Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Phong Cầm" data-source="post: 164987" data-attributes="member: 75012"><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 56 - 62</strong></p><p>Em Lấy Chồng Thay Chị</p><p>(Tỷ Muội Dịch Giá)</p><p></p><p>Tướng quốc họ Mao<strong>*</strong>ở huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ nhà nghèo, cha phải đi chăn trâu cho người ta. Lúc ấy nhà thế tộc họ Trương trong huyện có khu mộ ở sườn núi phía đông, có người đi qua nghe trong phần mộ có tiếng quát tháo "Các ngươi phải đi ngay, không được ở lâu trong ngôi đất của quý nhân". Trương nghe kể cũng chưa tin lắm, kế chợt nằm mơ thấy thần nói “Khu mộ của gia đình ngươi vốn là ngôi đất quý của ông Mao, sao lại mượn lâu thế?". Từ đó trong nhà liên tiếp gặp mấy chuyện rủi ro, có người môn khách khuyên nên dời mộ qua nơi khác thì hay, Trương nghe theo bèn cải táng.</p><p></p><p>*Tướng quốc họ Mao: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tự, tự Duy Chi, thi đỗ Giải nguyên năm Bính ngọ niên hiệu Thành Hóa thời Minh (1486), thi đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1487), làm quan tới chức Cẩn Thân điện Đại học sĩ, chết được truy tặng hàm Thái bảo.</p><p></p><p>Một hôm cha Tướng quốc đi chăn trâu, ra tới khu mộ cũ nhà họ Trương thì trời chợt mưa lớn, bèn núp dưới huyệt mộ cũ. Kế mưa càng lớn như trút, nước tràn xuống huyệt, đất lở sụp xuống nên chết đuối dưới đó. Lúc ấy Tướng quốc còn là trẻ con, bà mẹ bèn tới nhà Trương xin cho vài thước đất chôn cha đứa nhỏ. Trương hỏi biết họ tên lấy làm lạ, tới xem nơi cha ông chết thì thấy đất nổi lên như cái gò, càng thêm hoảng sợ bèn cho chôn luôn ở đó, lại bảo dắt đứa nhỏ tới. Chôn cất xong bà mẹ dắt con tới nhà Trương tạ ơn, Trương vừa nhìn thấy đã mừng rỡ, giữ lại ở nhà mình dạy cho học, coi như con cháu, lại xin gả con gái lớn cho. Bà mẹ sợ hãi không dám đáp, vợ Trương nói "Nếu đã nói ra thì không giữa chừng thay đổi đâu” bà mẹ bèn ưng thuận.</p><p></p><p>Nhưng con gái lớn Trương rất coi thường nhà họ Mao, oán hận hổ thẹn hiện ra nét mặt, nếu có ai nhắc tới chuyện đó thì bịt tai không thèm nghe, thường nói với người ta rằng "Ta thà chết chứ không lấy thằng chăn trâu”. Đến hôm làm lễ rước dâu, chàng rể đã vào ăn tiệc, kiệu hoa chờ ngoài cửa mà cô gái cứ lấy tay áo che mặt quay vào vách khóc lóc, giục trang điểm thì không chịu, khuyên giải mấy cũng không nghe. Kế chàng rể xin về, đàn sáo đã trỗi mà cô gái mắt còn ngấn lệ, tóc còn rối tung. Cha nàng bèn ngăn con rể lại, tự vào trong khuyên cô gái, nàng cứ khóc lóc như không nghe thấy, cha nổi giận lôi kéo càng khóc lớn, cha không biết làm sao.</p><p></p><p>Lại có người nhà vào thưa là chàng rể muốn lên đường, cha vội chạy ra nói "Áo quần còn chưa sắp xếp xong, xin con chờ thêm một lúc", rồi lại lập tức chạy vào xem con gái ra sao, chạy ra chạy vào không nghỉ chân. Dằng dai thêm một lúc, việc càng gấp rút, cô gái rốt lại vẫn không chịu đổi ý, cha không biết làm sao, định tự tử. Cô con gái thứ hai đứng bên cạnh, cho là chị làm thế rất không phải, ra sức khuyên lơn. Chị giận nói “Con nhãi cũng học đòi múa mép, sao ngươi không lấy người ta đi?," Cô em nói “Cha vốn chưa từng hứa gả em cho chàng Mao, chứ nếu cha hứa gả em cho chàng thì không cần chị phải khuyên dỗ đâu!”</p><p></p><p>Cha thấy lời nàng khẳng khái hào sảng bèn cùng mẹ nàng bàn riêng, định lấy em thay chị. Mẹ lập tức gọi nàng hỏi “Con nhãi ngỗ nghịch kia không vâng lời cha mẹ, cha mẹ mượn lấy con thay nó, con có chịu không?". Cô gái khẳng khái thưa "Cha mẹ dạy con đi lấy chồng, giả như chồng là ăn mày cũng không dám từ chối, vả lại chắc gì chàng họ Mao đã phải đói rét mà chết đâu?". Cha mẹ nghe thế cả mừng, bèn lấy quần áo cưới của chị cho cô gái mặc, rồi vội đưa nàng lên kiệu đi. Về tới nhà chồng, vợ chồng rất yêu thương nhau, nhưng cô gái có bệnh rụng tóc cứ nơm nớp lo ông chê, lâu sau ông nghe phong thanh chuyện tráo người nên lại càng cám ơn nàng là kẻ tri kỷ.</p><p></p><p>Không bao lâu, ông được lấy làm Giám sinh, đi dự thi hương, đường đi ngang qua quán trọ của Xá nhân họ Vương. Đêm trước chủ quán nằm mơ thấy thần nói "Sáng mai sẽ có Thủ khoa họ Mao tới đây về sau sẽ giúp ngươi thoát được tai ách", vì vậy dậy sớm ra đứng chờ những khách từ phía đông vào. Đến khi gặp ông mừng lắm, cung phụng hầu hạ rất kính trọng, không chịu nhận tiền trọ, lấy việc giấc mộng ra kể, coi đó là trách nhiệm của mình. Ông cũng rất tự phụ, nghĩ thầm vợ mình rụng trụi cả tóc, sợ bị những người quyền quý chê cười, định là lúc thi đỗ xong sẽ cưới vợ khác. Kế đó ra bảng thì ông thi rớt, than thở rằng mình lận đận, trong lòng chán nản, thầm hổ thẹn với chủ quán trọ bèn đi đường khác về nhà.</p><p></p><p>Ba năm sau lại đi thi, chủ quán trọ vẫn tiếp đãi nồng hậu như trước. Ông nói "Lời ông nói lần trước không đúng, ta rất xấu hổ được đối xử như thế này". Chủ quán nói "Tú tài vì ngầm muốn bỏ vợ nên bị âm ty đánh rớt, đâu phải ta mơ mộng quàng xiên". Ông kinh ngạc hỏi, thì ra sau khi chia tay chủ quán lại nằm mơ thấy thần nói thế. Ông nghe kể áy náy hối hận, đứng thừ ra như tượng gỗ. Chủ quán trọ nói "Tú tài nên tự giữ mình, rồi thế nào cũng đỗ Thủ khoa mà”. Không bao lâu quả nhiên ông đỗ Thủ khoa, tóc phu nhân cũng dần dần dài ra, ngày thêm mượt mà, càng xinh đẹp hơn.</p><p></p><p>Người chị thì lấy chồng là con nhà giàu trong làng, càng thêm kiêu hãnh, nhưng chồng chơi bời lêu lổng, nhà dần dần sa sút, đến nỗi trong nhà không còn gì, dưới bếp không nổi lửa. Nghe nói em gái đã là vợ Hiếu liêm càng thêm xấu hổ, đi đường gặp em là tránh mặt. Không bao lâu người chồng chết, nhà càng nghèo túng, kế đó ông Mao lại thi đỗ Tiến sĩ, người chị nghe thấy vô cùng hối hận, uất ức xuống tóc vào chùa làm ni cô. Đến khi ông được phong chức Tể tướng về thăm nhà, ni cô ép lòng sai đệ tử tới phủ Tể tướng khuyến hóa, có ý chờ ông tặng tiền bạc. Tới nơi thì phu nhân lấy vải vóc the lụa như thường lệ đưa cho, nhưng ngầm gói vàng bên trong. Người đệ tử không biết, đem gói vải về đưa thầy, thầy thất vọng bực tức nói "Cho tiền bạc thì còn có thể mua củi gạo, chứ những thứ quà biếu này thì ta cần gì", rồi sai đem trả lại.</p><p></p><p>Ông Mao và phu nhân ngờ vực đến khi mở ra xem thì vàng đều còn đó, mới hiểu ý người chị từ chối. Phu nhân bèn cất vàng đi, cười nói "Thầy của ngươi có hơn trăm lượng vàng cũng không giữ được, làm sao có phúc lấy quan Thượng thư nhà ta?". Rồi lấy năm mươi lượng vàng đưa cho người đệ tử đem về, dặn "Đem về đưa cho thầy ngươi chi dùng, nhiều hơn thì sợ là kẻ ít phúc không nhận nổi đâu”. Người đệ tử về kể hết mọi chuyện với thầy, người chị im lặng thầm than thở, nghĩ thấy những việc mình làm lúc trước đều dại dột, lẫn lộn người hay kẻ dở. Ôi, há có phải chỉ do người thôi đâu? Về sau chủ quán trọ dính líu vào việc án mạng bị bắt giam, nhờ ông Mao ra sức giúp đỡ mà được khỏi tội.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Khu mộ cũ nhà ông Trương lại là ngôi đất quý của họ Mao, kể cũng lạ thật. Ta nghe người thời ấy có vở tuồng Chồng cô chị thành chồng cô em, Giải nguyên trước thành Giải nguyên sau, đó há phải là những người khôn ngoan tinh ranh bịa đặt mà viết ra được đâu? Than ôi, trời xanh kia lâu lắm không ai hỏi được, sao lại có ông Mao, nhân quả báo ứng mau lẹ như thế!</em></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>057. Sư Tây Vực </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Phiên Tăng)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Sư Thể Không kể lúc ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) gặp hai nhà sư Tây Vực trạng mạo cổ quái, tai đeo vòng, mặc áo vàng, râu tóc xoăn tít, nói là ở Tây Vực tới, nghe quan Thái thú chuộng đạo Phật nên tới yết kiến. Thái thú sai hai người lính đưa tới ở chùa, Hòa thượng Linh Bí ở đó coi thường, người quản lý trong chùa thấy tướng mạo họ kỳ lạ nên đứng ra khoản đãi giữ lại ngủ. Có người hỏi “Tây Vực có nhiều bậc dị nhân, chắc các vị La Hán đây cũng có phép lạ chứ?”. Một người mỉm cười rút từ tay áo ra một cái tháp nhỏ cao khoảng một thước long lanh rất đẹp. Chỗ cao nhất trên vách có cái kệ nhỏ, nhà sư ném cái tháp lên, cái tháp nghiễm nhiên đứng thẳng không hề nghiêng ngửa, trên ngọn tháp có viên ngọc xá lỵ phóng ra ánh sáng chiếu sáng cả phòng. Giây lát nhà sư lấy tay vẫy, cái tháp lại rơi vào lòng bàn tay. Nhà sư kia trật vai áo duỗi cánh tay trái ra, thấy dài tới sáu bảy thước, còn cánh tay phải không thấy đâu nữa, lại chuyển qua duỗi cánh tay phải ra thì cánh tay trái cũng rút vào không thấy đâu.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>058. Tư Giám Họ Lý </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Lý Tư Giám)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Tư giám Lý Vĩnh Niên là Cử nhân, ngày hai mươi tám tháng chín năm Khang Hy thứ 4 (1665) đánh vợ là Lý thị chết, địa phương báo lên quan, quan trên sức về cho huyện tra xét. Tư giám đang đứng trước phủ, chợt rút một con dao trên giá chạy vào miếu Thành hoàng, lên thẳng trên gác quỳ xuống trước bàn thờ nói “Thần trách ta nghe lời kẻ gian làm điên đảo thị phi trong làng xóm, nên cắt tai ta”. rồi tự cắt rụng vành tai trái ném xuống dưới gác. Lại nói "Thần trách ta nhận tiền của người, nên chặt tay ta", rồi tự chặt bàn tay trái. Lại nói "Thần trách ta gian dâm với phụ nữ, nên thiến dái ta", rồi tự thiến dái, ngã quay ra chết cứng. Lúc ấy quan Tổng đốc Chu Vân Môn gởi bản tâu hặc tội Lý, xin triều đình cách chức luận tội, vừa có chỉ dụ gởi xuống thì Lý đã bị âm ty trừng phạt rồi. Việc này xem ở để báo<strong>*</strong>.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>* Để báo: một loại công báo của triều đình dùng để thông báo tin tức cần thiết cho quan lại các địa phương thời Thanh.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>059. Bảo Trú </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Bảo Trú)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Phiên vương Ngô Tam Quế lúc chưa làm phản<strong>*</strong> thường ra lệnh cho tướng sĩ rằng ai một mình tay không bắt sống được cọp sẽ được cấp bổng hạng nhất, tặng danh hiệu Đả hổ tướng. Trong các viên tướng ấy có một người tên Bảo Trú, khỏe mạnh nhanh nhẹn như khỉ, lúc trong vương phủ xây ngôi lầu cao, xà vừa gác lên, Trú men theo góc lầu mà lên, trong giây lát đã tới trên nóc, đứng trên xà chạy đi chạy lại mấy lần, kế lại co người nhảy xuống đứng thẳng dưới đất. Vương có người ái cơ giỏi đánh đàn tỳ bà, chiếc đàn nàng dùng lấy noãn ngọc làm chốt lên dây, cầm lên là cả phòng ấm hẳn. Người thiếp quý báu cất kỹ, nếu không phải vương ra lệnh thì không đem ra cho ai thấy. Một đêm ăn yến, khách có người xin được xem vật lạ một lần, vương đang mỏi mệt nên hẹn để hôm sau. Lúc ấy Trú đang ở bên cạnh nói "Không cần vương gia phải ra lệnh, thần có thể lấy được".</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>*Phiên vương... làm phản: Ngô Tam Quế 1à người thời Minh, 1àm tướng giữ Sơn Hải quan. Khi Lý Tự Thành diệt nhà Minh, Ngô Tam Quế mở cửa quan mời quân Mãn Châu vào Bắc Kinh đánh Lý Tự Thành. Quân Mãn Châu nhân đó chiếm đóng Trung Quốc, lập ra nhà Thanh, phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương trấn thủ Vân Nam, Cảnh Tinh Trung làm Tĩnh Nam vương trấn thủ Phúc Kiến và Thượng Khả Hỷ làm Bình Nam vương trấn thủ Quảng Đông, hơp xưng là Tam phiên (Ba phiên vương). Về sau vua Khang Hy nhà Thanh triệt phiên, Tam phiên làm phản, lần lượt bị tiêu diệt.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Vương bèn sai người báo khắp trong ngoài vương phủ, ra lệnh phòng bị nghiêm cẩn rồi sai Trú đi lấy. Trú vượt qua mười mấy lần tường mới vào tới chỗ người ái cơ của vương ở, thấy đèn trong phòng sáng choang mà của nẻo khóa chặt không vào được. Dưới hành lang có cái lồng nuôi chim vẹt, Trú giả tiếng mèo kêu, kế lại giả tiếng vẹt kêu ầm lên là có mèo tới, lại làm ra tiếng vỗ cánh phành phạch rất gấp. Nghe người ái cơ nói “Lục Nô ra ngay xem, con vẹt bị mèo vồ chết rồi", Trú liền nép vào góc tối. Giây lát có một cô gái khêu đèn lách ra, Trú nhân đó lẻn vào, thấy người ái cơ đang cầm chiếc đàn tỳ bà ngồi trên ghế liền xô vào giật lấy bỏ chạy. Người ái cơ hoảng sợ la lớn giặc tới, đám quân canh gác đổ cả ra, thấy Trú ôm đàn chạy nhưng đuổi theo không kịp, bắn tên rào rào như mưa. Trú nhảy lên gốc cây, dưới tường vốn có cây hòe lớn, Trú chuyền qua cành cây như chim chuyền cành, hết gốc cây lên tới gác, hết gác lên tới lầu, chuyền vào trong điện như có cánh, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Khách còn đang uống rượu, Trú ôm chiếc đàn phi thân vào đứng trước tiệc, cửa vẫn đóng chặt như cũ, không hề có tiếng gà kêu chó sủa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>060. Nạn Lụt </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Thủy Tai)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Năm Khang Hy thứ 21 (1682) đại hạn, từ xuân qua hạ đất khô cháy không còn cọng cỏ nào xanh. Ngày mười ba tháng sáu có cơn mưa nhỏ mới có kẻ trồng bắp, ngày mười tám thì mưa lớn ngập bàn chân, người ta mới trồng đậu. Một hôm ở trang Thạch Môn (tỉnh Chiết Giang) có ông già lúc chiều tối nhìn thấy hai con trâu húc nhau trên núi, nói với người trong thôn rằng "Sắp có lụt lớn" rồi lập tức dắt gia đình đi tránh, người trong thôn đều cười. Không bao lâu mưa đổ ào ào từ đêm đến sáng không ngớt, trên đất bằng nước cao mấy thước, nhà cửa đều bị ngập hết. Có một nông dân bỏ hai đứa con lại, cùng vợ dìu cha mẹ chạy lên gò cao, nhìn xuống dưới thôn thì đã như cái đầm lớn, nghĩ không kịp quay về cứu con nữa. Khi nước đã rút trở về, thấy cả thôn đã thành bãi hoang, vào nhà thấy một gian phòng còn nguyên mà hai đứa con đều ngồi trên giường cười đùa không hề hấn gì. Có người nói đó là trời thương cho hai vợ chồng có hiếu, đó là việc ngày hai mươi tháng sáu.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Năm Khang Hy thứ 34 (1695) ở Bình Dương có động đất, nhân dân mười phần chết hết bảy tám, thành quách đều sụp đổ chỉ còn một căn nguyên vẹn là nhà một người con có hiếu. Giữa cơn đại kiếp mênh mang mà chỉ có những người con hiếu là không việc gì, ai bảo là ông trời kia không phân biệt được trắng đen?</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>061.Mỗ Giáp ở Chư Thành</strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong> (Chư Thành Mỗ Giáp)</strong></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Học quan tiên sinh Tôn Cảnh Hạ nói trong huyện có Mỗ Giáp, gặp lúc có giặc bị chém, đầu rơi xuống trước ngực. Khi giặc rút đi người nhà tìm được xác, đang định đem chôn thì nghe còn hơi thở, nhìn kỹ thấy cổ họng còn một khoảng bằng ngón tay chưa đứt, bèn nâng đầu lên giữ lại cho đúng chỗ rồi khiêng về. Qua một ngày một đêm thì bắt đầu rên rỉ, người nhà lấy thìa đút cháo cho, nửa năm thì lành. Hơn mười năm sau, Giáp cùng hai ba người trò chuyện, có kẻ kể chuyện cười, mọi người cùng cười ầm lên, Giáp cũng vỗ tay. Đang lúc nghiêng ngửa thì vết thương cũ chợt toác ra, rơi đầu phun máu, mọi người cùng nhìn lại thì đã đứt hơi chết rồi. Cha Giáp đi kiện người kể chuyện, mọi người cùng góp tiền van xin, người cha bèn chôn Giáp mà không kiện nữa.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Cười một trận mà rơi đầu, quả là chuyện cười hiếm có trong ngàn năm. Cổ họng liền lại không chết, để mười năm sau làm thành một vụ án cười, há không phải là kiếp trước hai ba người láng giềng kia mắc nợ y sao?</em></p><p></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>062. Đùa Giỡn Thắt Cổ </strong></p><p></p><p></p><p></p><p><strong>(Hý ải)</strong></p><p>Mỗ người huyện ta là kẻ lông bông vô lại, tình cờ ra ngoài thôn thấy một thiếu phụ cưỡi ngựa đi tới bèn nói với bạn bè "Ta có thể làm nàng cười một trận". Mọi người không tin, đánh cuộc một bữa rượu. Mỗ bèn chạy lên trước ngựa kêu luôn mồm rằng "Ta muốn chết đây". Nhân thấy chỗ đầu tường có một miếng ván mỏng nhô ra, bề ngang hơn một thước bèn cởi dây lưng móc lên đó, thò cổ vào làm như sắp tự tử. Thiếu phụ đi qua nhìn thấy quả nhiên bật cười, bạn bè cũng đều cười rộ. Thiếu phụ đi xa rồi mà Mỗ vẫn bất động, mọi người càng cười dữ, nhưng tới gần xem thì đã thè lưỡi trợn mắt tắt hơi rồi. Treo cổ lên tấm ván mà chết há chẳng phải là chuyện lạ sao? Chuyện này đủ để răn bọn người khinh bạc vậy.</p><p></p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>Quyển IV - 63 -</strong></p><p>A Tiêm</p><p>(A Tiêm)</p><p></p><p>Hề Sơn người huyện Cao Mật (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bán, thường qua lại vùng Mông Sơn, Nghi Thủy (đều thuộc tỉnh Sơn Đông). Một hôm dọc đường gặp mưa, tới được nhà trọ quen thì đã khuya, gõ cửa mãi mà không ai lên tiếng. Đang ngần ngừ dưới hiên thì hai cánh cửa chợt mở, một ông già bước ra mời vào. Sơn mừng theo vào, lần dò lên sảnh, trong sảnh không có giường ghế gì cả. Ông già nói “Ta thương khách không có chỗ nghỉ nên mời vào, chứ thật ra ta không phải là người mở hàng bán cơm. Nhà không có ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái nhỏ đã ngủ cả rồi. Cái ăn thì còn đủ nhưng không còn nóng lắm, đừng chê là nguội lạnh".</p><p></p><p>Nói xong vào trong, giây lát mang ra một cái chõng thấp đặt xuống đất mời khách ngồi. Lại trở vào mang ra một cái bàn con, đi lại tất bật trông rất vất vả. Sơn đứng ngồi không yên, giữ ông lại nói xin cứ nghỉ một lúc. Giây lát một cô gái mang rượu ra, ông già nói "Con A Tiêm nhà ta dậy rồi", nhìn thấy khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp yểu điệu, phong thái đoan trang. Sơn có em trai chưa vợ, cũng thầm có ý bèn hỏi thăm dòng dõi quê quán ông già. Ông đáp "Ta họ Cổ tên Sĩ Hư, con cháu đều chết yểu chỉ còn đứa con gái này nên không nỡ làm nó mất giấc ngủ ngon, chắc bà vợ ta gọi nó dậy đấy". Hỏi "Chồng cô em là ai?", ông đáp còn chưa hứa gả, Sơn mừng thầm. Kế thức ăn bày lên đủ thứ, như trong hàng cơm. Sơn ăn xong cung kính nói “Con người bèo nước, đội ơn thương tới, đến chết cũng không dám quên. Nhân thấy ông thịnh đức nên xin đường đột tỏ lời quê mùa. Ta có đứa em trai nhỏ là Tam Lang mười bảy tuổi theo nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu tối, muốn cầu chỉ thắm xe duyên, không biết ông có chê nghèo hèn không". Ông già mừng nói "Lão phu ở đây cũng là ngụ cư, nếu nó có chỗ gửi thân, nhân mượn được túp lều dời đi chỗ khác thì cũng đỡ lo". Sơn đều xin vâng, đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi vào.</p><p></p><p>Gà vừa gáy ông đã ra gọi khách dậy rửa mặt, Sơn gói hành lý xong đưa trả tiền cơm, ông già từ chối, nói "Khách ở lại dùng bữa cơm, không lý gì lại lấy tiền, hay định đưa tiền dẫn cưới đây?" Kế chia tay, hơn tháng sau Sơn quay lại, cách thôn hơn dặm thì thấy có bà già dắt một cô gái, khăn áo đều trắng, tới gần thấy như là A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần nhìn Sơn rồi nắm áo bà già nói nhỏ gì đó, bà già liền dừng chân quay lại hỏi Sơn "Ông họ Hề phải không?” Sơn dạ dạ. Bà già buồn rầu nói "ông nhà ta không may bị tường đổ đè chết rồi. Hôm nay bọn ta định đi thăm mộ, ở nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát sẽ trở lại ngay", rồi đi vào rừng.</p><p></p><p>Lát sau trở lại thì trời đã tối, bèn cùng đi về, nói chuyện mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc Sơn cũng bùi ngùi. Bà già nói "Dân ở đây rất không lương thiện, con côi mẹ góa khó sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà ông, để lâu nữa sợ chậm trễ ngày tháng, chẳng bằng khuya nay cùng đưa nhau về sớm", Sơn bằng lòng. Tới nhà, bà già khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, nói với Sơn “Nghĩ là ông sắp tới nên đã bán thóc lúa cất trữ đi, chỉ còn hơn hai mươi thạch vì xa nên chưa bán được. Cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc có ngôi nhà đầu xóm là nhà Đàm Nhị Tuyền là người vẫn mua thóc của ta. Xin phiền ông chịu khó mang một túi tới trước gọi cổng, cứ nói bà già họ Cổ ở xóm Nam có vài thạch thóc định bán lấy tiền đi đường, phiền cho lừa tới chở luôn một lúc", rồi đưa túi thóc cho Sơn. Sơn vội vàng đi ngay, tới nơi gõ cửa thì một người đàn ông bụng phệ ra, Sơn nói rõ rồi trút thóc về trước. Lát sau có hai người phu dắt năm con lừa tới, bà già dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên, mẹ con bà già chuyền cho nhau, chốc lát đầy túi đưa họ mang đi. Đi lại tới bốn lần mới chở hết thóc, kế họ đưa tiền đưa cho bà già, bà giữ lại một người và hai con lừa rồi thu xếp hành lý đi về phía đông. Được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ, tới một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm bèn quay về.</p><p></p><p>Về tới nhà, Sơn thưa lại với cha mẹ. Hai bên gặp nhau rất vui vẻ, bèn dọn một chỗ riêng cho bà già ở rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho Tam Lang, bà già sắm sửa tư trang cho con gái rất đầy đủ. A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện chỉ mỉm cười, sớm tối lo dệt vải không ngừng, vì thế cả nhà ai cũng thương yêu. Nàng dặn Tam Lang "Nhớ dặn anh nếu có trở lại miền Tây thì đừng nói gì về mẹ con thiếp cả"</p><p></p><p>Được ba bốn năm, nhà họ Hề càng giàu có, Tam Lang được vào học trường huyện. Một hôm Sơn ghé trọ nhà láng giềng cũ của họ Cổ, tình cờ kể chuyện năm trước không có chỗ trọ, phải ngủ nhờ nhà ông bà già. Chủ nói "Ông khách lầm rồi, đó là căn nhà riêng của bác ta, trước đó ba năm người ở đó thường thấy chuyện quái dị nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà già nào mà cho ông ngủ lại?". Sơn rất kinh ngạc nhưng chưa tin lắm. Chủ nhân lại nói "Khu nhà ấy bỏ không mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị sập, bác ta tới xem thì thấy đá đè lên một con chuột to như con mèo, khúc đuôi bên dưới còn quẫy, vội về gọi mọi người tới xem thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi vật đó là yêu quái, hơn mười ngày sau vào xem thử thì yên ắng không thấy gì, hơn năm sau mới có người tới ở".</p><p></p><p>Sơn càng lấy làm lạ, về nói riêng với người nhà, trộm ngờ em dâu không phải là người. Lo thầm cho Tam Lang, nhưng Tam Lang vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu ngày người nhà xì xào bàn tán, cô gái thoáng nghe biết, nửa đêm nói với Tam Lang "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng có một lỗi nhỏ. Nay lại đặt chuyện để khinh rẻ, xin viết cho tờ ly hôn để chàng chọn một người vợ xứng đáng”, rồi rơi nước mắt. Tam Lang nói "Lòng ta thế nào thì nàng đã rõ. Từ ngày nàng về, nhà ngày một no đủ, vẫn nghĩ là nhờ phúc trạch của nàng, đâu lại còn điều này tiếng khác?". Nàng nói "Chàng vốn không hai lòng, thiếp há không biết sao? Nhưng nhiều người nói ra nói vào, e rồi không khỏi như chiếc quạt đến mùa thu bị bỏ xó”. Tam Lang khuyên giải mấy lần mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, ngày ngày cứ tìm mèo giỏi bắt chuột về để dò ý tứ. Cô gái tuy không sợ nhưng rầu rầu không vui.</p><p></p><p>Một đêm nói mẹ không khỏe, xin Tam Lang cho về săn sóc, sáng ra Tam Lang qua tìm thì trong phòng trống không, phát hoảng cho người đi tìm khắp nơi không thấy tung tích, bứt rứt bỏ ăn bỏ ngủ. Cha và anh lại đều lấy làm may, cùng vỗ về an ủi, định cưới vợ khác cho, nhưng Tam Lang nhất định không chịu. Chờ hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh cứ chế nhạo trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi. Lại vài năm nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng thương nhớ A Tiêm.</p><p></p><p>Có người em con chú Tam Lang là Lam nhân có việc tới huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), đường xa nghỉ lại nhà người họ hàng bên ngoại là Lục sinh, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất đau thương, cũng chưa rảnh hỏi thăm. Lúc quay về lại nghe thấy bèn hỏi, chủ nhân đáp “Mấy năm trước có người đàn bà góa và cô gái mồ côi thuê nhà ở đó. Tháng trước bà già mất, cô gái ở một mình không người thân thích nên khóc đó thôi”. Lam nhân hỏi họ, Lục đáp “Họ Cổ, thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm nên chưa rõ gia thế ra sao". Lam giật mình nói "Thế thì là chị dâu ta rồi”. Bèn qua gọi cửa thì có người nín khóc bước ra, đứng trong cửa nói “Nhà ta không có đàn ông đâu”. Lam nhìn qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ thấy đúng là chị dâu liền nói "Chị mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây". Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói "Anh Tam Lang nhớ chị lắm, vợ chồng có gì trái ý đâu mà chị xa lánh tới tận đây", rồi lập tức định thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu nói "Ta vì bị người khinh rẻ mới đưa mẹ đi ẩn, nay lại trở về nương tựa người thì ai không khinh rẻ? Như muốn ta trở về thì phải cùng anh chia bếp, nếu không, ta chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi".</p><p></p><p>Lam về kể lại cho Tam Lang, Tam Lang lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau đều rơi lệ, hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là Giám sinh họ Tạ thấy nàng đẹp, ngầm tính cưới nàng làm thiếp nên mấy năm không lấy tiền nhà, đã nhiều lần ngỏ ý với bà già nhưng bà cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong thì Tam Lang chợt tới, bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó. Nhà Tam Lang vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Cô gái nói không sợ, rồi dẫn vào xem vựa thóc, khoảng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Tam Lang mừng nói với Tạ, Tạ không nhận thóc, cứ nhất định đòi tiền. Cô gái than "Trăm sự cũng vì nghiệp chung thân này", rồi kể lại tình thật. Tam Lang tức giận định kiện lên huyện. Lục bèn can, đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.</p><p></p><p>Tam Lang thưa với cha mẹ, xin cùng anh chia nhà ra để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lấy làm lạ, nhưng hơn năm xem lại thì kho đã đầy. Không vài năm, nhà đã giàu có mà Sơn vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Tam Lang mừng nói “Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán". Cô gái đáp “Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?”. Về sau cũng không có chuyện gì lạ.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 64 -</strong></p><p>Thụy Vân</p><p>(Thụy Vân)</p><p></p><p>Thụy Vân là danh kỹ ở đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), nhan sắc tài nghệ vô song. Năm mười bốn tuổi bà chủ là mụ dầu họ Sái định cho ra tiếp khách. Thụy Vân nói “Đây là lúc con bắt đầu vào đời, không thể qua quít, nên giá thì do mẹ định nhưng khách thì xin cho con tự chọn". Mụ ưng thuận, bèn định giá là mười lăm lượng vàng, nàng bèn hàng ngày ra tiếp khách. Khách muốn gặp thì đưa lễ vật tới, nhiều thì được tiếp một ván cờ, tặng một bức tranh, ít thì được mời uống chén trà mà thôi.</p><p></p><p>Thụy Vân nổi tiếng đã lâu, từ đó các bậc phú thương quý quan ngày ngày nối nhau tới cổng. Hạ sinh người huyện Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) nổi tiếng tài danh nhưng gia tư chỉ đủ ăn, vốn ngưỡng mộ Thụy Vân nhưng chưa dám nghĩ tới giấc mộng uyên ương, cũng gắng sửa chút lễ mọn, chỉ mong được một lần gặp mặt, vẫn thầm lo nàng trải đời đã nhiều, không để mắt tới kẻ nghèo hèn. Đến lúc gặp mặt, vừa chuyện trò nàng đã tỏ ra rất ân cần. Cùng nói chuyện hồi lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình ý, lại tặng sinh bài thơ rằng:</p><p></p><p><em>Hà sự cầu tương giả,</em></p><p><em>Lam Kiều khấu hiểu quan.</em></p><p><em>Hữu tâm tầm ngọc chử</em></p><p><em>Đoan chỉ tại nhân gian</em></p><p>(Xin nước làm chi cho vất vả</p><p>Tinh sương lại phải tới cầu Lam<strong>*</strong></p><p>Có lòng xin cố tìm chày ngọc</p><p>Dám chắc còn trên cõi thế gian)</p><p></p><p>*Cầu Lam: dịch chữ Lam Kiều. Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng là người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên.</p><p></p><p>Sinh được thơ mừng quýnh, còn muốn nói nữa chợt a hoàn vào báo khách tới. Sinh vội từ biệt, về nhà đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, mộng hồn vướng vít. Được một hai hôm không kìm được, lại sắm sửa lễ vật tìm tới. Thụy Vân đón tiếp rất vui vẻ dời ghế tới gần sinh, buồn bã nói "Chàng có thể lo được một đêm sum họp không?". Sinh đáp "Học trò nghèo chỉ có tấm tình si để tặng tri kỷ, lo được cái lễ nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết, được gần mặt hoa là thỏa nguyện rồi, còn như đầu gối tay ấp thì đâu dám mong tưởng". Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau không nói. Sinh ngồi lâu không ra, mụ chủ mấy lần gọi Thụy Vân để giục giã. Sinh bèn ra về, trong lòng buồn bực, muốn đem hết gia sản chuốc một lần vui, nhưng hết đêm lại phải chia tay thì thật không sao chịu nổi, nghĩ tới đó thì tấm lòng hăm hở đều tiêu tan. Từ đó dứt hẳn không lui tới nữa.</p><p></p><p>Thụy Vân kén rể mấy tháng mà chưa chọn được người vừa ý. Mụ dầu bực tức, định ép uổng nhưng còn chưa ra tay. Một hôm có người Tú tài đem lễ vật tới, ngồi nói chuyện một lúc bèn đứng lên, ấn một ngón tay lên trán nàng nói “Đáng tiếc, đáng tiếc” rồi ra về. Thụy Vân tiễn khách ra trở vào mọi người cùng nhìn thì thấy trên trán nàng có dấu ngón tay in đen như mực, rửa lại càng đậm. Sau vài hôm vết mực lan rộng ra, hơn một năm sau thì lan từ trán xuống cả mũi, ai thấy cũng cười, vì vậy vết xe ngựa ngoài cổng cũng mất hẳn. Mụ dầu lột hết trang sức, bắt làm việc của hạng tôi tớ, Thụy Vân lại ẻo lả không làm nổi việc nặng nhọc nên ngày càng tiều tụy.</p><p></p><p>Hạ nghe tin ghé qua, thấy nàng đầu bù tóc rối dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy sinh thì quay vào tường giấu mặt. Hạ thương xót bèn nói với mụ dầu xin chuộc nàng, mụ ưng thuận. Hạ bán ruộng dốc túi mua nàng đem về. Tới nhà nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là vợ, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này. Hạ nói "Người ta ở đời vẫn quý kẻ biết mình. Lúc nàng đang thịnh, nàng còn biết tới ta, lẽ nào vì nàng suy mà ta quên nàng sao?", rồi không lấy vợ nữa. Ai nghe chuyện cũng chế nhạo, nhưng sinh thì càng thương yêu nàng thêm.</p><p></p><p>Được hơn năm, sinh ngẫu nhiên tới đất Tô (tỉnh Giang Tô), gặp Hòa sinh cùng trọ một chỗ. Bỗng Hòa hỏi "Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân nay ra sao?", sinh đáp đã lấy chồng rồi. Hòa lại hỏi lấy ai, sinh đáp "Người đó cũng đại loại như ta". Hòa nói "Nếu được như ông thì có thể nói là lấy đúng người, không biết giá bao nhiêu?". Hạ nói "Vì mắc bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, nếu không loại bọn ta làm sao mua nổi người đẹp trong kỹ viện". Hòa lại hỏi “Người đó quả thật có được như ông không?". Hạ thấy câu hỏi kỳ lạ bèn căn vặn lại, Hòa cười nói "Thật không dám dối, trước đây ta từng gặp nàng một lần, rất tiếc tài mạo tuyệt thế mà lênh đênh không có người xứng đôi nên dùng chút thuật mọn che ánh sáng để giữ vẻ ngọc, dành lại chờ tấm gương soi chân hình của kẻ yêu tài". Hạ vội hỏi “Ông chấm được chắc cũng rửa được chứ?”. Hòa cười đáp “Sao không được, nhưng phải chính người kia thành tâm cầu xin thôi". Hạ đứng dậy vái nói “Người chồng của Thụy Vân chính là ta đây”, Hòa mừng nói "Trong thiên hạ chỉ có kẻ chân tài mới có thể đa tình, không vì xấu đẹp mà đổi ý. Xin cho ta theo về nhà, ta sẽ tặng một người đẹp".</p><p></p><p>Bèn cùng nhau về, tới nhà Hạ định sai dọn rượu, Hòa ngăn lại nói “Cứ để ta làm phép để người dọn rượu phải vui vẻ trước đã". Rồi lập tức bảo bưng lên một chậu nước, lấy ngón tay vẽ bùa lên, nói "Rửa đi là khỏi, nhưng phải đích thân ra tạ ơn thầy thuốc đấy”. Hạ cười bưng chậu nước vào, đứng đợi Thụy Vân rửa mặt, vết mực theo tay trôi hết, diễm lệ chẳng khác năm xưa. Vợ chồng đều cảm ơn, cùng nhau ra vái tạ thì khách đã biến mất, tìm khắp nơi không thấy, có lẽ là tiên chăng?</p><p></p><p></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 65 -</strong></p><p>Tướng Công Long Phi</p><p>(Long Phi Tướng Công)</p><p></p><p></p><p></p><p>Đới sinh ở An Khánh (tỉnh thành An Huy), lúc trẻ tính bừa bãi không kiềm thúc. Một hôm say rượu từ nơi khác về, dọc đường gặp người anh họ ngoại là Quý sinh, lúc đang say mờ mịt cũng quên mất là Quý sinh đã chết, bèn hỏi "Trước nay ở đâu?”. Quý nói "Ta đã chết rồi, ông quên hay sao?". Đới mới sực nhớ ra nhưng đang say cũng không sợ hãi, bèn hỏi "Ông làm gì dưới âm ty?", Quý đáp “Gần đây làm chức giữ sổ sách cho Chuyển Luân vương điện hạ<strong>*</strong>". Đới nói “Nếu thế thì chắc ông biết được họa phúc của mọi người", Quý nói "Đó là chức phận của ta, sao lại không biết? Chỉ là nhiều quá, nếu không phải là người thật thân thiết thì không nhớ kỹ thôi.</p><p></p><p>*Chuyển Luân vương điện hạ: theo truyền thuyết dưới âm phủ có mười vua, trong đó Chuyển Luân vương coi việc cho các hồn ma đi đầu thai.</p><p> </p><p>Ba hôm trước tình cờ soát lại sổ sách, thấy có tên ông". Đới vội hỏi trong ấy viết thế nào, Quý đáp “Thật không dám dối, tên ông có trong số những người bị giam vào ngục tối”. Đới cả sợ tỉnh rượu hẳn, năn nỉ xin cứu giúp. Quý nói “Đây không phải là việc ta giúp được, chỉ có việc thiện là có thể giải cứu thôi. Nhưng sổ sách ghi tội lỗi của ông dày cả ngón tay, không có việc thiện lớn thì không cứu được, mà Tú tài nghèo khó thì làm sao làm được việc gì lớn. Thôi cứ lập tức mỗi ngày làm một việc thiện, không hơn một năm như vậy thì không được xét tới đâu. Bây giờ đã muộn rồi, giả như cố sức thì may ra có thể thoát khỏi địa ngục". Đới nghe thế rơi nước mắt lạy rạp xuống đất cầu khẩn, khi ngẩng lên thì Quý đã biến mất bèn buồn bã trở về.</p><p></p><p>Từ đó sửa lòng đổi nết, không dám sơ sẩy. Trước kia Đới tư thông với người đàn bà láng giềng, người chồng biết nhưng không nói ra, định rình bắt quả tang, nhưng Đới đã sửa nết không đi lại với người đàn bà nữa, người chồng rình mãi không bắt được căm tức lắm. Một hôm gặp nhau ngoài ruộng bèn giả vờ trò chuyện, lừa Đới tới cái giếng cạn rồi xô xuống. Giếng sâu mấy trượng nên y nghĩ thế nào Đới cũng chết, nhưng nửa đêm thì Đới tỉnh dậy, ngồi dưới giếng gào lớn mà không ai biết. Người láng giềng cũng sợ Đới sống lại, sáng hôm sau tới nghe ngóng, nghe tiếng Đới kêu cứu vội ném đá xuống. Đới lùi vào hốc dưới giếng, không dám kêu nữa, người láng giềng biết là chưa chết bèn xúc đất lấp giếng đầy gần tới miệng.</p><p></p><p>Cái hốc dưới giếng tối om, thật không khác gì địa ngục, Đới không có gì ăn, nghĩ thầm ắt phải chết. Lom khom bò vào trong khoảng ba bước thì đều là nước, không sao đi tiếp bèn quay lại ngồi chỗ cũ, ban đầu thì thấy đói bụng, hồi lâu cũng quên đi. Nhân nghĩ dưới suối vàng không có điều thiện gì mà làm, đành niệm Phật mà thôi. Kế thấy lửa ma trơi bay túa tới lập lòe đầy hang, bèn khấn "Nghe nói lửa ma trơi đều là hồn ma chết oan, ta tuy còn sống nhưng cũng khó trở về, nếu có thể trò chuyện được với nhau thì cũng đỡ tịch mịch". Chỉ thấy các đốm lửa ma trơi đều họp cả trên mặt nước, trong mỗi đốm đều có một người cao khoảng nửa người thường. Sinh hỏi từ đâu tới, họ đáp "Đây là cái hầm than cũ, chủ nhân đào lấy than động tới ngôi mộ cũ bị tướng công Long Phi khoét đất dẫn nước biển vào dìm chết bốn mươi ba người, bọn ta đều là các hồn ma ấy".</p><p></p><p>Sinh hỏi tướng công là ai, họ đáp "Không biết, nhưng tướng công là kẻ sĩ văn học, nay làm mạc khách của Thành hoàng, ông cũng thương bọn ta vô tội mà chết nên cứ năm ba ngày lại cho một bữa cháo loãng. Nhưng xương cốt bọn ta bị dầm trong nước lạnh không có ngày siêu thăng, nếu ông trở về được nhân thế xin vớt mớ xương tàn xây cho ngôi mộ làm phúc thì bọn ta dưới suối vàng được đội ơn nhiều lắm". Đới nói "Nếu vạn nhất được trở về thì chuyện ấy có khó gì? Chỉ là thân dưới chín suối, làm sao dám mong ngày thấy lại mặt trời”. Nhân dạy đám ma niệm kinh Phật, vê đất làm tràng hạt, cứ theo đủ tạng số mà đọc, không biết ngày đêm thế nào, cứ mệt thì ngủ, thức thì ngồi niệm Phật mà thôi.</p><p></p><p>Chợt thấy chỗ sâu bên trong có ánh đèn lồng, bọn ma mừng rỡ nói "Tướng công Long Phi cho ăn đấy”, rồi rủ Đới cùng đi. Đới sợ nước sâu, đám ma ép kéo đi, phất phới bay lên, quanh co chừng nửa dặm, tới một chỗ thì buông xuống bảo tự đi càng đi càng lên cao như bước lên bậc thang cao vài trượng, hết bậc thang thấy phòng ốc, trên sảnh đường có một ngọn nến cháy sáng, to bằng cánh tay. Đới đã lâu không thấy đèn lửa, mừng quá rảo bước tới, thấy ở trên có một ông già ngồi, mặc áo đội mũ nhà nho. Đới dừng chân không dám bước tới nữa song ông già đã nhìn thấy, kinh ngạc hỏi người lạ từ đâu tới đây.</p><p></p><p>Đới bước lên quỳ xuống thưa chuyện mình, ông già nói “Té ra là cháu năm đời của ta". Bèn bảo đứng dậy cho ngồi, tự nói "Ta tên là Đới Tiềm, tự Long Phi, trước đây vì đứa cháu hư là Đường kết đảng với bọn xấu, đào hầm than gần mộ khiến lão phu không được yên ổn dưới suối vàng nên khơi nước biển dìm chết cả bọn, người là con cháu dòng nào?". Đại khái họ Đới có năm chi, Đường là ngành trưởng, lúc đầu có nhà thế gia trong huyện đút tiền cho Đường để đào hầm lấy than cạnh mộ tổ, các em sợ thế lực nên không ai dám cãi lại. Không bao lâu nước dưới đất vọt ra, những người đào than đều chết dưới hầm, gia đình họ họp nhau thưa kiện, Đường và nhà thế gia kia vì thế trở nên nghèo khó, con cháu Đường đến nỗi không có tấc đất cắm dùi.</p><p></p><p>Đới là dòng dõi của em Đường, từng nghe ông cha kể lại chuyện ấy, bèn thưa với ông tổ. Ông già nói "Hư hỏng như thế thì con cháu làm sao mà khá được? Cháu đã tới đây, phải tiếp tục học hành". Rồi lấy rượu thịt cho ăn uống, kế đem sách đặt lên bàn, đều là những văn trường ốc trong niên hiệu Thành Hóa Hoằng Trị thời Minh (1465-1505) bắt phải học, lại ra đề bài cho làm văn như thầy dạy trò. Nến trong sảnh đường đều sáng, cắt bấc đi cũng không tắt. Đới cứ lúc mệt thì ngủ, không biết đang ngày hay đêm. Ông già lúc đi vắng thì sai một tiểu đồng tới hầu hạ, lâu như trải qua mấy năm nhưng may mà không phải chịu khổ. Có điều là không có sách gì khác để đọc, chỉ có trăm bài văn bát cổ, vài ngàn bài thơ mà thôi. Một hôm ông già nói “Cháu đã hết hạn quả báo, sắp được trở về nhân thế. Chỗ mộ ta có đường hầm đào than xoi vào, gió âm châm chích xương cốt, sau này cháu đắc chí rồi hãy dời mộ ta ra cánh đồng phía đông”. Đới cung kính vâng dạ. Ông già bèn gọi bọn ma tới sai đưa Đới ra chỗ cũ, đám ma lạy rạp nghe lệnh, nhưng Đới cũng không biết làm sao mà lên khỏi giếng được.</p><p></p><p>Trước là gia đình thấy Đới mất tích, tìm kiếm khắp nơi, mẹ lên báo quan, bắt bớ đòi gọi rất nhiều người mà không có chút manh mối gì. Qua ba bốn năm, quan thôi giữ chức, việc tìm kiếm tra xét cũng thưa dần, vợ Đới không chờ được bèn xin lấy chồng khác. Gặp lúc người làng vét giếng cũ, vào trong hốc thấy Đới, vỗ về thấy chưa chết cả sợ báo cho gia đình biết, cáng về nhà mấy ngày mới nói được, kể lại mọi chuyện đã qua. Sau khi Đới rơi xuống giếng, người láng giềng cãi vã rồi giết chết vợ, bị cha vợ thưa kiện, giam nhốt xét xử hơn một năm, chỉ còn bộ da bọc xương trở về, nay nghe tin Đới sống lại cả sợ bỏ trốn. Người trong họ bàn xin thưa quan trừng trị, Đới không nghe, cứ nói "Trước đây là ta chuốc lấy tội, chuyện đó là âm ty trừng phạt chứ y có can dự gì?”, người láng giềng thấy không có ý gì khác bèn lần mò trở về.</p><p></p><p>Nước dưới giếng đã vét sạch, Đới thuê người xuống thu nhặt xương cốt, đều sắm quan tài chôn cất ở nghĩa địa làm phúc. Lại giở tới gia phả thấy có tên Tiềm tự Long Phi, bèn sắm sửa lễ vật ra cúng tế trước mộ. Quan Học sứ nghe chuyện lạ, lại khen ngợi văn bài của Đới, khoa ấy lấy Đới làm hạng ưu cho đi thi hương, kế Đới thi đỗ Cử nhân. Đới trở về liền xây dựng phần mộ ở cánh đồng phía đông, dời mộ Long Phi ra đó, xuân thu cúng tế, hương lửa không dứt.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Làng ta có người đào than, hầm than bị nước ngập, hơn mười người bị khốn dưới đó. Người ta múc nước tìm xác hơn hai tháng mới cạn mà hơn mười người không ai chết cả. Té ra lúc nước đổ tới thì họ cũng bị vây trên chỗ cao nên không bị chết đuối. Dòng dây xuống đưa lên, gặp gió thì tắt thở, một ngày một đêm mới tỉnh lại. Mới biết người ta ở dưới đất thì cũng như chim rắn côn trùng, nhất thời chưa thể chết được. Nhưng chưa có ai sống được suốt mấy năm dưới đất, nếu không phải là kẻ chí thiện thì ba năm liền sống trong địa ngục làm sao có thể sống mà trở về. </em></p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 66 -</strong></p><p>San Hô</p><p>(San Hô)</p><p></p><p>An Đại Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm, em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức, rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ riêng, tỏ ý dứt tình với vợ.</p><p></p><p>Lâu ngày mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói "Cưới vợ là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?", bèn thôi vợ, sai bà vú già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói "Là đàn bà mà không làm vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi cho xong". Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về, sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi “San Hô có tội gì?", sinh trách là không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa liền trở về.</p><p></p><p>Qua mấy hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói "Nàng ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?". Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vưong thị tới đó ở. Bà Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay. San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai.</p><p></p><p>Sinh sau khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung dữ đã lan rộng ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu.</p><p></p><p>Gọi em tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể, kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về. San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về, cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng "Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa", nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới. Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than "Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như thế?” Bà Vu hỏi "Có bằng nàng dâu em đuổi không?” Bà Thẩm nói “Ôi! Nói ra không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!". Bà Vu nói “Nàng dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?". Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi “San Hô lấy chồng khác chưa?". Bà Vu đáp “Không biết, để hỏi lại sau”.</p><p></p><p>Mấy hôm sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói "Sợ chị đi thì em chết mất thôi". Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng, Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh, động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu, hết sức ca ngợi nàng hiền.</p><p></p><p>Bà Vu nói "Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì được”. Thẩm nói “Ồ, oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?". Bà Vu hỏi “Như San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?", bà Thẩm đáp “Chỉ có mắng chửi thôi". Bà Vu nói "Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng". Bà Thẩm nói "Ai cũng có lúc lỗi lầm, chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng". Bà Vu nói "Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy". Bà Thẩm giật mình hỏi "Chị nói gì?", bà Vu đáp “San Hô tới đây lâu rồi, những thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy”</p><p></p><p>Bà Thẩm nghe thế nước mắt ròng ròng, nói "Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?". Bà Vu bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô. Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt, sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng.</p><p></p><p>Ông Nhiệm vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói "Ta là An Hiếu liêm đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?", rồi nhìn sinh nói "Âm ty cảm động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần". Sinh rơi lệ nói “Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con", An đáp "Thứ con hư dâu dữ có gì đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta". Sinh nói "Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?". An nói "Dưới gốc cây Tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng". Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì.</p><p>Sinh về kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông cha để lại, không nỡ giấu diếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ con đang vui vẻ chúc mừng nhau.</p><p></p><p>Nhị Thành vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng Cô nói "Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?", Nhị Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói “Những tiền trả nợ đều là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan”. Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói "Thế nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thằng đấy". Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về.</p><p>Nhìn kỹ thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng “Mấy lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn, còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng, những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh". Sinh không biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc.</p><p></p><p>San Hô bước ra cười nói “Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ”. rồi bảo sinh đem văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói "Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?”. Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ, tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy.</p><p></p><p>Tàng Cô từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ cả ăn uống, nói với người ta rằng “Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy". Sau sinh nở mười lần đều không nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo đáp lòng hiếu hữu vậy.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Nhà nghèo hay con hiếu, nước loạn biết tôi trung, nhà hay nước cũng đều như thế chăng? Con dâu dữ cải hóa thì mẹ chết, té ra một nhà hiếu thuận thì kẻ không có đức khó mà hưởng được. Tàng Cô tự hối cải, nói trời không cho mình chuộc tội, không phải kẻ ngộ đạo thì làm sao nói ra được câu ấy? Lẽ ra phải chết sớm mà lại được sống lâu thì cũng là trời tha tội cho, song sống mà không được thanh thản thì là trời có ý trừng phạt chăng?</em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 67 -</strong></p><p>Dâm Thần Ngũ Thông</p><p>(Ngũ Thông)</p><p></p><p><strong>I.</strong></p><p>Phương nam có dâm thần Ngũ thông cũng như phương bắc có hồ vậy. Nhưng ở phương bắc bị hồ ám thì còn tìm đủ cách khu trừ, chứ ở vùng Giang Tô Chiết Giang đàn bà con gái xinh đẹp trong dân gian mà bị thần Ngũ thông hành dâm thì cha mẹ anh em không ai dám ho he, gây hại còn dữ hơn cả hồ.</p><p></p><p>Có Thiệu Hồ là nhà buôn mở cửa hiệu ở huyện Ngô (tỉnh Giang Tô), vợ là Diêm thị rất xinh đẹp. Một hôm có người đàn ông nghênh ngang từ ngoài vào, vỗ kiếm trừng mắt nhìn quanh, vú già tớ gái trong nhà chạy sạch. Diêm muốn chạy ra, người ấy chặn lại nói "Đừng sợ, ta là Tứ lang trong Ngũ thông đây. Ta yêu nàng, không làm hại nàng đâu” rồi ôm ngang lưng Diêm thị nhấc lên như bế trẻ con đặt lên giường, giải quần nàng tự tuột ra, y bèn cưỡng hiếp, nhưng dương vật to cứng nàng không chịu nổi, lúc mê man đau đớn kêu rên như sắp chết. Tứ lang cũng thương xót không làm hết sức, kế bước xuống giường nói "Năm ngày nữa ta sẽ lại tới", rồi đi.</p><p></p><p>Hồ bày cửa hiệu ngoài cổng, đêm ấy đám tớ gái chạy tới thưa, Hồ biết là thần Ngũ thông không dám nói gì. Đến sáng thấy vợ mỏi mệt không dậy nổi, trong lòng rất nhục nhã xấu hổ, dặn người nhà không được kể rộng ra. Người đàn bà qua ba bốn ngày mới khỏe lại, nhưng sợ thần Ngũ thông lại tới, đám vú già tớ gái không dám ngủ đêm trong phòng, tránh hết ra nhà ngoài, chỉ có người đàn bà buồn rầu ngồi trước đèn chờ. Không bao lâu, Tứ lang dắt hai người nữa tới, đều là thiếu niên ôn nhã, có tên tiểu đồng bày rượu thịt ra cùng ăn uống với người đàn bà. Người đàn bà xấu hổ cúi đầu, họ ép uống rượu cũng không uống, trong lòng nơm nớp sợ họ thay phiên hành dâm thì hết sống. Ba người uống rượu vui vẻ với nhau, người gọi là đại ca người gọi là tam đệ. Uống đến khuya, hai người khách đứng lên nói "Hôm nay Tứ lang được mỹ nhân nên mời, cũng nên gọi Nhị lang Ngũ lang tới uống rượu mừng", rồi từ biệt đi.</p><p></p><p>Tứ lang kéo người đàn bà vào màn, nàng khóc lóc năn nỉ, Tứ lang cứ ép giao hoan, nàng máu me đầm đìa ngất đi không biết gì nữa, Tứ lang mới đi. Người đàn bà nằm vật ra trên giường khôn xiết căm hờn xấu hổ, nghĩ định tự tử nhưng treo cổ thì dây tự đứt, mấy lần đều như thế, khổ không sao chết được. May mà Tứ lang cũng không tới thường, cứ chờ khoảng nàng đỡ bệnh mới lại tới một lần, cứ thế hơn ba tháng, cả nhà không yên.</p><p></p><p>Có Vạn sinh ở Cối Kê (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là em họ ngoại của Thiệu, dũng mãnh thiện xạ, một hôm tới thăm Thiệu. Lúc ấy trời đã tối, Thiệu vì nhà khách đã cho gia nhân ở bèn đưa Vạn vào ngủ nhà trong. Vạn nằm hồi lâu không ngủ, nghe trong sân có tiếng chân người bèn núp cạnh cửa sổ nhìn ra, thấy một người đàn ông bước vào phòng vợ Thiệu, lấy làm ngờ vực xách đao lẻn theo. Thấy người ấy ngồi sánh vai với Diêm thị, trên bàn thì đầy rượu thịt liền nổi giận sấn vào, người đàn ông giật mình vội đứng dậy nắm lấy kiếm thì đã bị chém toác đầu ngã xuống, nhìn ra thì là một con ngựa con to như con lừa.</p><p>Vạn kinh ngạc hỏi Diêm thị, người đàn bà kể lại mọi chuyện rồi nói "Các thần sắp tới, làm sao bây giờ?”. Vạn xua tay ra hiệu đừng lên tiếng rồi tắt đèn cầm cung tên nằm chờ trong bóng tối. Không bao lâu có bốn năm người trên không đáp xuống, Vạn bắn mau một phát, người đi đầu trúng tên chết tươi. Ba người kia tức giận gầm thét, tuốt kiếm xông vào tìm kẻ bắn tên, Vạn cầm đao núp sau cánh cửa im lặng không động đậy, một người bước vào bị Vạn chém trúng đầu cũng lăn ra chết. Vạn đứng im chỗ cũ chờ hồi lâu thấy im ắng bèn bước ra gọi Thiệu dậy kể chuyện. Thiệu cả kinh cùng đốt đuốc vào xem thì thấy một con ngựa và hai con heo chết trong phòng. Cả nhà đều mừng rỡ, nhưng sợ hai con quái còn sống tới trả thù bèn giữ Vạn ở lại. Nấu nướng thịt heo thịt ngựa đem lên mời, thấy ngon ngọt khác hẳn thịt heo ngựa thường, từ đó Vạn sinh lừng lẫy tiếng tăm.</p><p></p><p>Vạn ở lại hơn tháng, không thấy đám quái tới nữa bèn từ giã Thiệu, sắp lên đường thì có nhà buôn Mỗ tới mời. Trước là Mỗ có con gái chưa lấy chồng, chợt Ngũ thông giữa ban ngày hiện ra, là một người đàn ông đẹp trai hơn hai mươi tuổi, nói sẽ cưới cô gái làm vợ, đưa một trăm lượng vàng làm sính lễ rồi hẹn ngày cưới. Mỗ tính lại sắp tới ngày hẹn, cả nhà lo sợ, nghe danh Vạn sinh bèn nài nỉ mời bằng được về nhà, nhưng sợ Vạn từ chối nên giấu không nói thật, thết tiệc xong mới cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra lạy chào. Vạn thấy cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp kinh ngạc không hiểu là có ý gì, vội đứng lên chào, Mỗ kéo ngồi xuống kể thật mọi việc. Vạn nghe thấy cả kinh, nhưng bình sinh ý khí hào hùng nên cũng không từ chối.</p><p></p><p>Đến ngày cưới, Mỗ cũng hoa giăng dây lụa ngũ sắc ngoài cổng, bảo Vạn ngồi trong phòng. Đến trưa vẫn không thấy Ngũ thông tới, Vạn mừng rỡ nghĩ thầm chắc tân lang là trong số đã bị mình giết. Phút chốc chợt thấy trước thềm có vật như con chim sa xuống rồi một thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ bước vào, nhìn thấy Vạn quay người bỏ chạy. Vạn đuổi ra tới ngoài, chỉ thấy một làn khí đen sắp bay lên, vội rút đao nhảy lên chém theo, chặt đứt một chân, thiếu niên kêu gào bay mất. Cúi nhìn thì khúc chân là một cái móng lớn to bằng bàn tay, không biết là con gì, tìm theo vết máu thì thấy nhảy xuống sông. Mỗ cả mừng, lại nghe nói Vạn không có vợ, ngay đêm ấy chuẩn bị giường chiếu cho làm lễ hợp cẩn với cô gái. Từ đó những người vốn sợ Ngũ thông đều mời Vạn tới nhà mình ngủ một đêm. Được hơn năm Vạn mới đưa vợ về nhà, từ đó Ngô Trung chỉ còn một trong Ngũ thông, không dám công nhiên tác quái nữa.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ngũ thông Thanh oa làm mê hoặc thế tục đã lâu đến nỗi cứ mặc cho chúng tùy ý dâm loạn mà không ai dám nói một tiếng, Vạn sinh thật là người hào sảng trong thiên hạ vậy.</em></p><p></p><p></p><p><strong>II.</strong></p><p>Kim sinh tự Vương Tôn, người Tô Châu (tỉnh Giang Tô). Tới đất Hoài (tỉnh Giang Tô) dạy học, ở trong vườn một vị thân sĩ lầu gác không nhiều nhưng cây cối rậm rạp. Hàng đêm đến khuya, khi bọn tiểu đồng đầy tớ đã ngủ hết thường một mình ngồi trước đèn, trong lòng buồn bã. Một đêm vừa hết canh hai chợt nghe có người lấy ngón tay búng cửa sổ, sinh vội lên tiếng hỏi, bên ngoài nói là xin lửa, giọng nói như đứa tiểu đồng. Sinh mở cửa cho vào thì là một người đẹp khoảng mười sáu tuổi, có một tỳ nữ theo sau. Sinh ngờ là yêu quái, gạn hỏi cặn kẽ, cô gái nói "Thiếp thấy chàng là kẻ sĩ phong nhã mà cô tịch đáng thương nên không ngại sương gió tới định cùng vui vầy đêm nay, chứ sợ nói lai lịch ra thì thiếp không dám tới mà chàng cũng không dám chứa chấp đâu”. Sinh lại nghĩ là con gái hư hỏng trong làng, lấy cớ sợ mang tiếng để từ tạ. Cô gái đưa mắt liếc, sinh thấy thần trí mê man, tâm thần điên đảo không thể tự chủ được nữa. Người tỳ nữ biết, bèn nói “Cô Hà, em đi đây”. cô gái gật đầu, kế mắng "Đi thì cứ đi, còn Hà Hà Vân Vân gì?".</p><p></p><p>Người tỳ nữ đi rồi, nàng mới cười nói “Gặp lúc nhà không có ai mới dắt nó tới đây, ngu ngốc như thế đấy, nói lộ ra cho chàng biết tên tự của thiếp". Sinh nói "Nàng tinh tế sâu sắc quá làm ta sợ có tai họa". Nàng nói “Về sau sẽ biết thôi, nhưng thiếp cam đoan là không làm gì có hại cho chàng đâu, đừng lo”. Kế nàng lên giường tháo gỡ đồ trang sức, sinh thấy trên tay nàng có đeo một cái xuyến bằng vàng tía khảm hai viên ngọc minh châu, tắt đèn vẫn lóng lánh chiếu sáng cả phòng. Sinh càng sợ hãi, không đoán được là nàng từ đâu tới. Vừa giao hoan xong thì người tỳ nữ tới gõ cửa, cô gái trở dậy, lấy chiếc xuyến soi đường vào trong rặng cây um tùm đi mất.</p><p></p><p>Từ đó đêm nào cũng tới, có lần sinh định lén đi theo, cô gái như đã biết bèn che ánh sáng, cây cối rậm rạp tối om giơ bàn tay lên cũng không nhìn thấy, sinh đành quay về. Một hôm sinh đi Hà Bắc, dây mũ bị đứt, gió thổi suýt rơi, ngồi trên ngựa cứ phải lấy tay giữ. Tới sông lên ngồi trên thuyền, mũ bị gió thổi rơi xuống sông rồi bị nước cuốn đi, nghĩ là mất rồi. Đến khi lên bờ thì gặp con gió lớn thổi chiếc mũ bay tới, chao chao trên không rồi rơi xuống, giơ tay chụp lấy thì thấy dây mũ đã liền lại, lấy làm lạ.</p><p></p><p>Khi trở về kể lại với cô gái, nàng không nói gì mà chỉ cười khẽ. Sinh ngờ là do nàng làm bèn nói "Nếu quả nàng là thần thì xin nói rõ cho ta yên lòng". Cô gái nói "Chàng lúc vắng vẻ tịch mịch lại được kẻ si tình giải khuây cho, thiếp tự nghĩ như thế là không xấu. Giả như thiếp làm được như thế thì cũng là yêu thương nhau đó thôi, căn vặn làm gì muốn tuyệt tình sao?", Sinh không dám nói nữa.</p><p></p><p>Trước Sinh có nuôi đứa cháu gái, đã đi lấy chồng, bị Ngũ thông quấy phá, rất lo lắng nhưng chưa từng nới với ai, vì quen biết thân mật với cô gái đã lâu nên kể ra không giấu giếm gì. Nàng nói "Những loại ấy thì cha thiếp có thể diệt trừ được, nhưng làm sao thiếp dám đem việc riêng của người tình mà kể với cha". Sinh năn nỉ xin bày cách cho, nàng ngẫm nghĩ rồi nói ”Loại ấy cũng dễ trừ, nhưng phải đích thân thiếp đi, mà bọn ấy đều là đầy tớ nhà thiếp, nếu chỉ để chúng chạm một ngón tay vào người thôi thì nước Tây Giang cũng không rửa hết nhục”. Sinh nài nỉ mãi, nàng nói "Để thiếp tính cho". Đêm sau nàng tới nói “Thiếp đã vì chàng sai đứa tỳ nữ xuống nam rồi, nhưng nó yếu ớt, sợ không giết được chúng thôi".</p><p></p><p>Đêm sau đang ngủ thì đứa tỳ nữ tới gọi, Sinh vội dậy mở cửa cho vào. Cô gái hỏi công việc thế nào, đứa tỳ nữ đáp "Con không đủ sức bắt sống, nên đã thiến nó rồi". Nàng cười hỏi đầu đuôi, đứa tỳ nữ kể “Ban đầu con tưởng là ở nhà lang quân đây, nhưng tới nơi mới biết là không phải. Tới nhà chồng nàng thì đã lên đèn, vào trong thấy nàng ngồi trước đèn, gục xuống bàn như đang ngủ, con bèn thu hồn nàng cho vào vò úp lại. Giây lát con quái tới, vừa vào phòng thì lùi ra ngay, quát "Sao lại có người lạ nào thế?” nhưng nhìn kỹ không thấy ai khác lại bước vào. Con làm như đang mê man, y cởi quần áo ra leo lên, lại giật mình nói "Sao lại có binh khí thế này". Ý con không muốn cầm vào vật bẩn dơ tay, nhưng sợ chậm trễ sinh biến bèn chụp lấy thiến luôn. Con quái đau đớn kêu la bỏ chạy, con trở dậy mở cái vò lên, nàng tỉnh dậy rồi thì con đi". Sinh mừng rỡ tạ ơn, cô gái cùng đứa tỳ nữ ra về.</p><p></p><p>Hơn nửa năm sau không thấy nàng tới, Sinh đã tuyệt vọng. Cuối năm Sinh nghỉ dạy dịnh về quê, cô gái chợt tới. Sinh mừng rỡ ra đón, nói "Lâu quá nàng không tới, ta nghĩ chắc đã phạm lỗi gì, nay nàng không dứt tình chứ?”