Liêu trai chí dị - Bồ Tùng Linh

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị​
Dịch giả: Cao Tự Thanh​


lieu_trai_chi_di_1_2.jpg


... Không lạ gì mà Liêu Trai Chí Dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong những văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân.
Bản dịch trọn bộ này gồm 432 truyện trong Liêu Trai Chí Dị và 68 truyện trong Liêu Trai Chí Dị Thập Di, tất cả gồm 500 truyện.


Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỂN VĂN HUYỀN dịch

Dế Chọi
( Xúc chức)

Thời Tuyên Đức (1) trong cung rất chuộng chơi chọi dế, hàng năm bắt dân gian cung tiến. Trò đó không phải nảy sinh từ đất Thiểm Tây mà do viên quan huyện lệnh huyện Hoa Âm muốn lấy lòng quan trên đem tiến một con. Quan tỉnh thâý nó chọi hay quá đòi phải cung tiến thường xuyên. Quan huyện lại đòi lý trưởng phải cung cấp. Ngoài chợ bọn tay chơi tìm mua được con nào tốt, đem nhốt vào lồng nuôi, nâng giá lên thành hàng quý lạ. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ cung tiến dế, sách nhiễu dân chúng. Mỗi đầu dế phải nộp, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà.

Huyện ấy, có người tên Thành Danh đã là một đồng sinh (2) nhưng không theo học tiếp nữa. Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy nhiên phương bách kế từ chối nhưng vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt. Gặp vụ nộp dế, Thành không dám bổ bán sách nhiễu dân mà nhà thì không còn gì để bù, bởi thế lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh. Người vợ khuyên can:

- Chết thì được việc gì, chi bằng tự tìm bắt lấy, muôn một may ra được con nào chăng.

Thành cho là phải, từ đó cứ sáng đi tối về, tay xách ống tre , lồng tơ, đủ cách bới đất lật đá tìm hang, mọi nơi tường đổ, bờ hoang bãi cỏ. Cũng có lần moi được vài ba con, nhưng vừa yếu lại vừa bé, không đủ quy cách. Quan trên cứ hạn mà trách phạt, quá hơn chục ngày Thành phải chịu đòn trăm gậy, đôi mông máu me be bét mà chẳng có con dế nào để nộp. Về nhà anh ta lăn lộn, trăn trở trên giường, chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi.

Lúc ấy, trong thôn có cô đồng gù mới đến, có tài bói toán cầu thần. Vợ Thành chạy tiền đến bói. Gái tơ, nạ dòng kéo đến chật cổng ngõ. Trong nhà buồng kín che mành, cửa bày hương án. Nguời đến bói thắp hương sì sụp lễ. Cô đồn đứng bên hướng lên không trung khấn thay mồm mấp máy thì thầm không biết nói những gì. Mọi người xung quanh cung kính đứng nghe. Lát sau trong mành ném ra mảnh giáy ghi rõ những lời truyền phán chỉ bảo, không mảy sai lẫn lộn.

Vợ Thành nộp tiền trước án rồi cũng thắp hương làm lễ như những người trước. Độ giập bã trầu thì mành động có mảnh giáy ném ra. Giở ra xem, không thấy chữ, chỉ có hình vẽ: ở giữa là đền gác như kiểu chùa Phật; đằng sau dưới ngọn núi nhỏ lổn nhổn những mô đất kỳ quái, những bụi gai tua tua, một chú dế “thanh ma” nằm phục, bên cạnh là con ếch trong tư thế định nhảy ra. Xem mà không hiểu ra sao, chỉ thấy qua chú dế dường như có bao hàm ẩn ý về việc mình cầu khẩn, cho nên vợ Thành bọc giấy vào người, đem về đưa chồng xem. Thành xem trăn trở tự nhủ: “Phải chăng bức vẽ này chỉ cho ta chỗ bắt dế?”. Ngắm kỹ hình vẽ thấy giống như Đại Phật Các ở mé đông thôn. Bèn gượng dậy, cầm theo bức vẽ, chống gậy lần ra mé sau chùa. Ở đó có một ngôi mộ cổ trên gò cây cỏ um tùm. Lần theo xung quanh mộ thấy đá lởm chởm rất giống hình vẽ. Thành vạch cây vén cỏ, căng mắt dỏng tai như đi tìm mũi kim hạt cải, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Bỗng có một con ếch nhảy vọt ra, Thành kinh ngạc vội đuổi theo, ếch lẫn vào đám cỏ. Thành dõi theo hướng, lần tìm thấy một chú dế núp dưới gốc gai. Thành chộp vội, nhưng dế đã chui tọt vào trong hang. Lấy cỏ nhọn chọc, nó vẫn nằm lỳ trong ấy. Sau khi đem ống phung nước vào, bị sặc, một chú dế cực to khỏe mới thòi ra. Tóm được chú ta, nhìn kỹ: mình to, đuôi dài, cổ xanh, cánh vàng. Thành vô cùng mừng rỡ liền nhốt vào lồng mang về. Cả nhà ăn mừng, cho bắt bắt được trân châu bảo ngọc cũng không bằng. Rồi thả vào bồn, nuôi nấng hàng ngày bằng thóc ngâm sữa, thịt cua luộc, chắm sóc chí chút từng li từng tí, đợi đến kỳ hạn nộp quan.

Thành có đứa con trai lên chín, thấy bố đi vắng liền mở trộm bồn ra xem. Dế thừa cơ vọt ra. Thằng bé đuổi theo mãi vồ được vào tay thì dế đã gãy cẳng bẹp bụng, chết ngay tức khắc. Nó sợ quá chạy mách mẹ. Mẹ vừa nghe xong, mặt nhợt như chết rồi, quắt mắng ầm lên:

- Thật là tiền oan nghiệp chuớng! Chết đến nơi rồi! Bố về sẽ cho mày biết!

Thằng bé khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại mà lạnh toát xương sống, đi tìm con thì con đã biến đâu không biết. Mãi sau mới vớt được xác con dưới giếng. Chuyển giận thành thương, Thành vật ra kêu trời muốn chết. Nhà tranh bặt khói, vợ chồng im lặng nhìn nhau không còn gì nữa. Trời gần tối mới đem chiếu cỏ liệm thây con, ôm ấp vỗ về thì thấy con còn thoi thóp thở. Mừng quá! Nửa đêm con sống lại. Hai vợ chồng hơi yên tâm. Song đứa con vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, bằn bặt ngủ lịm.
Thành nhìn cái lồng dế rỗng không lại như đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa. Suốt một đêm ròng không hề chợp mắt. Mặt trời mọc, Thành vẫn nằm dài lòng buồn rười rượi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng dế gáy, vội nhỏm dậy nhìn ra thì dế vẫn còn đó. Thành mừng quá vồ lấy. Kêu to một tiếng, dế nhảy bật đi. Tay Thành chộp được thì thấy dường có dường không. Mở ra, dế lại nhảy vọt mất. Thành đuổi theo đến góc tường, không thấy nó đâu. Hoản hốt nhìn quanh bốn phía thấy nó đã nép trên vách. Nhưng con này vừa nhỏ vừa ngắn, đỏ đen nham nhở, không phải con trước. Thành cho là hạng bét không thèm để mắt mà cứ quanh quẩn đi tìm con trước. Bỗng dế con từ trên vách nhảy xuống tọt ngay vào tay áo Thành. Ngắm kỹ, đầu vuông đùi dài, dáng ve sầu, cánh hoa mai, có vẻ tốt. Thành hơi mừng giữ lấy định đem lên công đường nộp, song chỉ lo sợ không được vừa ý quan, mới nghĩ cách cho chọi thử xem sao.

Một chàng trai tay chơi trong thôn nuôi được một chú dế nòi đặt tên là “Cua xọc xanh”, hàng ngày đem chọi với dế của đồng bọn đều thắng cả. Chàng ta muốn giữ để kiếm lời, ai trả giá cao mấy cũng chưa chịu bán. Nhân qua nhà thăm Thành, thấy dế Thành nuôi, chàng ta bịt miệng cười và đưa dế mình, bỏ vào lồng để đánh. Nhìn thấy dế người vừa to vừa cao, Thành lại càng xấu hổ, không dám đưa dế mình ra. Chàng trai cố ép. Thành nghĩ: “Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười.” Thành đưa dế vào bồn đấu. Chú dế con nằm ẹp xuống không dám động đậy. Chàng trai cười ngất, cầm cái lông lợn chọc vào râu, nó vẫn nằm im. Chàng trai lại cười, lại chọc. Dế con nổi giận, xông thẳng ra, phấn chấn cất tiếng gáy ke ke. Rồi vểnh râu, cong đuôi nhảy xổ vào cắn cổ địch thủ. Chàng trai hốt hoảng xin ngưng chọi. Dế con dõng dạc cất tiếng gáy như báo cho chủ biết mình vừa thắng cuộc. Thành chứng kiến cảnh ấy, vui mừng vô cùng.

Đang khi cùng nhau ngắm nghía dế con thì một con gà sán lại gần mổ dế. Thành hoảng, đứng dậy thét đuổi. May mà gà mổ khôngt trúng. Dế co càng nhảy một phát đến hơn một thước. Gà đuổi sấn theo, dế đã nằm dưới móng gà. Thành thảng thốt không biết làm thế nào để cứu dế, chỉ còn dậm chân thất sắc. Nhưng sao gà cứ vươn cổ, sã cánh? Nhìn kỹ thì dế đã bám trên mào gà cắn chặt lấy không buông. Thành vừa kinh ngạc vừa mưng, vội bắt lấy dế bỏ vào lồng.

Hôm sau, Thành đem dâng quan huyện. Quan huyện thấy dế quát ầm lên. Thành thuật lại chuyện lạ về con dế ấy, nhưng quan không tin. Đem chọi với các con khác, dế Thành đều thắng. Đem thử với gà quả như lời Thành nói. Quan trên thưởng cho Thành và hiến dế lên tỉnh. Quan tỉnh vui lòng lắm liền bỏ dế vào lồng vàng tiến vua, lại dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Đã vào cung rồi, dế còn phải tỉ thí với khắp các loại dế kì hình dị dạng của cả thiên hạ dâng tiến như dế bướm, dế bọ ngựa, dế dầu, dế “trán tơ xanh”... con nào cũng chịu thua cả. Còn điều kỳ lạ hơn nữa, ở trong cung con dế của Thành mỗi khi nghe tiếng đàn cầm, đàn sắt lại nhảy múa theo các tiết điệu. Hoàng thượng hết sức đẹp lòng, rộng ơn ban thưởng, xuống chiếu cấp cho quan tỉnh ngựa hay, vải quý. Quan tỉnh không quên nguồn gốc dế nên ít lâu sau tiến cử quan huyện là người “tài năng ưu diệt” có thể thăng cấp. Quan huyện sướng quá cho Thành được miễn sai dịch; lại dặn học quan cho Thành thi lấy học vị tú tài.

Còn con Thành hơn năm sau tinh thần trở lại như cũ và kể rằng: Mình đã hóa thành dế, lanh lẹ, chọi giỏi, nay mới thực sống lại. Quan tỉnh biết rõ chuyện ấy, lại hậu thưởng cho Thành. Chỉ mấy năm thôi, Thành đã có ruộng đồng trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê đầy đàn. Ra khỏi nhà thì áo cừu, ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Bậc thiên tử dùng một vật gì chốc lát rồi quên; còn kẻ hầu cận bèn lấy làm lệ định. Từ đó qua bọn tham quan lại ngược, dân phải bán vợ đợ con không dứt. Cho nên nửa bước của thiên tử cũng quan hệ đến dân, không thể coi nhẹ được. Riêng họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, vì dế chọi mà giàu, vênh vang áo cừu, ngựa béo, lúc còn bị lý dịch sách nhiễu chẳng tưởng đến chuyện như thế. Còn ơn trời đáp đáp sao mà lâu dài hậu hĩ vậy, khiến cho quan tỉnh quan huyện đều được ân thưởng vì con dế. Ta từng nghe: “Một người thăng gà chó cũng thành tiên”(3). Đáng tin vậy thay!



(1) Tuyên Đức: niên hiệu thời vua Tuyên Tông nhà Minh khoảng 1426- 1435
(2) Theo chế độ khoa cử lúc ấy ai có học đi thi nhưng chưa thi đỗ tú tài thì bất kể tuổi tác đều gọi là đồng sinh.
(3) câu này do điển: Thời Hán, Hoài Nam vương Lưu Yên tu luyện đắc đạo bay lên trời. Lũ gà chó trong nhà ăn phải thuốc luyện còn dư cũng đều trở thành tiên cả.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Tản Đà dịch

Đạo Sĩ
Hàn sinh nhà thế gia, thích khách. Người cùng xóm có anh chàng họ Từ, thường hay đến uống rượu. Một hôm khi họp vui, ở ngoài cổng có kẻ đạo sĩ đến ăn xin. Người nhà cho tiền, cho gạo không lấy, cũng không đi. Lũ người nhà tức giận, cũng mặc kệ. Hàn nghe thâý tiếng xô xát cãi cọ nhau đã lâu, hỏi các người nhà, chúng thưa thực như vậy. Nói chưa dứt lời đạo sĩ đã cứ vào. Hàn cho mời ngồi. Đạo sĩ đến với chủ nhân và các khách giơ tay chào khắp một lượt, rồi liền ngồi. hỏi qua gốc tích thời nguyên ở trong cái miếu đổ nát ở xóm đông.
Hàn nói:
-“Không hay con hạc lại về từ bao giờ, thành ra tôi thiếu cái lễ địa chủ”.
Trả lơì thưa rằng:
-“Kẻ quê kệch mơí đến, không có chơi bời quen ai, nghe rằng ông ở đây rộng tính, cho nên muốn được đến để uống rượu mà thôi”.
Hàn bảo rót rượu. Đạo sĩ uống được nhiều. Từ thấy quần áo rách bẩn, lại trông ra khốn đốn, có ý khinh bỉ không cần làm lễ tiếp chi. Hàn cũng coi là một người khách thoáng qua vậy. Đạo sĩ uống luôn đến hơn hai chục chén, rồi chào mà ra đi.
Từ đấy, mỗi lần yến họp khách, đạo sĩ cứ đến gặp ăn thời ăn, gặp uống thời uống. Hàn cũng hơi thấy là đáng chán. Trong khi uống rượu vui, Từ đùa giễu rằng:
“Đạo sĩ chỉ cứ làm khách mãi, sao không làm chủ một bận chăng?”
Đạo sĩ cười mà rằng:
“Đạo sĩ với cư sĩ cũng như nhau, chỉ có hai vai đem một cái mồm mà thôi”. Từ thẹn không nói được nữa.
Đạo sĩ nói:
“Tuy vậy, kẻ theo đạo này có lòng thành đã lâu, thế nào cũng cố hết sức gọi là kiếm một hai chén nước để báo đền lại”.
Uống xong, dặn rằng:
“Đến trưa mai xin mời quá bộ”.
Ngày hôm sau, chúng rủ nhau cùng đi, còn ngờ là không đặt rượu, mà đạo sĩ đã đón đợi ở ngang đường. Vào cổng thời thấy nhà cửa mới làm hết, gác rộng liền mây, rất lấy làm sự lạ, cùng bảo với nhau rằng:
-“Lâu chúng ta không đến đây, không biết làm nhà mới từ khi nào?”
Đạo sĩ nói:
- “Vừa mới làm xong không bao lâu”.
Vào đến trong nhà, thời bày đặt rất lịch sự sang trọng những vật mà các nhà gia thế không thể có. Hai người thấy mà phải kính sợ. Mời ngồi xong rót rượu, bưng thức ăn lên, toàn là đứa hầu nhỏ khoảng mười sáu tuổi cả, mà mặc áo gấm đi giày điều. Rượu và thức ăn, thơm tho đầy nhiều. Ăn xong các thứ đồ nước bưng lên, nhiều quả không biết tên gọi đựng bằng những đồ thủy tinh quý, ngọc thạch sáng soi khắp bàn ghế và giưòng phản. Rượu uống bằng thứ chén pha lê, chu vi đến một thươc. Đạo sĩ nói:
- Gọi chị em họ Thạch lên đây.
Đứa nhỏ chạy lúc lâu. Có hai mỹ nhân đến. một người nhỏ dài như thể cành liễu yếu, một người mình ngắn tuổi trẻ hơn. Hai đằng cũng đẹp cả, đạo sĩ sai hát để mua vui cho cuộc rượu. Người trẻ tuổi đánh phách mà hát, người lớn tuổi thổi sáo mà họa lại. Tiếng nghe trong mà nhỏ tuyệt hay. Một khúc hát đã xong, đạo sĩ sai rót rượu mời cả khách một lượt. Lại quay lại hỏi người đẹp rằng:
- Lâu không múa còn nhớ chăng?
Liền có những đầy tớ đem chiếu trải ra ở dưới chỗ chiếu rượu, hai người con gái múa đối nhau. Áo dài phất tung, hương thơm bay loạn. Múa xong tựa nghiêng mình ở bức họa hình. Hai người khách thần hồn bay mất, không ngờ say quá lúc nào. Đạo sĩ cũng chẳng cần sự khoản tiếp nữa, chỉ cứ cất chén uống thật mạnh. Rồi đứng dậy bảo khách rằng:
- Xin các ông cứ xơi rượu cho, tôi đi nghỉ một thoáng xin ra ngay. Nói xong liền đi.
Ở dưới vách phía nam nhà, có bày một cái giường khảm xà cừ. Đứa con gái đem nệm gấm ra trải, ôm đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ kéo người đẹp mà dài, lên giường cùng gối nằm, sai người bé tuổi đứng ở bên dưới để xoa, gãi. Hai người khách thấy bộ trạng ấy, lấy làm khó chịu quá. Từ bèn nói to bảo rằng:
- Đạo sĩ không được hỗn thế.
Nói rồi định đến để quấy rối. Đạo sĩ vội trở mình trốn đi mất.
Trời đã sáng, rượu và mộng cùng tỉnh ra, thấy một vật gì ở trong lòng lạnh thấu điếng người. Dậy nhìn xem, thời là mình ôm một hòn đá dài mà nằm dưới hầm vậy. Vội trông lại Từ, thấy Từ vẫn chưa tỉnh, mà đầu gối vào một hòn gạch vỡ, ngủ say bét ở trong chỗ như chuồng tiêu vậy. Đá cho vậy, cùng nhau lấy làm sợ lạ, trông nhìn khắp bốn phía thời một sân cỏ rậm, hai gian nhà nát mà thôi.


