Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164988" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 74 -</strong></p><p>Thần ếch</p><p>(Thanh Oa Thần)</p><p></p><p>Vùng Giang Hán thờ cúng thần ếch rất kính cẩn, trong đền không biết là bao nhiêu ngàn vạn con ếch, có con to bằng cái lồng. Có ai xúc phạm làm thần giận thì trong nhà liền có điềm lạ, ếch nhái nhảy cả lên bàn lên giường, thậm chí bám đầy trên vách không rơi xuống, nhà ấy sẽ gặp tai họa. Người ta sợ hãi cứ cúng tế cầu khẩn, nếu thần vui lòng thì khỏi. Đất Sở (tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) có Tiết Côn Sinh lúc nhỏ thông minh, diện mạo tuấn tú. Năm lên sáu bảy tuổi có bà già áo xanh tới nhà tự xưng là sứ giả của thần, vào ngồi trò chuyện ngỏ ý thần muốn gả con gái cho Côn Sinh. Ông Tiết tính chất phác vụng về nghe thế rất không thích, liền lấy cớ con trai còn nhỏ để từ chối, nhưng tuy cố từ chối vẫn chưa dám hỏi cưới con gái nhà khác.</p><p>Được vài năm Côn Sinh dần lớn lên, dạm hỏi con gái họ Khương, thần nói với Khương “Tiết Côn Sinh là con rể của ta, sao ngươi dám ăn đồ cúng hả?". Khương sợ hãi trả lại sính lễ, ông Tiết lo lắng trai giới mang lễ vật ra đền khấn khứa, tự nói không dám kết thông gia với thần. Vừa khấn xong thì thấy cỗ bàn cúng tế đều có giòi lớn bò ra lúc nhúc cựa quậy, bèn đổ bỏ tạ tội rồi về, trong lòng càng sợ nhưng cũng chờ để nghe ngóng xem sao.</p><p>Một hôm Côn Sinh đi đường có sứ giả đón báo thần tuyên triệu, cố mời ghé lại, sinh bất đắc dĩ phải đi theo. Vào tới một phủ đệ cánh cổng sơn son, lầu gác hoa lệ, có ông già ngồi trên sảnh đường, trông như người bảy tám mươi tuổi. Côn Sinh vào lạy ra mắt, ông già sai kéo đứng lên, cho ngồi cạnh bàn. Giây lát đám tỳ nữ, vú già tụ tập lại nhìn ngó dày đặc chung quanh, ông già quay lại nói "Vào trong báo là Tiết lang tới". Mấy người tỳ nữ chạy đi, lát sau có bà già đỡ một nữ lang ra, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song. Ông già chỉ nàng nói "Đây là tiểu nữ tên Thập Nương, ta tự cho rằng có thể sánh đôi với chàng, nhưng cha chàng lại cho là khác loài nên cự tuyệt, vậy thì do chàng thôi". Côn Sinh chăm chú nhìn Thập Nương, trong lòng yêu thích, im lặng không nói gì. Bà già nói “Ta đã biết là chàng ưng thuận, xin cứ về trước, sẽ lập tức đưa Thập Nương tới ngay”. Côn Sinh vâng dạ rồi vội về kể vớì cha. Cha hốt hoảng không biết làm sao đành ưng thuận, sai con quay lại tạ ơn thần nhưng Côn Sinh không chịu đi.</p><p>Đang lời qua tiếng lại thì kiệu hoa đã tới ngoài cổng, cả đám tỳ nữ xúm xít đưa Thập Nương vào. Nàng lên sảnh đường làm lễ, cha mẹ chồng thấy mặt đều vui mừng. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, cầm sắt rất hòa hợp. Từ đó vợ chồng thần thường giáng lâm nhà sinh, cứ thấy mặc áo đỏ là có tin vui, mặc áo tràng là có tiền bạc, vì vậy nhà ngày càng khá giả. Từ khi Côn Sinh cưới Thập Nương thì khắp nhà từ hàng rào đến cầu xí đều có ếch, mọi người không ai dám chửi bới giẫm đạp, chỉ có Côn Sinh tuổi trẻ ngông nghênh, vui thì thôi giận thì đạp cho chết chẳng thương xót gì lắm. Thập Nương tuy hiền lành nhu thuận nhưng hay giận, rất không thích việc ấy song Côn Sinh không vì có Thập Nương mà kiềm chế. Thập Nương bực tức nói năng có chỗ xúc phạm, Côn Sinh nổi giận nói "Ngươi cậy cha mẹ có thể gieo tai họa cho người ta à? Trượng phu có sợ gì con ếch?". Thập Nương nghe thế giận lắm, nói "Từ khi thiếp về đây thì nhà chàng ruộng thêm lúa, buôn thêm lời không phải là ít, nay cả nhà già trẻ đều được no ấm, lại như chim vọ mọc cánh rồi thì muốn mổ mắt chim mẹ sao?". Côn Sinh càng tức tối, nói “Ta đang ngại nhận thêm những thứ nhơ bẩn, không dám lưu lại cho con cháu, xin cứ chia tay cho sớm", rồi đuổi Thập Nương.</p><p>Cha mẹ vừa nghe tin thì Thập Nương đã đi rồi, bèn quát mắng Côn Sinh, sai mau đuổi theo giữ lại nhưng Côn Sinh căm tức không chịu. Đến đêm mẹ con đều ngã bệnh, trong người bứt rứt không ăn uống gì được. Ông Tiết sợ hãi tự mang roi tới đền thần tạ lỗi, thiết tha nài nỉ. Qua ba ngày thì hai người dần dần khỏi bệnh, Thập Nương tự quay về, vợ chồng lại đầm ấm như trước. Thập Nương hàng ngày cứ trang điểm xong là ngồi yên, không làm việc nội trợ, những áo quần giày tất của Côn Sinh đều nhờ mẹ khâu vá. Một hôm mẹ bực tức nói "Con trai đã có vợ còn làm phiền mẹ, nhà người ta thì con dâu hầu mẹ chồng, nhà này thì mẹ chồng hầu con dâu”. Thập Nương nghe thấy tức tối lên thêm nói "Con buổi sớm tới thăm, buổi tối tới viếng, đạo thờ mẹ chồng còn gì khác nữa? Còn như việc con kém cỏi, thì thật không thể tiếc chút tiền thuê mướn mà chuốc khổ vào thân được". Mẹ không biết nói sao, hổ thẹn khóc lóc.</p><p>Côn Sinh vào thấy mắt mẹ có ngấn lệ, hỏi biết được chuyện giận dữ mắng Thập Nương, Thập Nương cứ giữ ý mình không chịu thua. Côn Sinh nói "Lấy vợ mà không được vui sướng thì chẳng bằng đừng có, cho dù làm con ếch già giận thì bất quá cũng chỉ gặp nạn dữ mà chết là cùng”, lại đuổi Thập Nương, Thập Nương ra cửa đi thẳng. Hôm sau nhà Côn Sinh phát hỏa, lửa lan ra cháy rụi cả mấy gian, bàn ghế giường tủ đều thành tro. Côn Sinh tức giận tới đền thần quát mắng kể tội, nói "Nuôi con gái không thờ phụng được cha mẹ chồng, đã không dạy bảo gì mà lại còn bao che cái dở của con, thần là phải rất công bằng mà lại dạy người ta sợ vợ à? Vả lại việc bát đũa va chạm là do ta gây ra, không dính líu gì tới cha mẹ, muốn đâm chém cưa xẻ gì cứ nhằm vào ta thôi. Còn nếu không thế thì ta cũng đốt đền của ông để trả thù”. Nói xong vác củi vào chất dưới điện định châm lửa, dân quanh đó xúm lại năn nỉ mới tức tối bỏ về, cha mẹ nghe được đều sợ tái mặt.</p><p>Đến đêm thần báo mộng cho thôn bên cạnh, sai cất lại nhà cho con rể, sáng ra thì kẻ mua gỗ người mướn thợ kéo tới làm nhà cho Côn Sinh, từ chối thế nào họ cũng không chịu thôi, hàng ngày có mấy trăm người gọi nhau trên đường. Không mấy ngày thì nhà cửa đều xây xong, mọi thứ đồ dùng đều đầy đủ. Vừa dọn dẹp đâu đấy thì Thập Nương đã tới, lên thềm tạ lỗi với cha mẹ, ăn nói nhỏ nhẹ từ tốn rồi quay qua Côn Sinh tươi cười cả nhà bèn đổi oán làm vui. Từ đó Thập Nương càng hiền dịu, suốt hai năm không có chuyện xích mích. Thập Nương rất ghét rắn, Côn Sinh đùa bắt một con rắn nhỏ bỏ vào hộp bảo nàng mở ra. Thập Nương biến sắc mắng nhiếc, Côn Sinh cũng đổi cười thành giận tức tối cãi vã, Thập Nương nói “Lần này thì không cần phải đuổi, xin vĩnh biệt từ đây”, rồi ra cửa đi. Ông Tiết cả sợ đánh đòn Côn Sinh rồi tới tạ tội với thần, may mà không bị giáng họa nhưng cũng lặng ngắt không thấy đáp lại.</p><p>Hơn năm sau Côn Sinh nhớ Thập Nương, vô cùng hối hận, lén tới chỗ thần năn nỉ Thập Nương nhưng không ai trả lời. Không bao lâu nghe tin thần gả Thập Nương cho họ Viên, vô cùng thất vọng, cũng dạm hỏi người khác nhưng xem mặt mấy đám đều không có ai bằng Thập Nương, vì vậy càng thêm nhớ nhung. Tới nhà họ Viên nghe ngóng thì thấy họ đang quét dọn nhà cửa, sửa sang xe kiệu chuẩn bị đám cưới. Trong lòng thẹn thùng uất ức không thể tự chủ, bỏ ăn ngã bệnh, cha mẹ hoảng sợ lo lắng nhưng không biết làm sao. Chợt đang lúc mê man thấy có người vỗ về lay gọi, nói "Đại trượng phu mấy lần muốn dứt tình mà như thế này sao?”, mở mắt nhìn thì là Thập Nương. Côn Sinh mừng quýnh nhảy bật dậy hỏi “Sao nàng lại tới đây?", Thập Nương đáp “Vì gã khinh bạc đối xử với nhau tệ bạc, chỉ nên nghe lời cha mẹ mà lấy người khác nên từ lâu đã nhận sính lễ của nhà họ Viên, có điều thiếp nghĩ đi nghĩ lại cũng không nỡ. Đêm nay đã là ngày cưới, cha lại cho rằng không mặt mũi nào trả lại sính lễ nên đích thân thiếp đem tới trả. Lúc đi cha thiếp đưa ra cửa nói: ‘Con nhãi ngây không nghe lời ta, sau này có bị nhà họ Tiết đối xử tàn tệ thì có chết cũng đừng về đây nữa’ ".</p><p>Côn Sinh cảm vì tình nghĩa của nàng chảy nước mắt ròng ròng, gia nhân cùng mừng rỡ chạy đi báo cho ông bà hay. Bà Tiết nghe tin không chờ nàng qua chào, vội tới phòng con trai nắm tay nàng òa khóc. Từ đó Côn Sinh cũng trở nên đứng đắn không đùa ác nữa, vợ chồng vì thế càng yêu thương nhau. Thập Nương nói "Trước đây thiếp cho rằng chàng là người khinh bạc, chưa chắc đã sống được với nhau đến lúc bạc đầu nên không dám lưu lại con cái nơi trần thế. Nay chàng đã không có ý khác, thiếp sẽ sinh con trai”. Không bao lâu vợ chồng thần mặc áo đỏ giáng lâm nhà sinh, hôm sau Thập Nương lâm bồn, sinh một lần được hai con trai, từ đó hai bên đi lại không dứt. Dân quanh vùng nếu có ai xúc phạm làm thần giận cứ tới năn nỉ với Côn Sinh trước, sai đàn bà ăn mặc đẹp đẽ vào phòng vái lạy Thập Nương, nếu nàng cười thì được thần tha tội. Con cháu họ Tiết rất đông, người ta gọi là nhà Tiết ếch, nhưng người ở gần không dám gọi thế, chỉ có người ở xa gọi mà thôi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 75 -</strong></p><p>Vãn Hà (Vãn Hà)</p><p></p><p>Tiết Đoan ngọ ở vùng Ngô Việt có trò đua thuyền rồng. Người ta chạm gỗ làm thuyền hình con rồng, vảy rồng sơn son thếp vàng, mạn thuyền đều chạm trổ, lấy gấm thêu làm buồm. Cuối thuyền là đuôi rồng, cao hơn một trượng, dùng dây vải kết làm sạp, có đứa con trai nhỏ ngồi trên đó múa may nhảy nhót diễn các trò khéo, bên dưới là sông sâu rất nguy hiểm. Cho nên thuê đứa trẻ ấy thường đưa nhiều tiền cho cha mẹ trước để dạy nó luyện tập, nếu rơi xuống nước chết cũng không được oán hận.</p><p></p><p>Ở vùng Ngô Môn (Tô Châu) thì cho các ca kỹ xinh đẹp đứng trên đuôi thuyền múa hát, cũng có khác nhau. Ở huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) có đứa nhỏ họ Tưởng tên A Đoan, mới bảy tuổi đã giỏi diễn những trò khéo không ai hơn được hết nên rất nổi tiếng. Năm mười sáu tuổi người ta vẫn còn thuê, nhưng thuyền đua tới núi Kim Sơn thì rơi xuống nước chết đuối, bà Tưởng chỉ có đứa con ấy nhưng cũng đành đau xót khóc lóc mà thôi.</p><p></p><p>A Đoan không biết mình đã chết, được hai người tới dẫn đi, thấy dưới nước cũng có một cõi trời đất riêng, ngoái nhìn thì thấy sóng nước vây quanh cao như vách núi. Chợt có cung điện hiện ra, thấy một người mặc giáp trụ ngồi trên điện, hai người kia nói "Đó là Long Oa quân", rồi bảo A Đoan vái lạy. Long Oa quân vẻ mặt ôn hòa vui vẻ nói "Tài khéo có thể cho vào ban Liễu Điều” hai người bèn dẫn A Đoan tới một chỗ bốn phía cung điện rộng rãi. Rảo bước lên hành lang phía đông thì có một bọn thiếu niên ra chào hỏi, đều khoảng mười ba mười bốn tuổi, kế có một bà già tới, mọi người gọi là bà Giải, lên ngồi sai diễn trò thử. Kế bèn dạy điệu múa Sấm ran sông Tiền Đường và khúc nhạc Gió dịu hồ Động Đình, chỉ nghe chiêng trống ầm ầm vang rền các cung điện. Khi tiếng chiêng trống đã tắt, bà già sợ A Đoan không thể nhớ hết, cứ dặn đi dặn lại. Nhưng A Đoan học qua một lần đã hiểu rõ cả, bà già mừng rỡ nói "Được thằng nhỏ này thật chẳng thua kém gì A Hà".</p><p></p><p>Hôm sau Long Oa quân tổng duyệt các ban ca vũ, các ban đều tập hợp cả lại. Đầu tiên duyệt ban Dạ Xoa, đều là mặt quỷ áo da cá, chiêng lớn chu vi khoảng bốn thước, trống thì khoảng bốn người ôm, tiếng như sấm sét, có gào thét cũng không nghe thấy gì. Ban ấy vừa múa thì sóng lớn nổi cuồn cuộn dâng lên ngang trời, liền có một điểm tinh quang trên trời sa xuống, tới đất thì tắt, Long Oa quân vội sai dừng lại. Sai ban Khổng Oanh ra, đều là mỹ nhân mười sáu tuổi thổi sinh gõ phách dìu dặt, liền có gió mát hây hây, tiếng sóng tắt hẳn, mặt nước êm ả trong suốt như một cõi pha lê nhìn rõ cả trên dưới, diễn xong thì đều lui vào đứng dưới thềm phía tây. Kế tới ban Yến Tử, đều kết bím tóc rũ xuống, trong có một nữ lang tuổi khoảng mười bốn mười lăm trở lại rung tay áo nghiêng búi tóc múa điệu Rắc hoa chập chờn qua lại, trên khắp người tung ra những đóa hoa ngũ sắc theo gió lả tả rụng xuống rải khắp trên sân, múa xong thì theo ban cũng lui vào dưới thềm phía tây.</p><p></p><p>A Đoan đứng bên cạnh nhìn trong lòng ưa thích, hỏi người cùng ban thì nàng ấy là Vãn Hà. Không bao lâu lại gọi tới ban Liễu Điều, Long Oa quân đặc biệt thử tài một mình A Đoan. Đoan liền múa theo điệu đã được dạy, vẻ vui mừng giận dữ hiện ra theo điệu nhạc, lui tới qua lại ăn khớp với tiết tấu, Long Oa quân khen là sáng dạ, thưởng cho nhung phục ngũ sắc và trâm cài đầu hình cá trên khảm ngọc dạ quang. A Đoan vái lạy tạ ơn rồi cũng rảo bước về thềm phía tây đứng vào ban. Đoan đứng giữa đám đông cứ nhìn Vãn Hà chằm chằm. Vãn Hà cũng từ xa chăm chú nhìn lại. Giây lát Đoan theo ban từ từ đi về phía bắc, Vãn Hà cũng thong thả theo ban đi về phía nam, cách nhau có mấy quãng đường phép nghiêm không dám làm rối loạn hàng ngũ, chỉ nhìn nhau ngây ngất mà thôi.</p><p></p><p>Kế duyệt tới ban Giáp Điệp, đều là đồng nam đồng nữ từng cặp ra múa, đứa cao đứa thấp, đứa lớn đứa nhỏ nhưng đều mặc áo quần màu trắng màu vàng một loạt như nhau. Các ban duyệt xong xếp hàng đi ra, ban Liễu Điều đi sau ban Yến Tử, Đoan rảo bước lên phía trên thì Vãn Hà đã thong thả lui về phía cuối, ngoảnh lại nhìn Đoan rồi cố ý đánh rơi chiếc trâm bằng san hô, Đoan vội nhặt lấy cho vào tay áo.</p><p></p><p>Về tới chỗ ở tơ tưởng thành bệnh bỏ ăn bỏ ngủ, bà Giải cứ mang thức ăn ngon tới cho, mỗi ngày ba bốn lần vào thăm hỏi, chăm sóc rất ân cần mà bệnh vẫn không hề giảm. Bà Giải lo lắng không biết làm sao, nói “Đã sắp đến ngày mừng thọ của Ngô Giang vương, làm sao bây giờ?”. Chiều tối có một đồng tử tới vào ngồi bên giường trên chuyện với Đoan, tự nói là trong ban Giáp Điệp rồi thong thả hỏi “Anh bệnh vì Vãn Hà phải không?”, Đoan giật mình hỏi sao biết, nó cười đáp “Chị Vãn Hà cũng như anh thôi". Đoan buồn rầu ngồi dậy nhờ tìm cách giúp cho, đồng tử hỏi “Anh đi được không?" Đoan đáp “Cố gắng thì cũng được”, đồng tử bèn kéo Đoan ra, đi về phía nam, qua một cánh cửa thì vòng qua phía tây, lại mở hai lần cửa nữa thì thấy mấy mươi mẫu sen mọc trên đất bằng, tàu lá to như cái chiếu, cánh hoa to như cái lọng, đài hoa rụng xuống đất chất cao cả thước.</p><p></p><p>Đồng tử dẫn Đoan vào đó, nói “Cứ ngồi tạm ở đây” rồi đi. Giây lát một mỹ nhân rẽ hoa sen bước vào, thì là Vãn Hà. Hai nguời gặp nhau vừa mừng vừa sợ, cùng kể lể nỗi nhớ nhung rồi thuật qua chuyện mình. Kế lấy lá dằn lên lá sen che kín lại, vun đài hoa rụng làm chiếu rồi vui vẻ ân ái với nhau, kế hẹn chiều hôm sau gặp lại rồi chia tay. Đoan về thì bệnh cũng giảm từ đó ngày nào hai người cũng gặp nhau ở bãi sen. Qua vài hôm thì theo Long Oa quân tới chúc thọ Ngô Giang vương, chúc thọ xong các ban đều về, chỉ còn Vãn Hà và một người trong ban Khổng Oanh ở lại dạy múa trong cung Ngô Giang vương, vài tháng không có tin tức gì.</p><p></p><p>Đoan sốt ruột trông ngóng, thì có bà Giải hàng ngày lui tới phủ Ngô Giang vương, bèn bịa rằng Vãn Hà là em họ ngoại của mình, xin bà dẫn đi thăm mong được gặp mặt một lần. Nhưng ở lại trong phủ Ngô Giang vương mấy ngày mà cung cấm thâm nghiêm, Vãn Hà lại không sao ra được đành rầu rĩ trở về, hơn một tháng thì nhớ nhung mỏi mòn sắp chết. Một hôm bà Giải vào, đau xót chia buồn nói “Tiếc thay, Vãn Hà nhảy xuống sông tự tử rồi”. Đoan kinh sợ chảy nước mắt ròng ròng không sao cầm được, vứt mũ xé áo mang vàng ngọc bỏ ra, định chết theo Vãn Hà, nhưng thấy nước trong sông như bức vách, ra sức lấy đầu húc mà vẫn không vào được cũng muốn quay về song sợ bị hỏi tới mũ áo tội sẽ nặng thêm, trong lòng quẫn bách, mồ hôi toát ra khắp người.</p><p></p><p>Chợt thấy trên vách sóng có một cây đại thụ bèn bám vào trèo lên, dần dần lên tới ngọn cây rồi hết sức nhảy xuống, may không bị ướt mà thấy mình nổi trên mặt nước. Trong lúc bất ngờ lại chợt thấy cõi trần, bèn bì bõm bơi đi. Giây lát vào tới bờ, lên khỏi bến sông nhớ tới mẹ già liền thuê thuyền về. Về tới quê nhìn cảnh vật bốn bề thấy như đã trải qua kiếp khác. Hôm sau về tới nhà, chợt nghe sau cửa sổ có người con gái nói “Con mẹ tới rồi”, giọng nói rất giống Vãn Hà, kế cùng với mẹ bước ra, quả là Hà thật. Lúc ấy hai người mừng rỡ quên hết nỗi đau xót mà bà mẹ thì đau xót ngờ vực, sợ hãi mừng rỡ xen lẫn.</p><p></p><p>Lúc trước Vãn Hà ở trong phủ Ngô Giang vương thấy trong bụng máy động mà phép tắc dưới Long cung rất nghiêm, sợ một sớm một chiều lâm bồn sẽ bị trừng phạt mà không gặp được A Đoan lần nữa, chỉ muốn tìm cái chết bèn nhảy xuống sông tự tử. Thân thể nổi lên dật dờ trong sóng, được người khách đi thuyền vớt lên, hỏi tới quê quán thì Hà vốn là ca kỹ nổi tiếng ở đất Ngô chết đuối không tìm được xác, tự nghĩ không thể trở lại kỹ viện bèn nói “Họ Tưởng ở Trấn Giang là chồng ta”, người khách bèn thuê thuyền cho về tới nhà. Bà Tưởng ngở là lầm, nàng nói là không lầm rồi kể rõ tình thật, bà thấy nàng xinh đẹp phong vận nên rất yêu mến. Kế lại nghĩ nàng còn quá trẻ, ắt không phải là kẻ chịu ở góa, nhưng cô gái rất cung kính hiếu thảo, thấy nhà nghèo bèn cởi châu báu trang sức bán được vài vạn đồng mang về, bà Tưởng thấy nàng không có ý gì khác rất mừng.</p><p></p><p>Nhưng vì không có con trai ở nhà nên sợ lúc nàng sinh nở thì họ hàng láng giềng không tin, cô gái nói "Cốt là mẹ được cháu nội thật chứ cần gì người ta biết", bà cũng yên lòng. Đến lúc ấy Đoan về, cô gái mừng quýnh, bà mẹ cũng ngờ là con không chết, lén đào mộ con lên thì hài cốt đều còn đó bèn đem chuyện căn vặn Đoan. Đoan mới sực hiểu nhưng sợ Vãn Hà chê mình không phải là người bèn dặn mẹ đừng nói ra, mẹ cho là phải bèn nói với láng giềng rằng cái xác vớt được trước đây không phải là con mình, nhưng rốt lại cũng sợ Đoan không thể sinh được con trai.</p><p></p><p>Không bao lâu Vãn Hà sinh được một con trai, bế thấy không khác gì trẻ con thường mới vui mừng. Lâu dần cô gái biết được A Đoan không phải là người bèn nói "Sao chàng không nói sớm, phàm là ma mà mặc áo của Long cung qua bốn mươi chín ngày hồn phách sẽ ngưng tụ lại chẳng khác gì người sống. Nếu có keo sừng rồng của Long cung thì có thể nối xương cốt mà sinh da thịt, tiếc là không mua cho sớm". Đoan bán viên ngọc của mình, có người khách buôn đất Hồ bỏ ra trăm vạn đồng để mua, nhờ đó trở thành giàu có cự vạn. Đến ngày mừng thọ mẹ thì vợ chồng múa hát dâng rượu, chuyện dần truyền tới phủ Hoài vuơng.</p><p></p><p>Vương muốn chiếm đoạt Vãn Hà, Đoan sợ hãi vào ra mắt vương tự tâu bày rằng hai vợ chồng đều là ma, vương sai xét nghiệm đều thấy không có bóng nên tin lời không bắt Vãn Hà nữa. Nhưng sai cung nhân ra biệt viện cho nàng dạy múa, Vãn Hà lấy nước đái rùa bôi lên mặt loang lổ che giấu dung mạo rồi mới tới ra mắt. Dạy được ba tháng họ cũng không sao học hết được tài múa, kế nàng trở về.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 76 -</strong></p><p>Bạch Thu Luyện</p><p>(Bạch Thu Luyện)</p><p></p><p>Ở tỉnh Trực Lệ có Mộ sinh tự Thiềm Cung là con thương gia Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Năm mười sáu tuổi cha cho rằng việc văn chương là viễn vông, bắt bỏ học đi buôn. Sinh theo cha tới đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), mỗi khi trong thuyền rảnh rỗi lại ngâm nga đọc sách. Tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc), cha ở lại nhà trọ để giữ hàng, sinh nhân lúc cha đi vắng cầm sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng, cứ thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng như có người nghe trộm nhưng cũng chưa lấy gì làm lạ.</p><p></p><p>Một đêm cha đi uống rượu lâu không về, sinh càng cao giọng ngâm nga, thấy có người quanh quẩn ngoài song, trăng sáng nhìn thấy rất rõ, lấy làm lạ vội bước ra xem thì là một nữ lang tuyệt đẹp khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thấy sinh vội vàng tránh đi. Hai ba ngày sau chở hàng về bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ, cha vừa ra khỏi thuyền thì có bà già bước vào nói "Chàng giết con gái ta rồi". Sinh ngạc nhiên hỏi, bà đáp "Ta họ Bạch, có một gái tên Thu Luyện, cũng hơi biết chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh cao nên đem lòng nhớ nhưng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết duyên, xin đừng chối từ". Sinh thật lòng rất thích nhưng còn lo cha giận, bèn nói thẳng với bà già, bà già không tin bắt phải thề nguyền, sinh không chịu. Bà giận nói “Việc nhân duyên ở đời, có kẻ xin mang sính lễ tới mà còn không được, nay già tự đứng ra làm mối cho con lại bị từ chối thì còn gì nhục bằng, vậy xin đừng nghĩ tới chuyện về Bắc nữa", rồi bỏ đi.</p><p></p><p>Lát sau cha về, sinh khéo léo kể lại, có ý mong cha chấp thuận nhưng cha vì đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái hoài xuân nên cười bỏ qua. Chỗ đậu thuyền nước sâu lút con sào, đến đêm cát sỏi chợt bồi lên, thuyền mắc cạn không xoay trở gì được. Hàng năm thuyền buôn trong hồ vẫn có người ở lại, đến mùa nước hoa đào năm sau hàng hóa nơi khác vẫn chưa kịp chở tới, những hàng trong thuyền đều tăng giá gấp trăm. Cha sinh vì vậy cũng không lo lắng gì lắm, chỉ tính cách làm sao sang năm về Bắc hàng vẫn được giá, bèn để con ở lại còn mình về nhà.</p><p></p><p>Sinh mừng thầm nhưng tiếc là không hỏi rõ nơi ở của bà già. Trời sập tối, bà già cùng một tỳ nữ dìu nữ lang tới, cởi áo khoác đặt nàng lên giường, kế nhìn sinh nói "Người ta bệnh tới mức này, xin đừng nằm khoèo làm ra vẻ vô sự nữa", rồi bỏ đi. Sinh vừa nghe thì hoảng sợ, cầm đèn tới nhìn cô gái thấy đang lúc đau ốm vẫn xinh đẹp, ánh mắt vẫn lóng lánh. Lại gần hỏi han, nàng chỉ cười khẽ. Sinh cố ép lên tiếng thì nàng nói "Câu Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng<strong>*</strong> là vịnh thiếp đấy".</p><p> </p><p>* Vì chàng... cùng chàng: nguyên văn 1à "Vị lang tiều tụy khước tu lang", câu trong bài thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường gởi Trương Quân Thụy.</p><p></p><p>Sinh mừng quýnh muốn thân cận nhưng thương nàng còn yếu nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói "Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài Áo là lớp lớp của Vương Kiến<strong>*</strong> thì sẽ khỏi bệnh". Sinh theo lời, ngâm đến lần thứ hai cô gái đã xốc áo ngồi dậy nói “Thiếp khỏi rồi”, ngâm tiếp thì nàng cất giọng êm ái thỏ thẻ họa theo, sinh thần trí càng bay bổng bèn tắt đèn cùng ngủ. Trời chưa sáng cô gái đã dậy, nói “Mẹ già sắp tới rồi". Không bao lâu quả nhiên bà già tới, thấy con gái đang ngồi tươi tắn trang điểm bất giác mừng rỡ, giục về thì nàng cúi đầu không nói. Bà già lập tức ra về, nói "Ngươi thích vui đùa với lang quân thì mặc ngươi".</p><p></p><p>*Bài áo là... của Vương Kiến: nguyên văn là “Vương Kiến La y diệp diệp chi tác", tức bài Cung từ của Vương Kiến thời Đường, mở đầu bằng câu "La y diệp diệp tú trùng trùng” (áo là lớp lớp chập chùng thêu)</p><p></p><p>Sinh nhân hỏi nhà cửa ở đâu, cô gái nói "Thiếp với chàng chẳng qua là bạn mới quen, việc cưới xin còn chưa chắc chắn, cần gì phải biết nhà cửa, nhưng hai người vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn mở sách ra xem rồi buồn bã rơi lệ. Sinh vội dậy hỏi, nàng đáp "Cha chàng sắp tới đây, chuyện giữa hai ta mới rồi thiếp vừa mở sách bói một quẻ thì được bài <em>Giang Nam khúc</em> của Lý Ích<strong>*</strong>, ý bài thơ không phải là điềm hay". Sinh an ủi nói "Câu đầu bài thơ là <em>Lấy chàng thương lái Cù Đường</em> thì đại cát có gì là không hay”. Cô gái mới hơi vui vẻ, đứng lên từ biệt, nói “Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó". Sinh cầm tay nàng nghẹn ngào hỏi "Nếu việc tốt đẹp thì báo cho nàng ở đâu?”, cô gái đáp “Thiếp vẫn sai người dò la, việc tốt đẹp hay không là biết ngay”. Sinh định lên bờ tiễn chân nhưng nàng cố từ chối rồi đi.</p><p></p><p>*Bài Giang Nam khúc của Lý ích: tức bài thơ của Lý ích thời Đường, nguyên văn là “Giá đắc Cù Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ, Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi" (Lấy chàng thương lái Cù Đường, Sớm hôm chờ đợi xót thương phận mình, Nếu hay con nước đáng tin, Đã theo con nước kết tình phu thê)</p><p></p><p>Không bao lâu quả ông Mộ tới, sinh dần dà thổ lộ tình thật, cha ngờ là dắt kỹ nữ về, nổi giận chửi mắng, đến khi xem kỹ trong thuyền thấy không mất mát chút gì mới thôi. Một đêm ông đi vắng, cô gái chợt tới, hai người buồn rầu nhìn nhau không biết làm sao. Nàng nói “Thấp cao có số, cứ lo việc trước mắt đã xin chàng ở lại thêm hai tháng rồi sẽ bàn tiếp". Lúc chia tay hẹn lấy tiếng ngâm thơ làm hiệu gặp nhau. Từ đó cứ cha đi vắng, sinh lại cao giọng ngâm nga thì nàng tới. Sắp hết tháng tư hàng hóa đều mất giá, đám khách buôn không biết làm sao bèn góp tiền sắm lễ vật tới cầu đảo ở miếu thần hồ. Sau tiết Đoan dương mưa to nước lên, thuyền mới đi được.</p><p></p><p>Sinh về tới nhà tương tư thành bệnh, ông Mộ lo lắng tìm đủ cách cầu cúng thuốc thang. Sinh nói riêng với mẹ “Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào chữa được, chỉ có Thu Luyện tới mới xong". ông Mộ lúc đầu nổi giận nhưng lâu sau thấy sinh ngày càng gầy gò héo hắt thì hoảng sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người ở đó thì không ai biết bà già họ Bạch, vừa lúc có bà già ghé thuyền vào bờ, bước ra tự nhận là mình. Ông Mộ lên thuyền thấy mặt Thu Luyện mừng thầm, nhưng hỏi tới dòng dõi gia thế thì ra chỉ sống trên thuyền, trôi nổi đây đó mà thôi. Ông nhân nói thật bệnh của con trai, mong nàng tới thuyền mình để con bớt bệnh trước, nhưng bà già lấy cớ chưa định hôn ước nên không chịu.</p><p></p><p>Cô gái ngồi nghiêng chăm chú lắng nghe, thấy hai người tranh cãi thì rưng rưng muốn khóc. Bà già thấy mặt con gái như thế, lại vì ông Mộ năn nỉ quá nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, cô gái quả tới, lại gần giường khóc lóc, nói “Tình cảnh thiếp năm trước nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy”. Sinh cũng mừng rỡ, cô gái bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến ngày trước. Sinh nói "Đó là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người sao được. Nhưng nghe giọng nàng cũng đã thấy tâm thần khoan khoái, hãy thử ngâm bài <em>Liễu hướng về tây ca vạn cành</em><strong>*</strong> cho ta nghe xem”.</p><p></p><p>*Bài Liễu hướng về tây ca vạn cành: tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình thời Đường, nguyên văn là "Triêu nhật tàn oanh bạn thiếp đề, Khai liêm chỉ kiến thảo thê thê, Đình tiền thời hữu đông phong nhập, Dương liễu thiên điều tận hướng tây”, (Sáng sớm quanh mình rộn tiếng oanh, Mở rèm chỉ thấy cỏ xanh xanh, Gió xuân thổi lộng trong đình viện, Liễu hướng về tây cả vạn cành).</p><p></p><p>Cô gái theo lời, sinh thích thú nói “Khoan khoái quá! Trước đây nàng đọc bài Hái sen trong tập Thi dư có câu <em>Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò</em>* vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa", nàng lại theo lời. Vừa dứt tiếng, sinh nhảy ngay dậy nới “Tiểu sinh có bệnh gì đâu”, rồi ôm ấp nhau như đã khỏi hẳn. Kế hỏi “Cha gặp mẹ nàng nói những gì? Việc có xong không?”. Cô gái đã biết ý ông Mộ, nói thẳng rằng không xong rồi đi.</p><p></p><p>*Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò: nguyên văn 1à "Hạm đạm hương liên thập khoảnh pha", chưa rõ xuất xứ.</p><p></p><p>Cha về thấy sinh đã dậy được mừng lắm nhưng chỉ lựa lời khuyên nhủ, nhân nói “Con bé rất đẹp, nhưng từ nhỏ đã ôm mái chèo gõ bánh lái ca hát, chưa nói tới chuyện là con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh", sinh im lặng. Cha vừa đi thì cô gái trở lại, sinh kể rõ ý cha. Nàng nói "Thiếp vừa nhìn đã biết ngay rồi. Việc đời cứ càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt, cứ để ông tự đổi ý quay lại cầu cạnh nhau”. Sinh hỏi kế, nàng đáp "Kẻ buôn bán thì chỉ mong được lợi thôi. Thiếp có thuật biết được giá cả hàng hóa, mới rồi thấy các hàng hóa trên thuyền chẳng thứ nào có lời chút gì. Hãy nói với cha chàng muốn lãi gấp ba thì mua hàng này, muốn lãi gấp mười thì mua hàng này, về tới nhà nếu đúng thì thiếp đúng là dâu hiền rồi. Lúc trở lại thì chàng mười tám tuổi còn thiếp mười bảy, còn có ngày sum vầy, có gì phải lo".</p><p></p><p>Sinh đem lời nàng nói lại với cha, cha không tin lắm nên tạm đem nửa số tiền còn thừa mua những hàng nàng dặn. Sau khi về, những hàng ông mua đều lỗ nặng, may có ít hàng mua theo lời cô gái được lãi lón nên bù lại được, vì thế phục Thu Luyện là thần. Sinh còn khoe khoang rằng cô gái tự nói có thể giúp mình thành giàu có, vì thế ông Mộ lại mang thêm nhiều tiền xuống Nam. Tới hồ mấy ngày không thấy bà già họ Bạch, qua mấy hôm nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu bèn đem sính lễ tới. Bà không nhận gì cả, chỉ chọn ngày lành đưa con gái qua thuyền sinh, ông Mộ thuê một thuyền khác cho con làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông xuống Nam, hàng nào cần mua đều viết ra giấy đưa ông, bà già bèn mời rể qua ở thuyền mình.</p><p></p><p>Ba tháng sau ông Mộ trở lại, hàng hóa mới về tới đất Sở đã tăng giá gấp đôi. Khi sắp về, cô gái xin chở theo một ít nước hồ, về tới nhà mỗi lần ăn cơm lại rưới vào một ít như chan tương. Vì vậy lần nào xuống Nam ông cũng mang về cho vài vò. Ba bốn năm sau nàng sinh một trai. Một hôm cô gái khóc muốn về thăm nhà, ông Mộ bèn dẫn cả con và dâu cùng tới đất Sở. Tới hồ không biết bà già ở đâu, cô gái gõ mạn thuyền gọi mẹ, thất sắc giục sinh theo ven hồ tìm hỏi. Vừa lúc có người câu cá tầm hoàng câu được một con cá ngựa trắng, sinh tới gần xem thì là một con cá lớn hình dáng như người, có đủ cả vú và âm hộ. Sinh về kể lại, cô gái hoảng hốt nói trước kia có lời nguyền phóng sinh, bảo sinh mua thả ra. Sinh tới thương lượng nhưng người câu cá đòi giá rất cao. Cô gái nói "Thiếp ở nhà chàng nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, mà sao lại khư khư tiếc nhau bấy nhiêu. Nếu không nghe thì thiếp nhảy xuống hồ chết quách cho rồi".