Lang quân đang ăn tiệc ở trong phòng, e nương tử không tới được. Sáng mai ông nên đi sớm, chớ để lang quân biết". Hoàng vâng dạ, sáng dậy mang gói ra thì cổng chưa mở, phải đứng chờ. Chợt có tiếng ồn ào nói ông chủ đi ra, Hoàng định nép mình tránh mặt nhưng Hòa đã nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi là ai. Tất cả gia nhân đều im lặng, Hòa giận nói "Ắt là kẻ gian, cứ bắt giải lên quan!". Chúng dạ vang đổ ra trói Hoàng vào gốc cây, Hoàng vừa sợ vừa thẹn không biết nói gì. Không bao lâu người đàn bà hôm qua ra quỳ xuống thưa "Đây là cậu ruột ta, tới lúc chặp tối nên chưa kịp thưa với ông chủ?", Hòa bèn sai cởi trói. Bà già dẫn Hoàng ra, nói "Vì ta quên dặn người giữ cổng nên có chuyện rắc rối. Nương tử nhắn rằng lúc nào tưởng nhớ cứ nói bà nhà giả làm người bán hoa đi với bà Lưu tới". Hoàng vâng dạ, về nhà kể chuyện với vợ, bà nhớ con gái vội qua nói với bà Lưu, bà Lưu bèn cùng đi, tới nhà Hòa qua hơn mười lớp cửa mới tới chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, đeo châu ngọc khắp mình, hương thơm ngào ngạt, thỏ thẻ kêu một tiếng thì tỳ nữ tớ gái xúm tới nhắc ghế mang gối, pha trà mời khách. Mẹ con nói tiếng lóng chuyện trò, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm tới dọn phòng cho hai bà già nghỉ, thấy nệm ấm gối êm, nhà mình năm xưa tuy giàu có cũng chưa từng dùng qua. Lưu lại năm ba ngày, nàng đối xử rất chu tất, bà dẫn nàng ra chỗ vắng khóc lóc hối hận về việc sai trái ngày trước. Nàng nói "Mẹ con ta thì có lầm lỗi nào không bỏ qua được, nhưng chồng con tức giận không nguôi, chỉ sợ chàng biết thôi”, nên cứ khi Hòa tới thì bà liền tránh mặt. Một hôm đang ngồi chơi chợt Hòa bước vào nhìn thấy nổi giận quát “Mụ nhà quê nào lại dám ngồi ngang hàng với nương tử thế kia? Nắm đầu tống cổ ra cho ta”. Bà Lưu vội bước lên nói "Đó là Vương tẩu làm nghề bán hoa, có họ với già, xin ông tha lỗi”. Hòa bèn chắp tay tạ lỗi rồi ngồi xuống nói "Bà đến chơi mấy hôm mà ta bận quá chưa hỏi chuyện được, lão súc sinh họ Hoàng còn sống không?". Bà Lưu đáp "Cả hai ông bà vẫn mạnh khỏe, có điều nghèo lắm, quan nhân quá giàu sang sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút”. Hòa đập bàn nói “Năm xưa không có bà thương xót cho bát cháo thì ta làm sao về tới được quê quán, nay còn muốn bắt lão mà lột da ra chứ nghĩ tình cái gì?", nói tới đó căm giận quá dậm chân đứng dậy chửi mắng. Cô gái bực tức nói "Họ dẫu bất nhân cũng là cha mẹ ta. Ta từ xa xôi tìm tới đây rách chân nát gót, cũng tự thấy không phụ lòng chàng, sao chàng trước mặt con mà chưi mắng cha, khiến người ta không chịu nổi", Hòa mới nguôi giận đứng dậy bỏ đi. Vợ Hoàng thẹn tím mặt từ giã ra về, cô gái lấy hai chục đồng vàng đưa riêng cho mẹ. Sau khi bà về, không có tin tức gì nữa. Cô gái thương nhớ cha mẹ quá, Hòa bèn sai người tới mời, hai vợ chồng tới vẫn có vẻ thẹn thùng áy náy. Hòa xin lỗi nói "Năm trước ông bà tới chơi lại không nói rõ, khiến ta mắc tội rất nhiều”, Hoàng chỉ dạ dạ. Hòa may sắm quần áo mới cho, lưu lại hơn một tháng. Hoàng vẫn thấy áy náy, mấy lần xin về. Hòa tặng một trăm lượng vàng, nói “Người nhà buôn trước kia đưa năm mươi lượng, nay ta xin đưa gấp đôi". Hoàng thẹn toát mồ hôi nhận lấy. Hòa cho xe ngựa đưa về, cuối đời Hoàng sống cũng hơi dư dật. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Sau khi Ung Môn[B]*[/B] khóc xong thì giày son vắng cổng khiến người ta uất ức đóng cửa tuyệt giao. Thế nhưng bạn tốt chôn cất, đá hóa ra vàng, không thể nói rằng đó không phải là sự báo đáp cho người khẳng khái được. Còn kẻ phòng khuê chỉ ngồi mà hưởng, nghiễm nhiên như phi tần trong cung vua, nếu không phải là người trung trinh kỳ lạ như nàng họ Hoàng thì ai có thể hưởng thụ như vậy mà không xấu hổ? Tạo vật không giáng họa ban phúc sai là như thế đấy.[/I] *Ung Môn: Hoàn đàm tân luận chép Ung Môn Chu cầm đàn tới ra mắt Mạnh Thường quân nói “Ta trộm cho rằng túc hạ có điều đau buồn. Đạo trời vốn không thường, ngàn vạn năm sau tôn miếu ắt không ai thờ cúng, đài cao đã nghiêng, ao sâu đã lấp, trên mộ đầy gai góc, chồn cáo làm hang bên trong, trẻ chăn trâu giẫm đạp lên ca hát mà nói sự giàu sang của Mạnh Thường quân cũng chỉ thế này thôi sao”. Mạnh Thường quân ngậm ngùi rơi lệ, Ung Môn Chu nhân đó gảy thành khúc đàn. Đây ý nói người giàu sang nhưng đã chết cũng không ai đoái hoài tới nữa. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 105 - 106 -[/B] Người Thiếp Hồ (Hồ Thiếp) Lưu Động Cửu người huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), ngồi một mình trong dinh nghe ngoài sân có tiếng cười nói, dần tới gần rồi vào trong phòng. Nhìn ra thì là bốn cô gái, một nàng độ bốn mươi tuổi, một nàng khoảng ba mươi, một nàng chừng hai mươi tư hai mươi lăm, cuối cùng là một nàng còn để tóc xõa. Cả bốn đứng trước kỷ nhìn nhau cười, Lưu vốn biết trong dinh nhiều hồ nên không ngó tới. Giây lát, nàng để tóc xõa rút ra chiếc khăn hồng đùa ném lên mặt Lưu. Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn. Bốn nàng cười rồi đi. Một hôm nàng lớn nhất tới nói với Lưu "Em gái ta có nhân duyên với ông, xin đừng chê là hèn hạ”. Lưu ừ bừa, nàng ấy liền đi. Lát sau cùng một tỳ nữ dẫn nàng để tóc xõa tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói "Thật là đẹp đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc, cố mà hầu hạ Lưu lang, ta về đây". Lưu nhìn kỹ thấy nàng xinh đẹp vô song, bèn cùng vui vầy. Hỏi tới lai lịch, nàng nói “Thiếp không phải là người, nhưng thật ra cũng là người. Thiếp là con gái quan tiền nhiệm ở đây, bị hồ làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ hồ làm phép cho sống lại, cũng biến hóa như hồ vậy”. Lưu thò tay sờ phía sau, nàng hiểu ý cười nói "Chàng định nói là hồ thì có đuôi chứ gì?", rồi quay người lạỉ nói "Thử sờ xem nào”. Từ đó nàng ở lại luôn, đứng ngồi đều có đứa tỳ nữ ở bên, gia nhân đều tôn kính gọi là bà thứ, tôi tớ lên chào ra mắt đều được thưởng rất hậu. Gặp dịp sinh nhật của Lưu, khách khứa đông đảo, tính ra tới ba chục mâm, phải có nhiều đầu bếp, đã sức gọi từ trước nhưng chỉ có một hai người tới, Lưu bực tức lắm. Cô gái biết được bèn nói "Đừng lo, số đầu bếp đã không đủ dùng thì cứ cho mấy người tới về luôn cho xong. Thiếp tuy kém cỏi nhưng nấu ba chục