. Nàng đáp "Gắn bó với nhau cả năm mà chia tay nhau không có một lời thì cũng chưa trọn vẹn. Nghe nói chàng thôi dạy học nên lén tới nói lời từ biệt". Sinh xin nàng cùng về quê với mình, nàng than "Khó nói lắm, hôm nay chia tay mà lòng không nỡ quên tình. Thiếp là con gái của Kim Long đại vương, vốn cùng chàng có túc duyên nên tới gặp gỡ. Không ngờ sai đứa tỳ nữ xuống Giang Nam làm giang hồ đồn ầm lên rằng thiếp vì chàng mà thiến Ngũ thông, cha thiếp nghe được cho là quá nhục nhã, đã định ban tội chết. May mà đứa tỳ nữ đứng ra nhận tội, ông mới hơi nguôi giận, phạt đánh nó một trăm gậy. Thiếp đi đâu nửa bước cũng có bà vú đi theo, chỉ nhân lúc sơ hở tới được đây một lần chứ không thể trọn duyên cầm sắt, biết làm sao được".</p><p></p><p>Nói xong từ biệt, Sinh kéo lại rơi nước mắt, nàng nói "Chàng đừng làm thế, ba mươi năm sau sẽ lại sum họp mà". Sinh nói “Ta nay ba mươi tuổi, ba mươi năm nữa đã là một ông già tóc bạc, còn mặt mũi nào gặp lại nhau?". Cô gái nói "Không phải thế. Ở Long cung không có người già tóc bạc, mà người đời thọ hay yểu không phải ở chỗ dung mạo, song nếu chàng muốn giữ dung mạo cho không già là chuyện rất dễ", kế viết một phương thuốc lên bìa quyển sách trên bàn rồi đi. Sinh về quê, cháu gái kể lại chuyện lạ, nói "Tối đến mơ thấy một người tới bắt bỏ vào vò, tỉnh dậy thấy máu đầm đìa cả chăn nệm, mà con quái tuyệt tích luôn". Sinh nói "Đó là do ta cầu đảo Hà Bá đấy” mọi người mới rõ.</p><p></p><p>Về Sau sinh sáu mươi tuổi mà diện mạo vẫn như người ba mươi. Một hôm qua sông, nhìn thấy xa xa phía thượng lưu có chiếc lá sen to như chiếc chiếu trôi xuống, một người đẹp ngồi ở trên, tới gần thì là cô gái thần liền nhảy qua, người theo chiếc lá sen nhỏ dần lại, khi còn bằng đồng tiền thì biến mất. Chuyện này và chuyện Thiệu Hồ đều xảy ra thời Minh mạt, không biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Nếu chuyện này xảy ra sau khi Vạn sinh dụng võ thì vùng Ngô Hạ chỉ còn có nửa tên Ngũ thông, chắc không đủ để tác quái làm hại nữa.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 68 -</strong></p><p>Họ Thân</p><p>(Thân Thị)</p><p></p><p>Cạnh sông Kính Hà (ở tỉnh Thiểm Tây) có họ Thân là con sĩ nhân, nhà rất nghèo, có ngày không nổi lửa nấu cơm, vợ chồng nhìn nhau không biết làm sao. Vợ nói "Hết cách rồi, hay là chàng đi ăn trộm vậy?", Thân đáp "Là con nhà sĩ nhân đã không làm rạng rỡ tổ tông mà còn làm mất danh tiếng, làm nhục ông cha, thì ăn trộm mà sống chẳng bằng trong sạch mà chết". Vợ uất ức nói "Ngươi muốn sống mà ghét mang nhục à? Trên đời những kẻ không cày ruộng mà sống chỉ có hai cách, ngươi đã không thể làm ăn trộm thì ta cũng không sao làm đĩ". Thân tức giận cãi vã với vợ, vợ uất ức bỏ đi ngủ.</p><p></p><p>Thân nghĩ mình là đàn ông mà không lo được ngày hai bữa cơm, để đến nỗi vợ muốn đi làm đĩ thì thà chết cho xong, bèn lặng lẽ dậy ra thắt thòng lọng trên cây ngoài sân treo cổ tự tử. Chợt thấy cha tới kinh ngạc nói "Thằng con ngu này sao lại đến nỗi như thế?”. Rồi cắt dây, dặn "Ăn trộm thì cũng được, nhưng phải rình ở chỗ đám lúa dày, chuyến này thì được chứ không được làm lần nữa đâu đấy". Vợ nghe có tiếng rơi xuống đất giật mình tỉnh dậy gọi chồng không thấy lên tiếng, thắp đèn ra nhìn thì thấy trên cây có sợi dây đứt, Thân thì chết ngất ở dưới, hoảng sợ tới lay gọi, giây lát Thân tỉnh lại, vợ đỡ vào nằm trên giường, cũng bớt tức giận.</p><p></p><p>Trời sáng, vợ Thân nói thác là chồng bị bệnh qua xin cơm nhà láng giềng về cho Thân ăn. Thân ăn xong ra cửa đi, tới trưa vác một túi gạo về. Vợ hỏi gạo ở đâu, Thân đáp "Các bạn bè của cha ta đều là nhà thế gia, tới đó xin xỏ thì được nhưng không mặt mũi nào đi cầu xin. Người xưa nói “Kẻ không nổi tiếng thì làm gì cũng được, nay ta định đi ăn trộm đây, còn tiếc gì? Nấu cơm mau lên, ta định theo lời nàng đi trộm cướp đây". Vợ nghĩ Thân giận lời nói của mình hôm qua nên mới nói thế, bèn vo gạo nấu cơm, Thân ăn no rồi vội tìm gỗ cứng lấy búa đẽo thành cái gậy cầm lấy ra đi. Vợ thấy đúng là đi trộm cướp vội kéo áo giữ lại, Thân nói “Cô bảo ta đi trộm cướp, nếu việc bại lộ liên lụy tới nhau thì đừng có hối hận", rồi dứt áo đi thẳng.</p><p></p><p>Chập tối Thân tới thôn bên cạnh bèn vòng ra cách đó một dặm nằm rình. Chợt có cơn mưa rào đổ xuống, cả người ướt đầm, nhìn thấy phía xa có rặng cây bèn tìm tới tránh mưa. Chợt có tia chớp lóe sáng, thấy đã tới gần bức tường, xa xa lại như có người đi tới, sợ họ trông thấy, nhìn thấy dưới tường có đám lúa dày vội lủi mau vào đó ngồi thụp xuống. Không bao lâu có một người đàn ông tới, thân thể to lớn, cũng rẽ xuống đám lúa. Thân sợ không dám nhúc nhích, may mà người ấy đi xéo qua, nhìn theo thấy y nhảy vào trong tường. Thân nhớ lại phía trong tường là nhà phú ông họ Khang, ắt người này là kẻ trộm, cứ chờ y ăn trộm trở ra sẽ đòi chia. Lại nghĩ y to lớn khỏe mạnh, nếu không lấy trộm được nhiều sẽ không chịu chia, ắt phải dùng võ, nhưng tự lượng sức mình không đánh nổi y, chẳng bằng nhân lúc bất ngờ đánh ngã. Tính kế xong nằm xuống chờ hồi lâu, lúc gà gáy canh một y mới nhảy tường ra, chân chưa chạm đất, Thân đã vùng dậy đập một gậy vào lưng ngã xuống đánh huỵch, thì là một con rùa lớn, miệng to như cái chậu. Thân phát hoảng vác gậy đập túi bụi, con rùa chết luôn.</p><p>Trước là ông họ Khang có một con gái rất xinh đẹp, cha mẹ đều yêu thương. Một đêm có người đàn ông vào trong phòng nàng cưỡng ép đòi giao hoan, cô gái muốn la lên thì lưỡi đã cứng đơ rồi hôn mê không biết gì nữa, mặc cho y mượn làm gì thì làm. Khi y đi rồi nàng xấu hổ không dám nói, chỉ họp đám tỳ nữ lại ngủ cùng phòng, đóng cửa thật chặt mà thôi. Đêm sau không biết vì sao cửa phòng lại tự mở ra, vào xem thì mọi người đều mê man, đám tỳ nữ đều bị hành dâm, cùng hoảng sợ kể lại với nhau rồi báo cho ông Khang. Ông sai gia nhân cầm dao gậy rình sẵn, thắp đèn sáng ngồi trong phòng, khoảng gần nửa đêm thì người gác trong ngoài đều nhất loạt thiếp đi, chợt như tỉnh mộng thức dậy thì thấy cô gái đã trần truồng nằm trên giường ngất đi, hồi lâu mới tỉnh lại ông Khang hận lắm nhưng không biết làm sao, được vài tháng thì cô gái cứ héo hắt gầy mòn đi. Ông Khang nói với mọi người rằng ai có thể trừ tà cho thì sẽ thưởng ba trăm lượng vàng, ngày thường Thân cũng đã từng nghe. Đêm ấy đánh được con rùa, sực nghĩ ra đây là tà quỷ ám cô gái. Bèn gõ cửa xin thưởng, ông Khang mừng rỡ mở tiệc mời, sai treo con rùa ở sân phanh thịt ra, giữ Thân ở lại qua đêm, quả nhiên tà quỷ đều tuyệt tích, bèn đem đủ ba trăm lượng vàng thưởng cho Thân.</p><p>Thân mang vàng về, vợ thấy qua đêm không về đang lo lắng trông ngóng, thấy Thân vào vội hỏi han, Thân không đáp, bày vàng ra giường. Vợ nhìn thấy hoảng sợ nói "Thật là anh đi ăn cướp à?”, Thân đáp "Cô bắt ta làm như thế, sao lại còn hỏi?". Vợ khóc nói “Hôm trước chỉ là nói đùa thôi, nay anh phạm tội chết chém, ta không thể chịu liên lụy với thằng giặc giết người, xin chết trước đây". Rồi chạy ra ngoài, Thân đuổi theo cười kéo lại kể thật mọi chuyện, vợ mới mừng rỡ. Từ đó đem vàng buôn bán, cũng nổi tiếng giàu có.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Người ta không lo nghèo, chỉ lo mất nết mà thôi. Tính nết đã ngay thẳng thì tuy đói cũng không chết, nếu không được người thương cũng có quỷ giúp. Những người nghèo khổ trên đời quên nghĩa để cầu lợi, quên nhục để kiếm cơm, không ai dám nhờ giữ giùm một đồng, thì làm sao còn được quỷ thần giúp cho?</em></p><p> </p><p><strong>69. Hằng Nương</strong></p><p><strong>(Hằng Nương)</strong></p><p></p><p>Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị nhan sắc rất đẹp, hai bên đều yêu thương nhau. Sau Hồng cưới tỳ nữ là Bảo Đới làm thiếp, nhan sắc kém xa Chu nhưng Hồng lại yêu chiều. Chu bất bình, vì thế vợ chồng sinh ra bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ở luôn lại phòng thiếp nhưng càng chiều chuộng Bảo Đới mà xa cách Chu.</p><p></p><p>Sau Hồng dời nhà, ở cạnh nhà một người buôn lụa họ Địch. Vợ Địch là Hằng Nương qua thăm Chu trước, thấy khoảng ba mươi tuổi, nhan sắc chỉ bình thường nhưng nói năng dịu dàng, Chu thích lắm. Hôm sau qua thăm đáp lễ thấy nhà nàng cũng có người thiếp khoảng hai mươi tuổi rất xinh đẹp. Ở cạnh nhau gần nửa năm, Chu không nghe thấy họ cãi cọ gì cả, mà Địch lại chỉ yêu quý có Hằng Nương, vợ thiếp chỉ là người để đó mà thôi. Một hôm Chu qua chơi nhà Hằng Nương, hỏi "Thiếp trước nay cho rằng chồng yêu vợ lẽ là vì vợ lẽ muốn thay bậc đổi ngôi, nay mới biết không phải. Phu nhân có thuật gì thế, nếu có thể dạy được thì thiếp xin làm học trò". Hằng Nương đáp “Ồ! chị tự xa cách rồi lại trách chồng sao? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim sẻ cho bụi rậm, càng xa cách nhau hơn. Về nhà cứ để mặc họ, dù chồng tự tới cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng thiếp sẽ tính tiếp cho chị".</p><p></p><p>Chu theo lời, trang điểm thêm cho Bảo Đới, bảo cùng ngủ với chồng, Hồng ăn uống gì cũng bảo Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng quan tâm thì Chu ra sức từ chối, từ đó mọi người đều khen Chu thị hiền. Như thế hơn tháng, Chu qua thăm Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Được đấy!” Bây giờ chị về nhà bỏ hết nữ trang, đừng mặc quần áo đẹp, đừng đánh phấn tô son, để mặt bẩn đi giày rách làm lụng với người nhà, một tháng sau hãy qua đây”.</p><p></p><p>Chu theo lời, mặc áo vá đụp, làm ra vẻ bẩn thỉu chỉ lo dệt vải chứ không hỏi gì tới chuyện khác. Hồng thương xót bảo Bảo Đới cùng làm lụng nhưng Chu không cho, cứ quát đuổi lên nhà. Như thế hơn tháng, lại qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương nói "Đứa nhỏ này dạy được đấy! Ngày tới là tiết Thượng ty<strong>*</strong>, muốn rủ chị đi chơi. Chị nên bỏ hết quần áo rách, giày dép áo quần thay mới một loạt rồi qua ta cho sớm", Chu thị vâng dạ.</p><p></p><p>*Tiết thượng ty: một lễ hội ở Trung Quốc cổ, tiến hành vào ngày Tỵ đầu tiên trong thượng tuần tháng ba âm lịch.</p><p></p><p>Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy đều theo như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong qua nhà Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Tốt lắm” rồi búi hộ mái tóc cánh phượng, mượt bóng như gương, tay áo không hợp thời trang thì tháo ra may lại, lại nói kiểu giày vụng, lấy vải vụn trong rương ra cùng khâu, xong rồi lập tức bảo Chu thay đổi. Lúc chia tay mời Chu uống rượu rồi dặn "Về gặp mặt chồng xong là đóng cửa đi ngủ ngay, y có tìm gõ cửa cũng đừng mở. Gọi ba lần mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn chuyện hôn hít vuốt ve. Nửa tháng sau hãy qua đây”.</p><p></p><p>Chu ăn mặc đẹp đẽ về nhà vào chào Hồng, Hồng chăm chú ngắm vợ từ trên xuống dưới, vui vẻ cười nói khác hẳn ngày thường. Chu thị kể qua buổi đi chơi rồi đỡ má ra vẻ mệt mỏi, trời chưa tối đã đứng dậy về phòng cài cửa đi nằm. Không bao lâu quả nhiên Hồng tới gõ cửa, Chu cứ nằm mãi không chịu dậy, Hồng mới bỏ đi, đêm sau cũng thế. Sáng ra Hồng trách móc, Chu nói "Ngủ một mình quen rồi, không chịu nổi sự quấy rầy”. Trời vừa xế Hồng đã vào phòng vợ ngồi giữ chỗ, kế tắt đèn lên giường như đêm tân hôn, thương yêu rất mực, lại hẹn đêm sau. Chu không chịu, hẹn trở đi cứ ba ngày một lần.</p><p></p><p>Khoảng nửa tháng qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò rồi nói "Từ nay thì chị có thể chiếm luôn chồng rồi. Có điều chị tuy đẹp nhưng chưa có duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên thì tranh giành được cả lòng sủng ái với Tây Thi, huống hồ là kẻ xấu hơn”. Liền bảo Chu liếc thử, nói “Không phải thế! Cạnh ngoài khóe mắt chưa được”. Lại bảo cười thử, nói "Không phải thế! Má bên trái chưa được," Rồi liếc mắt đưa tình, hé miệng cười duyên bảo Chu làm theo, mấy mươi lần mới hơi giống. Hằng Nương bảo "Chị về cứ soi gương mà tập, thuật chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn như lúc trên giường thì tùy cơ mà khêu gợi, tùy sở thích mà chiều chuộng thì đó không phải là điều dùng lời mà dạy được!".</p><p></p><p>Chu về làm đúng như lời Hằng Nương dạy, Hồng rất đẹp ý, bị cả nhan sắc lẫn phong thái của vợ làm cho si mê, chỉ sợ bị cự tuyệt. Trời vừa xế là vào ngồi nói chuyện vui cười với vợ không chịu rời phòng nửa bước, ngày nào cũng thế, không sao bảo ra được. Chu càng tử tế với Bảo Đới, mỗi khi ăn uống trong phòng đều gọi vào ngồi cùng, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã bảo nàng ta đi ra. Chu lại lừa chồng vào phòng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng suốt đêm Hồng không động chạm gì tới, Bảo Đới vì thế giận Hồng, gặp ai cũng oán trách ra miệng.</p><p></p><p>Hồng càng chán ghét, dần dần tới chỗ đánh đập. Bảo Đới phẫn uất bỏ cả trang điểm, áo bẩn giày rách, đầu bù tóc rối nên càng không trách ai được. Một hôm Hằng Nương hỏi Chu "Thuật của ta thế nào?". Chu đáp "Đạo thầy thật là tuyệt diệu, có điều đệ tử có thể làm được mà rốt lại vẫn chưa hiểu được. Để mặc là vì sao?". Hằng Nương nói "Chị không biết sao? Người ta vốn chán cái cũ mà thích cái mới, trọng cái khó mà khinh cái dễ. Chồng yêu vợ lẽ không hẳn vì cô ta đẹp mà vì thấy cái ít được nếm là ngon, thấy việc khó được gặp là hay. Cứ để mặc cho ăn no thì sơn hào hải vị cũng ngán chứ nói gì tới canh rau muống". Chu hỏi "Bỏ hết trang điểm rồi sau ăn mặc lộng lẫy là vì sao?". Hằng Nương đáp "Bỏ không ngó ngàng gì tới thì như xa cách lâu ngày, bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như mới tới, khác nào người nghèo chợt được ăn thịt ngon, sẽ thấy gạo lứt là vô vị. Lại không dễ dàng cho nếm ngay thì kẻ kia là cũ mà mình là mới, kẻ kia thì dễ mà mình thì khó, đó chính là thuật biến vợ thành thiếp đấy".</p><p></p><p>Chu cả mừng, bèn coi Hằng Nương là bạn thân chốn khuê phòng. Được vài mấy chợt Hằng Nương nói với Chu “Hai người chúng ta tình như ruột thịt, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích, trước đã định nói nhưng sợ chị nghi ngờ. Nay sắp từ biệt nên xin nói thật, thiếp chính là hồ. Thuở nhỏ thiếp gặp nạn, bị mẹ kế bán lên kinh đô, vì chồng thiếp đối xử tử tế nên không nỡ dứt tình ngay mới dùng dằng đến nay. Ngày mai cha thiếp trút xác lên tiên, thiếp phải về thăm không trở lại nữa". Chu cầm tay Hằng Nương than thở, sáng ra qua xem thì cả nhà đang hoảng hốt kinh sợ vì Hằng Nương đã biến đâu mất.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Người mua ngọc không quý ngọc mà lại quý cái hộp đựng ngọc<strong>*</strong>. Tình người đối với mới, cũ, khó, dễ vẫn là điều ngàn xưa đến nay không sao hiểu được, nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu đã được dùng trong chỗ đó rồi. Kẻ nịnh thần ngày xưa thờ vua thì ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, đủ biết việc giữ cho mình được sủng ái lâu dài cũng là điều tâm truyền đấy.</em></p><p></p><p>*Người mua ngọc... cái hộp đựng ngọc: Hàn Phi tử chép có người nước Sở bán viên ngọc cho người nước Trịnh, lấy gỗ mộc lan làm cái hộp đựng, sơn phết chạm trổ đẹp đẽ, người nước Trịnh bèn mua cái hộp mà trả lại viên ngọc.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 70 -</strong></p><p>Cát Cân</p><p>(Cát Cân)</p><p></p><p>Thường Đại Dụng người đất Lạc (tỉnh Hà Nam), rất mê hoa mẫu đơn. Nghe nói mẫu đơn ở Tào Châu (tỉnh Sơn Đông) đứng đầu cả Tề Lỗ (vùng Sơn Đông), đã có ý tới tìm. Gặp lúc có việc tới Tào Châu, nhân thuê khu vườn của một nhà thân sĩ để ở. Lúc ấy mới tháng hai, mẫu đơn chưa có, sinh cứ bồi hồi trong vườn nhìn chằm chằm vào cành, mong thấy nụ hoa nhú ra, lại làm đủ một trăm bài thơ tứ tuyệt nhan đề <em>Hoài mẫu đơn</em> (Nhớ mẫu đơn).</p><p></p><p>Ít lâu sau mẫu đơn có nụ, tiền lưng đã cạn phải cầm bán quần áo, nhưng vẫn say mê với hoa quên cả chuyện về. Một hôm sáng sớm ra vườn hoa, thấy có một nữ lang cùng bà vú ở đó, ngờ là gia quyến nhà quan vội quay vào phòng. Chiều ra vườn lại thấy, họ thong thả tránh đi. Liếc nhìn thấy nữ lang mặc quần áo lối cung trang vô cùng xinh đẹp, đang lúc ngây ngất chợt nghĩ "Đây chắc là tiên chứ dưới trần há có được người như thế sao". Vội vàng quay lại tìm, vừa qua một hòn giả sơn thì giáp mặt bà vú. Nữ lang đang ngồi trên hòn đá, thấy sinh thì giật nảy mình. Bà vú đứng trước mặt nàng, quát "Cuồng sinh định làm gì?". Sinh quỳ rạp xuống nói “Nương tử đây ắt là thần tiên". Bà vú thét mắng "Ăn nói bậy bạ như vậy thật đáng trói lại giải lên quan lắm", sinh cả sợ. Nữ lang mỉm cười nói "Thôi ta đi", rồi họ vòng qua hòn giả sơn đi mất.</p><p></p><p>Sinh quay về, cất bước không nổi, nghĩ chắc nữ lang về kể lại với cha anh ắt mình phải chịu nhục nhã, nằm lăn trong phòng tự hối hận vì đã liều lĩnh. Rồi nghĩ may mà nữ lang không có vẻ tức giận, có lẽ nàng không để bụng. Vừa hối hận vừa lo sợ suốt đêm phát ốm, đến rạng ngày vẫn không thấy ai tới hỏi tội mới hơi yên lòng. Song nhớ lại dung mạo âm thanh của nàng thì lại đổi sợ ra nhớ, cứ thế ba ngày, người gầy rộc đi như sắp chết. Đêm thắp đèn ngồi đến khuya, đầy tớ đã ngủ say thì bà vú kia bước vào cầm một cái liễn đưa sinh nói "Nương tử Cát Cân nhà ta tự tay nấu tô canh thuốc độc này đây, uống mau đi". Sinh nghe thế phát hoảng, kế nói "Kẻ hèn này với nương tử vốn không có thù oán, sao lại ban cho tội chết? Nếu đã là nương tử tự tay sắc thì ốm tương tư mà chết không bằng uống thuốc độc mà chết”, rồi ngửa cổ uống luôn. Bà vú cười cầm cái liễn đi. Sinh thấy vị thuốc thơm mát tựa hồ không phải là thuốc độc, giây lát thấy thân thể khoan khoái, đầu óc nhẹ nhàng, ngủ thiếp đi luôn.</p><p></p><p>Khi tỉnh thấy nắng đã soi sáng cửa sổ, thử trở dậy thì như đã khỏi bệnh, trong lòng càng tin nữ lang là tiên. Không biết làm sao gặp lại song lúc vắng người vẫn thấy phảng phất như nàng đang đứng đang ngồi, nên sinh lại vái lạy cầu khấn. Một hôm đi dạo chợt gặp phải nữ lang trong khóm cây rậm, không có ai khác bên cạnh. Sinh mừng quá lạy phục xuống đất, nữ lang tới gần đỡ dậy. Sinh chợt nghe mùi hương lạ tỏa ra khắp người nàng, liền nắm tay nàng đứng lên, thấy da thịt mềm mại khiến người ta nhũn cả xương cốt. Đang vừa muốn nói thì bà vú chợt tới, nàng bảo sinh núp vào sau tảng đá, chỉ về phía nam nói “Tối cứ theo cái thang trong vườn mà leo qua tường, chỗ bốn phía đều có cửa sổ sơn màu hồng là nơi thiếp ở", rồi vội vàng bỏ đi.</p><p></p><p>Sinh ngẩn ngơ mất cả hồn phách, không biết mình đang ở đâu. Đến đêm bắc thang leo lên bức tường phía nam thì bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn, vui mừng leo xuống, quả thấy chỗ có cửa sổ sơn màu hồng, bên trong có tiếng gõ quân cờ. Sinh dừng lại không dám tới, lại leo qua tường quay về. Lát sau lại leo qua thì vẫn còn tiếng gõ quân cờ chan chát, tới gần nhìn thì thấy nữ lang đang ngồi đối diện với một mỹ nhân áo trắng, bà vú cũng ngồi đó, có một tỳ nữ đứng hầu, lại quay về. Qua lại ba lần, trống canh ba đã điểm. Sinh đang núp dưới chiếc thang bên này thì nghe bà vú đi ra nói "Ai đem cái thang ra bắc ở đây thế này?", rồi gọi tỳ nữ cùng đem cất. Sinh leo lên đầu tường, muốn xuống lần nữa thì không có thang, buồn bực quay về.</p><p></p><p>Đêm sau lại qua thì thang đã đặt sẵn trong tường, may là vắng vẻ không có ai. Vào tới nơi thì nữ lang ngồi một mình như đang nghĩ ngợi điều gì, thấy sinh giật mình đứng dậy thẹn thùng khép nép. Sinh chắp tay nói "Tự nghĩ mình phúc mỏng, sợ không có duyên phận với người tiên, ngờ đâu lại có đêm nay”. Rồi ôm lấy nàng, thấy lưng ong nhỏ nhắn, hơi thở thơm phúc. Nàng đẩy ra nói "Sao mà gấp thế?", sinh đáp "Việc hay thường khó khăn, chậm trễ thì quỷ ghét!". Chưa dứt lời thì nghe có tiếng người xa xa, nàng vội nói "Em Ngọc Bản tới, chàng hãy tạm núp xuống gầm giường”, sinh theo lời. Giây lát một cô gái bước vào cười nói "Tướng thua trận còn dám nói đánh nữa hay không? Ta đã pha trà sẵn, xin mời tới chơi luôn qua đêm". Cô gái lấy cớ mỏi mệt từ chối nhưng Ngọc Bản cứ cố mời, nàng ngồi lỳ không chịu đi. Ngọc Bản nói "Còn chần chừ nữa, hay là giấu trai trong phòng” rồi lôi nàng ra cửa đi mất.</p><p></p><p>Sinh lóp ngóp bò ra, hận quá liền lục chăn nệm mong tìm được một vật làm tin, nhưng trong phòng không có món nữ trang nào, chỉ có một cái như ý pha lê buộc mảnh khăn tía ở đầu giường trông xinh xắn đáng yêu, bèn nhét vào bụng. Kế leo qua tường, về tới nhà xếp áo thấy vẫn còn đượm hương thơm của nàng, càng thêm thiết tha ái mộ. Nhưng vì bị cái sợ chui dưới gầm giường nên lo bị khép vào tội lớn, nghĩ ngợi không dám quay lại nữa, chỉ giữ kỹ cái như ý chờ nàng tới tìm. Cách một đêm quả nhiên nữ lang tới, cười nói "Trước nay thiếp cho rằng chàng là bậc quân tử chứ không biết là kẻ trộm cắp”. Sinh nói "Đúng thế đấy chứ, sở dĩ ngẫu nhiên có lúc chưa phải là bậc quân tử chỉ là vì mong được như ý thôi". Rồi ôm nàng vào lòng, cởi giải quần cho. Da ngọc vừa lộ ra, hương thơm đã tỏa khắp. Trong lúc ôm ấp vuốt ve thấy hơi thở mồ hôi của nàng đều thơm phức, nhân nói “Ta vẫn nghĩ nàng là bậc tiên nữ, nay càng thấy là đúng. Nay may được nàng đoái thương cũng là duyên kiếp ba sinh. Nhưng chỉ sợ Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc<strong>*</strong>, cuối cùng sẽ thành mối hận biệt ly thôi".</p><p></p><p>* Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc: Dung Thành tiên lục chép có người đánh cá ở Tương Giang ven hồ Động Đình nghe tiếng trẻ khóc, tới nhìn thì là một bé gái khoảng một hai tuổi bèn đem về nuôi, đến năm hơn mười tuổi thì dung mạo xinh đẹp lạ lùng, quả đúng như người tiên. Chợt có Đông Linh chân nhân trên không hạ xuống đưa nàng đi. Lúc ra đi cô gái nói với người đánh cá rằng "Ta là tiên nữ Đỗ Lan Hương, vì có lỗi bị đày xuống trần, nay xin từ biệt”.</p><p></p><p>Nàng cười nói "Chàng nói quá lời! Thiếp chẳng qua như Thiến nữ lìa hồn<strong>*</strong> tình cờ động lòng vì tình thôi. Việc này phải thật kín đáo, chứ e lời thị phi đơm đặt trắng đen thì chàng không thể mọc cánh bay còn thiếp cũng không thể cưỡi gió trốn, lúc ấy tai họa còn thê thảm hơn biệt ly nhiều”. Sinh cho là đúng nhưng rốt lại vẫn ngờ nàng là tiên, cứ cố hỏi họ tên. Nàng đáp "Chàng cho thiếp là tiên, mà đã là tiên thì cần gì phải lưu tên họ”. Sinh lại hỏi bà vú là ai, nàng đáp “Đó là bà Tang. Thuở nhỏ thiếp được bà che chở nên không coi như hạng tôi tớ". Rồi trở dậy ra về, dặn "Chỗ thiếp ở có nhiều tai mắt, không thể ở lâu, lúc nào có cơ hội thiếp sẽ tới". Khi từ biệt nàng đòi cái như ý, nói "Vật này không phải của thiếp mà là của Ngọc Bản để quên". Sinh hỏi Ngọc Bản là ai, nàng đáp “Đó là em con ông chú”, rồi trở gót quay về. Nàng đi rồi, chăn gối đều nhuốm mùi hương lạ.</p><p></p><p>* Thiến nữ lìa hồn: Thiến nữ tức Thiến Nương. Xem chú thích truyện Diệp sinh, quyển I.</p><p></p><p>Từ đó cứ hai ba đêm nàng lại tới một lần, sinh say mê chẳng nghĩ gì tới việc về quê mà đã hết sạch tiền, định bán ngựa. Nàng biết được, nói “Vì thiếp mà chàng hết tiền bán áo, lòng đã không nỡ, lại còn bán cả vật đỡ chân thì hơn ngàn dặm đường lấy gì mà đi? Thiếp có của riêng, có thể giúp chàng chút ít". Sinh từ chối, nói “Cảm lòng nàng yêu thương, dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền đáp, thế mà còn tham lam hèn hạ để nàng tốn kém thì sao đáng gọi là người?". Nàng cố ép nói "Nhờ chàng một lúc" rồi cầm tay sinh dẫn tới dưới một gốc dâu, chỉ một hòn đá bảo vần đi. Sinh làm theo, nàng lại rút chiếc trâm trên đầu chọc vài mươi nhát xuống đất rồi bảo đào lên. Sinh làm theo, thấy lộ ra một cái miệng vò. Nàng mò vào trong lấy ra một đỉnh bạc khoảng năm mươi lượng, sinh giữ tay ngăn lại nhưng nàng không nghe, cứ lấy thêm hơn mười đĩnh nữa, sinh cố trả lại một nửa rồi lấp đất lại như cũ.</p><p>Một đêm nàng nói với sinh "Gần đây đã hơi có lời đồn, thế không thể lâu dài được, không thể không tính kế khác". Sinh cả kinh hỏi "Làm sao bây giờ. Tiểu sinh vốn lo xa nhưng nay vì chuyện nàng, thật như góa phụ thất tiết không thể tự chủ được. Xin nhất nhất vâng lời nàng, dù đao cưa rìu búa gì cũng bất kể". Nàng bàn cùng trốn đi, bảo sinh về trước, hẹn gặp nhau ở đất Lạc. Sinh sắp sửa hành trang về quê, định về trước đợi đón nàng, nhưng vừa vào tới nhà thì xe nàng đã tới cổng. Hai người lên sảnh cho gia nhân lạy chào, láng giềng tới mừng không ai biết là hai người đi trốn. Sinh nơm nớp lo sợ nhưng nàng vẫn thản nhiên, nói với sinh "Không nói là ngoài ngàn dặm thì ma quỷ cũng không biết được, dù có biết thì thiếp là con gái Trác Vương Tôn lại không bằng Tương Như<strong>*</strong> à?".</p><p></p><p>*Trác Vương Tôn... Tương Như: Hán thư chép con gái Trác Vương Tôn là Trác Văn Quân xinh đẹp, giỏi thi phú, hiểu âm luật nhưng góa chồng sớm. Tư Mã Tương Như tới chơi nhà Trác Vương Tôn thấy nàng xinh đẹp bèn gảy đàn hát khúc Phượng cầu hoàng để khêu gợi, Văn Quân bèn trốn theo Tương Như. Đây cô gái có ý nói sẵn sàng vì tình trốn theo người yêu.</p><p></p><p>Em trai sinh là Đại Khí, tuổi vừa mười bảy. Nàng nhìn thấy khen "Thật có bản căn thông tuệ, tiền đồ còn hơn chàng nhiều”. Đại Khí sắp làm đám cưới thì vợ chưa cưới chết yểu, cô gái nói với sinh “Em Ngọc Bản của thiếp chàng đã thấy mặt rồi, dung mạo không xấu, tuổi cũng xấp xỉ, làm vợ chú ấy có thể nói là xứng đôi”. Sinh nghe thế phì cười, đùa nhờ nàng làm mai. Nàng nói "Nếu muốn cũng không khó". Sinh mừng hỏi làm cách nào, nàng đáp "Em Ngọc Bản và thiếp rất thân thiết, chỉ cần hai con ngựa kéo chiếc xe nhẹ và một bà vú đi về thôi”. Sinh sợ lộ chuyện trước không dám theo lời, nàng quả quyết không hề gì, lập tức sai thắng xe, bảo bà Tang đi. Vài ngày tới Tào Châu, tới gần cổng làng bà Tang xuống xe, bảo người đánh xe dừng lại đợi bên đường, nhân lúc trời tối vào làng, hồi lâu đưa Ngọc Bản ra lên xe phóng về, đêm nghỉ ngày đi. Cô gái tính ngày, bảo Đại Khí mặc quần áo đẹp đi đón, cách năm mươi dặm thì gặp nhau, đánh xe trở về, nổi nhạc kết đèn làm lễ cưới. Từ đó cả hai anh em cùng có vợ đẹp, gia cảnh ngày càng khá giả.</p><p></p><p>Một hôm có bọn cướp lớn vài mươi tên vào nhà, sinh biết có biến, gọi cả nhà lên lầu. Bọn cướp vào nhà tới vây chặt dưới lầu, sinh cúi xuống hỏi "Có thù oán gì với nhau chăng?” Chúng đáp “Không có thù oán gì, nhưng có hai điều muốn xin. Một là nghe nói hai phu nhân nhà này xinh đẹp tuyệt thế, xin cho được thấy mặt một lần. Hai là năm mươi tám người ở đây, mỗi người xin năm trăm lượng vàng". Rồi chất củi dưới lầu, định dùng kế phóng hỏa để uy hiếp. Sinh ưng thuận nộp tiền nhưng chúng không thỏa ý, vẫn đòi đốt lầu, gia nhân cả sợ. Cô gái muốn cùng Ngọc Bản xuống lầu, ai ngăn cũng không nghe, thay áo quần lộng lẫy bước xuống, chưa hết ba bậc thì nói với bọn cướp "Chị em ta đều là người nơi tiên cung tạm thời xuống trần, sợ gì bọn giặc cướp. Muốn cho các ngươi ngàn vạn lượng vàng, chỉ e các ngươi không dám lấy thôi". Bọn cướp nhất tề ngước lên vái lạy, đồng thanh nói không dám. Hai chị em đang định trở lên, một tên thét “Trò bịp đấy”. Nàng nghe thấy quay lại nói "Muốn gì cứ làm ngay đi, cũng chưa muộn mà” Bọn cướp nhìn nhau im lặng, hai chị em ung dung bước lên lầu. Chúng nhìn theo đến khi hai nàng khuất bóng rồi mới ồn ào rút đi.</p><p></p><p>Sau hai năm, chị em mỗi người sinh một con trai, lúc ấy cô gái mới tự nói là họ Ngụy, mẹ được phong làm Tào Quốc phu nhân. Sinh ngờ là đất Tào không có nhà thế gia nào họ Ngụy, vả lại dòng họ lớn mà mất hai con gái đời nào chịu để yên, tuy không dám căn vặn tới cùng nhưng vẫn thầm ngờ vực. Bèn kiếm cớ trở lại đất Tào, vào địa giới đất Tào là hỏi thăm ngay nhưng không có nhà thế gia nào họ Ngụy. Bèn tìm đến nhà trọ cũ, chợt thấy trên vách có bài thơ <em>Tặng Tào Quốc phu nhân</em>, vô cùng kinh sợ lạ lùng. Bèn hỏi chủ nhân, chủ nhân cười, lập tức mời đi xem Tào Phu nhân, tới nơi thì là một gốc mẫu đơn cao ngang chái nhà. Hỏi vì đâu có tên ấy thì vì đó là thứ hoa đệ nhất đất Tào nên người ta mới phong đùa như vậy. Hỏi đó là giống gì, chủ nhân đáp là Tử Cát sinh càng sợ hãi, cho cô gái là tinh hoa.</p><p></p><p>Trở về cũng không dám hỏi han, chỉ kể lại chuyện bài thơ <em>Tặng Tào phu nhân</em> để dò ý. Cô gái chợt biến sắc bỏ ra ngay, gọi Ngọc Bản bế con tới, nói với sinh "Ba năm trước cảm lòng chàng nghĩ tới nên đem thân đền đáp. Nay đã ôm lòng nghi ngờ thì sao còn có thể chung sống được nữa?". Rồi lập tức ném con ra xa, hai đứa nhỏ rơi xuống chết ngay. Sinh đang hoảng hốt thì hai nàng đã biến mất, hối hận vô cùng. Vài hôm sau ở chỗ hai đứa nhỏ rơi chết mọc lên hai cây mẫu đơn, qua đêm đã cao một thước, ngay trong năm ấy nở hoa một màu tía, một màu trắng, đóa hoa to như cái mâm, tươi đẹp dày đặc hơn hẳn các giống Cát Cân, Ngọc Bản bình thường. Mấy năm sau hai cây mẫu đơn ấy tươi tốt thành bụi dày, nếu đem đi trồng nơi khác thì biến đổi không ra giống gì cả. Từ đó, nơi nhiều mẫu đơn không đâu hơn đất Lạc.