</p><p></p><p>Sinh sợ, không dám nói với cha, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy cô gái, tìm mãi không được, đến khuya nàng mới về. Hỏi đi đâu, nàng đáp "Vừa về nhà mẹ". Hỏi mẹ ở đâu, nàng nói "Hôm nay thì không thể không thưa thật, con cá chàng vừa chuộc chính là mẹ thiếp đấy. Trước sống ở hồ Động Đình, được Long quân giao coi việc khách qua lại. Gần đây trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên có sắc chỉ trị tội mẹ để đòi thiếp. Mẹ thiếp tâu thật nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, gần chết đói nên mới mắc nạn. Nay tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa được xóa tội. Nếu chàng yêu thiếp thì hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân quân, mẹ có thể được yên lành. Còn nếu thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ ở Long cung chưa chắc đã không gấp trăm lần ở nhà chàng”.</p><p></p><p>Sinh cả sợ, lo không gặp được Chân quân, nàng nói "Giờ Mùi ngày mai Chân quân sẽ tới, cứ thấy vị đạo sĩ thọt chân thì phải phục xuống lạy ngay, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân quân thích kẻ văn sĩ, ắt sẽ rủ lòng thương xót". Kế lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá nói "Nếu Chân quân hỏi muốn xin điều gì thì đưa cái này ra xin ông viết cho một chữ Miễn". Sinh theo lời chờ, quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Sinh lạy phục xuống, đạo sĩ bước mau đi, sinh rảo theo sau. Đạo sĩ ném gậy xuống nước rồi nhảy lên trên, sinh cũng lội xuống nước lên theo, thì không phải gậy mà là một chiếc thuyền. Sinh lại sụp xuống lạy, đạo sĩ hỏi cần gì, sinh đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ giở ra nhìn, nói "Đây là vẩy cá ngựa trắng, sao ngươi có được? , Thiềm Cung không dám giấu, kể rõ đầu đuôi, đạo sĩ cười nói “Loài này rất phong nhã, con rồng già làm sao hoang dâm được". Bèn rút bút ra viết ngoáy một chữ “Miễn" như đạo bùa, rồi quay thuyền ghé bờ bảo sinh lên. Kế thấy đạo sĩ đạp cây gậy rẽ nước mà đi, phút chốc đã mất dạng.</p><p></p><p>Sinh về thuyền, cô gái mừng rỡ, dặn đừng nói lộ cho cha mẹ biết. Sau khi về nhà hai ba năm, ông Mộ xuống nam mấy tháng không về, bình nước hồ cạn dần mà chờ mãi không thấy. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc, dặn sinh "Nếu thiếp chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi nước về rót vào bồn rồi đóng cửa, cởi áo thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, thiếp sẽ sống lại”. Thở thoi thóp vài hôm, nàng lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ về, sinh vội làm theo lời, ngâm nước khoảng một giờ thì nàng dần dần tỉnh lại. Từ đó nàng thường có ý muốn về nam. Sau ông Mộ mất, sinh chiều ý nàng dời nhà xuống sống ở đất Sở.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 77 - 81 -</strong></p><p>Hòa Thượng Họ Kim</p><p>(Kim Hòa Thượng)</p><p></p><p>Hòa thượng họ Kim là người Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), cha là kẻ vô lại, đưa mấy trăm đồng tiền đem Kim lên gởi vào chùa trên núi Ngũ Liên. Kim lúc nhỏ ngu si đần độn không thể học kinh, chỉ làm được những việc chăn heo đi chợ như tôi tớ. Sau sư phụ của Kim chết, cũng có chút ít tiền bạc để lại, Kim cuỗm đi trốn khỏi chùa làm nghề buôn bán, rất giỏi những việc treo dê bán chó, tráo đấu lường thăng nên chỉ mấy năm vụt trở nên giàu có. Bèn mua ruộng đất nhà cửa ở làng Thủy Pha, đệ tử rất đông, hàng ngày có hàng ngàn người ăn cơm, quanh làng có mấy ngàn mẫu ruộng tất đều là của Kim, trong làng có vài mươi gian nhà lớn đều là sư ở. Nếu là người khác thì cũng là kẻ nghèo khó không sản nghiệp nên dắt vợ con tới đó ở nhà thuê làm ruộng mướn mà thôi, có mấy trăm gia đình như thế.</p><p></p><p>Mỗi nhà thì cất phòng sát tường san sát cho họ ở, sư thì ở giữa, phía trước có sảnh đường, rường sơn cột chạm sơn son thiếp vàng lóa mắt, bàn ghế bình phong trong sảnh bóng loáng có thể soi được. Phía sau thì làm phòng ở, rèm đỏ màn thêu xông lan xạ thơm phức, giường nằm chạm trổ khảm xà cừ, trên giường trải nệm dày hơn thước, trên vách thì treo kín các bức vẽ mỹ nhân sơn thủy nổi tiếng. Trong nhà gọi to một tiếng thì ngoài cổng có mấy mươi người dạ ran như sấm ào ào chạy vào xếp hàng im lặng lắng tai nghe lệnh. Khách tới bất ngờ thì trong vòng mười mâm có thể bày lên trong chớp mắt, cơm canh rượu thịt ngon lành bưng lên tới tấp. Chí là không dám công nhiên nuôi ca kỹ nhưng cũng có mười mấy tiểu đồng đẹp trai, đều lanh lợi khéo léo có thể làm vừa lòng người, sai đội khăn đen ca hát thì người nghe kẻ xem cũng không thấy chướng.</p><p></p><p>Kim mỗi lần ra khỏi nhà thì trước sau có vài mươi kỵ mã đeo cung dẹp đường, bọn tôi tớ đều gọi là gia gia, dân trong huyện người gọi là ông, người gọi là chú chứ không gọi là sư hay Thượng nhân, cũng không gọi theo pháp hiệu. Môn đồ Kim ra ngoài thì nghi vệ có kém hơn nhưng áo đẹp ngựa khỏe cũng gần như các công tử con quan. Kim lại giao du rộng, cho dù ngoài ngàn dặm cũng biết được tin tức, vì vậy các quan lớn nhỏ trong vùng nếu ngẫu nhiên làm Kim mất lòng cũng run sợ lo lắng. Nhưng Kim là người thô lỗ, từ đầu tới chân không có chút nào là văn nhã, bình sinh không đọc một câu kinh, tụng một câu sấm, chân không lui tới chùa chiền, phòng không bày biện chuông mõ, những vật ấy thì bọn môn đồ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe. Phàm những gia đình tới thuê nhà ở thì phụ nữ trang sức như gái kinh đô, phấn sáp gương lược đều do sư cấp, sư cũng không bỏn xẻn. Vì vậy các gia đình không có ruộng mà làm nông trong vùng có tới vài trăm.</p><p>Thỉnh thoảng lại có chuyện tá điền giết sư trên giường, Kim cũng không tra xét gì lắm, chỉ đuổi đi nơi khác, dần dần thành lệ. Kim lại mua trẻ con khác họ nuôi làm con mình, rước thầy về dạy cho học hành. Đứa nhỏ thông minh học giỏi, bèn sai vào học trường huyện, kế theo lệ mua cho chức Thái học sinh. Không bao lâu y lên thi hương ở phủ Thuận Thiên đỗ Cử nhân, từ đó Kim được gọi là Thái công, những người gọi là gia gia trước đây càng khúm núm, con cháu của họ đều chắp tay làm lễ với Kim như ông tổ mấy đời.</p><p></p><p>Không bao lâu Thái công chết, Hiếu liêm mặc tang phục cư tang, tự xưng là con mồ côi, các môn đồ chống gậy đứng đầy quanh giường, nhưng sau linh sàng chỉ có một mình phu nhân Hiếu liêm khe khẽ sụt sùi mà thôi. Sĩ phu có người dắt vợ ăn mặc đẹp đẽ tới điếu tế an ủi, mũ lọng xe kiệu chen chúc tắc cả đường. Ngày chôn cất thì nhà táng cao chạm mây, cờ phướn rợp mặt trời, khi chôn thì bó cỏ dán giấy vàng bạc ngũ sắc làm vật tuẫn táng, gồm mấy mươi cỗ kiệu, một ngàn con ngựa, một trăm mỹ nhân. Làm thần dẹp đường đội khăn gấm đen, đầu cao chạm mây, nhà đám thì lầu gác phòng ốc rộng tới mấy mẫu, ngàn cửa trăm cổng, ai vào cũng lạc không biết đường ra, những vật đưa lên cúng tế đều không thể gọi tên.</p><p></p><p>Những người tới dự đám tang mũ lọng chen nhau, các quan lớn cũng lom khom vào quỳ lạy tám lần, các Giám sinh, Cống sinh và quan nhỏ ở huyện thì bò ra đất dập đầu làm lễ không dám để công tử và các sư thúc lạy trả. Cả vùng đổ tới xem đám ma, đàn ông dắt vợ, đàn bà bế con mồ hôi nhễ nhại đứng đầy đường, tiếng người ồn ào át cả tiếng chiêng trống, người đứng chỉ hở có từ vai trở lên, hàng vạn cái đầu ngoảnh qua ngoảnh lại mà thôi. Có kẻ có thai chuyển bụng sinh nở thì chị em bạn kéo xiêm giáng quanh làm màn che, nghe tiếng trẻ khóc cũng không buồn hỏi là trai hay gái, lập tức xé áo làm tã bế lên rồi kẻ dìu người kéo sản phụ chập choạng bước đi, thật là kỳ quan vậy! Sau khi chôn cất xong, đem những tiền của Kim để lại chia đôi, con Kim một phần, các môn đồ một phần. Hiếu liêm được nửa gian nhà, bốn phía nam bắc đông tây toàn là sư ở nhưng đều là hàng anh em, đau ngứa gì cũng có nhau.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Một phái ấy thì hai dòng<strong>*</strong> chưa có, sáu tổ<strong>**</strong> không truyền, có thể nói là một mình mở ra một pháp môn vậy. Nhưng vẫn nghe ngũ uẩn đều không, lục trần không nhiễm là Hòa thượng, trong miệng thuyết pháp, trên ghế tham thiền là Hòa dạng, giày thơm đất Sở, nón nặng trời Ngô là Hòa chàng, chiêng trống ồn ào, đàn sáo ầm ĩ là Hòa xướng, chơi bời lăng nhăng, cờ bạc bợm bãi là Hòa chướng. Như Kim là Hòa thượng chăng, là Hòa dạng chăng, là Hòa chàng chăng, là Hòa xướng chăng, hay là Hòa chướng ở địa ngục chăng?</em></p><p></p><p>* Hai dòng: tức Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo đại thừa Trung Hoa.</p><p>** Sáu tổ: tức sáu vị sau Đạt Ma trong Phật tâm tông của Phật giáo đại thừa Trung Hoa, gồm Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Tuệ Năng, Thần Hội.</p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p><strong>078. Nhà Sư Ăn Xin </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Cái Tăng)</strong></p><p>Ở Tế Nam (tỉnh thành Hà Nam) có một nhà sư, không rõ gốc gác ở đâu. Hàng ngày đi chân đất mặc áo vá, lê la trước các hàng quán bên hồ Phù Dung tụng kinh khuyến hóa, song ai cho cơm rượu tiền gạo gì đều không nhận, hỏi có cần gì khác không thì không đáp, thường cả ngày không thấy ăn uống. Có người khuyên nói "Sư đã không ăn rau lại chẳng uống rượu thì đi khuyến hóa trong thôn cùng ngõ vắng cũng được, cần gì phải mỗi ngày mỗi tới nơi ồn ào náo nhiệt như thế này?", sư cứ chắp tay tụng kinh, rủ đôi lông mi dài một tấc xuống như không hề nghe thấy. Lại hỏi nữa, sư mới mở mắt lớn tiếng đáp "Ta muốn khuyến hóa như vậy", rồi tiếp tục tụng kinh, hồi lâu mới bỏ đi.</p><p>Có người đuổi theo, hỏi tại sao phải khuyến hóa như vậy, sư cứ đi không đáp. Hỏi ba bốn lần, lại lớn tiếng nói "Ngươi không biết được đâu, lão tăng muốn khuyến hóa như vậy". Mấy hôm sau chợt ra ngoài phía nam thành, nằm dài như xác chết ở cạnh đường ba ngày không động đậy. Dân ở đó sợ sư chết đói thì liên lụy tới thôn xóm, họp nhau kéo tới khuyên nên đi chỗ khác nằm, muốn cơm sẽ cho cơm, muốn tiền sẽ cho tiền. Sư cứ nhắm mắt không lên tiếng, mọi người bèn lay gọi. Sư giận, rút trong áo ra một lưỡi đao ngắn tự rạch bụng, thò tay vào kéo ruột ra bày lên đường rồi đứt hơi chết. Mọi người khiếp sợ báo lên quan rồi đem chôn qua loa. Ngày khác chỗ ấy bị chó moi lên lộ manh chiếu bó thây ra, đạp lên thấy như không có gì, mở ra xem thì manh chiếu vẫn gói kín như cũ nhưng chỉ như cái kén rỗng.</p><p></p><p><strong>079. Rồng Dời </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Chí Long)</strong></p><p>Quan Thông chính sứ họ Khúc ở đất U Lục (thuộc tỉnh Sơn Đông) đọc sách trên lầu, gặp lúc trời mưa mù mịt, thấy một con dời nhỏ sáng như đom đóm cựa quậy trên bàn, bò qua khỏi chỗ nào thì chỗ ấy cháy đen. Dần dần bò lên quyển sách, quyển sách cũng bị cháy. Ông nghĩ là rồng bèn bưng quyển sách lên tiễn đi, nhưng ra tới ngoài cửa đứng chờ hồi lâu vẫn thấy nằm bất động bèn nói "Hay là cho rằng ta không cung kính?". Bèn bưng quyển sách trở vào đặt lại lên bàn, đội mũ mặc áo vái dài rồi lại bưng ra. Vừa tới ngoài thềm thì con dời ngẩng đầu duỗi thân rời quyển sách bay lên, rít gió thành tiếng thành một đạo ánh sáng kéo dài. Ra được vài bước thì quay nhìn lại ông, đầu như cái vò, dài mấy mươi vây. Lại uốn lộn một hồi thì có tiếng sét nổ ầm ầm, vọt thẳng lên mây đi mất. Quay vào nhìn chỗ nó vừa bò qua thì thấy từng đoạn từng đoạn như tre bị đốt vậy.</p><p></p><p><strong>080. Cái Búi Tóc Nhỏ </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Tiểu Kết)</strong></p><p>Huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) có người dân là Mỗ đang ngồi chơi thì có người khách thấp lùn tới, ngước mặt trò chuyện hồi lâu, thấy bình sinh không hề quen biết, cố nhớ lại. Khách nói "Ba bốn hôm nữa sẽ dời tới đây làm láng giềng". Qua bốn năm hôm lại tới nói "Hôm nay đã là cùng làng, xin được sớm tối dạy bảo cho". Mỗ hỏi ngụ ở đâu, người ấy không nói rõ, chỉ lấy tay chỉ về phía bắc. Từ đó ngày nào cũng tới, có khi hỏi mượn vật dùng chén bát, nếu có ai bủn xỉn không cho thì tự nhiên bị mất, mọi người cùng nghi là hồ.</p><p>Phía bắc thôn có ngôi mộ cổ, sâu không biết là bao nhiêu, mọi người ngờ hồ ở đó, cùng nhau vác gậy gộc khí giới tới nằm rình, hồi lâu không thấy gì lạ. Đến hết canh một thì nghe dưới mộ có tiếng lào xào như hàng trăm hàng ngàn người trò chuyện, mọi người im lặng không động đậy. Giây lát có đám người lùn khoảng hơn một thước lũ lượt kéo ra, đông không biết bao nhiêu mà kể. Mọi người cùng quát tháo vùng dậy xô vào đánh túi bụi, đánh trúng thì trên gậy lửa bắn tứ tung, trong chớp mắt bọn kia chạy tứ tán. Chỉ còn lại một cái búi tóc nhỏ bằng trái hồ đào bọc lụa buộc dây kim tuyến, ngửi thử thì hôi tanh vô cùng.</p><p></p><p><strong>081. Hoắc Sinh </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Hoắc Sinh)</strong></p><p>Hoắc sinh và Nghiêm sinh ở huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ vẫn đùa giỡn với nhau, lớn lên cũng hay chọc ghẹo nhau, lấy miệng lưỡi hơn thua, chỉ sợ không bằng đối thủ. Hoắc có bà già láng giềng từng đỡ đẻ cho vợ Nghiêm, ngẫu nhiên trò chuyện với vợ Hoắc, nói rằng chỗ kín của vợ Nghiêm có hai mụn cóc, vợ bèn kể lại cho Hoắc. Hoắc bèn cùng chúng bạn bàn tính, rình lúc Nghiêm vừa tới, cố ý nói thầm với nhau rằng “Ta quá rành vợ y". Chúng bạn làm ra vẻ không tin, Hoắc bèn bịa đặt đủ cả đầu đuôi rồi nói "Nếu không tin, thì chỗ kín của vợ y có hai cái mụn cóc” Nghiêm dừng lại ngoài cửa sổ nghe thấy hết bèn không vào, quay về nhà chửi mắng đánh đập vợ. Người vợ không chịu nhận, Nghiêm đánh đập càng tàn nhẫn, vợ không chịu nổi treo cổ tự tử.</p><p>Hoắc vô cùng hối hận nhưng không dám nói thật với Nghiêm là mình bịa đặt. Vợ Nghiêm chết rồi, đêm đêm cứ hiện hồn về khóc lóc, cả nhà không sao ở yên. Không bao lâu Nghiêm bị bạo bệnh mà chết, hồn ma mới không khóc nữa. Vợ Hoắc nằm mơ thấy vợ Nghiêm xõa tóc gào lớn rằng "Ta chết rất khổ, vợ chồng người lại muốn yên vui à?", tỉnh dậy mắc bệnh vài ngày thì chết. Hoắc cũng nằm mơ thấy vợ Nghiêm xỉa xói chửi mắng, lấy tay vả vào miệng mình, hoảng sợ tỉnh dậy thấy trên môi dau nhức, cứ sưng to dần, ba ngày thì biến ra hai cục thịt thừa thành tật luôn, không dám cười nói lớn tiếng vì há mồm to thì đau không chịu nổi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Kẻ chết rồi mà có thể làm hại là vì bị oan ức. Tật chỗ kín mà lại đem lên môi, thần linh thật như đùa cợt vậy. Trong huyện có họ Vương hay đùa giỡn với bạn học là Mỗ. Vợ Mỗ về thăm cha mẹ ruột, Vương biết con lừa nhà Mỗ nhút nhát bèn ra trước chỗ bụi rậm rình sẵn, chờ người đàn bà tới liền nhảy xổ ra. Con lừa hoảng sợ lồng lên hất người đàn bà ngã xuống, chỉ có một thằng nhỏ theo hầu không sao giữ được con lừa cho nàng leo lên. Vương bèn ân cần tới giúp đỡ, nàng cũng không biết là ai. Vương về lấy đó làm chuyện đắc ý, kể rằng nhân lúc thằng nhỏ đuổi theo con lừa thì mình đã tư thông với vợ Mỗ trong bụi, tả lại quần áo giày tất của nàng rất rõ ràng, Mỗ nghe thế xấu hổ bỏ về. Lát sau Vương nhìn qua cửa sổ thấy Mỗ một tay cầm dao, một tay kéo vợ tới trông rất hung dữ, cả sợ trèo qua tường bỏ chạy, Mỗ đuổi theo suốt hai ba dặm không kịp mới bỏ về. Vương vì ra sức chạy, phế quản bị giãn ra nên từ đó mắc bệnh thở khò khè, mấy năm không khỏi.</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển V - 82 -</strong></p><p>Hồ Đùa Giỡn</p><p>(Hồ Hài)</p><p></p><p>Vạn Phúc tự Tử Tường là người huyện Bác Hưng (tỉnh Sơn Đông). Từ nhỏ theo đòi nghiệp nho, nhà cũng hơi khá giả nhưng thi cử lận đận, hơn hai mươi tuổi vẫn không đỗ đạt gì. Ở quê có lệ xấu là bắt các nhà giàu ra làm lý dịch, có người phải khuynh gia bại sản. Vạn bị ép làm chức ấy, sợ quá trốn tới Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) vào nhà trọ ở. Đêm có cô gái tới khêu gợi, cũng khá xinh đẹp, Vạn thích bèn giao hoan. Hỏi họ tên, cô gái nói “Nói thật ta là hồ, nhưng không làm hại chàng đâu”. Vạn mừng rỡ không ngờ vực gì, nàng dặn đừng ở chung với ai, từ đó ngày nào cũng tới ăn ở cùng phòng, phàm mọi chi dùng hàng ngày đều do hồ chu cấp.</p><p>Không bao lâu có vài người quen tới thăm chơi, thường ngủ lại không về. Vạn chán ghét nhưng không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thật. Khách xin được chiêm ngưỡng dung nhan người tiên một lần, Vạn nói với hồ, hồ nói với khách “Gặp ta làm gì? Ta cũng như mọi người thôi”, nghe tiếng nói rõ ràng trước mắt, nhưng nhìn quanh thì không thấy đâu. Khách có người tên Tôn Đắc Ngôn giỏi khôi hài, cố xin được thấy mặt, lại nói được nghe giọng oanh, thần hồn điên đảo, sao lại tiếc không cho thấy dung nhan khiến người ta nghe tiếng mà tương tư. Hồ cười đáp "Cháu hiền muốn vẽ bức tranh hành lạc<strong>* </strong>cho bà cố à?", khách khứa đều cười.</p><p>*Bức tranh hành lạc: nguyên văn là "hành lạc đồ", vẽ những hình ảnh trai gái giao hoan, đại khái là loại tranh ảnh khiêu dâm.</p><p>Hồ nói "Ta là hồ, xin kể chuyện hồ cho khách nghe, chịu không?". Mọi người đều ừ, hồ kể "Xưa ở quán trọ làng nọ có nhiều hồ, thường ra quấy phá khách trọ, khách khứa qua lại biết được, dặn nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán vắng vẻ, chủ trọ lo lắm, rất kiêng nói tới hồ. Chợt có người khách từ xa tới, tự nói là người nước ngoài, thấy quán trọ nên vào nghỉ. Chủ trọ mừng lắm mời vào, liền có người đi đường lén nói với khách rằng “Nhà này có hồ”. Khách sợ, nói rõ với chủ trọ rồi định qua trọ chỗ khác, chủ trọ ra sức phân trần rằng đó là lời bịa đặt.</p><p>Khách bèn ở lại, vào phòng vừa nằm xuống thì thấy bầy chuột từ gầm giường chạy ra, khiếp đảm nhào ra ngoài la hoảng "Có hồ". Chủ nhân sợ hãi hỏi han, khách oán trách nói “Hồ làm hang ở đây, sao nói dối ta là không có". Chủ nhân lại hỏi thấy hình thù nó thế nào, khách đáp "Ta nay mới thấy, nó ngắn ngắn nhỏ nhỏ, không phải hồ con ắt là hồ cháu”. Vừa dứt lời thì khách khứa đều cười ầm. Tôn nói "Nếu không cho thấy mặt thì bọn ta sẽ ngủ lại, mà ai đó cũng đừng đi mà bỏ lỡ giấc mộng Dương Đài"<strong>*</strong>. Hồ cười đáp "Cứ ngủ lại không sao, nếu có hơi xúc phạm thì xin đừng để bụng". Khách sợ bị chơi ác bèn cùng tan về.</p><p>*Giấc mộng Dương Đài: bài tựa Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua Sở ra chơi đầm Vân Mộng, đêm mộng thấy một người con gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nàng ấy nói "Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn sớm làm mây, tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, sau người ta thường dùng tích này để chỉ việc ái ân trai gái.</p><p>Kế cứ vài ngày lại tới, đòi hồ trêu cợt. Hồ rất giỏi khôi hài, cứ lên tiếng là khách cười nghiêng ngửa, nhưng kẻ có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người đùa gọi là Hồ nương tử. Một hôm bày tiệc họp mặt, Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai người khách nữa chia ngồi hai bên, đặt một cái giường phía sau mời hồ, hồ từ chối là không hay rượu. Có người xin cứ ngồi nói chuyện, hồ ưng thuận. Rượu được vài tuần, mọi người bày trò gieo xúc xắc làm tửu lệnh "qua man”<strong>*</strong>, khách trúng mặt dưa bị phạt, đùa đưa chén qua giường nói "Hồ nương tử là bậc đại tỉnh, xin uống giùm một chén". Hồ cười đáp "Ta vốn không uống được, xin kể một câu chuyện góp vui với các vị". Tôn bịt tai ra vẻ không muốn nghe, mọi người đều nói "Nếu chửi xỏ người thì phải chịu phạt đấy”. Hồ cười hỏi “Thế ta chửi xỏ hồ được không?", mọi người đáp “Được", rồi lắng tai nghe.</p><p>*"Qua man": nghĩa đen là dây dưa bò lan, chưa rõ thể thức luật chơi cụ thể.</p><p>Hồ kể "Xưa có một ông quan lớn đi sứ nước Hồng Mao<strong>*</strong>” đội mũ lông hồ vào yết kiến quốc vương nước ấy. Quốc vương thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dày vừa mềm như thế. Ông quan lớn ấy thưa là lông hồ. Quốc vương nói bình sinh chưa từng nghe nói tới, vậy chữ “hồ" viết ra sao? Ông quan lớn bèn lấy tay vạch lên không, tâu “Bên phải là một qua lớn, bên trái là một khuyển nhỏ<strong>**</strong>", chủ khách lại cười ầm.</p><p>*Nước Hồng Mao: tức Anh.</p><p>**Bên phải... nhỏ: đây là theo lối chiết tự trong chữ Hán, hồ có ý nói xỏ người khách ngồi bên trái Vạn tức Tôn là “khuyển” (chó), vì người bên phải đã gieo trúng mặt “qua" (dưa).</p><p>Hai người khách kia là hai anh em họ Trần, một tên Sở Kiến, một tên Sở Văn, thấy Tôn bị áp đảo quá bèn nói "Hồ đực đâu mà để hồ cái ác hại thế này?". Hồ nói “Có một câu chuyện kể chưa xong đã bị sủa loạn làm ngắt quãng, xin kể nốt. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, rất lạ lùng. Sứ thần thưa "Đây là do con ngựa đẻ ra” quốc vương lại càng lấy làm lạ. Sứ thần nói ở Trung Quốc thì con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai”. Quốc vương hỏi kỹ hình dạng, sứ thần đáp "Ngựa đẻ ra la là thần sở kiến, la đẻ ngựa choai là thần sở văn<strong>*</strong>", cử tọa lại cười ầm.</p><p>* Ngựa đẻ... sở văn: sở kiến nghĩa đen là "vốn thấy", sở văn nghĩa đen là “vốn nghe", nhưng cũng là tên hai anh em họ Trần, nên câu này có ý nói xỏ hai người là la và ngựa choai.</p><p>Mọi người biết không địch nổi mồm mép của hồ, liền giao hẹn trở đi nếu ai khơi chuyện ngạo ngược thì phải đứng ra làm chủ, bỏ tiền mua rượu. Giây lát rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Vạn “Có vế đối thách ông đối lại”, Vạn hỏi câu gì, Tôn đọc “Kỹ nữ xuất môn phỏng tình nhân, lai thời vạn phúc, khứ thời vạn phúc<strong>*</strong>” cả bàn nghĩ mãi không ai đối được.</p><p>*Kỹ nữ... vạn phúc: nghĩa đen là "Kỹ nữ ra cửa thăm tình nhân, lúc tới thưa vạn phúc, lúc đi thưa vạn phúc", “vạn phúc" là lời chúc tụng nhưng cũng là tên của Vạn Phúc, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "tới cũng Vạn Phúc, đi cũng Vạn Phúc", có ý đùa là Vạn Phúc chuyên tới kỹ viện chơi bời.</p><p>Hồ cười nói "Ta có câu rồi đây", mọi người lắng tai nghe, hồ đọc “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn<strong>*</strong>” tất cả lại cười bò ra. Tôn bực lắm, nói “Đã giao hẹn rồi, sao lại phạm?”. Hồ cười đáp “Đúng là ta có lỗi, nhưng nếu không thế thì không đối cho sát được. Sáng mai xin đặt tiệc để chuộc lỗi”, chủ khách cùng cười rồi chia tay. Hồ khôi hài đại loại như thế, không sao kể hết được.</p><p>*Long vương... đắc ngôn: nghĩa đen là “Long vương xuống chiếu cầu lời thẳng, vích cũng được nói, rùa cũng được nói", “được nói” (đắc ngôn) cũng là tên của Đắc Ngôn, nên đoạn sau còn có thể hiểu là “... vích là Đắc Ngôn, rùa là Đắc Ngôn", có ý nói xỏ Tôn Đắc Ngôn là con rùa. Rùa là một giống vật được người Trung Hoa ví với kẻ hạ tiện dâm đãng.</p><p>Được vài tháng, hồ cùng Vạn về quê. Tới địa giới Bác Hưng, hồ nói với Vạn “Ở đây ta có người họ hàng xa, đã lâu không qua lại, không thể không ghé thăm. Vả lại trời cũng đã tối, chàng cứ đi cùng tới đó ngủ lại, sáng mai đi cũng được”. Vạn hỏi ở đâu, hồ chỉ nói không xa. Vạn ngờ vì trước nay khu này vốn không có làng xóm gì, nhưng cũng đi theo. Khoảng hai dặm quả thấy một gia trang, bình sinh chưa đi ngang lần nào. Hồ gõ cổng thì có một người hầu ra mở, vào trong thấy cửa liền gác nối, rõ ràng là nhà thế gia. Giây lát tới chỗ chủ nhân, có hai ông bà già, vái chào Vạn rồi mời ngồi, bày tiệc linh đình tiếp đãi như con rể, kế hai người nghỉ lại đó.</p><p>Sáng sớm hồ nói "Ta về ngay cùng chàng, sợ người nhà sợ hãi. Chàng cứ về trước, ta sẽ theo tới ngay”. Vạn theo lời về trước nói rõ với gia nhân. Không bao lâu hồ tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ nhưng không nhìn thấy người. Năm sau Vạn lại có việc đi Tế Nam, hồ cũng đi cùng. Chợt có mấy người tới, hồ theo ra trò chuyện thăm hỏi rồi nói với Vạn “Ta vốn gốc gác ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), cùng chàng có mối túc duyên nên theo nhau bấy lâu, nay anh em ta đã tới, ta phải theo về, không theo hầu chàng trọn đời được”. Vạn cố giữ lại không được, kế hồ ra đi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 83 -</strong></p><p>Nối Giấc Kê Vàng</p><p>(Tục Hoàng Lương)</p><p></p><p>Cử nhân họ Tăng người Phúc Kiến lúc vừa thi đỗ Tiến sĩ cùng vài người bạn thân khoa dạo chơi ngoài thành. Tình cờ nghe nói ở chùa Tỳ Lư có một thầy tướng liền kéo nhau tới xem quẻ. Tăng vào ngồi, thầy tướng nhìn thấy ý khí tự đắc bèn nịnh hót lấy lòng. Tăng phe phẩy quạt mỉm cười rồi hỏi “Ta có số làm Tể tướng không?”. Thầy tướng nghiêm trang nói sẽ làm Tể tướng hai mươi năm trong đời thái bình, Tăng cả mừng, ý khí càng thêm cao ngạo. Gặp lúc có cơn mưa nhỏ, cùng bạn bè vào tăng xá tránh mưa, thấy bên trong có vị sư già mắt sâu mũi cao ngồi trên tấm bổ đoàn, ngạo mạn không chào hỏi ai. Cả bọn cùng chào rồi lên sạp ngồi nói chuyện với nhau, đều mừng Tăng sẽ làm Tể tướng.</p><p></p><p>Tăng càng đắc ý, chỉ bạn cùng đi nói "Khi nào ta làm Tể tướng, sẽ cử Trương huynh làm Tuần phủ Hà Nam, ông anh cô cậu của ta làm chức Tham du, lão bộc nhà ta cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện", cả bọn cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa càng lớn như trút nước, Tăng mỏi mệt nằm xuống giường, chợt thấy hai quan Trung sứ đem tờ chiếu do Thiên tử đích thân viết tới triệu Tăng Tể tướng vào triều bàn việc nước. Tăng đắc ý vội vàng vào triều, nhà vua hỏi han dịu ngọt hồi lâu, truyền cho Tăng được quyền thăng giáng các quan từ tam phẩm trở xuống, ban cho mãng bào đai ngọc và ngựa quý, Tăng mặc áo đeo đai dập đầu tạ ơn rồi ra về.</p><p></p><p>Vào nhà thì thấy không phải nơi ở cũ ngày trước mà toàn là cột chạm cửa sơn vô cùng lộng lẫy, cũng không hiểu vì sao vinh hiển mau lẹ như vậy, nhưng chỉ cần vuốt râu gọi khẽ thì quân hầu dạ ran như sấm. Kế các quan công khanh đem quà cáp tặng biếu tới khúm núm xếp hàng ngoài cổng. Các quan khanh sáu bộ tới thì Tăng vội vàng ra đón, hạng Thị lang thì vái chào cùng trò chuyện, chức thấp hơn thì chỉ gật đầu chào thôi. Tuần phủ Sơn Tây gởi tặng ban nữ nhạc mười người đều là con gái trẻ đẹp, trong đó Niễu Niễu và Tiên Tiên đẹp nhất, hai người rất được yêu quý, Tăng cho phục dịch khăn áo, hàng ngày hầu hạ ca múa.</p><p></p><p>Một hôm Tăng nhớ lại lúc còn hàn vi thường được thân sĩ trong huyện là Vương Tư Lương giúp đỡ, nay ta đã nhẹ bước thang mây mà ông ấy còn lận đận trên đường công danh, sao không đưa tay dìu dắt một phen. Sáng ra dâng sớ tiến cử Vương làm quan Gián nghị, lập tức có chỉ dụ bổ dụng. Lại nghĩ tới Thái bộc họ Quách từng trợn mắt với mình, liền gọi bọn Cấp gián họ Lữ và Thị ngu Trần Xương dặn dò, hôm sau sớ tấu đàn hặc nối nhau dâng lên, liền có chỉ cách chức Quách Thái bộc cho về làm dân. Đền ơn trả oán xong, Tăng rất thỏa ý.</p><p></p><p>Một hôm ra ngoài thành chơi, có người say rượu phạm vào nghi trượng, Tăng sai trói lại giải tới quan Kinh triệu doãn, người ấy lập tức bị đánh đòn mà chết. Những người có nhà cửa ruộng đất ở cạnh đều sợ quyền thế đem những ruộng tốt nhà to hiến cho, từ đó Tăng thành phú gia địch quốc. Không bao lâu, Niễu Niễu và Tiên Tiên nối nhau qua đời. Tăng khuya sớm nhớ nhung, chợt nhớ năm xưa thấy người con gái hàng xóm tuyệt đẹp, vẫn muốn mua làm tỳ thiếp nhưng vì ít tiền nên không được như nguyện, nay may đã đắc ý, bèn sai mấy tên gia nhân đắc lực đem tiền tới ép nhận sính lễ, giây lát kiệu nàng về tới, so lại với ngày trước thì càng đẹp hơn, tự nghĩ như thế đã thỏa nguyện ước bình sinh rồi.</p><p></p><p>Hơn năm sau thì các quan trong triều đều ngầm có lòng chê trách nhưng đều không dám nói ra, Tăng cũng nghênh ngang không thèm để ý. Có quan Long đồ học sĩ họ Bao dâng sớ hặc tội, đại lược như sau:</p><p>“Trộm nghĩ Tăng Mỗ vốn là một kẻ vô lại cờ bạc rượu chè, tiểu nhân đầu đường xó chợ, chỉ có một lời nói hợp ý mà được thánh thượng tin dùng, cha con vinh hiển, ân sủng tột bực. Thế mà không nghĩ tới việc dốc lòng báo đáp trong muôn một, lại phóng ý rông càn làm oai phúc, những tội đáng chết nhổ tóc mà đếm cũng không đủ. Danh vị trọng thể của triều đình thì coi như món hàng lạ, cân nhắc nhỏ to, ra giá cao thấp. Vì thế công khanh tướng sĩ đều phải lui tới nhà y, tính toán tiến thân như đi buôn, luồn lọt lấy lòng không kể xiết. Hoặc có kẻ kiệt sĩ hiền thần không chịu a dua, nhẹ thì bị gạt bỏ không dùng, nặng thì bị cách quan bãi chức. Thậm chí chỉ hơi trái ý thì y đặt điều vu cáo bắt phải đi đày, nên quan lại đều tê lòng, triều đình thành cô lập. Lại máu mỡ dân đen mặc tình vơ vét, con gái nhà lành bắt ép làm hầu, hơi oán mịt mờ, mặt trời u ám. Gia nhân của y tới nơi thì quan địa phương phải dạ lấy lòng, thư từ của y gởi ra thì kẻ cầm quyền phải làm trái phép. Có khi con cái tôi tớ, họ hàng dây dưa đi ra cũng dùng ngựa trạm, ruổi rong mịt bụi, hò hét thị uy. Địa phưong cung cấp hơi chậm trễ, roi vọt đánh đập liền ra tay, ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, nghi trượng tới đâu thì ruộng đồng sạch cỏ. Thế mà Tăng Mỗ vẫn nghênh ngang hống hách, không chút ăn năn, tấu đối qua loa ở triều đình, dối trá gian tà trước thánh thượng. Xe kiệu vừa rời chốn công môn, sênh ca đã bày nơi hậu uyển. Thanh sắc chó ngựa cứ chơi tràn, quốc kế dân sinh chẳng lo nghĩ, trên đời há có loại Tể tướng như thế sao? Trong ngoài xôn xao, nhân tâm ly tán, nếu không có búa rìu trị ngay, ắt sẽ thành Mãng Tháo<strong>*</strong> gây họa. Thần sớm tối lo lắng, không dám yên thân, liều chết kể ra các tội của y, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh xử chém kẻ gian nịnh, tịch thu của tham ô, để trên thỏa dạ trời, dưới hả bụng chúng. Nếu thần vu oan, xin cam chịu tội..."