mâm cũng chẳng phải khó". Lưu mừng rỡ, sai mang cá thịt tỏi gừng vào tư thất, gia nhân chỉ nghe tiếng dao thớt khua ran không dứt. Cửa trong đặt một chiếc bàn, những người hầu để mâm lên đó, quay đi quay lại đã đầy thức ăn, bưng xong lại quay lại, hơn mười người đi lại liên tiếp mà lấy bao nhiêu cũng có. Sau cùng người hầu vào gọi lấy bánh canh, bên trong nói "ông chủ không dặn trước, gấp gáp thế này làm sao có được?". Kế lại nói "Không còn cách nào, đành phải mượn vậy”. Giây lát gọi vào lấy bánh canh, nhìn lại thì thấy đã có hơn ba chục tô bánh canh bốc khói đặt trên bàn. Khách về rồi, nàng nói với Lưu "Phải đưa tiền trả tiền bánh canh cho nhà nọ". Lưu sai đem tiền tới nhà ấy thì họ mất bánh canh còn đang kinh ngạc, khi người nhà Lưu tới trả tiền mới hết ngờ vực. Một hôm uống rượu đêm, Lưu chợt thèm rượu nếp đắng Sơn Đông, nàng xin đi lấy rồi ra cửa đi. Giây lát trở về nói "Được một vò ngoài cửa, đủ uống mấy ngày rồi". Lưu ra xem, quả có một vò, đúng là thứ rượu mới cất ở nhà. Qua vài hôm, phu nhân sai hai người đầy tớ tới Phần Châu, giữa đường một người nói "Nghe nói phu nhân chồn hồ thưởng rộng rãi, chuyến này mà được tiền thưởng ta sẽ mua một cái áo lông chiên". Nàng ở dinh đã biết cả, nói với Lưu “Người nhà ở quê sắp tới, đáng giận thằng đầy tớ vô lễ, phải trị mới được". Hôm sau người đầy tớ vừa vào trong thành, đầu đã đau nhức, tới dinh thì ôm đầu kêu gào, mọi người đều bàn đi tìm thầy thuốc. Lưu cười nói “Không cần chữa, đến lúc sẽ tự hết", mọi người ngờ là y phạm tội với bà thứ. Người đầy tớ tự nghĩ mới tới đây chưa kịp cởi hành lý ra thì đã làm gì nên tội, nhưng không biết kêu van với ai đành phải bò tới năn nỉ. Trong rèm có tiếng nói "Ngươi gọi phu nhân là đủ rồi, sao còn nói chữ hồ?". Người đầy tớ sực nhớ ra, lạy lục không thôi. Trong rèm lại nói "Đã muốn có áo lông chiên sao lại vô lễ thế?”, kế nói tiếp "Ngươi khỏi rồi đấy”, dứt câu thì người đầy tớ thấy hết đau, lạy tạ định lui ra, chợt trong rèm ném ra một cái bọc, nói "Đây là một cái áo lông dê non, ngươi cầm đi", y mở ra xem thì thấy có năm đồng vàng. Lưu hỏi tin nhà, người đầy tớ thưa đều được vô sự chỉ có đang đêm bị mất một vò rượu, tính lại ngày giờ thì đúng vào đêm nàng đi lấy rượu. Mọi người kính sợ nàng có phép thần thông, gọi là Thánh tiên. Lưu vẽ tranh nàng, lúc ấy Trương Đạo Nhất làm quan Đề học sứ nghe chuyện lạ liền lấy tình đồng hương tới thăm Lưu xin được gặp mặt một lần, nàng từ chối. Lưu đưa bức tranh cho xem, Trương giật lấy đem về treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn khứa "Xinh đẹp như nàng muốn gì chẳng được, sao lại gởi thân cho lão già râu xồm? Hạ quan không thua kém gì Động Cửu, sao không chiếu cố cho nhau một lần”. Nàng ở dinh chợt nói với Lưu "Trương công vô lễ phải trừng phạt một chút". Một hôm Trương đang khấn khứa thấy như có ai cầm thước đánh mạnh vào trán đau điếng, cả sợ cuốn bức tranh sai người đem trả. Lưu hỏi vì sao trả lại, người ấy giấu việc Trương bị đánh mà bịa chuyện trả lời, Lưu cười hỏi "Trán chủ ngươi có đau không?", người ấy không dám nói dối phải kể thật. Không bao lâu sau, rể Lưu là Nguyên sinh tới thăm, xin được ra mắt nhưng nàng từ chối. Nguyên nài nỉ mãi, Lưu hỏi “Con rể nào phải người ngoài, sao cự tuyệt quá thế?”. Nàng đáp "Con rể tới ra mắt ắt phải có gì tặng, nhưng y mong cầu quá lắm, ta tự thấy không làm vừa lòng y được nên không muốn gặp đó thôi”. Kế Nguyên lại cố nài nỉ, nàng hứa mười ngày sẽ cho ra mắt. Đến ngày hẹn Nguyên vào, đứng ngoài rèm chắp tay vái rồi hỏi thăm sức khỏe, chỉ thấy loáng thoáng dung mạo nhưng không dám nhìn kỹ. Kế lui ra, đi được mấy bước cứ ngoảnh lại nhìn chằm chằm, chỉ nghe tiếng nàng nói "Con rể quay lại kìa", dứt lời cười lớn, lanh lảnh như tiếng cú rúc. Nguyên nghe thấy gân cốt nhũn cả ra, run rẫy tựa mất hồn. Ra ngoài ngồi hồi lâu mới hơi định thần, bèn nói “Vừa nghe tiếng cười như nghe tiếng sét, thật không biết mình còn sống hay đã chết” Giây lát người tỳ nữ vâng lệnh nàng đem ra hai mươi lượng vàng tặng Nguyên, Nguyên nhận rồi nói "Thánh tiên hàng ngày ở với ông chồng, há lại không biết tính ta phung phí chứ không quen dùng món tiền nhỏ sao?” Nàng nghe thế nói "Ta vẫn biết là thế, nhưng vừa lúc hết tiền, mới rồi cùng bạn bè đi Biện Lương (tỉnh thành Hà Nam) thì thành bị Hà Bá chiếm cứ, kho tàng đều ngập dưới nước, lặn xuống lấy mỗi người chỉ được bấy nhiêu, làm sao đầy được túi tham không đáy của y. Vả lại nếu ta tặng cho thật hậu thì y phúc bạc cũng không thể hưởng được đâu". Phàm mọi việc cô gái đều có thể biết trước nên có việc gì nghi ngờ cứ bàn với nàng là quyết được ngay. Một hôm đang cùng ngồi chuyện trò, chợt nàng ngữa mặt lên trời cả kinh nói “Đại nạn sắp tới, làm sao bây giờ”. Lưu hoảng sợ hỏi người trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói "Tất cả vô sự, chỉ có nhị công tử là đáng lo. Không bao lâu nơi đây sẽ thành chiến trường, chàng nên xin đi công cán nơi xa mới khỏi nạn”. Lưu theo lời, xin quan trên cho đi áp tải lương tiền tới Vân Nam Quý Châu. Đường sá xa xôi, ai nghe cũng thương xót cho Lưu, duy có cô gái lấy làm vui mừng. Không bao lâu Khương Khôi làm phản[B]*[/B], Phần Châu bị giặc chiếm làm sào huyệt, con trai thứ hai của Lưu từ Sơn Đông tới thì vừa gặp loạn, bị giết chết. Thành bị hãm, quan lại đều bị hại, chỉ có Lưu đi công cán nơi xa được thoát, đến khi yên giặc mới trở về. *Khương Khôi làm phản: Khương Khôi là người cuối thời Minh, giữ chức Tổng binh Đại Đồng, khi Lý Tự Thành đánh tới thì Khôi đem thành đầu hàng, theo Tự Thành chống nhà Minh. Sau Lưu dính líu vào vụ án lớn bị bãi chức, nghèo túng tới mức ngày không lo đủ hai bữa cơm, quan lại còn đòi hỏi hạch sách rất nhiều nên cùng quẫn lo lắng muốn chết. Nàng nói "Đừng lo, dưới gầm giường có chôn ba ngàn đồng vàng, cũng đủ chi tiêu”. Lưu mừng rỡ hỏi đánh cắp được ở đâu, nàng đáp "Của vô chủ trong thiên hạ muốn lấy bao nhiêu cũng có, cần gì phải trộm cắp?". Lưu dùng số tiền ấy lo lót được thoát tội về quê, cô gái cũng đi theo. Vài năm sau chợt bỏ đi, để lại cái túi giấy chứa mấy vật lại cho Lưu, trong có lá phướn nhỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc, mọi người đều cho là điềm bất tường, kế Lưu chết. [B]106. Thần Sấm Sét[/B] [B](Lôi