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Để lòng cả vào việc nhung nhớ thì có thể thông suốt tới cả quỷ thần, hoa kia lay động cũng không thể nói là vô tình vậy. Thiếu phủ cô quạnh còn coi hoa là phu nhân<strong>*</strong>, huống hồ là người đẹp biết nói cười, cần gì phải vất vả truy tìm cho tớì tận nguồn gốc lai lịch chứ! Tiếc cho Thường sinh chưa phải là kẻ đạt vậy.</em></p><p></p><p>*Thiếu phủ... phu nhân: lấy ý câu trong bài Hý đề tân tài tường vi của Bạch Cư Dị thời Đường "Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch, Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân” (Thiếu phủ xuân về buồn vắng vợ, Chờ khi hoa nở gọi phu nhân). Thời Đường thường gọi Huyện úy là Thiếu phủ, Bạch Cư Dị lúc ấy đang làm Huyện úy nên tự xưng như vậy. </p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 71 -</strong></p><p>Hoàng Anh</p><p>(Hoàng Anh)</p><p></p><p>Mã Tử Tài người phủ Thuận Thiên, gia đình mấy đời rất chuộng hoa cúc, đến đời Tài thì càng say mê hơn, nghe ở đâu có giống cúc quý thì dù xa xôi ngàn dặm cũng tìm tới. Một hôm có người khách từ Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới trọ trong nhà, nói họ hàng bên ngoại mình có một vài giống cả phương Bắc không đâu có. Mã thích quá lập tức thu xếp hành trang theo tới Kim Lăng, khách tìm đủ cách mới tìm được cho hai cây. Mã giữ gìn như của báu, về tới giữa đường gặp một thiếu niên cưỡi ngựa theo sau một cỗ kiệu có mui, bèn tới gần bắt chuyện. Thiếu niên nói mình họ Đào, ăn nói rất phong nhã, nhân hỏi Mã từ đâu tới, Mã kể thật. Thiếu niên nói "Không có giống cúc nào không đẹp, chỉ là ở người chăm bón tưới tắm thôi". Nhân bàn tới thuật trồng cúc, Mã thích lắm, hỏi định đi đâu. Thiếu nỉên đáp "Chị ta chán đất Kim Lăng, muốn lên phương Bắc ở". Mã vui mừng nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng lều tranh có thể ở tạm, nếu không chê hoang vắng bỉ lậu thì khỏi phải vất vả đi đâu cả" Đào phóng ngựa lên trước kiệu thưa với chị, người trong kiệu vén rèm trò chuyện, là một mỹ nhân tuyệt thế, tuổi khoảng hai mươi. Nàng nói với em trai "Nhà thấp nhỏ không sao nhưng vườn thì cần rộng". Mã gật đầu, hai chị em bèn theo Mã về.</p><p></p><p>Phía nam nhà Mã có một khu vườn hoang, trên có ba bốn gian nhà nhỏ, Đào mừng rỡ bèn vào đó ở. Hàng ngày qua nhà phía bắc giúp Mã trồng cúc, cúc đã chết khô thì nhổ lên rồi giâm xuống, cây nào cũng sống. Nhưng gia cảnh Đào thanh bần, hàng ngày ăn uống với Mã chứ xem trong nhà như không mấy khi nổi lửa. Vợ Mã là Lữ thị cũng rất quý chị Đào, thỉnh thoảng lại giúp cho gạo thóc. Chị Đào tiểu tự là Hoàng Anh, ăn nói khéo léo nhã nhặn, cứ qua chỗ Lữ thị cùng nhau may vá. Một hôm Đào nói với Mã "Nhà ông vốn không dư dật, hàng ngày ta lại vì miếng cơm làm lụy kẻ tri giao, cứ thế mãi sao được. Nay tính kế thì bán cúc cũng đủ mưu sinh". Mã vốn ngay thẳng nên nghe Đào nói thế rất khinh bỉ, nói “Ta cho rằng ông là kẻ cao sĩ phong lưu, có thể vui với cảnh nghèo, nay bàn như thế là lấy vườn cúc làm cái chợ, nhục cho cúc thật". Đào cười nói "Tay làm hàm nhai không phải tham, trồng hoa để sống không phải tục. Người ta vốn không nên mong giàu bậy bạ song cũng bất tất phải mong nghèo”. Mã không nói gì, Đào đứng dậy ra về, từ đó cứ cành gãy mầm xấu bên nhà Mã bỏ đi thì nhặt hết đem về nhà mình, cũng không qua ăn ngủ với Mã nữa, Mã có mời mới qua.</p><p></p><p>Không bao lâu đến kỳ hoa cúc nở, Mã nghe bên cổng nhà Đào ồn ào như cái chợ, lấy làm lạ ra xem thì thấy khách buôn tới mua hoa, vai vác xe chở đầy đường. Nhìn tới hoa đều là giống lạ mắt chưa từng thấy, trong lòng ghét Đào tham lam, muốn tuyệt giao nhưng hận vì còn giữ kín giống lạ bèn gõ cửa qua định trách mắng. Đào ra dắt tay dẫn vào, thấy nửa mẫu sân bỏ hoang đều thành luống cúc, ngoài mấy gian nhà ra không còn đất trống, những chỗ vừa cắt cúc đi thì lấy cành khác dặm vào, hoa trên luống đều đẹp đẽ, nhìn kỹ đều là những thứ mình bỏ đi trước kia. Đào vào nhà lấy rượu thịt ra bày cạnh luống cúc nói "Ta nghèo không giữ được điều răn thanh bạch, bao nhiêu ngày mới may kiếm được chút ít, cũng đủ uống say” Lát sau trong phòng có tiếng gọi Tam Lang, Đào dạ quay vào, giây lát đem ra các thức nấu nướng ngon lành. Mã nhân hỏi lệnh tỷ sao không xuất giá, Đào đáp chưa đến lúc. Mã hỏi lúc nào, Đào đáp bốn mươi ba tháng nữa. Mã lại gặng hỏi tại sao nói thế, Đào chỉ cười không đáp, hai người uống say rồi mới chia tay.</p><p></p><p>Hôm sau lại qua, thấy những nhánh cúc mới dặm đã cao gần thước lấy làm lạ bèn năn nỉ hỏi Đào cách trồng. Đào nói "Điều ấy không thể lấy lời mà truyền được, vả lại ông không trồng cúc để mưu sinh thì biết làm gì”. Lại mấy hôm nữa, trong sân ngoài ngõ hơi vắng người mua, Đào bèn lấy chiếu cói bọc cúc, chất lên mấy xe chở đi. Giữa mùa xuân năm sau Đào mới chở hoa lạ ở phương Nam về, mở hàng bán hoa trong kinh đô, mười ngày thì bán hết sạch, kế lại về trồng cúc. Hỏi tới những người năm trước mua cúc của Đào giữ cây làm giống thì năm sau hoa đều thay đổi kém hẳn, lại phải mua của Đào. Đào vì thế ngày càng giàu có, năm đầu làm thêm phòng ốc, năm thứ hai xây nhà, việc xây cất cứ tùy ý không bàn với chủ nhân, dần dần vườn trồng cúc cũ đều là nhà cửa. Lại mua riêng một khu ruộng, xây tường chung quanh trồng toàn cúc, mùa thu chở hoa đi, cuối xuân vẫn không về. Kế vợ Mã chết, Mã muốn cưới Hoàng Anh nên nhờ người bắn tin, Hoàng Anh mỉm cười có vẻ ưng thuận, chỉ đợi Đào về mà thôi. Hơn năm Đào vẫn chưa về, Hoàng Anh đốc thúc tôi tớ trồng cúc giống hệt như Đào, có tiền lại càng buôn bán lớn, cấy cày đến hai mươi khoảnh ruộng tốt ngoài thôn, nhà cửa ngày càng bề thế. Bỗng có khách từ Đông Việt (tỉnh Quảng Đông) tới đem thư của Đào gới về, mở xem thì là Đào khuyên chị lấy Mã, xem lại ngày viết thư đúng là ngày vợ Mã chết. Mã nhớ lại lúc uống rượu trong vườn, tính đến đó vừa đúng bốn mươi ba tháng, vô cùng lạ lùng bèn đưa thư cho Hoàng Anh xem, hỏi nộp sính lễ ở đâu. Hoàng Anh từ chối không nhận sính lễ, lại vì chỗ ở cũ chật chội, muốn Mã qua ở bên khu nam giống như ở rể. Mã không nghe, chọn ngày đón dâu về nhà mình.</p><p></p><p>Hoàng Anh về với Mã rồi, mở cửa trên vách thông với khu nam, hàng ngày qua đó sai bảo đầy tớ. Mã xấu hổ vì vợ giàu, thường dặn Hoàng Anh làm sổ biên chép của cải hai khu để đề phòng bị lẫn lộn, nhưng những thức cần dùng, Hoàng Anh đều lấy ở khu nam. Chưa được nửa năm, vật dụng trong nhà đều là của nhà Đào, Mã lập tức sai người đem trả hết, dặn đừng lấy qua nữa. Chưa đầy một tuần mọi thứ lại lẫn lộn, mấy lần đem trả như thế, Mã không sao chịu nổi phiền phúc. Hoàng Anh cườí nói "Chàng Trần Trọng Tử<strong>*</strong> có mệt không?", Mã xấu hổ không kê biên gì nữa, nhất nhất theo ý Hoàng Anh. Hoàng Anh thuê thợ, mua vật liệu để dựng nhà, Mã không sao cản được, qua vài tháng thì lầu gác san sát, hai khu nhà hợp làm một không chia ranh giới nữa.</p><p></p><p>*Trần Trọng Tử: Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật chép ẩn sĩ Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến quốc là em Trần Đới đại quý tộc ở nước Tề, "ăn lộc muôn chung”. Trần Trọng Tử cho rằng như thế là bất nghĩa, vì vậy dắt vợ trốn tới đất Ô Lăng nước Sở, chồng đan hài, vợ dệt vải để sống, được người ta coi là liêm. Nhân vật Hoàng Anh có ý chế nhạo.</p><p> </p><p>Nhưng theo ý Mã nên gia đình đóng cửa không bán cúc nữa, song việc chi dùng còn hơn cả các nhà thế gia. Mã áy náy nói "Nết trong sạch ba mươi năm của ta vì nàng mà bị lụy. Nay sống ở đời mà mọi sự ăn ở đều nhờ vào vợ, thật không có chút phẩm giá đàn ông. Cho nên người ta đều muốn giàu mà ta chỉ muốn nghèo thôi". Hoàng Anh nói "Thiếp không phải là phường tham bỉ, nhưng nếu không dư dật chút ít thì ngàn năm sau người ta lại nói Uyên Minh<strong>*</strong> nghèo thấu xương, trăm đời không ngóc đầu nổi, nên phải xóa bỏ tiếng chê cười cho nhà Bành Trạch* chúng ta thôi. Nhưng kẻ nghèo mong giàu thì khó, còn kẻ giàu muốn nghèo vốn rất dễ, bao nhiêu tiền bạc trong nhà xin chàng cứ mặc ý phá tán, thiếp không tiếc đâu”. Mã nói "Làm hao tổn tiền bạc của người khác thì tệ lắm". Hoàng Anh nói "Chàng không muốn giàu nhưng thiếp cũng không thể chịu nghèo. Thôi cứ ở riêng, ai trong cứ trong, ai đục cứ đục, có hại gì đâu?”. Rồi sai cất một gian nhà tranh trong vườn, chọn tỳ nữ xinh đẹp cho tới hầu hạ Mã.</p><p></p><p>*Uyên Minh, Bành Trạch: Nam sử chép Đào Tiềm thời Tấn tự Uyên Minh, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch nên người ta còn gọi là Đào Bành Trạch, tính ngay thẳng thanh cao, rất thích hoa cúc. Chị em Hoàng Anh trong truyện này lấy họ Đào là có ý nói mình là hậu duệ của Đào Tiềm.</p><p></p><p>Mã yên lòng ra ở đó nhưng được vài ngày nhớ Hoàng Anh quá, sai gọi nhưng nàng không chịu tới bất đắc dĩ phải quay về, cứ cách một đêm một lần thành lệ. Hoàng Anh cười nói “ăn nhà đông ngủ nhà tây, kẻ liêm không nên như thế", Mã cũng phì cười không trả lời được, bèn lại ở chung như trước. Gặp lúc Mã có việc lên Kim Lăng đúng vào mùa cúc thu, sáng đi ngang hàng bán hoa thấy bày đủ thứ chậu, hoa đều rất đẹp, động lòng ngờ là cúc của Đào. Lát sau chủ nhân ra thì quả là Đào, mừng rỡ hàn huyên rồi ngủ lại đó. Mã nhân rủ Đào về, Đào nói “Kim Lăng là quê cũ của ta, ta sắp cưới vợ ở đây. Có dành dụm được ít tiền, phiền anh đem về cho chị ta, khoảng cuối năm ta sẽ về". Mã không chịu cố nài nỉ Đào về, lại nói "May gia cảnh đã phong túc, có thể ngồi mà ăn không cần phải buôn bán gì cả". Đào bèn ngồi trong hàng sai đầy tớ thay mình ngã giá bán rẻ, vài ngày thì bán hết hoa, vội thu xếp hành lý thuê thuyền về Bắc.</p><p></p><p>Vào nhà thì chị đã dọn dẹp phòng ốc, chuẩn bị giường chiếu chăn đệm như đã biết trước là em trai về. Đào từ khi về tới nhà thì cởi hành lý coi việc nhà, tu sửa hết nhà cửa vườn tược, hàng ngày chỉ cùng Mã uống rượu đánh cờ, không tiếp người khách nào. Anh chị muốn tìm vợ cho nhưng Mã không chịu, chị bèn sai hai tỳ nữ hầu hạ giường chiếu, qua ba bốn năm sinh được một gái. Đào vốn uống rượu rất hào, chưa ai thấy say. Mã có người bạn là Tăng sinh, tửu lượng cũng chưa ai bằng, gặp lúc ghé chơi, Mã bảo uống thi với Đào. Hai người thả sức uống rất vui vẻ, chỉ hận là biết nhau quá muộn. Uống từ giờ Thìn đến canh tư, tính ra mỗi người uống hết trăm bầu. Tăng say mèm ngủ luôn tại bàn, Đào đứng lên về phòng ngủ, ra tới luống cúc thì ngã vật xuống, ném cái áo bên cạnh hóa luôn thành cây hoa cúc cao bằng đầu người, mang hơn chục đóa hoa đều to bằng nắm tay. Mã khiếp đảm báo Hoàng Anh, Hoàng Anh vội tới nhổ cây cúc đặt trên mặt đất, nói “Sao mà say tới mức này?” rồi đắp cái áo lên, kéo Mã cùng đi, bảo đừng nhìn.</p><p></p><p>Sáng ra Mã tới thì thấy Đào nằm bên luống cúc, mới sực hiểu ra hai chị em là tinh cúc, từ đó càng thêm yêu kính. Từ ngày lộ tung tích, Đào uống rượu càng buông thả, thường viết thư mời Tăng tới uống rượu, chơi với nhau rất thân. Gặp ngày Tết Tăng tới thăm, dắt hai người đầy tớ mang theo một vò rượu trắng ngâm thuốc, hẹn cùng uống kỳ hết. Vò rượu gần cạn mà hai người vẫn chưa say lắm, Mã lại ngầm rót thêm rượu vào, hai người lại uống cạn. Tăng say khướt, bọn đầy tớ cõng về. Đào nằm lăn ra đất, lại hóa thành cây cúc. Mã thấy đã quen không sợ nữa, cứ theo đúng cách nhổ lên đặt trên đất rồi ngồi canh bên cạnh xem diễn biến. Hồi lâu lá cúc càng héo đi, Mã cả sợ mới báo với Hoàng Anh. Hoàng Anh hoảng hốt nói "Chết em ta rồi", rồi chạy ra xem thì cả gốc lẫn cành cúc đã khô héo. Nàng vô cùng đau xót, ngắt lấy cành hoa giâm vào chậu mang về phòng riêng, hàng ngày tưới bón chăm sóc. Mã vô cùng hối hận, rất oán Tăng, mấy ngày sau thì nghe tin Tăng chết vì say rượu. Nhánh cúc trong chậu dần nảy mầm, tháng chín đã trổ hoa, cành ngắn nụ mướt, ngửi có mùi thơm như rượu, đặt tên là "Túy đào” (Đào say), tưới bằng rượu thì rất tươi tốt. Về sau con gái Đào lớn lên lấy chồng nhà thế gia, còn Hoàng Anh đến trọn đời cũng không có gì khác lạ.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Người của mây trắng trên núi xanh, say rượu mà chết<strong>*</strong>, đời đều thương tiếc nhưng chưa chắc họ đã không lấy đó làm điều khoái ý. Trồng loại hoa ấy trong sân thì như gặp mặt bạn hiền, như đối diện người đẹp, không thể không tìm cho được vậy.</em></p><p></p><p>*Người của... mà chết: Phó Kỳ người thời Đường, có bệnh không mời thầy thuốc, tự ghi mộ chí rằng “Kỳ là người của mây trắng núi xanh, say rượu mà chết”. Đến năm tám mươi tuổi chết, dặn người nhà cứ để trần truồng mà chôn, kẻ thức giả cho là người phóng đạt.</p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 72 -</strong></p><p>Mê Sách</p><p>(Thư Si)</p><p></p><p>Lang Ngọc Trụ người Bành Thành, cha làm quan Thái thú, lúc tại chức thanh liêm, được bổng lộc không mua ruộng đất nhà cửa, chỉ chứa sách đầy nhà. Đến đời Ngọc Trụ lại càng say mê, nhà nghèo khó phải bán hết đồ đạc nhưng một quyển sách của cha để lại cũng không nỡ bán. Khi cha còn sống từng chép thiên Khuyến học<strong>*</strong> dán bên phải chỗ ngồi, Lang hàng ngày vẫn ngâm nga, lại lấy the trắng bọc lại sợ mờ mất chữ, không phải vì công danh mà thật lòng tin rằng trong sách cũng có vàng có thóc.</p><p></p><p>*Thiên Khuyến học: tức bài thơ Khuyến học của vua Chân tông nhà Tống, nguyên văn như sau "Phú gia bất dụng mại lương điền, Thư trung tự hữu thiên chung túc. An cư bất dụng giá cao đường, Thư trung tự hữu hoàng kim ốc. Thú thê mạc hận vô lương môi, Thư trung hữu nữ nhan như ngọc. Xuất môn mạc hận vô nhân tùy, Thư trung xa mã đa như thốc. Nam nhi dục toại bình sinh chí, Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc” (Nhà giàu không cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở yên chẳng cần xây gác cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ chớ hờn không mối mai, Trong sách có nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe nhiều lóc nhóc. Nam nhi muốn thỏa chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc)".</p><p> </p><p>Ngày đêm mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không bỏ bê, hơn hai mươi tuổi cũng không lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới. Bạn bè thân thích tới chơi cũng không buồn hỏi han chuyện trò, nói năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc khách tự về. Lần nào học quan về sát hạch cũng được lấy đứng đầu, nhưng thi mãi vẫn không đỗ. Một hôm Lang đang học, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, vội đuổi theo nhặt chợt chân bị sụt xuống đất, mò xem thì dưới hố có cỏ mục, đào lên thì là kho lúa của người xưa cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn được nhưng càng tin mấy chữ "ngàn chung thóc" là đúng nên càng chăm đọc sách.</p><p></p><p>Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đống sách vở nhặt được chuỗi tiền vàng dài một thước, cả mừng cho rằng nghiệm với chữ "nhà vàng". Đưa cho người ta thì té ra là vàng mạ, không phải vàng thật, lòng thầm oán cổ nhân lừa mình. Không bao lâu người bạn cùng khoa với cha Lang ra làm Quan sát đạo ấy, tính mộ đạo Phật. Có người khuyên Lang cúng chuỗi tiền xây tháp Phật. Quan sát thích lắm ban cho Lang ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Lang mừng cho là chữ “xe ngựa, nhà vàng” đều đã nghiệm nên càng ra sức học hành nhưng đã ba mươi tuổi.</p><p></p><p>Có người khuyên lấy vợ, Lang nói "Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp”. Lại học thêm hai ba năm vẫn không thấy gì, có người chế giễu. Lúc ấy trong dân gian ngoa truyền rằng "Chức Nữ trên trời trốn theo trai”, có người nhân đùa Lang rằng "Cháu trời bỏ trốn chỉ vì ông thôi”, Lang biết là đùa nên không buồn cãi. Một đêm đọc sách Hán thư tới quyển tám<strong>*</strong>, tới giữa quyển thấy hình một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ép trong đó, hoảng sợ nói "Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc là ứng vào đây chăng?”, trong lòng chợt thấy buồn rầu.</p><p></p><p>* Hán thư tới quyển tám: Hán thư quyển này có chép tờ chiếu tháng 5 năm Bản Thủy thứ 4 đời Hán Tuyên đế, trong có câu "Phụ tử chi thân, phu phụ chi đạo, thiên tính dã" (Tình cha con, đạo vợ chồng là tính trời), có vẻ ám hợp với nội dung truyện này vì nhân vật Lang Ngọc Trụ không chịu lấy vợ.</p><p></p><p>Nhìn kỹ mỹ nhân thì thấy con mắt lông mày như người sống, sau lưng có chữ "Chúc Nữ" mờ mờ, vô cùng lạ lùng, hàng ngày cứ đặt lên trên sách xoay trở ngắm nghía đến nỗi quên ăn quên ngủ. Một hôm đang chăm chú nhìn thì mỹ nhân chợt nhỏm dậy ngồi trên sách mỉm cười, Lang khiếp đảm lạy sụp xuống trước bàn, khi ngẩng lên thấy nàng đã cao một thước, càng sợ lại lạy phục xuống. Mỹ nhân ung dung bước xuống đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười nóì “Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn ai tin vào cổ nhân”.</p><p></p><p>Lang mừng rỡ để ở cùng phòng, ngủ chung với nhau rất thân thiết, nhưng lúc chăn gối thì không làm sao cho ra đàn ông. Mỗi khi đọc sách là bảo cô gái ngồi cạnh, nàng bảo đừng học nữa nhưng Lang không nghe. Cô gái nói “Chàng sở dĩ không đỗ đạt là vì đọc sách đó thôi. Thử xem những người khoa bảng có mấy người đọc sách như chàng. Không nghe là thiếp bỏ đi đấy”. Lang nghe theo nhưng chốc lát lại quên lời nàng, cất tiếng ngâm đọc. Giây lát ngoái tìm cô gái thì đã biến mất, hoảng hốt quỳ xuống cầu khấn nhưng vẫn không thấy đâu. Chợt nhớ tới nơi ẩn náu cũ của nàng, mở sách <em>Hán thư </em>kiểm kỹ lại, tới chỗ cũ quả tìm thấy. Gọi mãi vẫn không động, Lang quỳ xuống năn nỉ nàng mới bước ra, nói "Chàng còn trái lời thiếp thì quyết sẽ vĩnh biệt".</p><p></p><p>Rồi lấy bàn cờ cỗ bài ra hàng ngày cùng chơi, nhưng Lang không thích thú gì, cứ vắng nàng lại giở trộm sách ra đọc, sợ bị nàng biết nên ngầm cất quyển tám sách <em>Hán thư</em> vào chỗ khác để nàng không tìm thấy. Một hôm đang đọc say sưa thì cô gái tới, cho rằng nàng không biết, vội gấp sách lại thì nàng đã biến mất. Lang cả sợ, lục soát khắp sách vở không thấy, tới quyển tám sách <em>Hán thư</em> tới đúng trang cũ lại thấy, bèn lạy lục khấn khứa thề không đọc sách nữa. Cô gái bèn bước ra bắt cùng đánh cờ, nói “Nếu ba ngày đánh không khá thiếp sẽ đi đấy". Đến ngày thứ ba chợt một ván Lang thắng nàng hai quân, nàng bèn vui vẻ trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang lo nhìn dây bấm phím, không rảnh mà nghĩ tới chuyện khác, lâu sau thì đã đàn đúng tiết tấu giai điệu, bất giác mừng rỡ múa lên. Cô gái bèn hàng ngày rủ uống rượu đánh bài, Lang vui thích quên cả việc đọc sách, nàng lại bảo ra ngoài kết bạn, vì vậy bỗng nhiên nổi tiếng sành đời.</p><p></p><p>Cô gái nói “Chàng có thể thi đỗ làm quan rồi”. Một đêm Lang nói với cô gái "Phàm người ta nam nữ ở chung sẽ sinh con, nay ta với nàng ăn ở đã lâu mà sao không thấy gì cả?”. Cô gái cười nói "Chàng hàng ngày đọc sách, thiếp đã nói là vô ích, nay quả chưa hiểu nổi một chương "Chồng vợ". Hai chữ "gối chăn" cũng có công phu chứ”. Lang kinh ngạc hỏi công phu gì, nàng cười không nói. Lát sau ngầm bày vẽ, Lang thích lắm nói "Ta không nghĩ rằng cái lạc thú vợ chồng lại có chỗ không nói rộng ra được". Từ đó gặp người ta là kể, ai cũng che miệng cười. Cô gái biết được trách móc, Lang nói "Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám kể ra, chứ cái lạc thú trong đạo thiên luân thì ai cũng thế, có gì mà kiêng kỵ". Qua tám chín tháng cô gái quả sinh một trai, thuê vú nuôi trông nom. Một hôm nàng nói với Lang "Thiếp theo chàng hai năm đã sinh con, có thể chia tay rồi, ở lâu sợ gây tai họa cho chàng, hối hận không kịp". Lang nghe nói khóc ròng, lạy phục xuống không đứng lên, nói "Nàng không nghĩ tới đứa nhỏ oa oa sao?”. Cô gái cũng buồn rầu, hồi lâu mới nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì phải phá tán hết sách vở đi", Lang nói "Đó là quê cũ của nàng, là tính mệnh của ta, sao nàng lại nói thế”. Cô gái không ép, nói "Thiếp cũng biết là có số mệnh, nhưng không thể không báo trước”.</p><p></p><p>Trước đây trong họ Lang có người nhìn thấy cô gái ai cũng giật mình, lại chưa thấy mai mối với nhà nào nên cùng cật vấn. Lang không biết nói dối nên cứ im lặng không đáp, mọi người càng ngờ vực, lời đồn đại dần tới quan huyện họ Sử. Sử người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), xuất thân Tiến sĩ, nghe chuyện động lòng muốn được thấy mặt người đẹp một lần bèn sai bắt Lang và cô gái. Cô gái nghe tin bỏ trốn biệt tích, quan huyện tức giận bắt Lang lột hết quần áo, cùm kẹp tàn nhẫn, mong cô gái sẽ tự tới. Lang gần chết vẫn không nói một lời, quan tra tấn đứa tỳ nữ, nó nói ra vài chuyện loáng thoáng. Quan cho là yêu quái bèn đích thân tới nhà Lang khám xét, thấy sách vở chất đầy nhà nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt, khói kết lại trước sân không tan, mờ mịt như mây mù.</p><p></p><p>Sau Lang được tha, xin được thư người học trò cũ của cha nên lấy lại được áo mũ nho sinh, năm ấy thì đỗ Cử nhân, năm sau đỗ Tiến sĩ. Nhưng trong lòng chứa chất căm hận, lập bài vị thờ Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn rằng “Nàng có khôn thiêng xin phù hộ cho ta được làm quan đất Mân". Sau quả được cử đi Tuần sát đất Mân, ở lại ba tháng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên gia sản. Lúc ấy Sử có người anh em họ ngoại làm quan Tư lý đòi cưới ái thiếp, Sử nói thác là mua tỳ nữ gởi lại trong dinh. Khi vụ án kết thúc, Lang lập tức trở về, đưa cả người ấy theo.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Vật trong thiên hạ, chứa cất thì bị oán ghét, ưa thích thì sinh ma quỷ, cô gái là yêu quái ma quỷ trong sách vở vậy. Việc giống như quái đản nhưng muốn trị cũng không phải không được, việc đốt sách chẳng cũng tàn ngược sao? Còn kẻ kia có lòng riêng tư ắt phải bị người căm hờn báo thù, than ôi, có gì lạ đâu! </em></p><p> </p><p><strong>Bồ Tùng Linh</strong></p><p>Liêu Trai Chí Dị II</p><p>Dịch giả: Cao Tự Thanh</p><p><strong>- 73 -</strong></p><p>Tề Thiên Đại Thánh</p><p>(Tề Thiên Đại Thánh)</p><p></p><p>Hứa Thịnh người đất Duyện (tỉnh Trực Lệ) theo anh là Thành đi buôn bán tới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến). Còn chưa cất hàng xong thì có người khách nói "Đại thánh thiêng lắm, hãy tới đền cầu khẩn”. Thịnh chưa biết Đại thánh là thần nào bèn theo anh tới đó, vào thấy điện gác san sát nối nhau vô cùng tráng lệ đẹp đẽ. Vào điện cúng bái thấy tượng thần mình người đầu khỉ, té ra là Tề Thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không, khách khứa đều kính cẩn vái lạy, không ai dám tỏ vẻ khinh nhờn. Thịnh vốn cương trực, cười thầm người đời ngu muội nên lúc mọi người thắp hương khấn khứa thì ngầm bỏ ra. Về tới nhà trọ, anh trách Thịnh không kính cẩn, Thịnh nói “Tôn Ngộ Không là truyện ngụ ngôn của ông Khưu<strong>*</strong> đặt ra, sao lại tin là có thật như thế? Mà giả như có thật thì bao nhiêu búa rìu sấm sét em xin chịu cả”.</p><p></p><p>* Ông Khưu: tức Khưu Xử Cơ, người cuối thời Tống đầu thời Nguyên, đệ tử của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Đạo giáo, có đạo hiệu là Trường Xuân tử, được Thành Cát Tư Hãn mời qua Mông Cổ, có viết quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký. Nhân vật Hứa Thịnh trong truyện này lầm Tây du ký của Khưu Xử Cơ với Tây du ký của Thi Nại Am kể chuyện Huyền Trang thỉnh kinh.</p><p></p><p>Chủ quán trọ nghe gọi tên Đại thánh thì xua tay tái mặt như sợ Đại thánh nghe được, Thịnh thấy thế càng bô bô nói ầm lên, ai nghe thấy cũng bịt tai bỏ chạy. Đến đêm quả nhiên Thịnh bị bệnh, đầu nhức như búa bổ, có người khuyên tới đền tạ lỗi nhưng Thịnh không nghe. Không bao lâu thì đầu đỡ đau nhưng đùi lại nhức, qua đêm thì mọc một cái mụn nhọt lớn, cả chân đều lở lói, không ăn ngủ gì được, anh tới đền cầu khẩn thay nhưng không hiệu nghiệm. Có người nói thần phạt thì phải tự mình cầu khẩn, Thịnh rốt lại vẫn không tin, hơn một tháng thì những chỗ lở lành dần nhưng lại nảy ra một cái mụn nhọt khác đau nhức gấp bội. Thầy thuốc tới lấy dao cắt bỏ những chỗ thịt thối, máu chảy cả tô nhưng sợ người ta nói bị thần phạt nên cắn răng không rên rỉ.</p><p></p><p>Hơn tháng sau mới bình phục nhưng anh lại mắc bệnh nặng. Thịnh nói “Thế nào nào? Người kính thần cũng bị bệnh như vậy, đủ thấy là bệnh của ta chứ không phải do Ngộ Không". Anh nghe thế rất bực tức, trách em không đi cầu khấn cho mình. Thịnh nói "Anh em như chân tay, trước đây em chân tay lở lói còn không chịu đi cầu khấn, nay chẳng lẽ chân tay có bệnh mà đổi ý à?", rồi chỉ rước thầy cắt thuốc chứ không chịu đi cầu đảo. Anh uống thuốc xong thì lăn ra chết, Thịnh đau đớn uất ức trong lòng, mua quan tài liệm anh xong tới thẳng đền Đại thánh chỉ lên tượng thần kể tội, nói “Anh ta bị bệnh, nói là do người giận lây khiến ta không sao bày tỏ được, nếu như ngươi là thần thật cứ làm cho anh ta sống lại, ta sẽ lạy thờ làm sư phụ không dám nói gì khác, nếu không ta sẽ theo đúng cách ngươi đối xử với Tam Thanh mà đối xử với ngươi<strong>*</strong>, cũng có thể trút hờn cho anh ta nơi chín suối”.</p><p></p><p>* Làm đúng cách ... với ngươi: Tây du ký kể Tôn Ngộ Không bảo hộ Tam Tạng đi lấy kinh tới nước Xa Trì, vua quan nước ấy trọng Đạo khinh Phật, Ngộ Không cùng Bát Giới, Sa Tăng nửa đêm lẻn vào nơi cúng Tam Thanh (tức Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Đạo Quân của Đạo giáo Trung Hoa) đem tượng Tam Thanh vứt vào nhà xí rồi hóa thành tượng Tam Thanh ăn uống. Đây nhân vật Hứa Thịnh có ý nói sẽ quăng tượng Tề Thiên Đại thánh vào nhà xí.</p><p></p><p>Đến đêm Thịnh nằm mơ thấy một người tới gọi đi, vào đền Đại thánh, ngẩng lên thấy Đại thánh lộ vẻ giận dữ quát mắng “Vì ngươi không chịu phục nên ta mới lấy đao của Bồ Tát xuyên qua chân ngươi, đã không biết tự hối lại còn ăn nói lằng nhằng. Lẽ ra ta đã tống ngươi xuống ngục Rút lưỡi dưới âm ty, nhưng nghĩ ngươi nhất sinh ngay thẳng nên mới tạm tha cho. Còn như anh ngươi bệnh thì vì ngươi rước gã lang băm về làm giảm tuổi thọ, chứ người khác dính líu gì vào đó? Nay mà ta không tạm thi triển chút ít pháp lực thì bọn ngông cuồng còn chưa chịu im mồm".</p><p></p><p>Rồi sai Thanh y sứ tới xin Diêm Vương, Thanh y sứ nói "Sau ba ngày thì danh sách ma quỷ đã báo lên Thiên đình, sợ Diêm Vương khó mà tha được” Đại thánh bèn rút thiết bảng làm bút viết những gì không biết, rồi bảo Thanh y sứ cầm thư tới Diêm Vương. Hồi lâu Thanh y sứ trở về, Thành cũng theo về, vào quỳ xuống lạy tạ. Đại thánh hỏi sao chậm thế, Thanh y sứ bẩm "Diêm Vương không dám tự chuyên, cầm lệnh chỉ của Đại thánh lên báo với Bắc Đẩu<strong>*</strong> vì thế nên về chậm". Thịnh rảo bước lên vái lạy tạ ơn, Đại thánh nói "Đưa anh ngươi về ngay đi, nếu biết theo điều thiện thì ta sẽ ban phúc cho", anh em vừa mừng vừa tủi dắt nhau cùng về.</p><p></p><p>*Bắc đẩu: Tây du ký chép trên trời có hai tòa Nam tào Bắc đẩu coi sổ sách ghi việc sống chết của muôn vật, Nam tào coi sổ sinh, Bắc đẩu coi sổ tử.</p><p></p><p>Thịnh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội tới mở quan tài ra xem thì quả anh đã sống lại bèn đỡ ra, hết sức cảm tạ pháp lực Đại thánh. Thịnh từ đó dốc lòng tin tưởng thờ phụng còn hơn cả người thường. Nhưng vốn liếng của hai anh em vì mắc bệnh đã hao mất một nửa, anh lại chưa thật khỏe, hai anh em cứ nhìn nhau buồn bã. Một hôm Thịnh ngẫu nhiên đi dạo ngoài thành, chợt gặp một người áo xám nhìn mình hỏi "Anh có chuyện gì lo lắng à?". Thịnh đang buồn rầu không biết nói với ai, bèn kể nhĩmg chuyện mình gặp. Người áo xám nói “Có một nơi phong cảnh rất đẹp, cứ tạm tới ngắm xem cũng đủ giải sầu”. Hỏi ở đâu, người ấy chỉ nói không xa, Thịnh bèn đi theo.</p><p></p><p>Ra khỏi thành khoảng nửa dặm, người áo xám nói "Ta có thuật mọn, trong khoảnh khắc có thể tới nơi". Rồi bảo Thịnh ôm lưng mình, khẽ gật đầu một cái chợt có mây đùn lên dưới chân, nhảy vọt lên trên không biết là đi bao xa. Thịnh cả sợ nhắm mắt không dám mở ra, trong khoảnh khắc nghe người ấy nói "Tới rồi". Thịnh thấy thành quách trong vắt đủ màu sắc rực rỡ lạ lùng, kinh ngạc hỏi đây là nơi nào. Người ấy đáp "Đây là thiên cung" rồi rảo bước đi vào, càng đi càng lên cao, xa xa thấy một ông già, người áo xám mừng rỡ nói "Gặp được người này thì anh có phúc lắm", rồi giơ tay vái chào. Ông già mời vào nhà, pha trà mời khách nhưng chỉ bưng ra có hai chén chứ không nhìn ngó gì tới Thịnh. Người áo xám nói "Đây là đệ tử của ta, đi buôn bán ngàn dặm tới thăm tiên cung, xin ông tặng cho chút quà”. Ông già sai tiểu đồng lấy ra một mâm đá trắng to bằng trứng chim sẻ, sáng loáng như băng, bảo Thịnh tự nhặt lấy.