</p><p></p><p>*Mãng Tháo: tức Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán và Tào Tháo lấn quyền vua Hán, sử sách Trung Hoa ngày xưa coi là gian thần.</p><p></p><p>Tờ sớ dâng lên, Tăng nghe được vô cùng run sợ, người lạnh toát như uống băng, nhưng may nhờ vua khoan dung, để đó không xét. Kế các quan Khoa đạo cửu khanh lại liên tiếp dâng sớ đàn hặc, ngay những kẻ trước kia xin làm môn hạ, cung kính như cha cũng trở mặt vớì Tăng. Vua liền giáng chỉ tịch thu gia sản, bắt Tăng sung quân ở Vân Nam, con trai Tăng làm Thái thú quận Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) cũng bị triều đình sai quan ra tra xét. Tăng nghe chỉ dụ đang kinh hoàng thì có mấy mươi võ sĩ đeo gươm cầm giáo vào thẳng nhà trong lột hết áo mão, vợ cũng bị trói. Kế thấy mấy người vác của cải trong nhà ra sân, vàng bạc tiền nong tới mấy trăm vạn, châu ngọc bảo vật tới mấy trăm hộc, rèm màn giường tủ cũng tới mấy ngàn món, còn những tã lót trẻ con, giày tất đàn bà thì vương vãi khắp sân. Tăng đều nhất nhất trông thấy, đau lòng xốn mắt. Giây lát lại có một người bắt nàng hầu đẹp nhất giải ra, tóc rối kêu khóc, mặt ngọc tái xanh, Tăng đau xót như lửa đốt ruột gan nhưng ngậm hờn không dám nói. Kế lầu gác kho tàng niêm phong xong, họ lập tức quát thét giải Tăng ra, toán lính áp giải xô đẩy vung giáo bắt đi mau. Vợ chồng Tăng nuốt lệ lên đường, lúc này muốn ngựa tồi xe xấu đỡ chân cũng không sao có được. Được hơn mười dặm thì vợ mệt quá loạng choạng muốn ngã, Tăng phải dìu đỡ. Lại hơn mười dặm nữa thì mình cũng mệt mỏi, thấy núi non xa xa cao chọc trời mà lo không trèo lên nổi, cứ kéo tay vợ nhìn nhau khóc lóc nhưng toán lính áp giải trợn mắt sấn tới không cho nghỉ chân. Lại thấy mặt trời đã lặn, không có chỗ nào nghỉ lại bất đắc dĩ phải khập khiễng lê bước. Tới lưng núi thì vợ kiệt sức khóc lóc ngồi phịch xuống vệ đường, Tăng cũng mệt quá ngồi xuống nghỉ, mặc cho toán lính áp giải quát tháo chửi mắng.</p><p>Bỗng nghe tiếng hò la ầm ĩ, có bọn cướp vác đao sắc ào ào xông ra, toán lính áp giải hoảng sợ bỏ chạy. Tăng quỳ mọp nói mình một thân trơ trọi bị đày đi xa, hành lý chẳng có gì đáng giá, năn nỉ bọn cướp tha cho. Bọn cướp trợn mắt nói “Bọn ta đều là dân bị hại, chỉ cần cái đầu đứa nịnh tặc chứ không cần lấy gì cả". Tăng nổi giận quát "Ta dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ giặc cỏ sao dám hỗn láo như thế?”. Bọn cướp cũng nổi giận vung búa lớn trên đầu Tăng, nghe thấy đầu rơi xuống đất thành tiếng. Hồn Tăng còn đang kinh hãi thì lập tức có hai tên quỷ tốt tới nắm tay lôi đi. Đi mấy khắc thì vào tới một nơi đô hội, giây lát tới một cung điện, trên điện có một vị vương giả tướng mạo xấu xí ngồi xét xử tội phúc.</p><p></p><p>Tăng khúm núm tới quỳ trước mặt nghe lệnh, vị vương giả mở sổ xem qua mấy hàng lập tức giận dữ quát "Tên này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu”, muôn quỷ dạ ran như sấm, lập tức có tên quỷ to lớn lôi Tăng xuống dưới thềm, thấy cái vạc cao khoảng bảy tám thước, bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run sợ kêu khóc, muốn chạy trốn mà không được, tên quỷ tốt tay trái túm tóc, tay phải nắm chân Tăng ném vào vạc dầu, Tăng theo dầu sôi nổi lên chìm xuống, da thịt bong rát đau thấu tim gan, dầu tràn vào miệng cháy bỏng gan ruột, muốn chết ngay mà không chết được. Khoảng xong bữa cơm, tên quỷ tốt lấy đinh ba vớt Tăng ra đem vào sảnh đường. Vị vương giả lại xem sổ sách, nổi giận nói "Y cậy thế hiếp người, phải quăng vào núi đao” Quỷ tốt lại lôi Tăng đi, thấy hòn núi không to lớn lắm nhưng sườn đá dựng đứng, đao nhọn tua tủa như măng mọc dày đặc, đã có mấy người thủng bụng toác ruột đang vướng bên trên, đau đớn kêu gào vô cùng thảm thiết. Quỷ tốt giục Tăng leo lên, Tàng khóc rống lùi lại, quỷ tốt cầm dùi nhọn đâm vào gáy, Tăng nhịn đau xin tha cho, quỷ tốt nổi giận túm lấy Tăng ra sức ném lên trời. Tăng thấy mình lơ lửng trên mây rồi rơi thẳng xuống, bị đao xóc vào bụng, đau đớn không sao nói xiết. Lát sau vì thân thể to béo đè nặng lên nên vết đao đâm vào dần dần rộng ra, chợt rơi phịch xuống, chân tay co quắp. Quỷ tốt lại dẫn vào trước mặt vị vương giả, vương sai tính lại lúc sinh bình Tăng bán chức buôn danh, ăn hối lộ cướp của người được bao nhiêu tiền. Lập tức có người rậm râu đứng gãy bàn tính rồi nói "Tất cả là Ba trám hai mươi mốt vạn”. Vương nói "Y đã gom góp thì bắt y uống đi". Phút chốc lấy vàng bạc ra chất đống dưới thềm, cao như gò núi, rồi từ từ bỏ vào nồi sắt quạt lửa nấu chảy ra, kế mấy tên quỷ tốt luân phiên lấy gáo múc đổ vào miệng Tăng, tràn qua gò má thì da thịt cháy khét, vào tới cuống họng thì ruột gan nóng sôi, lúc sống lo vật ấy có ít, lúc ấy lại sợ nó quá nhiều, mất nửa ngày mới uống xong.</p><p></p><p>Vương giả sai quỷ tốt giải Tăng đi đầu thai làm con gái ở đất Cam Châu (huyện Trương Dịch tính Cam Túc). Đi độ vài bước thấy trên giá cao có một cây trục sắt chu vi độ mấy thước xỏ qua một bánh xe lớn, rộng lớn không biết mấy trăm dặm, sáng lóe năm sắc chiếu tới mây xanh. Quỷ tốt đánh bắt trèo lên, Tăng nhắm mắt bước lên thì bánh xe theo chân xoay chuyển, thấy như bị rơi xuống, toàn thân mát lạnh, mở mắt nhìn lại mình thì đã hóa ra đứa trẻ sơ sinh mà lại là con gái. Nhìn tới cha mẹ thì áo quần rách rưới, trong gian phòng vách đất còn đủ cả bị gậy, biết đã đầu thai làm con ăn mày. Lớn lên hàng ngày theo đám trẻ ăn mày đi xin ăn, bụng lép kẹp ít khi được no, áo tả tơi gió lạnh thấu xương.</p><p></p><p>Năm mười bốn tuổi bị bán làm vợ lẽ cho Tú tài họ Cố, tuy hơi được no ấm nhưng gặp người vợ lớn hay ghen, hàng ngày thường đánh đập, lại nung sắt đỏ đốt vú, may là chồng thương xót nên cũng thấy được an ủi. Chợt có gã thiếu niên hung ác bên láng giềng trèo tường qua cưỡng ép, mới tự nghĩ kiếp trước làm nên tội nghiệt đã chịu hình phạt dưới âm ty rồi, nay sao lại phải chịu như thế nữa. Bèn kêu ầm lên, chồng và vợ lớn đều tỉnh dậy, gã thiếu niên mới bỏ chạy. Không bao lâu, một đêm Tú tài tới ngủ ở phòng, đang thì thầm to nhỏ kể lể oan khổ bỗng có tiếng ầm ầm, cửa phòng mở toang, có hai tên cướp cầm đao sấn vào chặt đầu Tú tài rồi lục lọi tài vật, sợ hãi nằm im trong chăn không dám lên tiếng. Kế bọn cướp đi rồi mới kêu khóc chạy tới phòng vợ lớn, vợ lớn cả kinh, cùng tới xem xét khóc lóc, nghi là vợ lẽ đưa gian phu vào giết chồng bèn làm đơn trình lên Thứ sử. Thứ sử cho bắt tra hỏi, bị tra tấn tàn nhẫn đành nhận bừa, bị kết án lăng trì.</p><p></p><p>Khi bị giải ra chỗ hành hình, trong lòng uất ức không sao phát tiết, vừa đi vừa la khóc rằng mười tám địa ngục dưới âm ty cũng không có nơi nào đen tối hơn. Đang kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn cùng đi gọi “Anh bị ma đè à?", giật mình tỉnh dậy, thấy nhà sư già vẫn ngồi xếp bằng như cũ. Bạn bè lại hỏi “Trời chiều bụng đói sao ngủ say thế?”. Tăng buồn rầu đứng lên. Nhà sư mỉm cười hỏi “Quẻ bói Tể tướng nghiệm chưa?”. Tăng càng kinh sợ, vái lạy thỉnh giáo. Nhà sư nói "Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có sen vàng chứ bần tăng làm sao biết được?". Tăng nghênh ngang khi tới, không ngờ buồn bã mà về, tấm lòng công danh từ đó nguội lạnh, sau vào núi tu, không rõ kết cục ra sao.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ban phúc cho kẻ lành, giáng họa cho người dâm là đạo thường của trời. Kẻ kia nghe nói sẽ được làm Tể tướng thì mừng rỡ cho là đúng, thì có thể biết không phải là người cúc cung tận tụy thờ vua rồi. Lúc bấy giờ thì nắm đại quyền, lầu gác thê thiếp không gì không có, tuy giấc mơ kia vốn là dối song mong ước ấy cũng không phải đúng. Nhà sư làm ra ảo mộng, lấy đạo thuật thần diệu để răn người, kê vàng thành lệ giấc mộng ấy ắt có thật, có thể phụ vào sau chuyện giấc mộng ở Hàm Đam<strong>*</strong>.</em></p><p>*Kê... vàng... Hàm Đan: Chẩm trung ký chép Lư sinh thời Đường tới ngụ ở Hàm Đan, vào quán trọ gặp tiên ông Lữ Động Tân, thở than mình nghèo khổ. Lúc ấy chủ quán đang nấu kê, tiên ông đưa chiếc gối cho Lư, bảo gối lên mà ngủ sẽ được như nguyện. Lư chớp mắt thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan lớn, vợ đẹp con khôn, giàu sang vinh hiển suốt năm mươi năm. Khi tỉnh dậy thì nồi kê trong quán trọ vẫn chưa chín. Lư kinh ngạc hỏì “Chỉ là mộng thôi sao?”. Lữ Động Tân cười đáp "Việc đời đều như thế cả". Sau người ta hay dùng tích này để nói việc công danh phú quý chỉ là ảo mộng.</p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 84 -</strong></p><p>Chó Săn Nhỏ</p><p>(Tiểu Lạp Khuyển)</p><p></p><p>Tể tướng họ Vệ ở Sơn Tây lúc còn là Chư sinh ghét ồn ào phiền nhiễu nên tới ở trong chùa, khổ là trong phòng rất nhiều rận rệp ruồi muỗi, cả đêm không chợp mắt được nên ăn cơm trưa xong bèn lên giường nằm nghỉ. Chợt thấy một võ sĩ nhỏ bé đội mũ gắn lông trĩ, cao khoảng hai tấc, cưỡi con ngựa to bằng con sâu, vai mang cái đai xanh trên có con chim ưng to bằng con ruồi từ ngoài vào qua lại trong phòng, lúc đi lúc chạy. Ông đang chăm chú ngắm nhìn chợt lại có một người khác vào, trang phục như người trước, lưng đeo bộ cung nhỏ, dắt con chó săn to bằng con kiến càng. Khoảnh khắc thì có vài trăm quân bộ quân kỵ ồ ạt kéo vào, dắt theo vài trăm con chim ưng, vài trăm con chó săn, có bao nhiêu ruồi muỗi đang bay đều thả ưng ra đánh giết bằng hết.</p><p>Lại thả chó lên giường lần theo sát vách tìm săn rận rệp sâu bọ, sục tới khe hở nào thì sâu bọ trong đó đều phải bò ra, trong chớp mắt đã cắn giết sạch. Ông vờ ngủ hé mắt nhìn, thấy chim ưng đánh giết, chó săn săn mồi sát bên người mình. Kế có một người mặc áo màu vàng đội mũ bình thiên như bậc vương giả lên một giường khác, nghênh ngang dong xe bốn ngựa đi lại. Bọn quân kỵ đều xuống ngựa dâng các con vật săn được lên, chất đống bên cạnh, cũng không rõ là trò chuyện những gì. Giây lát vị vương giả lại lên xe, quân hộ vệ đều vội vàng lên ngựa rầm rập túa ra như đậu lăn kéo đi như mây bay gió cuốn, trong chớp mắt đã đi hết.</p><p>Ông nhìn thấy rõ ràng, kinh lạ không rõ bọn họ từ đâu tới, xỏ giày bước ra xem thì không thấy bóng dáng dấu vết gì cả, duy thấy trên hòn gạch sát tường còn sót một con chó nhỏ, vội vàng bắt lấy. Con chó rất thuần, ông đặt vào cái hộp đựng nghiên mực xoay đi xoay lại ngắm nhìn, thấy lông rất mượt, cổ có đeo cái vòng nhỏ. Lấy cơm cho ăn thì nó chỉ ngửi rồi bỏ đi, nhảy lên giường tìm những nếp chăn nếp áo sục sạo bắt rận rệp, xong rồi quay về nằm xương ngủ. Qua một đêm, ông ngờ là nó đã bỏ đi, xem lại thấy vẫn nằm khoanh tròn như cũ. ông ngủ trưa thì nó nhảy lên giường, cứ thấy sâu bọ nào trên chiếu là cắn chết hết, ruồi muỗi cũng không dám đáp xuống, ông quý hơn cả vàng ngọc.</p><p>Một hôm ông ngủ trưa, con chó tới rúc xuống nằm bên cạnh. Ông tỉnh dậy trở mình đè lên nó, thấy có vật gì cộm dưới lưng, nghĩ ngay là con chó vội vàng dậy xem thì nó đã chết bẹp như mảnh giấy, nhưng từ đó không bị rận rệp gì cắn nữa.</p><p><strong>Phụ Lục: Một Truyện Trong Trì Bắc Ngẫu Đàm(Phụ Lục: Trì Bắc Ngẫu Đàm Nhất Tắc)</strong></p><p>Quan Tể tướng Mỗ lúc chưa thi đỗ, mùa hè thường nằm ngủ trưa. Chợt thấy một người nhỏ bé cưỡi ngựa vào, người ngựa đều cao khoảng hơn tấc, lưng đeo cung tên, vai mang chim ưng to bằng con ruồi. Kế một người nữa tới, cũng nhỏ bé như vậy, dắt một con chó săn to bằng con kiến càng. Hai người đi vòng vòng trong phòng, hồi lâu có vài ngàn giáp sĩ kéo vào, cờ xí rực rỡ chia làm hai cánh bổ vây mở cuộc săn lớn, ruồi muỗi trong phòng đều bị giết sạch, những sâu bọ trốn núp trên kẽ vách đều bị lôi ra. Kế có một người áo đỏ xuống xe ngồi lên giường khác, quân sĩ lần lượt tới dâng những vật săn bắt được. Xong lại lên xe, đội ngũ tề chỉnh kéo đi, quân giáp sĩ cũng ra theo như mây bay gió cuốn rút hết. Ông choàng dậy không thấy gì nữa, chỉ còn một con chó nhỏ ngơ ngác trên vách, lập tức bắt lấy bỏ vào tráp. Con chó rất thuần, ông cho cơm thì không ăn, ông ngủ thì nằm bên cạnh gối, cứ thấy ruồi muỗi thì cắn đuổi đi.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 85 -</strong></p><p>Cô Tân Mười Bốn</p><p>(Tân Thập Tứ Nương)</p><p></p><p>Phùng sinh ở huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) là người thời Chính Đức nhà Minh (1506-1521), lúc trẻ lông bông hay rượu. Sáng sớm ra đường gặp một thiếu nữ mặc áo khoác đỏ, vô cùng xinh đẹp, có đứa tiểu đồng theo hầu, đạp bừa trên sương mà đi, giày tất ướt hết, lòng thầm yêu mến. Chiều tối say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi chùa bỏ hoang đã lâu, có cô gái từ trong đi ra, chính là người đẹp lúc sáng. Nàng vừa thấy sinh tới, lập tức quay người trở vào. Sinh nghĩ thầm người đẹp như thế sao lại ở trong chùa, liền buộc lừa ở cổng rồi vào trong tìm hiểu chuyện lạ.</p><p></p><p>Vào thấy tường rào đổ nát, cỏ phủ đầy thềm, còn đang ngần ngừ thì một ông già tóc bạc đi ra, áo mũ chỉnh tề hỏi khách tới đây làm gì. Sinh đáp "Ngẫu nhiên đi ngang thấy ngôi chùa cổ nên muốn vào lễ Phật, còn ông tới đây làm gì?”. Ông già đáp “Lão phu ngụ cư không có chỗ ở nên mượn tạm nơi này cho gia đình ở, được ông quang lâm, có chén trà núi cũng tạm thay rượu được", rồi cung kính mời khách vào. Thấy hậu điện có gian nhà, đường đi lát đá sáng bóng không có chút rêu cỏ, vào nhà thì rèm cửa màn giường đều thơm phức. Ngồi xuống hỏi họ tên, ông già nói là Mông Tẩu họ Tân. Sinh nhân say hỏi "Nghe nói ông có một cô con gái chưa gả cưới, ta không xét mình, tình nguyện làm rể được không?”. Tân cười nói "Để ta bàn lại với bà ấy", sinh lập tức hỏi lấy giấy bút làm một bài thơ rằng:</p><p></p><p><em>Thiên kim mịch ngọc chử,</em></p><p><em>Ân cần thủ tự tương.</em></p><p><em>Vân Anh như hữu ý,</em></p><p><em>Thân vị đảo nguyên sương.</em></p><p>(Ngàn vàng tìm chày ngọc</p><p>Ân cần tay tự mang</p><p>Vân Anh như có ý</p><p>Xin giã thuốc cho nàng)<strong>*</strong></p><p></p><p>*Vân Anh... cho nàng: Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng 1à người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới, bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên. Bài thơ của Phùng sinh dùng tích này để ngỏ ý xin làm rể nhà ông Tân.</p><p></p><p>Chủ nhân đọc thơ cười đưa cho người hầu, giây lát có tỳ nữ từ nhà trong ra ghé tai Tân nói nhỏ. Tân đứng lên xin khách chịu khó ngồi đợi rồi vén rèm vào nhà trong, nghe trò chuyện loáng thoáng năm ba câu rồi lập tức trở ra. Sinh nghĩ chắc có tin hay nhưng Tân cứ ngồi cười nói trò chuyện chứ không nói gì tới việc đó. Sinh không kìm được hỏi luôn "Chưa rõ ý ông về việc đó thế nào, xin dạy bảo cho ta hết ngờ vực”. Tân đáp "ông là bậc tài sĩ, ta đã hâm mộ từ lâu, nhưng có chuyện riêng nên không dám nói thôi". Sinh cứ nài nỉ xin cho biết, Tân đáp "Ta có tất cả mười chín con gái, đã gả chồng cho mười hai đứa, nhưng việc cưới gả đều quyền ở bà nó chứ ta không dự bàn”. Sinh nói "Tiểu sinh chỉ muốn hỏi cưới người dắt đứa tiểu đồng lội sương sáng nay thôi”.</p><p></p><p>Tân không đáp, im lặng nhìn khách, nghe trong phòng có tiếng con gái thì thào, sinh mượn men vén rèm bước vào, nói “Đã không thành vợ chồng được, thì cũng phải thấy mặt một lần ta mới nguôi hận”. Bên trong nghe tiếng rèm khua đều sửng sốt đúng cả dậy, quả có cô gái áo đỏ xốc tay áo nghiêng đầu mân mê giải áo, thấy sinh xông vào hoảng hốt nhìn khắp mọi người trong phòng. Tân tức giận sai mấy người lôi sinh ra cửa. Men rượu càng bốc, sinh ngã lăn vào bụi gai, gạch đá ném xuống như mưa, may mà không trúng vào người. Nằm một lúc nghe con lừa vẫn còn gặm cỏ bên đường, bèn dậy lên lừa thất thểu ra đi.</p><p></p><p>Trời tối lầm đường lạc vào khe núi, sói gào cú rúc rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh không biết đang ở đâu. Nhìn tới khu rùng xa xa thấy có ánh đèn thấp thoáng, nghĩ là làng xóm, liền giục lừa tới, thấy cánh cổng cao rộng bèn cầm roi gõ cửa. Bên trong có người hỏi "Lang quân ở đâu mà nửa đêm tới đây?", sinh đáp là lạc đường. Người ấy nói “Chờ ta thưa với chủ nhân". Sinh đứng đợi chồn cả chân, chợt nghe tiếng then lạch cạch rồi cánh cổng mở ra, một người tớ trai khỏe mạnh bước ra đỡ dây cương lừa.</p><p></p><p>Sinh vào, thấy nhà cửa hoa lệ, trên sảnh thắp đèn sáng trưng. Ngồi giây lát thì có người đàn bà ra hỏi tên họ khách, sinh nói rõ. Hồi lâu có mấy tỳ nữ đỡ một bà già ra, nói “Quận quân tới”. Sinh đứng lên định vái lạy, bà già ngăn lại bảo ngồi rồi hỏi “Ngươi là cháu nội của Phùng Vân Tử phải không?", sinh đáp "Thưa phải". Bà già nói “Vậy thì ngươi là cháu gọi lão thân bằng bà mợ. Thân già như chuông câm lậu cạn, đến cuối đời họ hàng ruột thịt cũng không ai lui tới”. Sinh nói "Cháu lúc nhỏ mồ côi cha, những người lui tới với ông nội mười phần không biết một nên chưa được chào bà, xin chỉ bảo cho” Bà già nói "Rồi cháu sẽ tự rõ". Sinh không dám hỏi nữa, ngồi đối diện bà già trầm tư.</p><p></p><p>Bà già hỏi "Sao cháu lại nửa đêm tới đây?”, sinh bèn khoe khoang mình gan dạ, kể rõ những chuyện đã qua. Bà già cười nói “Đó là việc mừng lớn, huống hồ cháu là danh sĩ, chẳng có gì làm nhà thông gia phải xấu hổ mà con chồn tinh nhà quê sao dám làm cao như thế? Cháu đừng lo, để ta thu xếp cho". Sinh vâng dạ cám ơn, bà già quay lại hỏi tả hữu "Ta không biết con gái họ Tân lại có đứa xinh đẹp như thế đấy". Một tỳ nữ nói “Y có mười chín con gái, người nào cũng xinh xắn, không rõ quan nhân định hỏi người nào?”. Sinh đáp “Là người khoảng mười lăm tuổi". Người tỳ nữ nói "Vậy là cô Mười bốn, ba hôm trước từng theo mẹ tới đây chúc thọ Quận quân, Quận quân quên rồi sao?". Bà già cười nói "Phải là người kết hột sen làm giày cao gót, trong chứa bột thơm, ngoài bọc sa mỏng mà đi không?”, người tỳ nữ đáp "Thưa phải". Bà già nói "Con nhãi ấy biết làm ra vẻ quyến rũ khéo lắm, nhưng quả là xinh đẹp, cháu ta thưởng lãm không sai", rồi lập tức bảo "Sai thằng Mèo Con gọi nó tới đây".</p><p></p><p>Người tỳ nữ đó vâng dạ đi ra, lát sau quay vào bẩm "Đã gọi được cô Mười bốn nhà họ Tân tới", liền thấy cô gái áo đỏ bước vào phủ phục làm lễ, bà già kéo dậy nói “Sắp làm vợ cháu ta, không nên làm lễ như tỳ nữ thế nữa". Cô gái thướt tha đứng lên, hai tay áo đỏ rủ xuống, bà già sửa mái tóc cho, sờ đôi hoa tai của nàng hỏi "Gần đây Tân Mười bốn ở nhà làm gì?”. Nàng đáp khẽ "Lúc rảnh con chỉ thêu thùa” rồi quay đầu thấy sinh, có vẻ ngượng ngập bối rối. Bà già nói "Đó là cháu ta, nó có ý tốt muốn kết duyên với con, sao lại để nó lạc đường, đêm khuya thất thểu trong khe núi thế?”, nàng cúi đầu im lặng. Bà già nói "Ta gọi con tới đây không có chuyện gì khác, chỉ là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi”, nàng vẫn im lặng. Bà già sai quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức, cô gái thẹn thùng nói “Xin cho con về thưa với cha mẹ". Bà già nói "Ta làm mai cho con thì còn có gì sai sót chứ?”. Nàng thưa "Quận quân ra lệnh thì cha mẹ con phải vâng lời chứ đâu đám trái, nhưng qua quít thế này thì con dù chết cũng không dám vâng mệnh". Bà già cười nói “Con bé này chí khí cứng cỏi, thật xứng đáng làm vợ cháu ta", bèn rút một chiếc thoa vàng trên tóc nàng đưa cho sinh làm tin, bảo về chọn ngày lành giờ tốt làm lễ cưới. Rồi sai tỳ nữ đưa nàng về, nghe xa xa có tiếng gà gáy lại sai dắt lừa tới tiễn sinh ra.</p><p>Sinh đi được vài bước, ngoảnh lại thì nhà cửa xóm làng đã biến mất, chỉ thấy cây cối um tùm, cỏ hoang mộ lở mà thôi, định thần ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra chỗ đó là mộ quan Thượng thư họ Tiết. Tiết vốn là em bà nội sinh nên gọi sinh là cháu. Lúc ấy sinh biết mình đã gặp ma, nhưng không hiểu cô Tân Mười bốn là ai. Bèn than thở quay về, chọn bừa một ngày tốt chờ nhưng vẫn thầm ngờ vực lời hẹn của ma quỷ khó tin, lại tới ngôi chùa cổ xem thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm thì người ở đó nói trong chùa thường có hồ quy. Sinh nghĩ thầm nếu được vợ đẹp thì có là hồ cũng tốt.</p><p></p><p>Đến ngày đã định liền cho dọn phòng quét ngõ, sai người nhà thay phiên nhau ra ngóng, đến nửa đêm vẫn yên ắng, sinh đã hết trông chờ. Giây lát nghe ngoài cổng ồn ào, lật đật ra xem thì kiệu hoa đã ngừng ở sân, hai a hoàn đỡ cô gái vào phòng, của hổi môn không có gì đáng giá chỉ có hai người tớ trai khiêng một cái phốc mãn to bằng cái khạp ghé vai đặt xuống góc phòng khách. Sinh mừng được vợ đẹp, không nghĩ gì tới việc khác loài, nhân hỏi cô gái "Một người đã chết như vậy sao nhà nàng quá phục tùng thế?”. Nàng đáp “Quan Thượng thư họ Tiết hiện làm Ngũ Đô Tuần hoàn sứ, hồ quỷ trong vài trăm dặm đều phải theo hầu, nên ít khi về mộ". Sinh nhớ cái ơn làm mối, hôm sau tới tế mộ ông bà, lúc về thấy hai tỳ nữ đem tới một cuộn gấm mừng, đặt lên bàn rồi đi. Sinh kể lại cho cô gái, nàng xem cuộn gấm rồi nói "Đây là vật của quận quân đấy".</p><p></p><p>Trong huyện có công tử con quan Thông chính ty họ Sở, thuở nhỏ học chung với sinh, chơi bời thân mật, nghe sinh cưới được vợ hồ liền đem thức ăn tới, sinh lập tức ra sảnh đường nhận rượu mừng. Vài hôm sau công tử lại bày tiệc mời, cô gái nghe chuyện nói với sinh “Hôm trước công tử tới, thiếp nhìn trộm qua kẽ vách thấy người ấy mắt vượn mũi ưng không thể thân cận, chàng đừng đi", sinh nghe theo. Hôm sau công tử tới trách sinh lỗi hẹn, nhân khoe bài văn mới làm. Sinh bình phẩm có ý giễu cợt, công tử cả thẹn không vui, kế chia tay. Sinh vào phòng cười kể lại, cô gái buồn bã nói “Công tử độc ác như sài lang, không nên trêu chọc. Chàng không nghe lời thiếp thì sắp gặp tai vạ rồi” sinh cười xin lỗi nàng.</p><p></p><p>Sau đó sinh gặp công tử thì cười đùa vui vẻ, chuyện xích mích trước dần tiêu tan. Gặp lúc có kỳ thi ở dinh Đốc học, công tử đỗ đầu, vô cùng vui vẻ sai người mời sinh qua uống rượu, sinh từ chối, công tử sai mời mấy lần mới tới. Khi tới mới biết là ngày sinh nhật của công tử, khách khứa đầy nhà, rượu thịt ê hề. Công tử đưa quyển thi cho sinh xem, bạn bè đua nhau ca tụng. Rượu được vài tuần, dàn nhạc ra tấu dưới thềm, tiếng đàn sáo tưng bùng, chủ khách đều rất vui vẻ. Bỗng công tử nói với sinh “Lời ngạn có câu Trong trường chớ bàn văn chương hơn kém, nay mới rõ câu ấy là sai. Sở dĩ mới rồi tiểu sinh may mắn đỗ trên ông là nhờ vài câu khởi đề cao hơn một bực mà thôi". Công tử nói xong, cả tiệc đều cất tiếng khen ngợi. Sinh đang say không nhín được, cười rộ nói “Mãi đến nay ông mới nhờ văn chương mà thành đạt tới mức ấy à?". Sinh nói xong cả tiệc đều tái mặt, công tử vừa thẹn vừa uất. Khách khứa lần lượt ra về, sinh cũng lẩn đi.</p><p></p><p>Khi tỉnh rượu hối hận bèn kể lại cho vợ, nàng không vui, nói "Chàng thật là gã thôn phu quê mùa! Phàm lấy thái độ khinh bạc đối xử với bậc quân tử thì tổn đức, đối xử với kẻ tiểu nhân thì hại thân, tai họa sắp tới cho chàng không còn xa đâu. Thiếp không nỡ thấy chàng lưu lạc, từ nay xin giã biệt". Sinh lo sợ sa nước mắt tỏ ý ăn năn, nàng nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì chàng phải hứa là từ nay trở đi đóng cửa tuyệt hết bạn bè, không uống rượu say sưa nữa”, sinh kính cẩn theo lời.</p><p></p><p>Cô Mười bốn tính cần kiệm hơn người, hàng ngày thường lo việc canh cửi, có lúc về thăm nhà nhưng không bao giờ ở lại qua đêm. Có khi lại xuất tiền buôn bán, hàng ngày có lời thì bỏ vào cái phốc mãn. Ngày ngày đóng cửa, ai tới thăm viếng cững bảo gia nhân ra từ tạ không tiếp. Hôm sau, công tử họ Sở gửi thư tới, nàng đốt bỏ không cho sinh biết. Lại hôm sau sinh vào thành điếu tang, gặp công tử ở nhà tang chủ, công tử nắm tay lôi kéo mời mọc, sinh thác cớ không đi. Công tử sai mã phu nắm cương ngựa sinh kéo đi, tới nhà công tử lập tức sai bày tiệc, sinh lại cáo từ muốn về sớm. Công tử nhất định giữ lại, lại gọi ban nhạc trong nhà ra đàn hát giúp vui. Sinh vốn không chịu bị gò bó, từ khi phải đóng cửa ở lỳ trong nhà rất lấy làm buồn bực, gặp bữa rượu lớn chợt nổi hứng không nghĩ gì tới ý trước nữa, cứ thả sức uống đến lúc say mèm lăn ra luôn bên bàn tiệc.</p><p></p><p>Vợ công tử là Nguyễn thị rất hung dữ ghen tuông, đám tỳ thiếp không dám trang điểm son phấn. Hôm trước có một nàng hầu vào phòng sách của công tử bị Nguyễn thị bắt được, cứ lấy gậy đập vào đầu, nàng ấy vỡ đầu chết ngay. Công tử vẫn căm giận vì bị sinh chế giễu, hàng ngày nghĩ cách báo thù, bèn mưu phục rượu cho say để vu cáo. Nhân lúc sinh say ngủ, liền khiêng cái xác nàng hầu lên giường rồi khép cửa bỏ đi. Đến canh năm sinh tỉnh mới biết mình ngủ trên ghế bèn dậy tìm giường, thấy có vật mềm mềm vướng chân, mò xem thì là người. Bụng nghĩ chắc chủ nhân cho tiểu đồng ngủ chung để chăm sóc hầu hạ, nhưng lay gọi sờ nắn thì bất động mà cứng đờ, cả sợ ra cửa la ầm lên. Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác chết liền bắt sinh đánh dập. Công tử tới giả xem xét xác chết rồi vu cho sinh cưỡng gian giết nàng hầu của mình, giải nộp lên huyện Quảng Bình.</p><p></p><p>Hôm sau cô Mười bốn mới biết chuyện, khóc nói “Ta đã biết trước là sẽ có ngày hôm nay mà", rồi hàng ngày gởi tiền bạc cho sinh. Sinh gặp quan Phủ doãn không có lý lẽ gì để minh oan nên sớm chiều bị tra khảo đánh đập tuột da nát thịt. Cô gái vào ngục thăm, sinh gặp nàng nghẹn ngào đau đớn không nói nên lời. Nàng biết đã mắc vào mưu sâu bèn khuyên cứ nhận tội bừa cho khỏi bị tra tấn đau đớn, sinh khóc nghe theo. Nàng ra vào trong ngục mà người cách nhau gang tấc cũng không nhìn thấy, về nhà thở dài buồn bã, đuổi hết tớ gái ra ngoài, ở trong phòng một mình liền mấy ngày. Kế nhờ bà mối mua giùm một cô gái nhà dân tên Lộc Nhi, tuổi vừa cập kê, nhan sắc khá đẹp, cho ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, yêu mến khác hẳn đám tỳ thiếp trong nhà.</p><p>Sinh nhận tội ngộ sát bị kết án thắt cổ, người lão bộc nghe tin chạy về khóc lóc kể không ra tiếng, nhưng nàng thản nhiên như không để ý. Kế sắp đến ngày đem xử những tù phạm bị kết án tử hình, nàng mới nhớn nhác vội vã, ngày đi đêm về không lúc nào nghỉ ngơi, lúc vắng người thì ngồi buồn rầu, bỏ cả ăn ngủ. Một hôm trời vừa sập tối, chợt con hồ tỳ tới, nàng vội đứng lên dắt vào phòng kín trò chuyện, lúc quay ra thì có vẻ hón hở, lại coi sóc việc nhà như ngày thường. Hôm sau người lão bộc vào ngục thăm, sinh gởi lời vĩnh biệt nương tử, người lão bộc về thuật lại, nàng ậm ừ mà cũng chẳng có vẻ đau thương buồn bã, chỉ lạnh lùng mặc kệ, tôi tớ đều lén chê là nàng nhẫn tâm.</p><p></p><p>Chợt khắp nơi đồn đại quan Thông chính sứ họ Sở bị cách chức, quan Quan sát Bình Dương vâng đặc chỉ xét lại vụ án Phùng sinh. Lão bộc nghe tin, mừng rỡ vào nói với bà chủ. Nàng cũng mừng, lập tức sai lão bộc lên phủ thăm dò, thì sinh đã ra khỏi ngục, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Giây lát thấy công tử bị bắt giải tới, chỉ tra hỏi một lượt là biết hết nội tình, sinh được tha ngay về. Về tới nhà, sinh vừa nhìn thấy vợ vùng sa nước mắt, nàng cũng chua xót. Sinh buồn rồi lại vui, nhưng rốt lại vẫn không rõ nhờ đâu mà vua biết được. Nàng cười chỉ con hồ tỳ nói "Đây là công thần của chàng đấy", sinh mới kinh ngạc hỏi han.</p><p></p><p>Trước là nàng sai con hồ tỳ lên yên Kinh, muốn vào cung vua kêu oan cho sinh nhưng tới nơi thấy trong cung có thần canh giữ, cứ quanh quẩn ngoài ngự câu mấy tháng không vào được. Nó sợ hỏng việc, toan về bàn tính lại, chợt nghe tin Thiên tử sắp ngự giá tới huyện Đại Đồng (tỉnh Sơn Tây), liền tới đó trước, giả làm con hát rong. Vua tới kỹ viện gặp nó rất thương yêu, tỏ ý ngờ không phải là kẻ phong trần, nó bèn cúi đầu khóc lóc. Vua hỏi có chuyện gì oan khổ, con hồ tỳ tâu "Thiếp vốn quê ở huyện Quảng Bình, con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan sắp bị xử tử nên bị bán vào kỹ viện”. Vua nghe thấy buồn bã thương xót, ban cho một trăm lượng vàng, lúc ra về lại hỏi kỹ đầu đuôi câu chuyện, lấy giấy bút ghi lại tên họ, lại nói muốn đưa nó về cùng chung hưởng phú quý. Con hồ tỳ nói chỉ muốn cha con đoàn tụ chứ không mong được hưởng giàu sang, vua gật đầu rồi đi. Con hồ tỳ kể lại cho sinh nghe, sinh vội vái lạy tạ ơn, nước mắt lưng tròng.</p><p></p><p>Không bao lâu sau, cô gái chợt nói với sinh "Thiếp không vì tình duyên thì đâu phải chịu cảnh phiền não thế này. Lúc chàng bị giam, thiếp chạy chọt khắp cả họ hàng thân thuộc mà không một ai bàn tính giùm mưu kế gì, lúc ấy trong lòng chua cay, thật không thể nói ra. Nay thấy chán ghét tục lụy, đã tìm sẵn cho chàng một người vợ hiền, vậy từ đây xin giã biệt”. Sinh nghe lạy phục xuống đất khóc lóc không chịu đứng lên, cô gái mới ở lại. Đến đêm nàng sai Lộc Nhi qua với sinh, sinh nhất định từ chối. Sáng hôm sau thấy cô Mười bốn dung mạo sút hẳn, hơn một tháng thì già sọm đi, nửa năm thì mặt nám da đen như bà già nhà quê, nhưng sinh vẫn kính mến không khác trước.</p><p></p><p>Chợt cô gái lại đòi từ biệt, nói “Chàng đã có vợ đẹp rồi, cần gì tới con quỷ già này?” sinh lại khóc giữ lại như trước. Qua tháng sau, cô gái phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống nằm liệt. Sinh hôm sớm thuốc thang như lo cho cha mẹ, nhưng thuốc men bùa chú gì cũng vô hiệu, kế nàng chết. Sinh đau thương muốn chết theo luôn, liền lấy số vàng của con hồ tỳ được vua ban cho trước kia lo việc chôn cất. Vài hôm sau con hồ tỳ cũng đi. Sinh bèn lấy Lộc Nhi làm vợ, hơn một năm sinh được một trai. Nhưng sinh đi thi mấy khoa liền không đỗ mà gia cảnh ngày càng sa sút, vợ chồng không biết làm sao, chỉ nhìn nhau buồn rầu. Chợt nhớ tới cái phốc mãn trong góc nhà, thường thấy cô Mười bốn bỏ tiền vào trong, không biết có còn không? Tới xem thì nồi niêu chai lọ bày la liệt ở trên, phải nhấc cả ra rồi lấy đũa chọc thử nhưng không chọc vào được, bung lên đập vỡ thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà, nhờ thế bỗng chốc sinh lại trở thành sung túc.