Tào)[/B] Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình Tử lúc nhỏ ở cùng làng, lớn lên học cùng trường, chơi với nhau rất thân. Hạ thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã nổi tiếng, Nhạc dốc lòng kính ái, Hạ cũng thường khuyên dạy cho không biết mỏi. Nhạc học hành ngày càng tấn tới nhờ vậy cũng nổi tiếng, nhưng khoa cử lận đận, cứ đi thi là rớt. Không bao lâu Hạ mắc bệnh dịch chết, nhà nghèo không chôn cất nổi, Nhạc khẳng khái đứng ra lo liệu, Hạ còn vợ góa con côi thì thường lui tới thăm hỏi, kiếm được chút ít gì cũng chia cho một nửa. Vợ con Hạ nhờ vậy mới sống được, các bậc sĩ đại phu vì thế càng khen Nhạc hiền. Nhà Nhạc không có của cải gì nhiều, lại còn chu cấp cho vợ con Hạ nên gia cảnh ngày càng sa sút, bèn than "Tài học như Bình Tử mà còn phải lận đận rồi chết, huống chi là ta? Sự giàu sang ở đời phải đúng lúc, nếu cứ lo lắng tròn năm thì e sẽ chết trước cả giống vật nơi ngòi rãnh, phí cả một đời, chẳng bằng lo liệu cho sớm". Từ đó Nhạc bỏ học đi buôn, làm ăn nửa năm thì cảnh nhà hơi khá lên. Một hôm đi buôn tới Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), vào nghỉ trong quán trọ thấy một người cao lớn, bắp thịt cuồn cuộn cứ quanh quẩn cạnh chỗ mình ngồi, sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi "Muốn ăn cơm không?", người ấy cũng im lặng. Nhạc đẩy mâm ra mời, y lấy tay bốc ăn, trong giây lát hết sạch. Nhạc lại gọi thêm một mâm mấy phần cơm, y lại ăn hết, Nhạc bèn bảo chủ quán cắt thịt heo, bóc bánh chưng đầy mâm, y lại ăn sạch mấy phần nữa mới no, cảm tạ nói "Ba năm nay chưa từng được bữa nào ăn no thế này". Nhạc hỏi "Ông là bậc tráng sĩ sao lại lưu lạc khổ cực tới mức này?”, y đáp “Ta mắc tội với trời, không thể nói ra được”. Nhạc hỏi quê quán nhà cửa, y đáp "Trên bộ không có nhà cửa, dưới nước không có ghe thuyền, chỉ sáng vào trong làng tối ra ngoàí ruộng thôi". Nhạc sửa soạn hành lý ra đi, người ấy đi theo, bịn rịn không rời. Nhạc từ tạ, y nói "Ông sắp gặp nạn lớn, ta không nỡ quên cái ơn cho một bữa ăn”. Nhạc lấy làm lạ, bèn cho y đi cùng, trên đường kéo vào quán ăn cơm, y từ chối nói “Cả năm ta chỉ ăn vài bữa thôi", Nhạc càng lấy làm lạ. Hôm sau qua sông, chợt sóng gió nổi lên, ghe thuyền chở thuê đều đắm cả, Nhạc và người ấy cũng chìm xuống sông. Lát sau gió lặng sóng yên, y cõng Nhạc đạp sóng ngoi lên, đưa Nhạc lên một chiếc thuyền khách rồi lại rẽ nước đi. Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc qua dặn ngồi đó giữ rồi nhảy xuống nước, trồi lên thì hai tay xách hàng hóa bị chìm ném vào thuyền rồi lại lặn xuống, mấy lần lên xuống thì hàng hóa bị chìm được vớt lên đầy cả thuyền. Nhạc cảm tạ nói “Ông cứu sống ta là quá đủ rồi, đâu dám mong lấy lại được hàng hóa” Kiểm lại của cải thấy không bị mất gì, càng mừng rỡ kính phục y là thần, định dong thuyền đi thì y từ biệt, Nhạc cố giữ cùng qua sông. Kế cười nói “Cái nạn thế này mà chỉ mất có một chiếc trâm vàng”, người ấy muốn lại xuống nước tìm, Nhạc đang ngăn lại bảo thôi thì y đã nhảy xuống nước mất hút. Nhạc kinh ngạc hồi lâu, chợt thấy y tươi cười trồi lên đưa cho chiếc trâm, nói “May là cũng tìm thấy”, người trên sông ai cũng kinh lạ. Nhạc đưa người ấy về nhà, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu. Cứ mười mấy ngày y mới ăn một bữa, mà ăn thì ăn rất nhiều. Một hôm từ giã đi, Nhạc cố giữ lại, vừa lúc trời tối tăm như muốn mưa, nghe có tiếng sấm. Nhạc nói “Không biết quang cảnh trong mây ra sao, sấm sét là vật gì, làm sao lên được trên trời mà xem một lần mới hết thắc mắc”. Người ấy cười nói “ông muốn lên mây chơi à?”. Giây lát chợt Nhạc thấy trong người mỏi mệt quá, lăn ra giường thiu thiu ngủ, khi tỉnh thấy người đong đưa không giống như đang nằm trên giường. Mở mắt nhìn thì thấy đang trong mây, chung quanh trắng toát như bông, hoảng sợ vùng dậy thấy váng vất như đang đi thuyền, dưới chân thì mềm mại không phải là đất, ngẩng đầu thì thấy tinh tú ngay trước mắt, nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Nhìn kỹ thấy các ngôi sao khảm vào bầu trời như hạt sen trong gương sen, ngôi lớn bằng cái khạp, ngôi vừa bằng cái vò, ngôi nhỏ bằng cốc chén, lấy tay lắc thử thấy sao lớn bám chặt không nhúc nhích, sao nhỏ thì lung lay như có thể hái xuống. Liền hái lấy một ngôi cất vào tay áo rồi vén mây nhìn xuống thì bể bạc mênh mông, thấy thành quách nhỏ như hạt đậu, kinh ngạc tự nghĩ nếu lỡ hụt chân một cái thì còn gì là mạng. Bỗng thấy hai con rồng uốn lượn kéo một chiếc xe căng màn chạy tới, đuôi ngoắt thành tiếng vun vút như roi trâu. Trong xe có cái bồn chu vi mấy trượng đựng đầy nước, có mấy mươi người cầm gáo múc nước tưới khắp trên mây. Họ thấy Nhạc đều lấy làm lạ, Nhạc nhìn kỹ thì thấy trong bọn có người tráng sĩ bạn mình. Y nói với mọi người "Đây là bạn ta", rồi đưa Nhạc một cái gáo bảo múc nước mà tưới. Lúc đó trời đang đại hạn, Nhạc đón lấy cái gáo, vén mây nhìn về phía quê chăm chỉ múc tưới. Lát sau người bạn nói với Nhạc "Ta vốn là thần sấm sét, vì trước đây làm mưa sai hẹn nên bị phạt đày ba năm, nay đã mãn hạn, từ đây xin vĩnh biệt". Rồi lấy sợi dây buộc xe dài cả vạn thước bảo Nhạc bám vào một đầu để thả xuống đất. Nhạc lo dây đứt, y cười nói không hề gì, Nhạc theo lời bám vào, thấy lơ lửng trong chớp mắt đã tới mặt đất, nhìn lại thì đang đứng ngoài làng, sợi dây thì thu dần vào trong mây không thấy đâu nữa. Lúc ấy hạn hán đã lâu mới có trận mưa, nhưng ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, chỉ có làng Nhạc thì hồ rạch tràn đầy. Về tới nhà Nhạc mò lại trong tay áo thì ngôi sao đã hái vẫn còn, đem đặt lên bàn thì đen như hòn đá, đến đêm thì long lanh sáng rực chiếu rọi khắp nhà. Nhạc càng quý báu gói lại cất kỹ, mỗi khi có khách quý thì mang ra thay đèn uống rượu ban đêm, nhìn thẳng vào thấy ánh sáng chói cả mắt. Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ngôi sao chải tóc chợt thấy ánh sáng thu nhỏ mờ dần chỉ còn như con đom đóm, lại động đậy bay lên, giật nảy mình định kêu lên thì ngôi sao đã chui tọt vào miệng, vừa khạc thì đã xuống tới cổ họng. Nàng sợ hãi chạy vào kể cho Nhạc, Nhạc cũng lấy làm lạ. Kế nằm ngủ mơ thấy Hạ Bình Tử tới nói “Ta là sao Thiếu Vi những việc ông giúp cho ta vẫn nhớ không quên. Lại nhờ ông thương mến đem ta trên trời về, có thể nói là có duyên với nhau, nay xin làm người nối dõi cho ông để đền ơn lớn". Lúc ấy Nhạc đã ba mươi tuổi vẫn chưa có con, mơ thấy thế mừng lắm. Từ đó vợ có mang, khi lâm bồn có ánh sáng chiếu khắp nhà như lúc đặt ngôi sao trên bàn, nhân đó đặt tên con là Tinh Nhi. Tinh Nhi khôn ngoan lạ thường, năm mười sáu tuổi thi đỗ Tiến sĩ. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ông Nhạc nổi tiếng văn chương một thời, chợt thấy việc theo đuổi công danh đến già không hợp với mình liền vứt ngọn bút như cởi chiếc dép, có khác gì Ban Siêu ném bút[B]*[/B]! Đến như thần sấm sét cảm ơn cho ăn, sao Thiếu Vi đáp tình bạn cũ, há phải là thần nhân đền đáp ơn riêng đâu mà là tạo vật báo đáp cho bậc hiền hào đấy.[/I] *Ban Siêu ném bút: nguyên văn là "Yến hạm đầu bút". Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện chép Ban Siêu thuở trẻ nhà nghèo phải làm việc chép thuê trong dinh quan để sống, gặp người thầy tướng nói "Ông hàm én đầu hổ (yến hạm hổ đầu), bay cao mà ăn thịt, đó là tướng được phong hầu ngoài vạn dặm", Siêu ném bút than “Đại trượng phu phải lập công nơi đất lạ để được phong hầu, chứ sao có thể theo việc bút nghiên mãi được”. Sau đi sứ Tây Vực có công được phong tước Định Viễn hầu. Đây tác giả có ý nói ngược lại. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 107 - 109 -[/B] Bùa Đánh Bạc (Đổ Phù) Đạo sĩ họ Hàn ở miếu Thiên Tề trong huyện ta giỏi phép thuật, mọi người đều gọi là tiên. Cha ta chơi thân với ông, cứ có dịp vào thành là ghé thăm. Một hôm cha ta cùng chú ta vào thành, định tới thăm thì gặp Hàn trên đường, Hàn đưa chìa khóa nói "Xin cứ tới mở cửa vào ngồi đợi một lúc, ta sẽ về ngay”. Cha ta theo lời, tới miếu mở cửa vào thì Hàn đã ngồi ở trong, những việc như vậy rất nhiều. Trước trong họ hàng có người hay cờ bạc, qua cha ta nên cũng quen Hàn, gặp lúc có một nhà sư ở chùa Thiên Phật tới, rất sành cờ bạc, đánh bạc rất lớn. Người ấy gặp thích lắm, mang tiền tới chơi, thua nặng, càng cay cú. Về cầm bán nhà cửa ruộng vườn tới chơi tiếp, hết đêm thì thua sạch, chán nản bất đắc chí ra về, tiện đường ghé Hàn, đầu óc thẫn thờ, ngôn ngữ thất thố. Hàn hỏi, người ấy kể lại mọi chuyện, Hàn cười nói "Thường đánh bạc thì không ai không thua, nếu ngươi chừa đánh bạc được thì ta sẽ giúp lấy tiền lại cho". Người ấy nói "Nếu lấy lại được thì xin đem chày sắt đập nát hết xúc xắc". Hàn bèn lấy giấy vẽ bùa đưa cho bảo giắt vào thắt lưng, dặn "Nếu lấy lại được hết tiền thua rồi phải thôi ngay, không nên được voi đòi tiên". Lại đưa cho một ngàn đồng tiền, hẹn khi thắng rồi thì trả lại, người ấy cả mừng ra đi. Nhà sư thấy chỉ có bấy nhiêu tiền coi thường không thèm chơi, người ấy cố ép, hẹn chỉ đánh một tiếng bạc thôi. Nhà sư cười ưng thuận, người ấy đặt cả một ngàn đồng tiền. Nhà sư gieo xúc xắc trước, chưa phân thắng bại, người ấy gieo liền thắng ngay. Nhà sư lại đánh hai ngàn đồng tiền, lại thua, dần dần tăng tới mười mấy ngàn đồng. Người ấy gieo lần đầu thì rõ ràng là điểm rất thấp quát lên một tiếng thì con xúc xắc lật lại thành điểm cao nhất, trong khoảnh khắc đã lấy lại được tất cả số tiền đã thua, nhưng nghĩ thầm kiếm thêm vài ngàn nữa cũng hay. Bèn đánh thêm thì thua ngay, lấy làm kỳ quái đứng lên nhìn lại thắt lưng thì lá bùa đã biến mất, cả sợ bèn thôi không chơi nữa. Bèn chở tiền về miếu, trả cho Hàn xong tính cả số bị thua trong tiếng bạc chót với số thắng được thì vừa khớp với số tiền bị thua trước đó. Liền xấu hổ xin lỗi về việc mất lá bùa, Hàn cười nói "Nó ở đây rồi, ta đã dặn đừng tham mà ông không chịu nghe nên đã lấy về" [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Cái làm thiên hạ khuynh gia bại sản không gì mau bằng cờ bạc, cái làm thiên hạ tổn đức mất nết không không gì mạnh bằng cờ bạc, sa vào rồi thì như rơi xuống biển mê không biết đâu là đáy. Phàm kẻ làm ruộng buôn bán đều có nghề nghiệp, kẻ học trò đọc sách càng tiếc thời giờ. Đọc sách cầm cày vốn là đường chính để thành gia, chén rượu chung trà cũng là niềm vui trên cõi thế. Thế mà lại theo bạn xấu rủ rê, suốt canh khuya đàn đúm. Nghiêng rương vét tủ, treo vàng mơ trên mấy tầng trời, la thắng thét ù, xin thần giúp trong trò ngu dại. Năm con xúc xắc đổ tựa gieo châu, mấy lá bài chia cầm như xòe quạt. Liếc bài người lại ngó bài mình, chán cho mắt quỷ, bài thì tốt mà kêu là xấu, giở đủ trò ma. Trước cửa tân khách chờ, còn lưu luyến bên sòng bạc, ở nhà cơm nước đợi, vẫn mê mãi với quân bài. Quên ăn bỏ ngủ, lâu ngày thành mê, mặt sạm môi chì, nhìn xem tựa quỷ. Đến lúc thua sạch tiền lưng, ngồi trơ mắt ếch. Nhìn vào sòng thì la hét vang rân, anh hùng ngứa ngáy, ngó lại túi thì trống không nhẵn nhụi, tráng sĩ thẫn thờ. Nghểnh cổ bồi hồi, biết tay trắng không sao chơi được, cúi đầu than thở, đến hừng đông mới chịu ra về. Ngang nhà người quen đang ngủ, sợ chó sủa ầm, thấy bụng mình đói cứ sôi, hờn nồi cạn sạch. Kế lại bán vợ đợ con, cũng muốn cầu may thủ vận, chẳng ngờ nắm lông lò lửa, chung quy đáy nước mò trăng. Lúc tàn mạt mới ngẫm lại mình, thấy đã ra người hạ tiện, đám cờ bạc hỏi ai giỏi nhất, đều tôn ấy bậc không quần. Thậm chí xoa bụng đói dài, phải đi làm cướp, gãi đầu tính lại, đành chịu xin ăn. Than ôi, cờ bạc chính là một con đường dẫn tới chỗ tổn đức mất nết, tan cửa nát nhà đấy.[/I] [B]108. A Hà[/B] [B](A Hà)[/B] Cảnh Tinh Giả người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ có tiếng tài giỏi, ở cạnh nhà Trần sinh, phòng sách chỉ cách nhau một bức tường ngắn. Một hôm vừa chập tối, Trần đi qua một bãi đất vắng nghe trong tiếng con gái khóc trong đám tùng bách, tới gần thấy trên cành cây mọc ngang có sợi dây vắt qua như sắp treo cổ tự tử. Trần hỏi han, cô gái gạt lệ nói "Mẹ đi xa gởi thiếp ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói tàn ác nuôi nấng không ra sao, bơ vơ thế này thì chết đi còn hơn”, nói xong lại khóc. Trần cởi sợi dây khuyên nàng tìm người mà lấy, nàng lo không có ai để nương tựa, Trần mời về nhà mình ở tạm, cô gái bèn đi theo. Về tới nhà khêu đèn nhìn kỹ thấy phong tư xinh đẹp, Trần rất thích, muốn làm ẩu, cô gái lớn tiếng chống cự, cãi nhau ồn ào vang qua bên kia vách. Cảnh sinh leo tường qua xem, Trần mới buông nàng ra. Cô gái thấy Cảnh cứ nhìn không chớp mắt, hồi lâu bỏ chạy, hai người cùng đuổi