</p><p></p><p>Thịnh nghĩ cầm về có thể làm tửu lệnh uống rượu, bèn lấy sáu viên, người áo xám cho rằng quá ít bèn lấy thêm cho sáu viên nữa, đưa cả cho Thịnh bảo cất vào túi rồi chắp tay nói "Đủ rồi". Thịnh từ biệt ông già đi ra, người áo xám lại bảo bám vào mình rồi bay xuống, chốc lát đã tới mặt đất. Thịnh dập đầu thỉnh giáo tiên danh, người áo xám cười nói “Phép thuật đi trên mây vừa rồi gọi là Cân đẩu vân<strong>*</strong> đấy". Thịnh giật mình hiểu ra là Đại thánh, lại cầu xin giúp đỡ. Đại thánh nói "Vừa rồi là gặp Tài tinh, cho ngươi được lãi mười hai phần, còn muốn gì nữa".</p><p></p><p>*Cân đẩu vân: Tây du ký chép Tôn Ngộ Không có phép cân đẩu vân, uốn lưng một cái đã vượt được mười vạn tám ngàn dặm đường.</p><p></p><p>Thịnh lạy tạ, đứng lên nhìn thì Đại thánh đã biến mất. Thịnh trở về mừng rỡ kể lại với anh, cởi túi ra nhìn thì đá đã lặn cả vào thắt lưng rồi. Về sau cất hàng trở về, được lãi rất nhiều, từ đó cứ tới buôn bán ở đất Mân là vào đền khấn vái Đại thánh, người khác khẩn cầu có khi không hiệu nghiệm chứ Thịnh khẩn cầu thì điều gì cũng ứng nghiệm.</p><p></p><p><strong>Dị Sử thị nói:</strong><em>Ngày xưa có người sĩ nhân đi ngang chùa, vẽ hình cây đàn tỳ bà lên vách rồi đi, đến khi quay về thì chùa nổi tiếng linh thiêng, lửa hương không dứt. Chuyện thiên hạ vốn không cứ phải có thật, người ta cho là thiêng thì thành thiêng thôi. Sao lại như thế? Vì lòng người hướng về thì vật cũng theo về vậy. Cứng cỏi ngay thẳng như Thịnh ắt phải được thần linh phù hộ, há cần tới ngọn kim thêu trong lỗ tai, lông tơ biến hóa, cân đẩu vân lên trời<strong>*</strong> sao? Rốt lại lại bị mê hoặc, cũng là kiến thức không đúng vậy.</em></p><p></p><p>* Kim thêu... lên trời: đều 1à những phép thuật của nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây du ký.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Phong Cầm, post: 164987, member: 75012"] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 56 - 62[/B] Em Lấy Chồng Thay Chị (Tỷ Muội Dịch Giá) Tướng quốc họ Mao[B]*[/B]ở huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ nhà nghèo, cha phải đi chăn trâu cho người ta. Lúc ấy nhà thế tộc họ Trương trong huyện có khu mộ ở sườn núi phía đông, có người đi qua nghe trong phần mộ có tiếng quát tháo "Các ngươi phải đi ngay, không được ở lâu trong ngôi đất của quý nhân". Trương nghe kể cũng chưa tin lắm, kế chợt nằm mơ thấy thần nói “Khu mộ của gia đình ngươi vốn là ngôi đất quý của ông Mao, sao lại mượn lâu thế?". Từ đó trong nhà liên tiếp gặp mấy chuyện rủi ro, có người môn khách khuyên nên dời mộ qua nơi khác thì hay, Trương nghe theo bèn cải táng. *Tướng quốc họ Mao: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tự, tự Duy Chi, thi đỗ Giải nguyên năm Bính ngọ niên hiệu Thành Hóa thời Minh (1486), thi đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1487), làm quan tới chức Cẩn Thân điện Đại học sĩ, chết được truy tặng hàm Thái bảo. Một hôm cha Tướng quốc đi chăn trâu, ra tới khu mộ cũ nhà họ Trương thì trời chợt mưa lớn, bèn núp dưới huyệt mộ cũ. Kế mưa càng lớn như trút, nước tràn xuống huyệt, đất lở sụp xuống nên chết đuối dưới đó. Lúc ấy Tướng quốc còn là trẻ con, bà mẹ bèn tới nhà Trương xin cho vài thước đất chôn cha đứa nhỏ. Trương hỏi biết họ tên lấy làm lạ, tới xem nơi cha ông chết thì thấy đất nổi lên như cái gò, càng thêm hoảng sợ bèn cho chôn luôn ở đó, lại bảo dắt đứa nhỏ tới. Chôn cất xong bà mẹ dắt con tới nhà Trương tạ ơn, Trương vừa nhìn thấy đã mừng rỡ, giữ lại ở nhà mình dạy cho học, coi như con cháu, lại xin gả con gái lớn cho. Bà mẹ sợ hãi không dám đáp, vợ Trương nói "Nếu đã nói ra thì không giữa chừng thay đổi đâu” bà mẹ bèn ưng thuận. Nhưng con gái lớn Trương rất coi thường nhà họ Mao, oán hận hổ thẹn hiện ra nét mặt, nếu có ai nhắc tới chuyện đó thì bịt tai không thèm nghe, thường nói với người ta rằng "Ta thà chết chứ không lấy thằng chăn trâu”. Đến hôm làm lễ rước dâu, chàng rể đã vào ăn tiệc, kiệu hoa chờ ngoài cửa mà cô gái cứ lấy tay áo che mặt quay vào vách khóc lóc, giục trang điểm thì không chịu, khuyên giải mấy cũng không nghe. Kế chàng rể xin về, đàn sáo đã trỗi mà cô gái mắt còn ngấn lệ, tóc còn rối tung. Cha nàng bèn ngăn con rể lại, tự vào trong khuyên cô gái, nàng cứ khóc lóc như không nghe thấy, cha nổi giận lôi kéo càng khóc lớn, cha không biết làm sao. Lại có người nhà vào thưa là chàng rể muốn lên đường, cha vội chạy ra nói "Áo quần còn chưa sắp xếp xong, xin con chờ thêm một lúc", rồi lại lập tức chạy vào xem con gái ra sao, chạy ra chạy vào không nghỉ chân. Dằng dai thêm một lúc, việc càng gấp rút, cô gái rốt lại vẫn không chịu đổi ý, cha không biết làm sao, định tự tử. Cô con gái thứ hai đứng bên cạnh, cho là chị làm thế rất không phải, ra sức khuyên lơn. Chị giận nói “Con nhãi cũng học đòi múa mép, sao ngươi không lấy người ta đi?," Cô em nói “Cha vốn chưa từng hứa gả em cho chàng Mao, chứ nếu cha hứa gả em cho chàng thì không cần chị phải khuyên dỗ đâu!” Cha thấy lời nàng khẳng khái hào sảng bèn cùng mẹ nàng bàn riêng, định lấy em thay chị. Mẹ lập tức gọi nàng hỏi “Con nhãi ngỗ nghịch kia không vâng lời cha mẹ, cha mẹ mượn lấy con thay nó, con có chịu không?". Cô gái khẳng khái thưa "Cha mẹ dạy con đi lấy chồng, giả như chồng là ăn mày cũng không dám từ chối, vả lại chắc gì chàng họ Mao đã phải đói rét mà chết đâu?". Cha mẹ nghe thế cả mừng, bèn lấy quần áo cưới của chị cho cô gái mặc, rồi vội đưa nàng lên kiệu đi. Về tới nhà chồng, vợ chồng rất yêu thương nhau, nhưng cô gái có bệnh rụng tóc cứ nơm nớp lo ông chê, lâu sau ông nghe phong thanh chuyện tráo người nên lại càng cám ơn nàng là kẻ tri kỷ. Không bao lâu, ông được lấy làm Giám sinh, đi dự thi hương, đường đi ngang qua quán trọ của Xá nhân họ Vương. Đêm trước chủ quán nằm mơ thấy thần nói "Sáng mai sẽ có Thủ khoa họ Mao tới đây về sau sẽ giúp ngươi thoát được tai ách", vì vậy dậy sớm ra đứng chờ những khách từ phía đông vào. Đến khi gặp ông mừng lắm, cung phụng hầu hạ rất kính trọng, không chịu nhận tiền trọ, lấy việc giấc mộng ra kể, coi đó là trách nhiệm của mình. Ông cũng rất tự phụ, nghĩ thầm vợ mình rụng trụi cả tóc, sợ bị những người quyền quý chê cười, định là lúc thi đỗ xong sẽ cưới vợ khác. Kế đó ra bảng thì ông thi rớt, than thở rằng mình lận đận, trong lòng chán nản, thầm hổ thẹn với chủ quán trọ bèn đi đường khác về nhà. Ba năm sau lại đi thi, chủ quán trọ vẫn tiếp đãi nồng hậu như trước. Ông nói "Lời ông nói lần trước không đúng, ta rất xấu hổ được đối xử như thế này". Chủ quán nói "Tú tài vì ngầm muốn bỏ vợ nên bị âm ty đánh rớt, đâu phải ta mơ mộng quàng xiên". Ông kinh ngạc hỏi, thì ra sau khi chia tay chủ quán lại nằm mơ thấy thần nói thế. Ông nghe kể áy náy hối hận, đứng thừ ra như tượng gỗ. Chủ quán trọ nói "Tú tài nên tự giữ mình, rồi thế nào cũng đỗ Thủ khoa mà”. Không bao lâu quả nhiên ông đỗ Thủ khoa, tóc phu nhân cũng dần dần dài ra, ngày thêm mượt mà, càng xinh đẹp hơn. Người chị thì lấy chồng là con nhà giàu trong làng, càng thêm kiêu hãnh, nhưng chồng chơi bời lêu lổng, nhà dần dần sa sút, đến nỗi trong nhà không còn gì, dưới bếp không nổi lửa. Nghe nói em gái đã là vợ Hiếu liêm càng thêm xấu hổ, đi đường gặp em là tránh mặt. Không bao lâu người chồng chết, nhà càng nghèo túng, kế đó ông Mao lại thi đỗ Tiến sĩ, người chị nghe thấy vô cùng hối hận, uất ức xuống tóc vào chùa làm ni cô. Đến khi ông được phong chức Tể tướng về thăm nhà, ni cô ép lòng sai đệ tử tới phủ Tể tướng khuyến hóa, có ý chờ ông tặng tiền bạc. Tới nơi thì phu nhân lấy vải vóc the lụa như thường lệ đưa cho, nhưng ngầm gói vàng bên trong. Người đệ tử không biết, đem gói vải về đưa thầy, thầy thất vọng bực tức nói "Cho tiền bạc thì còn có thể mua củi gạo, chứ những thứ quà biếu này thì ta cần gì", rồi sai đem trả lại. Ông Mao và phu nhân ngờ vực đến khi mở ra xem thì vàng đều còn đó, mới hiểu ý người chị từ chối. Phu nhân bèn cất vàng đi, cười nói "Thầy của ngươi có hơn trăm lượng vàng cũng không giữ được, làm sao có phúc lấy quan Thượng thư nhà ta?". Rồi lấy năm mươi lượng vàng đưa cho người đệ tử đem về, dặn "Đem về đưa cho thầy ngươi chi dùng, nhiều hơn thì sợ là kẻ ít phúc không nhận nổi đâu”. Người đệ tử về kể hết mọi chuyện với thầy, người chị im lặng thầm than thở, nghĩ thấy những việc mình làm lúc trước đều dại dột, lẫn lộn người hay kẻ dở. Ôi, há có phải chỉ do người thôi đâu? Về sau chủ quán trọ dính líu vào việc án mạng bị bắt giam, nhờ ông Mao ra sức giúp đỡ mà được khỏi tội. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Khu mộ cũ nhà ông Trương lại là ngôi đất quý của họ Mao, kể cũng lạ thật. Ta nghe người thời ấy có vở tuồng Chồng cô chị thành chồng cô em, Giải nguyên trước thành Giải nguyên sau, đó há phải là những người khôn ngoan tinh ranh bịa đặt mà viết ra được đâu? Than ôi, trời xanh kia lâu lắm không ai hỏi được, sao lại có ông Mao, nhân quả báo ứng mau lẹ như thế![/I] [B]057. Sư Tây Vực [/B] [B](Phiên Tăng)[/B] Sư Thể Không kể lúc ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) gặp hai nhà sư Tây Vực trạng mạo cổ quái, tai đeo vòng, mặc áo vàng, râu tóc xoăn tít, nói là ở Tây Vực tới, nghe quan Thái thú chuộng đạo Phật nên tới yết kiến. Thái thú sai hai người lính đưa tới ở chùa, Hòa thượng Linh Bí ở đó coi thường, người quản lý trong chùa thấy tướng mạo họ kỳ lạ nên đứng ra khoản đãi giữ lại ngủ. Có người hỏi “Tây Vực có nhiều bậc dị nhân, chắc các vị La Hán đây cũng có phép lạ chứ?”. Một người mỉm cười rút từ tay áo ra một cái tháp nhỏ cao khoảng một thước long lanh rất đẹp. Chỗ cao nhất trên vách có cái kệ nhỏ, nhà sư ném cái tháp lên, cái tháp nghiễm nhiên đứng thẳng không hề nghiêng ngửa, trên ngọn tháp có viên ngọc xá lỵ phóng ra ánh sáng chiếu sáng cả phòng. Giây lát nhà sư lấy tay vẫy, cái tháp lại rơi vào lòng bàn tay. Nhà sư kia trật vai áo duỗi cánh tay trái ra, thấy dài tới sáu bảy thước, còn cánh tay phải không thấy đâu nữa, lại chuyển qua duỗi cánh tay phải ra thì cánh tay trái cũng rút vào không thấy đâu. [B]058. Tư Giám Họ Lý [/B] [B](Lý Tư Giám)[/B] Tư giám Lý Vĩnh Niên là Cử nhân, ngày hai mươi tám tháng chín năm Khang Hy thứ 4 (1665) đánh vợ là Lý thị chết, địa phương báo lên quan, quan trên sức về cho huyện tra xét. Tư giám đang đứng trước phủ, chợt rút một con dao trên giá chạy vào miếu Thành hoàng, lên thẳng trên gác quỳ xuống trước bàn thờ nói “Thần trách ta nghe lời kẻ gian làm điên đảo thị phi trong làng xóm, nên cắt tai ta”. rồi tự cắt rụng vành tai trái ném xuống dưới gác. Lại nói "Thần trách ta nhận tiền của người, nên chặt tay ta", rồi tự chặt bàn tay trái. Lại nói "Thần trách ta gian dâm với phụ nữ, nên thiến dái ta", rồi tự thiến dái, ngã quay ra chết cứng. Lúc ấy quan Tổng đốc Chu Vân Môn gởi bản tâu hặc tội Lý, xin triều đình cách chức luận tội, vừa có chỉ dụ gởi xuống thì Lý đã bị âm ty trừng phạt rồi. Việc này xem ở để báo[B]*[/B]. * Để báo: một loại công báo của triều đình dùng để thông báo tin tức cần thiết cho quan lại các địa phương thời Thanh. [B]059. Bảo Trú [/B] [B](Bảo Trú)[/B] Phiên vương Ngô Tam Quế lúc chưa làm phản[B]*[/B] thường ra lệnh cho tướng sĩ rằng ai một mình tay không bắt sống được cọp sẽ được cấp bổng hạng nhất, tặng danh hiệu Đả hổ tướng. Trong các viên tướng ấy có một người tên Bảo Trú, khỏe mạnh nhanh nhẹn như khỉ, lúc trong vương phủ xây ngôi lầu cao, xà vừa gác lên, Trú men theo góc lầu mà lên, trong giây lát đã tới trên nóc, đứng trên xà chạy đi chạy lại mấy lần, kế lại co người nhảy xuống đứng thẳng dưới đất. Vương có người ái cơ giỏi đánh đàn tỳ bà, chiếc đàn nàng dùng lấy noãn ngọc làm chốt lên dây, cầm lên là cả phòng ấm hẳn. Người thiếp quý báu cất kỹ, nếu không phải vương ra lệnh thì không đem ra cho ai thấy. Một đêm ăn yến, khách có người xin được xem vật lạ một lần, vương đang mỏi mệt nên hẹn để hôm sau. Lúc ấy Trú đang ở bên cạnh nói "Không cần vương gia phải ra lệnh, thần có thể lấy được". *Phiên vương... làm phản: Ngô Tam Quế 1à người thời Minh, 1àm tướng giữ Sơn Hải quan. Khi Lý Tự Thành diệt nhà Minh, Ngô Tam Quế mở cửa quan mời quân Mãn Châu vào Bắc Kinh đánh Lý Tự Thành. Quân Mãn Châu nhân đó chiếm đóng Trung Quốc, lập ra nhà Thanh, phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương trấn thủ Vân Nam, Cảnh Tinh Trung làm Tĩnh Nam vương trấn thủ Phúc Kiến và Thượng Khả Hỷ làm Bình Nam vương trấn thủ Quảng Đông, hơp xưng là Tam phiên (Ba phiên vương). Về sau vua Khang Hy nhà Thanh triệt phiên, Tam phiên làm phản, lần lượt bị tiêu diệt. Vương bèn sai người báo khắp trong ngoài vương phủ, ra lệnh phòng bị nghiêm cẩn rồi sai Trú đi lấy. Trú vượt qua mười mấy lần tường mới vào tới chỗ người ái cơ của vương ở, thấy đèn trong phòng sáng choang mà của nẻo khóa chặt không vào được. Dưới hành lang có cái lồng nuôi chim vẹt, Trú giả tiếng mèo kêu, kế lại giả tiếng vẹt kêu ầm lên là có mèo tới, lại làm ra tiếng vỗ cánh phành phạch rất gấp. Nghe người ái cơ nói “Lục Nô ra ngay xem, con vẹt bị mèo vồ chết rồi", Trú liền nép vào góc tối. Giây lát có một cô gái khêu đèn lách ra, Trú nhân đó lẻn vào, thấy người ái cơ đang cầm chiếc đàn tỳ bà ngồi trên ghế liền xô vào giật lấy bỏ chạy. Người ái cơ hoảng sợ la lớn giặc tới, đám quân canh gác đổ cả ra, thấy Trú ôm đàn chạy nhưng đuổi theo không kịp, bắn tên rào rào như mưa. Trú nhảy lên gốc cây, dưới tường vốn có cây hòe lớn, Trú chuyền qua cành cây như chim chuyền cành, hết gốc cây lên tới gác, hết gác lên tới lầu, chuyền vào trong điện như có cánh, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Khách còn đang uống rượu, Trú ôm chiếc đàn phi thân vào đứng trước tiệc, cửa vẫn đóng chặt như cũ, không hề có tiếng gà kêu chó sủa. [B]060. Nạn Lụt [/B] [B](Thủy Tai)[/B] Năm Khang Hy thứ 21 (1682) đại hạn, từ xuân qua hạ đất khô cháy không còn cọng cỏ nào xanh. Ngày mười ba tháng sáu có cơn mưa nhỏ mới có kẻ trồng bắp, ngày mười tám thì mưa lớn ngập bàn chân, người ta mới trồng đậu. Một hôm ở trang Thạch Môn (tỉnh Chiết Giang) có ông già lúc chiều tối nhìn thấy hai con trâu húc nhau trên núi, nói với người trong thôn rằng "Sắp có lụt lớn" rồi lập tức dắt gia đình đi tránh, người trong thôn đều cười. Không bao lâu mưa đổ ào ào từ đêm đến sáng không ngớt, trên đất bằng nước cao mấy thước, nhà cửa đều bị ngập hết. Có một nông dân bỏ hai đứa con lại, cùng vợ dìu cha mẹ chạy lên gò cao, nhìn xuống dưới thôn thì đã như cái đầm lớn, nghĩ không kịp quay về cứu con nữa. Khi nước đã rút trở về, thấy cả thôn đã thành bãi hoang, vào nhà thấy một gian phòng còn nguyên mà hai đứa con đều ngồi trên giường cười đùa không hề hấn gì. Có người nói đó là trời thương cho hai vợ chồng có hiếu, đó là việc ngày hai mươi tháng sáu. Năm Khang Hy thứ 34 (1695) ở Bình Dương có động đất, nhân dân mười phần chết hết bảy tám, thành quách đều sụp đổ chỉ còn một căn nguyên vẹn là nhà một người con có hiếu. Giữa cơn đại kiếp mênh mang mà chỉ có những người con hiếu là không việc gì, ai bảo là ông trời kia không phân biệt được trắng đen? [B]061.Mỗ Giáp ở Chư Thành[/B] [B] (Chư Thành Mỗ Giáp)[/B] Học quan tiên sinh Tôn Cảnh Hạ nói trong huyện có Mỗ Giáp, gặp lúc có giặc bị chém, đầu rơi xuống trước ngực. Khi giặc rút đi người nhà tìm được xác, đang định đem chôn thì nghe còn hơi thở, nhìn kỹ thấy cổ họng còn một khoảng bằng ngón tay chưa đứt, bèn nâng đầu lên giữ lại cho đúng chỗ rồi khiêng về. Qua một ngày một đêm thì bắt đầu rên rỉ, người nhà lấy thìa đút cháo cho, nửa năm thì lành. Hơn mười năm sau, Giáp cùng hai ba người trò chuyện, có kẻ kể chuyện cười, mọi người cùng cười ầm lên, Giáp cũng vỗ tay. Đang lúc nghiêng ngửa thì vết thương cũ chợt toác ra, rơi đầu phun máu, mọi người cùng nhìn lại thì đã đứt hơi chết rồi. Cha Giáp đi kiện người kể chuyện, mọi người cùng góp tiền van xin, người cha bèn chôn Giáp mà không kiện nữa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Cười một trận mà rơi đầu, quả là chuyện cười hiếm có trong ngàn năm. Cổ họng liền lại không chết, để mười năm sau làm thành một vụ án cười, há không phải là kiếp trước hai ba người láng giềng kia mắc nợ y sao?[/I] [B]062. Đùa Giỡn Thắt Cổ [/B] [B](Hý ải)[/B] Mỗ người huyện ta là kẻ lông bông vô lại, tình cờ ra ngoài thôn thấy một thiếu phụ cưỡi ngựa đi tới bèn nói với bạn bè "Ta có thể làm nàng cười một trận". Mọi người không tin, đánh cuộc một bữa rượu. Mỗ bèn chạy lên trước ngựa kêu luôn mồm rằng "Ta muốn chết đây". Nhân thấy chỗ đầu tường có một miếng ván mỏng nhô ra, bề ngang hơn một thước bèn cởi dây lưng móc lên đó, thò cổ vào làm như sắp tự tử. Thiếu phụ đi qua nhìn thấy quả nhiên bật cười, bạn bè cũng đều cười rộ. Thiếu phụ đi xa rồi mà Mỗ vẫn bất động, mọi người càng cười dữ, nhưng tới gần xem thì đã thè lưỡi trợn mắt tắt hơi rồi. Treo cổ lên tấm ván mà chết há chẳng phải là chuyện lạ sao? Chuyện này đủ để răn bọn người khinh bạc vậy. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]Quyển IV - 63 -[/B] A Tiêm (A Tiêm) Hề Sơn người huyện Cao Mật (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bán, thường qua lại vùng Mông Sơn, Nghi Thủy (đều thuộc tỉnh Sơn Đông). Một hôm dọc đường gặp mưa, tới được nhà trọ quen thì đã khuya, gõ cửa mãi mà không ai lên tiếng. Đang ngần ngừ dưới hiên thì hai cánh cửa chợt mở, một ông già bước ra mời vào. Sơn mừng theo vào, lần dò lên sảnh, trong sảnh không có giường ghế gì cả. Ông già nói “Ta thương khách không có chỗ nghỉ nên mời vào, chứ thật ra ta không phải là người mở hàng bán cơm. Nhà không có ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái nhỏ đã ngủ cả rồi. Cái ăn thì còn đủ nhưng không còn nóng lắm, đừng chê là nguội lạnh". Nói xong vào trong, giây lát mang ra một cái chõng thấp đặt xuống đất mời khách ngồi. Lại trở vào mang ra một cái bàn con, đi lại tất bật trông rất vất vả. Sơn đứng ngồi không yên, giữ ông lại nói xin cứ nghỉ một lúc. Giây lát một cô gái mang rượu ra, ông già nói "Con A Tiêm nhà ta dậy rồi", nhìn thấy khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp yểu điệu, phong thái đoan trang. Sơn có em trai chưa vợ, cũng thầm có ý bèn hỏi thăm dòng dõi quê quán ông già. Ông đáp "Ta họ Cổ tên Sĩ Hư, con cháu đều chết yểu chỉ còn đứa con gái này nên không nỡ làm nó mất giấc ngủ ngon, chắc bà vợ ta gọi nó dậy đấy". Hỏi "Chồng cô em là ai?", ông đáp còn chưa hứa gả, Sơn mừng thầm. Kế thức ăn bày lên đủ thứ, như trong hàng cơm. Sơn ăn xong cung kính nói “Con người bèo nước, đội ơn thương tới, đến chết cũng không dám quên. Nhân thấy ông thịnh đức nên xin đường đột tỏ lời quê mùa. Ta có đứa em trai nhỏ là Tam Lang mười bảy tuổi theo nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu tối, muốn cầu chỉ thắm xe duyên, không biết ông có chê nghèo hèn không". Ông già mừng nói "Lão phu ở đây cũng là ngụ cư, nếu nó có chỗ gửi thân, nhân mượn được túp lều dời đi chỗ khác thì cũng đỡ lo". Sơn đều xin vâng, đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi vào. Gà vừa gáy ông đã ra gọi khách dậy rửa mặt, Sơn gói hành lý xong đưa trả tiền cơm, ông già từ chối, nói "Khách ở lại dùng bữa cơm, không lý gì lại lấy tiền, hay định đưa tiền dẫn cưới đây?" Kế chia tay, hơn tháng sau Sơn quay lại, cách thôn hơn dặm thì thấy có bà già dắt một cô gái, khăn áo đều trắng, tới gần thấy như là A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần nhìn Sơn rồi nắm áo bà già nói nhỏ gì đó, bà già liền dừng chân quay lại hỏi Sơn "Ông họ Hề phải không?” Sơn dạ dạ. Bà già buồn rầu nói "ông nhà ta không may bị tường đổ đè chết rồi. Hôm nay bọn ta định đi thăm mộ, ở nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát sẽ trở lại ngay", rồi đi vào rừng. Lát sau trở lại thì trời đã tối, bèn cùng đi về, nói chuyện mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc Sơn cũng bùi ngùi. Bà già nói "Dân ở đây rất không lương thiện, con côi mẹ góa khó sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà ông, để lâu nữa sợ chậm trễ ngày tháng, chẳng bằng khuya nay cùng đưa nhau về sớm", Sơn bằng lòng. Tới nhà, bà già khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, nói với Sơn “Nghĩ là ông sắp tới nên đã bán thóc lúa cất trữ đi, chỉ còn hơn hai mươi thạch vì xa nên chưa bán được. Cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc có ngôi nhà đầu xóm là nhà Đàm Nhị Tuyền là người vẫn mua thóc của ta. Xin phiền ông chịu khó mang một túi tới trước gọi cổng, cứ nói bà già họ Cổ ở xóm Nam có vài thạch thóc định bán lấy tiền đi đường, phiền cho lừa tới chở luôn một lúc", rồi đưa túi thóc cho Sơn. Sơn vội vàng đi ngay, tới nơi gõ cửa thì một người đàn ông bụng phệ ra, Sơn nói rõ rồi trút thóc về trước. Lát sau có hai người phu dắt năm con lừa tới, bà già dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên, mẹ con bà già chuyền cho nhau, chốc lát đầy túi đưa họ mang đi. Đi lại tới bốn lần mới chở hết thóc, kế họ đưa tiền đưa cho bà già, bà giữ lại một người và hai con lừa rồi thu xếp hành lý đi về phía đông. Được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ, tới một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm bèn quay về. Về tới nhà, Sơn thưa lại với cha mẹ. Hai bên gặp nhau rất vui vẻ, bèn dọn một chỗ riêng cho bà già ở rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho Tam Lang, bà già sắm sửa tư trang cho con gái rất đầy đủ. A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện chỉ mỉm cười, sớm tối lo dệt vải không ngừng, vì thế cả nhà ai cũng thương yêu. Nàng dặn Tam Lang "Nhớ dặn anh nếu có trở lại miền Tây thì đừng nói gì về mẹ con thiếp cả" Được ba bốn năm, nhà họ Hề càng giàu có, Tam Lang được vào học trường huyện. Một hôm Sơn ghé trọ nhà láng giềng cũ của họ Cổ, tình cờ kể chuyện năm trước không có chỗ trọ, phải ngủ nhờ nhà ông bà già. Chủ nói "Ông khách lầm rồi, đó là căn nhà riêng của bác ta, trước đó ba năm người ở đó thường thấy chuyện quái dị nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà già nào mà cho ông ngủ lại?". Sơn rất kinh ngạc nhưng chưa tin lắm. Chủ nhân lại nói "Khu nhà ấy bỏ không mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị sập, bác ta tới xem thì thấy đá đè lên một con chuột to như con mèo, khúc đuôi bên dưới còn quẫy, vội về gọi mọi người tới xem thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi vật đó là yêu quái, hơn mười ngày sau vào xem thử thì yên ắng không thấy gì, hơn năm sau mới có người tới ở". Sơn càng lấy làm lạ, về nói riêng với người nhà, trộm ngờ em dâu không phải là người. Lo thầm cho Tam Lang, nhưng Tam Lang vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu ngày người nhà xì xào bàn tán, cô gái thoáng nghe biết, nửa đêm nói với Tam Lang "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng có một lỗi nhỏ. Nay lại đặt chuyện để khinh rẻ, xin viết cho tờ ly hôn để chàng chọn một người vợ xứng đáng”, rồi rơi nước mắt. Tam Lang nói "Lòng ta thế nào thì nàng đã rõ. Từ ngày nàng về, nhà ngày một no đủ, vẫn nghĩ là nhờ phúc trạch của nàng, đâu lại còn điều này tiếng khác?". Nàng nói "Chàng vốn không hai lòng, thiếp há không biết sao? Nhưng nhiều người nói ra nói vào, e rồi không khỏi như chiếc quạt đến mùa thu bị bỏ xó”. Tam Lang khuyên giải mấy lần mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, ngày ngày cứ tìm mèo giỏi bắt chuột về để dò ý tứ. Cô gái tuy không sợ nhưng rầu rầu không vui. Một đêm nói mẹ không khỏe, xin Tam Lang cho về săn sóc, sáng ra Tam Lang qua tìm thì trong phòng trống không, phát hoảng cho người đi tìm khắp nơi không thấy tung tích, bứt rứt bỏ ăn bỏ ngủ. Cha và anh lại đều lấy làm may, cùng vỗ về an ủi, định cưới vợ khác cho, nhưng Tam Lang nhất định không chịu. Chờ hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh cứ chế nhạo trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi. Lại vài năm nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng thương nhớ A Tiêm. Có người em con chú Tam Lang là Lam nhân có việc tới huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), đường xa nghỉ lại nhà người họ hàng bên ngoại là Lục sinh, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất đau thương, cũng chưa rảnh hỏi thăm. Lúc quay về lại nghe thấy bèn hỏi, chủ nhân đáp “Mấy năm trước có người đàn bà góa và cô gái mồ côi thuê nhà ở đó. Tháng trước bà già mất, cô gái ở một mình không người thân thích nên khóc đó thôi”. Lam nhân hỏi họ, Lục đáp “Họ Cổ, thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm nên chưa rõ gia thế ra sao". Lam giật mình nói "Thế thì là chị dâu ta rồi”. Bèn qua gọi cửa thì có người nín khóc bước ra, đứng trong cửa nói “Nhà ta không có đàn ông đâu”. Lam nhìn qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ thấy đúng là chị dâu liền nói "Chị mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây". Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói "Anh Tam Lang nhớ chị lắm, vợ chồng có gì trái ý đâu mà chị xa lánh tới tận đây", rồi lập tức định thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu nói "Ta vì bị người khinh rẻ mới đưa mẹ đi ẩn, nay lại trở về nương tựa người thì ai không khinh rẻ? Như muốn ta trở về thì phải cùng anh chia bếp, nếu không, ta chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi". Lam về kể lại cho Tam Lang, Tam Lang lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau đều rơi lệ, hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là Giám sinh họ Tạ thấy nàng đẹp, ngầm tính cưới nàng làm thiếp nên mấy năm không lấy tiền nhà, đã nhiều lần ngỏ ý với bà già nhưng bà cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong thì Tam Lang chợt tới, bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó. Nhà Tam Lang vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Cô gái nói không sợ, rồi dẫn vào xem vựa thóc, khoảng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Tam Lang mừng nói với Tạ, Tạ không nhận thóc, cứ nhất định đòi tiền. Cô gái than "Trăm sự cũng vì nghiệp chung thân này", rồi kể lại tình thật. Tam Lang tức giận định kiện lên huyện. Lục bèn can, đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về. Tam Lang thưa với cha mẹ, xin cùng anh chia nhà ra để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lấy làm lạ, nhưng hơn năm xem lại thì kho đã đầy. Không vài năm, nhà đã giàu có mà Sơn vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Tam Lang mừng nói “Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán". Cô gái đáp “Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?”. Về sau cũng không có chuyện gì lạ. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 64 -[/B] Thụy Vân (Thụy Vân) Thụy Vân là danh kỹ ở đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), nhan sắc tài nghệ vô song. Năm mười bốn tuổi bà chủ là mụ dầu họ Sái định cho ra tiếp khách. Thụy Vân nói “Đây là lúc con bắt đầu vào đời, không thể qua quít, nên giá thì do mẹ định nhưng khách thì xin cho con tự chọn". Mụ ưng thuận, bèn định giá là mười lăm lượng vàng, nàng bèn hàng ngày ra tiếp khách. Khách muốn gặp thì đưa lễ vật tới, nhiều thì được tiếp một ván cờ, tặng một bức tranh, ít thì được mời uống chén trà mà thôi. Thụy Vân nổi tiếng đã lâu, từ đó các bậc phú thương quý quan ngày ngày nối nhau tới cổng. Hạ sinh người huyện Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) nổi tiếng tài danh nhưng gia tư chỉ đủ ăn, vốn ngưỡng mộ Thụy Vân nhưng chưa dám nghĩ tới giấc mộng uyên ương, cũng gắng sửa chút lễ mọn, chỉ mong được một lần gặp mặt, vẫn thầm lo nàng trải đời đã nhiều, không để mắt tới kẻ nghèo hèn. Đến lúc gặp mặt, vừa chuyện trò nàng đã tỏ ra rất ân cần. Cùng nói chuyện hồi lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình ý, lại tặng sinh bài thơ rằng: [I]Hà sự cầu tương giả, Lam Kiều khấu hiểu quan. Hữu tâm tầm ngọc chử Đoan chỉ tại nhân gian[/I] (Xin nước làm chi cho vất vả Tinh sương lại phải tới cầu Lam[B]*[/B] Có lòng xin cố tìm chày ngọc Dám chắc còn trên cõi thế gian) *Cầu Lam: dịch chữ Lam Kiều. Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng là người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên. Sinh được thơ mừng quýnh, còn muốn nói nữa chợt a hoàn vào báo khách tới. Sinh vội từ biệt, về nhà đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, mộng hồn vướng vít. Được một hai hôm không kìm được, lại sắm sửa lễ vật tìm tới. Thụy Vân đón tiếp rất vui vẻ dời ghế tới gần sinh, buồn bã nói "Chàng có thể lo được một đêm sum họp không?". Sinh đáp "Học trò nghèo chỉ có tấm tình si để tặng tri kỷ, lo được cái lễ nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết, được gần mặt hoa là thỏa nguyện rồi, còn như đầu gối tay ấp thì đâu dám mong tưởng". Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau không nói. Sinh ngồi lâu không ra, mụ chủ mấy lần gọi Thụy Vân để giục giã. Sinh bèn ra về, trong lòng buồn bực, muốn đem hết gia sản chuốc một lần vui, nhưng hết đêm lại phải chia tay thì thật không sao chịu nổi, nghĩ tới đó thì tấm lòng hăm hở đều tiêu tan. Từ đó dứt hẳn không lui tới nữa. Thụy Vân kén rể mấy tháng mà chưa chọn được người vừa ý. Mụ dầu bực tức, định ép uổng nhưng còn chưa ra tay. Một hôm có người Tú tài đem lễ vật tới, ngồi nói chuyện một lúc bèn đứng lên, ấn một ngón tay lên trán nàng nói “Đáng tiếc, đáng tiếc” rồi ra về. Thụy Vân tiễn khách ra trở vào mọi người cùng nhìn thì thấy trên trán nàng có dấu ngón tay in đen như mực, rửa lại càng đậm. Sau vài hôm vết mực lan rộng ra, hơn một năm sau thì lan từ trán xuống cả mũi, ai thấy cũng cười, vì vậy vết xe ngựa ngoài cổng cũng mất hẳn. Mụ dầu lột hết trang sức, bắt làm việc của hạng tôi tớ, Thụy Vân lại ẻo lả không làm nổi việc nặng nhọc nên ngày càng tiều tụy. Hạ nghe tin ghé qua, thấy nàng đầu bù tóc rối dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy sinh thì quay vào tường giấu mặt. Hạ thương xót bèn nói với mụ dầu xin chuộc nàng, mụ ưng thuận. Hạ bán ruộng dốc túi mua nàng đem về. Tới nhà nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là vợ, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này. Hạ nói "Người ta ở đời vẫn quý kẻ biết mình. Lúc nàng đang thịnh, nàng còn biết tới ta, lẽ nào vì nàng suy mà ta quên nàng sao?", rồi không lấy vợ nữa. Ai nghe chuyện cũng chế nhạo, nhưng sinh thì càng thương yêu nàng thêm. Được hơn năm, sinh ngẫu nhiên tới đất Tô (tỉnh Giang Tô), gặp Hòa sinh cùng trọ một chỗ. Bỗng Hòa hỏi "Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân nay ra sao?", sinh đáp đã lấy chồng rồi. Hòa lại hỏi lấy ai, sinh đáp "Người đó cũng đại loại như ta". Hòa nói "Nếu được như ông thì có thể nói là lấy đúng người, không biết giá bao nhiêu?". Hạ nói "Vì mắc bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, nếu không loại bọn ta làm sao mua nổi người đẹp trong kỹ viện". Hòa lại hỏi “Người đó quả thật có được như ông không?". Hạ thấy câu hỏi kỳ lạ bèn căn vặn lại, Hòa cười nói "Thật không dám dối, trước đây ta từng gặp nàng một lần, rất tiếc tài mạo tuyệt thế mà lênh đênh không có người xứng đôi nên dùng chút thuật mọn che ánh sáng để giữ vẻ ngọc, dành lại chờ tấm gương soi chân hình của kẻ yêu tài". Hạ vội hỏi “Ông chấm được chắc cũng rửa được chứ?”. Hòa cười đáp “Sao không được, nhưng phải chính người kia thành tâm cầu xin thôi". Hạ đứng dậy vái nói “Người chồng của Thụy Vân chính là ta đây”, Hòa mừng nói "Trong thiên hạ chỉ có kẻ chân tài mới có thể đa tình, không vì xấu đẹp mà đổi ý. Xin cho ta theo về nhà, ta sẽ tặng một người đẹp". Bèn cùng nhau về, tới nhà Hạ định sai dọn rượu, Hòa ngăn lại nói “Cứ để ta làm phép để người dọn rượu phải vui vẻ trước đã". Rồi lập tức bảo bưng lên một chậu nước, lấy ngón tay vẽ bùa lên, nói "Rửa đi là khỏi, nhưng phải đích thân ra tạ ơn thầy thuốc đấy”. Hạ cười bưng chậu nước vào, đứng đợi Thụy Vân rửa mặt, vết mực theo tay trôi hết, diễm lệ chẳng khác năm xưa. Vợ chồng đều cảm ơn, cùng nhau ra vái tạ thì khách đã biến mất, tìm khắp nơi không thấy, có lẽ là tiên chăng? [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 65 -[/B] Tướng Công Long Phi (Long Phi Tướng Công) Đới sinh ở An Khánh (tỉnh thành An Huy), lúc trẻ tính bừa bãi không kiềm thúc. Một hôm say rượu từ nơi khác về, dọc đường gặp người anh họ ngoại là Quý sinh, lúc đang say mờ mịt cũng quên mất là Quý sinh đã chết, bèn hỏi "Trước nay ở đâu?”. Quý nói "Ta đã chết rồi, ông quên hay sao?". Đới mới sực nhớ ra nhưng đang say cũng không sợ hãi, bèn hỏi "Ông làm gì dưới âm ty?", Quý đáp “Gần đây làm chức giữ sổ sách cho Chuyển Luân vương điện hạ[B]*[/B]". Đới nói “Nếu thế thì chắc ông biết được họa phúc của mọi người", Quý nói "Đó là chức phận của ta, sao lại không biết? Chỉ là nhiều quá, nếu không phải là người thật thân thiết thì không nhớ kỹ thôi. *Chuyển Luân vương điện hạ: theo truyền thuyết dưới âm phủ có mười vua, trong đó Chuyển Luân vương coi việc cho các hồn ma đi đầu thai. Ba hôm trước tình cờ soát lại sổ sách, thấy có tên ông". Đới vội hỏi trong ấy viết thế nào, Quý đáp “Thật không dám dối, tên ông có trong số những người bị giam vào ngục tối”. Đới cả sợ tỉnh rượu hẳn, năn nỉ xin cứu giúp. Quý nói “Đây không phải là việc ta giúp được, chỉ có việc thiện là có thể giải cứu thôi. Nhưng sổ sách ghi tội lỗi của ông dày cả ngón tay, không có việc thiện lớn thì không cứu được, mà Tú tài nghèo khó thì làm sao làm được việc gì lớn. Thôi cứ lập tức mỗi ngày làm một việc thiện, không hơn một năm như vậy thì không được xét tới đâu. Bây giờ đã muộn rồi, giả như cố sức thì may ra có thể thoát khỏi địa ngục". Đới nghe thế rơi nước mắt lạy rạp xuống đất cầu khẩn, khi ngẩng lên thì Quý đã biến mất bèn buồn bã trở về. Từ đó sửa lòng đổi nết, không dám sơ sẩy. Trước kia Đới tư thông với người đàn bà láng giềng, người chồng biết nhưng không nói ra, định rình bắt quả tang, nhưng Đới đã sửa nết không đi lại với người đàn bà nữa, người chồng rình mãi không bắt được căm tức lắm. Một hôm gặp nhau ngoài ruộng bèn giả vờ trò chuyện, lừa Đới tới cái giếng cạn rồi xô xuống. Giếng sâu mấy trượng nên y nghĩ thế nào Đới cũng chết, nhưng nửa đêm thì Đới tỉnh dậy, ngồi dưới giếng gào lớn mà không ai biết. Người láng giềng cũng sợ Đới sống lại, sáng hôm sau tới nghe ngóng, nghe tiếng Đới kêu cứu vội ném đá xuống. Đới lùi vào hốc dưới giếng, không dám kêu nữa, người láng giềng biết là chưa chết bèn xúc đất lấp giếng đầy gần tới miệng. Cái hốc dưới giếng tối om, thật không khác gì địa ngục, Đới không có gì ăn, nghĩ thầm ắt phải chết. Lom khom bò vào trong khoảng ba bước thì đều là nước, không sao đi tiếp bèn quay lại ngồi chỗ cũ, ban đầu thì thấy đói bụng, hồi lâu cũng quên đi. Nhân nghĩ dưới suối vàng không có điều thiện gì mà làm, đành niệm Phật mà thôi. Kế thấy lửa ma trơi bay túa tới lập lòe đầy hang, bèn khấn "Nghe nói lửa ma trơi đều là hồn ma chết oan, ta tuy còn sống nhưng cũng khó trở về, nếu có thể trò chuyện được với nhau thì cũng đỡ tịch mịch". Chỉ thấy các đốm lửa ma trơi đều họp cả trên mặt nước, trong mỗi đốm đều có một người cao khoảng nửa người thường. Sinh hỏi từ đâu tới, họ đáp "Đây là cái hầm than cũ, chủ nhân đào lấy than động tới ngôi mộ cũ bị tướng công Long Phi khoét đất dẫn nước biển vào dìm chết bốn mươi ba người, bọn ta đều là các hồn ma ấy". Sinh hỏi tướng công là ai, họ đáp "Không biết, nhưng tướng công là kẻ sĩ văn học, nay làm mạc khách của Thành hoàng, ông cũng thương bọn ta vô tội mà chết nên cứ năm ba ngày lại cho một bữa cháo loãng. Nhưng xương cốt bọn ta bị dầm trong nước lạnh không có ngày siêu thăng, nếu ông trở về được nhân thế xin vớt mớ xương tàn xây cho ngôi mộ làm phúc thì bọn ta dưới suối vàng được đội ơn nhiều lắm". Đới nói "Nếu vạn nhất được trở về thì chuyện ấy có khó gì? Chỉ là thân dưới chín suối, làm sao dám mong ngày thấy lại mặt trời”. Nhân dạy đám ma niệm kinh Phật, vê đất làm tràng hạt, cứ theo đủ tạng số mà đọc, không biết ngày đêm thế nào, cứ mệt thì ngủ, thức thì ngồi niệm Phật mà thôi. Chợt thấy chỗ sâu bên trong có ánh đèn lồng, bọn ma mừng rỡ nói "Tướng công Long Phi cho ăn đấy”, rồi rủ Đới cùng đi. Đới sợ nước sâu, đám ma ép kéo đi, phất phới bay lên, quanh co chừng nửa dặm, tới một chỗ thì buông xuống bảo tự đi càng đi càng lên cao như bước lên bậc thang cao vài trượng, hết bậc thang thấy phòng ốc, trên sảnh đường có một ngọn nến cháy sáng, to bằng cánh tay. Đới đã lâu không thấy đèn lửa, mừng quá rảo bước tới, thấy ở trên có một ông già ngồi, mặc áo đội mũ nhà nho. Đới dừng chân không dám bước tới nữa song ông già đã nhìn thấy, kinh ngạc hỏi người lạ từ đâu tới đây. Đới bước lên quỳ xuống thưa chuyện mình, ông già nói “Té ra là cháu năm đời của ta". Bèn bảo đứng dậy cho ngồi, tự nói "Ta tên là Đới Tiềm, tự Long Phi, trước đây vì đứa cháu hư là Đường kết đảng với bọn xấu, đào hầm than gần mộ khiến lão phu không được yên ổn dưới suối vàng nên khơi nước biển dìm chết cả bọn, người là con cháu dòng nào?". Đại khái họ Đới có năm chi, Đường là ngành trưởng, lúc đầu có nhà thế gia trong huyện đút tiền cho Đường để đào hầm lấy than cạnh mộ tổ, các em sợ thế lực nên không ai dám cãi lại. Không bao lâu nước dưới đất vọt ra, những người đào than đều chết dưới hầm, gia đình họ họp nhau thưa kiện, Đường và nhà thế gia kia vì thế trở nên nghèo khó, con cháu Đường đến nỗi không có tấc đất cắm dùi. Đới là dòng dõi của em Đường, từng nghe ông cha kể lại chuyện ấy, bèn thưa với ông tổ. Ông già nói "Hư hỏng như thế thì con cháu làm sao mà khá được? Cháu đã tới đây, phải tiếp tục học hành". Rồi lấy rượu thịt cho ăn uống, kế đem sách đặt lên bàn, đều là những văn trường ốc trong niên hiệu Thành Hóa Hoằng Trị thời Minh (1465-1505) bắt phải học, lại ra đề bài cho làm văn như thầy dạy trò. Nến trong sảnh đường đều sáng, cắt bấc đi cũng không tắt. Đới cứ lúc mệt thì ngủ, không biết đang ngày hay đêm. Ông già lúc đi vắng thì sai một tiểu đồng tới hầu hạ, lâu như trải qua mấy năm nhưng may mà không phải chịu khổ. Có điều là không có sách gì khác để đọc, chỉ có trăm bài văn bát cổ, vài ngàn bài thơ mà thôi. Một hôm ông già nói “Cháu đã hết hạn quả báo, sắp được trở về nhân thế. Chỗ mộ ta có đường hầm đào than xoi vào, gió âm châm chích xương cốt, sau này cháu đắc chí rồi hãy dời mộ ta ra cánh đồng phía đông”. Đới cung kính vâng dạ. Ông già bèn gọi bọn ma tới sai đưa Đới ra chỗ cũ, đám ma lạy rạp nghe lệnh, nhưng Đới cũng không biết làm sao mà lên khỏi giếng được. Trước là gia đình thấy Đới mất tích, tìm kiếm khắp nơi, mẹ lên báo quan, bắt bớ đòi gọi rất nhiều người mà không có chút manh mối gì. Qua ba bốn năm, quan thôi giữ chức, việc tìm kiếm tra xét cũng thưa dần, vợ Đới không chờ được bèn xin lấy chồng khác. Gặp lúc người làng vét giếng cũ, vào trong hốc thấy Đới, vỗ về thấy chưa chết cả sợ báo cho gia đình biết, cáng về nhà mấy ngày mới nói được, kể lại mọi chuyện đã qua. Sau khi Đới rơi xuống giếng, người láng giềng cãi vã rồi giết chết vợ, bị cha vợ thưa kiện, giam nhốt xét xử hơn một năm, chỉ còn bộ da bọc xương trở về, nay nghe tin Đới sống lại cả sợ bỏ trốn. Người trong họ bàn xin thưa quan trừng trị, Đới không nghe, cứ nói "Trước đây là ta chuốc lấy tội, chuyện đó là âm ty trừng phạt chứ y có can dự gì?”, người láng giềng thấy không có ý gì khác bèn lần mò trở về. Nước dưới giếng đã vét sạch, Đới thuê người xuống thu nhặt xương cốt, đều sắm quan tài chôn cất ở nghĩa địa làm phúc. Lại giở tới gia phả thấy có tên Tiềm tự Long Phi, bèn sắm sửa lễ vật ra cúng tế trước mộ. Quan Học sứ nghe chuyện lạ, lại khen ngợi văn bài của Đới, khoa ấy lấy Đới làm hạng ưu cho đi thi hương, kế Đới thi đỗ Cử nhân. Đới trở về liền xây dựng phần mộ ở cánh đồng phía đông, dời mộ Long Phi ra đó, xuân thu cúng tế, hương lửa không dứt. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Làng ta có người đào than, hầm than bị nước ngập, hơn mười người bị khốn dưới đó. Người ta múc nước tìm xác hơn hai tháng mới cạn mà hơn mười người không ai chết cả. Té ra lúc nước đổ tới thì họ cũng bị vây trên chỗ cao nên không bị chết đuối. Dòng dây xuống đưa lên, gặp gió thì tắt thở, một ngày một đêm mới tỉnh lại. Mới biết người ta ở dưới đất thì cũng như chim rắn côn trùng, nhất thời chưa thể chết được. Nhưng chưa có ai sống được suốt mấy năm dưới đất, nếu không phải là kẻ chí thiện thì ba năm liền sống trong địa ngục làm sao có thể sống mà trở về. [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 66 -[/B] San Hô (San Hô) An Đại Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm, em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức, rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ riêng, tỏ ý dứt tình với vợ. Lâu ngày mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói "Cưới vợ là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?", bèn thôi vợ, sai bà vú già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói "Là đàn bà mà không làm vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi cho xong". Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về, sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi “San Hô có tội gì?", sinh trách là không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa liền trở về. Qua mấy hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói "Nàng ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?". Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vưong thị tới đó ở. Bà Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay. San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai. Sinh sau khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung dữ đã lan rộng ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu. Gọi em tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể, kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về. San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về, cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng "Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa", nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới. Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than "Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như thế?” Bà Vu hỏi "Có bằng nàng dâu em đuổi không?” Bà Thẩm nói “Ôi! Nói ra không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!". Bà Vu nói “Nàng dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?". Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi “San Hô lấy chồng khác chưa?". Bà Vu đáp “Không biết, để hỏi lại sau”. Mấy hôm sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói "Sợ chị đi thì em chết mất thôi". Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng, Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh, động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu, hết sức ca ngợi nàng hiền. Bà Vu nói "Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì được”. Thẩm nói “Ồ, oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?". Bà Vu hỏi “Như San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?", bà Thẩm đáp “Chỉ có mắng chửi thôi". Bà Vu nói "Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng". Bà Thẩm nói "Ai cũng có lúc lỗi lầm, chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng". Bà Vu nói "Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy". Bà Thẩm giật mình hỏi "Chị nói gì?", bà Vu đáp “San Hô tới đây lâu rồi, những thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy” Bà Thẩm nghe thế nước mắt ròng ròng, nói "Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?". Bà Vu bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô. Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt, sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng. Ông Nhiệm vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói "Ta là An Hiếu liêm đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?", rồi nhìn sinh nói "Âm ty cảm động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần". Sinh rơi lệ nói “Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con", An đáp "Thứ con hư dâu dữ có gì đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta". Sinh nói "Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?". An nói "Dưới gốc cây Tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng". Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì. Sinh về kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông cha để lại, không nỡ giấu diếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ con đang vui vẻ chúc mừng nhau. Nhị Thành vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng Cô nói "Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?", Nhị Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói “Những tiền trả nợ đều là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan”. Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói "Thế nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thằng đấy". Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về. Nhìn kỹ thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng “Mấy lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn, còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng, những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh". Sinh không biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc. San Hô bước ra cười nói “Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ”. rồi bảo sinh đem văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói "Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?”. Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ, tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy. Tàng Cô từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ cả ăn uống, nói với người ta rằng “Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy". Sau sinh nở mười lần đều không nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo đáp lòng hiếu hữu vậy. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Nhà nghèo hay con hiếu, nước loạn biết tôi trung, nhà hay nước cũng đều như thế chăng? Con dâu dữ cải hóa thì mẹ chết, té ra một nhà hiếu thuận thì kẻ không có đức khó mà hưởng được. Tàng Cô tự hối cải, nói trời không cho mình chuộc tội, không phải kẻ ngộ đạo thì làm sao nói ra được câu ấy? Lẽ ra phải chết sớm mà lại được sống lâu thì cũng là trời tha tội cho, song sống mà không được thanh thản thì là trời có ý trừng phạt chăng?[/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 67 -[/B] Dâm Thần Ngũ Thông (Ngũ Thông) [B]I.[/B] Phương nam có dâm thần Ngũ thông cũng như phương bắc có hồ vậy. Nhưng ở phương bắc bị hồ ám thì còn tìm đủ cách khu trừ, chứ ở vùng Giang Tô Chiết Giang đàn bà con gái xinh đẹp trong dân gian mà bị thần Ngũ thông hành dâm thì cha mẹ anh em không ai dám ho he, gây hại còn dữ hơn cả hồ. Có Thiệu Hồ là nhà buôn mở cửa hiệu ở huyện Ngô (tỉnh Giang Tô), vợ là Diêm thị rất xinh đẹp. Một hôm có người đàn ông nghênh ngang từ ngoài vào, vỗ kiếm trừng mắt nhìn quanh, vú già tớ gái trong nhà chạy sạch. Diêm muốn chạy ra, người ấy chặn lại nói "Đừng sợ, ta là Tứ lang trong Ngũ thông đây. Ta yêu nàng, không làm hại nàng đâu” rồi ôm ngang lưng Diêm thị nhấc lên như bế trẻ con đặt lên giường, giải quần nàng tự tuột ra, y bèn cưỡng hiếp, nhưng dương vật to cứng nàng không chịu nổi, lúc mê man đau đớn kêu rên như sắp chết. Tứ lang cũng thương xót không làm hết sức, kế bước xuống giường nói "Năm ngày nữa ta sẽ lại tới", rồi đi. Hồ bày cửa hiệu ngoài cổng, đêm ấy đám tớ gái chạy tới thưa, Hồ biết là thần Ngũ thông không dám nói gì. Đến sáng thấy vợ mỏi mệt không dậy nổi, trong lòng rất nhục nhã xấu hổ, dặn người nhà không được kể rộng ra. Người đàn bà qua ba bốn ngày mới khỏe lại, nhưng sợ thần Ngũ thông lại tới, đám vú già tớ gái không dám ngủ đêm trong phòng, tránh hết ra nhà ngoài, chỉ có người đàn bà buồn rầu ngồi trước đèn chờ. Không bao lâu, Tứ lang dắt hai người nữa tới, đều là thiếu niên ôn nhã, có tên tiểu đồng bày rượu thịt ra cùng ăn uống với người đàn bà. Người đàn bà xấu hổ cúi đầu, họ ép uống rượu cũng không uống, trong lòng nơm nớp sợ họ thay phiên hành dâm thì hết sống. Ba người uống rượu vui vẻ với nhau, người gọi là đại ca người gọi là tam đệ. Uống đến khuya, hai người khách đứng lên nói "Hôm nay Tứ lang được mỹ nhân nên mời, cũng nên gọi Nhị lang Ngũ lang tới uống rượu mừng", rồi từ biệt đi. Tứ lang kéo người đàn bà vào màn, nàng khóc lóc năn nỉ, Tứ lang cứ ép giao hoan, nàng máu me đầm đìa ngất đi không biết gì nữa, Tứ lang mới đi. Người đàn bà nằm vật ra trên giường khôn xiết căm hờn xấu hổ, nghĩ định tự tử nhưng treo cổ thì dây tự đứt, mấy lần đều như thế, khổ không sao chết được. May mà Tứ lang cũng không tới thường, cứ chờ khoảng nàng đỡ bệnh mới lại tới một lần, cứ thế hơn ba tháng, cả nhà không yên. Có Vạn sinh ở Cối Kê (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là em họ ngoại của Thiệu, dũng mãnh thiện xạ, một hôm tới thăm Thiệu. Lúc ấy trời đã tối, Thiệu vì nhà khách đã cho gia nhân ở bèn đưa Vạn vào ngủ nhà trong. Vạn nằm hồi lâu không ngủ, nghe trong sân có tiếng chân người bèn núp cạnh cửa sổ nhìn ra, thấy một người đàn ông bước vào phòng vợ Thiệu, lấy làm ngờ vực xách đao lẻn theo. Thấy người ấy ngồi sánh vai với Diêm thị, trên bàn thì đầy rượu thịt liền nổi giận sấn vào, người đàn ông giật mình vội đứng dậy nắm lấy kiếm thì đã bị chém toác đầu ngã xuống, nhìn ra thì là một con ngựa con to như con lừa. Vạn kinh ngạc hỏi Diêm thị, người đàn bà kể lại mọi chuyện rồi nói "Các thần sắp tới, làm sao bây giờ?”. Vạn xua tay ra hiệu đừng lên tiếng rồi tắt đèn cầm cung tên nằm chờ trong bóng tối. Không bao lâu có bốn năm người trên không đáp xuống, Vạn bắn mau một phát, người đi đầu trúng tên chết tươi. Ba người kia tức giận gầm thét, tuốt kiếm xông vào tìm kẻ bắn tên, Vạn cầm đao núp sau cánh cửa im lặng không động đậy, một người bước vào bị Vạn chém trúng đầu cũng lăn ra chết. Vạn đứng im chỗ cũ chờ hồi lâu thấy im ắng bèn bước ra gọi Thiệu dậy kể chuyện. Thiệu cả kinh cùng đốt đuốc vào xem thì thấy một con ngựa và hai con heo chết trong phòng. Cả nhà đều mừng rỡ, nhưng sợ hai con quái còn sống tới trả thù bèn giữ Vạn ở lại. Nấu nướng thịt heo thịt ngựa đem lên mời, thấy ngon ngọt khác hẳn thịt heo ngựa thường, từ đó Vạn sinh lừng lẫy tiếng tăm. Vạn ở lại hơn tháng, không thấy đám quái tới nữa bèn từ giã Thiệu, sắp lên đường thì có nhà buôn Mỗ tới mời. Trước là Mỗ có con gái chưa lấy chồng, chợt Ngũ thông giữa ban ngày hiện ra, là một người đàn ông đẹp trai hơn hai mươi tuổi, nói sẽ cưới cô gái làm vợ, đưa một trăm lượng vàng làm sính lễ rồi hẹn ngày cưới. Mỗ tính lại sắp tới ngày hẹn, cả nhà lo sợ, nghe danh Vạn sinh bèn nài nỉ mời bằng được về nhà, nhưng sợ Vạn từ chối nên giấu không nói thật, thết tiệc xong mới cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra lạy chào. Vạn thấy cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp kinh ngạc không hiểu là có ý gì, vội đứng lên chào, Mỗ kéo ngồi xuống kể thật mọi việc. Vạn nghe thấy cả kinh, nhưng bình sinh ý khí hào hùng nên cũng không từ chối. Đến ngày cưới, Mỗ cũng hoa giăng dây lụa ngũ sắc ngoài cổng, bảo Vạn ngồi trong phòng. Đến trưa vẫn không thấy Ngũ thông tới, Vạn mừng rỡ nghĩ thầm chắc tân lang là trong số đã bị mình giết. Phút chốc chợt thấy trước thềm có vật như con chim sa xuống rồi một thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ bước vào, nhìn thấy Vạn quay người bỏ chạy. Vạn đuổi ra tới ngoài, chỉ thấy một làn khí đen sắp bay lên, vội rút đao nhảy lên chém theo, chặt đứt một chân, thiếu niên kêu gào bay mất. Cúi nhìn thì khúc chân là một cái móng lớn to bằng bàn tay, không biết là con gì, tìm theo vết máu thì thấy nhảy xuống sông. Mỗ cả mừng, lại nghe nói Vạn không có vợ, ngay đêm ấy chuẩn bị giường chiếu cho làm lễ hợp cẩn với cô gái. Từ đó những người vốn sợ Ngũ thông đều mời Vạn tới nhà mình ngủ một đêm. Được hơn năm Vạn mới đưa vợ về nhà, từ đó Ngô Trung chỉ còn một trong Ngũ thông, không dám công nhiên tác quái nữa. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ngũ thông Thanh oa làm mê hoặc thế tục đã lâu đến nỗi cứ mặc cho chúng tùy ý dâm loạn mà không ai dám nói một tiếng, Vạn sinh thật là người hào sảng trong thiên hạ vậy.[/I] [B]II.[/B] Kim sinh tự Vương Tôn, người Tô Châu (tỉnh Giang Tô). Tới đất Hoài (tỉnh Giang Tô) dạy học, ở trong vườn một vị thân sĩ lầu gác không nhiều nhưng cây cối rậm rạp. Hàng đêm đến khuya, khi bọn tiểu đồng đầy tớ đã ngủ hết thường một mình ngồi trước đèn, trong lòng buồn bã. Một đêm vừa hết canh hai chợt nghe có người lấy ngón tay búng cửa sổ, sinh vội lên tiếng hỏi, bên ngoài nói là xin lửa, giọng nói như đứa tiểu đồng. Sinh mở cửa cho vào thì là một người đẹp khoảng mười sáu tuổi, có một tỳ nữ theo sau. Sinh ngờ là yêu quái, gạn hỏi cặn kẽ, cô gái nói "Thiếp thấy chàng là kẻ sĩ phong nhã mà cô tịch đáng thương nên không ngại sương gió tới định cùng vui vầy đêm nay, chứ sợ nói lai lịch ra thì thiếp không dám tới mà chàng cũng không dám chứa chấp đâu”. Sinh lại nghĩ là con gái hư hỏng trong làng, lấy cớ sợ mang tiếng để từ tạ. Cô gái đưa mắt liếc, sinh thấy thần trí mê man, tâm thần điên đảo không thể tự chủ được nữa. Người tỳ nữ biết, bèn nói “Cô Hà, em đi đây”. cô gái gật đầu, kế mắng "Đi thì cứ đi, còn Hà Hà Vân Vân gì?". Người tỳ nữ đi rồi, nàng mới cười nói “Gặp lúc nhà không có ai mới dắt nó tới đây, ngu ngốc như thế đấy, nói lộ ra cho chàng biết tên tự của thiếp". Sinh nói "Nàng tinh tế sâu sắc quá làm ta sợ có tai họa". Nàng nói “Về sau sẽ biết thôi, nhưng thiếp cam đoan là không làm gì có hại cho chàng đâu, đừng lo”. Kế nàng lên giường tháo gỡ đồ trang sức, sinh thấy trên tay nàng có đeo một cái xuyến bằng vàng tía khảm hai viên ngọc minh châu, tắt đèn vẫn lóng lánh chiếu sáng cả phòng. Sinh càng sợ hãi, không đoán được là nàng từ đâu tới. Vừa giao hoan xong thì người tỳ nữ tới gõ cửa, cô gái trở dậy, lấy chiếc xuyến soi đường vào trong rặng cây um tùm đi mất. Từ đó đêm nào cũng tới, có lần sinh định lén đi theo, cô gái như đã biết bèn che ánh sáng, cây cối rậm rạp tối om giơ bàn tay lên cũng không nhìn thấy, sinh đành quay về. Một hôm sinh đi Hà Bắc, dây mũ bị đứt, gió thổi suýt rơi, ngồi trên ngựa cứ phải lấy tay giữ. Tới sông lên ngồi trên thuyền, mũ bị gió thổi rơi xuống sông rồi bị nước cuốn đi, nghĩ là mất rồi. Đến khi lên bờ thì gặp con gió lớn thổi chiếc mũ bay tới, chao chao trên không rồi rơi xuống, giơ tay chụp lấy thì thấy dây mũ đã liền lại, lấy làm lạ. Khi trở về kể lại với cô gái, nàng không nói gì mà chỉ cười khẽ. Sinh ngờ là do nàng làm bèn nói "Nếu quả nàng là thần thì xin nói rõ cho ta yên lòng". Cô gái nói "Chàng lúc vắng vẻ tịch mịch lại được kẻ si tình giải khuây cho, thiếp tự nghĩ như thế là không xấu. Giả như thiếp làm được như thế thì cũng là yêu thương nhau đó thôi, căn vặn làm gì muốn tuyệt tình sao?", Sinh không dám nói nữa. Trước Sinh có nuôi đứa cháu gái, đã đi lấy chồng, bị Ngũ thông quấy phá, rất lo lắng nhưng chưa từng nới với ai, vì quen biết thân mật với cô gái đã lâu nên kể ra không giấu giếm gì. Nàng nói "Những loại ấy thì cha thiếp có thể diệt trừ được, nhưng làm sao thiếp dám đem việc riêng của người tình mà kể với cha". Sinh năn nỉ xin bày cách cho, nàng ngẫm nghĩ rồi nói ”Loại ấy cũng dễ trừ, nhưng phải đích thân thiếp đi, mà bọn ấy đều là đầy tớ nhà thiếp, nếu chỉ để chúng chạm một ngón tay vào người thôi thì nước Tây Giang cũng không rửa hết nhục”. Sinh nài nỉ mãi, nàng nói "Để thiếp tính cho". Đêm sau nàng tới nói “Thiếp đã vì chàng sai đứa tỳ nữ xuống nam rồi, nhưng nó yếu ớt, sợ không giết được chúng thôi". Đêm sau đang ngủ thì đứa tỳ nữ tới gọi, Sinh vội dậy mở cửa cho vào. Cô gái hỏi công việc thế nào, đứa tỳ nữ đáp "Con không đủ sức bắt sống, nên đã thiến nó rồi". Nàng cười hỏi đầu đuôi, đứa tỳ nữ kể “Ban đầu con tưởng là ở nhà lang quân đây, nhưng tới nơi mới biết là không phải. Tới nhà chồng nàng thì đã lên đèn, vào trong thấy nàng ngồi trước đèn, gục xuống bàn như đang ngủ, con bèn thu hồn nàng cho vào vò úp lại. Giây lát con quái tới, vừa vào phòng thì lùi ra ngay, quát "Sao lại có người lạ nào thế?” nhưng nhìn kỹ không thấy ai khác lại bước vào. Con làm như đang mê man, y cởi quần áo ra leo lên, lại giật mình nói "Sao lại có binh khí thế này". Ý con không muốn cầm vào vật bẩn dơ tay, nhưng sợ chậm trễ sinh biến bèn chụp lấy thiến luôn. Con quái đau đớn kêu la bỏ chạy, con trở dậy mở cái vò lên, nàng tỉnh dậy rồi thì con đi". Sinh mừng rỡ tạ ơn, cô gái cùng đứa tỳ nữ ra về. Hơn nửa năm sau không thấy nàng tới, Sinh đã tuyệt vọng. Cuối năm Sinh nghỉ dạy dịnh về quê, cô gái chợt tới. Sinh mừng rỡ ra đón, nói "Lâu quá nàng không tới, ta nghĩ chắc đã phạm lỗi gì, nay nàng không dứt tình chứ?”