TẢN ĐÀ dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thư Sinh Họ Diệp
Dịch Giả : Cao Xuân Huy
Miền Hoài Hương có chàng thư sinh họ Diệp, không rõ cả tên và tự. Văn chương từ phú trội nhất đương thời, nhưng đến đâu cũng lận đận, long đong khốn khổ mãi trong trường công danh.
Gặp lúc ông Ðinh Thừa Hạc, người Ðông Quan, đến làm quan ở ấp ấy, xem văn chương của chàng, cho là kỳ tài, bèn mời đến đàm đạo.
Ông rất bằng lòng, cho chàng đến ở trong dinh thự, cơm nước đèn sách, cấp cho đầy đủ, thỉnh thoảng lại gửi tiền thóc về giúp đỡ gia quyến nữa.
Ðến kỳ sơ thí, ông hết sức tán dương văn tài của chàng trước mặt quan học sử, rồi đó chàng đỗ đầu hàng xứ.
Ông trông mong vào chàng rất tha thiết; sau khi vào trường thi Hương, cho lấy văn của chàng để xem và đọc vừa gõ bàn đánh nhịp, ngợi khen không ngớt.
Ngờ đâu thời vận neo người, văn chương ghen mệnh, bảng đã treo, lại hỏng tuột.
Chàng trở về, choáng váng tê mê, trong lòng lại thẹn là mình đã phụ người tri kỷ, thân hình gầy ruộc như bộ xương còn đứng, người ngây ra như khúc gỗ.
Ông nghe tin, cho mời đến an ủi.
Chàng rơi lụy dầm dề.
Ông rất thương tình, hẹn đến khi nào mãn kỳ khảo tích về kinh thì đem chàng cùng đi.
Chàng rất cảm kích cáo từ ra về , từ đấy đóng cửa không đi đâu nữa.
Chẳng bao lâu chàng lâm bệnh, ông luôn luôn hỏi thăm và đưa quà, nhưng thuốc uống đã trăm thang mà vẫn không công hiệu. Vừa lúc ấy ông lại có điều xúc phạm đến quan trên, bị cất chức, sắp về nhà, viết thư cho chàng, đại lược nói rằng: "Tôi nay mai về Ðông, mà sở dĩ còn chần chừ chưa đi ngay, là chỉ vì muốn chờ túc hạ đi đó thôi. Túc hạ đến buổi sáng, thì buổi chiều là tôi khởi hành..."
Thư đưa đến bên giường nằm, chàng cầm xem khóc sụt sùi, rồi nhắn sứ giả về nói là đang bị bệnh nặng, khó bình phục ngay được, xin cứ đi trước.
Sứ giả về bẩm, ông không nỡ đi, ráng ở lại chờ.
Qua mấy hôm, người canh cổng báo có chàng họ Diệp đến, ông mừng quá, ra đón mà hỏi han.
Chàng nói:
- Vì cái bệnh của thân hèn để đại nhân phải chờ đợi lâu, lòng này thật áy náy không yên. Nay, may đã có thể ráng theo kịp dấu giày chân ngựa.
Ông bèn gói buộc hành trang lại, để dậy sớm ra đi.
Chẳng mấy ngày đã về đến làng, ông cho con thụ giáo với chàng, đêm ngày ở liền bên cạnh.
Cậu con tên là Tái Xương lúc bấy giờ mới mười sáu tuổi, chưa biết làm văn chương nhưng thông minh lắm, phàm văn bài cử nghiệp, xem qua hai ba lần thì không quên nữa. ở được một năm, cậu đã hạ bút thành văn, nhờ có thêm thế lực của ông, bèn được nhận vào nhà học của huyện.
Chàng bàn chép lại những bài văn cử nghiệp đã làm lúc bình thời đem hết cho công tử học.
Vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đậu á khôi.
Một hôm ông bảo chàng rằng:
- Túc hạ chỉ vứt ra một mối tơ thừa mà cũng đủ làm cho thằng trẻ nên đanh, nhưng còn quả chuông vàng kia cứ bị bỏ rơi mãi thì làm thế nào?
Chàng nói:
- Ðiều đó e rằng có mệnh. Tôi mượn cái phúc trạch của đại nhân để hà hơi cho văn chương, khiến người thiên hạ biết rằng nửa đời luân lạc không phải vì kém tài đánh trận, như thế là thỏa nguyện rồi. Vả chăng kẻ sĩ mà được một người biết, đã đủ không ân hận nữa, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?
Ông thấy chàng xa nhà đã lâu, sợ nhỡ mất kỳ sát hạch năm, khuyên chàng nên về thăm nhà. Chàng rầu rĩ không vui. Ông cũng không nỡ ép, bèn dặn công tử khi đến kinh đô thì nạp thóc hộ chàng, công tử lại giật giải Nam Cung được bổ chức Chủ sự trong bộ, đem chàng vào Giám sớm tối gần nhau.
Qua một năm, chàng vào trường thi Hương ở kinh, đỗ Cử nhân.
Vừa lúc ông được bổ đi coi thi ở Hà Nam bàn nhân tiện nói với chàng rằng:
- Chuyến đi này không xa quê hương tiên sinh là mấy. Nay hãy nhẹ bước đường mây, tiên sinh cũng nên một phen về làng cho được khoái chí.
Chàng cũng mừng. Rồi chọn ngày tốt lên đường.
Ðến địa giới Hoài Dương, công tử cho người và ngựa đưa chàng về.
Ðến nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, chàng chạnh lòng buồn bã lững thững đi vào sân.
Người vợ cầm nong nia đi ra, thấy chàng thì vứt xuống sợ hãi bỏ chạy.
Chàng rẫu rĩ mà nói:
- Ta bây giờ đã nên danh phận rồi. Mới ba bốn năm không thấy mặt, sao bông như không quen biết nhau vậy?
Người vợ đứng xa mà bảo rằng:
- Chàng chết đã lâu, còn nói nên danh nên phận gì nữa?
Sở dĩ còn để mãi linh cữu trong nhà, là vì nhà nghèo con bé đó mà thôi! Nay thằng cả đã khôn lớn, cũng đang tìm một ngôi đất để đưa chàng ra. Chớ nên hiện về làm gở để quấy người sống.
Chàng nghe nói thì bùi ngùi rũ rượi, bàn lững thững đi vào trong nhà, thấy linh cữu rành rành, liền ngã ra giữa đất mà biến mất.
Người vợ kinh hãi nhìn xuống thấy áo mũ giày tất bỏ đấy, như cái xác lột. Nàng mũi lòng quá, ôm xống áo khóc lóc. Người con đi học về, thấy một cỗ xe ngựa buộc ở trước thì dò hỏi xem ở đâu đến, rồi kinh hãi chạy về báo với mẹ.
Mẹ gạt nước mắt kể lại chuyện vừa xảy ra. Lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi.
Người theo hầu trở về, công tử nghe tin nước mắt rơi ướt cả ngực, lập tức lên xe, đến tận nhà mà khóc, rồi bỏ tiền lo liệu việc tang, chôn cất theo lệ hiếu liêm.
Lại chu cấp rất hậu cho đứa con, mời thầy về dạy và gửi gắm cho quan học sứ, hơn một năm sau được vào nhà học phán