theo nhưng không biết nàng chạy về hướng nào. Cảnh về nhà đóng cửa định đi ngủ thì cô gái lững thững trong phòng bước ra, ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Y đức ít phúc mỏng, không thể nương tựa suốt đời". Cảnh mừng lắm gạn hỏi tên họ quê quán, nàng nói "Tổ tiên thiếp ở đất Tề (tỉnh Sơn Đông) nên lấy chữ Tề làm họ, tiểu tự là A Hà". Cảnh buông lời trêu ghẹo, nàng cười không có vẻ chống cự gì lắm, bèn cùng ăn ở với nhau. Nhà hay có đông bè bạn lui tới, cô gái thường núp kín trong phòng. Qua mấy hôm nói “Thiếp phải tạm đi, nơi này đông người ồn ào mệt quá. Từ nay xin hẹn nhau buổi tối thôi". Cảnh hỏi nhà ở đâu nàng đáp "Cũng không xa lắm", rồi đi sớm, buổi tối quả nhiên lại tới. Mấy hôm sau nàng lại nói "Hai ta tuy thương yêu nhau nhưng rốt lại vẫn là tự ý chung chạ. Nay cha đi làm quan ở miền tây, sáng mai phải theo mẹ đi, định tìm dịp thưa rõ rồi sẽ theo chàng trọn đời". Cảnh hỏi chia tay bao lâu, nàng hẹn khoảng một tuần rồi đi. Cảnh nghĩ ở nhà học không tiện, mà dọn vào ở nhà trong thì lo vợ ghen, tính không gì bằng bỏ vợ, bèn quyết ý. Vợ tới cứ mắng chửi, vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh nói với vợ “Cô chết sợ ta bị liên lụy, xin cứ về lại nhà cô", rồi giục đi mau. Vợ khóc lóc nói "Thiếp theo chàng mười năm chưa làm điều gì thất đức, sao quyết dứt tình như thế”. Cảnh không thèm nghe, càng đuổi đi gấp, vợ bèn ra cửa đi. Từ đó sơn phết tường vách, quét dọn nhà cửa, dài cổ trông ngóng A Hà, không ngờ tin tức vắng bặt như đá chìm xuống biển. Vợ Cảnh bị đuổi rồi, mấy lần nhờ bạn thân nói giùm xin cho trở lại nhưng Cảnh không chịu, bèn lấy chồng họ Hạ Hầu. Làng Hạ Hầu gần nhà Cảnh, vì chuyện bờ ruộng nên nhiều đời có hiềm khích với nhau, Cảnh nghe tin ấy càng tức giận, nhưng còn đợi A Hà trở lại để tự an ủi lỗi lầm. Hơn một năm chẳng thấy tăm hơi, gặp ngày cúng Hải thần, trong ngoài đền trai gái tấp nập, Cảnh cũng tới đó. Xa xa thấy một cô gái rất giống Hà, Cảnh tới gần thì nàng chen vào đám đông, theo ra tới ngoài cổng thì nàng đi rất nhanh, Cảnh đuổi theo không kịp tức tối bỏ về. Nửa năm sau Cảnh đi trên đường thấy một nữ lang mặc áo đỏ cưỡi ngựa đen có đầy tớ dắt cương đi tới, nhìn ra thì là A Hà, bèn hỏi kẻ tùy tùng nương tử là ai, y đáp là vợ kế công tử họ Trịnh ở thôn Nam. Cảnh lại hỏi công tử cưới bao lâu rồi, y đáp "Nửa tháng nay thôi". Cảnh đang nghĩ hay mình lầm, thì nữ lang nghe tiếng trò chuyện quay lại, Cảnh nhìn thì đúng là Hà. Thấy nàng đã lấy người khác, trong lòng giận sôi lên, kêu lớn "Nàng Hà sao lại quên lời hứa cũ?". Bọn tùy tùng nghe gọi bà chủ mình xúm lại toan đánh, cô gái vội ngăn lại vén khăn che mặt nói với Cảnh "Gã phụ lòng còn dám nhìn mặt nhau à?". Cảnh nói "Tự nàng phụ ta chứ ta phụ nàng lúc nào?”. Nàng đáp “Phụ phu nhân còn tệ hơn phụ ta, với người kết tóc trăm năm còn thế huống hồ với kẻ khác? Trước đây nhờ âm đức ông bà nên ngươi được ghi tên vào bảng thi đỗ, ta mới đem thân theo ngươi. Nay vì việc bỏ vợ, âm ty đã phạt tước giảm lộc số của ngươi rồi. Khoa này người đỗ thứ hai là Vương Xương thay vào tên ngươi đấy. Nay ta đã theo Trịnh quân, ngươi đừng mơ tưởng nữa". Cảnh gục đầu cụp tai không dám mở miệng, nhìn thấy cô gái thúc ngựa phóng như bay, chỉ còn biết não nề mà thôi. Khoa thi ấy Cảnh trượt, người đỗ thứ hai quả họ Vương tên Xương, Trịnh cũng đỗ. Từ đó Cảnh mang tiếng phụ bạc, bốn mươi tuổi không có vợ, nhà càng sa sút, thường tới ăn chực ở nhà bạn bè. Một hôm ngẫu nhiên tới nhà Trịnh, Trịnh khoản đãi giữ lại ngủ đêm. Cô gái lén ra nhìn khách, thấy Cảnh thương xót hỏi Trịnh "Người khách ở nhà trên có phải là Cảnh Khánh Vân không?”. Trịnh hỏi vì sao biết, nàng nói "Lúc chưa lấy chàng từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng tử tế. Tính nết y tuy hèn nhưng âm đức tổ tiên chưa dứt, vả lại còn là cố nhân của chàng, cũng nên giúp đỡ cho trọn nghĩa bạn bè". Trịnh cho là phải, đưa áo quần mới cho Cảnh thay, giữ lại khoản đãi mấy ngày. Nửa đêm Cảnh sắp đi ngủ có người tỳ nữ cầm hơn hai mươi đồng vàng vào tặng, cô gái thì đứng ngoài của sổ nói "Đó là của riêng ta đền đáp nghĩa cũ, nên về tìm cưới một người vợ tốt. May là phúc đức tổ tiên còn lớn, cũng đủ giúp cho con cháu. Từ nay nên ráng giữ nết, đừng để tổn thọ", Cảnh cảm tạ. Trở về bỏ ra hơn mười đồng vàng mua một tỳ nữ nhà thân hào, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai về sau liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội. Trịnh thì làm quan tới chức Lang trung bộ Lại, khi chết cô gái chôn cất xong trở về, vén rèm kiệu thì không có ai, bấy giờ mới biết nàng không phải là người. Ôi! kẻ vô lương được mới nới cũ, rốt lại tổ lật mà chim cũng bay, trời cao báo ứng cũng thảm độc lắm! [B]109. Con Hồ Lông Lá[/B] [B](Mao Hồ)[/B] Nhà nông Mã Thiên Vinh hơn hai mươi tuổi góa vợ, nghèo không cưới nổi vợ khác. Một hôm đang bừa ruộng, thấy một thiếu phụ ăn mặc đẹp đẽ xuyên bờ đạp lúa đi ngang, sắc mặt đỏ sậm, cũng có vẻ phong lưu. Mã ngờ là bị lạc đường, nhìn quanh không có ai bèn đùa trêu chọc, thiếu phụ cũng mỉm cười. Mã muốn giao hoan tại đó, nàng nói “Ban ngày ban mặt làm thế sao được? Chàng cứ về nhà khép cửa chờ, trời tối ta sẽ tới". Mã không tin, nàng thề sẽ tới, Mã nói rõ phương hướng cửa ngõ nhà mình, nàng bèn đi. Đến đêm quả tới, cùng nhau giao hoan, Mã thấy da thịt nàng rất mềm mại, thắp đèn soi thì da đỏ mỏng như trẻ sơ sinh, lông tơ đầy mình, lấy làm lạ. Lại ngờ vì lai lịch nàng không rõ ràng, nghĩ biết đâu là hồ liền đùa hỏi thử, nàng nhận ngay không hề e ngại. Mã nói "Đã là người tiên thì cầu gì được nấy, đã đội ơn thương yêu, sao không giúp luôn cho ta ít tiền qua cơn nghèo?". Nàng nhận lời, đêm sau tới, Mã hỏi tiền, nàng ra vẻ sửng sốt nói "Ta quên bẵng đi mất” lúc sắp đi Mã lại nhắc. Đêm đến Mã hỏi lại quên món mình xin rồi phải không, nàng cười hẹn hôm khác. Qua mấy hôm Mã lại hỏi, nàng cười rút trong tay áo ra hai nén bạc đáng giá năm sáu lượng vàng, ngoài rìa có hoa văn nhỏ nhìn rất thích mắt. Mã mừng rỡ cất kỹ trong rương, nửa năm sau có việc cần dùng lấy đưa người ta xem, họ nói “Đây là chì mà". Đưa lên răng cắn quả gãy ngay, Mã sợ quá nhặt lấy trở về, đến đêm người đàn bà tới, Mã tức tối trách móc, nàng cười nói "Phần số của chàng mỏng manh lắm, không