. Nàng đáp "Gắn bó với nhau cả năm mà chia tay nhau không có một lời thì cũng chưa trọn vẹn. Nghe nói chàng thôi dạy học nên lén tới nói lời từ biệt". Sinh xin nàng cùng về quê với mình, nàng than "Khó nói lắm, hôm nay chia tay mà lòng không nỡ quên tình. Thiếp là con gái của Kim Long đại vương, vốn cùng chàng có túc duyên nên tới gặp gỡ. Không ngờ sai đứa tỳ nữ xuống Giang Nam làm giang hồ đồn ầm lên rằng thiếp vì chàng mà thiến Ngũ thông, cha thiếp nghe được cho là quá nhục nhã, đã định ban tội chết. May mà đứa tỳ nữ đứng ra nhận tội, ông mới hơi nguôi giận, phạt đánh nó một trăm gậy. Thiếp đi đâu nửa bước cũng có bà vú đi theo, chỉ nhân lúc sơ hở tới được đây một lần chứ không thể trọn duyên cầm sắt, biết làm sao được". Nói xong từ biệt, Sinh kéo lại rơi nước mắt, nàng nói "Chàng đừng làm thế, ba mươi năm sau sẽ lại sum họp mà". Sinh nói “Ta nay ba mươi tuổi, ba mươi năm nữa đã là một ông già tóc bạc, còn mặt mũi nào gặp lại nhau?". Cô gái nói "Không phải thế. Ở Long cung không có người già tóc bạc, mà người đời thọ hay yểu không phải ở chỗ dung mạo, song nếu chàng muốn giữ dung mạo cho không già là chuyện rất dễ", kế viết một phương thuốc lên bìa quyển sách trên bàn rồi đi. Sinh về quê, cháu gái kể lại chuyện lạ, nói "Tối đến mơ thấy một người tới bắt bỏ vào vò, tỉnh dậy thấy máu đầm đìa cả chăn nệm, mà con quái tuyệt tích luôn". Sinh nói "Đó là do ta cầu đảo Hà Bá đấy” mọi người mới rõ. Về Sau sinh sáu mươi tuổi mà diện mạo vẫn như người ba mươi. Một hôm qua sông, nhìn thấy xa xa phía thượng lưu có chiếc lá sen to như chiếc chiếu trôi xuống, một người đẹp ngồi ở trên, tới gần thì là cô gái thần liền nhảy qua, người theo chiếc lá sen nhỏ dần lại, khi còn bằng đồng tiền thì biến mất. Chuyện này và chuyện Thiệu Hồ đều xảy ra thời Minh mạt, không biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Nếu chuyện này xảy ra sau khi Vạn sinh dụng võ thì vùng Ngô Hạ chỉ còn có nửa tên Ngũ thông, chắc không đủ để tác quái làm hại nữa. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 68 -[/B] Họ Thân (Thân Thị) Cạnh sông Kính Hà (ở tỉnh Thiểm Tây) có họ Thân là con sĩ nhân, nhà rất nghèo, có ngày không nổi lửa nấu cơm, vợ chồng nhìn nhau không biết làm sao. Vợ nói "Hết cách rồi, hay là chàng đi ăn trộm vậy?", Thân đáp "Là con nhà sĩ nhân đã không làm rạng rỡ tổ tông mà còn làm mất danh tiếng, làm nhục ông cha, thì ăn trộm mà sống chẳng bằng trong sạch mà chết". Vợ uất ức nói "Ngươi muốn sống mà ghét mang nhục à? Trên đời những kẻ không cày ruộng mà sống chỉ có hai cách, ngươi đã không thể làm ăn trộm thì ta cũng không sao làm đĩ". Thân tức giận cãi vã với vợ, vợ uất ức bỏ đi ngủ. Thân nghĩ mình là đàn ông mà không lo được ngày hai bữa cơm, để đến nỗi vợ muốn đi làm đĩ thì thà chết cho xong, bèn lặng lẽ dậy ra thắt thòng lọng trên cây ngoài sân treo cổ tự tử. Chợt thấy cha tới kinh ngạc nói "Thằng con ngu này sao lại đến nỗi như thế?”. Rồi cắt dây, dặn "Ăn trộm thì cũng được, nhưng phải rình ở chỗ đám lúa dày, chuyến này thì được chứ không được làm lần nữa đâu đấy". Vợ nghe có tiếng rơi xuống đất giật mình tỉnh dậy gọi chồng không thấy lên tiếng, thắp đèn ra nhìn thì thấy trên cây có sợi dây đứt, Thân thì chết ngất ở dưới, hoảng sợ tới lay gọi, giây lát Thân tỉnh lại, vợ đỡ vào nằm trên giường, cũng bớt tức giận. Trời sáng, vợ Thân nói thác là chồng bị bệnh qua xin cơm nhà láng giềng về cho Thân ăn. Thân ăn xong ra cửa đi, tới trưa vác một túi gạo về. Vợ hỏi gạo ở đâu, Thân đáp "Các bạn bè của cha ta đều là nhà thế gia, tới đó xin xỏ thì được nhưng không mặt mũi nào đi cầu xin. Người xưa nói “Kẻ không nổi tiếng thì làm gì cũng được, nay ta định đi ăn trộm đây, còn tiếc gì? Nấu cơm mau lên, ta định theo lời nàng đi trộm cướp đây". Vợ nghĩ Thân giận lời nói của mình hôm qua nên mới nói thế, bèn vo gạo nấu cơm, Thân ăn no rồi vội tìm gỗ cứng lấy búa đẽo thành cái gậy cầm lấy ra đi. Vợ thấy đúng là đi trộm cướp vội kéo áo giữ lại, Thân nói “Cô bảo ta đi trộm cướp, nếu việc bại lộ liên lụy tới nhau thì đừng có hối hận", rồi dứt áo đi thẳng. Chập tối Thân tới thôn bên cạnh bèn vòng ra cách đó một dặm nằm rình. Chợt có cơn mưa rào đổ xuống, cả người ướt đầm, nhìn thấy phía xa có rặng cây bèn tìm tới tránh mưa. Chợt có tia chớp lóe sáng, thấy đã tới gần bức tường, xa xa lại như có người đi tới, sợ họ trông thấy, nhìn thấy dưới tường có đám lúa dày vội lủi mau vào đó ngồi thụp xuống. Không bao lâu có một người đàn ông tới, thân thể to lớn, cũng rẽ xuống đám lúa. Thân sợ không dám nhúc nhích, may mà người ấy đi xéo qua, nhìn theo thấy y nhảy vào trong tường. Thân nhớ lại phía trong tường là nhà phú ông họ Khang, ắt người này là kẻ trộm, cứ chờ y ăn trộm trở ra sẽ đòi chia. Lại nghĩ y to lớn khỏe mạnh, nếu không lấy trộm được nhiều sẽ không chịu chia, ắt phải dùng võ, nhưng tự lượng sức mình không đánh nổi y, chẳng bằng nhân lúc bất ngờ đánh ngã. Tính kế xong nằm xuống chờ hồi lâu, lúc gà gáy canh một y mới nhảy tường ra, chân chưa chạm đất, Thân đã vùng dậy đập một gậy vào lưng ngã xuống đánh huỵch, thì là một con rùa lớn, miệng to như cái chậu. Thân phát hoảng vác gậy đập túi bụi, con rùa chết luôn. Trước là ông họ Khang có một con gái rất xinh đẹp, cha mẹ đều yêu thương. Một đêm có người đàn ông vào trong phòng nàng cưỡng ép đòi giao hoan, cô gái muốn la lên thì lưỡi đã cứng đơ rồi hôn mê không biết gì nữa, mặc cho y mượn làm gì thì làm. Khi y đi rồi nàng xấu hổ không dám nói, chỉ họp đám tỳ nữ lại ngủ cùng phòng, đóng cửa thật chặt mà thôi. Đêm sau không biết vì sao cửa phòng lại tự mở ra, vào xem thì mọi người đều mê man, đám tỳ nữ đều bị hành dâm, cùng hoảng sợ kể lại với nhau rồi báo cho ông Khang. Ông sai gia nhân cầm dao gậy rình sẵn, thắp đèn sáng ngồi trong phòng, khoảng gần nửa đêm thì người gác trong ngoài đều nhất loạt thiếp đi, chợt như tỉnh mộng thức dậy thì thấy cô gái đã trần truồng nằm trên giường ngất đi, hồi lâu mới tỉnh lại ông Khang hận lắm nhưng không biết làm sao, được vài tháng thì cô gái cứ héo hắt gầy mòn đi. Ông Khang nói với mọi người rằng ai có thể trừ tà cho thì sẽ thưởng ba trăm lượng vàng, ngày thường Thân cũng đã từng nghe. Đêm ấy đánh được con rùa, sực nghĩ ra đây là tà quỷ ám cô gái. Bèn gõ cửa xin thưởng, ông Khang mừng rỡ mở tiệc mời, sai treo con rùa ở sân phanh thịt ra, giữ Thân ở lại qua đêm, quả nhiên tà quỷ đều tuyệt tích, bèn đem đủ ba trăm lượng vàng thưởng cho Thân. Thân mang vàng về, vợ thấy qua đêm không về đang lo lắng trông ngóng, thấy Thân vào vội hỏi han, Thân không đáp, bày vàng ra giường. Vợ nhìn thấy hoảng sợ nói "Thật là anh đi ăn cướp à?”, Thân đáp "Cô bắt ta làm như thế, sao lại còn hỏi?". Vợ khóc nói “Hôm trước chỉ là nói đùa thôi, nay anh phạm tội chết chém, ta không thể chịu liên lụy với thằng giặc giết người, xin chết trước đây". Rồi chạy ra ngoài, Thân đuổi theo cười kéo lại kể thật mọi chuyện, vợ mới mừng rỡ. Từ đó đem vàng buôn bán, cũng nổi tiếng giàu có. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Người ta không lo nghèo, chỉ lo mất nết mà thôi. Tính nết đã ngay thẳng thì tuy đói cũng không chết, nếu không được người thương cũng có quỷ giúp. Những người nghèo khổ trên đời quên nghĩa để cầu lợi, quên nhục để kiếm cơm, không ai dám nhờ giữ giùm một đồng, thì làm sao còn được quỷ thần giúp cho?[/I] [B]69. Hằng Nương[/B] [B](Hằng Nương)[/B] Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị nhan sắc rất đẹp, hai bên đều yêu thương nhau. Sau Hồng cưới tỳ nữ là Bảo Đới làm thiếp, nhan sắc kém xa Chu nhưng Hồng lại yêu chiều. Chu bất bình, vì thế vợ chồng sinh ra bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ở luôn lại phòng thiếp nhưng càng chiều chuộng Bảo Đới mà xa cách Chu. Sau Hồng dời nhà, ở cạnh nhà một người buôn lụa họ Địch. Vợ Địch là Hằng Nương qua thăm Chu trước, thấy khoảng ba mươi tuổi, nhan sắc chỉ bình thường nhưng nói năng dịu dàng, Chu thích lắm. Hôm sau qua thăm đáp lễ thấy nhà nàng cũng có người thiếp khoảng hai mươi tuổi rất xinh đẹp. Ở cạnh nhau gần nửa năm, Chu không nghe thấy họ cãi cọ gì cả, mà Địch lại chỉ yêu quý có Hằng Nương, vợ thiếp chỉ là người để đó mà thôi. Một hôm Chu qua chơi nhà Hằng Nương, hỏi "Thiếp trước nay cho rằng chồng yêu vợ lẽ là vì vợ lẽ muốn thay bậc đổi ngôi, nay mới biết không phải. Phu nhân có thuật gì thế, nếu có thể dạy được thì thiếp xin làm học trò". Hằng Nương đáp “Ồ! chị tự xa cách rồi lại trách chồng sao? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim sẻ cho bụi rậm, càng xa cách nhau hơn. Về nhà cứ để mặc họ, dù chồng tự tới cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng thiếp sẽ tính tiếp cho chị". Chu theo lời, trang điểm thêm cho Bảo Đới, bảo cùng ngủ với chồng, Hồng ăn uống gì cũng bảo Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng quan tâm thì Chu ra sức từ chối, từ đó mọi người đều khen Chu thị hiền. Như thế hơn tháng, Chu qua thăm Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Được đấy!” Bây giờ chị về nhà bỏ hết nữ trang, đừng mặc quần áo đẹp, đừng đánh phấn tô son, để mặt bẩn đi giày rách làm lụng với người nhà, một tháng sau hãy qua đây”. Chu theo lời, mặc áo vá đụp, làm ra vẻ bẩn thỉu chỉ lo dệt vải chứ không hỏi gì tới chuyện khác. Hồng thương xót bảo Bảo Đới cùng làm lụng nhưng Chu không cho, cứ quát đuổi lên nhà. Như thế hơn tháng, lại qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương nói "Đứa nhỏ này dạy được đấy! Ngày tới là tiết Thượng ty[B]*[/B], muốn rủ chị đi chơi. Chị nên bỏ hết quần áo rách, giày dép áo quần thay mới một loạt rồi qua ta cho sớm", Chu thị vâng dạ. *Tiết thượng ty: một lễ hội ở Trung Quốc cổ, tiến hành vào ngày Tỵ đầu tiên trong thượng tuần tháng ba âm lịch. Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy đều theo như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong qua nhà Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Tốt lắm” rồi búi hộ mái tóc cánh phượng, mượt bóng như gương, tay áo không hợp thời trang thì tháo ra may lại, lại nói kiểu giày vụng, lấy vải vụn trong rương ra cùng khâu, xong rồi lập tức bảo Chu thay đổi. Lúc chia tay mời Chu uống rượu rồi dặn "Về gặp mặt chồng xong là đóng cửa đi ngủ ngay, y có tìm gõ cửa cũng đừng mở. Gọi ba lần mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn chuyện hôn hít vuốt ve. Nửa tháng sau hãy qua đây”. Chu ăn mặc đẹp đẽ về nhà vào chào Hồng, Hồng chăm chú ngắm vợ từ trên xuống dưới, vui vẻ cười nói khác hẳn ngày thường. Chu thị kể qua buổi đi chơi rồi đỡ má ra vẻ mệt mỏi, trời chưa tối đã đứng dậy về phòng cài cửa đi nằm. Không bao lâu quả nhiên Hồng tới gõ cửa, Chu cứ nằm mãi không chịu dậy, Hồng mới bỏ đi, đêm sau cũng thế. Sáng ra Hồng trách móc, Chu nói "Ngủ một mình quen rồi, không chịu nổi sự quấy rầy”. Trời vừa xế Hồng đã vào phòng vợ ngồi giữ chỗ, kế tắt đèn lên giường như đêm tân hôn, thương yêu rất mực, lại hẹn đêm sau. Chu không chịu, hẹn trở đi cứ ba ngày một lần. Khoảng nửa tháng qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò rồi nói "Từ nay thì chị có thể chiếm luôn chồng rồi. Có điều chị tuy đẹp nhưng chưa có duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên thì tranh giành được cả lòng sủng ái với Tây Thi, huống hồ là kẻ xấu hơn”. Liền bảo Chu liếc thử, nói “Không phải thế! Cạnh ngoài khóe mắt chưa được”. Lại bảo cười thử, nói "Không phải thế! Má bên trái chưa được," Rồi liếc mắt đưa tình, hé miệng cười duyên bảo Chu làm theo, mấy mươi lần mới hơi giống. Hằng Nương bảo "Chị về cứ soi gương mà tập, thuật chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn như lúc trên giường thì tùy cơ mà khêu gợi, tùy sở thích mà chiều chuộng thì đó không phải là điều dùng lời mà dạy được!". Chu về làm đúng như lời Hằng Nương dạy, Hồng rất đẹp ý, bị cả nhan sắc lẫn phong thái của vợ làm cho si mê, chỉ sợ bị cự tuyệt. Trời vừa xế là vào ngồi nói chuyện vui cười với vợ không chịu rời phòng nửa bước, ngày nào cũng thế, không sao bảo ra được. Chu càng tử tế với Bảo Đới, mỗi khi ăn uống trong phòng đều gọi vào ngồi cùng, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã bảo nàng ta đi ra. Chu lại lừa chồng vào phòng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng suốt đêm Hồng không động chạm gì tới, Bảo Đới vì thế giận Hồng, gặp ai cũng oán trách ra miệng. Hồng càng chán ghét, dần dần tới chỗ đánh đập. Bảo Đới phẫn uất bỏ cả trang điểm, áo bẩn giày rách, đầu bù tóc rối nên càng không trách ai được. Một hôm Hằng Nương hỏi Chu "Thuật của ta thế nào?". Chu đáp "Đạo thầy thật là tuyệt diệu, có điều đệ tử có thể làm được mà rốt lại vẫn chưa hiểu được. Để mặc là vì sao?". Hằng Nương nói "Chị không biết sao? Người ta vốn chán cái cũ mà thích cái mới, trọng cái khó mà khinh cái dễ. Chồng yêu vợ lẽ không hẳn vì cô ta đẹp mà vì thấy cái ít được nếm là ngon, thấy việc khó được gặp là hay. Cứ để mặc cho ăn no thì sơn hào hải vị cũng ngán chứ nói gì tới canh rau muống". Chu hỏi "Bỏ hết trang điểm rồi sau ăn mặc lộng lẫy là vì sao?". Hằng Nương đáp "Bỏ không ngó ngàng gì tới thì như xa cách lâu ngày, bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như mới tới, khác nào người nghèo chợt được ăn thịt ngon, sẽ thấy gạo lứt là vô vị. Lại không dễ dàng cho nếm ngay thì kẻ kia là cũ mà mình là mới, kẻ kia thì dễ mà mình thì khó, đó chính là thuật biến vợ thành thiếp đấy". Chu cả mừng, bèn coi Hằng Nương là bạn thân chốn khuê phòng. Được vài mấy chợt Hằng Nương nói với Chu “Hai người chúng ta tình như ruột thịt, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích, trước đã định nói nhưng sợ chị nghi ngờ. Nay sắp từ biệt nên xin nói thật, thiếp chính là hồ. Thuở nhỏ thiếp gặp nạn, bị mẹ kế bán lên kinh đô, vì chồng thiếp đối xử tử tế nên không nỡ dứt tình ngay mới dùng dằng đến nay. Ngày mai cha thiếp trút xác lên tiên, thiếp phải về thăm không trở lại nữa". Chu cầm tay Hằng Nương than thở, sáng ra qua xem thì cả nhà đang hoảng hốt kinh sợ vì Hằng Nương đã biến đâu mất. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Người mua ngọc không quý ngọc mà lại quý cái hộp đựng ngọc[B]*[/B]. Tình người đối với mới, cũ, khó, dễ vẫn là điều ngàn xưa đến nay không sao hiểu được, nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu đã được dùng trong chỗ đó rồi. Kẻ nịnh thần ngày xưa thờ vua thì ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, đủ biết việc giữ cho mình được sủng ái lâu dài cũng là điều tâm truyền đấy.[/I] *Người mua ngọc... cái hộp đựng ngọc: Hàn Phi tử chép có người nước Sở bán viên ngọc cho người nước Trịnh, lấy gỗ mộc lan làm cái hộp đựng, sơn phết chạm trổ đẹp đẽ, người nước Trịnh bèn mua cái hộp mà trả lại viên ngọc. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 70 -[/B] Cát Cân (Cát Cân) Thường Đại Dụng người đất Lạc (tỉnh Hà Nam), rất mê hoa mẫu đơn. Nghe nói mẫu đơn ở Tào Châu (tỉnh Sơn Đông) đứng đầu cả Tề Lỗ (vùng Sơn Đông), đã có ý tới tìm. Gặp lúc có việc tới Tào Châu, nhân thuê khu vườn của một nhà thân sĩ để ở. Lúc ấy mới tháng hai, mẫu đơn chưa có, sinh cứ bồi hồi trong vườn nhìn chằm chằm vào cành, mong thấy nụ hoa nhú ra, lại làm đủ một trăm bài thơ tứ tuyệt nhan đề [I]Hoài mẫu đơn[/I] (Nhớ mẫu đơn). Ít lâu sau mẫu đơn có nụ, tiền lưng đã cạn phải cầm bán quần áo, nhưng vẫn say mê với hoa quên cả chuyện về. Một hôm sáng sớm ra vườn hoa, thấy có một nữ lang cùng bà vú ở đó, ngờ là gia quyến nhà quan vội quay vào phòng. Chiều ra vườn lại thấy, họ thong thả tránh đi. Liếc nhìn thấy nữ lang mặc quần áo lối cung trang vô cùng xinh đẹp, đang lúc ngây ngất chợt nghĩ "Đây chắc là tiên chứ dưới trần há có được người như thế sao". Vội vàng quay lại tìm, vừa qua một hòn giả sơn thì giáp mặt bà vú. Nữ lang đang ngồi trên hòn đá, thấy sinh thì giật nảy mình. Bà vú đứng trước mặt nàng, quát "Cuồng sinh định làm gì?". Sinh quỳ rạp xuống nói “Nương tử đây ắt là thần tiên". Bà vú thét mắng "Ăn nói bậy bạ như vậy thật đáng trói lại giải lên quan lắm", sinh cả sợ. Nữ lang mỉm cười nói "Thôi ta đi", rồi họ vòng qua hòn giả sơn đi mất. Sinh quay về, cất bước không nổi, nghĩ chắc nữ lang về kể lại với cha anh ắt mình phải chịu nhục nhã, nằm lăn trong phòng tự hối hận vì đã liều lĩnh. Rồi nghĩ may mà nữ lang không có vẻ tức giận, có lẽ nàng không để bụng. Vừa hối hận vừa lo sợ suốt đêm phát ốm, đến rạng ngày vẫn không thấy ai tới hỏi tội mới hơi yên lòng. Song nhớ lại dung mạo âm thanh của nàng thì lại đổi sợ ra nhớ, cứ thế ba ngày, người gầy rộc đi như sắp chết. Đêm thắp đèn ngồi đến khuya, đầy tớ đã ngủ say thì bà vú kia bước vào cầm một cái liễn đưa sinh nói "Nương tử Cát Cân nhà ta tự tay nấu tô canh thuốc độc này đây, uống mau đi". Sinh nghe thế phát hoảng, kế nói "Kẻ hèn này với nương tử vốn không có thù oán, sao lại ban cho tội chết? Nếu đã là nương tử tự tay sắc thì ốm tương tư mà chết không bằng uống thuốc độc mà chết”, rồi ngửa cổ uống luôn. Bà vú cười cầm cái liễn đi. Sinh thấy vị thuốc thơm mát tựa hồ không phải là thuốc độc, giây lát thấy thân thể khoan khoái, đầu óc nhẹ nhàng, ngủ thiếp đi luôn. Khi tỉnh thấy nắng đã soi sáng cửa sổ, thử trở dậy thì như đã khỏi bệnh, trong lòng càng tin nữ lang là tiên. Không biết làm sao gặp lại song lúc vắng người vẫn thấy phảng phất như nàng đang đứng đang ngồi, nên sinh lại vái lạy cầu khấn. Một hôm đi dạo chợt gặp phải nữ lang trong khóm cây rậm, không có ai khác bên cạnh. Sinh mừng quá lạy phục xuống đất, nữ lang tới gần đỡ dậy. Sinh chợt nghe mùi hương lạ tỏa ra khắp người nàng, liền nắm tay nàng đứng lên, thấy da thịt mềm mại khiến người ta nhũn cả xương cốt. Đang vừa muốn nói thì bà vú chợt tới, nàng bảo sinh núp vào sau tảng đá, chỉ về phía nam nói “Tối cứ theo cái thang trong vườn mà leo qua tường, chỗ bốn phía đều có cửa sổ sơn màu hồng là nơi thiếp ở", rồi vội vàng bỏ đi. Sinh ngẩn ngơ mất cả hồn phách, không biết mình đang ở đâu. Đến đêm bắc thang leo lên bức tường phía nam thì bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn, vui mừng leo xuống, quả thấy chỗ có cửa sổ sơn màu hồng, bên trong có tiếng gõ quân cờ. Sinh dừng lại không dám tới, lại leo qua tường quay về. Lát sau lại leo qua thì vẫn còn tiếng gõ quân cờ chan chát, tới gần nhìn thì thấy nữ lang đang ngồi đối diện với một mỹ nhân áo trắng, bà vú cũng ngồi đó, có một tỳ nữ đứng hầu, lại quay về. Qua lại ba lần, trống canh ba đã điểm. Sinh đang núp dưới chiếc thang bên này thì nghe bà vú đi ra nói "Ai đem cái thang ra bắc ở đây thế này?", rồi gọi tỳ nữ cùng đem cất. Sinh leo lên đầu tường, muốn xuống lần nữa thì không có thang, buồn bực quay về. Đêm sau lại qua thì thang đã đặt sẵn trong tường, may là vắng vẻ không có ai. Vào tới nơi thì nữ lang ngồi một mình như đang nghĩ ngợi điều gì, thấy sinh giật mình đứng dậy thẹn thùng khép nép. Sinh chắp tay nói "Tự nghĩ mình phúc mỏng, sợ không có duyên phận với người tiên, ngờ đâu lại có đêm nay”. Rồi ôm lấy nàng, thấy lưng ong nhỏ nhắn, hơi thở thơm phúc. Nàng đẩy ra nói "Sao mà gấp thế?", sinh đáp "Việc hay thường khó khăn, chậm trễ thì quỷ ghét!". Chưa dứt lời thì nghe có tiếng người xa xa, nàng vội nói "Em Ngọc Bản tới, chàng hãy tạm núp xuống gầm giường”, sinh theo lời. Giây lát một cô gái bước vào cười nói "Tướng thua trận còn dám nói đánh nữa hay không? Ta đã pha trà sẵn, xin mời tới chơi luôn qua đêm". Cô gái lấy cớ mỏi mệt từ chối nhưng Ngọc Bản cứ cố mời, nàng ngồi lỳ không chịu đi. Ngọc Bản nói "Còn chần chừ nữa, hay là giấu trai trong phòng” rồi lôi nàng ra cửa đi mất. Sinh lóp ngóp bò ra, hận quá liền lục chăn nệm mong tìm được một vật làm tin, nhưng trong phòng không có món nữ trang nào, chỉ có một cái như ý pha lê buộc mảnh khăn tía ở đầu giường trông xinh xắn đáng yêu, bèn nhét vào bụng. Kế leo qua tường, về tới nhà xếp áo thấy vẫn còn đượm hương thơm của nàng, càng thêm thiết tha ái mộ. Nhưng vì bị cái sợ chui dưới gầm giường nên lo bị khép vào tội lớn, nghĩ ngợi không dám quay lại nữa, chỉ giữ kỹ cái như ý chờ nàng tới tìm. Cách một đêm quả nhiên nữ lang tới, cười nói "Trước nay thiếp cho rằng chàng là bậc quân tử chứ không biết là kẻ trộm cắp”. Sinh nói "Đúng thế đấy chứ, sở dĩ ngẫu nhiên có lúc chưa phải là bậc quân tử chỉ là vì mong được như ý thôi". Rồi ôm nàng vào lòng, cởi giải quần cho. Da ngọc vừa lộ ra, hương thơm đã tỏa khắp. Trong lúc ôm ấp vuốt ve thấy hơi thở mồ hôi của nàng đều thơm phức, nhân nói “Ta vẫn nghĩ nàng là bậc tiên nữ, nay càng thấy là đúng. Nay may được nàng đoái thương cũng là duyên kiếp ba sinh. Nhưng chỉ sợ Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc[B]*[/B], cuối cùng sẽ thành mối hận biệt ly thôi". * Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc: Dung Thành tiên lục chép có người đánh cá ở Tương Giang ven hồ Động Đình nghe tiếng trẻ khóc, tới nhìn thì là một bé gái khoảng một hai tuổi bèn đem về nuôi, đến năm hơn mười tuổi thì dung mạo xinh đẹp lạ lùng, quả đúng như người tiên. Chợt có Đông Linh chân nhân trên không hạ xuống đưa nàng đi. Lúc ra đi cô gái nói với người đánh cá rằng "Ta là tiên nữ Đỗ Lan Hương, vì có lỗi bị đày xuống trần, nay xin từ biệt”. Nàng cười nói "Chàng nói quá lời! Thiếp chẳng qua như Thiến nữ lìa hồn[B]*[/B] tình cờ động lòng vì tình thôi. Việc này phải thật kín đáo, chứ e lời thị phi đơm đặt trắng đen thì chàng không thể mọc cánh bay còn thiếp cũng không thể cưỡi gió trốn, lúc ấy tai họa còn thê thảm hơn biệt ly nhiều”. Sinh cho là đúng nhưng rốt lại vẫn ngờ nàng là tiên, cứ cố hỏi họ tên. Nàng đáp "Chàng cho thiếp là tiên, mà đã là tiên thì cần gì phải lưu tên họ”. Sinh lại hỏi bà vú là ai, nàng đáp “Đó là bà Tang. Thuở nhỏ thiếp được bà che chở nên không coi như hạng tôi tớ". Rồi trở dậy ra về, dặn "Chỗ thiếp ở có nhiều tai mắt, không thể ở lâu, lúc nào có cơ hội thiếp sẽ tới". Khi từ biệt nàng đòi cái như ý, nói "Vật này không phải của thiếp mà là của Ngọc Bản để quên". Sinh hỏi Ngọc Bản là ai, nàng đáp “Đó là em con ông chú”, rồi trở gót quay về. Nàng đi rồi, chăn gối đều nhuốm mùi hương lạ. * Thiến nữ lìa hồn: Thiến nữ tức Thiến Nương. Xem chú thích truyện Diệp sinh, quyển I. Từ đó cứ hai ba đêm nàng lại tới một lần, sinh say mê chẳng nghĩ gì tới việc về quê mà đã hết sạch tiền, định bán ngựa. Nàng biết được, nói “Vì thiếp mà chàng hết tiền bán áo, lòng đã không nỡ, lại còn bán cả vật đỡ chân thì hơn ngàn dặm đường lấy gì mà đi? Thiếp có của riêng, có thể giúp chàng chút ít". Sinh từ chối, nói “Cảm lòng nàng yêu thương, dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền đáp, thế mà còn tham lam hèn hạ để nàng tốn kém thì sao đáng gọi là người?". Nàng cố ép nói "Nhờ chàng một lúc" rồi cầm tay sinh dẫn tới dưới một gốc dâu, chỉ một hòn đá bảo vần đi. Sinh làm theo, nàng lại rút chiếc trâm trên đầu chọc vài mươi nhát xuống đất rồi bảo đào lên. Sinh làm theo, thấy lộ ra một cái miệng vò. Nàng mò vào trong lấy ra một đỉnh bạc khoảng năm mươi lượng, sinh giữ tay ngăn lại nhưng nàng không nghe, cứ lấy thêm hơn mười đĩnh nữa, sinh cố trả lại một nửa rồi lấp đất lại như cũ. Một đêm nàng nói với sinh "Gần đây đã hơi có lời đồn, thế không thể lâu dài được, không thể không tính kế khác". Sinh cả kinh hỏi "Làm sao bây giờ. Tiểu sinh vốn lo xa nhưng nay vì chuyện nàng, thật như góa phụ thất tiết không thể tự chủ được. Xin nhất nhất vâng lời nàng, dù đao cưa rìu búa gì cũng bất kể". Nàng bàn cùng trốn đi, bảo sinh về trước, hẹn gặp nhau ở đất Lạc. Sinh sắp sửa hành trang về quê, định về trước đợi đón nàng, nhưng vừa vào tới nhà thì xe nàng đã tới cổng. Hai người lên sảnh cho gia nhân lạy chào, láng giềng tới mừng không ai biết là hai người đi trốn. Sinh nơm nớp lo sợ nhưng nàng vẫn thản nhiên, nói với sinh "Không nói là ngoài ngàn dặm thì ma quỷ cũng không biết được, dù có biết thì thiếp là con gái Trác Vương Tôn lại không bằng Tương Như[B]*[/B] à?". *Trác Vương Tôn... Tương Như: Hán thư chép con gái Trác Vương Tôn là Trác Văn Quân xinh đẹp, giỏi thi phú, hiểu âm luật nhưng góa chồng sớm. Tư Mã Tương Như tới chơi nhà Trác Vương Tôn thấy nàng xinh đẹp bèn gảy đàn hát khúc Phượng cầu hoàng để khêu gợi, Văn Quân bèn trốn theo Tương Như. Đây cô gái có ý nói sẵn sàng vì tình trốn theo người yêu. Em trai sinh là Đại Khí, tuổi vừa mười bảy. Nàng nhìn thấy khen "Thật có bản căn thông tuệ, tiền đồ còn hơn chàng nhiều”. Đại Khí sắp làm đám cưới thì vợ chưa cưới chết yểu, cô gái nói với sinh “Em Ngọc Bản của thiếp chàng đã thấy mặt rồi, dung mạo không xấu, tuổi cũng xấp xỉ, làm vợ chú ấy có thể nói là xứng đôi”. Sinh nghe thế phì cười, đùa nhờ nàng làm mai. Nàng nói "Nếu muốn cũng không khó". Sinh mừng hỏi làm cách nào, nàng đáp "Em Ngọc Bản và thiếp rất thân thiết, chỉ cần hai con ngựa kéo chiếc xe nhẹ và một bà vú đi về thôi”. Sinh sợ lộ chuyện trước không dám theo lời, nàng quả quyết không hề gì, lập tức sai thắng xe, bảo bà Tang đi. Vài ngày tới Tào Châu, tới gần cổng làng bà Tang xuống xe, bảo người đánh xe dừng lại đợi bên đường, nhân lúc trời tối vào làng, hồi lâu đưa Ngọc Bản ra lên xe phóng về, đêm nghỉ ngày đi. Cô gái tính ngày, bảo Đại Khí mặc quần áo đẹp đi đón, cách năm mươi dặm thì gặp nhau, đánh xe trở về, nổi nhạc kết đèn làm lễ cưới. Từ đó cả hai anh em cùng có vợ đẹp, gia cảnh ngày càng khá giả. Một hôm có bọn cướp lớn vài mươi tên vào nhà, sinh biết có biến, gọi cả nhà lên lầu. Bọn cướp vào nhà tới vây chặt dưới lầu, sinh cúi xuống hỏi "Có thù oán gì với nhau chăng?” Chúng đáp “Không có thù oán gì, nhưng có hai điều muốn xin. Một là nghe nói hai phu nhân nhà này xinh đẹp tuyệt thế, xin cho được thấy mặt một lần. Hai là năm mươi tám người ở đây, mỗi người xin năm trăm lượng vàng". Rồi chất củi dưới lầu, định dùng kế phóng hỏa để uy hiếp. Sinh ưng thuận nộp tiền nhưng chúng không thỏa ý, vẫn đòi đốt lầu, gia nhân cả sợ. Cô gái muốn cùng Ngọc Bản xuống lầu, ai ngăn cũng không nghe, thay áo quần lộng lẫy bước xuống, chưa hết ba bậc thì nói với bọn cướp "Chị em ta đều là người nơi tiên cung tạm thời xuống trần, sợ gì bọn giặc cướp. Muốn cho các ngươi ngàn vạn lượng vàng, chỉ e các ngươi không dám lấy thôi". Bọn cướp nhất tề ngước lên vái lạy, đồng thanh nói không dám. Hai chị em đang định trở lên, một tên thét “Trò bịp đấy”. Nàng nghe thấy quay lại nói "Muốn gì cứ làm ngay đi, cũng chưa muộn mà” Bọn cướp nhìn nhau im lặng, hai chị em ung dung bước lên lầu. Chúng nhìn theo đến khi hai nàng khuất bóng rồi mới ồn ào rút đi. Sau hai năm, chị em mỗi người sinh một con trai, lúc ấy cô gái mới tự nói là họ Ngụy, mẹ được phong làm Tào Quốc phu nhân. Sinh ngờ là đất Tào không có nhà thế gia nào họ Ngụy, vả lại dòng họ lớn mà mất hai con gái đời nào chịu để yên, tuy không dám căn vặn tới cùng nhưng vẫn thầm ngờ vực. Bèn kiếm cớ trở lại đất Tào, vào địa giới đất Tào là hỏi thăm ngay nhưng không có nhà thế gia nào họ Ngụy. Bèn tìm đến nhà trọ cũ, chợt thấy trên vách có bài thơ [I]Tặng Tào Quốc phu nhân[/I], vô cùng kinh sợ lạ lùng. Bèn hỏi chủ nhân, chủ nhân cười, lập tức mời đi xem Tào Phu nhân, tới nơi thì là một gốc mẫu đơn cao ngang chái nhà. Hỏi vì đâu có tên ấy thì vì đó là thứ hoa đệ nhất đất Tào nên người ta mới phong đùa như vậy. Hỏi đó là giống gì, chủ nhân đáp là Tử Cát sinh càng sợ hãi, cho cô gái là tinh hoa. Trở về cũng không dám hỏi han, chỉ kể lại chuyện bài thơ [I]Tặng Tào phu nhân[/I] để dò ý. Cô gái chợt biến sắc bỏ ra ngay, gọi Ngọc Bản bế con tới, nói với sinh "Ba năm trước cảm lòng chàng nghĩ tới nên đem thân đền đáp. Nay đã ôm lòng nghi ngờ thì sao còn có thể chung sống được nữa?". Rồi lập tức ném con ra xa, hai đứa nhỏ rơi xuống chết ngay. Sinh đang hoảng hốt thì hai nàng đã biến mất, hối hận vô cùng. Vài hôm sau ở chỗ hai đứa nhỏ rơi chết mọc lên hai cây mẫu đơn, qua đêm đã cao một thước, ngay trong năm ấy nở hoa một màu tía, một màu trắng, đóa hoa to như cái mâm, tươi đẹp dày đặc hơn hẳn các giống Cát Cân, Ngọc Bản bình thường. Mấy năm sau hai cây mẫu đơn ấy tươi tốt thành bụi dày, nếu đem đi trồng nơi khác thì biến đổi không ra giống gì cả. Từ đó, nơi nhiều mẫu đơn không đâu hơn đất Lạc. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Để lòng cả vào việc nhung nhớ thì có thể thông suốt tới cả quỷ thần, hoa kia lay động cũng không thể nói là vô tình vậy. Thiếu phủ cô quạnh còn coi hoa là phu nhân[B]*[/B], huống hồ là người đẹp biết nói cười, cần gì phải vất vả truy tìm cho tớì tận nguồn gốc lai lịch chứ! Tiếc cho Thường sinh chưa phải là kẻ đạt vậy.[/I] *Thiếu phủ... phu nhân: lấy ý câu trong bài Hý đề tân tài tường vi của Bạch Cư Dị thời Đường "Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch, Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân” (Thiếu phủ xuân về buồn vắng vợ, Chờ khi hoa nở gọi phu nhân). Thời Đường thường gọi Huyện úy là Thiếu phủ, Bạch Cư Dị lúc ấy đang làm Huyện úy nên tự xưng như vậy. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 71 -[/B] Hoàng Anh (Hoàng Anh) Mã Tử Tài người phủ Thuận Thiên, gia đình mấy đời rất chuộng hoa cúc, đến đời Tài thì càng say mê hơn, nghe ở đâu có giống cúc quý thì dù xa xôi ngàn dặm cũng tìm tới. Một hôm có người khách từ Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới trọ trong nhà, nói họ hàng bên ngoại mình có một vài giống cả phương Bắc không đâu có. Mã thích quá lập tức thu xếp hành trang theo tới Kim Lăng, khách tìm đủ cách mới tìm được cho hai cây. Mã giữ gìn như của báu, về tới giữa đường gặp một thiếu niên cưỡi ngựa theo sau một cỗ kiệu có mui, bèn tới gần bắt chuyện. Thiếu niên nói mình họ Đào, ăn nói rất phong nhã, nhân hỏi Mã từ đâu tới, Mã kể thật. Thiếu niên nói "Không có giống cúc nào không đẹp, chỉ là ở người chăm bón tưới tắm thôi". Nhân bàn tới thuật trồng cúc, Mã thích lắm, hỏi định đi đâu. Thiếu nỉên đáp "Chị ta chán đất Kim Lăng, muốn lên phương Bắc ở". Mã vui mừng nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng lều tranh có thể ở tạm, nếu không chê hoang vắng bỉ lậu thì khỏi phải vất vả đi đâu cả" Đào phóng ngựa lên trước kiệu thưa với chị, người trong kiệu vén rèm trò chuyện, là một mỹ nhân tuyệt thế, tuổi khoảng hai mươi. Nàng nói với em trai "Nhà thấp nhỏ không sao nhưng vườn thì cần rộng". Mã gật đầu, hai chị em bèn theo Mã về. Phía nam nhà Mã có một khu vườn hoang, trên có ba bốn gian nhà nhỏ, Đào mừng rỡ bèn vào đó ở. Hàng ngày qua nhà phía bắc giúp Mã trồng cúc, cúc đã chết khô thì nhổ lên rồi giâm xuống, cây nào cũng sống. Nhưng gia cảnh Đào thanh bần, hàng ngày ăn uống với Mã chứ xem trong nhà như không mấy khi nổi lửa. Vợ Mã là Lữ thị cũng rất quý chị Đào, thỉnh thoảng lại giúp cho gạo thóc. Chị Đào tiểu tự là Hoàng Anh, ăn nói khéo léo nhã nhặn, cứ qua chỗ Lữ thị cùng nhau may vá. Một hôm Đào nói với Mã "Nhà ông vốn không dư dật, hàng ngày ta lại vì miếng cơm làm lụy kẻ tri giao, cứ thế mãi sao được. Nay tính kế thì bán cúc cũng đủ mưu sinh". Mã vốn ngay thẳng nên nghe Đào nói thế rất khinh bỉ, nói “Ta cho rằng ông là kẻ cao sĩ phong lưu, có thể vui với cảnh nghèo, nay bàn như thế là lấy vườn cúc làm cái chợ, nhục cho cúc thật". Đào cười nói "Tay làm hàm nhai không phải tham, trồng hoa để sống không phải tục. Người ta vốn không nên mong giàu bậy bạ song cũng bất tất phải mong nghèo”. Mã không nói gì, Đào đứng dậy ra về, từ đó cứ cành gãy mầm xấu bên nhà Mã bỏ đi thì nhặt hết đem về nhà mình, cũng không qua ăn ngủ với Mã nữa, Mã có mời mới qua. Không bao lâu đến kỳ hoa cúc nở, Mã nghe bên cổng nhà Đào ồn ào như cái chợ, lấy làm lạ ra xem thì thấy khách buôn tới mua hoa, vai vác xe chở đầy đường. Nhìn tới hoa đều là giống lạ mắt chưa từng thấy, trong lòng ghét Đào tham lam, muốn tuyệt giao nhưng hận vì còn giữ kín giống lạ bèn gõ cửa qua định trách mắng. Đào ra dắt tay dẫn vào, thấy nửa mẫu sân bỏ hoang đều thành luống cúc, ngoài mấy gian nhà ra không còn đất trống, những chỗ vừa cắt cúc đi thì lấy cành khác dặm vào, hoa trên luống đều đẹp đẽ, nhìn kỹ đều là những thứ mình bỏ đi trước kia. Đào vào nhà lấy rượu thịt ra bày cạnh luống cúc nói "Ta nghèo không giữ được điều răn thanh bạch, bao nhiêu ngày mới may kiếm được chút ít, cũng đủ uống say” Lát sau trong phòng có tiếng gọi Tam Lang, Đào dạ quay vào, giây lát đem ra các thức nấu nướng ngon lành. Mã nhân hỏi lệnh tỷ sao không xuất giá, Đào đáp chưa đến lúc. Mã hỏi lúc nào, Đào đáp bốn mươi ba tháng nữa. Mã lại gặng hỏi tại sao nói thế, Đào chỉ cười không đáp, hai người uống say rồi mới chia tay. Hôm sau lại qua, thấy những nhánh cúc mới dặm đã cao gần thước lấy làm lạ bèn năn nỉ hỏi Đào cách trồng. Đào nói "Điều ấy không thể lấy lời mà truyền được, vả lại ông không trồng cúc để mưu sinh thì biết làm gì”. Lại mấy hôm nữa, trong sân ngoài ngõ hơi vắng người mua, Đào bèn lấy chiếu cói bọc cúc, chất lên mấy xe chở đi. Giữa mùa xuân năm sau Đào mới chở hoa lạ ở phương Nam về, mở hàng bán hoa trong kinh đô, mười ngày thì bán hết sạch, kế lại về trồng cúc. Hỏi tới những người năm trước mua cúc của Đào giữ cây làm giống thì năm sau hoa đều thay đổi kém hẳn, lại phải mua của Đào. Đào vì thế ngày càng giàu có, năm đầu làm thêm phòng ốc, năm thứ hai xây nhà, việc xây cất cứ tùy ý không bàn với chủ nhân, dần dần vườn trồng cúc cũ đều là nhà cửa. Lại mua riêng một khu ruộng, xây tường chung quanh trồng toàn cúc, mùa thu chở hoa đi, cuối xuân vẫn không về. Kế vợ Mã chết, Mã muốn cưới Hoàng Anh nên nhờ người bắn tin, Hoàng Anh mỉm cười có vẻ ưng thuận, chỉ đợi Đào về mà thôi. Hơn năm Đào vẫn chưa về, Hoàng Anh đốc thúc tôi tớ trồng cúc giống hệt như Đào, có tiền lại càng buôn bán lớn, cấy cày đến hai mươi khoảnh ruộng tốt ngoài thôn, nhà cửa ngày càng bề thế. Bỗng có khách từ Đông Việt (tỉnh Quảng Đông) tới đem thư của Đào gới về, mở xem thì là Đào khuyên chị lấy Mã, xem lại ngày viết thư đúng là ngày vợ Mã chết. Mã nhớ lại lúc uống rượu trong vườn, tính đến đó vừa đúng bốn mươi ba tháng, vô cùng lạ lùng bèn đưa thư cho Hoàng Anh xem, hỏi nộp sính lễ ở đâu. Hoàng Anh từ chối không nhận sính lễ, lại vì chỗ ở cũ chật chội, muốn Mã qua ở bên khu nam giống như ở rể. Mã không nghe, chọn ngày đón dâu về nhà mình. Hoàng Anh về với Mã rồi, mở cửa trên vách thông với khu nam, hàng ngày qua đó sai bảo đầy tớ. Mã xấu hổ vì vợ giàu, thường dặn Hoàng Anh làm sổ biên chép của cải hai khu để đề phòng bị lẫn lộn, nhưng những thức cần dùng, Hoàng Anh đều lấy ở khu nam. Chưa được nửa năm, vật dụng trong nhà đều là của nhà Đào, Mã lập tức sai người đem trả hết, dặn đừng lấy qua nữa. Chưa đầy một tuần mọi thứ lại lẫn lộn, mấy lần đem trả như thế, Mã không sao chịu nổi phiền phúc. Hoàng Anh cườí nói "Chàng Trần Trọng Tử[B]*[/B] có mệt không?", Mã xấu hổ không kê biên gì nữa, nhất nhất theo ý Hoàng Anh. Hoàng Anh thuê thợ, mua vật liệu để dựng nhà, Mã không sao cản được, qua vài tháng thì lầu gác san sát, hai khu nhà hợp làm một không chia ranh giới nữa. *Trần Trọng Tử: Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật chép ẩn sĩ Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến quốc là em Trần Đới đại quý tộc ở nước Tề, "ăn lộc muôn chung”. Trần Trọng Tử cho rằng như thế là bất nghĩa, vì vậy dắt vợ trốn tới đất Ô Lăng nước Sở, chồng đan hài, vợ dệt vải để sống, được người ta coi là liêm. Nhân vật Hoàng Anh có ý chế nhạo. Nhưng theo ý Mã nên gia đình đóng cửa không bán cúc nữa, song việc chi dùng còn hơn cả các nhà thế gia. Mã áy náy nói "Nết trong sạch ba mươi năm của ta vì nàng mà bị lụy. Nay sống ở đời mà mọi sự ăn ở đều nhờ vào vợ, thật không có chút phẩm giá đàn ông. Cho nên người ta đều muốn giàu mà ta chỉ muốn nghèo thôi". Hoàng Anh nói "Thiếp không phải là phường tham bỉ, nhưng nếu không dư dật chút ít thì ngàn năm sau người ta lại nói Uyên Minh[B]*[/B] nghèo thấu xương, trăm đời không ngóc đầu nổi, nên phải xóa bỏ tiếng chê cười cho nhà Bành Trạch* chúng ta thôi. Nhưng kẻ nghèo mong giàu thì khó, còn kẻ giàu muốn nghèo vốn rất dễ, bao nhiêu tiền bạc trong nhà xin chàng cứ mặc ý phá tán, thiếp không tiếc đâu”. Mã nói "Làm hao tổn tiền bạc của người khác thì tệ lắm". Hoàng Anh nói "Chàng không muốn giàu nhưng thiếp cũng không thể chịu nghèo. Thôi cứ ở riêng, ai trong cứ trong, ai đục cứ đục, có hại gì đâu?”. Rồi sai cất một gian nhà tranh trong vườn, chọn tỳ nữ xinh đẹp cho tới hầu hạ Mã. *Uyên Minh, Bành Trạch: Nam sử chép Đào Tiềm thời Tấn tự Uyên Minh, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch nên người ta còn gọi là Đào Bành Trạch, tính ngay thẳng thanh cao, rất thích hoa cúc. Chị em Hoàng Anh trong truyện này lấy họ Đào là có ý nói mình là hậu duệ của Đào Tiềm. Mã yên lòng ra ở đó nhưng được vài ngày nhớ Hoàng Anh quá, sai gọi nhưng nàng không chịu tới bất đắc dĩ phải quay về, cứ cách một đêm một lần thành lệ. Hoàng Anh cười nói “ăn nhà đông ngủ nhà tây, kẻ liêm không nên như thế", Mã cũng phì cười không trả lời được, bèn lại ở chung như trước. Gặp lúc Mã có việc lên Kim Lăng đúng vào mùa cúc thu, sáng đi ngang hàng bán hoa thấy bày đủ thứ chậu, hoa đều rất đẹp, động lòng ngờ là cúc của Đào. Lát sau chủ nhân ra thì quả là Đào, mừng rỡ hàn huyên rồi ngủ lại đó. Mã nhân rủ Đào về, Đào nói “Kim Lăng là quê cũ của ta, ta sắp cưới vợ ở đây. Có dành dụm được ít tiền, phiền anh đem về cho chị ta, khoảng cuối năm ta sẽ về". Mã không chịu cố nài nỉ Đào về, lại nói "May gia cảnh đã phong túc, có thể ngồi mà ăn không cần phải buôn bán gì cả". Đào bèn ngồi trong hàng sai đầy tớ thay mình ngã giá bán rẻ, vài ngày thì bán hết hoa, vội thu xếp hành lý thuê thuyền về Bắc. Vào nhà thì chị đã dọn dẹp phòng ốc, chuẩn bị giường chiếu chăn đệm như đã biết trước là em trai về. Đào từ khi về tới nhà thì cởi hành lý coi việc nhà, tu sửa hết nhà cửa vườn tược, hàng ngày chỉ cùng Mã uống rượu đánh cờ, không tiếp người khách nào. Anh chị muốn tìm vợ cho nhưng Mã không chịu, chị bèn sai hai tỳ nữ hầu hạ giường chiếu, qua ba bốn năm sinh được một gái. Đào vốn uống rượu rất hào, chưa ai thấy say. Mã có người bạn là Tăng sinh, tửu lượng cũng chưa ai bằng, gặp lúc ghé chơi, Mã bảo uống thi với Đào. Hai người thả sức uống rất vui vẻ, chỉ hận là biết nhau quá muộn. Uống từ giờ Thìn đến canh tư, tính ra mỗi người uống hết trăm bầu. Tăng say mèm ngủ luôn tại bàn, Đào đứng lên về phòng ngủ, ra tới luống cúc thì ngã vật xuống, ném cái áo bên cạnh hóa luôn thành cây hoa cúc cao bằng đầu người, mang hơn chục đóa hoa đều to bằng nắm tay. Mã khiếp đảm báo Hoàng Anh, Hoàng Anh vội tới nhổ cây cúc đặt trên mặt đất, nói “Sao mà say tới mức này?” rồi đắp cái áo lên, kéo Mã cùng đi, bảo đừng nhìn. Sáng ra Mã tới thì thấy Đào nằm bên luống cúc, mới sực hiểu ra hai chị em là tinh cúc, từ đó càng thêm yêu kính. Từ ngày lộ tung tích, Đào uống rượu càng buông thả, thường viết thư mời Tăng tới uống rượu, chơi với nhau rất thân. Gặp ngày Tết Tăng tới thăm, dắt hai người đầy tớ mang theo một vò rượu trắng ngâm thuốc, hẹn cùng uống kỳ hết. Vò rượu gần cạn mà hai người vẫn chưa say lắm, Mã lại ngầm rót thêm rượu vào, hai người lại uống cạn. Tăng say khướt, bọn đầy tớ cõng về. Đào nằm lăn ra đất, lại hóa thành cây cúc. Mã thấy đã quen không sợ nữa, cứ theo đúng cách nhổ lên đặt trên đất rồi ngồi canh bên cạnh xem diễn biến. Hồi lâu lá cúc càng héo đi, Mã cả sợ mới báo với Hoàng Anh. Hoàng Anh hoảng hốt nói "Chết em ta rồi", rồi chạy ra xem thì cả gốc lẫn cành cúc đã khô héo. Nàng vô cùng đau xót, ngắt lấy cành hoa giâm vào chậu mang về phòng riêng, hàng ngày tưới bón chăm sóc. Mã vô cùng hối hận, rất oán Tăng, mấy ngày sau thì nghe tin Tăng chết vì say rượu. Nhánh cúc trong chậu dần nảy mầm, tháng chín đã trổ hoa, cành ngắn nụ mướt, ngửi có mùi thơm như rượu, đặt tên là "Túy đào” (Đào say), tưới bằng rượu thì rất tươi tốt. Về sau con gái Đào lớn lên lấy chồng nhà thế gia, còn Hoàng Anh đến trọn đời cũng không có gì khác lạ. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Người của mây trắng trên núi xanh, say rượu mà chết[B]*[/B], đời đều thương tiếc nhưng chưa chắc họ đã không lấy đó làm điều khoái ý. Trồng loại hoa ấy trong sân thì như gặp mặt bạn hiền, như đối diện người đẹp, không thể không tìm cho được vậy.[/I] *Người của... mà chết: Phó Kỳ người thời Đường, có bệnh không mời thầy thuốc, tự ghi mộ chí rằng “Kỳ là người của mây trắng núi xanh, say rượu mà chết”. Đến năm tám mươi tuổi chết, dặn người nhà cứ để trần truồng mà chôn, kẻ thức giả cho là người phóng đạt. [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 72 -[/B] Mê Sách (Thư Si) Lang Ngọc Trụ người Bành Thành, cha làm quan Thái thú, lúc tại chức thanh liêm, được bổng lộc không mua ruộng đất nhà cửa, chỉ chứa sách đầy nhà. Đến đời Ngọc Trụ lại càng say mê, nhà nghèo khó phải bán hết đồ đạc nhưng một quyển sách của cha để lại cũng không nỡ bán. Khi cha còn sống từng chép thiên Khuyến học[B]*[/B] dán bên phải chỗ ngồi, Lang hàng ngày vẫn ngâm nga, lại lấy the trắng bọc lại sợ mờ mất chữ, không phải vì công danh mà thật lòng tin rằng trong sách cũng có vàng có thóc. *Thiên Khuyến học: tức bài thơ Khuyến học của vua Chân tông nhà Tống, nguyên văn như sau "Phú gia bất dụng mại lương điền, Thư trung tự hữu thiên chung túc. An cư bất dụng giá cao đường, Thư trung tự hữu hoàng kim ốc. Thú thê mạc hận vô lương môi, Thư trung hữu nữ nhan như ngọc. Xuất môn mạc hận vô nhân tùy, Thư trung xa mã đa như thốc. Nam nhi dục toại bình sinh chí, Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc” (Nhà giàu không cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở yên chẳng cần xây gác cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ chớ hờn không mối mai, Trong sách có nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe nhiều lóc nhóc. Nam nhi muốn thỏa chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc)". Ngày đêm mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không bỏ bê, hơn hai mươi tuổi cũng không lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới. Bạn bè thân thích tới chơi cũng không buồn hỏi han chuyện trò, nói năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc khách tự về. Lần nào học quan về sát hạch cũng được lấy đứng đầu, nhưng thi mãi vẫn không đỗ. Một hôm Lang đang học, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, vội đuổi theo nhặt chợt chân bị sụt xuống đất, mò xem thì dưới hố có cỏ mục, đào lên thì là kho lúa của người xưa cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn được nhưng càng tin mấy chữ "ngàn chung thóc" là đúng nên càng chăm đọc sách. Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đống sách vở nhặt được chuỗi tiền vàng dài một thước, cả mừng cho rằng nghiệm với chữ "nhà vàng". Đưa cho người ta thì té ra là vàng mạ, không phải vàng thật, lòng thầm oán cổ nhân lừa mình. Không bao lâu người bạn cùng khoa với cha Lang ra làm Quan sát đạo ấy, tính mộ đạo Phật. Có người khuyên Lang cúng chuỗi tiền xây tháp Phật. Quan sát thích lắm ban cho Lang ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Lang mừng cho là chữ “xe ngựa, nhà vàng” đều đã nghiệm nên càng ra sức học hành nhưng đã ba mươi tuổi. Có người khuyên lấy vợ, Lang nói "Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp”. Lại học thêm hai ba năm vẫn không thấy gì, có người chế giễu. Lúc ấy trong dân gian ngoa truyền rằng "Chức Nữ trên trời trốn theo trai”, có người nhân đùa Lang rằng "Cháu trời bỏ trốn chỉ vì ông thôi”, Lang biết là đùa nên không buồn cãi. Một đêm đọc sách Hán thư tới quyển tám[B]*[/B], tới giữa quyển thấy hình một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ép trong đó, hoảng sợ nói "Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc là ứng vào đây chăng?”, trong lòng chợt thấy buồn rầu. * Hán thư tới quyển tám: Hán thư quyển này có chép tờ chiếu tháng 5 năm Bản Thủy thứ 4 đời Hán Tuyên đế, trong có câu "Phụ tử chi thân, phu phụ chi đạo, thiên tính dã" (Tình cha con, đạo vợ chồng là tính trời), có vẻ ám hợp với nội dung truyện này vì nhân vật Lang Ngọc Trụ không chịu lấy vợ. Nhìn kỹ mỹ nhân thì thấy con mắt lông mày như người sống, sau lưng có chữ "Chúc Nữ" mờ mờ, vô cùng lạ lùng, hàng ngày cứ đặt lên trên sách xoay trở ngắm nghía đến nỗi quên ăn quên ngủ. Một hôm đang chăm chú nhìn thì mỹ nhân chợt nhỏm dậy ngồi trên sách mỉm cười, Lang khiếp đảm lạy sụp xuống trước bàn, khi ngẩng lên thấy nàng đã cao một thước, càng sợ lại lạy phục xuống. Mỹ nhân ung dung bước xuống đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười nóì “Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn ai tin vào cổ nhân”. Lang mừng rỡ để ở cùng phòng, ngủ chung với nhau rất thân thiết, nhưng lúc chăn gối thì không làm sao cho ra đàn ông. Mỗi khi đọc sách là bảo cô gái ngồi cạnh, nàng bảo đừng học nữa nhưng Lang không nghe. Cô gái nói “Chàng sở dĩ không đỗ đạt là vì đọc sách đó thôi. Thử xem những người khoa bảng có mấy người đọc sách như chàng. Không nghe là thiếp bỏ đi đấy”. Lang nghe theo nhưng chốc lát lại quên lời nàng, cất tiếng ngâm đọc. Giây lát ngoái tìm cô gái thì đã biến mất, hoảng hốt quỳ xuống cầu khấn nhưng vẫn không thấy đâu. Chợt nhớ tới nơi ẩn náu cũ của nàng, mở sách [I]Hán thư [/I]kiểm kỹ lại, tới chỗ cũ quả tìm thấy. Gọi mãi vẫn không động, Lang quỳ xuống năn nỉ nàng mới bước ra, nói "Chàng còn trái lời thiếp thì quyết sẽ vĩnh biệt". Rồi lấy bàn cờ cỗ bài ra hàng ngày cùng chơi, nhưng Lang không thích thú gì, cứ vắng nàng lại giở trộm sách ra đọc, sợ bị nàng biết nên ngầm cất quyển tám sách [I]Hán thư[/I] vào chỗ khác để nàng không tìm thấy. Một hôm đang đọc say sưa thì cô gái tới, cho rằng nàng không biết, vội gấp sách lại thì nàng đã biến mất. Lang cả sợ, lục soát khắp sách vở không thấy, tới quyển tám sách [I]Hán thư[/I] tới đúng trang cũ lại thấy, bèn lạy lục khấn khứa thề không đọc sách nữa. Cô gái bèn bước ra bắt cùng đánh cờ, nói “Nếu ba ngày đánh không khá thiếp sẽ đi đấy". Đến ngày thứ ba chợt một ván Lang thắng nàng hai quân, nàng bèn vui vẻ trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang lo nhìn dây bấm phím, không rảnh mà nghĩ tới chuyện khác, lâu sau thì đã đàn đúng tiết tấu giai điệu, bất giác mừng rỡ múa lên. Cô gái bèn hàng ngày rủ uống rượu đánh bài, Lang vui thích quên cả việc đọc sách, nàng lại bảo ra ngoài kết bạn, vì vậy bỗng nhiên nổi tiếng sành đời. Cô gái nói “Chàng có thể thi đỗ làm quan rồi”. Một đêm Lang nói với cô gái "Phàm người ta nam nữ ở chung sẽ sinh con, nay ta với nàng ăn ở đã lâu mà sao không thấy gì cả?”. Cô gái cười nói "Chàng hàng ngày đọc sách, thiếp đã nói là vô ích, nay quả chưa hiểu nổi một chương "Chồng vợ". Hai chữ "gối chăn" cũng có công phu chứ”. Lang kinh ngạc hỏi công phu gì, nàng cười không nói. Lát sau ngầm bày vẽ, Lang thích lắm nói "Ta không nghĩ rằng cái lạc thú vợ chồng lại có chỗ không nói rộng ra được". Từ đó gặp người ta là kể, ai cũng che miệng cười. Cô gái biết được trách móc, Lang nói "Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám kể ra, chứ cái lạc thú trong đạo thiên luân thì ai cũng thế, có gì mà kiêng kỵ". Qua tám chín tháng cô gái quả sinh một trai, thuê vú nuôi trông nom. Một hôm nàng nói với Lang "Thiếp theo chàng hai năm đã sinh con, có thể chia tay rồi, ở lâu sợ gây tai họa cho chàng, hối hận không kịp". Lang nghe nói khóc ròng, lạy phục xuống không đứng lên, nói "Nàng không nghĩ tới đứa nhỏ oa oa sao?”. Cô gái cũng buồn rầu, hồi lâu mới nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì phải phá tán hết sách vở đi", Lang nói "Đó là quê cũ của nàng, là tính mệnh của ta, sao nàng lại nói thế”. Cô gái không ép, nói "Thiếp cũng biết là có số mệnh, nhưng không thể không báo trước”. Trước đây trong họ Lang có người nhìn thấy cô gái ai cũng giật mình, lại chưa thấy mai mối với nhà nào nên cùng cật vấn. Lang không biết nói dối nên cứ im lặng không đáp, mọi người càng ngờ vực, lời đồn đại dần tới quan huyện họ Sử. Sử người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), xuất thân Tiến sĩ, nghe chuyện động lòng muốn được thấy mặt người đẹp một lần bèn sai bắt Lang và cô gái. Cô gái nghe tin bỏ trốn biệt tích, quan huyện tức giận bắt Lang lột hết quần áo, cùm kẹp tàn nhẫn, mong cô gái sẽ tự tới. Lang gần chết vẫn không nói một lời, quan tra tấn đứa tỳ nữ, nó nói ra vài chuyện loáng thoáng. Quan cho là yêu quái bèn đích thân tới nhà Lang khám xét, thấy sách vở chất đầy nhà nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt, khói kết lại trước sân không tan, mờ mịt như mây mù. Sau Lang được tha, xin được thư người học trò cũ của cha nên lấy lại được áo mũ nho sinh, năm ấy thì đỗ Cử nhân, năm sau đỗ Tiến sĩ. Nhưng trong lòng chứa chất căm hận, lập bài vị thờ Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn rằng “Nàng có khôn thiêng xin phù hộ cho ta được làm quan đất Mân". Sau quả được cử đi Tuần sát đất Mân, ở lại ba tháng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên gia sản. Lúc ấy Sử có người anh em họ ngoại làm quan Tư lý đòi cưới ái thiếp, Sử nói thác là mua tỳ nữ gởi lại trong dinh. Khi vụ án kết thúc, Lang lập tức trở về, đưa cả người ấy theo. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Vật trong thiên hạ, chứa cất thì bị oán ghét, ưa thích thì sinh ma quỷ, cô gái là yêu quái ma quỷ trong sách vở vậy. Việc giống như quái đản nhưng muốn trị cũng không phải không được, việc đốt sách chẳng cũng tàn ngược sao? Còn kẻ kia có lòng riêng tư ắt phải bị người căm hờn báo thù, than ôi, có gì lạ đâu! [/I] [B]Bồ Tùng Linh[/B] Liêu Trai Chí Dị II Dịch giả: Cao Tự Thanh [B]- 73 -[/B] Tề Thiên Đại Thánh (Tề Thiên Đại Thánh) Hứa Thịnh người đất Duyện (tỉnh Trực Lệ) theo anh là Thành đi buôn bán tới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến). Còn chưa cất hàng xong thì có người khách nói "Đại thánh thiêng lắm, hãy tới đền cầu khẩn”. Thịnh chưa biết Đại thánh là thần nào bèn theo anh tới đó, vào thấy điện gác san sát nối nhau vô cùng tráng lệ đẹp đẽ. Vào điện cúng bái thấy tượng thần mình người đầu khỉ, té ra là Tề Thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không, khách khứa đều kính cẩn vái lạy, không ai dám tỏ vẻ khinh nhờn. Thịnh vốn cương trực, cười thầm người đời ngu muội nên lúc mọi người thắp hương khấn khứa thì ngầm bỏ ra. Về tới nhà trọ, anh trách Thịnh không kính cẩn, Thịnh nói “Tôn Ngộ Không là truyện ngụ ngôn của ông Khưu[B]*[/B] đặt ra, sao lại tin là có thật như thế? Mà giả như có thật thì bao nhiêu búa rìu sấm sét em xin chịu cả”. * Ông Khưu: tức Khưu Xử Cơ, người cuối thời Tống đầu thời Nguyên, đệ tử của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Đạo giáo, có đạo hiệu là Trường Xuân tử, được Thành Cát Tư Hãn mời qua Mông Cổ, có viết quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký. Nhân vật Hứa Thịnh trong truyện này lầm Tây du ký của Khưu Xử Cơ với Tây du ký của Thi Nại Am kể chuyện Huyền Trang thỉnh kinh. Chủ quán trọ nghe gọi tên Đại thánh thì xua tay tái mặt như sợ Đại thánh nghe được, Thịnh thấy thế càng bô bô nói ầm lên, ai nghe thấy cũng bịt tai bỏ chạy. Đến đêm quả nhiên Thịnh bị bệnh, đầu nhức như búa bổ, có người khuyên tới đền tạ lỗi nhưng Thịnh không nghe. Không bao lâu thì đầu đỡ đau nhưng đùi lại nhức, qua đêm thì mọc một cái mụn nhọt lớn, cả chân đều lở lói, không ăn ngủ gì được, anh tới đền cầu khẩn thay nhưng không hiệu nghiệm. Có người nói thần phạt thì phải tự mình cầu khẩn, Thịnh rốt lại vẫn không tin, hơn một tháng thì những chỗ lở lành dần nhưng lại nảy ra một cái mụn nhọt khác đau nhức gấp bội. Thầy thuốc tới lấy dao cắt bỏ những chỗ thịt thối, máu chảy cả tô nhưng sợ người ta nói bị thần phạt nên cắn răng không rên rỉ. Hơn tháng sau mới bình phục nhưng anh lại mắc bệnh nặng. Thịnh nói “Thế nào nào? Người kính thần cũng bị bệnh như vậy, đủ thấy là bệnh của ta chứ không phải do Ngộ Không". Anh nghe thế rất bực tức, trách em không đi cầu khấn cho mình. Thịnh nói "Anh em như chân tay, trước đây em chân tay lở lói còn không chịu đi cầu khấn, nay chẳng lẽ chân tay có bệnh mà đổi ý à?", rồi chỉ rước thầy cắt thuốc chứ không chịu đi cầu đảo. Anh uống thuốc xong thì lăn ra chết, Thịnh đau đớn uất ức trong lòng, mua quan tài liệm anh xong tới thẳng đền Đại thánh chỉ lên tượng thần kể tội, nói “Anh ta bị bệnh, nói là do người giận lây khiến ta không sao bày tỏ được, nếu như ngươi là thần thật cứ làm cho anh ta sống lại, ta sẽ lạy thờ làm sư phụ không dám nói gì khác, nếu không ta sẽ theo đúng cách ngươi đối xử với Tam Thanh mà đối xử với ngươi[B]*[/B], cũng có thể trút hờn cho anh ta nơi chín suối”. * Làm đúng cách ... với ngươi: Tây du ký kể Tôn Ngộ Không bảo hộ Tam Tạng đi lấy kinh tới nước Xa Trì, vua quan nước ấy trọng Đạo khinh Phật, Ngộ Không cùng Bát Giới, Sa Tăng nửa đêm lẻn vào nơi cúng Tam Thanh (tức Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Đạo Quân của Đạo giáo Trung Hoa) đem tượng Tam Thanh vứt vào nhà xí rồi hóa thành tượng Tam Thanh ăn uống. Đây nhân vật Hứa Thịnh có ý nói sẽ quăng tượng Tề Thiên Đại thánh vào nhà xí. Đến đêm Thịnh nằm mơ thấy một người tới gọi đi, vào đền Đại thánh, ngẩng lên thấy Đại thánh lộ vẻ giận dữ quát mắng “Vì ngươi không chịu phục nên ta mới lấy đao của Bồ Tát xuyên qua chân ngươi, đã không biết tự hối lại còn ăn nói lằng nhằng. Lẽ ra ta đã tống ngươi xuống ngục Rút lưỡi dưới âm ty, nhưng nghĩ ngươi nhất sinh ngay thẳng nên mới tạm tha cho. Còn như anh ngươi bệnh thì vì ngươi rước gã lang băm về làm giảm tuổi thọ, chứ người khác dính líu gì vào đó? Nay mà ta không tạm thi triển chút ít pháp lực thì bọn ngông cuồng còn chưa chịu im mồm". Rồi sai Thanh y sứ tới xin Diêm Vương, Thanh y sứ nói "Sau ba ngày thì danh sách ma quỷ đã báo lên Thiên đình, sợ Diêm Vương khó mà tha được” Đại thánh bèn rút thiết bảng làm bút viết những gì không biết, rồi bảo Thanh y sứ cầm thư tới Diêm Vương. Hồi lâu Thanh y sứ trở về, Thành cũng theo về, vào quỳ xuống lạy tạ. Đại thánh hỏi sao chậm thế, Thanh y sứ bẩm "Diêm Vương không dám tự chuyên, cầm lệnh chỉ của Đại thánh lên báo với Bắc Đẩu[B]*[/B] vì thế nên về chậm". Thịnh rảo bước lên vái lạy tạ ơn, Đại thánh nói "Đưa anh ngươi về ngay đi, nếu biết theo điều thiện thì ta sẽ ban phúc cho", anh em vừa mừng vừa tủi dắt nhau cùng về. *Bắc đẩu: Tây du ký chép trên trời có hai tòa Nam tào Bắc đẩu coi sổ sách ghi việc sống chết của muôn vật, Nam tào coi sổ sinh, Bắc đẩu coi sổ tử. Thịnh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội tới mở quan tài ra xem thì quả anh đã sống lại bèn đỡ ra, hết sức cảm tạ pháp lực Đại thánh. Thịnh từ đó dốc lòng tin tưởng thờ phụng còn hơn cả người thường. Nhưng vốn liếng của hai anh em vì mắc bệnh đã hao mất một nửa, anh lại chưa thật khỏe, hai anh em cứ nhìn nhau buồn bã. Một hôm Thịnh ngẫu nhiên đi dạo ngoài thành, chợt gặp một người áo xám nhìn mình hỏi "Anh có chuyện gì lo lắng à?". Thịnh đang buồn rầu không biết nói với ai, bèn kể nhĩmg chuyện mình gặp. Người áo xám nói “Có một nơi phong cảnh rất đẹp, cứ tạm tới ngắm xem cũng đủ giải sầu”. Hỏi ở đâu, người ấy chỉ nói không xa, Thịnh bèn đi theo. Ra khỏi thành khoảng nửa dặm, người áo xám nói "Ta có thuật mọn, trong khoảnh khắc có thể tới nơi". Rồi bảo Thịnh ôm lưng mình, khẽ gật đầu một cái chợt có mây đùn lên dưới chân, nhảy vọt lên trên không biết là đi bao xa. Thịnh cả sợ nhắm mắt không dám mở ra, trong khoảnh khắc nghe người ấy nói "Tới rồi". Thịnh thấy thành quách trong vắt đủ màu sắc rực rỡ lạ lùng, kinh ngạc hỏi đây là nơi nào. Người ấy đáp "Đây là thiên cung" rồi rảo bước đi vào, càng đi càng lên cao, xa xa thấy một ông già, người áo xám mừng rỡ nói "Gặp được người này thì anh có phúc lắm", rồi giơ tay vái chào. Ông già mời vào nhà, pha trà mời khách nhưng chỉ bưng ra có hai chén chứ không nhìn ngó gì tới Thịnh. Người áo xám nói "Đây là đệ tử của ta, đi buôn bán ngàn dặm tới thăm tiên cung, xin ông tặng cho chút quà”. Ông già sai tiểu đồng lấy ra một mâm đá trắng to bằng trứng chim sẻ, sáng loáng như băng, bảo Thịnh tự nhặt lấy. Thịnh nghĩ cầm về có thể làm tửu lệnh uống rượu, bèn lấy sáu viên, người áo xám cho rằng quá ít bèn lấy thêm cho sáu viên nữa, đưa cả cho Thịnh bảo cất vào túi rồi chắp tay nói "Đủ rồi". Thịnh từ biệt ông già đi ra, người áo xám lại bảo bám vào mình rồi bay xuống, chốc lát đã tới mặt đất. Thịnh dập đầu thỉnh giáo tiên danh, người áo xám cười nói “Phép thuật đi trên mây vừa rồi gọi là Cân đẩu vân[B]*[/B] đấy". Thịnh giật mình hiểu ra là Đại thánh, lại cầu xin giúp đỡ. Đại thánh nói "Vừa rồi là gặp Tài tinh, cho ngươi được lãi mười hai phần, còn muốn gì nữa". *Cân đẩu vân: Tây du ký chép Tôn Ngộ Không có phép cân đẩu vân, uốn lưng một cái đã vượt được mười vạn tám ngàn dặm đường. Thịnh lạy tạ, đứng lên nhìn thì Đại thánh đã biến mất. Thịnh trở về mừng rỡ kể lại với anh, cởi túi ra nhìn thì đá đã lặn cả vào thắt lưng rồi. Về sau cất hàng trở về, được lãi rất nhiều, từ đó cứ tới buôn bán ở đất Mân là vào đền khấn vái Đại thánh, người khác khẩn cầu có khi không hiệu nghiệm chứ Thịnh khẩn cầu thì điều gì cũng ứng nghiệm. [B]Dị Sử thị nói:[/B][I]Ngày xưa có người sĩ nhân đi ngang chùa, vẽ hình cây đàn tỳ bà lên vách rồi đi, đến khi quay về thì chùa nổi tiếng linh thiêng, lửa hương không dứt. Chuyện thiên hạ vốn không cứ phải có thật, người ta cho là thiêng thì thành thiêng thôi. Sao lại như thế? Vì lòng người hướng về thì vật cũng theo về vậy. Cứng cỏi ngay thẳng như Thịnh ắt phải được thần linh phù hộ, há cần tới ngọn kim thêu trong lỗ tai, lông tơ biến hóa, cân đẩu vân lên trời[B]*[/B] sao? Rốt lại lại bị mê hoặc, cũng là kiến thức không đúng vậy.[/I] * Kim thêu... lên trời: đều 1à những phép thuật của nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây du ký. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Tiểu Thuyết, Sử Thi
Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh
Top