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Ðạo Sĩ Núi Lao
Dịch Giả : Nguyễn Ðức Lân
Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.
Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.
Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã.
Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.
Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thấy.
Ðạo Sĩ nói:
- Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.
Vương hứa là: "Ðược"
Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.
Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.
Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi.
Vương kính cẩn vâng lời.
Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.
Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.
Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.
Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.
Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.
Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.
Một người khách nói:
- Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.
Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.
Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?
Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ.
Giây lát, một vị khách nói:
- Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?
Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.
Rồi ca rằng:
Tiên tiên nào!
Về đây nao!
Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!
Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa.
Ba người cùng cười lớn.
Lại một vị khách nói:
- Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?
Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng.
Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.
Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.
Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Mọi người đã uống đủ cả chưa?
Các học trò cùng thưa:
- Ðủ cả.
- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.
Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra.
Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.
Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào.
Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng:
- Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về.
Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.
Ðạo Sĩ cười bảo:
- Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về:
Vương nói:
- Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.
Ðạo Sĩ hỏi:
- Muốn học thuật gì?
Vương đáp:
- Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.
Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.
Ðạo sĩ lại nói:
- Cứ vào thử đi!
Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp. Ðạo Sĩ bảo:
- Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần!
Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả.
Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi.
Vương mừng quá, vào lạy tạ.
Ðạo Sĩ bảo:
- Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.
Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.
Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình.
Vợ không tin.
Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.
Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.
Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.
Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thụy Vân
Dịch Giả : Cao Xuân Huy
Thuỵ Vân là danh kỹ của đất Hàng Châu . Nhan sắc tài nghệ có một. Năm tuổi mười bốn, mẹ là mụ đầu họ Sái định cho nàng ra tiếp khách.
Thụy Vân thưa rằng:
- Ðây là lúc bánh xe duyên nghiệp của đời con bắt đầu vận chuyển, không nên qua loa cẩu thả . Giá thì do mẹ định, nhưng khách thì xin cho con được tự lựa chọn.
Mẹ bảo được, bèn định giá mười lăm đồng vàng rồi hàng ngày ra tiếp khách.
Khách muốn gặp thì phải có lễ, lễ hậu mới được tiếp một ván cờ, một bức tranh, lễ bạc thì giữ lại uống chén trà mà thôi.
Thuỵ Vân lừng tiếng đã lâu, từ đó các bậc đại thương, giới quyền quí, ngày ngày nối gót nhau vào.
Giới Trấn Dư Hàng có người thư sinh họ Hạ, tài danh nức tiếng đã lâu mà gia tư chỉ vào bậc trung. Chàng vốn ngưỡng mộ Thụy Vân, nhưng chưa dám nghĩ đến giấc mộng uyên ương, cũng gắng hết sức sắm được chút lễ mọn, chỉ mong một phen nhìn ngắm mặt hoa, mà vẫn thầm lo nàng tri đời đã nhiều sẽ không đoái hoài gì đến một kẻ sĩ bần rách như mình.
Ðến lúc gặp mặt, trò chuyện dăm câu, nàng đã tiếp đãi rất mực ân cần. Ngồi nói chuyện giờ lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình . Lại tặng chàng bài thơ :
Việc gì kẻ xin nước
Cầu lam phải nệm sương?
Có lòng tìm chày ngọc,
Ngay giữa chốn người thường
Ðược thơ, chàng mừng rỡ như cuồng, còn muốn nói gì nữa, bỗng con hầu vào báo khách đến, bèn vội vàng từ biệt. Về nhà, đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, tơ lòng vương vít.
Ðược một hai ngày, cầm lòng không đậu, lại phải sắm sửa lễ vật rồi trở lại.
Thụy Vân đón tiếp niềm nở, dần dần ngồi dịch lại gần chàng, nét mặt rầu rầu mà rằng:
- Có thể lo toan được một đêm sum họp với nhau không?
Chàng rằng:
- Học trò túng kiết chỉ có cái tấm tình si là có thể đem tặng tri kỷ; sắm được cái lễ biếu nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết; được gần mặt hoa là mãn nguyện lắm rồi, còn như tựa gió kề hoa dám đâu mộng tưởng.
Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau mà không nói gì.
Chàng ngồi lâu không ra; mụ chủ giữ mấy lần gọi Thụy Vân, có thúc giục chàng về đi. Chàng bèn ra về, trong lòng buồn rười rượi. Muốn khánh kiệt gia sản để chuốc một lần vui, nhưng lại nghĩ, sum họp một đêm rồi phải ly biệt suốt đời, tình trạng ấy chịu làm sao nổi. Trù tính đến đấy thì nỗi lòng hăm hở đều tiêu mất hết.
Từ đó bặt không có tin tức vãng lai gì.
Thụy Vân kén khách mở khoá động đào mấy tháng mà chưa chọn được nơi nào xứng đáng. Mụ dầu khá bực tức, rắp toan ép uổng duyên nàng nhưng cũng chưa ra tay.
Một hôm, có chàng tú tài đem lễ biếu đến xin ra mắt, ngồi nói chuyện chốc lát liền nhổm dậy, lấy ngón tay ấn lên trán nàng mà nói: "Ðáng tiếc, đáng tiếc" rồi bỏ đi.
Thụy Vân tiễn khách ra, trở lại , thì mọi người đều thấy trên trán nàng có dấu tay in đen như mực, càng rửa càng thêm rõ.
Sau đó vài ngày vết mực dần dần lan rộng, hơn một năm sau thì lan khắp trán, đến cả mũi nữa. Ai thấy cũng cười mà từ đó, dấu vết xe ngựa ở ngoài cũng dần dần mất hẳn.
Mụ dầu lột hết trang sức, xếp nàng vào hàng ngũ con hầu. Thụy Vân vốn ẻo lả không đưng nổi công việc tôi đòi, ngày càng thêm tiều tuỵ.
Hạ nghe nói, đi qua ghé vào, thấy bù đầu ở dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy chàng thì quay mặt vào tường mà tránh.
Hạ đem lòng thương xót, bèn nói với mụ, muốn chuộc nàng về làm vợ.
Mụ bằng lòng.
Hạ bán ruộng và dốc hết hành trang vốn liếng mua nàng đem về. Ðến nhà, nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là người sánh vai với chàng, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này.
Hạ nói:
- Ở đời, cái đáng quí là tri kỷ. Lúc khanh đang thịnh, khanh còn biết đến tôi, lẽ nào vì khanh suy mà tôi lại quên khanh?
Rồi không chịu cưới ai nữa. Ai nghe nói việc này cũng cười cợt, nhưng với chàng thì mối tình càng thêm nồng thắm.
Ðược hơn một năm. Hạ ngẫu nhiên đến đất Tô, gặp chàng thư sinh họ Hoà, cùng trọ một chỗ.
Bỗng dưng Hoà hỏi rằng:
- Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân gần đây ra sao?
Hạ đáp:
- Ðã lấy chồng rồi.
Hoà lại hỏi:
- Lấy ai đấy?
Ðáp:
- Người đó cũng đại loại như tôi.
Hoà nói:
- Ðược như anh thì có thể nói là đúng người rồi đấy, không biết giá bao nhiêu?
Hạ nói:
- Mắc phải bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, chẳng thế, loại người chúng tôi sao có thể mua được người đẹp.
Hoà lại hỏi:
- Người đó quả thật có được như anh không?
Hạ thấy anh ta hỏi hơi lạ, nhân đó cũng căn vặn hỏi lại.
Hoà cười mà đáp rằng:
- Thực ra không giấu nhau nữa. Năm trước tôi từng được chiêm ngưỡng danh hoa một lần, rất lấy làm tiếc rằng tài mạo tuyệt vời mà lênh đênh không vừa đôi phải lứa, cho nên đã dùng một thuật mọn làm giảm bớt hào quang, và giữ gìn lấy vẻ ngọc, để dành lại đó chờ tấm gương soi thật mặt của kẻ yêu tài.
Hạ vội hỏi:
- Anh đã chấm được thì cũng có thể chữa được chứ?
Hoà cười mà rằng:
- Sao lại không được, nhưng mà cần vai chính thành tâm cầu xin thì mới được.
Hạ đứng dậy vái mà rằng:
- Người chồng của Thụy Vân tức là tôi đây!
Hoà mừng quá, nói:
- Trong thiên hạ, chỉ có người nhân tài mới thật đa tình, không vì chuyện xấu đẹp mà thay đổi ý nghĩ. Anh cho tôi theo anh về nhà, tôi sẽ tặng anh một người đẹp.
Bèn cùng nhau về. Ðến nơi, Hạ bảo dọn rượu, Hoà vội gạt đi mà rằng:
- Ðể tôi làm phép trước đã, thì người dọn cỗ mới vui lòng chứ!
Tức thì bảo bưng lên một thau nước, lấy ngón tay thư lên trên nước mà nói rằng:
- Rửa đi thì khỏi ngay! Nhưng phải đích thân ra tạ ơn người làm thuốc đấy!
Hạ cười, bưng thau đi vào, đứng đợi Thụy Vân tự rửa mặt trong thau, tay đưa đến đâu thì sạch đến đấy, diễm lệ chẳng khác gì năm xưa.
Vợ chồng cảm cái hậu đức của Hoà, cùng nhau ra ngoài tạ ơn, thì khách đã mất hút đâu rồi, tìm khắp nơi mà không được.
Có lẽ là tiên chăng?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Vương Thành
Dịch Giả : Cao Xuân Huy
Vương Thành, con nhà thế tộc lâu đời ở Bình Nguyên, tính lười biếng, sinh nhai ngày càng sa sút, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng đêm nằm đắp mảnh vải bố, nhiếc móc nhau đũ điều. Bấy giờ là tiết đại thử, khí trời nung nấu. Trong làng có cái vườn cũ của họ Chu, tường vách đã đổ nát, chỉ còn một cái đình, người làng vẫn đến đấy ngủ nhờ, Vương cũng thế. Một hôm trời sáng , mọi người đi cả rồi, mặt trời đã lên cao ba con sào, Vương mới dậy, quanh quẩn muốn về, chợt thấy trong đám cỏ có chiếc thoa vàng, nhặt lên xem thấy có khắc mấy chữ nhỏ Phủ Nghi Tân chế tạo .
Ông nội của Vương là Nghi Tân trong phủ Hành. Những vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, nên chàng nhân cầm chiếc thoa có dáng chần chừ.
Bỗng có một bà cụ đến tìm thoa. Vương tuy nghèo nhưng tính vốn liêm khiết , liền đưa trả lại.
Bà cụ mừng lắm, hết sức khen ngợi tấm lòng cao thượng, bà nói rằng:
- Chiếc thoa có đáng giá trị là bao, nhưng là chút kỷ vật của ông nhà tôi ngày xưa để lại.
Vương hỏi:
- Cụ nhà xưa là ai?
Ðáp rằng:
- Ðó là quan Nghi Tân, họ Vương tên Giản Chi đã quá cố.
Vương kinh ngạc, nói rằng:
- Ông nội tôi đấy! Sao mà gặp nhau với bà được?
Bà cụ cũng kinh ngạc nói:
- Anh là cháu cụ Vương Giản Chi đó sao? Ta là hồ tiên một trăm năm trước đây có trao duyên gắn bó với cụ cố nhà anh. Cụ cố mất đi, già này tu ẩn, đi qua đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay anh, đó chẳng phải là số trời hay sao?
Vương cũng đã nghe nói ông nội mình có vợ hồ, cho nên tin lời bà cụ, bèn mời bà hạ cố đến nhà. Bà cụ theo về, Vương gọi vợ ra chào; áo rách bù đầu, sắc mặt đói ăn tối sầm.
Bà cụ than rằng:
- Ôi! Con cháu Vương Giản Chi mà nghèo khổ đến thế này sao?
Lại nhìn về phía cái bếp lạnh tanh không có khói lửa mà nói:
- Gia thế như thế này thì lấy gì mà sống?
Người vợ bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào sướt mượt.
Bà cụ đưa chiếc thoa cho chị vợ, bảo hãy cầm cho người ta lấy tiền để đong gạo, rồi ba ngày nữa bà sẽ đến thăm. Vương cố giữ lại, bà nói:
- Anh có một vợ mà nuôi không nổi; ta ở lại đây thì chỉ ngồi mà ngắm xà nhà chứ có ích gì?
Nói xong đi liền. Vương kể lại đầu đuôi, người vợ sợ quá.
Vương ngợi khen tấm lòng ân nghĩa của cụ và bảo vợ phải thờ bà như mẹ. Người vợ xin vâng.
Qua ba ngày, quả nhiên bà già lại đến, đưa ra mấy đồng vàng để đong lúa và mạch, mỗi thứ một thạch.
Tối đến, bà cụ và người vợ nằm chung một cái giường bé. Chị vợ lúc đầu còn sợ, nhưng xét thấy tình rất mực ân cần, nên cũng không ngờ nữa.
Ngày hôm sau, bà cụ bảo Vương rằng:
- Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm, chứ ngồi không mà ăn thì lâu thế nào được?
Vương nói mình không có vốn liếng gì cả. Bà đáp:
- Khi ông nội nhà anh đang còn, thì vàng lụa tha hồ mà lấy, vì ta không phải là người trần, không dùng đến những thứ ấy, nên cũng không lấy nhiều, chỉ dành giữ món tiền phấn sáp được bốn mươi lạng vàng, đến nay vẫn còn, tàng trữ cũng chẳng làm gì. Anh hãy đem đi mà mua vải cát cho hết, rồi mang gấp vào kinh thành, có thể có chút lãi.
Vương theo lời, đi mua hơn năm mươi tấm mang về.
Bà cụ giục thu xếp hành trang, tính rằng sáu, bảy ngày có thể đến Yên Kinh. Dặn rằng:
- Chớ lười, nên siêng! Chớ hoãn nên kíp! Chậm trễ một ngày ăn năn chẳng kịp.
Vương xin kính vâng, xắp hàng vào bao tải rồi lên đường.
Giữa đường đi gặp mưa, áo giày ướt sũng. Suốt đời Vương chưa từng dầu dãi gió dầm sương. Vì vậy mệt rũ, chịu không thấu bèn vào nhà trọ tạm nghỉ.
Ngờ đâu mưa cứ tầm tã mãi đến chiều hôm, nước trên rèm chảy xuống như thừng. Qua một đêm, đường càng lầy lội, người đi ngập đến cổ chân.
Vương trong lòng nản lắm. Chờ mãi đến giờ ngọ, đường mới hơi khô, nhưng mây đen lại kéo lên, rồi trời lại mưa to. Phải ngủ đến hai đêm ở nhà trọ mới đi được.
Gần đến kinh, nghe đồn giá vải lên cao vọt, trong lòng mừng thầm. Vào kinh nghỉ ở quán trọ.
Chủ quán lấy làm tiếc là Vương đến chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam vừa mới được mở, vải cất đến rất ít, các nhà buôn lớn ở kinh đô mua khá nhiều, giá cao gấp ba so với thường ngày, nhưng một ngày trước thì hàng vải ùn đến giá bỗng xuống rất thấp, những người đến sau thất vọng.
Chủ quán nói rõ đầu đuôi cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày qua, vải cát đến càng nhiều, giá càng xuống. Vương cho là không có lãi, không chịu bán. Nấn ná đến hơn mười ngày, tiền cơm chưa tính ra đã tốn nhiều, nghĩ càng thêm lo buồn.
Chủ quán khuyên Vương nên bán rẻ đi, để xoay cách khác.
Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vốn mười lượng. Sáng dậy, soạn sửa ra về, mở đẫy ra xem thì bạc đã mất rồi. Hoảng loạn lên báo với chủ quán. Chủ quán không biết làm thế nào. Có kẻ bảo Vương lên kêu quan, bắt chủ quán bồi thường, Vương than rằng:
- Ấy là cái số của ta, chứ chủ quán có lỗi gì?
Chủ quán nghe vậy, rất mến tấm lòng trung hậu của Vương, tặng năm lạng vàng, kiếm lời an ủi, khuyên về.
Vương nghĩ bụng, không còn mặt mũi nào gặp lại bà tổ mẫu, loanh quanh hết ra lại vào, tiến thoái đều khó. Chợt thấy có người chọi chim Thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc đến mấy ngàn, mua mỗi con chim Thuần nhiều khi hơn một trăm đồng tiền.
Chàng bỗng nảy ra một , tính nhẩm tiền còn trong đáy, may ra chỉ đủ buôn chim Thuần, bèn đem cái này bàn với chủ quán. Chủ quán khuyến khích tận tình, lại hứa cho ở nhờ nhà trọ, ăn uống không phải trả tiền, Vương mừng lắm, bèn ra đi, mua đầy một gánh chim Thuần đem về trong thành. Chủ quán cũng mừng, chúc cho bán được nhanh. Ðến đêm, mưa to mãi đến mờ sáng. Khi trời đã sáng hẳn, nước trên đường cái như sông, mà trời vẫn rả rích mưa. Ngồi chờ tạnh liên miên mấy ngày, mưa không ngớt hột. Dậy nhìn chim Thuần trong lồng thì đã chết mất nhiều. Vương sợ lắm, không biết làm thế nào. Sang ngày sau, chết càng nhiều, chỉ còn được mấy con, đem bỏ chung vào một lồng để nuôi. Qua đêm, lại ra thăm thì vẻn vẹn còn được một con, bèn chạy vào nói với chủ quán, bất giác ứa nước mắt, chủ quán cũng thương cảm. Vương tự liệu, tiền hết không về được, chỉ muốn tìm đường chết. Chủ quán khuyên giải an ủi, rồi cùng nhau ra xem con chim còn lại, ngắm nghía rất kỹ, nói rằng:
- Ðây hình như là một con chim quí ! Những con kia mà chết biết đâu không phải là bị con này chọi chết? Anh bây giờ cũng rỗi không có việc gì, hãy chăm chút tập tành cho nó. Nếu quả là con chim hay, thì mang nó đi đánh cũng mưu sinh được. Vương nghe theo. Khi con chim đã thuần thục, chủ quán bảo đem ra đường phố, đánh cuộc lấy rượu thịt. Chim khoẻ lắm, luôn luôn thắng. Chủ quán mừng, đưa tiền cho Vương, bảo đem ra quyết ăn thua với đám con em trong làng chơi chim Thuần ở kẻ chợ. Ba lần chọi ba lần đều thắng. Chừng nửa năm, góp nhóp được hai mươi lạng vàng, trong lòng cũng được an ủi, xem con chim như tính mệnh của mình.
Thuở đó có một vị Thân Vương rất thích chim Thuần; mỗi năm gặp tiết thượng nguyên, thách dân gian ai có nuôi chim Thuần thì đem đến phủ đệ để chọi. Chủ quán bảo Vương rằng:
- Giờ đây, cái cơ đại phú đã có thể đến ngay rồi đấy. Chỉ có điều không biết vận may của anh như thế nào thôi!
Bèn nói rõ sự tình và đem Vương cùng đi, dặn rằng:
- Ví thử có thua thì nín hơi mà đi ra thôi! Còn như vạn nhất con Thuần mình đấu thắng thì Thân Vương thế nào cũng hỏi mua, anh đừng nhận bán; nếu gạn hỏi thì cứ nhìn vào cái đầu của tôi, chờ khi nào đầu tôi gật thì hẵng ngả giá!
Vương nói:
- Ðược!
Vào đến phủ thì thấy những người chọi chim sát vai nhau đứng cả ở dưới thềm. Chốc lát Thân Vương ngự ra trên điện, tả hữu truyền rằng có ai muốn chọi thì cho lên. Liền có một người xách lồng bước bậc mà lên trên điện. Thân Vương sai thả chim Thuần ra. Khách cũng thả. Mới nhảy đá qua loa, con chim của khách đã thua chạy. Thân Vương cả cười. Chỉ một lúc, người đến chọi mà thua đã có đến mấy vị. Chủ quán nói:
- Ðến lúc rồi!
Bèn cùng nhau bước tới bậc mà lên. Thân Vương xem tướng con chim của Vương mà nói:
- Tròng mắt có vằn máu giận dữ,cũng là một cánh hùng kiện đây! không nên khinh địch.
Bèn truyền lệnh cho đem con Mỏ Sắt ra nghênh chiến. Mới nhảy vọt đấu đá vài lần mà con chim của Thân Vương đã sả cánh. Lại chọn một con chim giỏi hơn đem ra, hai lần đổi, hai lần thua. Thân Vương cấp tốc truyền lệnh vào lấy con Ngọc Thuần của nội cung. Một lát mới thấy đem ra, lông trắng như cò, thần khí hùng dũng khác thường.
Vương Thành thấy thế, trong lòng nao núng, bèn quỳ xuống xin thôi, nói rằng:
- Con chim của Ðiện Hạ là chim thần, sợ đánh giết mất chim tôi thì tôi sạt nghiệp mất!
Thân Vương cười rằng:
- Cứ thả ra cho nó chọi, chẳng may nó chết thì ta sẽ đền bù cho thật hậu.
Thành bèn thả chim mình ra. Con Ngọc Thuần xông thẳng đến. Nhưng khi Ngọc Thuần đang chạy tới thì con Thuần của Vương nằm phục xuống như con gà dữ để đợi. Con Ngọc Thuần mổ vào nó thật mạnh, nó liền nhảy phắt lên như con hạc bay liệng để đánh lại. Khi tiến, khi lui, khi trên, khi dưới, cầm cự với nhau áng chừng một khắc, thì con Ngọc Thuần lơi dần, mà con Thuần của chàng giận càng sôi, đánh đá càng gấp. Chẳng mấy chốc bộ lông tuyết của Ngọc Thuần rụng xơ ra, rồi sã hai cánh chạy trốn. Cả ngàn người đứng xem, không ai là không tấm tắc khen ngợi. Vị Thân Vương bèn bảo bắt nó lên, thân hành cầm lấy xem xét một lượt từ đầu mỏ đến móng chân, rồi hỏi Thành rằng:
- Con chim này anh có bán không?
Thành đáp:
- Tiện nhân nghèo khó, phải nương nhờ vào nó mà sống, không dám bán.
Thân Vương nói:
- Ta trả giá cao, anh sẽ có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?
Thành cúi đầu suy nghĩ giây lâu mới nói:
- Thật quả không muốn để lại, nhưng nay Ðiện Hạ đã yêu thích nó; nếu khiến cho tiện dân được có ăn mặc, thì còn đòi gì hơn.
Thân Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lạng vàng. Thân Vương cười rằng:
- Cái anh ngốc này, nào có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng?
Vương nói:
- Ðiện hạ không cho nó làm báu, nhưng với hạ thần thì ngọc bích liên thành cũng chẳng bằng!
Thân Vương hỏi:
- Thế nào?
Thành đáp:
- Tiện dân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng, đổi thưng đấu gạo, một nhà mười miệng ăn, nhờ đó mà không đến nỗi đói rét, còn của báu nào bằng?
Thân Vương nói:
- Tôi không để anh thiệt đâu, thôi trả anh hai trăm đồng.
Thành lắc đầu; lại trả thêm một trăm. Thành đưa mắt nhìn chủ quán. Chủ quán không động đậy. Thành bèn nói:
- Thưa mệnh Ðiện Hạ, xin bớt một trăm.
Thân Vương nói:
- Thế thì thôi vậy, ai đời lại đem chín trăm lạng đổi lấy một con chim Thuần bao giờ?
Thành xách lồng chim lên định đi thì Thân Vương gọi:
- Này anh chọi chim, lại đây! Lại đây! Tôi dứt khoát trả anh sáu trăm đồng. Bằng lòng thì để, không bằng lòng thì thôi vậy!
Thành lại đưa mắt về phía chủ quán. Chủ quán vẫn điềm nhiên. Ý nguyện của Thành đã hoàn toàn thoả mãn, chỉ sợ nhỡ mất thời cơ, bèn nói:
- Với cái giá của Ðiện Hạ, thật không hài lòng, nhưng đã y ước với nhau mà lại không xong, sợ mắc lỗi thất kính càng lớn cực chẳng đã, xin y theo mệnh lệnh của Ðiện Hạ.
Thân Vương mừng rỡ, cho người cân vàng đưa ngay, Thành nhận vàng, lạy tạ mà đi ra. Chủ quán giận, trách rằng:
- Tôi bảo anh thế nào mà đã vội vã bán đi như thế ? Nếu kéo thêm một chút nữa thì đã có tám trăm cầm tay rồi!
Thành về nhà trọ, đặt vàng lên án mời chủ quán tự lấy. Chủ quán không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra, tính toán đủ tiền phí tổn ăn uống mà nhận.
Thành xắp đặt hành lý ra về.
Ðến nhà, thuật lại những việc đã làm, bỏ vàng ra cùng mừng với nhau.
Bà cụ bảo tậu ba trăm mẫu ruộng tốt, dựng nhà cửa, sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là một thế gia.
Bà cụ dậy sớm, đôn đốc cho Thành trông nom việc cày bừa, vợ trông nom việc canh cửi, hơi lơ là thì quát tháo, mà vợ chồng vẫn không hề oán thán.
Qua ba năm, nhà càng giàu, bà cụ ngỏ ý muốn đi, vợ chồng cố giữ lại, đến chảy nước mắt. Bà bèn ở lại.
Sáng ngày vào hầu, thì đã mất hút.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Anh Ninh
Dịch Giả : Nguyễn Huệ Chi
Vương Tử Phục, người La Ðiếm, huyện Cử. Sớm mồ côi cha, thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học nhà phán. Mẹ hết đỗi cưng yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Ðã hỏi con gái họ Tiêu, chưa cưới thì nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.
Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Ngô đến rủ đi chơi. Vừa ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Ngô về. Chàng thấy con gái đi chơi lũ lượt như mây, hứng lên cũng một mình ngao du.
Có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tưởng có thể vốc được. Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ. Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang nón cả giữ
- Người đâu mà mắt chòng chọc như giặc.
Rồi bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi. Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.
Ðến nhà đặt hoa dưới gối, gối đầu lên mà ngủ, không nói cũng không ăn. Mẹ đâm lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thịt gầy tóp. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.