dùng được tiền thật đâu”, rồi cùng cười bỏ qua. Mã nói "Nghe nói hồ tiên đều là bậc quốc sắc, nhưng rất là không đúng". Người đàn bà nói "Bọn ta đều tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, chàng đã không có phúc hưởng một đồng vàng thì nhan sắc chim sa cá lặn làm sao hưởng thụ được? Ta xấu xí vấn không đủ để phụng sự bậc quý nhân, nhưng so với bọn chân to lưng gù thì là bậc quốc sắc đấy". Qua mấy tháng chợt đưa cho Mã ba lượng vàng, nói “Chàng hỏi nhiều lần, ta vì thấy mạng chàng không thể có tiền để dành nên không cho, nay đến dịp cưới hỏi, xin đem số tiền cưới một người vợ để tặng chàng thay cho món quà chia tay”. Mã bày tỏ mình không có chuyện mai mối cưới hỏi gì cả, nàng nói "Một hai ngày nữa sẽ có bà mối tới”. Mã hỏi theo nàng thì vợ mình sắc đẹp ra sao, nàng đáp "Chàng muốn có bậc quốc sắc thì sẽ được bậc quốc sắc” Mã nói “Ta không dám mong tới đó, nhưng ba lượng vàng làm sao đủ cưới vợ”, nàng đáp "Đó là chủ ý của Nguyệt lão, không phải sức người làm được đâu”. Mã hỏi sao vội từ giã như thế nàng đáp "Đêm đêm tìm tới, rốt lại cũng không đâu vào đâu, vả lại chàng sẽ có vợ, giữ nhau tới cùng làm gì?". Sáng hôm sau ra đi, đưa Mã một gói thuốc bột, dặn "Sau khi chia tay e chàng lâm bệnh, cứ uống thuốc này là khỏi". Hôm sau quả có bà mối tới, Mã trước tiên hỏi nhan sắc người con gái, bà ta đáp ở giữa khoảng xấu đẹp, hỏi tiền sính lễ là bao nhiêu, đáp chỉ khoảng bốn năm lượng vàng. Mã không nói giá cao, nhưng muốn nhìn thấy mặt. Bà mối ngại rằng con nhà tử tế không chịu ra mặt, kế hẹn cùng tới đó sẽ tùy cơ tìm cách cho xem mặt. Tới nơi, bà mối vào trước, bảo Mã đứng chờ ngoài thôn, hồi lâu trở ra nói "Được rồi, người họ hàng của ta cũng ở khu nhà ấy, xin chàng giả tới thăm người họ hàng của ta mà đi qua, chỉ cách gang tấc có thể nhìn rõ". Mã theo lời, quả nhiên thấy cô gái ngồi trên sảnh đường, ngã mình xuống giường sai người gãi lưng. Mã đi ngang nhìn lướt vào, thấy mặt mũi nàng quả đúng như bà mối đã nói. Đến lúc bàn chuyện sính lễ, nhà gái không kèo nài gì cả, chỉ xin được một hai lượng vàng để mua sắm chút tư trang cho cô gái, Mã còn cò kè xin bớt. Kế nộp tiền sính lễ, tạ ơn bà mối và người làm hôn thư xong tính ra vừa hết ba lượng vàng, cũng không tốn thêm đồng nào. Kế chọn được ngày lành giờ tốt đón dâu, vợ vào tới nhà, Mã nhìn thì thấy bụng ỏng lung gù, cổ rụt như cổ rùa, nhìn xuống gấu quần thấy đôi hài dài cả thước mới sực nghĩ ra lời hồ nói là có lý do. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, có lẽ là lời hồ nữ đặt ra để đùa cợt, nhưng lời nói về phúc trạch thì quả rất đáng tin. Ta vẫn nói không phải là tổ tiên tu hành mấy đời thì không thể làm quan to, không phải là chính mình tu hành mấy đời thì không thể cưới vợ đẹp. Kẻ nào tin thuyết nhân quả ắt không cho rằng ta nói chuyện hoang đường.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 110 -[/B] Thanh Mai (Thanh Mai) Trình sinh người Bạch Hạ (thuộc huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô) tính không không chịu câu thúc. Một hôm từ ngoài về cởi đai áo thấy nặng như có vật gì bám vào, nhìn xuống không thấy gì nhưng vừa ngoảnh đi thì có cô gái sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cưỡi, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma, cô gái nói "Thiếp không phải là ma mà là hồ”. Trình nói "Đã được giai nhân thì cho dù là ma cũng không sợ, huống chi là hồ” bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai, thường nói với Trình đừng lấy vợ, ta sẽ sinh con trai cho chàng. Trình tin lời không lấy vợ, thân thích bạn bè đều đàm tiếu, Trình xiêu lòng lại lấy con gái nhà họ Vương ở Hồ Đông. Hồ nghe tin tức giận, tới cho con gái bú rồi giao cho Trình nói "Đây là món hàng phải bù tiền của nhà anh, nuôi sống hay giết chết là tùy anh, việc gì ta phải làm vú em cho người khác?", rồi ra của đi thẳng. Thanh Mai lớn lên thông minh, dáng mạo thanh tú giống mẹ. Kế Trình bệnh chết, Vương thị tái giá gửi Thanh Mai cho người chú họ nuôi. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp lúc có Tiến sĩ họ Vương còn chờ bổ quan ở nhà, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ món tiền lớn mua về sai hầu hạ con gái mình là A Hỷ. Hỷ năm ấy mười bốn tuổi, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai thích lắm, cho ngủ chung phòng. Mai cũng khéo hầu hạ, có thể nhìn mặt biết ý chủ nên cả nhà đều thương mến. Trong huyện có Trương sinh tự Giới Thụ, nhà rất nghèo không có của cải gì, thuê nhà Vương ở, tính rất hiếu thuận, cẩn trọng chăm học. Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy sinh ngồi trên bậc thểm đá ăn cháo tấm, vào nhà nói chuyện với bà mẹ thì thấy trên bàn có cái giò heo. Lúc ấy cha sinh ốm, sinh vào đỡ cha đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo sinh, cha thấy lấy làm ân hận, sinh vội che vết bẩn ra ngoài tự gột rửa, chỉ sợ cha biết. Mai thấy thế lạ lắm, về kể rồi nói với cô chủ “Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là kẻ tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì đó chính là Trương sinh đấy". Cô gái sợ cha mẹ chê sinh nghèo, Mai nói "Không phải, việc này là ở nương tử, nếu thấy là được, thiếp sẽ nói riêng để chàng nhờ người làm mối. Phu nhân ắt sẽ gọi nương tử tới hỏi, nương tử chỉ cần vâng dạ là tốt đẹp thôi”. Cô gái lại sợ nghèo hèn suốt đời sẽ bị người ta chê cười, Mai nói “Thiếp dám nói là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, quyết không lầm đâu”. Hôm sau Mai qua nói chuyện với bà Trương, bà hoảng sợ cho lời ấy là điềm không lành. Mai nói "Tiểu thư nghe nói tới công tử cho là hiền đức, thiếp đã biết ý nên mới nói thế. Người mối tới, hai người chúng ta nói giúp chêm thì việc có thể xong, mà nếu không được thì công tử cũng có gì nhục?", bà Trương nói "Được rồi", rồi nhờ bà bán hoa họ Hầu tới nói. Phu nhân nghe nói phì cười, kể lại với Vương, Vương cũng cười lớn, gọi con gái tới kể lại ý Hầu thị. Cô gái chưa trả lời, Thanh Mai đã ra sức tán tụng Trương sinh hiền đức, đoan chắc là sẽ quý hiển. Phu nhân lại hỏi “Đây là việc trăm năm của con, nếu ăn nổi cháo tấm thì ta sẽ gả ngay". Cô gái cúi đầu hồi lâu rồi ngoảnh mặt vào vách nói "Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng không lâu, mà kẻ không nghèo thì không bao giờ tới bước đường cùng. Còn nếu số không tốt thì những bậc vương tôn gấm vóc trở thành không tấc đất cắm dùi có ít đâu? Việc này xin tùy cha mẹ”. Bản ý Vương bàn với con gái là cũng định tìm một trận cười, khi nghe nàng nói thế thì không vui, nói "Ngươi muốn lấy họ Trương sao?” Cô gái không đáp, hỏi lần nữa vẫn không đáp, Trương tức giận nói "Quân này cốt cách bần tiện không khá được, lại muốn xách bị làm vợ thằng ăn mày, sao không biết nhục mà chết đi cho rồi!". Cô gái đỏ mặt uất ức, rưng rưng nước mắt bước ra, bà mối cũng lủi trốn. Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình. Mấy hôm sau đang đêm qua nhà sinh. Sinh đang đọc sách, giật mình hỏi tới làm gì, thấy nàng ăn nói úp mở liền nghiêm nét mặt từ khước. Mai khóc nói “Thiếp là con nhà tử tế chứ không phải kẻ dâm bôn, thấy chàng hiền đức nên xin theo nương tựa". Sinh nói “Nàng yêu mà bảo ta là người hiền đức, nhưng đang đêm qua lại thì kẻ tự trọng cũng không làm, huống hồ là người hiền đức ư? Phàm trước tư thông mà sau nên vợ chồng, người quân tử còn cho là không được, huống chi nếu không thể nên vợ chồng thì hai bên sẽ tự đặt mình vào đâu?” Mai hỏi “Vậy nếu vạn nhất mà nên được vợ chồng thì có chịu cưu mang cho nhau không?". Sinh đáp “Được người như nàng thì còn mong gì hơn, nhưng có ba điều không thể làm sao được nên không dám khinh suất nhận lời". Mai hỏi "Ba điều gì?", sinh đáp "Nàng không thể tự chủ thì không thể làm sao được, nếu nàng có thể tự chủ mà cha mẹ ta không bằng lòng thì không thể làm sao được, nếu cha mẹ ta bằng lòng mà thân nàng cao giá, ta nghèo không lo nổi thì càng không biết làm sao được. Thôi nàng về ngay đi, chuyện giàn bầu ruộng dưa[B]*[/B] đáng sợ lắm”. Mai sắp đi lại dặn "Nếu chàng có lòng, xin cùng lo toan", sinh nhận lời. * Chuyện giàn bầu ruộng dưa: nguyên văn là "qua lý chi hiềm", lấy ý câu "Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan" (Đi ngang ruộng dưa thì đừng xỏ giày, đi ngang giàn bầu thì đừng sửa mũ), thì việc người quân tử thận trọng để tránh bị hiềm nghi. Mai về, cô gái hỏi đi đâu, bèn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn toan đánh đòn, Mai khóc nói không có làm chuyện gì khác nhân kể thật mọi chuyện. Cô gái than “Không đi lại cẩu thả là có lễ phải thưa với cha mẹ là có hiếu, không khinh suất nhận lời là có tín. Có ba đức ấy ắt trời sẽ giúp, không lo gì nghèo đâu”. Kế hỏi “Em định thế nào?” Mai thưa "Làm vợ chàng". Cô gái cười nói "Con nhãi ngây có thể tự chủ sao?". Mai nói "Không được thì chỉ còn chết thôi". Cô gái nói "Ta sẽ làm cho ngươi được như nguyện", Mai dập đầu lạy tạ. Lại qua vài hôm, Mai nói với cô gái "Hôm trước là nói đùa hay quả có lòng từ bi thật? Nếu quả thế thì còn chút việc mọn xin rủ lòng thương cho trọn". Cô gái hỏi việc gì, Mai đáp "Trương sinh không có nhiều tiền cưới vợ mà tiểu tỳ cũng không có sức tự chuộc mình, nếu đòi nhiều tiền thì có chịu gả thiếp cũng như không gả mà thôi". Cô gái ngẫm nghĩ rồi nói "Việc này thì ta không làm được rồi. Ta nói gả chồng cho ngươi sợ còn chưa được, huống hồ còn nói không đòi tiền chuộc, điều ấy thì đại nhân ắt không nghe, mà ta cũng không dám nói kia". Thanh Mai nghe thế nước mắt ròng ròng, chỉ xin thương xót cứu vớt. Cô gái nghĩ hồi lâu rồi nói "Thôi vậy, ta có để dành riêng được vài lượng vàng, sẽ dốc túi ra giúp”. Mai lạy tạ, nhân lén qua nói với Trương. Mẹ Trương cả mừng tìm đủ cách vay mượn được đủ số cất đó chờ tin mừng. Vừa gặp lúc Vương được bổ làm Huyện lệnh Khúc ốc (tỉnh Sơn Tây), Hỷ nhân dịp nói với mẹ “Thanh Mai đã lớn, nay cha sắp phó nhiệm, chẳng bằng cho nó ra". Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại rủ rê con gái làm chuyện không hay, thường muốn gả đi mà sợ nàng không bằng lòng, nghe nàng nói thế mừng lắm. Qua hai ngày có người đàn bà làm thuê lên thưa lại ý của họ Trương, Vương cười nói "Nhà ấy chỉ xứng với tỳ nữ nhà ta thôi, lần trước sao càn rỡ thế. Nhưng mua tỳ thiếp nhà quan thì phải trả giá gấp đôi". Cô gái vội bước lên nói "Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán làm thiếp thì thật không nỡ". Vương bèn nhắn nhà họ Trương mang đủ số tiền mua ngày trước qua làm giấy tờ rồi gả Thanh Mai cho sinh. Về tới nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ân cần chăm sóc còn hơn cả sinh, mà làm lụng lại siêng năng, ăn uống cực khổ vẫn vui vẻ, vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm việc thêu thùa, hàng bán rất chạy, người mua cứ tới chờ ở cửa chỉ sợ không mua được, có thêm ít tiền nên nhà cũng đỡ túng thiếu. Lại thường khuyên chồng đừng lo việc nhà mà bỏ lỡ việc học, mọi chuyện trong nhà tự xin cáng đáng cả. Nhân chủ cũ lên đường phó nhiệm, nàng qua tiễn A Hỷ. Hỷ thấy nàng khóc nói "Em có nơi có chốn rồi, chứ ta thì không biết sẽ ra sao". Mai đáp “Được thế này là nhờ ai mà dám quên, nhưng xin đừng nói là không bằng tiểu tỳ làm tiểu tỳ giảm thọ", rồi khóc mà chia tay nhau. Vương tới đất Tấn nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng không đủ ăn, đầy tớ đều bỏ trốn. Lúc ấy có trận dịch lớn, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một bà già ở với cô gái, không bao lâu bà già cũng chết, cô gái càng lênh đênh khổ cực. Có bà già láng giềng khuyên đi lấy chồng, nàng nói "Ai chôn cất được cha mẹ sẽ xin theo về. Bà già thương xót cho đấu gạo rồi về, nửa tháng sau lại qua nói "Ta đã hết sức giúp nương tử nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không thể chôn cất cha mẹ cô, kẻ giàu thì chê cô là hậu duệ của gia dình sa sút, biết làm thế nào? Còn có một cách nhưng sợ nương tử không theo được thôi". Nàng hỏi "Cách gì?” bà đáp "Ở đây có Lý lang muốn lấy vợ lẽ, nếu nhìn thấy dung nhan nương tử thì dù đòi tống táng cha mẹ thật linh đình ắt cũng không tiếc tiền". Nàng khóc òa nói "Thiếp là con quan mà phải đi làm lẽ người ta sao?”, bà già im lặng bỏ đi. Kế mỗi ngày nàng chỉ có một bữa cơm, cố sống để chờ người hỏi cưới nhưng được nửa năm thì không sao chi trì được nữa. Một hôm bà già tới, nàng khóc nói “Khốn đốn thế này chỉ muốn tự tử, sở dĩ còn chần chừ sống tạm chỉ vì quan tài cha mẹ còn đó, mình đã phơi xác nơi ngòi rãnh thì ai thu nhặt nắm xương song thân, nên nghĩ lại chăng bằng nghe theo lời bà". Bà già bèn dẫn Lý