</p><p></p><p>Về sau người lão bộc tới núi Thái Hoa, gặp cô Tân Mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tỳ cưỡi lừa theo sau, hỏi "Phùng lang bình yên chứ?”, lại dặn "Về nói cho ông chủ biết là ta đã thành tiên rồi", nói xong thì biến mất.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Những lời khinh bạc phần lớn là do các kẻ sĩ nói ra, đó là điều bậc quân tử than tiếc. Ta từng mạo cái danh không thật, nói là oan uổng thì cũng đã lỡ rồi, song chưa từng không khắc khổ tự khích lệ mình để gượng dự vào hàng quân tử, còn chuyện họa hay phúc thì không dự bàn. Như Phùng sinh chỉ lỡ lời một câu mà mấy lần suýt mất mạng, nếu không phải là trong nhà có người tiên thì làm sao thoát khỏi ngục tù mà sống lại ở đời? Thật đáng sợ thay! </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 86 - 88 -</strong></p><p>Bạch Liên Giáo</p><p>(Bạch Liên Giáo)</p><p></p><p>Bạch Liên giáo<strong>*</strong> có Mỗ người tỉnh Sơn Tây, không rõ tên họ, đại khái là đệ tử của Từ Hồng Nho<strong>**</strong>, dùng yêu thuật mê hoặc dân chúng, có nhiều người hâm mộ phép thuật nhận y làm thầy. Có hôm Mỗ đi vắng, đặt một cái chậu trong sảnh đường, lại lấy một cái chậu khác úp lên, dặn một người học trò ngồi giữ nhưng không được mở ra nhìn. Mỗ đi rồi, trò mở ra xem thì thấy trong chậu đựng nước trong, trên mặt nước có một chiếc thuyền kết bằng cỏ đủ cả cánh buồm bánh lái, lấy làm lạ đưa ngón tay khều, chiếc thuyền nghiêng đi một cái rồi nổi lại như cũ, bèn úp chậu lại. Kế thầy về hỏi sao dám trái lời ta, trò ra sức biện bạch là không hề mở ra, thầy nói "Vừa rồi thuyền đi trên biển suýt bị lật, còn dám dối ta à?".</p><p></p><p>* Bạch Liên giáo: tên một tổ chức quần chúng mang hình thức tôn giáo xuất hiện ở Trung Quốc cuối thời Nguyên, liên tục bị giai cấp phong kiến từ Nguyên đến Minh, Thanh đàn áp nhưng vẫn tồn tại với tôn chỉ chống chính quyền. Tổ chức này có nhiều người dùng võ nghệ, thuốc men, ảo thuật để tập hợp nhân dân, nên thường bị coi là tà giáo.</p><p>**Từ Hồng Nho: xem truyện Bạch Liên giáo, quyển Thập di.</p><p></p><p>Lại một đêm thầy đốt đuốc cắm trên sảnh đường, dặn phải giữ đừng để gió thổi tắt rồi ra đi. Hết canh một thầy vẫn chưa về, trò mệt mỏi lên giường nằm ngủ, thức giấc thì đuốc đã tắt ngấm vội đứng dậy đốt lên. Kế thầy vào, lại trách mắng, trò nói "Con vốn không hề ngủ, làm sao đuốc tắt được?”. Thầy tức giận nói "Mới rồi ta phải đi thầm hơn chục dặm, lại còn cãi à?” trò cả sợ. Những việc làm kỳ lạ như thế rất nhiều, không thể chép ra hết được.</p><p></p><p>Sau người ái thiếp của Mỗ tư thông với một người học trò, Mỗ biết nhưng để bụng không nói ra, sai trò đi cho heo ăn. Trò bước vào chuồng heo thì ngã lăn ra đất biến thành con heo, Mỗ lập tức gọi đồ tể tới giết thịt đem bán, không ai biết cả. Cha người ấy không thấy con về tới hỏi, Mỗ chối nói là lâu lắm không thấy tới, người cha quay về tìm kiếm khắp nơi không có tin tức gì. Có người học trò khác của Mỗ ngầm biết việc đó lén nói cho người cha, người cha lên báo với quan huyện. Quan huyện sợ Mỗ trốn thoát, không dám đi bắt, bẩm lên quan trên xin phát một ngàn giáp sĩ kéo tới vây nhà, bắt được cả Mỗ lẫn vợ con nhốt vào lồng sắt, định giải lên kinh.</p><p></p><p>Đi ngang núi Thái Hàng, trong núi có một người to lớn bước ra, cao như cây lớn, mắt như cái tô, miệng như cái chậu, răng dài hơn thước, quân sĩ hoảng sợ đứng ngây ra không dám đi. Mỗ nói "Đó là yêu quái, vợ ta có thể đuổi được", quân sĩ theo lời cởi trói cho vợ Mỗ. Vợ Mỗ vác giáo xông tới, người to lớn tức giận vồ lấy nuốt chửng, mọi người càng sợ hãi. Mỗ nói "Nó đã giết được vợ ta, thì phải con trai ta ra mới xong", quân sĩ lại thả con trai Mỗ ra, nhưng cũng bị nuốt sống như thế. Mọi người nhìn nhau không biết làm sao. Mỗ khóc lóc rồi giận dữ nói “Đã giết vợ ta, lại giết con ta làm sao nhịn được? Nhưng không phải đích thân ta ra thì không xong”. Mọi người quả nhiên lại thả Mỗ ra khỏi lồng sắt, trao cho thanh đao bảo tới đánh. Người to lớn giận dữ xông tới, tay không ác đấu một lúc thì vươn tay chụp lấy Mỗ đút vào miệng, rướn cổ ra nuốt xuống rồi ung dung bỏ đi.</p><p></p><p><strong>087. Tướng Công Hồ Tứ </strong></p><p><strong> (Hồ Tứ Tướng Công)</strong></p><p></p><p>Trương Hư Nhất ở huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) là anh Học sứ Trương Đạo Nhất, tính hào sảng tự tin. Nghe nói ngôi nhà của người nọ trong huyện bị hồ chiếm ở, bèn mang danh thiếp tới yết kiến mong được gặp một lần. Nhét danh thiếp vào khe cửa một lúc thì cánh cổng tự mở, đầy tớ sợ hãi lui lại. Trương sửa áo kính cẩn bước vào, thấy trong sảnh đường đủ cả bàn ghế nhưng vắng ngắt không có một ai, bèn vái dài khấn rằng "Tiểu sinh trai giới tới đây, thượng tiên đã không nỡ từ chối ngay từ cổng, sao không ban ơn cho thấy mặt?”. Chợt nghe có tiếng người nói "Làm phiền ông lặn lội giá lâm, đã nghe tiếng bước chân rồi, xin mời ngồi xuống dạy dỗ cho", lập tức thấy hai chiếc ghế di động tới đối mặt với nhau.</p><p></p><p>Trương vừa ngồi lập tức có cái khay đỏ sơn đen đựng hai chung trà lơ lửng tới trước mặt, mỗi bên cầm một chén lên uống, nghe tiếng thổi, tiếng hớp nước nhưng vẫn không thấy người. Uống trà xong, kế có rượu dọn ra, Trương hỏi lai lịch, hồ đáp "Đệ họ Hồ, bày hàng thứ tư, bọn tùy tùng gọi là Tướng công". Rồi đó uống rượu trò chuyện, thấy rất hợp nhau. Thấy chả ba ba, khô thịt nai, rau sống liên tiếp đưa lên, như có rất nhiều người hầu rượu. Trương uống rượu xong đang muốn uống trà, vừa nghĩ xong đã có trà thơm phức đặt lên bàn, cứ vừa nghĩ cần món gì thì lập tức món đó đã được mang tới. Trương thích lắm, uống say mới về. Từ đó cứ ba bốn hôm lại đến thăm Hồ một lần, Hồ cũng thường tới nhà Trương như qua lại đáp lễ.</p><p></p><p>Một hôm Trương hỏi “Có bà đồng ở nam thành vẫn khoe nhà có thần hồ mà lấy tiền người bệnh, không rõ ông có quen hồ nhà ấy không?". Hồ đáp "Mụ ta bịa đấy, không có hồ thật đâu”. Lát sau Trương đứng dậy đi tiểu, nghe thấy tiếng nói nhỏ "Vừa rồi nghe nói tới bà đồng có hồ ở nam thành, chẳng biết ra sao. Tiểu nhân muốn theo tiên sinh tới xem, xin tiên sinh nói với chủ nhân một câu”. Trương biết đó là đám hồ nhỏ, bèn gật đầu nói “Được rồi”. Rồi quay vào chỗ ngồi nói với Hồ rằng "Ta muốn mượn hai ba người hầu dưới trướng tới xem thư bà đồng có hồ, xin ông ra lệnh”. Hồ cứ nói không cần, Trương năn nỉ mấy lần mới ưng thuận.</p><p></p><p>Kế Trương ra thì ngựa tự tới như có người nắm cương dắt đi, khi lên ngựa đi thì dọc đường hồ nói với Trương "Từ nay tiên sinh đi đường thấy cát nhỏ bắn lên vạt áo tức là có bọn ta đi theo đấy”. Nói tới đó thì vào thành, tới nhà bà đồng nọ. Bà đồng thấy Trương tới, tươi cười ra đón, nói “Sao quý nhân lại bất ngờ quang lâm?". Trương hỏi "Nghe nói ông hồ trong nhà bà linh thiêng lắm phải không?". Bà đồng nghiêm sắc mặt dáp "Người sang cả không nên nói lời khinh bạc, sao lại nói là ông hồ? E rằng bà chị xinh đẹp nhà ta không vui đâu!". Chưa dứt lời thì có nửa viên gạch ném tới trúng tay, bà đồng giật mình nhảy dựng lên, hoảng sợ hỏi Trương "Sao quan nhân lại ném gạch vào già?". Trương cười nói “Bà già mù rồi, đó là gạch ngói trên nóc nhà bà lở xuống, định vu oan cho người ngoài à?”. Bà đồng ngạc nhiên không biết viên gạch từ đâu bay tới, đang dáo dác ngó quanh lại bị một hòn đá ném trúng đầu ngã lăn ra, kế bị bùn đất cứt đái ném xuống tới tấp, mặt mày lấm lem như quỷ, chỉ kêu gào xin tha mạng.</p><p></p><p>Trương xin đám hồ nhỏ tha cho, chúng mới dừng tay. Bà đồng vội vùng dậy chạy tuốt vào phòng đóng chặt cửa không dám ra nữa. Trương gọi hỏi "Hồ của ngươi bằng hồ của ta không?", bà đồng chỉ rối rít xin lỗi. Trương ngẩng đầu lên không bảo đừng ném nữa, bà đồng mới dám run rẩy bước ra, Trương cười an ủi vài câu rồi về. Từ đó Trương đi một mình trên đường mà thấy cát bụi bắn lên áo thì gọi hồ cùng trò thuyện, lần nào cũng có bên cạnh, nhờ thế chẳng sợ gì sói cọp trộm cướp. Cứ thế nửa năm, ngày càng thân thiết với đám hồ. Thường hỏi tuổi, cả bọn đều không nhớ rõ, chỉ nói rằng từng thấy Hoàng Sào<strong>*</strong> làm phản nhưng cũng chỉ như vừa hôm qua.</p><p></p><p>*Hoàng Sào: lãnh tụ nông dân cuối thời Đường, theo Phương Tiên Chi khởi nghĩa rồi thay Tiên Chi lãnh đạo, từng đánh chiếm Trường An, xưng hiệu Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, chống nhà Đường trong thời gian 874-884.</p><p></p><p>Một đêm đang cùng trò chuyện chợt nghe đầu tường có tiếng hú lớn rất ghê rợn, Trương lấy làm lạ, Hồ nói "Đó ắt là anh ruột ta". Trương hỏi "Vậy sao không mời vào chơi?", Hồ đáp "Y tệ lắm, chỉ thích trộm cắp gà qué mà ăn, cứ mặc kệ y là xong". Trương nói với Hồ "Giao du thân thiết như hai chúng ta có thể nói là không ngờ vực gì nhau, thế mà chưa lần nào được thấy mặt ông, nghĩ thật đáng hận". Hồ đáp "Chỉ cần chơi thân với nhau là được rồi, thấy mặt làm gì?”.</p><p></p><p>Một hôm Hồ bày tiệc mời Trương, nói xin cáo biệt. Trương hỏi định đi đâu, Hồ đáp "Đệ có sản nghiệp ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), định về lại đó. Ông vẫn hận việc đối diện không thấy mặt, nay xin nhìn qua người bạn mấy năm một lần để ngày sau còn nhận ra nhau”. Trương nhìn quanh không thấy gì, Hồ nói "Ông cứ vén rèm cửa phòng ngủ ra là thấy đệ". Trương theo lời vén rèm lên, thấy có một thiếu niên đẹp trai đang nhìn mình cười, phục sức sang trọng, mày mắt như vẽ, chớp mắt không thấy đâu nữa. Trương quay người bước ra thì có tiếng giày lẹp kẹp phía sau, nói "Hôm nay ông hết hận rồi nhé". Trương lưu luyến không nỡ chia tay, Hồ nói "Tan hợp là có số, băn khoăn làm gì?". Rồi lấy chén lớn mời rượu, đến nửa đêm mới sai lấy đèn lồng đưa Trương về.</p><p></p><p>Sáng ra Trương tới xem, thì chỉ có nhà không vắng ngắt mà thôi. Về sau tiên sinh Trương Đạo Nhất làm quan Học sứ ở Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên), Trương vẫn nghèo như trước bèn tới thăm em, cũng mong được biếu thật nhiều. Hơn tháng trở về, được biếu quá ít so với lòng mong mỏi, trên ngựa cứ thở vắn than dài như vợ chết. Chợt có một thiếu niên cưỡi ngựa Thanh câu từ sau đuổi theo, Trương nhìn thấy áo đẹp ngựa khỏe, dáng vẻ rất phong nhã, bèn trò chuyện qua loa.</p><p></p><p>Thiếu niên thấy Trương có vẻ buồn bã bèn hỏi, Trương cũng thở dài kể lại nguyên do, thiếu niên cũng tìm lời an ủi. Cùng đi hơn một dặm, tới ngã ba thiếu niên chắp tay chào nói "Phía trước có người gởi ông một vật của cố nhân, xin vui lòng nhận cho”, định hỏi lại thì đã phóng ngựa đi thẳng, Trương cũng chẳng hiểu là có ý gì. Lại đi hai dặm, gặp một người đầy tớ cầm cái rương nhỏ đón trước ngựa đưa lên nói “Tướng công Hồ Tứ kính gởi tiên sinh", Trương lúc ấy mới chợt hiểu ra. Bèn đón lấy mở ra xem, thì bên trong toàn bạc nén trắng xóa, nhìn lại người đầy tớ thì không biết đã đi đâu mất.</p><p> </p><p></p><p></p><p> </p><p></p><p></p><p></p><p><strong>088. Cừu Đại Nương </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Cừu Đại Nương)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Cừu Trọng người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) không rõ phủ huyện, gặp loạn bị giặc bắt đi. Có hai trai là Phúc và Lộc còn nhỏ, vợ kế là Thiệu thị chăm sóc đôi trẻ mồ côi, may nhờ sản nghiệp của Trọng để lại cũng được ấm no, nhưng gặp mấy năm mất mùa liên tiếp, lại bị cường hào lấn áp đến nỗi không giữ được mà ăn. Chú của Trọng là Thượng Liêm thấy cháu dâu cải giá thì có lợi cho mình, thường khuyên lấy chồng nhưng Thiệu thị thề giữ chí không lay chuyển. Liêm ngầm hẹn với một nhà đại tộc, định cưỡng ép nàng, bàn bạc đã xong mà người ngoài vẫn không ai biết.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trong làng có tên Ngụy là kẻ gian giảo quỷ quyệt từ lâu có hiềm khích với nhà Trọng, có chuyện gì cũng nghĩ cách phá đám, nhân Thiệu thị ở góa bèn phao tin nhảm để bêu xấu. Nhà đại tộc nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức bèn thôi. Lâu ngày mưu của Liêm và lời đồn đại bên ngoài cũng tới tai Thiệu thị, nàng buồn rầu uất sớm tối sa lệ dần dần tay chân tê bại nằm liệt giường. Phúc đã mười sáu tuổi, vì trong nhà không có người khâu vá nên vội lo việc lấy vợ, hỏi cưới con gái Tú tài Khương Dĩ Chiêm, có tiếng hiền thục đảm đang, việc nhà đều nhờ nàng lo toan xếp đặt, nhờ vậy nhà cũng hơi dư dật, bèn cho Lộc đi học.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Ngụy ghen ghét nhưng làm ra vẻ thân thiện, nhiều lần mời Phúc uống rượu, Phúc thấy thế coi Ngụy như bạn thân. Ngụy nhân dịp nói “Lệnh đường bệnh nằm liệt giường không thể coi sóc việc nhà, chú em thì chỉ ngồi ăn không làm được việc gì, hai vợ chồng việc gì phải nai lưng ra làm trâu ngựa? Lại lúc chú em cưới vợ thì còn tốn kém nhiều nữa chứ. Tính kế cho ông chẳng bằng cứ sớm ra riêng, thì chú em sẽ phải nghèo chứ ông sẽ giàu có”. Phúc về bàn với vợ, vợ cho là nói bậy. Nhưng Ngụy cứ rủ rỉ xúi giục ngày này tháng khác, mưa dầm thấm sâu nên Phúc nghe theo, bèn nói thẳng ý ấy với mẹ. Mẹ tức giận chửi mắng, Phúc càng tức tối, cho rằng tiền bạc thóc gạo trong nhà chẳng qua chỉ là của người khác nên không ngó ngàng gì tới nữa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Ngụy thừa cơ rủ rê Phúc cờ bạc, thóc trong kho cứ vơi dần, vợ biết nhưng chưa dám nói, đến lúc hết thóc ăn, mẹ giật mình hỏi mới nói thật. Mẹ giận lắm nhưng không làm sao được, đành cho Phúc ra ở riêng. May là cô gái họ Khương hiền đức, sáng chiều vẫn qua lại lo cơm nước hầu hạ mẹ như trước. Phúc đã ra riêng càng không nể sợ gì nữa, thả sức cờ bạc, chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng vườn nhà cửa để trả nợ chơi bời mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi tiền bạc đã hết sạch, không còn cách nào bèn làm tờ gán vợ để vay tiền mà không ai chịu nhận.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trong huyện có Triệu Diêm La vốn là tên cướp lớn lọt lưới, ngang ngược nhất vùng nên không sợ Phúc nuốt lời, thản nhiên cho vay. Phúc cầm tiền đi, vài ngày thì thua sạch, đang ngần ngừ định bội ước thì Triệu đã trừng mắt nhìn. Phúc cả sợ, lừa dắt vợ tới giao cho Triệu. Ngụy nghe tin mừng thầm, chạy ngay tới nói với nhà họ Khương, rắp tâm làm cho họ Cừu lụn bại. Khương tức giận phát đơn kiện, Phúc sợ quá bèn bỏ trốn. Cô gái họ Khương tới nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc lớn chỉ muốn chết ngay. Triệu ban đầu còn dỗ dành nhưng nàng không nghe, kế ra oai quát nạt thì nàng càng mắng chửi, cả giận đánh đập nàng cũng không chịu khuất phục, rút trâm cài đầu tự đâm vào cổ họng, vội tới cứu thì đã lút vào thực quản, máu phun ra. Triệu vội lấy lụa băng bó cho nàng, còn nghĩ cứ để thong thả sẽ khuất phục được.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Hôm sau có trát quan tới đòi, Triệu thản nhiên lên hầu như không có chuyện gì. Quan khám thấy vết thương của cô gái rất nặng, sai nọc Triệu ra đánh, nhưng đám lính cứ nhìn nhau không dám ra tay. Quan nghe đồn Triệu ngang ngược đã lâu, đến lúc ấy càng tin, cả giận gọi người nhà ra đánh Triệu chết luôn tại chỗ, Khương bèn cáng con gái về. Từ khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết Phúc hư hỏng tới mức ấy, gào khóc cơ hồ đứt hơi rồi nhắm mắt ngất đi. Bấy giờ Lộc mười lăm tuổi, một mình lúng túng không biết làm sao.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trọng có một gái con vợ trước là Đại Nương gả chồng xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm mà thức ăn vật dùng không vừa ý thì cãi vã với cha mẹ rồi giận dữ bỏ đi, Trọng vì thế giận ghét, lại vì đường xa nên có khi vài năm không một lần thăm hỏi. Lúc Thiệu thị bệnh nặng, Ngụy muốn gọi nàng tới để gây ra việc tranh giành của cải, gặp lúc có người lái buôn ở cùng làng với Đại Nương bèn thác cớ nhắn tin, lại mừng rằng nhà này thế là tan nát.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Vài hôm sau quả nhiên Đại Nương dắt một đứa con nhỏ tới, vào nhà thấy em nhỏ hầu mẹ ốm, quang cảnh rất thảm đạm, bất giác mủi lòng. Nhân hỏi tới Phúc, Lộc kể hết đầu đuôi, Đại Nương nghe thấy giận nghẹn cổ nói “Nhà không có người lớn nên để cho người ta giày xéo đến như thế! Ruộng vườn nhà ta sao bọn ăn cướp dám lừa chiếm lấy?”. Rồi xuống bếp chụm lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, kế gọi em và con cùng ăn. Ăn xong giận dữ ra đi, tới huyện nộp đơn kiện bọn cờ bạc. Cả bọn sợ góp tiền đút lót Đại Nương, nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Quan cho bắt tên Giáp, tên Ất... đánh đòn quở trách nhưng không hỏi tới việc ruộng vườn. Đại Nương căm tức không thôi, dắt con lên thẳng lên quận. Quận thú rất ghét cờ bạc, Đại Nương hết sức bày tỏ nỗi cô khổ cùng tình trạng bị bọn cờ bạc lừa đảo, lời lẽ thống thiết. Quận thú động lòng, ra lệnh cho quan huyện truy thu ruộng vườn cấp lại cho chủ cũ và trừng phạt Cừu Phúc làm gương cho bọn hư hỏng. Sau khi nàng về, quan huyện được lệnh ráo riết thi hành nên nhà cửa ruộng vườn cũ lấy lại được hết. Lúc ấy Đại Nương góa chồng đã lâu, bèn bảo đứa con nhỏ về nhà, dặn phải theo anh lo làm ăn không được tới nữa. Đại Nương từ đó ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em, xếp đặt trong ngoài đâu vào đấy. Mẹ được an ủi rất nhiều, dần dần khỏi bệnh, việc</p><p>nhà giao cả cho Đại Nương.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Bọn cường hào trong làng có hơi lấn lướt thì nàng vác dao tới tận cửa cứng cỏi đấu lý, kẻ nào cũng phải nhụt. Hơn một năm thì ruộng vườn ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc men và thức ngon vật lạ gởi cho cô gái họ Khương. Lại thấy Lộc dần trưởng thành, nhiều lần dặn mối lái tìm nơi cưới hỏi. Ngụy nói với mọi người rằng "Sản nghiệp nhà họ Cừu đều giao cho Đại Nương, e rằng sau này không lấy lại được", mọi người tin theo nên không ai muốn kết thông gia với họ Cừu. Có công tử Phạm Tử Văn, nhà có khu vườn nổi tiếng nhất ở đất Tấn, các loại hoa quý trong vườn trồng dọc hai bên đường chạy thẳng vào nhà trong. Có người không biết lỡ đi vào, gặp lúc gia đình công tử đang ăn tiệc, ông nổi giận bắt trói bảo là kẻ trộm, đánh cho gần chết.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Gặp tiết Thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Ngụy rủ đi chơi, dắt tới chỗ ấy. Ngụy vốn quen người coi vườn nên được cho vào, đi xem khắp cả đình tạ. Giây lát tới một chỗ nước khe chảy cuồn cuộn, có chiếc cầu vẽ lan can màu đỏ thông vào cánh cổng sơn đen, từ xa nhìn tới thấy hoa rậm như gấm, là nơi phòng sách của công tử. Ngụy lừa nói "Anh cứ vào trước, ta đi tiểu một chút". Lộc tin bèn bước lên, qua cầu vào cửa, tới một dãy viện thì nghe tiếng con gái cười nói. Vừa dừng chân thì có một tỳ nữ ra, nhìn thấy Lộc lập tức quay gót trở vào, Lộc mới sợ hãi bỏ chạy. Giây lát công tử bước ra quát người nhà lấy dây thừng đuổi bắt, Lộc bí quá nhảy luôn xuống khe. Công tử hết giận bật cười, sai đầy tớ xuống dắt lên.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Thấy mặt mũi y phục của Lộc đều phong nhã, ông sai đem áo và giày ra cho thay rồi dắt vào một ngôi đình hỏi họ tên, thái độ hết sức niềm nở thân mật. Lát sau công tử đi nhanh vào trong rồi trở ra ngay, tươi cười dắt tay Lộc đi, qua cầu dần tới chỗ lúc nãy. Lộc không hiểu ý thế nào, dùng dằng không dám bước, công tử cố kéo vào. Thấy sau giậu hoa thấp thoáng có người đẹp nhìn trộm, vừa ngồi xuống thì các tỳ nữ dọn rượu lên. Lộc từ tạ nói "Trẻ con không biết gì, đi lầm vào chốn khuê các, được khoan xá là đã mừng lắm, chỉ mong được cho về sớm thì đội ơn vô cùng", nhưng công tử không nghe. Giây lát thức ăn bày lên la liệt, Lộc lại đứng lên từ tạ là đã no say rồi. Công tử kéo ngồi xuống, cười nói "Ta có một cái tên từ khúc, nếu ông đối được xin cho đi ngay”. Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói “Phách tên Chẳng hề giống”, Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối “Bạc đúc Biết làm sao". Công tử cười lớn nói "Quả đúng là Thạch Sùng!”<strong>*</strong>, Lộc không hiểu gì cả.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Công tử nói... Thạch Sùng: nguyên văn hai vế đối trên là "Phách danh Hồn bất tự, Ngân thành Một nại hà”. Vế trước lấy tích Chiêu Quân có chiếc đàn tỳ bà bị hỏng, sai làm chiếc khác, khi dâng lên thì bé hơn chiếc trước, Chiêu Quân cười nói "Chẳng hề giống chiếc trước” (Hồn bất tự), người sau nhân lấy đó đặt tên cho một bản nhạc, vì ngoa truyền nên có khi gọi là “Hồn phát tứ”. Vế sau lấy tích nhà Trương Tuần, Vương Tuấn thời Tấn có nhiều bạc, cho đúc thành hình quả cầu, mỗi quả là một ngàn lượng, gọi tên là "Biết làm sao" (Một nại hà), ý nói quá giàu có. Thạch Sùng là người thời Tấn, nổi tiếng phú gia địch quốc.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Thì ra công tử có con gái tên Huệ Nương, xinh đẹp lại biết chữ, vẫn tìm chỗ gả chồng cho. Đêm trước nàng mơ thấy một người nói "Chồng ngươi là Thạch Sùng", hỏi ở đâu thì đáp "Ngày mai sẽ rơi xuống nước", sáng ra kể với cha, mọi người đều lấy làm lạ. Vừa gặp việc Lộc rất hợp với giấc mơ nên công tử mời vào nhà trong cho phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt. Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói "Tên phách nhạc là do tiểu nữ đặt ra, nghĩ mãi mà không đối được, nay mới được câu đối hay, cũng là duyên trời. Ta muốn để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho ông, vả lại tệ xá cũng không thiếu nơi ở, không dám làm phiền phải rước dâu”. Lộc bối rối từ tạ lại lấy cớ mẹ đang ốm không ở rể được. Công tử bảo cứ về bàn lại rồi sai mã phu thắng ngựa mang áo quần ướt đưa Lộc về.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Về tới nhà Lộc kể với mẹ, mẹ sợ cho là việc bất tường, từ đó mới biết Ngụy là kẻ hiểm độc nhưng vì gặp việc dữ mà được điều lành nên cũng không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên xa lánh đừng giao thiệp với y nữa mà thôi. Qua vài hôm công tử lại cho người đến ngỏ ý với mẹ Lộc, rốt lại bà vẫn không dám nhận lời, Đại Nương bèn nhận lời rồi nhờ hai bà mối đi nộp sính lễ cho nhà công tử. Không bao lâu Lộc tới gởi rể ở nhà công tử, qua năm sau được vào học trường huyện nổi tiếng tài giỏi. Em vợ dần dần lớn lên, không kính trọng anh rể như trước nữa. Lộc tức giận bèn đưa vợ về nhà mình. Lúc ấy mẹ đã chống gậy đi lại được mấy năm liền nhờ có Đại Nương trông nom nên nhà cửa cũng khang trang.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Cô dâu mới đã về, tớ trai tớ gái tấp nập, rõ ra có phong thái đại gia. Ngụy bị tuyệt giao lại càng ghen ghét, giận không vạch lá tìm sâu gì được để hãm hại, gặp lúc có bọn cướp lớn đang bị truy nã bèn vu cáo Lộc giấu diếm tiền bạc cho chúng, Lộc bị xử đày ra ngoài cửa ải. Phạm công tử đút lót từ trên tới dưới chỉ xin miễn cho Huệ Nương khỏi bị đi đày, còn ruộng vườn nhà cửa đều bị sung công. May là Đại Nương cầm giấy chia gia tài lên quan cãi lý, bao nhiêu ruộng vườn mới mua thêm đều đứng tên Phúc nên mẹ con mới được ở yên. Lộc nghĩ mình không trở về được nữa bèn làm giấy ly hôn đưa cha vợ rồi lẻ loi lên đường.</p><p>Đi được vài ngày tới đất Bắc Đô, vào ăn trong quán, thấy có người ăn mày khép nép ngoài cửa, mặt mũi rất giống anh mình, ra hỏi thì đúng là anh. Lộc kể chuyện mình, anh em đều buồn thảm. Lộc mở hành lý chia cho Phúc ít tiền bảo về nhà. Phúc rơi lệ nhận rồi chia tay.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Lộc tới cửa ải được sung làm lính hầu cho tướng quân, vì là học trò yếu ớt nên được giữ việc biên chép sổ sách, ăn ở chung với đám tôi tớ. Bọn họ hỏi han gia thế, Lộc kể hết, trong bọn có một người cả kinh nói "Đúng là con ta rồi". Thì ra Cừu Trọng ban đầu bị bọn cướp sai chăn ngựa, về sau chúng bỏ trốn, Trọng bị bắt đày ra cửa ải làm đầy tớ cho tướng quân. Trọng thuật lại rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau bèn ôm nhau khóc, mọi người đều mủi lòng. Không bao lâu, tướng quân bắt được vài mươi tên cướp lớn, trong có một tên chính là kẻ trước đây Ngụy vu cáo là bè đảng của Lộc. Kế lấy lời cung của y xong, hai cha con kêu khóc với tướng quân. Tướng quân dâng sớ rửa oan cho, vua biết chuyện bèn ra lệnh cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất trả lại họ Cừu, cha con đều mừng rỡ. Lộc hỏi số người trong nhà để tính cách chuộc mình cho cha mới biết từ khi theo hầu tướng quân Trọng đã hai lần lấy vợ mà không có con, lúc ấy lại vừa góa vợ. Lộc bèn sắm sửa hành trang về quê.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Trước đó Phúc chia tay em về tới nhà, khúm núm sụp lạy xin chịu tội. Đại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, cầm gậy hỏi Phúc "Ngươi chịu đánh đòn thì có thể tạm cho ở lại còn không thì ruộng vườn nhà cửa của ngươi đã hết sạch, đây cũng không phải chỗ người xin ăn, mời xéo ngay!". Phúc khóc lạy xuống đất xin chịu đòn, Đại Nương vứt gậy xuống nói "Cái người đã bán vợ thì ta cũng chẳng thèm đánh đòn, nhưng án cũ vẫn chưa xóa, nếu tái phạm cứ báo quan thôi!", rồi lập tức cho người qua báo tin cho họ Khương. Cô gái họ Khương mắng "Ta là người gì của nhà họ Cừu mà phải báo tin!", Đại Nương cứ nhắc đi nhắc lại câu ấy để đay nghiến Phúc, Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Suốt nửa năm Đại Nương cho Phúc đủ ăn đủ mặc nhưng bắt làm việc như tôi tớ, Phúc cũng làm lụng không hề oán trách, có giao cho tiền bạc cũng không dám bừa bãi. Đại Nương xét thấy không có ý gì khác, bèn thưa với mẹ mời cô gái họ Khương về. Mẹ cho rằng không sao làm nàng hồi tâm lại được, Đại Nương nói "Không phải thế, nếu người ta chịu thờ hai chồng thì đã không tự chuốc lấy đau đớn khổ sở, chứ không thể không có nỗi uất hận ấy”, rồi dắt em trai qua chịu tội. Ông bà nhạc trách mắng hết lời, Đại Nương quát bắt Phúc quỳ xuống rồi mới xin gặp mặt cô gái. Mời ba bốn lần nàng vẫn khăng khăng từ chối không chịu ra, Đại Nương kéo ra thì nàng chỉ mặt Phúc mắng nhiếc. Phúc thẹn toát mồ hôi, không sao tha thứ được cho mình, bà Khương mới kéo Phúc, bảo đứng lên. Đại Nương xin cho biết ngày trở về, cô gái nói "Trước nay chịu ơn chị rất nhiều, nay chị dạy như thế đâu dám nói gì khác nhưng sợ không giữ được khỏi bị bán lần nữa. Vả chăng ân nghĩa đã dứt, còn mặt mũi nào ăn ở với đứa vô lại xấu xa ấy nữa? Muốn xin chị cho một chỗ ở riêng, thiếp qua đấy phụng dưỡng mẹ già còn hơn cạo đầu đi tu là đủ”. Đại Nương nói hộ là Phúc đã ăn năn, hẹn ngày mai qua đón rước rồi chào về.</p><p>Sáng hôm sau cho kiệu qua đón cô gái về, mẹ ra đón ở cổng quỳ lạy, cô gái cũng sụp lạy khóc lớn. Đại Nương khuyên lơn an ủi, dọn tiệc ăn mừng, bảo Phúc ngồi cạnh bàn rồi nâng chén rượu nói “Ta tranh giành khổ sở không phải để mưu lợi cho mình. Nay em đã hối lỗi, vợ hiền đã trở về, xin đem sổ sách giao lại, ta tới tay không thì cũng về tay không". Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy, nghiêm trang vái lạy khóc lóc năn nỉ, Đại Nương bèn thôi. Không bao lâu lệnh rửa oan về tới, chỉ vài ngày ruộng vườn nhà cửa lại trở về chủ cũ. Ngụy kinh hãi không biết vì sao, tự giận mình không còn kế gì để thi thố. Gặp lúc nhà láng giềng phía tây bị cháy, Ngụy lấy cớ chữa cháy chạy qua, ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc, gió lại thổi mạnh cháy lan gần hết, chỉ còn hai ba gian nhà của Phúc, cả nhà phải ở chung vào đó ít lâu sau Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi.</p><p>Lúc trước Phạm công tử nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc ròng xé nát vứt xuống đất, cha chiều ý không ép nữa. Lộc về nghe nỏi nàng chưa cải giá mừng rỡ tới nhà nhạc gia, công tử biết nhà Lộc vừa bị cháy, mượn giữ ở lại đó nhưng Lộc không chịu, cáo từ ra về. May là Đại Nương còn tiền cất được bèn đem ra sửa nhà, Phúc vác mai đi đào đất đắp nền, đào phải hầm tiền chôn. Đêm đến cùng em ra đào thì là một cái bể xây bằng đá rộng khoảng một trượng chứa đầy tiền đồng, nhờ đó mướn thợ xây nhà, lầu gác san sát tráng lệ sánh ngang nhà đại gia. Lộc nhớ ơn tướng quân, sắp ra ngàn vàng để chuộc cha. Phúc xin đi, nhà bèn cho đầy tớ khỏe mạnh theo hầu. Lộc đón Huệ Nương về, ít lâu sau cha và anh cùng về, cả nhà vui vẻ tưng bừng.</p><p>Đại Nương từ khi về ở nhà mẹ thì cấm con tới thăm để tránh tiếng, nay cha đã về liền quyết ý xin đi, hai em không nỡ để chị đi. Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần con gái một phần. Đại Nương từ tạ không nhận, hai em rơi nước mắt nói "Hai em không có chị thì làm gì có được ngày nay!". Đại Nương bèn ở lại, sai người gọi con dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Đại Nương rằng chị em khác mẹ sao gắn bó như vậy, Đại Nương đáp "Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có cầm thú mới thế thôi? Là người sao lại bắt chước giống vật chứ". Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi sai thợ làm nhà cho Đại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình.</p><p>Ngụy nghĩ hơn mười năm tìm cách gây họa mà hóa ra lại là tạo phúc cho người, rất hổ thẹn áy náy. Lại ngưỡng mộ họ Cừu giàu có, muốn làm thân bèn lấy cớ mừng Trọng mới về, đưa lễ vật qua mừng. Phúc muốn từ chối nhưng Trọng không nỡ phật ý bèn nhận gà rượu. Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, đám tôi tớ đều nhìn thấy nhưng chưa để ý. Lát sau đống củi bốc cháy, cả nhà hoảng sợ, may có đông người nhiều tay xúm lại dập tắt được ngay nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy sạch, anh em đều bảo đồ vật của Ngụy là không lành.</p><p>Sau đó gặp ngày mừng thọ của Trọng, Ngụy lại biếu con dê, từ chối không được phải buộc dê vào gốc cây ngoài sân. Đến đêm có đứa tiểu đồng bị tên đầy tớ đánh, tức giận chạy ra gốc cây mở sợi dây buộc dê tự treo cổ chết. Anh em than rằng “Y làm phúc lại không bằng y gây họa", từ đó tuy Ngụy vẫn ân cần, nhưng nhà Trọng không dám nhận đến một sợi chỉ, chỉ đối xử với y thật tốt mà thôi. Sau Ngụy già nghèo khổ phải đi ăn mày, nhà họ Cừu vẫn lấy ơn trả oán, chu cấp cho cái ăn cái mặc.</p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ôi, tạo vật quả thật rất không theo ý người. Càng thù ghét thì càng đem phúc tới cho, sự gian trá của kẻ kia không thể nói là quá đáng được! Nhưng mong được y thương yêu kính trọng thì lại gặp tai họa, chẳng cũng lạ ư? Thế mới biết nước suối Đạo Tuyền<strong>*</strong>, vốc một vốc thì nhơ bẩn một vốc.</em></p><p></p><p></p><p>* Đạo Tuyền: tên một con suối ở tỉnh Sơn Đông, "Đạo” có nghĩa là trộm cướp Tương truyền Khổng Tử đi ngang suối ấy khát nước nhưng không chịu uống vì ghét tên suối, người ta dùng tích này để chỉ việc kẻ quân tử tự trọng thân phận trong hành động. Đây có ý nói nên thận trọng trong việc giao du với người xấu.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164988, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 74 -[/B] Thần ếch (Thanh Oa Thần) Vùng Giang Hán thờ cúng thần ếch rất kính cẩn, trong đền không biết là bao nhiêu ngàn vạn con ếch, có con to bằng cái lồng. Có ai xúc phạm làm thần giận thì trong nhà liền có điềm lạ, ếch nhái nhảy cả lên bàn lên giường, thậm chí bám đầy trên vách không rơi xuống, nhà ấy sẽ gặp tai họa. Người ta sợ hãi cứ cúng tế cầu khẩn, nếu thần vui lòng thì khỏi. Đất Sở (tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) có Tiết Côn Sinh lúc nhỏ thông minh, diện mạo tuấn tú. Năm lên sáu bảy tuổi có bà già áo xanh tới nhà tự xưng là sứ giả của thần, vào ngồi trò chuyện ngỏ ý thần muốn gả con gái cho Côn Sinh. Ông Tiết tính chất phác vụng về nghe thế rất không thích, liền lấy cớ con trai còn nhỏ để từ chối, nhưng tuy cố từ chối vẫn chưa dám hỏi cưới con gái nhà khác. Được vài năm Côn Sinh dần lớn lên, dạm hỏi con gái họ Khương, thần nói với Khương “Tiết Côn Sinh là con rể của ta, sao ngươi dám ăn đồ cúng hả?". Khương sợ hãi trả lại sính lễ, ông Tiết lo lắng trai giới mang lễ vật ra đền khấn khứa, tự nói không dám kết thông gia với thần. Vừa khấn xong thì thấy cỗ bàn cúng tế đều có giòi lớn bò ra lúc nhúc cựa quậy, bèn đổ bỏ tạ tội rồi về, trong lòng càng sợ nhưng cũng chờ để nghe ngóng xem sao. Một hôm Côn Sinh đi đường có sứ giả đón báo thần tuyên triệu, cố mời ghé lại, sinh bất đắc dĩ phải đi theo. Vào tới một phủ đệ cánh cổng sơn son, lầu gác hoa lệ, có ông già ngồi trên sảnh đường, trông như người bảy tám mươi tuổi. Côn Sinh vào lạy ra mắt, ông già sai kéo đứng lên, cho ngồi cạnh bàn. Giây lát đám tỳ nữ, vú già tụ tập lại nhìn ngó dày đặc chung quanh, ông già quay lại nói "Vào trong báo là Tiết lang tới". Mấy người tỳ nữ chạy đi, lát sau có bà già đỡ một nữ lang ra, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song. Ông già chỉ nàng nói "Đây là tiểu nữ tên Thập Nương, ta tự cho rằng có thể sánh đôi với chàng, nhưng cha chàng lại cho là khác loài nên cự tuyệt, vậy thì do chàng thôi". Côn Sinh chăm chú nhìn Thập Nương, trong lòng yêu thích, im lặng không nói gì. Bà già nói “Ta đã biết là chàng ưng thuận, xin cứ về trước, sẽ lập tức đưa Thập Nương tới ngay”. Côn Sinh vâng dạ rồi vội về kể vớì cha. Cha hốt hoảng không biết làm sao đành ưng thuận, sai con quay lại tạ ơn thần nhưng Côn Sinh không chịu đi. Đang lời qua tiếng lại thì kiệu hoa đã tới ngoài cổng, cả đám tỳ nữ xúm xít đưa Thập Nương vào. Nàng lên sảnh đường làm lễ, cha mẹ chồng thấy mặt đều vui mừng. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, cầm sắt rất hòa hợp. Từ đó vợ chồng thần thường giáng lâm nhà sinh, cứ thấy mặc áo đỏ là có tin vui, mặc áo tràng là có tiền bạc, vì vậy nhà ngày càng khá giả. Từ khi Côn Sinh cưới Thập Nương thì khắp nhà từ hàng rào đến cầu xí đều có ếch, mọi người không ai dám chửi bới giẫm đạp, chỉ có Côn Sinh tuổi trẻ ngông nghênh, vui thì thôi giận thì đạp cho chết chẳng thương xót gì lắm. Thập Nương tuy hiền lành nhu thuận nhưng hay giận, rất không thích việc ấy song Côn Sinh không vì có Thập Nương mà kiềm chế. Thập Nương bực tức nói năng có chỗ xúc phạm, Côn Sinh nổi giận nói "Ngươi cậy cha mẹ có thể gieo tai họa cho người ta à? Trượng phu có sợ gì con ếch?". Thập Nương nghe thế giận lắm, nói "Từ khi thiếp về đây thì nhà chàng ruộng thêm lúa, buôn thêm lời không phải là ít, nay cả nhà già trẻ đều được no ấm, lại như chim vọ mọc cánh rồi thì muốn mổ mắt chim mẹ sao?". Côn Sinh càng tức tối, nói “Ta đang ngại nhận thêm những thứ nhơ bẩn, không dám lưu lại cho con cháu, xin cứ chia tay cho sớm", rồi đuổi Thập Nương. Cha mẹ vừa nghe tin thì Thập Nương đã đi rồi, bèn quát mắng Côn Sinh, sai mau đuổi theo giữ lại nhưng Côn Sinh căm tức không chịu. Đến đêm mẹ con đều ngã bệnh, trong người bứt rứt không ăn uống gì được. Ông Tiết sợ hãi tự mang roi tới đền thần tạ lỗi, thiết tha nài nỉ. Qua ba ngày thì hai người dần dần khỏi bệnh, Thập Nương tự quay về, vợ chồng lại đầm ấm như trước. Thập Nương hàng ngày cứ trang điểm xong là ngồi yên, không làm việc nội trợ, những áo quần giày tất của Côn Sinh đều nhờ mẹ khâu vá. Một hôm mẹ bực tức nói "Con trai đã có vợ còn làm phiền mẹ, nhà người ta thì con dâu hầu mẹ chồng, nhà này thì mẹ chồng hầu con dâu”. Thập Nương nghe thấy tức tối lên thêm nói "Con buổi sớm tới thăm, buổi tối tới viếng, đạo thờ mẹ chồng còn gì khác nữa? Còn như việc con kém cỏi, thì thật không thể tiếc chút tiền thuê mướn mà chuốc khổ vào thân được". Mẹ không biết nói sao, hổ thẹn khóc lóc. Côn Sinh vào thấy mắt mẹ có ngấn lệ, hỏi biết được chuyện giận dữ mắng Thập Nương, Thập Nương cứ giữ ý mình không chịu thua. Côn Sinh nói "Lấy vợ mà không được vui sướng thì chẳng bằng đừng có, cho dù làm con ếch già giận thì bất quá cũng chỉ gặp nạn dữ mà chết là cùng”, lại đuổi Thập Nương, Thập Nương ra cửa đi thẳng. Hôm sau nhà Côn Sinh phát hỏa, lửa lan ra cháy rụi cả mấy gian, bàn ghế giường tủ đều thành tro. Côn Sinh tức giận tới đền thần quát mắng kể tội, nói "Nuôi con gái không thờ phụng được cha mẹ chồng, đã không dạy bảo gì mà lại còn bao che cái dở của con, thần là phải rất công bằng mà lại dạy người ta sợ vợ à? Vả lại việc bát đũa va chạm là do ta gây ra, không dính líu gì tới cha mẹ, muốn đâm chém cưa xẻ gì cứ nhằm vào ta thôi. Còn nếu không thế thì ta cũng đốt đền của ông để trả thù”. Nói xong vác củi vào chất dưới điện định châm lửa, dân quanh đó xúm lại năn nỉ mới tức tối bỏ về, cha mẹ nghe được đều sợ tái mặt. Đến đêm thần báo mộng cho thôn bên cạnh, sai cất lại nhà cho con rể, sáng ra thì kẻ mua gỗ người mướn thợ kéo tới làm nhà cho Côn Sinh, từ chối thế nào họ cũng không chịu thôi, hàng ngày có mấy trăm người gọi nhau trên đường. Không mấy ngày thì nhà cửa đều xây xong, mọi thứ đồ dùng đều đầy đủ. Vừa dọn dẹp đâu đấy thì Thập Nương đã tới, lên thềm tạ lỗi với cha mẹ, ăn nói nhỏ nhẹ từ tốn rồi quay qua Côn Sinh tươi cười cả nhà bèn đổi oán làm vui. Từ đó Thập Nương càng hiền dịu, suốt hai năm không có chuyện xích mích. Thập Nương rất ghét rắn, Côn Sinh đùa bắt một con rắn nhỏ bỏ vào hộp bảo nàng mở ra. Thập Nương biến sắc mắng nhiếc, Côn Sinh cũng đổi cười thành giận tức tối cãi vã, Thập Nương nói “Lần này thì không cần phải đuổi, xin vĩnh biệt từ đây”, rồi ra cửa đi. Ông Tiết cả sợ đánh đòn Côn Sinh rồi tới tạ tội với thần, may mà không bị giáng họa nhưng cũng lặng ngắt không thấy đáp lại. Hơn năm sau Côn Sinh nhớ Thập Nương, vô cùng hối hận, lén tới chỗ thần năn nỉ Thập Nương nhưng không ai trả lời. Không bao lâu nghe tin thần gả Thập Nương cho họ Viên, vô cùng thất vọng, cũng dạm hỏi người khác nhưng xem mặt mấy đám đều không có ai bằng Thập Nương, vì vậy càng thêm nhớ nhung. Tới nhà họ Viên nghe ngóng thì thấy họ đang quét dọn nhà cửa, sửa sang xe kiệu chuẩn bị đám cưới. Trong lòng thẹn thùng uất ức không thể tự chủ, bỏ ăn ngã bệnh, cha mẹ hoảng sợ lo lắng nhưng không biết làm sao. Chợt đang lúc mê man thấy có người vỗ về lay gọi, nói "Đại trượng phu mấy lần muốn dứt tình mà như thế này sao?”, mở mắt nhìn thì là Thập Nương. Côn Sinh mừng quýnh nhảy bật dậy hỏi “Sao nàng lại tới đây?", Thập Nương đáp “Vì gã khinh bạc đối xử với nhau tệ bạc, chỉ nên nghe lời cha mẹ mà lấy người khác nên từ lâu đã nhận sính lễ của nhà họ Viên, có điều thiếp nghĩ đi nghĩ lại cũng không nỡ. Đêm nay đã là ngày cưới, cha lại cho rằng không mặt mũi nào trả lại sính lễ nên đích thân thiếp đem tới trả. Lúc đi cha thiếp đưa ra cửa nói: ‘Con nhãi ngây không nghe lời ta, sau này có bị nhà họ Tiết đối xử tàn tệ thì có chết cũng đừng về đây nữa’ ". Côn Sinh cảm vì tình nghĩa của nàng chảy nước mắt ròng ròng, gia nhân cùng mừng rỡ chạy đi báo cho ông bà hay. Bà Tiết nghe tin không chờ nàng qua chào, vội tới phòng con trai nắm tay nàng òa khóc. Từ đó Côn Sinh cũng trở nên đứng đắn không đùa ác nữa, vợ chồng vì thế càng yêu thương nhau. Thập Nương nói "Trước đây thiếp cho rằng chàng là người khinh bạc, chưa chắc đã sống được với nhau đến lúc bạc đầu nên không dám lưu lại con cái nơi trần thế. Nay chàng đã không có ý khác, thiếp sẽ sinh con trai”. Không bao lâu vợ chồng thần mặc áo đỏ giáng lâm nhà sinh, hôm sau Thập Nương lâm bồn, sinh một lần được hai con trai, từ đó hai bên đi lại không dứt. Dân quanh vùng nếu có ai xúc phạm làm thần giận cứ tới năn nỉ với Côn Sinh trước, sai đàn bà ăn mặc đẹp đẽ vào phòng vái lạy Thập Nương, nếu nàng cười thì được thần tha tội. Con cháu họ Tiết rất đông, người ta gọi là nhà Tiết ếch, nhưng người ở gần không dám gọi thế, chỉ có người ở xa gọi mà thôi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 75 -[/B] Vãn Hà (Vãn Hà) Tiết Đoan ngọ ở vùng Ngô Việt có trò đua thuyền rồng. Người ta chạm gỗ làm thuyền hình con rồng, vảy rồng sơn son thếp vàng, mạn thuyền đều chạm trổ, lấy gấm thêu làm buồm. Cuối thuyền là đuôi rồng, cao hơn một trượng, dùng dây vải kết làm sạp, có đứa con trai nhỏ ngồi trên đó múa may nhảy nhót diễn các trò khéo, bên dưới là sông sâu rất nguy hiểm. Cho nên thuê đứa trẻ ấy thường đưa nhiều tiền cho cha mẹ trước để dạy nó luyện tập, nếu rơi xuống nước chết cũng không được oán hận. Ở vùng Ngô Môn (Tô Châu) thì cho các ca kỹ xinh đẹp đứng trên đuôi thuyền múa hát, cũng có khác nhau. Ở huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) có đứa nhỏ họ Tưởng tên A Đoan, mới bảy tuổi đã giỏi diễn những trò khéo không ai hơn được hết nên rất nổi tiếng. Năm mười sáu tuổi người ta vẫn còn thuê, nhưng thuyền đua tới núi Kim Sơn thì rơi xuống nước chết đuối, bà Tưởng chỉ có đứa con ấy nhưng cũng đành đau xót khóc lóc mà thôi. A Đoan không biết mình đã chết, được hai người tới dẫn đi, thấy dưới nước cũng có một cõi trời đất riêng, ngoái nhìn thì thấy sóng nước vây quanh cao như vách núi. Chợt có cung điện hiện ra, thấy một người mặc giáp trụ ngồi trên điện, hai người kia nói "Đó là Long Oa quân", rồi bảo A Đoan vái lạy. Long Oa quân vẻ mặt ôn hòa vui vẻ nói "Tài khéo có thể cho vào ban Liễu Điều” hai người bèn dẫn A Đoan tới một chỗ bốn phía cung điện rộng rãi. Rảo bước lên hành lang phía đông thì có một bọn thiếu niên ra chào hỏi, đều khoảng mười ba mười bốn tuổi, kế có một bà già tới, mọi người gọi là bà Giải, lên ngồi sai diễn trò thử. Kế bèn dạy điệu múa Sấm ran sông Tiền Đường và khúc nhạc Gió dịu hồ Động Đình, chỉ nghe chiêng trống ầm ầm vang rền các cung điện. Khi tiếng chiêng trống đã tắt, bà già sợ A Đoan không thể nhớ hết, cứ dặn đi dặn lại. Nhưng A Đoan học qua một lần đã hiểu rõ cả, bà già mừng rỡ nói "Được thằng nhỏ này thật chẳng thua kém gì A Hà". Hôm sau Long Oa quân tổng duyệt các ban ca vũ, các ban đều tập hợp cả lại. Đầu tiên duyệt ban Dạ Xoa, đều là mặt quỷ áo da cá, chiêng lớn chu vi khoảng bốn thước, trống thì khoảng bốn người ôm, tiếng như sấm sét, có gào thét cũng không nghe thấy gì. Ban ấy vừa múa thì sóng lớn nổi cuồn cuộn dâng lên ngang trời, liền có một điểm tinh quang trên trời sa xuống, tới đất thì tắt, Long Oa quân vội sai dừng lại. Sai ban Khổng Oanh ra, đều là mỹ nhân mười sáu tuổi thổi sinh gõ phách dìu dặt, liền có gió mát hây hây, tiếng sóng tắt hẳn, mặt nước êm ả trong suốt như một cõi pha lê nhìn rõ cả trên dưới, diễn xong thì đều lui vào đứng dưới thềm phía tây. Kế tới ban Yến Tử, đều kết bím tóc rũ xuống, trong có một nữ lang tuổi khoảng mười bốn mười lăm trở lại rung tay áo nghiêng búi tóc múa điệu Rắc hoa chập chờn qua lại, trên khắp người tung ra những đóa hoa ngũ sắc theo gió lả tả rụng xuống rải khắp trên sân, múa xong thì theo ban cũng lui vào dưới thềm phía tây. A Đoan đứng bên cạnh nhìn trong lòng ưa thích, hỏi người cùng ban thì nàng ấy là Vãn Hà. Không bao lâu lại gọi tới ban Liễu Điều, Long Oa quân đặc biệt thử tài một mình A Đoan. Đoan liền múa theo điệu đã được dạy, vẻ vui mừng giận dữ hiện ra theo điệu nhạc, lui tới qua lại ăn khớp với tiết tấu, Long Oa quân khen là sáng dạ, thưởng cho nhung phục ngũ sắc và trâm cài đầu hình cá trên khảm ngọc dạ quang. A Đoan vái lạy tạ ơn rồi cũng rảo bước về thềm phía tây đứng vào ban. Đoan đứng giữa đám đông cứ nhìn Vãn Hà chằm chằm. Vãn Hà cũng từ xa chăm chú nhìn lại. Giây lát Đoan theo ban từ từ đi về phía bắc, Vãn Hà cũng thong thả theo ban đi về phía nam, cách nhau có mấy quãng đường phép nghiêm không dám làm rối loạn hàng ngũ, chỉ nhìn nhau ngây ngất mà thôi. Kế duyệt tới ban Giáp Điệp, đều là đồng nam đồng nữ từng cặp ra múa, đứa cao đứa thấp, đứa lớn đứa nhỏ nhưng đều mặc áo quần màu trắng màu vàng một loạt như nhau. Các ban duyệt xong xếp hàng đi ra, ban Liễu Điều đi sau ban Yến Tử, Đoan rảo bước lên phía trên thì Vãn Hà đã thong thả lui về phía cuối, ngoảnh lại nhìn Đoan rồi cố ý đánh rơi chiếc trâm bằng san hô, Đoan vội nhặt lấy cho vào tay áo. Về tới chỗ ở tơ tưởng thành bệnh bỏ ăn bỏ ngủ, bà Giải cứ mang thức ăn ngon tới cho, mỗi ngày ba bốn lần vào thăm hỏi, chăm sóc rất ân cần mà bệnh vẫn không hề giảm. Bà Giải lo lắng không biết làm sao, nói “Đã sắp đến ngày mừng thọ của Ngô Giang vương, làm sao bây giờ?”. Chiều tối có một đồng tử tới vào ngồi bên giường trên chuyện với Đoan, tự nói là trong ban Giáp Điệp rồi thong thả hỏi “Anh bệnh vì Vãn Hà phải không?”, Đoan giật mình hỏi sao biết, nó cười đáp “Chị Vãn Hà cũng như anh thôi". Đoan buồn rầu ngồi dậy nhờ tìm cách giúp cho, đồng tử hỏi “Anh đi được không?" Đoan đáp “Cố gắng thì cũng được”, đồng tử bèn kéo Đoan ra, đi về phía nam, qua một cánh cửa thì vòng qua phía tây, lại mở hai lần cửa nữa thì thấy mấy mươi mẫu sen mọc trên đất bằng, tàu lá to như cái chiếu, cánh hoa to như cái lọng, đài hoa rụng xuống đất chất cao cả thước. Đồng tử dẫn Đoan vào đó, nói “Cứ ngồi tạm ở đây” rồi đi. Giây lát một mỹ nhân rẽ hoa sen bước vào, thì là Vãn Hà. Hai nguời gặp nhau vừa mừng vừa sợ, cùng kể lể nỗi nhớ nhung rồi thuật qua chuyện mình. Kế lấy lá dằn lên lá sen che kín lại, vun đài hoa rụng làm chiếu rồi vui vẻ ân ái với nhau, kế hẹn chiều hôm sau gặp lại rồi chia tay. Đoan về thì bệnh cũng giảm từ đó ngày nào hai người cũng gặp nhau ở bãi sen. Qua vài hôm thì theo Long Oa quân tới chúc thọ Ngô Giang vương, chúc thọ xong các ban đều về, chỉ còn Vãn Hà và một người trong ban Khổng Oanh ở lại dạy múa trong cung Ngô Giang vương, vài tháng không có tin tức gì. Đoan sốt ruột trông ngóng, thì có bà Giải hàng ngày lui tới phủ Ngô Giang vương, bèn bịa rằng Vãn Hà là em họ ngoại của mình, xin bà dẫn đi thăm mong được gặp mặt một lần. Nhưng ở lại trong phủ Ngô Giang vương mấy ngày mà cung cấm thâm nghiêm, Vãn Hà lại không sao ra được đành rầu rĩ trở về, hơn một tháng thì nhớ nhung mỏi mòn sắp chết. Một hôm bà Giải vào, đau xót chia buồn nói “Tiếc thay, Vãn Hà nhảy xuống sông tự tử rồi”. Đoan kinh sợ chảy nước mắt ròng ròng không sao cầm được, vứt mũ xé áo mang vàng ngọc bỏ ra, định chết theo Vãn Hà, nhưng thấy nước trong sông như bức vách, ra sức lấy đầu húc mà vẫn không vào được cũng muốn quay về song sợ bị hỏi tới mũ áo tội sẽ nặng thêm, trong lòng quẫn bách, mồ hôi toát ra khắp người. Chợt thấy trên vách sóng có một cây đại thụ bèn bám vào trèo lên, dần dần lên tới ngọn cây rồi hết sức nhảy xuống, may không bị ướt mà thấy mình nổi trên mặt nước. Trong lúc bất ngờ lại chợt thấy cõi trần, bèn bì bõm bơi đi. Giây lát vào tới bờ, lên khỏi bến sông nhớ tới mẹ già liền thuê thuyền về. Về tới quê nhìn cảnh vật bốn bề thấy như đã trải qua kiếp khác. Hôm sau về tới nhà, chợt nghe sau cửa sổ có người con gái nói “Con mẹ tới rồi”, giọng nói rất giống Vãn Hà, kế cùng với mẹ bước ra, quả là Hà thật. Lúc ấy hai người mừng rỡ quên hết nỗi đau xót mà bà mẹ thì đau xót ngờ vực, sợ hãi mừng rỡ xen lẫn. Lúc trước Vãn Hà ở trong phủ Ngô Giang vương thấy trong bụng máy động mà phép tắc dưới Long cung rất nghiêm, sợ một sớm một chiều lâm bồn sẽ bị trừng phạt mà không gặp được A Đoan lần nữa, chỉ muốn tìm cái chết bèn nhảy xuống sông tự tử. Thân thể nổi lên dật dờ trong sóng, được người khách đi thuyền vớt lên, hỏi tới quê quán thì Hà vốn là ca kỹ nổi tiếng ở đất Ngô chết đuối không tìm được xác, tự nghĩ không thể trở lại kỹ viện bèn nói “Họ Tưởng ở Trấn Giang là chồng ta”, người khách bèn thuê thuyền cho về tới nhà. Bà Tưởng ngở là lầm, nàng nói là không lầm rồi kể rõ tình thật, bà thấy nàng xinh đẹp phong vận nên rất yêu mến. Kế lại nghĩ nàng còn quá trẻ, ắt không phải là kẻ chịu ở góa, nhưng cô gái rất cung kính hiếu thảo, thấy nhà nghèo bèn cởi châu báu trang sức bán được vài vạn đồng mang về, bà Tưởng thấy nàng không có ý gì khác rất mừng. Nhưng vì không có con trai ở nhà nên sợ lúc nàng sinh nở thì họ hàng láng giềng không tin, cô gái nói "Cốt là mẹ được cháu nội thật chứ cần gì người ta biết", bà cũng yên lòng. Đến lúc ấy Đoan về, cô gái mừng quýnh, bà mẹ cũng ngờ là con không chết, lén đào mộ con lên thì hài cốt đều còn đó bèn đem chuyện căn vặn Đoan. Đoan mới sực hiểu nhưng sợ Vãn Hà chê mình không phải là người bèn dặn mẹ đừng nói ra, mẹ cho là phải bèn nói với láng giềng rằng cái xác vớt được trước đây không phải là con mình, nhưng rốt lại cũng sợ Đoan không thể sinh được con trai. Không bao lâu Vãn Hà sinh được một con trai, bế thấy không khác gì trẻ con thường mới vui mừng. Lâu dần cô gái biết được A Đoan không phải là người bèn nói "Sao chàng không nói sớm, phàm là ma mà mặc áo của Long cung qua bốn mươi chín ngày hồn phách sẽ ngưng tụ lại chẳng khác gì người sống. Nếu có keo sừng rồng của Long cung thì có thể nối xương cốt mà sinh da thịt, tiếc là không mua cho sớm". Đoan bán viên ngọc của mình, có người khách buôn đất Hồ bỏ ra trăm vạn đồng để mua, nhờ đó trở thành giàu có cự vạn. Đến ngày mừng thọ mẹ thì vợ chồng múa hát dâng rượu, chuyện dần truyền tới phủ Hoài vuơng. Vương muốn chiếm đoạt Vãn Hà, Đoan sợ hãi vào ra mắt vương tự tâu bày rằng hai vợ chồng đều là ma, vương sai xét nghiệm đều thấy không có bóng nên tin lời không bắt Vãn Hà nữa. Nhưng sai cung nhân ra biệt viện cho nàng dạy múa, Vãn Hà lấy nước đái rùa bôi lên mặt loang lổ che giấu dung mạo rồi mới tới ra mắt. Dạy được ba tháng họ cũng không sao học hết được tài múa, kế nàng trở về. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 76 -[/B] Bạch Thu Luyện (Bạch Thu Luyện) Ở tỉnh Trực Lệ có Mộ sinh tự Thiềm Cung là con thương gia Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Năm mười sáu tuổi cha cho rằng việc văn chương là viễn vông, bắt bỏ học đi buôn. Sinh theo cha tới đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), mỗi khi trong thuyền rảnh rỗi lại ngâm nga đọc sách. Tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc), cha ở lại nhà trọ để giữ hàng, sinh nhân lúc cha đi vắng cầm sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng, cứ thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng như có người nghe trộm nhưng cũng chưa lấy gì làm lạ. Một đêm cha đi uống rượu lâu không về, sinh càng cao giọng ngâm nga, thấy có người quanh quẩn ngoài song, trăng sáng nhìn thấy rất rõ, lấy làm lạ vội bước ra xem thì là một nữ lang tuyệt đẹp khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thấy sinh vội vàng tránh đi. Hai ba ngày sau chở hàng về bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ, cha vừa ra khỏi thuyền thì có bà già bước vào nói "Chàng giết con gái ta rồi". Sinh ngạc nhiên hỏi, bà đáp "Ta họ Bạch, có một gái tên Thu Luyện, cũng hơi biết chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh cao nên đem lòng nhớ nhưng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết duyên, xin đừng chối từ". Sinh thật lòng rất thích nhưng còn lo cha giận, bèn nói thẳng với bà già, bà già không tin bắt phải thề nguyền, sinh không chịu. Bà giận nói “Việc nhân duyên ở đời, có kẻ xin mang sính lễ tới mà còn không được, nay già tự đứng ra làm mối cho con lại bị từ chối thì còn gì nhục bằng, vậy xin đừng nghĩ tới chuyện về Bắc nữa", rồi bỏ đi. Lát sau cha về, sinh khéo léo kể lại, có ý mong cha chấp thuận nhưng cha vì đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái hoài xuân nên cười bỏ qua. Chỗ đậu thuyền nước sâu lút con sào, đến đêm cát sỏi chợt bồi lên, thuyền mắc cạn không xoay trở gì được. Hàng năm thuyền buôn trong hồ vẫn có người ở lại, đến mùa nước hoa đào năm sau hàng hóa nơi khác vẫn chưa kịp chở tới, những hàng trong thuyền đều tăng giá gấp trăm. Cha sinh vì vậy cũng không lo lắng gì lắm, chỉ tính cách làm sao sang năm về Bắc hàng vẫn được giá, bèn để con ở lại còn mình về nhà. Sinh mừng thầm nhưng tiếc là không hỏi rõ nơi ở của bà già. Trời sập tối, bà già cùng một tỳ nữ dìu nữ lang tới, cởi áo khoác đặt nàng lên giường, kế nhìn sinh nói "Người ta bệnh tới mức này, xin đừng nằm khoèo làm ra vẻ vô sự nữa", rồi bỏ đi. Sinh vừa nghe thì hoảng sợ, cầm đèn tới nhìn cô gái thấy đang lúc đau ốm vẫn xinh đẹp, ánh mắt vẫn lóng lánh. Lại gần hỏi han, nàng chỉ cười khẽ. Sinh cố ép lên tiếng thì nàng nói "Câu Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng[B]*[/B] là vịnh thiếp đấy". * Vì chàng... cùng chàng: nguyên văn 1à "Vị lang tiều tụy khước tu lang", câu trong bài thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường gởi Trương Quân Thụy. Sinh mừng quýnh muốn thân cận nhưng thương nàng còn yếu nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói "Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài Áo là lớp lớp của Vương Kiến[B]*[/B] thì sẽ khỏi bệnh". Sinh theo lời, ngâm đến lần thứ hai cô gái đã xốc áo ngồi dậy nói “Thiếp khỏi rồi”, ngâm tiếp thì nàng cất giọng êm ái thỏ thẻ họa theo, sinh thần trí càng bay bổng bèn tắt đèn cùng ngủ. Trời chưa sáng cô gái đã dậy, nói “Mẹ già sắp tới rồi". Không bao lâu quả nhiên bà già tới, thấy con gái đang ngồi tươi tắn trang điểm bất giác mừng rỡ, giục về thì nàng cúi đầu không nói. Bà già lập tức ra về, nói "Ngươi thích vui đùa với lang quân thì mặc ngươi". *Bài áo là... của Vương Kiến: nguyên văn là “Vương Kiến La y diệp diệp chi tác", tức bài Cung từ của Vương Kiến thời Đường, mở đầu bằng câu "La y diệp diệp tú trùng trùng” (áo là lớp lớp chập chùng thêu) Sinh nhân hỏi nhà cửa ở đâu, cô gái nói "Thiếp với chàng chẳng qua là bạn mới quen, việc cưới xin còn chưa chắc chắn, cần gì phải biết nhà cửa, nhưng hai người vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn mở sách ra xem rồi buồn bã rơi lệ. Sinh vội dậy hỏi, nàng đáp "Cha chàng sắp tới đây, chuyện giữa hai ta mới rồi thiếp vừa mở sách bói một quẻ thì được bài [I]Giang Nam khúc[/I] của Lý Ích[B]*[/B], ý bài thơ không phải là điềm hay". Sinh an ủi nói "Câu đầu bài thơ là [I]Lấy chàng thương lái Cù Đường[/I] thì đại cát có gì là không hay”. Cô gái mới hơi vui vẻ, đứng lên từ biệt, nói “Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó". Sinh cầm tay nàng nghẹn ngào hỏi "Nếu việc tốt đẹp thì báo cho nàng ở đâu?”, cô gái đáp “Thiếp vẫn sai người dò la, việc tốt đẹp hay không là biết ngay”. Sinh định lên bờ tiễn chân nhưng nàng cố từ chối rồi đi. *Bài Giang Nam khúc của Lý ích: tức bài thơ của Lý ích thời Đường, nguyên văn là “Giá đắc Cù Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ, Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi" (Lấy chàng thương lái Cù Đường, Sớm hôm chờ đợi xót thương phận mình, Nếu hay con nước đáng tin, Đã theo con nước kết tình phu thê) Không bao lâu quả ông Mộ tới, sinh dần dà thổ lộ tình thật, cha ngờ là dắt kỹ nữ về, nổi giận chửi mắng, đến khi xem kỹ trong thuyền thấy không mất mát chút gì mới thôi. Một đêm ông đi vắng, cô gái chợt tới, hai người buồn rầu nhìn nhau không biết làm sao. Nàng nói “Thấp cao có số, cứ lo việc trước mắt đã xin chàng ở lại thêm hai tháng rồi sẽ bàn tiếp". Lúc chia tay hẹn lấy tiếng ngâm thơ làm hiệu gặp nhau. Từ đó cứ cha đi vắng, sinh lại cao giọng ngâm nga thì nàng tới. Sắp hết tháng tư hàng hóa đều mất giá, đám khách buôn không biết làm sao bèn góp tiền sắm lễ vật tới cầu đảo ở miếu thần hồ. Sau tiết Đoan dương mưa to nước lên, thuyền mới đi được. Sinh về tới nhà tương tư thành bệnh, ông Mộ lo lắng tìm đủ cách cầu cúng thuốc thang. Sinh nói riêng với mẹ “Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào chữa được, chỉ có Thu Luyện tới mới xong". ông Mộ lúc đầu nổi giận nhưng lâu sau thấy sinh ngày càng gầy gò héo hắt thì hoảng sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người ở đó thì không ai biết bà già họ Bạch, vừa lúc có bà già ghé thuyền vào bờ, bước ra tự nhận là mình. Ông Mộ lên thuyền thấy mặt Thu Luyện mừng thầm, nhưng hỏi tới dòng dõi gia thế thì ra chỉ sống trên thuyền, trôi nổi đây đó mà thôi. Ông nhân nói thật bệnh của con trai, mong nàng tới thuyền mình để con bớt bệnh trước, nhưng bà già lấy cớ chưa định hôn ước nên không chịu. Cô gái ngồi nghiêng chăm chú lắng nghe, thấy hai người tranh cãi thì rưng rưng muốn khóc. Bà già thấy mặt con gái như thế, lại vì ông Mộ năn nỉ quá nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, cô gái quả tới, lại gần giường khóc lóc, nói “Tình cảnh thiếp năm trước nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy”. Sinh cũng mừng rỡ, cô gái bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến ngày trước. Sinh nói "Đó là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người sao được. Nhưng nghe giọng nàng cũng đã thấy tâm thần khoan khoái, hãy thử ngâm bài [I]Liễu hướng về tây ca vạn cành[/I][B]*[/B] cho ta nghe xem”. *Bài Liễu hướng về tây ca vạn cành: tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình thời Đường, nguyên văn là "Triêu nhật tàn oanh bạn thiếp đề, Khai liêm chỉ kiến thảo thê thê, Đình tiền thời hữu đông phong nhập, Dương liễu thiên điều tận hướng tây”, (Sáng sớm quanh mình rộn tiếng oanh, Mở rèm chỉ thấy cỏ xanh xanh, Gió xuân thổi lộng trong đình viện, Liễu hướng về tây cả vạn cành). Cô gái theo lời, sinh thích thú nói “Khoan khoái quá! Trước đây nàng đọc bài Hái sen trong tập Thi dư có câu [I]Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò[/I]* vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa", nàng lại theo lời. Vừa dứt tiếng, sinh nhảy ngay dậy nới “Tiểu sinh có bệnh gì đâu”, rồi ôm ấp nhau như đã khỏi hẳn. Kế hỏi “Cha gặp mẹ nàng nói những gì? Việc có xong không?”