Vừa lúc đó chàng Ngô đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi dò riêng xem sao. Ngô vào trước giường; vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. Ngô ghé sát bên giường an ủi, lân la gặng hỏi. Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. Ngô cười đáp:
- Anh cũng lại ngố rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! Ðể đấy tôi hỏi dùm cho. Cuốc bộ ở giữa đồng, thì hẳn không phải là con nhà thế gia. Nếu chưa có đám nào thì việc xong là cái chắc. Bằng không, cứ liều vứt nhiều tiền ra thì toan tính gì cũng phải thành. Chỉ cần anh thuyên giảm, xong việc là ở tôi.
Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười. Ngô trở ra bảo với bà mẹ rồi để dò tìm làng ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. Mẹ lo lắm, chẳng biết tính thế nào. Nhưng từ sau khi Ngô về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh, ăn uống đã có phần khá hơn .
Mấy hôm sau, Ngô trở lại. Chàng hỏi đã lo giúp đến đâu. Ngô vờ vịt nói:
- Xong rồi! Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em con nhà dì với anh đấy. Hiện vẫn còn đợi gả chồng. Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không xuôi.
Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Ngô:
- Thế ở làng nào?
Ngô thác rằng:
- ở trong núi, về phía Tây Nam cách đây ngoài ba mươi dặm.
Chàng lại dặn dò nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. Ngô cũng sốt sắng tự xin đảm nhận, rồi lui gót. Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục. Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. Mải mê cầm ngắm, tưởng như còn thấy được người.
Mãi sau lấy làm lạ sao Ngô không đến, bàn viết giấy mời, thì Ngô kiếm cớ chối từ không chịu đến. Chàng tức giận, buồn bã không vui. Mẹ lo bệnh con lại tái phát, vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày ngóng đợi chàng Ngô. Cuối cùng tin tức về Ngô cũng bặt, chàng càng thêm ức. Rồi bỗng vụt nghĩ rằng ba mươi dặm cũng chằng lấy gì làm xa, hà tất phải ỷ lại vào người khác. Bàn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà người nhà chẳng một ai hay.
Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Nam đi tới. Ðược chừng hơn ba mươi dặm, thấy núi mọc ngổn ngang, lô nhô chồng chất; xanh rợp tầng không, mát rợi da thịt; vắng vẻ tịch mịch không một bóng người, chỉ có đường chim bay. Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. Xuống núi, vào trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất thanh nhã. Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông đẳu tơ liễu, trong tường đào hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu lách chách ở trong. Chàng cho là nơi vườn cảnh của ai, không dám đường đột bước vào. Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch sẽ, bàn ngồi lên đó tạm nghỉ. Giây lát nghe phía trong tường có tiắng một người con gái dài giọng gọi: Tiểu Vinh , tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. Ðang chăm chú lắng nghe, thấy một cô gái từ phía Ðông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường đi chơi tiết Thượng Nguyên. Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ nghĩ không lấy cớ gì mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng
Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. Thỉnh thoảng thấy cô gái hé nửa mặt ra nhòm, tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:
- Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ. giả cần gì? Không đóy giờ.
Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:
- Ðịnh tìm thăm người bà con.
Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. Bèn hỏi:
- Vậy chứ quý vị thân thích họ gì ?
Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:
- Kỳ chưa! Ðến họ tên còn không biết thì biết bà con như thắ nào mà tìm thăm? Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi. Chi bằng hãy theo tôi vào đây, lót lòng lưng cơm hẩm; nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng được. Ðợi sáng mai vế hỏi lại cho biết họ gì, rồi đắn tìm thăm cũng chưa muộn.
Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gụi người đẹp, thì mừng quá, bèn theo bà già đi vào. Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng, hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thẳm. Quanh co đi về phía Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên đậu giàn hoa lan đầy giữa sân. Cung kính dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như lồng kính; ngoài song, những cành hoa hải đường thò vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không bóng lộn, sạch sẽ.
Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhòm trộm. Bà cụ gọi:
- Tiểu Vinh! Khá làm cơm mau!
Bên ngoài có tiắng dạ to của con hầu.
Ngồi đâu đấy rồi bàn bảy tỏ dòng dõi. Bà già hỏi:
- Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?
Ðáp:
- Thưa phải.
Bà cụ kinh ngạc nói:
- Thắ thì cậu là cháu của ta. Mẹ cậu là em gái ta. Mấy năm nay vì gia cảnh bần hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để đến thưa bẵng đi. Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.
Chàng đáp:
- Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất cả họ.
Bà cụ đáp:
- Già đây lấy về họ Trần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái, cũng là con dì hai nó sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. Kể cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết buồn lo gì cả. Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.
Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ đang độ béo. Bà cụ ngồi tiếp chàng; cơm xong rồi con hầu lại đến dọn đi. Bà bảo:
- Gọi cô Ninh ra đây!
Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiắng cười, bà cụ lại gọi:
- Anh Ninh! Có người anh con dì mày ở đây đấy!
Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn còn che miệng cười không nín được. Bà già chừng mắt bảo:
- Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế?
Cô gái nhịn cười đứng yên. Chàng vái chào. Bà cụ nói:
- Ðây là cậu Vương, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau, thế mới đáng cười chứ!
Chàng hỏi:
- Em đây năm nay bao nhiêu tuổi?
Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại. Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:
- Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn ngây dại như trẻ con.
Chàng đáp:
- Thua cháu một tuổi.
Bà nói:
- Cháu đã mười bảy rồi, thắ chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?
Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:
- Thế vợ cháu là ai?
Ðáp rằng:
- Vẫn ở không ạ!
Bà bảo:
- Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.
Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Anh Ninh, không còn rời đi đâu một chớp. Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:
- Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cấm không có thay đổi.
Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:
- Ta đi xem bích đào nở chưa đi!
Rồi vụt đứng ngay dậy, láy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi cửa rồi tiếng cười mới phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu để xắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:
- Cháu một lần đắn không phải dễ, hẵng ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn mày về. Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.
Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ mịn như rải thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn chung quanh. Ðang luôn trong hoa nhích từng bước, chợt nghe trên ngọn cây có tiếng khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên đó, thấy chàng đến cười rũ lên muốn ngã. Chàng vội kêu:
- Ðừng thế, ngã đấy!
Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. Gần đến đất, tuột tay ngã, tiếng cười mới tắt. Chàng đỡ dậy, ngầm chạm vào cổ tay, lại rũ ra cười, phải dựa vào thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. Chờ cho ngớt cơn cười, chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:
- Khô rồi, còn giữ làm gì?
Vương đáp:
- Ðây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.
Anh Ninh hỏi:
- Giữ thế là có ý gì
Vương đáp:
- Ðể tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được gặp, cứ tơ tưởng đến thành bệnh. Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt. Xin hãy rủ lòng thương xót.
Cô gái đáp:
- Ðấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. Ðợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.
Chàng nói:
- Em ngây đấy ư?
- Thế nào là ngây?
Vương đáp:
- Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.
Nàng nói:
- Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?
Chàng đáp:
- Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu vợ chồng kia.
Cô gái nói:
- Có gì khác nhau sao?
Vương đáp:
- Ðêm thì cùng chung chăn gối.
Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi giây lâu, nói:
- Em không quen ngủ với người lạ
Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi. Lát sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò chuyện.
Bà cụ hỏi:
- Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?
Nàng đáp:
- Anh cả muốn cùng con ngủ chung.
Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng ngay lại. May bà già không nghe rõ, còn phải lẵng nhẵng hỏi lại. Chàng vội đem chuyện khác lấp liếm đi. Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. Cô gái hỏi:
- Thế chuyện ấy không nên nói à?
Chàng đáp:
- Ðó là chuyện phải giấu người khác.
Nàng bảo:
- Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường, việc gì phải kiêng không nói.
Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.
Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. Số là, bà mẹ đợi lâu không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Ngô. Ngô nhớ ra lời mình nói trước đây, liền bảo đến xóm núi Tây Nam mà tìm. Ði lần qua hết mấy hôm mới đến được đây. Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô gái về cùng. Bà cụ mừng nói:
- Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. Nay được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá
Bàn gọi Anh Ninh., Ninh cười, bước ra. Bà nói:
- Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? Giá không cười thì cũng được là người toàn vẹn rồi đấy.
Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:
- Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!
Lại dọn cơm rượu thắt đãi người giai nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:
- Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. Ðến đấy hãy khoan về, cố học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm cho mày một tấm chồng xứng đáng.
Hai người bàn khởi hành. Ðến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ tựa cửa trông về hướng Bắc.
Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai. Chàng đáp là con bà dì. Mẹ nói:
- Những điều anh Ngô nói với con dạo trước là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, sao lại có cháu con dì được?
Hỏi cô gái, nàng đáp:
- Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã, nên không thể nhớ được gì.
Bà mẹ nói:
- Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn được?
Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.
Lại ngờ ngợ mà nói:
- Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?
Giữa lúc đang ngẫm nghĩ nghi hoặc thì chàng Ngô đến, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:
- Cô gái này có phải tên là An Ninh không?
Chàng bảo phải. Ngô vội nói ngay là chuyện lạ lùng. Hỏi vì sao mà biết. Ngô đáp:
- Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. Hồ sinh một gái tên là An Ninh, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả. Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau xin bùa của thiền sư dán lên vách, hồ mới ôm con gái bỏ đi. Chẳng lẽ lại là đấy chăng?
Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìêu còn nghi ngờ. Chỉ nghe buồng trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của An Ninh. Bà mẹ bảo:
- Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!
Ngô xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại. Mẹ giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới ra được. Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười to. Ðàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.
Ngô xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi. Ngô nhớ lại nơi chôn bà cô, phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đẫ bị lấp mất, chẳng còn nhận ra được, đành thở than mà quay về.
Bà mẹ ngờ cô gái là ma. Vào buồng thuật lại những lời Ngô vừa nói, nàng không mảy may tỏ sợ hãi. Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu, cứ rúc rích cười hoài mà thôi. Mọi người không mảy may tỏ
Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công, tinh xảo không ai bì. Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy cũng vui thích. Ðàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.
Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhòm xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. Ðến ngày đã định, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. Cô gái cười quá, không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi.
Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.
Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết. Ðầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đắn nói chuyện với mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha. Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi, để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.
Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn thường vin cây trào lên, hái hoa cài đầu chơi. Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng, mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy, ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. Cô gái không tránh mặt mà lại cười. Con trai nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. Nàng chỉ tay vào chân tường, rồi cười mà trèo xuống. Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi hò hẹn, sướng quá đỗi. Ðến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. Sáng đêm hành dâm, thì chỗ kín như bị mũi dùi đâm, đau buốt đắn tận tim, kêu rú lên mà ngã vật ra. Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc rịn nước. Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. Vợ đến, mới chịu nói thực. Ðốt đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. Ông bố bổ cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì rằng
Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh, cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. Chàng xin cho, mới được phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:
- Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. May được quan huyện sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?
Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ nay không cười nữa. Mẹ bảo:
- Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.
Thế mà từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười, nhưng suốt ngày chưa hề lúc nào có vẻ mặt đăm chiêu.
Một đêm, nàng nhìn chàng ứa nước mắt. Chàng lấy làm lạ, thì nàng nghẹn ngào nói:
- Trước đây, vì gần gũi chưa lâu, nói ra sợ cho là quái gở mà đâm hoảng. Nay xét ra, mẹ và chàng đều quá yêu, không có bụng gì khác, đành xin thưa thực, may không hại gì chăng? Thiếp vốn do hồ sinh ra. Lúc mẹ thiếp sắp bỏ đi, đem thiếp gửi lại cho bà mẹ ma, nương nhờ nhau đã hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào một mình chàng. Mẹ già nằm cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót mà hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc chút phí tổn, khiến cho người nằm dưới đất tiêu tan được khối hận đó, thì ngõ hầu những kẻ nuôi con gái vế sau không còn nỡ đem con dìm nước bỏ đi nữa.
Chàng nhận lời, nhưng lo phần mộ đã bị lẫn, giữa cỏ rậm. Cô gái nói rằng không lo. Bèn định ngày, vợ chồng xe quan tài đem đi. Giữa đám mây khói hoang vu, gai góc chằng chịt, cô gái chỉ đúng phần mộ,quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng ôm lấy khóc thảm thiết. Rồi cùng đưa về, tìm mộ người chồng họ Tần mà hợp táng.
Ðêm hôm đó chàng nằm mơ thấy bà già trở về tạ ơn. Tỉnh dậy thuật lại với nàng. Nàng đáp:
- Hồi đêm thiếp có trông thấy, chỉ dặn đừng làm chàng kinh động mà thôi.
Chàng ân hận không giữ bà cụ lại chơi. Nàng đáp:
- Ðấy là ma, nơi có người sống nhiều, khí dương thịnh, ở lâu sao được?
Chàng hỏi đến Tiểu Vinh. Nàng đáp:
- Nó cũng là hồ, rất linh lợi, mẹ hồ thiếp giữ lại để trông nom thiếp, thường vẫn đút bánh cho thiếp ăn, nên nhớ ơn nó không bao giờ quên. Ðêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nói rồi.
Từ đó hàng năm, gặp ngày hàn thực vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần khấn vái quét dọn, không năm nào bỏ sót. Ðược hơn một năm, cô gái sinh được một con trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười, hệt như phong thái của mẹ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Không đề
Dịch Giả : Cao Xuân Huy
Tôn Tử Sở người Việt Tây là một danh sĩ, sinh ra có một ngón tay chẽ, lại có tính vẩn vơ, lẩn thẩn, ai nói dối điều gì cũng tin là thật, hoặc khi gặp đám tiệc mà có ca nhi kỹ nữ thì từ xa nhác thấy đã bỏ chay. Có người thấy vậy, dụ chàng đến nhà, cho kỹ nữ đến ôm ấp để bỡn chàng chơi thì mặt đỏ đến tận cổ, mồ hôi chảy xuống thành giọt. Họ nhân đó cười với nhau, rồi xa gần chuyền nhau vẽ vời cái trạng mạo ngây ngô của chàng để làm một trò cười, lại đặt cho chàng cái tên Tôn khờ.
Trong huyện có ông nọ là nhà buôn lớn, giàu lướt cả vương hầu, thông gia họ mạc đều là dòng dõi quý phái. Ông cụ có một con gái tên là A Bảo, là người tuyệt sắc. Ðến tuổi kén duyên, con cái các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ đến giạm, nhưng không ai vừa ông cả. Chàng Tôn bấy giờ vừa goá vợ, có người đùa nên cậy mối đến hỏi. Chàng không biết phận, quả nhiên nghe theo lời khuyên. Ông cụ vốn biết tiếng chàng nhưng chê nghèo. Khi mụ mối vừa ở chỗ ông đi ra thì gặp A Bảo, hỏi đi đâu, mụ nói thật. Cô gái nói bỡn rằng:
- Nếu chàng ta bỏ được ngón tay chẽ đi thì tôi về với ngay.
Mụ về kể lại với chàng. Chàng nói:
- Cái đó thì khó gì.
Mụ đi rồi, chàng lấy búa chặt ngón tay chẽ, đau thấu ruột, máu phụt ra chảy lênh láng, suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, sang nhà mụ mối chìa tay xem. Mụ thất kinh, chạy sang nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng lại nói bỡn rằng còn phải bỏ cái ngây đi nữa. Mụ về nói lại, chàng cãi ầm lên, bảo nào tôi có ngây đâu! Nhưng cũng không có cớ gì gặp mặt để tự giãi bày. Dần dà bàn chuyện , nghĩ rằng cô nàng Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên sao dám tự đánh giá mình quá cao như vậy? Từ đó lòng chàng nguội hết mộng tưởng trước.
Vừa gặp tiết Thanh Minh, lệ thường cứ đến ngày ấy phụ nữ đi chơi, những thiều niên khinh bạc cũng kết thành từng đội đi theo, tha hồ bình phẩm. Mấy người bạn làng văn đến rủ chàng, bắt đi cho được. Có người lại nói đùa rằng:
- Lại không muốn xem mặt người mình ưng hay sao?
Chàng cũng biết hắn nói bỡn mình, nhưng vì đã bị cô gái hợm hĩnh đùa cợt nhiều phen, nên cũng muốn nhìn mặt một lần xem sao, bèn vui vẻ nhập bọn đi tìm.
Thấy đằng xa có một cô gái đang nghỉ dưới gốc cây, những cậu trai mất nết vây quanh như bức tường. Cả bọn nói:
- Chắc là cô nàng Bảo đấy rồi.
Chàng rảo bước đến xem thì quả là Bảo. Nhìn kỹ, thì thấy vẻ xinh đẹp yểu điệu có một không hai. Một lát, người xem lại càng xúm đông. Cô gái vội đứng dậy bỏ đi. Mọi người đều nhộn nhạo bàn tán, kẻ khen cái đầu, người tán cái chân, nhao nhao cả lên như một lũ điên. Chỉ riêng chàng là đứng lặng lẽ. Ðến lúc cả bọn đã tản đi nơi khác, ngoái lại, vẫn trông thấy chàng vẫn đứng ngây ra ở chỗ cũ, gọi chẳng thưa, chẳng rằng. Họ bàn kéo nhau đi, nói:
- Hồn theo A Bảo rồi ư?
Cũng không đáp. Biết tính chàng vốn lẩn thẩn, nên họ cũng không thấy làm lạ, người thì đẩy, người thì kéo, dẫn về.
Ðến nhà thì lên ngay giường nằm, suốt ngày không dậy, li bì như người say rượu, gọi mấy cũng không tỉnh. Người nhà nghi là mất hồn, đi gọi hồn ở ngoài đồng, nhưng cũng vô hiệu. Lay người thật mạnh để hỏi thì ú ớ nói rằng: Tôi ở góc nhà cô Bảo.
Hỏi kỹ lại thì lại làm thinh không nói nữa. Người nhà hoang mang không biết ra sao.
Nguyên hôm ấy, khi chàng thấy cô gái đứng dậy, bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, bỗng cảm thấy mình đã bén gót đi theo rồi; dần dần đi sát vào cạnh tà áo, đai lưng, cũng không ai la mắng gì cả. Cứ như thế, theo mãi cô ta về nhà, khi ngồi khi nằm đều tựa kề một bên, đêm lại thì cùng ân ái, rất lấy làm thích; nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Còn nàng thì mỗi lần chiêm bao thấy mình giao hợp với một người nào đó,hỏi tên nói là Tôn Tử Sở, lòng lấy làm lạ, nhưng không thể nói với ai được.
Ở bên nhà, chàng đã nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Người nhà hoảng lên, cho lấy lời mềm mỏng đến nói với ông cụ xin tới nhà để chiêu hồn cho chàng. Ông cụ cười rằng:
- Bình nhật không từng vãng lai thăm hỏi gì cả, làm sao mất hồn ở nhà tôi được?
Người nhà năn nỉ van lơn mãi, ông mới chịu. Thầy pháp cầm áo cũ và đồ cúng bằng rơm sang nhà, cô gái bắt gặp, hỏi biết lý do, mặt thất sắc, không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, để cho mặc y kêu gọi xong rồi ra. Thầy pháp vừa về đến cửa thì ở trên giường chàng đã rên lên một tiếng. Tỉnh rồi, phòng nàng có bao nhiêu tráp hương, hộp phấn, bao nhiêu đồ đạc, sắc gì, tên gì, kể ra vanh vách không sai. Nàng nghe tin lại càng kinh hãi và thầm cảm cái thâm tình của chàng. Chàng đã dậy khỏi giường được rồi thì khi đứng khi ngồi, trầm ngâm nghĩ ngợi chợt nhớ chợt quên. Thường thăm dò tin tức cô Bảo, chỉ mong tìm được cơ hội để gặp lại.
Ðến ngày tắm Phật nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyên, chàng dậy thật sớm, đến đứng ở một bên đường chờ nàng đi qua. Trông ngóng đến hoa cả mắt, mãi khi mặt trời đứng ngọ, nàng mới đến, ngồi trong xe dòm ra thấy chàng, lấy bàn tay xinh nhỏ vén màn, mắt nhìn đăm đắm không chuyện. Chàng càng xao xuyến, đi theo xe luôn. Nàng bỗng sai thị nữ đến hỏi họ tên. Chàng ân cần kể lại. Hồn vía rung chuyển, xe đi đã xa rồi mới quay về. Ðến nhà thì ốm trở lại, mê man không ăn uống, trong giấc mơ thường gọi tên Bảo, những giận hồn mình sao không thiêng như trước nữa. Trong nhà nguyên có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa bé cầm chơi ở trên giường. Chàng nghĩ nếu thân được làm con vẹt th
 