tới, vừa thoạt thấy nàng đã rất ưa thích, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, hai chiếc quan tài hạ huyệt xong thì đón cô gái về. Vào chào vợ cả, vợ cả vốn dữ tợn hay ghen, lúc đầu Lý chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là tỳ nữ mới mua. Đến khi gặp nàng vợ Lý đùng đùng nổi giận, đánh đập đuổi ra không cho vào nhà. Cô gái tóc tai rũ rượi, nước mắt giàn giụa, không còn nơi lui tới. Có ni cô già đi ngang thấy thế mời về ở cùng, nàng mừng rỡ theo về. Vào tới trong am, nàng lạy xin xuống tóc cho, ni cô không cho, nói “Ta thấy nương tử không phải là kẻ chịu kiếp phong trần, trong am chén sành gạo xấu cũng tạm đủ sống, cứ tạm ở lại chờ thời, đến thời cô sẽ tự đi mà". Không bao lâu, bọn vô lại trong chợ thấy nàng đẹp, cứ tới đập cửa buông lời cợt nhã làm vui, ni cô không ngăn cấm được, nàng gào khóc định tự tử. Ni cô tới xin ông Mỗ ở bộ Lại ra yết thị nghiêm cấm đám thiếu niên vô lại mới hơi nín tiếng. Sau đang đêm có kẻ khoét tường nhà chùa, ni cô hô hoán mới bỏ đi, vì thế lại báo lên quan bộ Lại, bắt được tên cầm đầu đưa tới quận phạt roi mới dần dần được yên. Lại được hơn năm, có vị công tử nhà quyền quý đi qua am, thấy cô gái vô cùng kinh ngạc, ép ni cô dỗ dành nàng, lại đưa nhiều tiền đến đút lót. Ni cô tìm lời dịu ngọt nói “Nàng ta là con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về, để thong thả chắc chắn ta sẽ làm được theo lệnh". Lúc công tử đi rồi, cô gái toan uống thuốc độc tự tử, đêm nằm mơ thấy cha tới, buồn thảm nói "Ta không theo ý con khiến con phải tới nông nỗi này, ăn năn đã muộn nhưng con đừng vội chết, ước nguyện cũ vẫn có thể thành mà", nàng lấy làm lạ. Sáng ra rửa mặt xong, ni cô nhìn thấy giật mình nói "Nhìn mặt em trọc khí đã tiêu hết, bọn càn rỡ không đáng lo nữa. Phúc sẽ tới, đừng quên già này đấy”, chưa dứt lời thì nghe tiếng gõ cửa, cô gái thất sắc nghĩ ắt là đầy tớ nhà công tử, ni cô ra mở cửa quả đúng. Bọn chúng xúm vào hỏi tính việc thế nào, ni cô ngọt ngào giả lả xin hoãn ba ngày nữa. Chúng nhắn lại lời chủ "Nếu việc không xong thì mụ vãi liệu hồn", ni cô líu ríu vâng dạ, chúng bèn bỏ đi. Cô gái vô cùng đau xót, lại muốn tự tử, ni cô ngăn lại. Nàng lo ba ngày nữa chúng trở lại không biết trả lời thế nào, ni cô nói “Có lão thân ở đây, chém giết gì cứ để ta chịu cho”. Hôm sau vừa đến buổi trưa thì mưa như trút nước, chợt nghe có mấy người đập cửa réo gọi ầm ĩ, cô gái nghĩ rằng lại có chuyện, khiếp sợ không biết làm sao. Ni cô đội mưa ra mở cổng, thấy có chiếc kiệu thơm dừng lại, mấy người tỳ nữ đỡ một người đẹp bước ra, đám tùy tùng đều oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Ni cô ngạc nhiên hỏi thì họ đáp là gia quyến quan Tư lý tạm vào tránh mưa, bèn đưa vào trong điện dời sập mời ngồi. Bọn tỳ nữ tớ gái túa vào thiền phòng tìm chỗ nghỉ, vào trong thấy cô gái đẹp quá liền chạy ra bẩm với phu nhân. Không bao lâu tạnh mưa, phu nhân đứng lên xin đi xem thiền phòng, ni cô liền đưa vào. Phu nhân nhìn thấy cô gái giật nảy mình nhìn không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại hồi lâu, thì ra phu nhân không phải ai khác mà chính là Thanh Mai. Hai người đều khóc lớn, nhân mới cùng kể lại chuyện đã qua, mới biết Trương ông đã ốm chết, Trương sinh mãn tang xong, liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội, được bổ làm Tư lý, đưa mẹ tới nơi phó nhiệm trước còn gia quyến đi sau. Cô gái than “Hôm nay nhìn nhau sao thấy như một trời một vực?". Mai cười đáp "May là nương tử gặp bước gian truân chưa lấy chồng, chính vì trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản trở thì làm sao có cuộc gặp gỡ này được, bên trong là có quỷ thần chứ không phải sức người làm được đâu”. Bèn lấy mũ ngọc áo gấm ra giục cô gái thay, nàng cúi đầu ngần ngừ, ni cô cũng khuyên nhủ. Cô gái lo cùng ở chung thì danh không được thuận, Mai nói “Danh phận đã có từ trước, tiểu tỳ đâu đám quên ơn lớn, vả lại cứ nghĩ xem Trương lang có phải là kẻ phụ nghĩa đâu?", rồi ép nàng thay quần áo, từ biệt ni cô ra đi. Tới nơi, mẹ con Trương đều mừng rỡ, cô gái lạy nói "Ngày nay không mặt mũi nào nhìn mẹ!". Mẹ cười an ủi, nhân bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói "Nếu trong am chỉ còn một đường sống bằng sợi tơ thì cũng không chịu theo phu nhân tới đây đâu, nếu còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn ngồi niệm phật là đủ. Mai cười không nói gì, đến ngày ôm các thứ trang sức lộng lẫy đến, cô gái hai bề không biết tính sao. Giây lát nghe tiếng đàn sáo rộn rã, nàng càng không tự chủ được Mai sai đám tỳ nữ ép nàng mặc áo rồi kéo dìu ra. Thấy sinh mặc triều phục vái lạy, nàng bất giác cũng vái theo. Mai kéo nàng vào động phòng, nói "Để trống chỗ này chờ chị lâu rồi", kế ngoảnh nhìn sinh nói "Đêm nay được dịp đền ơn phải làm cho tốt đấy", rồi quay người bước ra. Cô gái nắm ống quần kéo lại, Mai cười nói “Đừng giữ thiếp lại, chuyện này thì không làm thay nhau được đâu”, rồi gỡ ngón tay cô gái ra bỏ đi. Thanh Mai thờ phụng cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái, mà nàng vẫn thẹn thùng áy náy. Vì vậy mẹ bảo cùng gọi nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám bê trễ. Ba năm sau Trương được triệu về kinh, qua am ni cô, đem năm trăm lượng vàng để tạ ơn ni cô không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lượng, dựng đền Đại sĩ[B]*[/B] lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương làm quan tới chức Thị lang, Trình phu nhân sinh được hai trai một gái, Vương phu nhân sinh được bốn trai một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong là Phu nhân. *Đại sĩ: tức Quan âm Đại sĩ, một danh hiệu khác của Quan Thế âm Bồ tát. [B]Dị Sử thị nói: [/B][I]Trời sinh người đẹp là để đền đáp cho những kẻ tài giỏi, nhưng những bậc vương công trên đời lại đem tặng cho đám con em nhà giàu sang khiến cho tạo vật có chuyện tranh giành. Nhưng lại ly ly kỳ kỳ, làm đủ cách để tác hợp cho người, hóa công cũng khổ làm sao! Chỉ có Thanh phu nhân riêng biết kẻ anh hùng lúc còn hàn vi, quyết tâm theo bằng được, đến chết mới thôi. Những kẻ nghiễm nhiên đội mão mặc áo lại bỏ đức hạnh mà mong sang giàu, sao mà thua trí một người tỳ nữ tới mức như vậy.[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top