. Cô gái đã biết ý ông Mộ, nói thẳng rằng không xong rồi đi. *Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò: nguyên văn 1à "Hạm đạm hương liên thập khoảnh pha", chưa rõ xuất xứ. Cha về thấy sinh đã dậy được mừng lắm nhưng chỉ lựa lời khuyên nhủ, nhân nói “Con bé rất đẹp, nhưng từ nhỏ đã ôm mái chèo gõ bánh lái ca hát, chưa nói tới chuyện là con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh", sinh im lặng. Cha vừa đi thì cô gái trở lại, sinh kể rõ ý cha. Nàng nói "Thiếp vừa nhìn đã biết ngay rồi. Việc đời cứ càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt, cứ để ông tự đổi ý quay lại cầu cạnh nhau”. Sinh hỏi kế, nàng đáp "Kẻ buôn bán thì chỉ mong được lợi thôi. Thiếp có thuật biết được giá cả hàng hóa, mới rồi thấy các hàng hóa trên thuyền chẳng thứ nào có lời chút gì. Hãy nói với cha chàng muốn lãi gấp ba thì mua hàng này, muốn lãi gấp mười thì mua hàng này, về tới nhà nếu đúng thì thiếp đúng là dâu hiền rồi. Lúc trở lại thì chàng mười tám tuổi còn thiếp mười bảy, còn có ngày sum vầy, có gì phải lo". Sinh đem lời nàng nói lại với cha, cha không tin lắm nên tạm đem nửa số tiền còn thừa mua những hàng nàng dặn. Sau khi về, những hàng ông mua đều lỗ nặng, may có ít hàng mua theo lời cô gái được lãi lón nên bù lại được, vì thế phục Thu Luyện là thần. Sinh còn khoe khoang rằng cô gái tự nói có thể giúp mình thành giàu có, vì thế ông Mộ lại mang thêm nhiều tiền xuống Nam. Tới hồ mấy ngày không thấy bà già họ Bạch, qua mấy hôm nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu bèn đem sính lễ tới. Bà không nhận gì cả, chỉ chọn ngày lành đưa con gái qua thuyền sinh, ông Mộ thuê một thuyền khác cho con làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông xuống Nam, hàng nào cần mua đều viết ra giấy đưa ông, bà già bèn mời rể qua ở thuyền mình. Ba tháng sau ông Mộ trở lại, hàng hóa mới về tới đất Sở đã tăng giá gấp đôi. Khi sắp về, cô gái xin chở theo một ít nước hồ, về tới nhà mỗi lần ăn cơm lại rưới vào một ít như chan tương. Vì vậy lần nào xuống Nam ông cũng mang về cho vài vò. Ba bốn năm sau nàng sinh một trai. Một hôm cô gái khóc muốn về thăm nhà, ông Mộ bèn dẫn cả con và dâu cùng tới đất Sở. Tới hồ không biết bà già ở đâu, cô gái gõ mạn thuyền gọi mẹ, thất sắc giục sinh theo ven hồ tìm hỏi. Vừa lúc có người câu cá tầm hoàng câu được một con cá ngựa trắng, sinh tới gần xem thì là một con cá lớn hình dáng như người, có đủ cả vú và âm hộ. Sinh về kể lại, cô gái hoảng hốt nói trước kia có lời nguyền phóng sinh, bảo sinh mua thả ra. Sinh tới thương lượng nhưng người câu cá đòi giá rất cao. Cô gái nói "Thiếp ở nhà chàng nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, mà sao lại khư khư tiếc nhau bấy nhiêu. Nếu không nghe thì thiếp nhảy xuống hồ chết quách cho rồi". Sinh sợ, không dám nói với cha, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy cô gái, tìm mãi không được, đến khuya nàng mới về. Hỏi đi đâu, nàng đáp "Vừa về nhà mẹ". Hỏi mẹ ở đâu, nàng nói "Hôm nay thì không thể không thưa thật, con cá chàng vừa chuộc chính là mẹ thiếp đấy. Trước sống ở hồ Động Đình, được Long quân giao coi việc khách qua lại. Gần đây trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên có sắc chỉ trị tội mẹ để đòi thiếp. Mẹ thiếp tâu thật nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, gần chết đói nên mới mắc nạn. Nay tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa được xóa tội. Nếu chàng yêu thiếp thì hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân quân, mẹ có thể được yên lành. Còn nếu thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ ở Long cung chưa chắc đã không gấp trăm lần ở nhà chàng”. Sinh cả sợ, lo không gặp được Chân quân, nàng nói "Giờ Mùi ngày mai Chân quân sẽ tới, cứ thấy vị đạo sĩ thọt chân thì phải phục xuống lạy ngay, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân quân thích kẻ văn sĩ, ắt sẽ rủ lòng thương xót". Kế lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá nói "Nếu Chân quân hỏi muốn xin điều gì thì đưa cái này ra xin ông viết cho một chữ Miễn". Sinh theo lời chờ, quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Sinh lạy phục xuống, đạo sĩ bước mau đi, sinh rảo theo sau. Đạo sĩ ném gậy xuống nước rồi nhảy lên trên, sinh cũng lội xuống nước lên theo, thì không phải gậy mà là một chiếc thuyền. Sinh lại sụp xuống lạy, đạo sĩ hỏi cần gì, sinh đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ giở ra nhìn, nói "Đây là vẩy cá ngựa trắng, sao ngươi có được? , Thiềm Cung không dám giấu, kể rõ đầu đuôi, đạo sĩ cười nói “Loài này rất phong nhã, con rồng già làm sao hoang dâm được". Bèn rút bút ra viết ngoáy một chữ “Miễn" như đạo bùa, rồi quay thuyền ghé bờ bảo sinh lên. Kế thấy đạo sĩ đạp cây gậy rẽ nước mà đi, phút chốc đã mất dạng. Sinh về thuyền, cô gái mừng rỡ, dặn đừng nói lộ cho cha mẹ biết. Sau khi về nhà hai ba năm, ông Mộ xuống nam mấy tháng không về, bình nước hồ cạn dần mà chờ mãi không thấy. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc, dặn sinh "Nếu thiếp chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi nước về rót vào bồn rồi đóng cửa, cởi áo thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, thiếp sẽ sống lại”. Thở thoi thóp vài hôm, nàng lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ về, sinh vội làm theo lời, ngâm nước khoảng một giờ thì nàng dần dần tỉnh lại. Từ đó nàng thường có ý muốn về nam. Sau ông Mộ mất, sinh chiều ý nàng dời nhà xuống sống ở đất Sở. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 77 - 81 -[/B] Hòa Thượng Họ Kim (Kim Hòa Thượng) Hòa thượng họ Kim là người Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), cha là kẻ vô lại, đưa mấy trăm đồng tiền đem Kim lên gởi vào chùa trên núi Ngũ Liên. Kim lúc nhỏ ngu si đần độn không thể học kinh, chỉ làm được những việc chăn heo đi chợ như tôi tớ. Sau sư phụ của Kim chết, cũng có chút ít tiền bạc để lại, Kim cuỗm đi trốn khỏi chùa làm nghề buôn bán, rất giỏi những việc treo dê bán chó, tráo đấu lường thăng nên chỉ mấy năm vụt trở nên giàu có. Bèn mua ruộng đất nhà cửa ở làng Thủy Pha, đệ tử rất đông, hàng ngày có hàng ngàn người ăn cơm, quanh làng có mấy ngàn mẫu ruộng tất đều là của Kim, trong làng có vài mươi gian nhà lớn đều là sư ở. Nếu là người khác thì cũng là kẻ nghèo khó không sản nghiệp nên dắt vợ con tới đó ở nhà thuê làm ruộng mướn mà thôi, có mấy trăm gia đình như thế. Mỗi nhà thì cất phòng sát tường san sát cho họ ở, sư thì ở giữa, phía trước có sảnh đường, rường sơn cột chạm sơn son thiếp vàng lóa mắt, bàn ghế bình phong trong sảnh bóng loáng có thể soi được. Phía sau thì làm phòng ở, rèm đỏ màn thêu xông lan xạ thơm phức, giường nằm chạm trổ khảm xà cừ, trên giường trải nệm dày hơn thước, trên vách thì treo kín các bức vẽ mỹ nhân sơn thủy nổi tiếng. Trong nhà gọi to một tiếng thì ngoài cổng có mấy mươi người dạ ran như sấm ào ào chạy vào xếp hàng im lặng lắng tai nghe lệnh. Khách tới bất ngờ thì trong vòng mười mâm có thể bày lên trong chớp mắt, cơm canh rượu thịt ngon lành bưng lên tới tấp. Chí là không dám công nhiên nuôi ca kỹ nhưng cũng có mười mấy tiểu đồng đẹp trai, đều lanh lợi khéo léo có thể làm vừa lòng người, sai đội khăn đen ca hát thì người nghe kẻ xem cũng không thấy chướng. Kim mỗi lần ra khỏi nhà thì trước sau có vài mươi kỵ mã đeo cung dẹp đường, bọn tôi tớ đều gọi là gia gia, dân trong huyện người gọi là ông, người gọi là chú chứ không gọi là sư hay Thượng nhân, cũng không gọi theo pháp hiệu. Môn đồ Kim ra ngoài thì nghi vệ có kém hơn nhưng áo đẹp ngựa khỏe cũng gần như các công tử con quan. Kim lại giao du rộng, cho dù ngoài ngàn dặm cũng biết được tin tức, vì vậy các quan lớn nhỏ trong vùng nếu ngẫu nhiên làm Kim mất lòng cũng run sợ lo lắng. Nhưng Kim là người thô lỗ, từ đầu tới chân không có chút nào là văn nhã, bình sinh không đọc một câu kinh, tụng một câu sấm, chân không lui tới chùa chiền, phòng không bày biện chuông mõ, những vật ấy thì bọn môn đồ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe. Phàm những gia đình tới thuê nhà ở thì phụ nữ trang sức như gái kinh đô, phấn sáp gương lược đều do sư cấp, sư cũng không bỏn xẻn. Vì vậy các gia đình không có ruộng mà làm nông trong vùng có tới vài trăm. Thỉnh thoảng lại có chuyện tá điền giết sư trên giường, Kim cũng không tra xét gì lắm, chỉ đuổi đi nơi khác, dần dần thành lệ. Kim lại mua trẻ con khác họ nuôi làm con mình, rước thầy về dạy cho học hành. Đứa nhỏ thông minh học giỏi, bèn sai vào học trường huyện, kế theo lệ mua cho chức Thái học sinh. Không bao lâu y lên thi hương ở phủ Thuận Thiên đỗ Cử nhân, từ đó Kim được gọi là Thái công, những người gọi là gia gia trước đây càng khúm núm, con cháu của họ đều chắp tay làm lễ với Kim như ông tổ mấy đời. Không bao lâu Thái công chết, Hiếu liêm mặc tang phục cư tang, tự xưng là con mồ côi, các môn đồ chống gậy đứng đầy quanh giường, nhưng sau linh sàng chỉ có một mình phu nhân Hiếu liêm khe khẽ sụt sùi mà thôi. Sĩ phu có người dắt vợ ăn mặc đẹp đẽ tới điếu tế an ủi, mũ lọng xe kiệu chen chúc tắc cả đường. Ngày chôn cất thì nhà táng cao chạm mây, cờ phướn rợp mặt trời, khi chôn thì bó cỏ dán giấy vàng bạc ngũ sắc làm vật tuẫn táng, gồm mấy mươi cỗ kiệu, một ngàn con ngựa, một trăm mỹ nhân. Làm thần dẹp đường đội khăn gấm đen, đầu cao chạm mây, nhà đám thì lầu gác phòng ốc rộng tới mấy mẫu, ngàn cửa trăm cổng, ai vào cũng lạc không biết đường ra, những vật đưa lên cúng tế đều không thể gọi tên. Những người tới dự đám tang mũ lọng chen nhau, các quan lớn cũng lom khom vào quỳ lạy tám lần, các Giám sinh, Cống sinh và quan nhỏ ở huyện thì bò ra đất dập đầu làm lễ không dám để công tử và các sư thúc lạy trả. Cả vùng đổ tới xem đám ma, đàn ông dắt vợ, đàn bà bế con mồ hôi nhễ nhại đứng đầy đường, tiếng người ồn ào át cả tiếng chiêng trống, người đứng chỉ hở có từ vai trở lên, hàng vạn cái đầu ngoảnh qua ngoảnh lại mà thôi. Có kẻ có thai chuyển bụng sinh nở thì chị em bạn kéo xiêm giáng quanh làm màn che, nghe tiếng trẻ khóc cũng không buồn hỏi là trai hay gái, lập tức xé áo làm tã bế lên rồi kẻ dìu người kéo sản phụ chập choạng bước đi, thật là kỳ quan vậy! Sau khi chôn cất xong, đem những tiền của Kim để lại chia đôi, con Kim một phần, các môn đồ một phần. Hiếu liêm được nửa gian nhà, bốn phía nam bắc đông tây toàn là sư ở nhưng đều là hàng anh em, đau ngứa gì cũng có nhau. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Một phái ấy thì hai dòng[B]*[/B] chưa có, sáu tổ[B]**[/B] không truyền, có thể nói là một mình mở ra một pháp môn vậy. Nhưng vẫn nghe ngũ uẩn đều không, lục trần không nhiễm là Hòa thượng, trong miệng thuyết pháp, trên ghế tham thiền là Hòa dạng, giày thơm đất Sở, nón nặng trời Ngô là Hòa chàng, chiêng trống ồn ào, đàn sáo ầm ĩ là Hòa xướng, chơi bời lăng nhăng, cờ bạc bợm bãi là Hòa chướng. Như Kim là Hòa thượng chăng, là Hòa dạng chăng, là Hòa chàng chăng, là Hòa xướng chăng, hay là Hòa chướng ở địa ngục chăng?[/I] * Hai dòng: tức Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo đại thừa Trung Hoa. ** Sáu tổ: tức sáu vị sau Đạt Ma trong Phật tâm tông của Phật giáo đại thừa Trung Hoa, gồm Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Tuệ Năng, Thần Hội. [B]078. Nhà Sư Ăn Xin [/B] [B](Cái Tăng)[/B] Ở Tế Nam (tỉnh thành Hà Nam) có một nhà sư, không rõ gốc gác ở đâu. Hàng ngày đi chân đất mặc áo vá, lê la trước các hàng quán bên hồ Phù Dung tụng kinh khuyến hóa, song ai cho cơm rượu tiền gạo gì đều không nhận, hỏi có cần gì khác không thì không đáp, thường cả ngày không thấy ăn uống. Có người khuyên nói "Sư đã không ăn rau lại chẳng uống rượu thì đi khuyến hóa trong thôn cùng ngõ vắng cũng được, cần gì phải mỗi ngày mỗi tới nơi ồn ào náo nhiệt như thế này?", sư cứ chắp tay tụng kinh, rủ đôi lông mi dài một tấc xuống như không hề nghe thấy. Lại hỏi nữa, sư mới mở mắt lớn tiếng đáp "Ta muốn khuyến hóa như vậy", rồi tiếp tục tụng kinh, hồi lâu mới bỏ đi. Có người đuổi theo, hỏi tại sao phải khuyến hóa như vậy, sư cứ đi không đáp. Hỏi ba bốn lần, lại lớn tiếng nói "Ngươi không biết được đâu, lão tăng muốn khuyến hóa như vậy". Mấy hôm sau chợt ra ngoài phía nam thành, nằm dài như xác chết ở cạnh đường ba ngày không động đậy. Dân ở đó sợ sư chết đói thì liên lụy tới thôn xóm, họp nhau kéo tới khuyên nên đi chỗ khác nằm, muốn cơm sẽ cho cơm, muốn tiền sẽ cho tiền. Sư cứ nhắm mắt không lên tiếng, mọi người bèn lay gọi. Sư giận, rút trong áo ra một lưỡi đao ngắn tự rạch bụng, thò tay vào kéo ruột ra bày lên đường rồi đứt hơi chết. Mọi người khiếp sợ báo lên quan rồi đem chôn qua loa. Ngày khác chỗ ấy bị chó moi lên lộ manh chiếu bó thây ra, đạp lên thấy như không có gì, mở ra xem thì manh chiếu vẫn gói kín như cũ nhưng chỉ như cái kén rỗng. [B]079. Rồng Dời [/B] [B](Chí Long)[/B] Quan Thông chính sứ họ Khúc ở đất U Lục (thuộc tỉnh Sơn Đông) đọc sách trên lầu, gặp lúc trời mưa mù mịt, thấy một con dời nhỏ sáng như đom đóm cựa quậy trên bàn, bò qua khỏi chỗ nào thì chỗ ấy cháy đen. Dần dần bò lên quyển sách, quyển sách cũng bị cháy. Ông nghĩ là rồng bèn bưng quyển sách lên tiễn đi, nhưng ra tới ngoài cửa đứng chờ hồi lâu vẫn thấy nằm bất động bèn nói "Hay là cho rằng ta không cung kính?". Bèn bưng quyển sách trở vào đặt lại lên bàn, đội mũ mặc áo vái dài rồi lại bưng ra. Vừa tới ngoài thềm thì con dời ngẩng đầu duỗi thân rời quyển sách bay lên, rít gió thành tiếng thành một đạo ánh sáng kéo dài. Ra được vài bước thì quay nhìn lại ông, đầu như cái vò, dài mấy mươi vây. Lại uốn lộn một hồi thì có tiếng sét nổ ầm ầm, vọt thẳng lên mây đi mất. Quay vào nhìn chỗ nó vừa bò qua thì thấy từng đoạn từng đoạn như tre bị đốt vậy. [B]080. Cái Búi Tóc Nhỏ [/B] [B](Tiểu Kết)[/B] Huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) có người dân là Mỗ đang ngồi chơi thì có người khách thấp lùn tới, ngước mặt trò chuyện hồi lâu, thấy bình sinh không hề quen biết, cố nhớ lại. Khách nói "Ba bốn hôm nữa sẽ dời tới đây làm láng giềng". Qua bốn năm hôm lại tới nói "Hôm nay đã là cùng làng, xin được sớm tối dạy bảo cho". Mỗ hỏi ngụ ở đâu, người ấy không nói rõ, chỉ lấy tay chỉ về phía bắc. Từ đó ngày nào cũng tới, có khi hỏi mượn vật dùng chén bát, nếu có ai bủn xỉn không cho thì tự nhiên bị mất, mọi người cùng nghi là hồ. Phía bắc thôn có ngôi mộ cổ, sâu không biết là bao nhiêu, mọi người ngờ hồ ở đó, cùng nhau vác gậy gộc khí giới tới nằm rình, hồi lâu không thấy gì lạ. Đến hết canh một thì nghe dưới mộ có tiếng lào xào như hàng trăm hàng ngàn người trò chuyện, mọi người im lặng không động đậy. Giây lát có đám người lùn khoảng hơn một thước lũ lượt kéo ra, đông không biết bao nhiêu mà kể. Mọi người cùng quát tháo vùng dậy xô vào đánh túi bụi, đánh trúng thì trên gậy lửa bắn tứ tung, trong chớp mắt bọn kia chạy tứ tán. Chỉ còn lại một cái búi tóc nhỏ bằng trái hồ đào bọc lụa buộc dây kim tuyến, ngửi thử thì hôi tanh vô cùng. [B]081. Hoắc Sinh [/B] [B](Hoắc Sinh)[/B] Hoắc sinh và Nghiêm sinh ở huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ vẫn đùa giỡn với nhau, lớn lên cũng hay chọc ghẹo nhau, lấy miệng lưỡi hơn thua, chỉ sợ không bằng đối thủ. Hoắc có bà già láng giềng từng đỡ đẻ cho vợ Nghiêm, ngẫu nhiên trò chuyện với vợ Hoắc, nói rằng chỗ kín của vợ Nghiêm có hai mụn cóc, vợ bèn kể lại cho Hoắc. Hoắc bèn cùng chúng bạn bàn tính, rình lúc Nghiêm vừa tới, cố ý nói thầm với nhau rằng “Ta quá rành vợ y". Chúng bạn làm ra vẻ không tin, Hoắc bèn bịa đặt đủ cả đầu đuôi rồi nói "Nếu không tin, thì chỗ kín của vợ y có hai cái mụn cóc” Nghiêm dừng lại ngoài cửa sổ nghe thấy hết bèn không vào, quay về nhà chửi mắng đánh đập vợ. Người vợ không chịu nhận, Nghiêm đánh đập càng tàn nhẫn, vợ không chịu nổi treo cổ tự tử. Hoắc vô cùng hối hận nhưng không dám nói thật với Nghiêm là mình bịa đặt. Vợ Nghiêm chết rồi, đêm đêm cứ hiện hồn về khóc lóc, cả nhà không sao ở yên. Không bao lâu Nghiêm bị bạo bệnh mà chết, hồn ma mới không khóc nữa. Vợ Hoắc nằm mơ thấy vợ Nghiêm xõa tóc gào lớn rằng "Ta chết rất khổ, vợ chồng người lại muốn yên vui à?", tỉnh dậy mắc bệnh vài ngày thì chết. Hoắc cũng nằm mơ thấy vợ Nghiêm xỉa xói chửi mắng, lấy tay vả vào miệng mình, hoảng sợ tỉnh dậy thấy trên môi dau nhức, cứ sưng to dần, ba ngày thì biến ra hai cục thịt thừa thành tật luôn, không dám cười nói lớn tiếng vì há mồm to thì đau không chịu nổi. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Kẻ chết rồi mà có thể làm hại là vì bị oan ức. Tật chỗ kín mà lại đem lên môi, thần linh thật như đùa cợt vậy. Trong huyện có họ Vương hay đùa giỡn với bạn học là Mỗ. Vợ Mỗ về thăm cha mẹ ruột, Vương biết con lừa nhà Mỗ nhút nhát bèn ra trước chỗ bụi rậm rình sẵn, chờ người đàn bà tới liền nhảy xổ ra. Con lừa hoảng sợ lồng lên hất người đàn bà ngã xuống, chỉ có một thằng nhỏ theo hầu không sao giữ được con lừa cho nàng leo lên. Vương bèn ân cần tới giúp đỡ, nàng cũng không biết là ai. Vương về lấy đó làm chuyện đắc ý, kể rằng nhân lúc thằng nhỏ đuổi theo con lừa thì mình đã tư thông với vợ Mỗ trong bụi, tả lại quần áo giày tất của nàng rất rõ ràng, Mỗ nghe thế xấu hổ bỏ về. Lát sau Vương nhìn qua cửa sổ thấy Mỗ một tay cầm dao, một tay kéo vợ tới trông rất hung dữ, cả sợ trèo qua tường bỏ chạy, Mỗ đuổi theo suốt hai ba dặm không kịp mới bỏ về. Vương vì ra sức chạy, phế quản bị giãn ra nên từ đó mắc bệnh thở khò khè, mấy năm không khỏi.[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển V - 82 -[/B] Hồ Đùa Giỡn (Hồ Hài) Vạn Phúc tự Tử Tường là người huyện Bác Hưng (tỉnh Sơn Đông). Từ nhỏ theo đòi nghiệp nho, nhà cũng hơi khá giả nhưng thi cử lận đận, hơn hai mươi tuổi vẫn không đỗ đạt gì. Ở quê có lệ xấu là bắt các nhà giàu ra làm lý dịch, có người phải khuynh gia bại sản. Vạn bị ép làm chức ấy, sợ quá trốn tới Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) vào nhà trọ ở. Đêm có cô gái tới khêu gợi, cũng khá xinh đẹp, Vạn thích bèn giao hoan. Hỏi họ tên, cô gái nói “Nói thật ta là hồ, nhưng không làm hại chàng đâu”. Vạn mừng rỡ không ngờ vực gì, nàng dặn đừng ở chung với ai, từ đó ngày nào cũng tới ăn ở cùng phòng, phàm mọi chi dùng hàng ngày đều do hồ chu cấp. Không bao lâu có vài người quen tới thăm chơi, thường ngủ lại không về. Vạn chán ghét nhưng không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thật. Khách xin được chiêm ngưỡng dung nhan người tiên một lần, Vạn nói với hồ, hồ nói với khách “Gặp ta làm gì? Ta cũng như mọi người thôi”, nghe tiếng nói rõ ràng trước mắt, nhưng nhìn quanh thì không thấy đâu. Khách có người tên Tôn Đắc Ngôn giỏi khôi hài, cố xin được thấy mặt, lại nói được nghe giọng oanh, thần hồn điên đảo, sao lại tiếc không cho thấy dung nhan khiến người ta nghe tiếng mà tương tư. Hồ cười đáp "Cháu hiền muốn vẽ bức tranh hành lạc[B]* [/B]cho bà cố à?", khách khứa đều cười. *Bức tranh hành lạc: nguyên văn là "hành lạc đồ", vẽ những hình ảnh trai gái giao hoan, đại khái là loại tranh ảnh khiêu dâm. Hồ nói "Ta là hồ, xin kể chuyện hồ cho khách nghe, chịu không?". Mọi người đều ừ, hồ kể "Xưa ở quán trọ làng nọ có nhiều hồ, thường ra quấy phá khách trọ, khách khứa qua lại biết được, dặn nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán vắng vẻ, chủ trọ lo lắm, rất kiêng nói tới hồ. Chợt có người khách từ xa tới, tự nói là người nước ngoài, thấy quán trọ nên vào nghỉ. Chủ trọ mừng lắm mời vào, liền có người đi đường lén nói với khách rằng “Nhà này có hồ”. Khách sợ, nói rõ với chủ trọ rồi định qua trọ chỗ khác, chủ trọ ra sức phân trần rằng đó là lời bịa đặt. Khách bèn ở lại, vào phòng vừa nằm xuống thì thấy bầy chuột từ gầm giường chạy ra, khiếp đảm nhào ra ngoài la hoảng "Có hồ". Chủ nhân sợ hãi hỏi han, khách oán trách nói “Hồ làm hang ở đây, sao nói dối ta là không có". Chủ nhân lại hỏi thấy hình thù nó thế nào, khách đáp "Ta nay mới thấy, nó ngắn ngắn nhỏ nhỏ, không phải hồ con ắt là hồ cháu”. Vừa dứt lời thì khách khứa đều cười ầm. Tôn nói "Nếu không cho thấy mặt thì bọn ta sẽ ngủ lại, mà ai đó cũng đừng đi mà bỏ lỡ giấc mộng Dương Đài"[B]*[/B]. Hồ cười đáp "Cứ ngủ lại không sao, nếu có hơi xúc phạm thì xin đừng để bụng". Khách sợ bị chơi ác bèn cùng tan về. *Giấc mộng Dương Đài: bài tựa Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua Sở ra chơi đầm Vân Mộng, đêm mộng thấy một người con gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nàng ấy nói "Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn sớm làm mây, tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, sau người ta thường dùng tích này để chỉ việc ái ân trai gái. Kế cứ vài ngày lại tới, đòi hồ trêu cợt. Hồ rất giỏi khôi hài, cứ lên tiếng là khách cười nghiêng ngửa, nhưng kẻ có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người đùa gọi là Hồ nương tử. Một hôm bày tiệc họp mặt, Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai người khách nữa chia ngồi hai bên, đặt một cái giường phía sau mời hồ, hồ từ chối là không hay rượu. Có người xin cứ ngồi nói chuyện, hồ ưng thuận. Rượu được vài tuần, mọi người bày trò gieo xúc xắc làm tửu lệnh "qua man”[B]*[/B], khách trúng mặt dưa bị phạt, đùa đưa chén qua giường nói "Hồ nương tử là bậc đại tỉnh, xin uống giùm một chén". Hồ cười đáp "Ta vốn không uống được, xin kể một câu chuyện góp vui với các vị". Tôn bịt tai ra vẻ không muốn nghe, mọi người đều nói "Nếu chửi xỏ người thì phải chịu phạt đấy”. Hồ cười hỏi “Thế ta chửi xỏ hồ được không?", mọi người đáp “Được", rồi lắng tai nghe. *"Qua man": nghĩa đen là dây dưa bò lan, chưa rõ thể thức luật chơi cụ thể. Hồ kể "Xưa có một ông quan lớn đi sứ nước Hồng Mao[B]*[/B]” đội mũ lông hồ vào yết kiến quốc vương nước ấy. Quốc vương thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dày vừa mềm như thế. Ông quan lớn ấy thưa là lông hồ. Quốc vương nói bình sinh chưa từng nghe nói tới, vậy chữ “hồ" viết ra sao? Ông quan lớn bèn lấy tay vạch lên không, tâu “Bên phải là một qua lớn, bên trái là một khuyển nhỏ[B]**[/B]", chủ khách lại cười ầm. *Nước Hồng Mao: tức Anh. **Bên phải... nhỏ: đây là theo lối chiết tự trong chữ Hán, hồ có ý nói xỏ người khách ngồi bên trái Vạn tức Tôn là “khuyển” (chó), vì người bên phải đã gieo trúng mặt “qua" (dưa). Hai người khách kia là hai anh em họ Trần, một tên Sở Kiến, một tên Sở Văn, thấy Tôn bị áp đảo quá bèn nói "Hồ đực đâu mà để hồ cái ác hại thế này?". Hồ nói “Có một câu chuyện kể chưa xong đã bị sủa loạn làm ngắt quãng, xin kể nốt. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, rất lạ lùng. Sứ thần thưa "Đây là do con ngựa đẻ ra” quốc vương lại càng lấy làm lạ. Sứ thần nói ở Trung Quốc thì con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai”. Quốc vương hỏi kỹ hình dạng, sứ thần đáp "Ngựa đẻ ra la là thần sở kiến, la đẻ ngựa choai là thần sở văn[B]*[/B]", cử tọa lại cười ầm. * Ngựa đẻ... sở văn: sở kiến nghĩa đen là "vốn thấy", sở văn nghĩa đen là “vốn nghe", nhưng cũng là tên hai anh em họ Trần, nên câu này có ý nói xỏ hai người là la và ngựa choai. Mọi người biết không địch nổi mồm mép của hồ, liền giao hẹn trở đi nếu ai khơi chuyện ngạo ngược thì phải đứng ra làm chủ, bỏ tiền mua rượu. Giây lát rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Vạn “Có vế đối thách ông đối lại”, Vạn hỏi câu gì, Tôn đọc “Kỹ nữ xuất môn phỏng tình nhân, lai thời vạn phúc, khứ thời vạn phúc[B]*[/B]” cả bàn nghĩ mãi không ai đối được. *Kỹ nữ... vạn phúc: nghĩa đen là "Kỹ nữ ra cửa thăm tình nhân, lúc tới thưa vạn phúc, lúc đi thưa vạn phúc", “vạn phúc" là lời chúc tụng nhưng cũng là tên của Vạn Phúc, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "tới cũng Vạn Phúc, đi cũng Vạn Phúc", có ý đùa là Vạn Phúc chuyên tới kỹ viện chơi bời. Hồ cười nói "Ta có câu rồi đây", mọi người lắng tai nghe, hồ đọc “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn[B]*[/B]” tất cả lại cười bò ra. Tôn bực lắm, nói “Đã giao hẹn rồi, sao lại phạm?”. Hồ cười đáp “Đúng là ta có lỗi, nhưng nếu không thế thì không đối cho sát được. Sáng mai xin đặt tiệc để chuộc lỗi”, chủ khách cùng cười rồi chia tay. Hồ khôi hài đại loại như thế, không sao kể hết được. *Long vương... đắc ngôn: nghĩa đen là “Long vương xuống chiếu cầu lời thẳng, vích cũng được nói, rùa cũng được nói", “được nói” (đắc ngôn) cũng là tên của Đắc Ngôn, nên đoạn sau còn có thể hiểu là “... vích là Đắc Ngôn, rùa là Đắc Ngôn", có ý nói xỏ Tôn Đắc Ngôn là con rùa. Rùa là một giống vật được người Trung Hoa ví với kẻ hạ tiện dâm đãng. Được vài tháng, hồ cùng Vạn về quê. Tới địa giới Bác Hưng, hồ nói với Vạn “Ở đây ta có người họ hàng xa, đã lâu không qua lại, không thể không ghé thăm. Vả lại trời cũng đã tối, chàng cứ đi cùng tới đó ngủ lại, sáng mai đi cũng được”. Vạn hỏi ở đâu, hồ chỉ nói không xa. Vạn ngờ vì trước nay khu này vốn không có làng xóm gì, nhưng cũng đi theo. Khoảng hai dặm quả thấy một gia trang, bình sinh chưa đi ngang lần nào. Hồ gõ cổng thì có một người hầu ra mở, vào trong thấy cửa liền gác nối, rõ ràng là nhà thế gia. Giây lát tới chỗ chủ nhân, có hai ông bà già, vái chào Vạn rồi mời ngồi, bày tiệc linh đình tiếp đãi như con rể, kế hai người nghỉ lại đó. Sáng sớm hồ nói "Ta về ngay cùng chàng, sợ người nhà sợ hãi. Chàng cứ về trước, ta sẽ theo tới ngay”. Vạn theo lời về trước nói rõ với gia nhân. Không bao lâu hồ tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ nhưng không nhìn thấy người. Năm sau Vạn lại có việc đi Tế Nam, hồ cũng đi cùng. Chợt có mấy người tới, hồ theo ra trò chuyện thăm hỏi rồi nói với Vạn “Ta vốn gốc gác ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), cùng chàng có mối túc duyên nên theo nhau bấy lâu, nay anh em ta đã tới, ta phải theo về, không theo hầu chàng trọn đời được”. Vạn cố giữ lại không được, kế hồ ra đi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 83 -[/B] Nối Giấc Kê Vàng (Tục Hoàng Lương) Cử nhân họ Tăng người Phúc Kiến lúc vừa thi đỗ Tiến sĩ cùng vài người bạn thân khoa dạo chơi ngoài thành. Tình cờ nghe nói ở chùa Tỳ Lư có một thầy tướng liền kéo nhau tới xem quẻ. Tăng vào ngồi, thầy tướng nhìn thấy ý khí tự đắc bèn nịnh hót lấy lòng. Tăng phe phẩy quạt mỉm cười rồi hỏi “Ta có số làm Tể tướng không?”. Thầy tướng nghiêm trang nói sẽ làm Tể tướng hai mươi năm trong đời thái bình, Tăng cả mừng, ý khí càng thêm cao ngạo. Gặp lúc có cơn mưa nhỏ, cùng bạn bè vào tăng xá tránh mưa, thấy bên trong có vị sư già mắt sâu mũi cao ngồi trên tấm bổ đoàn, ngạo mạn không chào hỏi ai. Cả bọn cùng chào rồi lên sạp ngồi nói chuyện với nhau, đều mừng Tăng sẽ làm Tể tướng. Tăng càng đắc ý, chỉ bạn cùng đi nói "Khi nào ta làm Tể tướng, sẽ cử Trương huynh làm Tuần phủ Hà Nam, ông anh cô cậu của ta làm chức Tham du, lão bộc nhà ta cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện", cả bọn cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa càng lớn như trút nước, Tăng mỏi mệt nằm xuống giường, chợt thấy hai quan Trung sứ đem tờ chiếu do Thiên tử đích thân viết tới triệu Tăng Tể tướng vào triều bàn việc nước. Tăng đắc ý vội vàng vào triều, nhà vua hỏi han dịu ngọt hồi lâu, truyền cho Tăng được quyền thăng giáng các quan từ tam phẩm trở xuống, ban cho mãng bào đai ngọc và ngựa quý, Tăng mặc áo đeo đai dập đầu tạ ơn rồi ra về. Vào nhà thì thấy không phải nơi ở cũ ngày trước mà toàn là cột chạm cửa sơn vô cùng lộng lẫy, cũng không hiểu vì sao vinh hiển mau lẹ như vậy, nhưng chỉ cần vuốt râu gọi khẽ thì quân hầu dạ ran như sấm. Kế các quan công khanh đem quà cáp tặng biếu tới khúm núm xếp hàng ngoài cổng. Các quan khanh sáu bộ tới thì Tăng vội vàng ra đón, hạng Thị lang thì vái chào cùng trò chuyện, chức thấp hơn thì chỉ gật đầu chào thôi. Tuần phủ Sơn Tây gởi tặng ban nữ nhạc mười người đều là con gái trẻ đẹp, trong đó Niễu Niễu và Tiên Tiên đẹp nhất, hai người rất được yêu quý, Tăng cho phục dịch khăn áo, hàng ngày hầu hạ ca múa. Một hôm Tăng nhớ lại lúc còn hàn vi thường được thân sĩ trong huyện là Vương Tư Lương giúp đỡ, nay ta đã nhẹ bước thang mây mà ông ấy còn lận đận trên đường công danh, sao không đưa tay dìu dắt một phen. Sáng ra dâng sớ tiến cử Vương làm quan Gián nghị, lập tức có chỉ dụ bổ dụng. Lại nghĩ tới Thái bộc họ Quách từng trợn mắt với mình, liền gọi bọn Cấp gián họ Lữ và Thị ngu Trần Xương dặn dò, hôm sau sớ tấu đàn hặc nối nhau dâng lên, liền có chỉ cách chức Quách Thái bộc cho về làm dân. Đền ơn trả oán xong, Tăng rất thỏa ý. Một hôm ra ngoài thành chơi, có người say rượu phạm vào nghi trượng, Tăng sai trói lại giải tới quan Kinh triệu doãn, người ấy lập tức bị đánh đòn mà chết. Những người có nhà cửa ruộng đất ở cạnh đều sợ quyền thế đem những ruộng tốt nhà to hiến cho, từ đó Tăng thành phú gia địch quốc. Không bao lâu, Niễu Niễu và Tiên Tiên nối nhau qua đời. Tăng khuya sớm nhớ nhung, chợt nhớ năm xưa thấy người con gái hàng xóm tuyệt đẹp, vẫn muốn mua làm tỳ thiếp nhưng vì ít tiền nên không được như nguyện, nay may đã đắc ý, bèn sai mấy tên gia nhân đắc lực đem tiền tới ép nhận sính lễ, giây lát kiệu nàng về tới, so lại với ngày trước thì càng đẹp hơn, tự nghĩ như thế đã thỏa nguyện ước bình sinh rồi. Hơn năm sau thì các quan trong triều đều ngầm có lòng chê trách nhưng đều không dám nói ra, Tăng cũng nghênh ngang không thèm để ý. Có quan Long đồ học sĩ họ Bao dâng sớ hặc tội, đại lược như sau: “Trộm nghĩ Tăng Mỗ vốn là một kẻ vô lại cờ bạc rượu chè, tiểu nhân đầu đường xó chợ, chỉ có một lời nói hợp ý mà được thánh thượng tin dùng, cha con vinh hiển, ân sủng tột bực. Thế mà không nghĩ tới việc dốc lòng báo đáp trong muôn một, lại phóng ý rông càn làm oai phúc, những tội đáng chết nhổ tóc mà đếm cũng không đủ. Danh vị trọng thể của triều đình thì coi như món hàng lạ, cân nhắc nhỏ to, ra giá cao thấp. Vì thế công khanh tướng sĩ đều phải lui tới nhà y, tính toán tiến thân như đi buôn, luồn lọt lấy lòng không kể xiết. Hoặc có kẻ kiệt sĩ hiền thần không chịu a dua, nhẹ thì bị gạt bỏ không dùng, nặng thì bị cách quan bãi chức. Thậm chí chỉ hơi trái ý thì y đặt điều vu cáo bắt phải đi đày, nên quan lại đều tê lòng, triều đình thành cô lập. Lại máu mỡ dân đen mặc tình vơ vét, con gái nhà lành bắt ép làm hầu, hơi oán mịt mờ, mặt trời u ám. Gia nhân của y tới nơi thì quan địa phương phải dạ lấy lòng, thư từ của y gởi ra thì kẻ cầm quyền phải làm trái phép. Có khi con cái tôi tớ, họ hàng dây dưa đi ra cũng dùng ngựa trạm, ruổi rong mịt bụi, hò hét thị uy. Địa phưong cung cấp hơi chậm trễ, roi vọt đánh đập liền ra tay, ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, nghi trượng tới đâu thì ruộng đồng sạch cỏ. Thế mà Tăng Mỗ vẫn nghênh ngang hống hách, không chút ăn năn, tấu đối qua loa ở triều đình, dối trá gian tà trước thánh thượng. Xe kiệu vừa rời chốn công môn, sênh ca đã bày nơi hậu uyển. Thanh sắc chó ngựa cứ chơi tràn, quốc kế dân sinh chẳng lo nghĩ, trên đời há có loại Tể tướng như thế sao? Trong ngoài xôn xao, nhân tâm ly tán, nếu không có búa rìu trị ngay, ắt sẽ thành Mãng Tháo[B]*[/B] gây họa. Thần sớm tối lo lắng, không dám yên thân, liều chết kể ra các tội của y, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh xử chém kẻ gian nịnh, tịch thu của tham ô, để trên thỏa dạ trời, dưới hả bụng chúng. Nếu thần vu oan, xin cam chịu tội..." *Mãng Tháo: tức Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán và Tào Tháo lấn quyền vua Hán, sử sách Trung Hoa ngày xưa coi là gian thần. Tờ sớ dâng lên, Tăng nghe được vô cùng run sợ, người lạnh toát như uống băng, nhưng may nhờ vua khoan dung, để đó không xét. Kế các quan Khoa đạo cửu khanh lại liên tiếp dâng sớ đàn hặc, ngay những kẻ trước kia xin làm môn hạ, cung kính như cha cũng trở mặt vớì Tăng. Vua liền giáng chỉ tịch thu gia sản, bắt Tăng sung quân ở Vân Nam, con trai Tăng làm Thái thú quận Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) cũng bị triều đình sai quan ra tra xét. Tăng nghe chỉ dụ đang kinh hoàng thì có mấy mươi võ sĩ đeo gươm cầm giáo vào thẳng nhà trong lột hết áo mão, vợ cũng bị trói. Kế thấy mấy người vác của cải trong nhà ra sân, vàng bạc tiền nong tới mấy trăm vạn, châu ngọc bảo vật tới mấy trăm hộc, rèm màn giường tủ cũng tới mấy ngàn món, còn những tã lót trẻ con, giày tất đàn bà thì vương vãi khắp sân. Tăng đều nhất nhất trông thấy, đau lòng xốn mắt. Giây lát lại có một người bắt nàng hầu đẹp nhất giải ra, tóc rối kêu khóc, mặt ngọc tái xanh, Tăng đau xót như lửa đốt ruột gan nhưng ngậm hờn không dám nói. Kế lầu gác kho tàng niêm phong xong, họ lập tức quát thét giải Tăng ra, toán lính áp giải xô đẩy vung giáo bắt đi mau. Vợ chồng Tăng nuốt lệ lên đường, lúc này muốn ngựa tồi xe xấu đỡ chân cũng không sao có được. Được hơn mười dặm thì vợ mệt quá loạng choạng muốn ngã, Tăng phải dìu đỡ. Lại hơn mười dặm nữa thì mình cũng mệt mỏi, thấy núi non xa xa cao chọc trời mà lo không trèo lên nổi, cứ kéo tay vợ nhìn nhau khóc lóc nhưng toán lính áp giải trợn mắt sấn tới không cho nghỉ chân. Lại thấy mặt trời đã lặn, không có chỗ nào nghỉ lại bất đắc dĩ phải khập khiễng lê bước. Tới lưng núi thì vợ kiệt sức khóc lóc ngồi phịch xuống vệ đường, Tăng cũng mệt quá ngồi xuống nghỉ, mặc cho toán lính áp giải quát tháo chửi mắng. Bỗng nghe tiếng hò la ầm ĩ, có bọn cướp vác đao sắc ào ào xông ra, toán lính áp giải hoảng sợ bỏ chạy. Tăng quỳ mọp nói mình một thân trơ trọi bị đày đi xa, hành lý chẳng có gì đáng giá, năn nỉ bọn cướp tha cho. Bọn cướp trợn mắt nói “Bọn ta đều là dân bị hại, chỉ cần cái đầu đứa nịnh tặc chứ không cần lấy gì cả". Tăng nổi giận quát "Ta dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ giặc cỏ sao dám hỗn láo như thế?”