Thích đọc sách giấy hơn cơ mà chưa có ai tặng cho cả :v. Ngày trước ở 1 mình nửa đêm đọc trên điện thoại rồi xong đêm đầu tiên thức nguyên đêm luôn :v
 
Liêu trai chí dị (tiếp)

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hằng Nương

Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị, nhan sắc khá đẹp, hai bên đều yêu quý nhau. Sau Hồng lấy cô hầu gái Bảo Đới làm vợ lẽ, diện mạo kém xa Chu thị nhưng Hồng lại yêu nhiều. Chu thị lấy làm bất bình, vì thế vợ chồng sinh bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ngủ lại buồng vợ bé, nhưng càng bênh chiều cô ta mà cách xa Chu thị. Sau họ dời nhà, làm hàng xoqm với một người buôn lụa họ Địch.

Vợ Địch là Hằng Nương, sang thăm Chu thị trước. Hằng Nương trạc tuổi ba mươi, nhan sắc chỉ trung bình nhưng nói năng nhẹ nhàng dể ưa, Chu thị rất mến. Hôm sau sang đáp lễ, Chu thị thấy nhà này cũng có vợ bé, tuổi chừng đôi mươi lại rất xinh đẹp. Ở cạnh nhà nhau gần nửa năm, Chu thị tịnh không nghe một lời chửi mắng nào cả, còn Địch chỉ yêu quý có một mình Hằng Nương, cô vợ bé có cũng như không .

Một hôm, Chu thị sang Hằng Nương chơi, hỏi rằng:

- Em trước đây cho rằng chồng yêu vợ bé, là vì cái người giữ phận bé ấy thường chỉ muốn đổi cách xưng hô "vợ cả " thành "vợ lẽ" nay mới biết không phải. Chị có thuật gì thế, nếu có thể truyền được thì em xin ngoảnh mặt về phương Bắc (*) làm học trò của chị.

Hằng Nương đáp:

- Hừ, chị tự xa cách rồi lại trách chồng phải không ? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim vào bụi (**), càng cách xa nhau hơn. Chị cứ về thả lỏng cho họ, dù anh ấy có tự đến cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng, em sẽ liệu tính cho chị.
Chu thị theo lời, càng trang điểm cho Bảo Đới, cho cùng ngủ với chồng. Mỗi khi chồng ăn uống thức gì đều cho Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng săn đón thì Chu thị lại cố tình từ chồi, thế là ai nấy đều khen Chu thị hiền. Như thế được hơn một tháng, Chu thị sang thăm Hằng Nương. Hăng Nương vui mừng mà rằng:

- Được đấy, bây giờ về nhà chị bỏ hết trang sức, không mặc đẹp, không phấn son để mặt bẩn, đi giày rách, cùng làm lụng với bọn người nhà, một tháng sau hãy sang đây.

Chu thị nghe theo, mặc áo vá, cố ý luộm thuộm, bẩn thỉu, chỉ biết dệt vải, ngoài ra không hỏi han gì đến. Hồng thương tình, sai Bảo Đới chia sẻ việc nặng nhọc, nhưng Chu thị gắt gỏng bảo về. Như thế được một tháng, lại sang gặp Hằng Nương. Hằng Nương bảo:

- Cô bé này dạy bảo được đấy! Ngày kia là tết Thượng Tỵ (***) muốn rủ chị cùng đi chơi hội xuân. Chị nên trút hết quần áo rách ra, tất dép áo quần thay mới một loạt rồi sơm sớm sang đây nhé!

Chu thị xin vâng . Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy làm như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong, sang nhà Hằng Nương. Hằng Nương mừng rỡ khen:

- Khá lắm!

Rồi Hằng Nương búi hộ tóc hình cánh phượng, mượt bóng như gương soi, kiểu giày vụng thì lấy những mảnh giày của nhà từ trong rương ra ghép thành (****), xong đâu đấy liền bảo thay đổi...

Trước khi chia tay ra về, nàng mời Chu thị uống rượu rồi dặn:

- Lúc về giáp mặt anh chàng xong là lập tức đóng cửa đi ngủ cho sớm, chàng ta đếm gõ cửa cũng chớ mở ra. Ba lần gọi mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn những khi môi tìm lưỡi tay tìm chân. Nửa tháng sau hãy sang đây.

Chu thị về nhà ăn mặc cực đẹp ra mắt chồng. Hồng ngắm vợ từ trên xuống dưới, tươi cười khác hẳn ngày thường. Chu thị kể sơ qua buổi đi chơi rồi ngồi đỡ má r chiều mệt mỏi. Trời chưa nhá nhem đã đứng dậy đi về buồng cài cửa đi nằm. Lát sau quả nhiên Hồng đến gõ cửa, Chu thị cứ nằm không chịu dậy, Hồng đành bỏ đi. Tối sau cũng thế. Sáng thứ ba, Hồng trách vợ, Chu thị đáp:

- Ngủ một mình quen mất rồi, không kham nổi quấy rầy.

Hôm ấy, trời vừa xế bóng, Hồng đã vào buồng vợ ngồi chờ sẵn, rồi tắt nến lên giường như buổi tân hon, ái ân khôn xiết. Hồng hẹn đêm sau lại đến, Chu thị không chịu được mãi, mới ước với Hồn ba ngày một lần. Khoảng nửa tháng, Chu thị sang gặp Hằng Nương.

Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò với Chu thị rằng:

- Từ nay chị có thể độc chiếm anh ấy được rồi. Có điều chị tuy đẹp, nhưng chưa thật duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên nữa thì giành được cả lòng sủng ái đối với Tây Thi, huống hồ là người kém hơn.

Đoạn Hằng Nương bảo Chu thị liếc thử, rồi nói:

- Không phải thế! Cạnh ngoài mí mắt chưa ổn.

Bảo cười thử, rồi nhận xét:
- Không phải thế! Má bên trái chưa được.

Bèn dùng khóe thu ba lộ vẻ yêu kiều, mím miệng cười tươi hé hai hàng ngọc, bảo Chu thị bắt chước, đến mấy chục lần mới hơn giông giống. Hằng Nương bảo:
- Chị về đi rồi soi gương mà tập cho thành thạo, phép thuật chỉ có thế mà thôi. Còn như khi ở trên giường tuy cơ mà khơi động, tùy sở thích mà ứng theo, những điều ấy không thể dùng lời mà truyền cho nhau được.

Chu thị về nhà làm đúng như lời Hằng Nương dạy bảo. Hồng ưng ý lắm, si mê hình thể lẫn nhan sắc của vợ, chỉ sợ vợ cự tuyệt. Trời xế chiều là ngồi trước mặt nhau trò chuyện vui cười không chịu rời phòng khuê đến nửa bước, ngày nào cũng thế, không làm sao đâỷ đi chỗ khác được. Chu thị càng ưu đãi Bảo Đới hơn, mỗi khi bày tiệc trong phòng đều bọi Bảo Đới cùng ngồi chung giường, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã cho cô ta ra ngoài. Chu thị lại dụ Hồng vào buồng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng Hồng không hề động đến, do đó Bảo Đới giận Hồng, gặp ai oán thán, khiến Hồng càng tức giận ghét bỏ, dần dần đến đánh đập cô ta. Bảo Đới phẫn uất, bỏ cả trang điểm, ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, đầu tóc như đám cỏ rối, nên càng không thể nói năng gì đến người khác nữa.

Một hôm Hằng Nương hỏi Chu thị:
- Chị thấy thuật của em thế nào?
Chu thị đáp:
- Đạo thầy thật tuyệt diệu nhưng đệ tử này chỉ có thể làm theo mà rốt cuộc vẫn chưa thể hiểu được. Thả lỏng là vì sao?
- Chị chẳng nghe nói con người ta thường thích mới bỏ cũ, khó khăn coi trọng, dễ dàng coi thường đó sau? Chồn yêu vợ lẽ không cứ vì cô ta đẹp, mà vì chợt đươc nếm thì thấy ngọt, khó được gặp thì thấy mong. Thả lỏng cho no nê thì sơn hào hải vị cũng còn chán huống hồ là loại rau mọc dại.
- Bỏ hết trang điểm, sau lại chải chuốt cho cực đẹp là cì sao?
- Bỏ đấy không để mắt đến nữa thì tựa hồ xa nhau lâu ngày; bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như vừa mới đến, khác nào người nghèo đột nhiên được nếm món ngon, ắt thấy gạo lức chả còn mùi vị gì. Rồi lại không dễ dàng cho nếm ngay, thì kẻ kia cũ mà mình mới, kẻ kia dễ dải mà mình khó khăn. Đấy chính là đổi vợ thành thiếp vậy.
Chu thị mừng lắm, từ đó coi Hằng Nương là bạn tin cẩn chốn khuê phòng. Được mấy năm Hằng Nương bỗng bảo bạn rằng:
- Hai tâm tình đã như một, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích. Trước đâyđã toan nói nhưng sợ chị nghi ngại. Nay sắp từ biệt nhau, dám xin nói thật, em chính là hồ. Thuở nhỏ em gặp cái nạn mẹ kế, bán em lên đô thành. Chồng em đối với em rất hậu tình nên em không nỡ dứt tình ngay, lưu luyến đến nay. Ngày mai cha em thoát xác lên tiên, em phải tới thăm, không trở lại nữa.
Chu thị sụt sùi cầm tay Hằng Nương. Sáng sớm hôm sau sang thăm thì cả nhà bên ấy đang hoảng hốt kinh sợ vì không thấy Hằng Nương đâu nữa.

Dị sử bàn rằng:
Người mua ngọc không quý ngọc mà quý cái hộp đựng ngọc (*****). Tình người đối với mới, cũ, khó dễ vẫn là điều lạ lùng kỳ quặc mà từ nghìn xưa đến nay vẫn chưa phanh phui hết được. Nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu thì đã được đem dùng trong thế gian. Đời xưa, bọn nịnh thần thờ vua, ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, do đó biết rằng giữ mình trong sự sủng ái lâu bền cũng là một tâm thuật truyền thụ được vậy.

Chú thích
(*) Xưa, vua bao giờ cũng ngòi quay mặt về phương Nam. Ở đây ý nói học trò ngoảnh mặt về phương Bắc, tỏ ý kính trọng thầy như vua.
(**) Chữ trong Mạnh tử, ý nói làm người tốt xa lánh mình.
(***) Tức tết mồng ba tháng ba âm lịch, ở nước Trịnh thời xưa, vùng Thượng nguồn sông Trăn sông Vĩ, người ta tổ chức du Xuân, tay cầm cành hoa Lan để gọi hồn người chết, và trừ tà cầu phúc.
(****)Giày vải do phụ nữ khâu tay.
(*****) Ngụ ngôn đời xưa kể rằng người nước Sở sang nước Trịnh bán ngọc, dùng gỗ thơm làm hộp đựng ngọc, trang trí rất đẹp. Người nước Trịnh thấy cái hộp đẹp bèn mua hộp mà trả lại ngọc.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Con Trai người lái buôn ( Cổ Nhi)

Ông nọ người đất Sở (*) ra xứ ngoài buôn bán. Vợ ở nhà một mình, đêm nằm mơ thấy giao hợp với người lạ. Tỉnh dậy sờ thì ra một người đàn ông bé nhỏ. Xem cung cách khác với người thường, biết là hồ. Một lát sau bước xuống giường mà đi, cửa chưa mở đã mất hút. Đến tối phải bảo vú già vào ngủ chung. Có đứa con trai mười tuổi, từ trước vẫn ngủ ở giường khác, cũng gọi đến cùng ngủ. Đêm đã khuya, vú già và con đã ngủ cả, hồ lại đến, người đàn bà ú ớ như nói mê. Vú già biết vội hô lên, hồ mới đi.
Từ đó, người cứ ngẩn ngơ như đánh mất một vật gì. Tối đến không dám tắt đèn, dặn con không được ngủ say. Đêm khuya, con và vú già dựa lưng vào tường ngủ chợp đi, một lát tỉnh dậy, mẹ đã biến mất. Tưởng đi tiểu tiện, đợi lậu không thấy trỏ vào mới sinh nghi. Vú già sợ không dám đi tìm, thằng con cầm đèn đi soi khắp nơi. Đến một gian buồng khác thì thấy mẹ trần truồng nằm trong đó. Lại gần nâng dậy cũng không biết xấu hổ.

Từ đó hóa điên hát, khóc, chửi, mắng, mỗi ngày hàng vạn cách; đêm không muốn ở chung với người, cho con ngủ giuờng khác, vú cũng cho đi chỗ khác. Đứa con mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói, thì dậy châm lửa soi. Mẹ tức giận mắng con, con cũng chẳng để ý, vì vậy ai cũng cho rằng đứa bé gan dạ.

Nhưng thằng bé lại hay đùa nghịch quá chừng, hàng ngày bắt chước người thợ đấu (**) lấy gạch đá xếp lên cửa sổ. Ngăn nó, nó không nghe. Hoặc rút một hòn đá của nó đi, nó liền lăn ra đất kêu khóc, cho nên không ai dám chọc tức nữa. Qua mấy hôm sau, hai cửa sổ đều bị lấp kín, không còn chút ánh sáng lọt qua. Thế rồi, nó mới lấy bùn chít che tường hở, suốt ngày quần quật không sợ mệt. Chít xong, không có việc gì làm, liền lấy dao làm bếp ra mài xoèn xoẹt. Ai trông thấy cũng ghét cho là gàn bướng, không coi ai ra người nữa.

Đến nửa đêm, thằng bé dấu dao vào bụng, chụp quả bầu lên cây đèn. Đợi mẹ nói mê, lập tức mở đèn ra, chặn cửa buồng kêu to lên. Một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, liền rời khỏi cửa, vờ nói to lên là muốn đi tiểu tiện. Bỗng có một vật như con cáo từ khe cửa vọt ra. Vội chém nó, chỉ đứt được khúc đuôi, dài độ hai tấc, máu còn nhỏ giọt.
Mới đầu nó vừa dậy khêu đèn mẹ nó đã mắng chửi, đứa bé làm như không nghe; chém không trúng hồ nó buồn giận đi ngủ. Tự nghĩ tuy không chém chết ngay được, nhưng có thể may ra nó không đến nữa. Đến sáng, xem vết máu thấy leo qua tường mà đi. Lần theo thấy vào tường nhà họ Hà. Đêm đến quả nhiên không thấy gì nữa. Thằng bé mừng thầm, nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như người chết vậy.

Không bao lâu, người lái buôn vế, đến bên giường thăm hỏi, vợ chửi mắng coi như cừu thù. Thằng bé kể chuyện lại, ông bố kinh sợ, mời thầy lang về chữa. Vợ hắt bát thuốc đi chửi mắng thậm tệ. Ngầm lấy thuốc bỏ vào nước thang (***) cho uống lẫn, mấy ngày sau, dần dần yên, hai bố con đều mừng.

Một đêm, tỉnh giấc dậy, người đàn bà lại biến mất Hai bố con lại tìm thấy ở buồng khác. Từ đó lại điên, không muốn ngủ cùng buồng với chồng nữa. Gần tối là chạy sang buồn khác, giữ lại càng mắng chửi thậm tệ. Chồng không làm cách nào được, phải đóng tất cả cá buồng khác lại. Người đàn bà chạy đến thì tự dưng cửa mở ra. Chồng rất lo sợ, cầu cúng đủ cách cũng không hiệu nghiệm tý nào.

Một hôm gần tối, đứa bé lẻn đến giường họ Hà, nấp trong bụi rình xem hồ ở đâu. Trăng vừa lên, bỗng nghe có tiếng người nói, lén vạch cỏ nhòm, thấy hai người đến uống rượu, một người đầy tớ râu dài bê hồ rượu, áo màu lá cọ. Tiếng nói rầm rì nhỏ quá không nghe được rõ. Một lúc nghe thấy một người nói:

- Ngày mai hãy mang lại đây một nậm rượi trắng.

Lại một lúc nữa hai người đều bỏ đi, duy chỉ có lão râu dài ở lại, cởi aó nằm trên tảng đá trong vườn. Nhìn kỹ tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi thò ra đàng sau. Thằng bé muốn về nhưng sợ hồ biết, đành nấp suốt đêm. Trời chưa sáng, lại nghe thấy hai người lục đục trở lại, tiếng nói lí nhí đi vào trong bụi trúc. Thằng bé mới trở về. Bố hỏi đi đâu, đáp:
- Ngủ ở nhà bác.

Bỗng một hôm, theo bố vào chợ, thấy hàng mũ có treo cái đuôi chồn, liền xin bố mua cho. Bố không nghe. Nó cứ kéo áo bố, nằn nì đòi mua. Bố không nỡ phật ý, bèn mua cho. Bố buôn bán trong cửa hàng, con đùa nghịch ở bên cạnh. Thừa lúc bố ngoảnh đi chỗ khác, thằng bé lấy cắp tiền, đi mua rượi trắng gửi lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn nghề săn bắn. Nó chạy đến nhà cậu, cậu di vắng. Mợ hỏi bệnh mẹ, nó đáp:

- Mấy hôm nay đã khá lớn. Nhưng chuột cắn quần áo, mẹ cháu giận, khóc mãi không nguôi, nên sai cháu xin tí thuốc đánh bả thú(****).

Mợ mở hòm lấy độ một đồng cân, gói lại đưa cho thằng bé. Nó cho là ít. Nhân lúc mợ đi làm mì nước cho cháu ăn, nó nhìn trộm nhà không có người, liền mở gói thuốc, trộm lấy một vốc, giấu vào trong bọc, đoạn ra bảo mợ đừng nhóm bếp nữa:
- Bố cháu đợi cháu ở chợ, cháu chả kịp ăn đâu.

Nói xong đi ngay. Nó lén bỏ thuốc độc vào trong rượu, rồi đi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Bố hỏi đi đâu, nói thác là ở nhà cậu.
Từ đó thằng bé ngày ngàyđi chợ chơi. Một hôm thấy người râu dài cũng lẫn trong đám đông. Nó nhìn kỹ quả đúng, liền ngầm theo sát nút. Dần dà nói chuyện với lão. Lão đáp:
- Ở thôn Bắc.
Lão cũng hỏi lại thằng bé, nó vờ đáp rẳng:
- Ở trong hang núi.
Lão râu dài thấy nó ở trong hang núi, lâý làm lạ. Thằng bé cười nói:
- Nhà tôi đời đời ở trong hang núi, ông cũng thế chứ không ư?
Người đó càng kinh ngạc , hỏi họ nó, thằng bé đáp:
- Tôi là con họ Hồ, hình như đã từng gặp ông ở đâu, theo sau hai chàng trè tuổi, ông quên rồi ư?
Người đó nhìn kỹ thằng bé nửa tin nửa ngờ. Thằng bé khẽ vạch đũng quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói:
- Bọn mình trà trộn giữa giống người, chỉ cái của này là vẫn còn, thật cũng đáng bực.
Người đó hỏi:
- Đi chọ làm gì?
Thằng bé nói:
- Bố sai tôi đi mua rượu.
Lão bảo lão cũng đi mua rượu. Thằng bé hỏi:
- Mua chưa?
Đáp:
- Bọn tôi phần lớn đều nghèo, nên thường đánh cắp nhiều hơn mua.
Thằng bé nói:
- Việc ấy kể cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ.
Người đó nói:
- Chủ sao làm, không thể không làm được.
Thằng bé nhân đấy lại hỏi:
- Chủ là ai?
Đáp:
- Thì là anh em người trẻ tuổi hôm nào chú nhìn thấy đó. Một người thì dang díu với vợ chàng Vương ở ngaòi cửa Bắc, còn một người thường ngủ nhà ông nọ ở thôn Đông. Chẳng may gặp thằng bé con nhà ông ta dữ quá, bị chém đứt đuôi, mười ngày mới khỏi, bây giờ lại mò đến rồi.
Nói xong toan đi, bảo rằng:
- Đừng làm lỡ việc của lão nhé.
Thằng bé nói:
- Lấy trộm khó lắm, chi bằng mua dễ hơn. Tôi đã mua trước gửi ở trong quán, xin tặng ông đấy. Túi tôi còn thừa tiền, không lo gì chuyện mua cả.
Lão thẹn vì chẳng có gì trả ơn. Thằng bé nói:
- Chúng ta vốn cùng loài, làm gì một tý đó, lúc nào rỗi còn phải chén với ông một bữa say khướt.
Liền cùng đi lấy rượu đưa cho rồi về.
Đến đêm mẹ quả ngủ yên, không chạy đi đâu nữa.
Bụng biết là có chuyện lạ, liền bảo bố cùng đi xem; thì thấy có hai chú hồ chết ở trên ngôi đình. Một con hồ nữa chết trong đám cỏ, máu còn ròng ròng nơi miệng,. Bình rượu cũng ở gần đó, cầm lên lắc, vẫn chưa hết. Ông bố lấy làm lạ, hỏi:
- Sao không bảo trước?
Thằng bé đáp:
Giống này cực thính, hơi lộ là nói biết ngay.
Bố mừng nói:
- Con ta có cái mưu đánh hồ của Trần Bình (*****) đây!
Hai bố con đem xác hồ về. Thấy một con cụt đuôi vết dao còn rõ.
Từ đó mới yên, mà người đàn bà gầy ốm quá, dần dần tỉnh ra, nhưng ho càng nặng, khạc ra hàng đấu đờm, chẳng bao lâu rồi chết. Vợ chồng họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ trêu ghẹo, nay đến hỏi thì hồ đã dứt, mà bệnh cũng khỏi. Ông bố vì vậy biết con là đứa trẻ lạ, liền dạy cưỡi ngựa bắn cung, về sau làm đến chức tổng nhung. (******)

ĐỖ NGỌC TOẠI dịch

Chú thích:
(*) đất Sở : Tên một nước ở TQ thời xưa, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc.
(**) thợ đấu: thợ làm đất.
(***) Nguyên văn: "thang thủy" là nước sôi hoạc một thứ nước lá trợ lực cho thuốc.
(****) bả thú: Nguyên văn "lạp dược" là thuốc độc dùng để săn thú.
(*****)Trần Bình là người đầu đời Hán, sau này bày kế giúp Lưu Bang (Hán cao tổ) thu lấy thiên hạ. Ở đây ý nói em bé có mưu kế giỏi như Trần Bình vậy.
(******) tổng nhung: chức quan võ về đời Thanh.





Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Cô Tú ( A Tú )

Lưu Tử Cố quê ở Hải Châu (*), năm mười lăm tuổi đến đất Cái thăm cậu, thấy trong cửa hiệu tạp hóa có một cô gái yểu điệu, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, lần vào trong hiệu giả vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi bố. Bố ra, ý định của Lưu bị cản trở, bèn cố ý trả rẻ mà lui ra. Xa trông thấy người cha đi nơi khác bèn quay lại, cô gái toan tìm bố. Lưu ngăn lại nói:
- Không cần, cứ nói giá, tôi không trả rẻ đâu.
Cô gái được lời, cố ý nâng giá lên. Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại đến, lại làm như trước. Vừa đi được vài bước, cô gái gọi theo:
- Trở lại đã! Vừa rồi nói dối đấy, giá thế đắt quá!
Nhân mới lấy nửa tiền trả lại. Lưu càng cảm lòng thành thực, hễ rỗi lại đến, vì thế ngày càng quen.
Cô gáo hỏi:
- Chàng ở đâu?
Lưu cứ thực nói. Lại hỏi lại thì tự nói là họ Diêu tên là A Tú (**). Lúc Lưu sắp đi, cô gái đem những vật đã mua, lấy giấy bọc hộ cẩn thận, rồi lè đầu lưỡi, thấm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động đến, sợ mất hẳn lằn lưỡi của nàng.
Được nửa tháng, người đầy tớ nhòm biết, mới ngầm cùng cậu, cố bắt Lưu phải về. Chàng bâng khuâng vơ vẩn không khuyây, đem những thứ như khăn mặt, phấn, sáp đã mua cất giấu vào trong một cái tráp, lúc vắng người lại khép cửa, tự mình lần giở xem một lượt. Hễ thấy món nào cũng tưởng nhớ ngẩn ngơ.
Năm sau lại đến đất Cái. Hành lý vừa cởi, liền đến ngay chỗ cô gái. Tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt, thất vọng mà về, bụng vẫn nghĩ rằng đi đâu vắng chưa về. Sáng hôm sau lại đến, cửa vẫn khóa như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết, họ Diêu vốn người Quảng Ninh, vì buôn bán không lợi lắm nên tạm về quê ở. cũng không biết rõ bao giờ sẽ trở lại. Tâm thần như nghiêng như đổ; chàng ở vài ngày rồi rầu rĩ mà về.
Mẹ bàn dạm vợ cho, nhưng mấy lần chàng đều ngãng ra. Mẹ vừa giận vừa lấy làm lạ. Người đầy tớ liền kể chuyện mấy năm trước cho mẹ biết, mẹ càng đề phòng ráo riết. Đường sang đất Cái từ đó tuyệt hẳn. Lưu đâm thảng thốt, rồi giảm ăn kém ngủ. Mẹ lo lắng không tìm ra cách gì, bèn nghĩ: chẳng bằng theo ý con vậy.
Ngay hôm đó liền sắm sửa hành trang cho chàng sang đất Cái, lại chuyển lời nhắn với người cậu nhờ làm mối dùm. Cậu nhận lời, đến nhà họ Diêu, một lát trở về nói với Lưu:
- Việc không xong rồi. A Tú đã hứa gả cho một người ở Quảng Ninh!!
Lưu cúi đầu ngao ngán, lòng nguội như tro, hy vọng mất hết. Về nhà rồi thường ôm tráp mà khóc, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong thiên hạ lại có người giống như thế.
Gặp khi người mối đến, khen người con gái họ Hoàng ở Phục Châu tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, bèn sai đánh xe đến đất Phục. Vào cổng Tây, thấy một nhà hướng Bắc, hai cánh cửa cổng nửa khép nửa mở, trong đó một cô gái giống A Tú lạ. Lại chú ý dõi theo, thấy cô gái vừa đi vừa trông lại mà vào, đích thị không sai.
Lưu rất xúc động bèn thuê nhà bên Đông, hỏi dò kỹ thì là nhà họ Lý. Nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ thiên lại có người giống nhau đến thế ư? Ở mấy hôm, không cậy ai được, chỉ hằng ngày đăm đăm trông chờ ngoài cổng, hy vọng cô gái có lúc lại đi ra.Một hôm mặt trời xế về Tây, cô gái quả ra thực, bỗng thấy Lưu, liền quay vào, lấy tay chỉ ra đằng sau, lại để bàn tay lên trán, đoạn mới vào. Lưu mừng hết sức nhưng không hiểu ý ra sao. Ngẫm nghĩ một lát, rảo bước ra sau nhà, thì thấy vườn hoang trống trải, phía Tây có một bức tường thấp độ ngang vai, mới chợt hiểu, liền ngồi phục trong đám cỏ sương. Một lúc lâu, có người từ bên tường kia thò đầu sang khẽ hỏi: "Đã đến đấy à". Lưu đáp : "Vâng" rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì thật A Tú. Nhân khóc nức nở, nước mắt như dây giòng (***). Cô gái cách tường tay vuốt ve lên mình Lưu lấy khăn lau nước mắt cho chàng, kiếm lời an ủi ân cần.
Lưu nói:
- Xoay xỏa trăm kế chẳng xong, tự bảo kiếp này thôi thế là thôi, nào ngờ lại có đêm nay. Nhưng sao nàng lại đến đây?
Đáp:
- Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp.
Lưu xin trèo tường sang, cô gái nói:
- Chàng cứ về trước, bảo người nhà đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự đến.
Lưu làm như lời nàng, ngồi đợi. Một lúc sau cô gái lặng lẽ đi vào, ăn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước. Lưu kéo ngồi xuống, kể lể nổi nhớ, nhân hỏi:
- Nghe nói nàng đã nhận lời người ta, sao còng chưa cưới?
Cô gái nói:
- Ai bảo thiếp nhận lời là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi không muốn gả thiếp cho chàng. Có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng đừng mong tưởng nữa mà thôi.
Rồi đó lên giường chung gối; lả lướt muôn nghìn cách, đưa đón thật hoan lạc, không sao nói hết cho được. Đến canh tư vội trở dậy trèo tường mà đi. Từ đấy Lưu quên hẳn ý định đến nhà họ Hoàng, trọ liền nửa tháng tại đây, tuyệt nhiên không nói gì đến việc về nữa.
Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong nhà đèn còn sáng, nhòm vào thấy A Tú sợ lắm, không dám hỏi chủ. Sáng dậy, ra hỏi các cửa hàng ngoài chợ, rồi trở về hỏi Lưu:
- Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai vậy?
Lúc đầu Lưu chối, người đây tớ nói:
- Nhà này vắng vẻ là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái họ Diêu làm gì mà đến chốn này?
Lưu mới thẹn nói:
- Nhà hàng xóm phía Tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngờ.
Người đầy tớ đáp:
- Tôi đã hỏi kỹ. Nhà bên Đông chỉ có một bà cụ già, nhà bên Tây chỉ có một người con trai còn nhỉ, nggoài ra chẳng có thân thích nào nữa. Người cậu gặp gỡ đây tất là ma quỷ, nếu không, chẳng lẽ cái áo mấy năm vẫn không thay? Vả lại da mặt trắng quá, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền không đẹp bằng A Tú.
Lưu suy đi nghĩ lại đâm hoảng, nói:
- Bây giờ làm thế nào?
Người đầy tớ bàn tính đọi cô gái đến, cầm binh khíxông vào cùng đánh. Chập tối, cô gái đên, nói với Lưu rằng:
- Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn cái duyên phận với nhau thôi.
Nói chưa dứt, người đầy tớ đẩy cửa xông vào. Cô gái mắng:
- Bỏ ngay binh khí xuống, rồi mang rượu đến đây, để ta từ biệt chủ nhân.
Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị người giằng lấy. Lưu càng sợ cố gằng tiếp rượu. Cô gái cười như thường, giơ tay chỉ vào Lưu mà nói:
- Biết tâm sự chàng, vẫn định lo toan giúp chàng chút ít, sao lại nỡ phòng bị ngầm? Tuy thiếp không phải A Tú, nhưng cũng tự cho mình không kém. Chàng tự nhìn kỹ xem, không phải ư?
Lưu rợn hết lông chân, miệng đờ ra không nói được. Cô gái nge canh đã sang ba, liền cầm chén hớp một hớp, đứng dậy nói:
- Tôi hẵng đi đã, đợi đến sau hôm động phòng hoa chúc sẽ lại đến so với người đẹp của chàng xem ai hơn ai kém.
Đoạn quay mình ra, biến mất.
Lưu tin lời hồ nói, lại sang đất Cái. Oán cậu nói dối mình, không đến nhà cậu nữa mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ mối đến nói chuyện, đút cho nhiều tiền. Bà vợ họ Diêu nói:
- Chú nó định kiếm chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên ông nó sang đấy. Việc thành hay không chưa thể biết; phải đợi ông ấy về, mới có thể bàn được.
Lưu nghe nói, bàng hoàng không biết làm thế nào, đành phải cố đợi ông Diêu về.
Được hơn mười ngày, bỗng nghe có loạn, còn ngờ là lời đồn huyễn; lâu về sau, tin càng gấp, bèn thu xếp hành trang ra đi. Giữa đường gặp loạn thầy tớ lạc nhau, Lưu bị quân trinh sát bắt. Thấy Lưu họ trò yếu đuối, họcũng lơ là việc canh phòng, Lưu liền ăn trộm ngựa trốn đi.Đến giáp giới Hải Châu, thấy một người con gái, đầu tóc rối bù, mặt mũi nhem nhuốc, bước chân thất thiểu, dường không lê nổi. Lưu ruổi ngựa vượt lên trước, cô gái vội vàng gọi:
- Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu đó không ?
Lưu dừng roi lại, nhìn kỹ thì ra là A Tú. Bụng còn sợ là hồ, liền hỏi:
- Nàng là A Tú thật đó chăng?
Cô gái hỏi:
- Tại sao lại hỏi câu đó?
Lưu kể lể những chuyện mình đã gặp. Cô gái nói:
- Thiếp là A Tú thực. Cha thiếp đem thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi , nhưng mấy lần đều bị ngã. Chợt một người con gái nắm lấy cổ tay lôi đi, trốn lẩn lút trong đám quân cũng không có ai hỏi. Cô gái ấy đi nhanh như cắt, thiếp khốn khổ mà không theo kịp, mới độ trăm bước đã mấy lần tụt lại phía sau.Một lúc lâu, nghe thâý tiếng người reo ngựa hí xa gần, mới buông tay thiếp ra, nói:
- Từ giã thôi! Đường trước mặt đều yên ổn, có thể thủng thẳng mà đi; người yêu của em cũnga sắp đến, nên theo chàng cùng về.
Lưu biết đấy là hồ, lầy làm cảm kích, nhân kể rõ đầu đuôi vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói rằng chú nàng định gả cho người họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá, bèn đỡ nàng lên ngựa, cùng cưỡi về.
Vào cổng, mẹ già vẫn không việc gì, Lưu rất mừng, bèn buộc ngựa mà vào nhà, kể chuyện đầu đuôi. Mẹ cũng mừng, liền sửa soạn cho cô gái đi tắm rửa. Nàng trang điểm, dung nhan lộng lẫy, mẹ vỗ tay nói:
- Chả trách gì thằng con si mộng hồn không lúc nào yên.
Bèn trải đệm bảo cô gái nằm chung với mình. Lại sai người đến đất Cái đưa thư cho họ Diêu biết. Chưa được mấy ngày, vợ chồng Diêu cùng đến, chọn ngày lành cho con gái thành hôn rồi mới đi.
Lưu đem cái tráp mình cất giữ ra, dấu phong còn nguyên vẹn.. Có hộp phấn mở ra thì hóa ra đất đỏ. Lưu lấy làm lạ. Cô gái bưng miệng cười nói:
- Vụ trôm mấy năm trước, nay bị phát giác rồi. Ngày ấy, thấy chàng để mặc thiếp tự gói, không xem lại thật giả, nên làm thế để bỡn nhau đấy thôi.
Đang lúc cười đùa, một người vén màn bước vào nói:
- Thích ý như thế, thì phải tạ ơn bà mối chứ?
Lưu nhìn lại thì lại một A Tú nữa, vội gọi mẹ. Mẹ và người nhà đều cùng đến, mà không ai pân biệt được. Lưu vừa đảo mắt một cái cũng lẫn luôn. Phải chú mục giây lâu mới biết mà vái tạ. Cô gái ấy tìm gương tự soi, rồi thẹn thùng đi vội ra, theo tìm thì đã biến mất rồi. Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong nhà.
Một đêm, Lưu uống rượu say về, trong nhà tối tăm không có ai, đương tìm đèn để thắp thì A Tú đến. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, cười nói rằng:
- Hơi men sặc người, làm người ta không chịu được. Như thế mà còn tra hỏi vòng vo! Ai đã trốn vào ruộng dâu đâu nào!
Lưu cười nâng hai má nàng lên. Cô gái nói tiếp:
- Chàng trông thiếp với chị hồ ai hơn?
Lưu nói:
- Mình đẹp hơn, nhưng người nào chỉ xem bề ngoài thì không sao phân biệt được.
Thế rồi khép cửa lại ôm nhau giao hợp, chốc lát có tiếng gõ cửa, cô gái liền đứngdậy cười nói:
- Chàng cũng là kẻ chỉ biết xem bề ngoài thôi nhá.
Lưu chưa hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất kinh ngạc, mới biết người vừa nói chuyện vừa rồi là hồ. Trong đêm tối lại nghe thấy tiếng cười. Hai vợ chồng trông vào quảng không mà vái, cầu xin nàng hiện hình trơ lại. Hồ nói:
- Tôi không muốn trông thấy A Tú.
Hỏi:
- Tại sao không biến thành khuôn mặt khác?
Nói:
- Không thể được.
Hỏi tại sao, nói rằng:
- A Tú là em gái tôi, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng tôi theo mẹ lên thiên cung, thấy Tây Vương Mẫu đem lòng yêu mến, lúc về cồ sức bắt chước. Em tôi thông tuệ hơn tôi, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, tôi học đến ba tháng mới giống mà rồi cũng không bằng nó. Đến nay đã khác kiếp, tự nghĩ hơn nó, không ngờ vẫn như ngày xưa. Tôi cảm lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ đến thăm, bây giờ thì đi đây.
Liền không nói gì nữa. Từ đấy, dăm ba ngày lại đến một lần, những việc khó khăn nghi ngại đều giải quyết được cả.
Khi A Tú về thăm cha mẹ thì ở luôn mấy ngày không đi, người nhà đều sợ mà tránh. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc kịch sự, cài cái trâm đồi mồi dài mấy tấc, bắt người nhà đứng xung quanh, rồi nghiêm giọng bảo rằng:
- Vật lấy trộm, đêm nay phải mang đến chỗ ấy chỗ nọ mà để, nếu không đầu sẽ nhức buốt lên, hối không kịp đâu.
Trời sáng quả lấy lại được đúng chỗ đã bảo.
Ba năm sau, tuyệt không đến nữa. Bỗng nhiên gặp chuyện mất tiền lụa. A Tú bắt chước ăn mặc đúng như cô ta mà đe người nhà, cũng thường thấy kiến hiệu.
:)
ĐỖ NGỌC TOẠI dịch
Chú thích
(*) một huyện thuộc tỉnh Giang Tô
(**) Trong bản chúng tôi dùng làm gốc, cô gái không xưng tên. Nhưng xét toàn bộ câu chuyện thì không ở đâu xưng tên nữa, vì vậy chúng tôi tham khảo thêm các bản khác mà thêm vào câu này.
(***) Dây giòng xuống giếng để múc nước.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Cô Tư Họ Hồ ( Hồ Tứ Thư )