. Bọn cướp cũng nổi giận vung búa lớn trên đầu Tăng, nghe thấy đầu rơi xuống đất thành tiếng. Hồn Tăng còn đang kinh hãi thì lập tức có hai tên quỷ tốt tới nắm tay lôi đi. Đi mấy khắc thì vào tới một nơi đô hội, giây lát tới một cung điện, trên điện có một vị vương giả tướng mạo xấu xí ngồi xét xử tội phúc. Tăng khúm núm tới quỳ trước mặt nghe lệnh, vị vương giả mở sổ xem qua mấy hàng lập tức giận dữ quát "Tên này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu”, muôn quỷ dạ ran như sấm, lập tức có tên quỷ to lớn lôi Tăng xuống dưới thềm, thấy cái vạc cao khoảng bảy tám thước, bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run sợ kêu khóc, muốn chạy trốn mà không được, tên quỷ tốt tay trái túm tóc, tay phải nắm chân Tăng ném vào vạc dầu, Tăng theo dầu sôi nổi lên chìm xuống, da thịt bong rát đau thấu tim gan, dầu tràn vào miệng cháy bỏng gan ruột, muốn chết ngay mà không chết được. Khoảng xong bữa cơm, tên quỷ tốt lấy đinh ba vớt Tăng ra đem vào sảnh đường. Vị vương giả lại xem sổ sách, nổi giận nói "Y cậy thế hiếp người, phải quăng vào núi đao” Quỷ tốt lại lôi Tăng đi, thấy hòn núi không to lớn lắm nhưng sườn đá dựng đứng, đao nhọn tua tủa như măng mọc dày đặc, đã có mấy người thủng bụng toác ruột đang vướng bên trên, đau đớn kêu gào vô cùng thảm thiết. Quỷ tốt giục Tăng leo lên, Tàng khóc rống lùi lại, quỷ tốt cầm dùi nhọn đâm vào gáy, Tăng nhịn đau xin tha cho, quỷ tốt nổi giận túm lấy Tăng ra sức ném lên trời. Tăng thấy mình lơ lửng trên mây rồi rơi thẳng xuống, bị đao xóc vào bụng, đau đớn không sao nói xiết. Lát sau vì thân thể to béo đè nặng lên nên vết đao đâm vào dần dần rộng ra, chợt rơi phịch xuống, chân tay co quắp. Quỷ tốt lại dẫn vào trước mặt vị vương giả, vương sai tính lại lúc sinh bình Tăng bán chức buôn danh, ăn hối lộ cướp của người được bao nhiêu tiền. Lập tức có người rậm râu đứng gãy bàn tính rồi nói "Tất cả là Ba trám hai mươi mốt vạn”. Vương nói "Y đã gom góp thì bắt y uống đi". Phút chốc lấy vàng bạc ra chất đống dưới thềm, cao như gò núi, rồi từ từ bỏ vào nồi sắt quạt lửa nấu chảy ra, kế mấy tên quỷ tốt luân phiên lấy gáo múc đổ vào miệng Tăng, tràn qua gò má thì da thịt cháy khét, vào tới cuống họng thì ruột gan nóng sôi, lúc sống lo vật ấy có ít, lúc ấy lại sợ nó quá nhiều, mất nửa ngày mới uống xong. Vương giả sai quỷ tốt giải Tăng đi đầu thai làm con gái ở đất Cam Châu (huyện Trương Dịch tính Cam Túc). Đi độ vài bước thấy trên giá cao có một cây trục sắt chu vi độ mấy thước xỏ qua một bánh xe lớn, rộng lớn không biết mấy trăm dặm, sáng lóe năm sắc chiếu tới mây xanh. Quỷ tốt đánh bắt trèo lên, Tăng nhắm mắt bước lên thì bánh xe theo chân xoay chuyển, thấy như bị rơi xuống, toàn thân mát lạnh, mở mắt nhìn lại mình thì đã hóa ra đứa trẻ sơ sinh mà lại là con gái. Nhìn tới cha mẹ thì áo quần rách rưới, trong gian phòng vách đất còn đủ cả bị gậy, biết đã đầu thai làm con ăn mày. Lớn lên hàng ngày theo đám trẻ ăn mày đi xin ăn, bụng lép kẹp ít khi được no, áo tả tơi gió lạnh thấu xương. Năm mười bốn tuổi bị bán làm vợ lẽ cho Tú tài họ Cố, tuy hơi được no ấm nhưng gặp người vợ lớn hay ghen, hàng ngày thường đánh đập, lại nung sắt đỏ đốt vú, may là chồng thương xót nên cũng thấy được an ủi. Chợt có gã thiếu niên hung ác bên láng giềng trèo tường qua cưỡng ép, mới tự nghĩ kiếp trước làm nên tội nghiệt đã chịu hình phạt dưới âm ty rồi, nay sao lại phải chịu như thế nữa. Bèn kêu ầm lên, chồng và vợ lớn đều tỉnh dậy, gã thiếu niên mới bỏ chạy. Không bao lâu, một đêm Tú tài tới ngủ ở phòng, đang thì thầm to nhỏ kể lể oan khổ bỗng có tiếng ầm ầm, cửa phòng mở toang, có hai tên cướp cầm đao sấn vào chặt đầu Tú tài rồi lục lọi tài vật, sợ hãi nằm im trong chăn không dám lên tiếng. Kế bọn cướp đi rồi mới kêu khóc chạy tới phòng vợ lớn, vợ lớn cả kinh, cùng tới xem xét khóc lóc, nghi là vợ lẽ đưa gian phu vào giết chồng bèn làm đơn trình lên Thứ sử. Thứ sử cho bắt tra hỏi, bị tra tấn tàn nhẫn đành nhận bừa, bị kết án lăng trì. Khi bị giải ra chỗ hành hình, trong lòng uất ức không sao phát tiết, vừa đi vừa la khóc rằng mười tám địa ngục dưới âm ty cũng không có nơi nào đen tối hơn. Đang kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn cùng đi gọi “Anh bị ma đè à?", giật mình tỉnh dậy, thấy nhà sư già vẫn ngồi xếp bằng như cũ. Bạn bè lại hỏi “Trời chiều bụng đói sao ngủ say thế?”. Tăng buồn rầu đứng lên. Nhà sư mỉm cười hỏi “Quẻ bói Tể tướng nghiệm chưa?”. Tăng càng kinh sợ, vái lạy thỉnh giáo. Nhà sư nói "Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có sen vàng chứ bần tăng làm sao biết được?". Tăng nghênh ngang khi tới, không ngờ buồn bã mà về, tấm lòng công danh từ đó nguội lạnh, sau vào núi tu, không rõ kết cục ra sao. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ban phúc cho kẻ lành, giáng họa cho người dâm là đạo thường của trời. Kẻ kia nghe nói sẽ được làm Tể tướng thì mừng rỡ cho là đúng, thì có thể biết không phải là người cúc cung tận tụy thờ vua rồi. Lúc bấy giờ thì nắm đại quyền, lầu gác thê thiếp không gì không có, tuy giấc mơ kia vốn là dối song mong ước ấy cũng không phải đúng. Nhà sư làm ra ảo mộng, lấy đạo thuật thần diệu để răn người, kê vàng thành lệ giấc mộng ấy ắt có thật, có thể phụ vào sau chuyện giấc mộng ở Hàm Đam[B]*[/B].[/I] *Kê... vàng... Hàm Đan: Chẩm trung ký chép Lư sinh thời Đường tới ngụ ở Hàm Đan, vào quán trọ gặp tiên ông Lữ Động Tân, thở than mình nghèo khổ. Lúc ấy chủ quán đang nấu kê, tiên ông đưa chiếc gối cho Lư, bảo gối lên mà ngủ sẽ được như nguyện. Lư chớp mắt thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan lớn, vợ đẹp con khôn, giàu sang vinh hiển suốt năm mươi năm. Khi tỉnh dậy thì nồi kê trong quán trọ vẫn chưa chín. Lư kinh ngạc hỏì “Chỉ là mộng thôi sao?”. Lữ Động Tân cười đáp "Việc đời đều như thế cả". Sau người ta hay dùng tích này để nói việc công danh phú quý chỉ là ảo mộng. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 84 -[/B] Chó Săn Nhỏ (Tiểu Lạp Khuyển) Tể tướng họ Vệ ở Sơn Tây lúc còn là Chư sinh ghét ồn ào phiền nhiễu nên tới ở trong chùa, khổ là trong phòng rất nhiều rận rệp ruồi muỗi, cả đêm không chợp mắt được nên ăn cơm trưa xong bèn lên giường nằm nghỉ. Chợt thấy một võ sĩ nhỏ bé đội mũ gắn lông trĩ, cao khoảng hai tấc, cưỡi con ngựa to bằng con sâu, vai mang cái đai xanh trên có con chim ưng to bằng con ruồi từ ngoài vào qua lại trong phòng, lúc đi lúc chạy. Ông đang chăm chú ngắm nhìn chợt lại có một người khác vào, trang phục như người trước, lưng đeo bộ cung nhỏ, dắt con chó săn to bằng con kiến càng. Khoảnh khắc thì có vài trăm quân bộ quân kỵ ồ ạt kéo vào, dắt theo vài trăm con chim ưng, vài trăm con chó săn, có bao nhiêu ruồi muỗi đang bay đều thả ưng ra đánh giết bằng hết. Lại thả chó lên giường lần theo sát vách tìm săn rận rệp sâu bọ, sục tới khe hở nào thì sâu bọ trong đó đều phải bò ra, trong chớp mắt đã cắn giết sạch. Ông vờ ngủ hé mắt nhìn, thấy chim ưng đánh giết, chó săn săn mồi sát bên người mình. Kế có một người mặc áo màu vàng đội mũ bình thiên như bậc vương giả lên một giường khác, nghênh ngang dong xe bốn ngựa đi lại. Bọn quân kỵ đều xuống ngựa dâng các con vật săn được lên, chất đống bên cạnh, cũng không rõ là trò chuyện những gì. Giây lát vị vương giả lại lên xe, quân hộ vệ đều vội vàng lên ngựa rầm rập túa ra như đậu lăn kéo đi như mây bay gió cuốn, trong chớp mắt đã đi hết. Ông nhìn thấy rõ ràng, kinh lạ không rõ bọn họ từ đâu tới, xỏ giày bước ra xem thì không thấy bóng dáng dấu vết gì cả, duy thấy trên hòn gạch sát tường còn sót một con chó nhỏ, vội vàng bắt lấy. Con chó rất thuần, ông đặt vào cái hộp đựng nghiên mực xoay đi xoay lại ngắm nhìn, thấy lông rất mượt, cổ có đeo cái vòng nhỏ. Lấy cơm cho ăn thì nó chỉ ngửi rồi bỏ đi, nhảy lên giường tìm những nếp chăn nếp áo sục sạo bắt rận rệp, xong rồi quay về nằm xương ngủ. Qua một đêm, ông ngờ là nó đã bỏ đi, xem lại thấy vẫn nằm khoanh tròn như cũ. ông ngủ trưa thì nó nhảy lên giường, cứ thấy sâu bọ nào trên chiếu là cắn chết hết, ruồi muỗi cũng không dám đáp xuống, ông quý hơn cả vàng ngọc. Một hôm ông ngủ trưa, con chó tới rúc xuống nằm bên cạnh. Ông tỉnh dậy trở mình đè lên nó, thấy có vật gì cộm dưới lưng, nghĩ ngay là con chó vội vàng dậy xem thì nó đã chết bẹp như mảnh giấy, nhưng từ đó không bị rận rệp gì cắn nữa. [B]Phụ Lục: Một Truyện Trong Trì Bắc Ngẫu Đàm(Phụ Lục: Trì Bắc Ngẫu Đàm Nhất Tắc)[/B] Quan Tể tướng Mỗ lúc chưa thi đỗ, mùa hè thường nằm ngủ trưa. Chợt thấy một người nhỏ bé cưỡi ngựa vào, người ngựa đều cao khoảng hơn tấc, lưng đeo cung tên, vai mang chim ưng to bằng con ruồi. Kế một người nữa tới, cũng nhỏ bé như vậy, dắt một con chó săn to bằng con kiến càng. Hai người đi vòng vòng trong phòng, hồi lâu có vài ngàn giáp sĩ kéo vào, cờ xí rực rỡ chia làm hai cánh bổ vây mở cuộc săn lớn, ruồi muỗi trong phòng đều bị giết sạch, những sâu bọ trốn núp trên kẽ vách đều bị lôi ra. Kế có một người áo đỏ xuống xe ngồi lên giường khác, quân sĩ lần lượt tới dâng những vật săn bắt được. Xong lại lên xe, đội ngũ tề chỉnh kéo đi, quân giáp sĩ cũng ra theo như mây bay gió cuốn rút hết. Ông choàng dậy không thấy gì nữa, chỉ còn một con chó nhỏ ngơ ngác trên vách, lập tức bắt lấy bỏ vào tráp. Con chó rất thuần, ông cho cơm thì không ăn, ông ngủ thì nằm bên cạnh gối, cứ thấy ruồi muỗi thì cắn đuổi đi. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 85 -[/B] Cô Tân Mười Bốn (Tân Thập Tứ Nương) Phùng sinh ở huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) là người thời Chính Đức nhà Minh (1506-1521), lúc trẻ lông bông hay rượu. Sáng sớm ra đường gặp một thiếu nữ mặc áo khoác đỏ, vô cùng xinh đẹp, có đứa tiểu đồng theo hầu, đạp bừa trên sương mà đi, giày tất ướt hết, lòng thầm yêu mến. Chiều tối say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi chùa bỏ hoang đã lâu, có cô gái từ trong đi ra, chính là người đẹp lúc sáng. Nàng vừa thấy sinh tới, lập tức quay người trở vào. Sinh nghĩ thầm người đẹp như thế sao lại ở trong chùa, liền buộc lừa ở cổng rồi vào trong tìm hiểu chuyện lạ. Vào thấy tường rào đổ nát, cỏ phủ đầy thềm, còn đang ngần ngừ thì một ông già tóc bạc đi ra, áo mũ chỉnh tề hỏi khách tới đây làm gì. Sinh đáp "Ngẫu nhiên đi ngang thấy ngôi chùa cổ nên muốn vào lễ Phật, còn ông tới đây làm gì?”. Ông già đáp “Lão phu ngụ cư không có chỗ ở nên mượn tạm nơi này cho gia đình ở, được ông quang lâm, có chén trà núi cũng tạm thay rượu được", rồi cung kính mời khách vào. Thấy hậu điện có gian nhà, đường đi lát đá sáng bóng không có chút rêu cỏ, vào nhà thì rèm cửa màn giường đều thơm phức. Ngồi xuống hỏi họ tên, ông già nói là Mông Tẩu họ Tân. Sinh nhân say hỏi "Nghe nói ông có một cô con gái chưa gả cưới, ta không xét mình, tình nguyện làm rể được không?”. Tân cười nói "Để ta bàn lại với bà ấy", sinh lập tức hỏi lấy giấy bút làm một bài thơ rằng: [I]Thiên kim mịch ngọc chử, Ân cần thủ tự tương. Vân Anh như hữu ý, Thân vị đảo nguyên sương.[/I] (Ngàn vàng tìm chày ngọc Ân cần tay tự mang Vân Anh như có ý Xin giã thuốc cho nàng)[B]*[/B] *Vân Anh... cho nàng: Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng 1à người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới, bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên. Bài thơ của Phùng sinh dùng tích này để ngỏ ý xin làm rể nhà ông Tân. Chủ nhân đọc thơ cười đưa cho người hầu, giây lát có tỳ nữ từ nhà trong ra ghé tai Tân nói nhỏ. Tân đứng lên xin khách chịu khó ngồi đợi rồi vén rèm vào nhà trong, nghe trò chuyện loáng thoáng năm ba câu rồi lập tức trở ra. Sinh nghĩ chắc có tin hay nhưng Tân cứ ngồi cười nói trò chuyện chứ không nói gì tới việc đó. Sinh không kìm được hỏi luôn "Chưa rõ ý ông về việc đó thế nào, xin dạy bảo cho ta hết ngờ vực”. Tân đáp "ông là bậc tài sĩ, ta đã hâm mộ từ lâu, nhưng có chuyện riêng nên không dám nói thôi". Sinh cứ nài nỉ xin cho biết, Tân đáp "Ta có tất cả mười chín con gái, đã gả chồng cho mười hai đứa, nhưng việc cưới gả đều quyền ở bà nó chứ ta không dự bàn”. Sinh nói "Tiểu sinh chỉ muốn hỏi cưới người dắt đứa tiểu đồng lội sương sáng nay thôi”. Tân không đáp, im lặng nhìn khách, nghe trong phòng có tiếng con gái thì thào, sinh mượn men vén rèm bước vào, nói “Đã không thành vợ chồng được, thì cũng phải thấy mặt một lần ta mới nguôi hận”. Bên trong nghe tiếng rèm khua đều sửng sốt đúng cả dậy, quả có cô gái áo đỏ xốc tay áo nghiêng đầu mân mê giải áo, thấy sinh xông vào hoảng hốt nhìn khắp mọi người trong phòng. Tân tức giận sai mấy người lôi sinh ra cửa. Men rượu càng bốc, sinh ngã lăn vào bụi gai, gạch đá ném xuống như mưa, may mà không trúng vào người. Nằm một lúc nghe con lừa vẫn còn gặm cỏ bên đường, bèn dậy lên lừa thất thểu ra đi. Trời tối lầm đường lạc vào khe núi, sói gào cú rúc rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh không biết đang ở đâu. Nhìn tới khu rùng xa xa thấy có ánh đèn thấp thoáng, nghĩ là làng xóm, liền giục lừa tới, thấy cánh cổng cao rộng bèn cầm roi gõ cửa. Bên trong có người hỏi "Lang quân ở đâu mà nửa đêm tới đây?", sinh đáp là lạc đường. Người ấy nói “Chờ ta thưa với chủ nhân". Sinh đứng đợi chồn cả chân, chợt nghe tiếng then lạch cạch rồi cánh cổng mở ra, một người tớ trai khỏe mạnh bước ra đỡ dây cương lừa. Sinh vào, thấy nhà cửa hoa lệ, trên sảnh thắp đèn sáng trưng. Ngồi giây lát thì có người đàn bà ra hỏi tên họ khách, sinh nói rõ. Hồi lâu có mấy tỳ nữ đỡ một bà già ra, nói “Quận quân tới”. Sinh đứng lên định vái lạy, bà già ngăn lại bảo ngồi rồi hỏi “Ngươi là cháu nội của Phùng Vân Tử phải không?", sinh đáp "Thưa phải". Bà già nói “Vậy thì ngươi là cháu gọi lão thân bằng bà mợ. Thân già như chuông câm lậu cạn, đến cuối đời họ hàng ruột thịt cũng không ai lui tới”. Sinh nói "Cháu lúc nhỏ mồ côi cha, những người lui tới với ông nội mười phần không biết một nên chưa được chào bà, xin chỉ bảo cho” Bà già nói "Rồi cháu sẽ tự rõ". Sinh không dám hỏi nữa, ngồi đối diện bà già trầm tư. Bà già hỏi "Sao cháu lại nửa đêm tới đây?”, sinh bèn khoe khoang mình gan dạ, kể rõ những chuyện đã qua. Bà già cười nói “Đó là việc mừng lớn, huống hồ cháu là danh sĩ, chẳng có gì làm nhà thông gia phải xấu hổ mà con chồn tinh nhà quê sao dám làm cao như thế? Cháu đừng lo, để ta thu xếp cho". Sinh vâng dạ cám ơn, bà già quay lại hỏi tả hữu "Ta không biết con gái họ Tân lại có đứa xinh đẹp như thế đấy". Một tỳ nữ nói “Y có mười chín con gái, người nào cũng xinh xắn, không rõ quan nhân định hỏi người nào?”. Sinh đáp “Là người khoảng mười lăm tuổi". Người tỳ nữ nói "Vậy là cô Mười bốn, ba hôm trước từng theo mẹ tới đây chúc thọ Quận quân, Quận quân quên rồi sao?". Bà già cười nói "Phải là người kết hột sen làm giày cao gót, trong chứa bột thơm, ngoài bọc sa mỏng mà đi không?”, người tỳ nữ đáp "Thưa phải". Bà già nói "Con nhãi ấy biết làm ra vẻ quyến rũ khéo lắm, nhưng quả là xinh đẹp, cháu ta thưởng lãm không sai", rồi lập tức bảo "Sai thằng Mèo Con gọi nó tới đây". Người tỳ nữ đó vâng dạ đi ra, lát sau quay vào bẩm "Đã gọi được cô Mười bốn nhà họ Tân tới", liền thấy cô gái áo đỏ bước vào phủ phục làm lễ, bà già kéo dậy nói “Sắp làm vợ cháu ta, không nên làm lễ như tỳ nữ thế nữa". Cô gái thướt tha đứng lên, hai tay áo đỏ rủ xuống, bà già sửa mái tóc cho, sờ đôi hoa tai của nàng hỏi "Gần đây Tân Mười bốn ở nhà làm gì?”. Nàng đáp khẽ "Lúc rảnh con chỉ thêu thùa” rồi quay đầu thấy sinh, có vẻ ngượng ngập bối rối. Bà già nói "Đó là cháu ta, nó có ý tốt muốn kết duyên với con, sao lại để nó lạc đường, đêm khuya thất thểu trong khe núi thế?”, nàng cúi đầu im lặng. Bà già nói "Ta gọi con tới đây không có chuyện gì khác, chỉ là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi”, nàng vẫn im lặng. Bà già sai quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức, cô gái thẹn thùng nói “Xin cho con về thưa với cha mẹ". Bà già nói "Ta làm mai cho con thì còn có gì sai sót chứ?”. Nàng thưa "Quận quân ra lệnh thì cha mẹ con phải vâng lời chứ đâu đám trái, nhưng qua quít thế này thì con dù chết cũng không dám vâng mệnh". Bà già cười nói “Con bé này chí khí cứng cỏi, thật xứng đáng làm vợ cháu ta", bèn rút một chiếc thoa vàng trên tóc nàng đưa cho sinh làm tin, bảo về chọn ngày lành giờ tốt làm lễ cưới. Rồi sai tỳ nữ đưa nàng về, nghe xa xa có tiếng gà gáy lại sai dắt lừa tới tiễn sinh ra. Sinh đi được vài bước, ngoảnh lại thì nhà cửa xóm làng đã biến mất, chỉ thấy cây cối um tùm, cỏ hoang mộ lở mà thôi, định thần ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra chỗ đó là mộ quan Thượng thư họ Tiết. Tiết vốn là em bà nội sinh nên gọi sinh là cháu. Lúc ấy sinh biết mình đã gặp ma, nhưng không hiểu cô Tân Mười bốn là ai. Bèn than thở quay về, chọn bừa một ngày tốt chờ nhưng vẫn thầm ngờ vực lời hẹn của ma quỷ khó tin, lại tới ngôi chùa cổ xem thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm thì người ở đó nói trong chùa thường có hồ quy. Sinh nghĩ thầm nếu được vợ đẹp thì có là hồ cũng tốt. Đến ngày đã định liền cho dọn phòng quét ngõ, sai người nhà thay phiên nhau ra ngóng, đến nửa đêm vẫn yên ắng, sinh đã hết trông chờ. Giây lát nghe ngoài cổng ồn ào, lật đật ra xem thì kiệu hoa đã ngừng ở sân, hai a hoàn đỡ cô gái vào phòng, của hổi môn không có gì đáng giá chỉ có hai người tớ trai khiêng một cái phốc mãn to bằng cái khạp ghé vai đặt xuống góc phòng khách. Sinh mừng được vợ đẹp, không nghĩ gì tới việc khác loài, nhân hỏi cô gái "Một người đã chết như vậy sao nhà nàng quá phục tùng thế?”. Nàng đáp “Quan Thượng thư họ Tiết hiện làm Ngũ Đô Tuần hoàn sứ, hồ quỷ trong vài trăm dặm đều phải theo hầu, nên ít khi về mộ". Sinh nhớ cái ơn làm mối, hôm sau tới tế mộ ông bà, lúc về thấy hai tỳ nữ đem tới một cuộn gấm mừng, đặt lên bàn rồi đi. Sinh kể lại cho cô gái, nàng xem cuộn gấm rồi nói "Đây là vật của quận quân đấy". Trong huyện có công tử con quan Thông chính ty họ Sở, thuở nhỏ học chung với sinh, chơi bời thân mật, nghe sinh cưới được vợ hồ liền đem thức ăn tới, sinh lập tức ra sảnh đường nhận rượu mừng. Vài hôm sau công tử lại bày tiệc mời, cô gái nghe chuyện nói với sinh “Hôm trước công tử tới, thiếp nhìn trộm qua kẽ vách thấy người ấy mắt vượn mũi ưng không thể thân cận, chàng đừng đi", sinh nghe theo. Hôm sau công tử tới trách sinh lỗi hẹn, nhân khoe bài văn mới làm. Sinh bình phẩm có ý giễu cợt, công tử cả thẹn không vui, kế chia tay. Sinh vào phòng cười kể lại, cô gái buồn bã nói “Công tử độc ác như sài lang, không nên trêu chọc. Chàng không nghe lời thiếp thì sắp gặp tai vạ rồi” sinh cười xin lỗi nàng. Sau đó sinh gặp công tử thì cười đùa vui vẻ, chuyện xích mích trước dần tiêu tan. Gặp lúc có kỳ thi ở dinh Đốc học, công tử đỗ đầu, vô cùng vui vẻ sai người mời sinh qua uống rượu, sinh từ chối, công tử sai mời mấy lần mới tới. Khi tới mới biết là ngày sinh nhật của công tử, khách khứa đầy nhà, rượu thịt ê hề. Công tử đưa quyển thi cho sinh xem, bạn bè đua nhau ca tụng. Rượu được vài tuần, dàn nhạc ra tấu dưới thềm, tiếng đàn sáo tưng bùng, chủ khách đều rất vui vẻ. Bỗng công tử nói với sinh “Lời ngạn có câu Trong trường chớ bàn văn chương hơn kém, nay mới rõ câu ấy là sai. Sở dĩ mới rồi tiểu sinh may mắn đỗ trên ông là nhờ vài câu khởi đề cao hơn một bực mà thôi". Công tử nói xong, cả tiệc đều cất tiếng khen ngợi. Sinh đang say không nhín được, cười rộ nói “Mãi đến nay ông mới nhờ văn chương mà thành đạt tới mức ấy à?". Sinh nói xong cả tiệc đều tái mặt, công tử vừa thẹn vừa uất. Khách khứa lần lượt ra về, sinh cũng lẩn đi. Khi tỉnh rượu hối hận bèn kể lại cho vợ, nàng không vui, nói "Chàng thật là gã thôn phu quê mùa! Phàm lấy thái độ khinh bạc đối xử với bậc quân tử thì tổn đức, đối xử với kẻ tiểu nhân thì hại thân, tai họa sắp tới cho chàng không còn xa đâu. Thiếp không nỡ thấy chàng lưu lạc, từ nay xin giã biệt". Sinh lo sợ sa nước mắt tỏ ý ăn năn, nàng nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì chàng phải hứa là từ nay trở đi đóng cửa tuyệt hết bạn bè, không uống rượu say sưa nữa”, sinh kính cẩn theo lời. Cô Mười bốn tính cần kiệm hơn người, hàng ngày thường lo việc canh cửi, có lúc về thăm nhà nhưng không bao giờ ở lại qua đêm. Có khi lại xuất tiền buôn bán, hàng ngày có lời thì bỏ vào cái phốc mãn. Ngày ngày đóng cửa, ai tới thăm viếng cững bảo gia nhân ra từ tạ không tiếp. Hôm sau, công tử họ Sở gửi thư tới, nàng đốt bỏ không cho sinh biết. Lại hôm sau sinh vào thành điếu tang, gặp công tử ở nhà tang chủ, công tử nắm tay lôi kéo mời mọc, sinh thác cớ không đi. Công tử sai mã phu nắm cương ngựa sinh kéo đi, tới nhà công tử lập tức sai bày tiệc, sinh lại cáo từ muốn về sớm. Công tử nhất định giữ lại, lại gọi ban nhạc trong nhà ra đàn hát giúp vui. Sinh vốn không chịu bị gò bó, từ khi phải đóng cửa ở lỳ trong nhà rất lấy làm buồn bực, gặp bữa rượu lớn chợt nổi hứng không nghĩ gì tới ý trước nữa, cứ thả sức uống đến lúc say mèm lăn ra luôn bên bàn tiệc. Vợ công tử là Nguyễn thị rất hung dữ ghen tuông, đám tỳ thiếp không dám trang điểm son phấn. Hôm trước có một nàng hầu vào phòng sách của công tử bị Nguyễn thị bắt được, cứ lấy gậy đập vào đầu, nàng ấy vỡ đầu chết ngay. Công tử vẫn căm giận vì bị sinh chế giễu, hàng ngày nghĩ cách báo thù, bèn mưu phục rượu cho say để vu cáo. Nhân lúc sinh say ngủ, liền khiêng cái xác nàng hầu lên giường rồi khép cửa bỏ đi. Đến canh năm sinh tỉnh mới biết mình ngủ trên ghế bèn dậy tìm giường, thấy có vật mềm mềm vướng chân, mò xem thì là người. Bụng nghĩ chắc chủ nhân cho tiểu đồng ngủ chung để chăm sóc hầu hạ, nhưng lay gọi sờ nắn thì bất động mà cứng đờ, cả sợ ra cửa la ầm lên. Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác chết liền bắt sinh đánh dập. Công tử tới giả xem xét xác chết rồi vu cho sinh cưỡng gian giết nàng hầu của mình, giải nộp lên huyện Quảng Bình. Hôm sau cô Mười bốn mới biết chuyện, khóc nói “Ta đã biết trước là sẽ có ngày hôm nay mà", rồi hàng ngày gởi tiền bạc cho sinh. Sinh gặp quan Phủ doãn không có lý lẽ gì để minh oan nên sớm chiều bị tra khảo đánh đập tuột da nát thịt. Cô gái vào ngục thăm, sinh gặp nàng nghẹn ngào đau đớn không nói nên lời. Nàng biết đã mắc vào mưu sâu bèn khuyên cứ nhận tội bừa cho khỏi bị tra tấn đau đớn, sinh khóc nghe theo. Nàng ra vào trong ngục mà người cách nhau gang tấc cũng không nhìn thấy, về nhà thở dài buồn bã, đuổi hết tớ gái ra ngoài, ở trong phòng một mình liền mấy ngày. Kế nhờ bà mối mua giùm một cô gái nhà dân tên Lộc Nhi, tuổi vừa cập kê, nhan sắc khá đẹp, cho ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, yêu mến khác hẳn đám tỳ thiếp trong nhà. Sinh nhận tội ngộ sát bị kết án thắt cổ, người lão bộc nghe tin chạy về khóc lóc kể không ra tiếng, nhưng nàng thản nhiên như không để ý. Kế sắp đến ngày đem xử những tù phạm bị kết án tử hình, nàng mới nhớn nhác vội vã, ngày đi đêm về không lúc nào nghỉ ngơi, lúc vắng người thì ngồi buồn rầu, bỏ cả ăn ngủ. Một hôm trời vừa sập tối, chợt con hồ tỳ tới, nàng vội đứng lên dắt vào phòng kín trò chuyện, lúc quay ra thì có vẻ hón hở, lại coi sóc việc nhà như ngày thường. Hôm sau người lão bộc vào ngục thăm, sinh gởi lời vĩnh biệt nương tử, người lão bộc về thuật lại, nàng ậm ừ mà cũng chẳng có vẻ đau thương buồn bã, chỉ lạnh lùng mặc kệ, tôi tớ đều lén chê là nàng nhẫn tâm. Chợt khắp nơi đồn đại quan Thông chính sứ họ Sở bị cách chức, quan Quan sát Bình Dương vâng đặc chỉ xét lại vụ án Phùng sinh. Lão bộc nghe tin, mừng rỡ vào nói với bà chủ. Nàng cũng mừng, lập tức sai lão bộc lên phủ thăm dò, thì sinh đã ra khỏi ngục, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Giây lát thấy công tử bị bắt giải tới, chỉ tra hỏi một lượt là biết hết nội tình, sinh được tha ngay về. Về tới nhà, sinh vừa nhìn thấy vợ vùng sa nước mắt, nàng cũng chua xót. Sinh buồn rồi lại vui, nhưng rốt lại vẫn không rõ nhờ đâu mà vua biết được. Nàng cười chỉ con hồ tỳ nói "Đây là công thần của chàng đấy", sinh mới kinh ngạc hỏi han. Trước là nàng sai con hồ tỳ lên yên Kinh, muốn vào cung vua kêu oan cho sinh nhưng tới nơi thấy trong cung có thần canh giữ, cứ quanh quẩn ngoài ngự câu mấy tháng không vào được. Nó sợ hỏng việc, toan về bàn tính lại, chợt nghe tin Thiên tử sắp ngự giá tới huyện Đại Đồng (tỉnh Sơn Tây), liền tới đó trước, giả làm con hát rong. Vua tới kỹ viện gặp nó rất thương yêu, tỏ ý ngờ không phải là kẻ phong trần, nó bèn cúi đầu khóc lóc. Vua hỏi có chuyện gì oan khổ, con hồ tỳ tâu "Thiếp vốn quê ở huyện Quảng Bình, con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan sắp bị xử tử nên bị bán vào kỹ viện”. Vua nghe thấy buồn bã thương xót, ban cho một trăm lượng vàng, lúc ra về lại hỏi kỹ đầu đuôi câu chuyện, lấy giấy bút ghi lại tên họ, lại nói muốn đưa nó về cùng chung hưởng phú quý. Con hồ tỳ nói chỉ muốn cha con đoàn tụ chứ không mong được hưởng giàu sang, vua gật đầu rồi đi. Con hồ tỳ kể lại cho sinh nghe, sinh vội vái lạy tạ ơn, nước mắt lưng tròng. Không bao lâu sau, cô gái chợt nói với sinh "Thiếp không vì tình duyên thì đâu phải chịu cảnh phiền não thế này. Lúc chàng bị giam, thiếp chạy chọt khắp cả họ hàng thân thuộc mà không một ai bàn tính giùm mưu kế gì, lúc ấy trong lòng chua cay, thật không thể nói ra. Nay thấy chán ghét tục lụy, đã tìm sẵn cho chàng một người vợ hiền, vậy từ đây xin giã biệt”. Sinh nghe lạy phục xuống đất khóc lóc không chịu đứng lên, cô gái mới ở lại. Đến đêm nàng sai Lộc Nhi qua với sinh, sinh nhất định từ chối. Sáng hôm sau thấy cô Mười bốn dung mạo sút hẳn, hơn một tháng thì già sọm đi, nửa năm thì mặt nám da đen như bà già nhà quê, nhưng sinh vẫn kính mến không khác trước. Chợt cô gái lại đòi từ biệt, nói “Chàng đã có vợ đẹp rồi, cần gì tới con quỷ già này?” sinh lại khóc giữ lại như trước. Qua tháng sau, cô gái phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống nằm liệt. Sinh hôm sớm thuốc thang như lo cho cha mẹ, nhưng thuốc men bùa chú gì cũng vô hiệu, kế nàng chết. Sinh đau thương muốn chết theo luôn, liền lấy số vàng của con hồ tỳ được vua ban cho trước kia lo việc chôn cất. Vài hôm sau con hồ tỳ cũng đi. Sinh bèn lấy Lộc Nhi làm vợ, hơn một năm sinh được một trai. Nhưng sinh đi thi mấy khoa liền không đỗ mà gia cảnh ngày càng sa sút, vợ chồng không biết làm sao, chỉ nhìn nhau buồn rầu. Chợt nhớ tới cái phốc mãn trong góc nhà, thường thấy cô Mười bốn bỏ tiền vào trong, không biết có còn không? Tới xem thì nồi niêu chai lọ bày la liệt ở trên, phải nhấc cả ra rồi lấy đũa chọc thử nhưng không chọc vào được, bung lên đập vỡ thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà, nhờ thế bỗng chốc sinh lại trở thành sung túc. Về sau người lão bộc tới núi Thái Hoa, gặp cô Tân Mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tỳ cưỡi lừa theo sau, hỏi "Phùng lang bình yên chứ?”, lại dặn "Về nói cho ông chủ biết là ta đã thành tiên rồi", nói xong thì biến mất. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Những lời khinh bạc phần lớn là do các kẻ sĩ nói ra, đó là điều bậc quân tử than tiếc. Ta từng mạo cái danh không thật, nói là oan uổng thì cũng đã lỡ rồi, song chưa từng không khắc khổ tự khích lệ mình để gượng dự vào hàng quân tử, còn chuyện họa hay phúc thì không dự bàn. Như Phùng sinh chỉ lỡ lời một câu mà mấy lần suýt mất mạng, nếu không phải là trong nhà có người tiên thì làm sao thoát khỏi ngục tù mà sống lại ở đời? Thật đáng sợ thay! [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 86 - 88 -[/B] Bạch Liên Giáo (Bạch Liên Giáo) Bạch Liên giáo[B]*[/B] có Mỗ người tỉnh Sơn Tây, không rõ tên họ, đại khái là đệ tử của Từ Hồng Nho[B]**[/B], dùng yêu thuật mê hoặc dân chúng, có nhiều người hâm mộ phép thuật nhận y làm thầy. Có hôm Mỗ đi vắng, đặt một cái chậu trong sảnh đường, lại lấy một cái chậu khác úp lên, dặn một người học trò ngồi giữ nhưng không được mở ra nhìn. Mỗ đi rồi, trò mở ra xem thì thấy trong chậu đựng nước trong, trên mặt nước có một chiếc thuyền kết bằng cỏ đủ cả cánh buồm bánh lái, lấy làm lạ đưa ngón tay khều, chiếc thuyền nghiêng đi một cái rồi nổi lại như cũ, bèn úp chậu lại. Kế thầy về hỏi sao dám trái lời ta, trò ra sức biện bạch là không hề mở ra, thầy nói "Vừa rồi thuyền đi trên biển suýt bị lật, còn dám dối ta à?". * Bạch Liên giáo: tên một tổ chức quần chúng mang hình thức tôn giáo xuất hiện ở Trung Quốc cuối thời Nguyên, liên tục bị giai cấp phong kiến từ Nguyên đến Minh, Thanh đàn áp nhưng vẫn tồn tại với tôn chỉ chống chính quyền. Tổ chức này có nhiều người dùng võ nghệ, thuốc men, ảo thuật để tập hợp nhân dân, nên thường bị coi là tà giáo. **Từ Hồng Nho: xem truyện Bạch Liên giáo, quyển Thập di. Lại một đêm thầy đốt đuốc cắm trên sảnh đường, dặn phải giữ đừng để gió thổi tắt rồi ra đi. Hết canh một thầy vẫn chưa về, trò mệt mỏi lên giường nằm ngủ, thức giấc thì đuốc đã tắt ngấm vội đứng dậy đốt lên. Kế thầy vào, lại trách mắng, trò nói "Con vốn không hề ngủ, làm sao đuốc tắt được?”. Thầy tức giận nói "Mới rồi ta phải đi thầm hơn chục dặm, lại còn cãi à?” trò cả sợ. Những việc làm kỳ lạ như thế rất nhiều, không thể chép ra hết được. Sau người ái thiếp của Mỗ tư thông với một người học trò, Mỗ biết nhưng để bụng không nói ra, sai trò đi cho heo ăn. Trò bước vào chuồng heo thì ngã lăn ra đất biến thành con heo, Mỗ lập tức gọi đồ tể tới giết thịt đem bán, không ai biết cả. Cha người ấy không thấy con về tới hỏi, Mỗ chối nói là lâu lắm không thấy tới, người cha quay về tìm kiếm khắp nơi không có tin tức gì. Có người học trò khác của Mỗ ngầm biết việc đó lén nói cho người cha, người cha lên báo với quan huyện. Quan huyện sợ Mỗ trốn thoát, không dám đi bắt, bẩm lên quan trên xin phát một ngàn giáp sĩ kéo tới vây nhà, bắt được cả Mỗ lẫn vợ con nhốt vào lồng sắt, định giải lên kinh. Đi ngang núi Thái Hàng, trong núi có một người to lớn bước ra, cao như cây lớn, mắt như cái tô, miệng như cái chậu, răng dài hơn thước, quân sĩ hoảng sợ đứng ngây ra không dám đi. Mỗ nói "Đó là yêu quái, vợ ta có thể đuổi được", quân sĩ theo lời cởi trói cho vợ Mỗ. Vợ Mỗ vác giáo xông tới, người to lớn tức giận vồ lấy nuốt chửng, mọi người càng sợ hãi. Mỗ nói "Nó đã giết được vợ ta, thì phải con trai ta ra mới xong", quân sĩ lại thả con trai Mỗ ra, nhưng cũng bị nuốt sống như thế. Mọi người nhìn nhau không biết làm sao. Mỗ khóc lóc rồi giận dữ nói “Đã giết vợ ta, lại giết con ta làm sao nhịn được? Nhưng không phải đích thân ta ra thì không xong”. Mọi người quả nhiên lại thả Mỗ ra khỏi lồng sắt, trao cho thanh đao bảo tới đánh. Người to lớn giận dữ xông tới, tay không ác đấu một lúc thì vươn tay chụp lấy Mỗ đút vào miệng, rướn cổ ra nuốt xuống rồi ung dung bỏ đi. [B]087. Tướng Công Hồ Tứ [/B] [B] (Hồ Tứ Tướng Công)[/B] Trương Hư Nhất ở huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) là anh Học sứ Trương Đạo Nhất, tính hào sảng tự tin. Nghe nói ngôi nhà của người nọ trong huyện bị hồ chiếm ở, bèn mang danh thiếp tới yết kiến mong được gặp một lần. Nhét danh thiếp vào khe cửa một lúc thì cánh cổng tự mở, đầy tớ sợ hãi lui lại. Trương sửa áo kính cẩn bước vào, thấy trong sảnh đường đủ cả bàn ghế nhưng vắng ngắt không có một ai, bèn vái dài khấn rằng "Tiểu sinh trai giới tới đây, thượng tiên đã không nỡ từ chối ngay từ cổng, sao không ban ơn cho thấy mặt?”. Chợt nghe có tiếng người nói "Làm phiền ông lặn lội giá lâm, đã nghe tiếng bước chân rồi, xin mời ngồi xuống dạy dỗ cho", lập tức thấy hai chiếc ghế di động tới đối mặt với nhau. Trương vừa ngồi lập tức có cái khay đỏ sơn đen đựng hai chung trà lơ lửng tới trước mặt, mỗi bên cầm một chén lên uống, nghe tiếng thổi, tiếng hớp nước nhưng vẫn không thấy người. Uống trà xong, kế có rượu dọn ra, Trương hỏi lai lịch, hồ đáp "Đệ họ Hồ, bày hàng thứ tư, bọn tùy tùng gọi là Tướng công". Rồi đó uống rượu trò chuyện, thấy rất hợp nhau. Thấy chả ba ba, khô thịt nai, rau sống liên tiếp đưa lên, như có rất nhiều người hầu rượu. Trương uống rượu xong đang muốn uống trà, vừa nghĩ xong đã có trà thơm phức đặt lên bàn, cứ vừa nghĩ cần món gì thì lập tức món đó đã được mang tới. Trương thích lắm, uống say mới về. Từ đó cứ ba bốn hôm lại đến thăm Hồ một lần, Hồ cũng thường tới nhà Trương như qua lại đáp lễ. Một hôm Trương hỏi “Có bà đồng ở nam thành vẫn khoe nhà có thần hồ mà lấy tiền người bệnh, không rõ ông có quen hồ nhà ấy không?". Hồ đáp "Mụ ta bịa đấy, không có hồ thật đâu”. Lát sau Trương đứng dậy đi tiểu, nghe thấy tiếng nói nhỏ "Vừa rồi nghe nói tới bà đồng có hồ ở nam thành, chẳng biết ra sao. Tiểu nhân muốn theo tiên sinh tới xem, xin tiên sinh nói với chủ nhân một câu”. Trương biết đó là đám hồ nhỏ, bèn gật đầu nói “Được rồi”. Rồi quay vào chỗ ngồi nói với Hồ rằng "Ta muốn mượn hai ba người hầu dưới trướng tới xem thư bà đồng có hồ, xin ông ra lệnh”. Hồ cứ nói không cần, Trương năn nỉ mấy lần mới ưng thuận. Kế Trương ra thì ngựa tự tới như có người nắm cương dắt đi, khi lên ngựa đi thì dọc đường hồ nói với Trương "Từ nay tiên sinh đi đường thấy cát nhỏ bắn lên vạt áo tức là có bọn ta đi theo đấy”. Nói tới đó thì vào thành, tới nhà bà đồng nọ. Bà đồng thấy Trương tới, tươi cười ra đón, nói “Sao quý nhân lại bất ngờ quang lâm?". Trương hỏi "Nghe nói ông hồ trong nhà bà linh thiêng lắm phải không?". Bà đồng nghiêm sắc mặt dáp "Người sang cả không nên nói lời khinh bạc, sao lại nói là ông hồ? E rằng bà chị xinh đẹp nhà ta không vui đâu!". Chưa dứt lời thì có nửa viên gạch ném tới trúng tay, bà đồng giật mình nhảy dựng lên, hoảng sợ hỏi Trương "Sao quan nhân lại ném gạch vào già?". Trương cười nói “Bà già mù rồi, đó là gạch ngói trên nóc nhà bà lở xuống, định vu oan cho người ngoài à?”. Bà đồng ngạc nhiên không biết viên gạch từ đâu bay tới, đang dáo dác ngó quanh lại bị một hòn đá ném trúng đầu ngã lăn ra, kế bị bùn đất cứt đái ném xuống tới tấp, mặt mày lấm lem như quỷ, chỉ kêu gào xin tha mạng. Trương xin đám hồ nhỏ tha cho, chúng mới dừng tay. Bà đồng vội vùng dậy chạy tuốt vào phòng đóng chặt cửa không dám ra nữa. Trương gọi hỏi "Hồ của ngươi bằng hồ của ta không?", bà đồng chỉ rối rít xin lỗi. Trương ngẩng đầu lên không bảo đừng ném nữa, bà đồng mới dám run rẩy bước ra, Trương cười an ủi vài câu rồi về. Từ đó Trương đi một mình trên đường mà thấy cát bụi bắn lên áo thì gọi hồ cùng trò thuyện, lần nào cũng có bên cạnh, nhờ thế chẳng sợ gì sói cọp trộm cướp. Cứ thế nửa năm, ngày càng thân thiết với đám hồ. Thường hỏi tuổi, cả bọn đều không nhớ rõ, chỉ nói rằng từng thấy Hoàng Sào[B]*[/B] làm phản nhưng cũng chỉ như vừa hôm qua. *Hoàng Sào: lãnh tụ nông dân cuối thời Đường, theo Phương Tiên Chi khởi nghĩa rồi thay Tiên Chi lãnh đạo, từng đánh chiếm Trường An, xưng hiệu Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, chống nhà Đường trong thời gian 874-884. Một đêm đang cùng trò chuyện chợt nghe đầu tường có tiếng hú lớn rất ghê rợn, Trương lấy làm lạ, Hồ nói "Đó ắt là anh ruột ta". Trương hỏi "Vậy sao không mời vào chơi?", Hồ đáp "Y tệ lắm, chỉ thích trộm cắp gà qué mà ăn, cứ mặc kệ y là xong". Trương nói với Hồ "Giao du thân thiết như hai chúng ta có thể nói là không ngờ vực gì nhau, thế mà chưa lần nào được thấy mặt ông, nghĩ thật đáng hận". Hồ đáp "Chỉ cần chơi thân với nhau là được rồi, thấy mặt làm gì?”. Một hôm Hồ bày tiệc mời Trương, nói xin cáo biệt. Trương hỏi định đi đâu, Hồ đáp "Đệ có sản nghiệp ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), định về lại đó. Ông vẫn hận việc đối diện không thấy mặt, nay xin nhìn qua người bạn mấy năm một lần để ngày sau còn nhận ra nhau”. Trương nhìn quanh không thấy gì, Hồ nói "Ông cứ vén rèm cửa phòng ngủ ra là thấy đệ". Trương theo lời vén rèm lên, thấy có một thiếu niên đẹp trai đang nhìn mình cười, phục sức sang trọng, mày mắt như vẽ, chớp mắt không thấy đâu nữa. Trương quay người bước ra thì có tiếng giày lẹp kẹp phía sau, nói "Hôm nay ông hết hận rồi nhé". Trương lưu luyến không nỡ chia tay, Hồ nói "Tan hợp là có số, băn khoăn làm gì?". Rồi lấy chén lớn mời rượu, đến nửa đêm mới sai lấy đèn lồng đưa Trương về. Sáng ra Trương tới xem, thì chỉ có nhà không vắng ngắt mà thôi. Về sau tiên sinh Trương Đạo Nhất làm quan Học sứ ở Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên), Trương vẫn nghèo như trước bèn tới thăm em, cũng mong được biếu thật nhiều. Hơn tháng trở về, được biếu quá ít so với lòng mong mỏi, trên ngựa cứ thở vắn than dài như vợ chết. Chợt có một thiếu niên cưỡi ngựa Thanh câu từ sau đuổi theo, Trương nhìn thấy áo đẹp ngựa khỏe, dáng vẻ rất phong nhã, bèn trò chuyện qua loa. Thiếu niên thấy Trương có vẻ buồn bã bèn hỏi, Trương cũng thở dài kể lại nguyên do, thiếu niên cũng tìm lời an ủi. Cùng đi hơn một dặm, tới ngã ba thiếu niên chắp tay chào nói "Phía trước có người gởi ông một vật của cố nhân, xin vui lòng nhận cho”, định hỏi lại thì đã phóng ngựa đi thẳng, Trương cũng chẳng hiểu là có ý gì. Lại đi hai dặm, gặp một người đầy tớ cầm cái rương nhỏ đón trước ngựa đưa lên nói “Tướng công Hồ Tứ kính gởi tiên sinh", Trương lúc ấy mới chợt hiểu ra. Bèn đón lấy mở ra xem, thì bên trong toàn bạc nén trắng xóa, nhìn lại người đầy tớ thì không biết đã đi đâu mất. [B]088. Cừu Đại Nương [/B] [B](Cừu Đại Nương)[/B] Cừu Trọng người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) không rõ phủ huyện, gặp loạn bị giặc bắt đi. Có hai trai là Phúc và Lộc còn nhỏ, vợ kế là Thiệu thị chăm sóc đôi trẻ mồ côi, may nhờ sản nghiệp của Trọng để lại cũng được ấm no, nhưng gặp mấy năm mất mùa liên tiếp, lại bị cường hào lấn áp đến nỗi không giữ được mà ăn. Chú của Trọng là Thượng Liêm thấy cháu dâu cải giá thì có lợi cho mình, thường khuyên lấy chồng nhưng Thiệu thị thề giữ chí không lay chuyển. Liêm ngầm hẹn với một nhà đại tộc, định cưỡng ép nàng, bàn bạc đã xong mà người ngoài vẫn không ai biết. Trong làng có tên Ngụy là kẻ gian giảo quỷ quyệt từ lâu có hiềm khích với nhà Trọng, có chuyện gì cũng nghĩ cách phá đám, nhân Thiệu thị ở góa bèn phao tin nhảm để bêu xấu. Nhà đại tộc nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức bèn thôi. Lâu ngày mưu của Liêm và lời đồn đại bên ngoài cũng tới tai Thiệu thị, nàng buồn rầu uất sớm tối sa lệ dần dần tay chân tê bại nằm liệt giường. Phúc đã mười sáu tuổi, vì trong nhà không có người khâu vá nên vội lo việc lấy vợ, hỏi cưới con gái Tú tài Khương Dĩ Chiêm, có tiếng hiền thục đảm đang, việc nhà đều nhờ nàng lo toan xếp đặt, nhờ vậy nhà cũng hơi dư dật, bèn cho Lộc đi học. Ngụy ghen ghét nhưng làm ra vẻ thân thiện, nhiều lần mời Phúc uống rượu, Phúc thấy thế coi Ngụy như bạn thân. Ngụy nhân dịp nói “Lệnh đường bệnh nằm liệt giường không thể coi sóc việc nhà, chú em thì chỉ ngồi ăn không làm được việc gì, hai vợ chồng việc gì phải nai lưng ra làm trâu ngựa? Lại lúc chú em cưới vợ thì còn tốn kém nhiều nữa chứ. Tính kế cho ông chẳng bằng cứ sớm ra riêng, thì chú em sẽ phải nghèo chứ ông sẽ giàu có”. Phúc về bàn với vợ, vợ cho là nói bậy. Nhưng Ngụy cứ rủ rỉ xúi giục ngày này tháng khác, mưa dầm thấm sâu nên Phúc nghe theo, bèn nói thẳng ý ấy với mẹ. Mẹ tức giận chửi mắng, Phúc càng tức tối, cho rằng tiền bạc thóc gạo trong nhà chẳng qua chỉ là của người khác nên không ngó ngàng gì tới nữa. Ngụy thừa cơ rủ rê Phúc cờ bạc, thóc trong kho cứ vơi dần, vợ biết nhưng chưa dám nói, đến lúc hết thóc ăn, mẹ giật mình hỏi mới nói thật. Mẹ giận lắm nhưng không làm sao được, đành cho Phúc ra ở riêng. May là cô gái họ Khương hiền đức, sáng chiều vẫn qua lại lo cơm nước hầu hạ mẹ như trước. Phúc đã ra riêng càng không nể sợ gì nữa, thả sức cờ bạc, chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng vườn nhà cửa để trả nợ chơi bời mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi tiền bạc đã hết sạch, không còn cách nào bèn làm tờ gán vợ để vay tiền mà không ai chịu nhận. Trong huyện có Triệu Diêm La vốn là tên cướp lớn lọt lưới, ngang ngược nhất vùng nên không sợ Phúc nuốt lời, thản nhiên cho vay. Phúc cầm tiền đi, vài ngày thì thua sạch, đang ngần ngừ định bội ước thì Triệu đã trừng mắt nhìn. Phúc cả sợ, lừa dắt vợ tới giao cho Triệu. Ngụy nghe tin mừng thầm, chạy ngay tới nói với nhà họ Khương, rắp tâm làm cho họ Cừu lụn bại. Khương tức giận phát đơn kiện, Phúc sợ quá bèn bỏ trốn. Cô gái họ Khương tới nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc lớn chỉ muốn chết ngay. Triệu ban đầu còn dỗ dành nhưng nàng không nghe, kế ra oai quát nạt thì nàng càng mắng chửi, cả giận đánh đập nàng cũng không chịu khuất phục, rút trâm cài đầu tự đâm vào cổ họng, vội tới cứu thì đã lút vào thực quản, máu phun ra. Triệu vội lấy lụa băng bó cho nàng, còn nghĩ cứ để thong thả sẽ khuất phục được. Hôm sau có trát quan tới đòi, Triệu thản nhiên lên hầu như không có chuyện gì. Quan khám thấy vết thương của cô gái rất nặng, sai nọc Triệu ra đánh, nhưng đám lính cứ nhìn nhau không dám ra tay. Quan nghe đồn Triệu ngang ngược đã lâu, đến lúc ấy càng tin, cả giận gọi người nhà ra đánh Triệu chết luôn tại chỗ, Khương bèn cáng con gái về. Từ khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết Phúc hư hỏng tới mức ấy, gào khóc cơ hồ đứt hơi rồi nhắm mắt ngất đi. Bấy giờ Lộc mười lăm tuổi, một mình lúng túng không biết làm sao. Trọng có một gái con vợ trước là Đại Nương gả chồng xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm mà thức ăn vật dùng không vừa ý thì cãi vã với cha mẹ rồi giận dữ bỏ đi, Trọng vì thế giận ghét, lại vì đường xa nên có khi vài năm không một lần thăm hỏi. Lúc Thiệu thị bệnh nặng, Ngụy muốn gọi nàng tới để gây ra việc tranh giành của cải, gặp lúc có người lái buôn ở cùng làng với Đại Nương bèn thác cớ nhắn tin, lại mừng rằng nhà này thế là tan nát. Vài hôm sau quả nhiên Đại Nương dắt một đứa con nhỏ tới, vào nhà thấy em nhỏ hầu mẹ ốm, quang cảnh rất thảm đạm, bất giác mủi lòng. Nhân hỏi tới Phúc, Lộc kể hết đầu đuôi, Đại Nương nghe thấy giận nghẹn cổ nói “Nhà không có người lớn nên để cho người ta giày xéo đến như thế! Ruộng vườn nhà ta sao bọn ăn cướp dám lừa chiếm lấy?”. Rồi xuống bếp chụm lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, kế gọi em và con cùng ăn. Ăn xong giận dữ ra đi, tới huyện nộp đơn kiện bọn cờ bạc. Cả bọn sợ góp tiền đút lót Đại Nương, nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện. Quan cho bắt tên Giáp, tên Ất... đánh đòn quở trách nhưng không hỏi tới việc ruộng vườn. Đại Nương căm tức không thôi, dắt con lên thẳng lên quận. Quận thú rất ghét cờ bạc, Đại Nương hết sức bày tỏ nỗi cô khổ cùng tình trạng bị bọn cờ bạc lừa đảo, lời lẽ thống thiết. Quận thú động lòng, ra lệnh cho quan huyện truy thu ruộng vườn cấp lại cho chủ cũ và trừng phạt Cừu Phúc làm gương cho bọn hư hỏng. Sau khi nàng về, quan huyện được lệnh ráo riết thi hành nên nhà cửa ruộng vườn cũ lấy lại được hết. Lúc ấy Đại Nương góa chồng đã lâu, bèn bảo đứa con nhỏ về nhà, dặn phải theo anh lo làm ăn không được tới nữa. Đại Nương từ đó ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em, xếp đặt trong ngoài đâu vào đấy. Mẹ được an ủi rất nhiều, dần dần khỏi bệnh, việc nhà giao cả cho Đại Nương. Bọn cường hào trong làng có hơi lấn lướt thì nàng vác dao tới tận cửa cứng cỏi đấu lý, kẻ nào cũng phải nhụt. Hơn một năm thì ruộng vườn ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc men và thức ngon vật lạ gởi cho cô gái họ Khương. Lại thấy Lộc dần trưởng thành, nhiều lần dặn mối lái tìm nơi cưới hỏi. Ngụy nói với mọi người rằng "Sản nghiệp nhà họ Cừu đều giao cho Đại Nương, e rằng sau này không lấy lại được", mọi người tin theo nên không ai muốn kết thông gia với họ Cừu. Có công tử Phạm Tử Văn, nhà có khu vườn nổi tiếng nhất ở đất Tấn, các loại hoa quý trong vườn trồng dọc hai bên đường chạy thẳng vào nhà trong. Có người không biết lỡ đi vào, gặp lúc gia đình công tử đang ăn tiệc, ông nổi giận bắt trói bảo là kẻ trộm, đánh cho gần chết. Gặp tiết Thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Ngụy rủ đi chơi, dắt tới chỗ ấy. Ngụy vốn quen người coi vườn nên được cho vào, đi xem khắp cả đình tạ. Giây lát tới một chỗ nước khe chảy cuồn cuộn, có chiếc cầu vẽ lan can màu đỏ thông vào cánh cổng sơn đen, từ xa nhìn tới thấy hoa rậm như gấm, là nơi phòng sách của công tử. Ngụy lừa nói "Anh cứ vào trước, ta đi tiểu một chút". Lộc tin bèn bước lên, qua cầu vào cửa, tới một dãy viện thì nghe tiếng con gái cười nói. Vừa dừng chân thì có một tỳ nữ ra, nhìn thấy Lộc lập tức quay gót trở vào, Lộc mới sợ hãi bỏ chạy. Giây lát công tử bước ra quát người nhà lấy dây thừng đuổi bắt, Lộc bí quá nhảy luôn xuống khe. Công tử hết giận bật cười, sai đầy tớ xuống dắt lên. Thấy mặt mũi y phục của Lộc đều phong nhã, ông sai đem áo và giày ra cho thay rồi dắt vào một ngôi đình hỏi họ tên, thái độ hết sức niềm nở thân mật. Lát sau công tử đi nhanh vào trong rồi trở ra ngay, tươi cười dắt tay Lộc đi, qua cầu dần tới chỗ lúc nãy. Lộc không hiểu ý thế nào, dùng dằng không dám bước, công tử cố kéo vào. Thấy sau giậu hoa thấp thoáng có người đẹp nhìn trộm, vừa ngồi xuống thì các tỳ nữ dọn rượu lên. Lộc từ tạ nói "Trẻ con không biết gì, đi lầm vào chốn khuê các, được khoan xá là đã mừng lắm, chỉ mong được cho về sớm thì đội ơn vô cùng", nhưng công tử không nghe. Giây lát thức ăn bày lên la liệt, Lộc lại đứng lên từ tạ là đã no say rồi. Công tử kéo ngồi xuống, cười nói "Ta có một cái tên từ khúc, nếu ông đối được xin cho đi ngay”. Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói “Phách tên Chẳng hề giống”, Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối “Bạc đúc Biết làm sao". Công tử cười lớn nói "Quả đúng là Thạch Sùng!”[B]*[/B], Lộc không hiểu gì cả. *Công tử nói... Thạch Sùng: nguyên văn hai vế đối trên là "Phách danh Hồn bất tự, Ngân thành Một nại hà”. Vế trước lấy tích Chiêu Quân có chiếc đàn tỳ bà bị hỏng, sai làm chiếc khác, khi dâng lên thì bé hơn chiếc trước, Chiêu Quân cười nói "Chẳng hề giống chiếc trước” (Hồn bất tự), người sau nhân lấy đó đặt tên cho một bản nhạc, vì ngoa truyền nên có khi gọi là “Hồn phát tứ”. Vế sau lấy tích nhà Trương Tuần, Vương Tuấn thời Tấn có nhiều bạc, cho đúc thành hình quả cầu, mỗi quả là một ngàn lượng, gọi tên là "Biết làm sao" (Một nại hà), ý nói quá giàu có. Thạch Sùng là người thời Tấn, nổi tiếng phú gia địch quốc. Thì ra công tử có con gái tên Huệ Nương, xinh đẹp lại biết chữ, vẫn tìm chỗ gả chồng cho. Đêm trước nàng mơ thấy một người nói "Chồng ngươi là Thạch Sùng", hỏi ở đâu thì đáp "Ngày mai sẽ rơi xuống nước", sáng ra kể với cha, mọi người đều lấy làm lạ. Vừa gặp việc Lộc rất hợp với giấc mơ nên công tử mời vào nhà trong cho phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt. Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói "Tên phách nhạc là do tiểu nữ đặt ra, nghĩ mãi mà không đối được, nay mới được câu đối hay, cũng là duyên trời. Ta muốn để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho ông, vả lại tệ xá cũng không thiếu nơi ở, không dám làm phiền phải rước dâu”. Lộc bối rối từ tạ lại lấy cớ mẹ đang ốm không ở rể được. Công tử bảo cứ về bàn lại rồi sai mã phu thắng ngựa mang áo quần ướt đưa Lộc về. Về tới nhà Lộc kể với mẹ, mẹ sợ cho là việc bất tường, từ đó mới biết Ngụy là kẻ hiểm độc nhưng vì gặp việc dữ mà được điều lành nên cũng không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên xa lánh đừng giao thiệp với y nữa mà thôi. Qua vài hôm công tử lại cho người đến ngỏ ý với mẹ Lộc, rốt lại bà vẫn không dám nhận lời, Đại Nương bèn nhận lời rồi nhờ hai bà mối đi nộp sính lễ cho nhà công tử. Không bao lâu Lộc tới gởi rể ở nhà công tử, qua năm sau được vào học trường huyện nổi tiếng tài giỏi. Em vợ dần dần lớn lên, không kính trọng anh rể như trước nữa. Lộc tức giận bèn đưa vợ về nhà mình. Lúc ấy mẹ đã chống gậy đi lại được mấy năm liền nhờ có Đại Nương trông nom nên nhà cửa cũng khang trang. Cô dâu mới đã về, tớ trai tớ gái tấp nập, rõ ra có phong thái đại gia. Ngụy bị tuyệt giao lại càng ghen ghét, giận không vạch lá tìm sâu gì được để hãm hại, gặp lúc có bọn cướp lớn đang bị truy nã bèn vu cáo Lộc giấu diếm tiền bạc cho chúng, Lộc bị xử đày ra ngoài cửa ải. Phạm công tử đút lót từ trên tới dưới chỉ xin miễn cho Huệ Nương khỏi bị đi đày, còn ruộng vườn nhà cửa đều bị sung công. May là Đại Nương cầm giấy chia gia tài lên quan cãi lý, bao nhiêu ruộng vườn mới mua thêm đều đứng tên Phúc nên mẹ con mới được ở yên. Lộc nghĩ mình không trở về được nữa bèn làm giấy ly hôn đưa cha vợ rồi lẻ loi lên đường. Đi được vài ngày tới đất Bắc Đô, vào ăn trong quán, thấy có người ăn mày khép nép ngoài cửa, mặt mũi rất giống anh mình, ra hỏi thì đúng là anh. Lộc kể chuyện mình, anh em đều buồn thảm. Lộc mở hành lý chia cho Phúc ít tiền bảo về nhà. Phúc rơi lệ nhận rồi chia tay. Lộc tới cửa ải được sung làm lính hầu cho tướng quân, vì là học trò yếu ớt nên được giữ việc biên chép sổ sách, ăn ở chung với đám tôi tớ. Bọn họ hỏi han gia thế, Lộc kể hết, trong bọn có một người cả kinh nói "Đúng là con ta rồi". Thì ra Cừu Trọng ban đầu bị bọn cướp sai chăn ngựa, về sau chúng bỏ trốn, Trọng bị bắt đày ra cửa ải làm đầy tớ cho tướng quân. Trọng thuật lại rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau bèn ôm nhau khóc, mọi người đều mủi lòng. Không bao lâu, tướng quân bắt được vài mươi tên cướp lớn, trong có một tên chính là kẻ trước đây Ngụy vu cáo là bè đảng của Lộc. Kế lấy lời cung của y xong, hai cha con kêu khóc với tướng quân. Tướng quân dâng sớ rửa oan cho, vua biết chuyện bèn ra lệnh cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất trả lại họ Cừu, cha con đều mừng rỡ. Lộc hỏi số người trong nhà để tính cách chuộc mình cho cha mới biết từ khi theo hầu tướng quân Trọng đã hai lần lấy vợ mà không có con, lúc ấy lại vừa góa vợ. Lộc bèn sắm sửa hành trang về quê. Trước đó Phúc chia tay em về tới nhà, khúm núm sụp lạy xin chịu tội. Đại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, cầm gậy hỏi Phúc "Ngươi chịu đánh đòn thì có thể tạm cho ở lại còn không thì ruộng vườn nhà cửa của ngươi đã hết sạch, đây cũng không phải chỗ người xin ăn, mời xéo ngay!". Phúc khóc lạy xuống đất xin chịu đòn, Đại Nương vứt gậy xuống nói "Cái người đã bán vợ thì ta cũng chẳng thèm đánh đòn, nhưng án cũ vẫn chưa xóa, nếu tái phạm cứ báo quan thôi!", rồi lập tức cho người qua báo tin cho họ Khương. Cô gái họ Khương mắng "Ta là người gì của nhà họ Cừu mà phải báo tin!", Đại Nương cứ nhắc đi nhắc lại câu ấy để đay nghiến Phúc, Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng. Suốt nửa năm Đại Nương cho Phúc đủ ăn đủ mặc nhưng bắt làm việc như tôi tớ, Phúc cũng làm lụng không hề oán trách, có giao cho tiền bạc cũng không dám bừa bãi. Đại Nương xét thấy không có ý gì khác, bèn thưa với mẹ mời cô gái họ Khương về. Mẹ cho rằng không sao làm nàng hồi tâm lại được, Đại Nương nói "Không phải thế, nếu người ta chịu thờ hai chồng thì đã không tự chuốc lấy đau đớn khổ sở, chứ không thể không có nỗi uất hận ấy”, rồi dắt em trai qua chịu tội. Ông bà nhạc trách mắng hết lời, Đại Nương quát bắt Phúc quỳ xuống rồi mới xin gặp mặt cô gái. Mời ba bốn lần nàng vẫn khăng khăng từ chối không chịu ra, Đại Nương kéo ra thì nàng chỉ mặt Phúc mắng nhiếc. Phúc thẹn toát mồ hôi, không sao tha thứ được cho mình, bà Khương mới kéo Phúc, bảo đứng lên. Đại Nương xin cho biết ngày trở về, cô gái nói "Trước nay chịu ơn chị rất nhiều, nay chị dạy như thế đâu dám nói gì khác nhưng sợ không giữ được khỏi bị bán lần nữa. Vả chăng ân nghĩa đã dứt, còn mặt mũi nào ăn ở với đứa vô lại xấu xa ấy nữa? Muốn xin chị cho một chỗ ở riêng, thiếp qua đấy phụng dưỡng mẹ già còn hơn cạo đầu đi tu là đủ”. Đại Nương nói hộ là Phúc đã ăn năn, hẹn ngày mai qua đón rước rồi chào về. Sáng hôm sau cho kiệu qua đón cô gái về, mẹ ra đón ở cổng quỳ lạy, cô gái cũng sụp lạy khóc lớn. Đại Nương khuyên lơn an ủi, dọn tiệc ăn mừng, bảo Phúc ngồi cạnh bàn rồi nâng chén rượu nói “Ta tranh giành khổ sở không phải để mưu lợi cho mình. Nay em đã hối lỗi, vợ hiền đã trở về, xin đem sổ sách giao lại, ta tới tay không thì cũng về tay không". Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy, nghiêm trang vái lạy khóc lóc năn nỉ, Đại Nương bèn thôi. Không bao lâu lệnh rửa oan về tới, chỉ vài ngày ruộng vườn nhà cửa lại trở về chủ cũ. Ngụy kinh hãi không biết vì sao, tự giận mình không còn kế gì để thi thố. Gặp lúc nhà láng giềng phía tây bị cháy, Ngụy lấy cớ chữa cháy chạy qua, ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc, gió lại thổi mạnh cháy lan gần hết, chỉ còn hai ba gian nhà của Phúc, cả nhà phải ở chung vào đó ít lâu sau Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Lúc trước Phạm công tử nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc ròng xé nát vứt xuống đất, cha chiều ý không ép nữa. Lộc về nghe nỏi nàng chưa cải giá mừng rỡ tới nhà nhạc gia, công tử biết nhà Lộc vừa bị cháy, mượn giữ ở lại đó nhưng Lộc không chịu, cáo từ ra về. May là Đại Nương còn tiền cất được bèn đem ra sửa nhà, Phúc vác mai đi đào đất đắp nền, đào phải hầm tiền chôn. Đêm đến cùng em ra đào thì là một cái bể xây bằng đá rộng khoảng một trượng chứa đầy tiền đồng, nhờ đó mướn thợ xây nhà, lầu gác san sát tráng lệ sánh ngang nhà đại gia. Lộc nhớ ơn tướng quân, sắp ra ngàn vàng để chuộc cha. Phúc xin đi, nhà bèn cho đầy tớ khỏe mạnh theo hầu. Lộc đón Huệ Nương về, ít lâu sau cha và anh cùng về, cả nhà vui vẻ tưng bừng. Đại Nương từ khi về ở nhà mẹ thì cấm con tới thăm để tránh tiếng, nay cha đã về liền quyết ý xin đi, hai em không nỡ để chị đi. Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần con gái một phần. Đại Nương từ tạ không nhận, hai em rơi nước mắt nói "Hai em không có chị thì làm gì có được ngày nay!". Đại Nương bèn ở lại, sai người gọi con dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Đại Nương rằng chị em khác mẹ sao gắn bó như vậy, Đại Nương đáp "Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có cầm thú mới thế thôi? Là người sao lại bắt chước giống vật chứ". Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi sai thợ làm nhà cho Đại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình. Ngụy nghĩ hơn mười năm tìm cách gây họa mà hóa ra lại là tạo phúc cho người, rất hổ thẹn áy náy. Lại ngưỡng mộ họ Cừu giàu có, muốn làm thân bèn lấy cớ mừng Trọng mới về, đưa lễ vật qua mừng. Phúc muốn từ chối nhưng Trọng không nỡ phật ý bèn nhận gà rượu. Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, đám tôi tớ đều nhìn thấy nhưng chưa để ý. Lát sau đống củi bốc cháy, cả nhà hoảng sợ, may có đông người nhiều tay xúm lại dập tắt được ngay nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy sạch, anh em đều bảo đồ vật của Ngụy là không lành. Sau đó gặp ngày mừng thọ của Trọng, Ngụy lại biếu con dê, từ chối không được phải buộc dê vào gốc cây ngoài sân. Đến đêm có đứa tiểu đồng bị tên đầy tớ đánh, tức giận chạy ra gốc cây mở sợi dây buộc dê tự treo cổ chết. Anh em than rằng “Y làm phúc lại không bằng y gây họa", từ đó tuy Ngụy vẫn ân cần, nhưng nhà Trọng không dám nhận đến một sợi chỉ, chỉ đối xử với y thật tốt mà thôi. Sau Ngụy già nghèo khổ phải đi ăn mày, nhà họ Cừu vẫn lấy ơn trả oán, chu cấp cho cái ăn cái mặc. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ôi, tạo vật quả thật rất không theo ý người. Càng thù ghét thì càng đem phúc tới cho, sự gian trá của kẻ kia không thể nói là quá đáng được! Nhưng mong được y thương yêu kính trọng thì lại gặp tai họa, chẳng cũng lạ ư? Thế mới biết nước suối Đạo Tuyền[B]*[/B], vốc một vốc thì nhơ bẩn một vốc.[/I] * Đạo Tuyền: tên một con suối ở tỉnh Sơn Đông, "Đạo” có nghĩa là trộm cướp Tương truyền Khổng Tử đi ngang suối ấy khát nước nhưng không chịu uống vì ghét tên suối, người ta dùng tích này để chỉ việc kẻ quân tử tự trọng thân phận trong hành động. Đây có ý nói nên thận trọng trong việc giao du với người xấu. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top