CÔ TƯ HỌ HỒ
(Hồ Tứ Thư )
Thư sinh họ Thượng, ngường đất Thái Sơn (*), ở một mình nơi thư trai thanh tịnh. Gặp đêm thu, sông Ngân vằng vặc, trăng sáng lưng trời, chàng bồi hồi dưới bóng hoa, thả hồn tưởng nghĩ xa xôi. Bỗng một cô gái trèo qua tường vào, cười nói:
- Cậu tú nghĩ gì lung thế?
Chàng đến gần nhìn thì mặt đẹp như tiên, mừng đến thảng thốt. bèn dìu nàng vào, cùng nhau ân ái thỏa sức. Nàng tự xưng họ Hồ, tên là cô Ba. Hỏi nhà cửa ở đâu, chỉ cười không nói. Chàng cũng thôi không cật vấn nữa, chỉ hẹn gắn bó lâu dài mà thôi. Từ đó không đêm nào nằm suông.
Một đêm ngồi kề đùi dưới ánh đèn thấp thoáng sau mán, chàng yêu quá, mắt nhìn nàng không chớp. Nàng cười nói:
- Sao nhìn thiếp đăm đăm thế?
Chàng đáp:
- Nàng như hoa hồng dược, hoa bích đào, nhìn suốt đêm cũng không chán.
Cô Ba nói:
- Thiếp thô lậu thế này mà còn được mắt xanh tưởng đến, nều gặp em Tư nhà thiếp thì không biết chàng còn điên đảo đến đâu.
Chàng nghe vậy càng thêm động lòng, chỉ hận chưađược một lần thấy mặt, bèn quỳ gối van nài. Đêm sau quả nhiên cô gái dắt cô Tư cùng đến. Tuổi mới cập kê, như hoa sen đượm sương, hoa hạnh khói tỏa, nét cười tươi rói, xinh đẹp tuyệt trần. Chàng mừng cuống cuồng, vội dẫn vào ngồi.
Trong khi cô Ba cùng chàng chuyện trò cười nói thì cô Tư chỉ ngồi cúi đầu, tay mân mê giảu lưng thêu. Lát sau cô Ba đứng dậy cáo biệt, em gái cũng định ra theo, nhưng chàng kéo lại, không chịu buông, mắt nhìn sang cô Ba cầu cứu:
- Ái Khanh, phiền nàng nói giúp một câu.
Cô Ba bèn cười nói:
- Anh chàng cuồng si này yêu quýnh lên thật rồi. Em hãy nán lại một lát.
Thấy cô Tư không nói gì, cô chị mới giã từ ra đi. Hai người bèn giao hoan thật thỏa thích. Xong đâu đấy mới gối đầu trên cánh tay, thố lộ hết chuyện bình sinh, không còn dấu diếm điều gì. Cô Tư tự nói mình là hồ, nhưng chàng Thượng vì đang mê đắm nhan sắc nên cũng không lấy thế làm quái lạ. Cô Tư nhân thế lại nói:
- Chị Ba em ác độc như lang sói, nghiệp của chị là phải giết được ba người. Ai đã bị chị mê hoặc thì không tránh khỏi chết. Em may mắn được chàng đoái thương, không nỡ nhìn chàng bị hại, hãy sớm dứt tình với chị đi.
Chàng sợ, xin bày cho cách đối phó. Cô Tư nói:
- Em tuy là hồ, nhưng lại học được chính pháp của tiên. Để em viết một lá bùa dán lên cửa phòng ngủ của chàng thì có thể dứt bỏ được.
Nói rồi viết liền. Trời sáng, cô Ba trở lại thấy bùa bèn lui ra nói:
- Con tiện tỳ này nỡ phụ bụng ta! Hết lòng với tân lang mà không nhớ gì đến bà mối nữa. Song hai chúng bay cũng có chút duyên trước với nhau, ta chẳng thù hận gì. Có điều hà tất phải làm thế.
Nói rồi đi ngay. Mấy hôm sau cô Tư có việc phải đi nơi khác, hẹn cách một đêm sẽ đến. Hôm đó, chàng ngẩu nhiên ra cửa nhìn về phía xa, nơi đám rừng sồi dưới chân núi. Chợt thấy một thiếu phụ từ trong lùm cỏ rậm đi ra, nhác trông cũng ra chiều phong vận. Nàng đến gần bảo chàng:
- Cậu tú việc gì phải bo bo quyến luyến chị em nhà họ Hồ? Chúng có đồng nào để tặng chàng đâu!
Nói rồi đưa ngay cho Thượng một quan, bảo:
- Hãy cầm về trước mua rượu ngon, thiếp sẽ đem một ít đồ nhắm đến để vui cùng với chàng.
Thượng cầm tiền về, làm như lời dặn. Lát sau thiếu phụ đến, đặt lên bàn một con gà quay, một vai lợn muối, rồi rút dao thái thành từng miếng. Rượu rót ra cùng nhắm, chuyện trò đùa giỡn vui vẻ lạ thường. Rồi tắt đèn lên giường, yêu đương quấn quít, buông thả đến cùng cực. Trời sáng mới dậy. Đang ngồi ở đầu giường xỏ chân vào giày, bỗng nghe có tiếng người. Vừa mới lắng tai, bước chân đã vào đến màn ngủ, thì ra chính là chị em họ Hồ. Thiếu phụ vừa nhìn thấy liền vội vàng lẩn trốn, bỏ lại đôi giày cạnh giường. Hai chị em đuổi theo mắng rằng:
- Con chồn ô uế kia, sao dám cùng ngủ với người?
Đuổi một lúc lâu mới quay lại. Cô Tư giận dỗi nói:
- Chàng không thể khá được! Đã chung chạ với con chồn ô uế ấy thì không thể thân cận được nữa!
Nàng đùng đùng bỏ đi. Chàng hoảng sợ, phải tự mình tạ lỗi, lời lẽ khẩn khoảng rất thảm. Cô Ba đứng bên hòa giải giúp, cơn giận của cô Tư mới tạm nguôi. Tư đó lại yêu mến nhau như buổi đầu.
Một hôm có người ở đất Thiểm cưỡi lừa đi qua cửa nói:
- Ta đi tìm loài yêu quái, chẳng phải một sớm một chiều, thế mà mãi hôm nay mới gặp.
Người cha nghe nói lấy làm lạ hỏi rõ nguồn cơn, thì nói:
- Tiểu sinh ngày ngày lênh đênh với khói sóng, du ngoạn bốn phương; một năm hơn mười tháng thì vắng nhà đến tám chín. Bọn yêu quái nhân đó đã giết hại em trai tôi. Khi trở về biết tin, lòng khôn xiết đau thương, uất hận, thề phải tìm diệt chúng kỳ hết. Bôn ba đã mấy nghìn dặm mà tuyệt chưa thấy dấu vết gì. Hôm nay biết chúng đang ở trong nhà cụ. Nếu không diệt đi hẳn sẽ lại bị hại như em tôi.
Thường ngày chàng ngấm ngầm đi lại với cô gái, cha mẹ đã phọng phanh biết chuyện.Nghe khách nói thế, ông bà rất sợ, xin mời vào nhà, xin làm phép trừ yểm. Khách lấy ra hai bình, đặt xuống đất, niệm chú một lúc lâu. Bỗng bốn luồng khói đen bay tới, chia ra mà chui lọt vào trong hai bình. Khách mừng nói:
- Cả nhà nó đều vào đây hết rồi!
Sau đó lấy bong bóng lợn bịt miệng bình, buộc lại thật chặt. Cha chàng cũng mừng, cố giữ khách lại dùng cơm. Riêng chàng thấy buồn bã trong lòng, lại gâ2n bình nhìn trộm. Bỗng nghe cô Tư ở trong bình nói vọng ra:
- Nỡ ngồi nhìn mà không cứu, sao chàng phụ lòng nhau đến thế?
Chàng càng cảm động, vội mở miệng bình, nhưng dây buộc không thể cởi ra được. Cô Tư lại nói:
- Đừng làm thế. Chỉ cần hất đổ lá cờ trên đàn cúng, lấy kim châm thủng một lỗ trên lớp bong bóng là em sẽ ra được ngay.
Chàng làm như lời cô gái, quả nhiên trông thấy một sợi khói trắng chui qua chỗ kim châm, bay vụt lên trời đi mất.
Khách ra, thấy cờ đổ xuống đất, cả sợ nói:
- Trốn mất rồi! Việc này chắc hẳn là do công tử thôi.
Bèn lắc bình, ghé tai nghe rồi nói:
- May chỉ có một con trốn thoát. Con này dẫu có giao hợp với người cũng chẳng chết ai; còn có thể tha được.
Nói rồi mang bình từ biệt mà đi.
Về sau, có lần chàng đang trông coi người gặt lúa ngoài đồng, chợt xa xa thấy cô Tư ngồi dưới gốc cây. Chàng đến cầm tay ân cần hỏi thăm. nàng đáp:
- Xa nhau chốc đã mười năm. Nay tu luyện đã thành, chỉ vì lòng nhớ chàng chưa dứt nên trở lại thăm nhau một lần nữa.
Chàng muốn đưa náng cùng về, nàng nói:
- Thiếp bây giờ không còn như ngày xưa; không thể vướng vào ái tình nơi cõi trần được nữa, sau này sẽ còn gặp lại nhau.
Nói rồi chẳng thấy đâu nữa.
Lại hơn hai chục năm qua, vừa khi chàng đang ở nhà một mình thì cô Tư từ ngoài bước vào. Chàng mừng rỡ, cùng trò chuyện. Cô gái nói:
- Thiếp nay đã ghi tên trong sổ tiên, lẽ ra không trở lại cõi trần. Nhưng cảm lòng chàng, thiếp đến báo tin cho chàng biết: hạn kỳ tuổi thọ đã hết, hãy sớm thu xếp việc nhà. Cũng đừng buồn phiền, thiếp sẽ độ trì cho chàng làm quỷ tiên, cũng không đến nỗi khổ đâu.
Nói rồi từ biệt mà đi. Đến ngày quả nhiên chàng qua đời.
Thư sinh họ Thương là người thân thích của Lý Văn Ngọc, bạn ta chính chàng đã từng được gặp.
:)
(TRẦN THỊ BĂNG CHÂU dịch
Chú thích
*) đất Thái Sơn : tên quận, thuộc tỉnh Sơn Đông.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGÔ THẾ LONG dịch
Công Tử Họ Vi ( Vi Công Tử )

Công tử họ Vi dòng dõi thế gia ở Hàm Dương (*) tính buông thả dâm dật. Những người hầu gái có nhan sắc trong nhà không ai thoát khỏi bàn tay chàng. Chàng từng mang mấy nghìn vàng ra đi, tính thưởng thức hết kỹ nữ danh tiếng trong thiên hạ. Các chốn phồn hoa không đâu không tới. Không phong nhã lắm thì ngủ một đêm rồi đi ngay. Còn như vừa ý thì lưu lại hàng trăm ngày.
Chú ruột chàng cũng là một vị quan có tiếng, mới hồi hưu, thấy hạnh kiểm cháu như vậy thì giận lắm, bèn mời thầy giỏi về nhà, dựng một cơ ngơi riêng, bắt cháu cùng các con đóng cửa học tập. Tối đến, công tử chờ thầy ngủ rồi, trèo tườing trốn về, sáng mới trở lại; như thế đã thành quen. Một hôm bị trợn chân ngã, gãy cánh tay, thầy mới biết, báo cho chú. Ông liền đánh cho một trận bò lê bò càng rồi mới thuốc thang cho. Khi khỏi ông lại giao hẹn: nếu học vược hẳn các em, văn hay chữ tốt, thì đi chơi không cấm. Nhưng vụng trộm giở trò phóng dật thì sẽ bị đánh đòn như trước.
Công tử rất thông minh, học thường vượt mức. Vài năm sau đậu khoa thi hương. Chàng muốn bỏ lời ước cũ, nhưng người chú vẫn ra sức kiềm chế. Chàng lên kinh đô, ông sai người lão bộc đi theo, giao cho một quyển sổ nhật ký, dặn phải ghi chép lời nói việc làm của chàng hàng ngày. Vì vậy liền mấy năm, chàng không có hành vi gì sai trái.
Sau khi đậu tiến sĩ, ông chú mới hơi nới lệnh cấm. Công tử muốn làm gì vẫn sợ chú biết. Vào chơi các ngỏ hẻm, phải giả danh là họ Ngụy. Một hôm, qua Tây An, thấy một thiếu niên làm con hát tên là La Huệ Khanh, tuổi độ mười sáu mười bảy, xinh đẹp như con gái. Chàng thích lắm đêm giữ lại quấn quít, rồi cho rất nhiều tiền. Ngh nói cô vợ mới cưới của Huệ Khanh lại còn phong nhã, tình tứ hơn, chàng ngỏ ý riêng với Huệ Khanh. Huệ Khanh không tỏ ra khó chịu, tối đến dấn vợ tới thực. Ba người ngủ chung một giường. Lưu lại vài hôm, quyến luyến yêu đương rất mực. Bàn tính đem nhau cùng về. Hỏi tới người nhà, Huệ Khanh đáp rằng:
- Mẹ mất sớm chỉ còn cha. Tôi vốn không phải họ La. Mẹ tôi hồi nhỏ hầu hạ nhà họ Vi ở Hàm Dương. Bị bán hết nhà họ La được bốn tháng thì sinh ra tôi. Nếu được theo công tử về, may ra cũng hỏi thăm được gốc gác.
Công tử kinh ngạc, hỏi đến họ của người mẹ. Khanh đáp:
- Họ Lã.
Chàng kinh hãi cực độ, mồ hôi toát đầm mình mẩy. Vì mẹ Khanh chính là thị tỳ nhà chàng trước kia.
Chàng không nói một lời. Lúc ấy trời đã sáng. Chàng cho Huệ Khanh rất nhiều tiền và khuyên cậu nên bỏ nghề. Rồi vờ thác còn có việc phải đi, hẹn khi nào trở về sẽ cho gọi, thế là chàng từ giã bỏ đi tuốt.
Sau được bổ làm quan huyện ở Tô Châu. Ở đây có một con hát tên là Thẩm Vi Nương, xinh nhã tuyệt trần. Chàng rất yêu, giữ lại cùng chung chăn gối. Đùa cợt, hỏi nàng rằng:
- Tiểu tự của em có phải lấy ý tứ câu thơ: " Xuân phong nhất khúc Đỗ Vi Nương" chăng?
Nàng đáp:
- Không phải thế. Mẹ em mười bảy tuổi đã là kỳ nữ nổi tiếng. Có vị công tử ở Hàm Dương cùng họ với ngài, lưu lại cùng mê em ba tháng, thề thốt chuyện cưới xin. Công tử đi rồi, tám tháng sau thì sinh ra em. Do đó mới đặt tên là Vi. Thực ra đó là họ của em. Lúc lâm biệt công tử có tặng mẹ em đôi chim uyên ương bằng vàng, đến nay hãy còn. Sau khi công tử bỏ đi, bặt không tin tức. Mẹ em vì phẫn uất buồn rầu mà chết. Tư thuở lên ba, em được bà Thẩm nuôi nấng, bèn lầy theo họ Thâm.
Công tử nghe nói xấu hổ không còn chịu nổi. Lặng đi một lúc, chợt nảy ra một kế. Chàng chợt nhỏm dậy khêu đèn, gọi Vi Nương vào uống rượu rồi ngầm bỏ thuốc độc vào trong chén. Vi Nương vừa nuốt khỏi cổ, lliền vật vã kêu rên, mọi người chạy tới, thì đã tắt thở. Chàng gọi con hát đến, giao phó tử thi, rồi đút lót cho chúng rất nhiều tiền.
Nhưng những kẻ giao hảo với Vi Nương hết thảy lại là đám con nhà thần thế. Nghe tin chúng đều bất bình, cho tiền và xúi giục con hát kiện lên quan trên. Chàng hoảng sợ, phải dốc sạch túi chạy vạy dập đi. Cuối cùng chàng bị cách chức vì tội sa đà bừa bãi.
Trở về nhà, tuổi đã ba mươi tám, chàng rất hối hận về những việc làm làm khi trước, mà vợ và hầu gái năm sáu người đều không có con. Muốn xin đứa cháu nội của ông chú về làm con kế tự, nhưng ông nghĩ cửa nhà ấy vô hạnh, vợ trẻ con nhiễm phải thói xấu, nên tuy nhận lời cho thừa kế, song phải đợi khi nào chàng già yếu mới cho sang. Chàng phẫn uất muốn cho gọi Huệ Khanh, người nhà đều cho là không được, bèn thôi.
Vài năm sau, chàng bỗng lâm bệnh, thường đấm vào ngực mà nói rằng: "Dâm bôn với con hầu, ngủ với kỹ nữ không phải là giống người". Ông chú nghe thấy thế bảo:
- Thế này thì sắp chết rồi.
Bèn cho đứa con của người con trai thứ sang nhà chàng để sớm hôm nâng giấc. Hơn một tháng, quả nhiên chàng mất.
:)

NGÔ THẾ LONG dịch
Chú thích
(*) Hàm Dương : một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Uông Sĩ Tú

Ở Lỗ Châu (*) có chàng Uông Sĩ Tú là người cứng cỏi, khỏe mạnh, nhấc bổng đưọc cối đá. Hai bố con chàng đều giỏi đá bóng. Năm người bố ngoại tứ tuần, khi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đến Hà Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc bấy giờ trăng rằm nhô lên ở đỉnh đằng Đông, mặt nước lặn trông khác nào tấm lụa. Uông đang ngắm nhìn, bỗng thấy năm người từ dưới hồ nhô lên, mang theo chiếc chiếc rất to, trải lên mặt hồ rộng ước nửa mẫu, đoạn lăng xăng bày tiệc rượu, cốc chén chạm nhau lách cách, song tiếng va dịu trầm, không tiếng sành sứ. Bày xong ba người ngồi xuống chiếu, hai ngườikia hầu rượu. Trong số người ngồi, một áo vàng, hai áo trắng, cả ba đều đội khăn màu xám cao ngất nghiểu, đuôi khăn viền với vai và lưng,, kiểu rất khác lạ; phải nỗi trăng sáng mênh mang, trông không được rõ lắm. Hai người hầu đều mặt áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già.
Chợt nghe người áo vàng nói:
- Đêm nay trăng đẹp tuyệt phải uống cho thỏa thích mới được.
Người áo trắng đáp:
- Phong cảnh đêm nay chẳng khác nào cái hôm Quảng Lợi Vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa.
Ba người chuốc rượu lẫn nhau, nâng chén phù bạch(**) nhưng nói hơi khẽ nên không nghe được câu nào nữa.
Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha, nhưng nghe tiếng nói lại không giống. Canh hai sắp tàn, bỗng một người nói:
- Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đem bóng ra đá cho vui.
Tức thì thấy tên tiểu đồng ngụp xuống nước lấy lên một quả bóng to đẫy một ôm, bên trong chứa đầy chất gì như thủy ngân, sáng thấu từ trong ra ngoài. Mấy người ngồi đứng dậy cả. Người áo vàng gọi ông già cùng đá. Họ đá bổng lên đến hơn một trượng, bóng đi lấp loáng chói cả mắt. Lát sau nghe "bình" một tiếng, bóng từ xa bay vọt vào khoang thuyền. Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy bóng nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá, bóng vọt cao lên mấy lần, mỗi lần lên đến gần trượng, bên trong có cái gì bắn sáng ra, tia xuống tựa cầu vồng, rồi bỗng rơi xuống rất nhanh như một ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, sôi lên mấy tiếng ùng ục rồi mới tắt ngấm.
Mấy người trên tiệc chiếu đều nổi giận:
- Đứa trần tục quái nào dám làm chúng tao mất hứng thế?
Người hầu già cười:
- Không tồi! Không tồi! Đó là món "quặt sao băng" (***) của nhà tôi đấy!
Người áo trắng nghe giọng bỡn cợt ấy thì trừng mắt lên, giận dữ:
- Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám vui đùa hả? Mau cùng thằng oắt áo đen đi bắt tên ngông cuồng kia về đây, bằng không chân cẳn chúng baysẽ được xơi dùi đấy!
Uông liệu chẳng trốn đi đâu được nên cũng không sợ nữa, bèn xách dao đứng giữa thuyền. Thấy ông già và tiểu đồng cầm khí giới đi đến, Uông nhìn kỹ thì đúng là cha mình thật, vội vàng gọi to:
- Cha ơi! Con đây mà!
Ông già kinh sợ, nhìn con mà buồn đứt rả ruột. Tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già bảo:
-- Con trốn ngay đi kẻo chết cả hai cha con bây giờ.
Nói chưa dứt lời ba người kia đã lêen cả trên thuyền. Người nào người nấy mặt đen sì, mắt to hơn trái lựu. Chúng túm lấy ông già lôi đi, Uông cố sức giằng lại làm thuyền tròng trành đứt cả dây néo. Chàng dùng dao chém đứt được cánh tay một người rơi xuống. Người áo vàng bỏ chạy, một người áo trắng xông tới. Uông cứ nhằm đầu mà chém, hắn ngã "ùm" xuống nước rồi mất tăm.
Hai cha con đang tính trẩy thuyền đi ngay đêm ấy thì thấy một cái mõm rất to nổi lên khỏi mặt nước. Mõm ấy sâu, miệng như miệng giếng nước hồ bốn bên chảy cả vào đó, réo lên thành tiếng ào ào. Lát sau nó phụt nước lên, đánh sóng cao ngất đến tận nhưng vì sao, làm hàng vạn chiếc thuyền đều bị lắc tròng trành. Người trên hồ đều sợ khiếp vía. Trên thuyền của Uông có hai cái trống đá, mỗi cái nặng đến hơn trăm cân, chàng nhấc một cái ném xuống, nước bắn tóe lên vang như sấm, sóng êm dần; ném cái nữa, sóng gió lặn hẵn.
Uông ngờ cha mình là ma. Ông già nói:
-Cha chưa chết con ạ. Mười người đắm đò thì bọn yêu quái ăn thịt đến chín. Cha vì giỏi đá bóng mà được toàn tánh mạng. Bọn yêu đắc tội với Đức Vương ở sông Tiền Đường nên chúng phải tránh sang hồ Động Đình này. Cả ba đưá đều là cá thành tinh, quả bóng vừa đá là bong bóng cá đấy.
Cha con mừng rỡ, chèo thuyền đi ngay lúc nửa đêm. Sáng ra thấy trên thuyền có cái vây cá, đường kính dài đến bốn năm thước ,mới chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứ được đêm qua.


PHẠM TÚ CHÂU dịch

Chú thích
(*) Lô Châu : tên phủ, thuộc tỉnh An Huy.
(**) Phù bạch: tên một loại chén uống rượu.
(***) Quặt sao băng (lưu tinh quái) : tên gọi một ngón đá bóng, người đá nhấc hân trái lên trước rồi chân phải từ phía sau đá bóng bay đi.
:)



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Liên Tỏa

Dương Vu Úy dời nhà đến sông Tứ Thủy (*); phòng học trông ra mộ cánh đồng ruộng có nhiều ngôi mộ cổ ở ngoài tường. Đêm nghe hàng bạch dương lao xao như tiếng sóng vỗ. Đêm tàn đốt đèn ngồi, lòng đang buồn rượi bỗng nghe phía ngoài tường có tiếng ngâm thơ:
Gió lạnh xoay chiều giữa bóng đêm,
Đóm bay trong cỏ, đậu lên rèm.
Ngâm đi ngâm lại nghe rất buồn thảm. Lắng nghe giọng ngâm nhỏ nhẹ uyển chuyển như tiếng con gái, lấy làm ngờ. Sáng hôm sau, nhìn ra ngoài tường chẳng thấy dấu vết một ai, duy chỉ có một dải lụa tím rơi giữa đám gai góc; Dương nhặt về đặt lên song cửa sổ. Khoảng canh hai đêm ấy lại nghe tiếng ngâm như hôm trước. Dương bắt ghế nhòm ra, tiếng ngâm im bặt, biết là ma, nhưng vẫn có lòng ái mộ. đêmsau chàng rình nấp ở mé đầu tường. Canh một gần tàn từ trong đám cỏ, có người con gái lững thững bước ra, đến vịnh tay vào một cành cây nhỏ, cúi đầu ngâm ảo não. Dương khẽ đằng hắng, cô gái vội lẩn vào đám cỏ hoang biến mất. Từ đó Dương nấp chờ dưới tường, nghe nàng ngâm xong liền từ bên này tường ngâm tiếp:
Nỗi buồn trăm mối nào ai tỏ,
Áo chiếc trăng lên, luống lạnh thêm.
Hồi lâu vẫn thấy lặng im, Dương đi vào phòng. Vừa ngồi xuống, bỗng thấy người đẹp từ ngoài đi vào, khép vạt áo nói:
- Quân tử là bậc sĩ nhân phong nhã, thế mà thiếp sợ hãi lẩn tránh.
Dương mừng, kéo áo mời ngồi, thấy nàng gầy héo lạnh buốt, dường như không mang nổi áo. Hỏi nàng quê quán nơi nào, ngụ đây đã lâu chưa?
Đáp rằng:
- Thiếp người Lũng Tây, theo cha lưu ngụ ở đây, năm mười bảy tuổi bỗng bị bạo bệnh mà chết. Đến nay đã hơn hai mươi năm rồi. Chốn cửu tuyền hoang dã lẻ loi vắng vẻ như thân cò. Lời ngâm đó là do thiếp tự nghĩ ra để gửi gắm mối sầu hận. Nghĩ lâu rồi mà chưa nối vần được, nay đội ơn chàng làm tiếp, dưới suối vàng cũng thấy lòng vui sướng.
Dương muốn cùng nàng giao hoan, nàng buồn bã nói:
- Nắm xương nát chốn dạ đài không thể ví với người sống được. Nếu làm chuyện mây mưa tăm tối sẽ làm cho người ta đoản thọ. Thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử.
Dương bèn thôi. Đùa bỡn đưa tay thăm dò trên ngực thì thấy núm vú còn hồng mào gà, rõ ràng vẫn là gái đồng trinh. Lại toan nhìn xuống đôi giày dưới quần cô gái, nàng cúi mặt cười:
- Anh chàng cuồng si này thật là phiền nhiễu.
Dương cầm lên xem, một chiếc tất gấm màu nguyệt bạch buộc bằng những sợi tơ ngũ sắc; lại nhìn chiếc bên kia thì thắt bằng dải lụa màu tím. Hỏi sau không thắt cùng một dải giống nhau thì nàng đáp:
- Đêm trước sợ chàng, chạy trốn, không biết rơi ở chỗ nào.
Dương nói:
- Để tôi tay chiếc khác cho nàng.
Nói rồi lấy trên cửa sổ xuống đưa cho cô gái. Nàng kinh ngạc hỏi ở đâu ra, chàng nhân kể lại đầu đuôi. Bèn dứt bỏ sợi tơ đi mà buộc lại bằng dải lụa. Lúc sau lật xem sách trên án, bỗng thấy tập Liên Xương Cung Từ (**) nàng thở dài:
- Lúc sinh thời thiếp thích nhât đọc sách này. Nay nhìn thấy tưởng như trong mộng.
Rồi cùng đàm đạo thơ văn, thì thông minh lanh lợi rất đáng yêu. Liền chong đèm ngồi cửa sổ hướng Tây, như gặp được người bạn tốt. Tư đó, đêm đêm hễ nghe tiếng ngâm nga khe khẽ thì lát sau nàng đã đến. Lại dặn:
- Chàng giữ kín đừng nói với ai. Thiếp nhút nhát, sợ có kẻ thô bạo đến bắt nạt.
Dương nhận lời; Hai người hoà hợp như cá với nước. Tuy không đến nỗi quá sàm sỗ, nhưng nơi khuê phòng còn nồng nàn hơn cái tình chồng kẻ lông mày cho vợ.
Nàng thường ngồi dưới đèn chép sách cho Dương, nét chữ mềm mại và ngay ngắn. Lại tự chọn một trăm bài từ trong cung (***) chép riêng ra để đọc. Nàng bảo Dương sắm bàn cờ mua đàn tỳ bà, mỗi đêm thường dạy Dương đánh cờ, nếu không chơi cờ thì dạo khúc Tiêu song linh vũ, buồn đến não lòng. Dương không thể nào nghe trọn bài ấy được, thì nàng chuyển lại chơi khúc Hiểu uyển oanh thanh, bất giáctâm hồn chàng trở nên thanh thản. Rồi khêu đèn diễn trò, vui quên cả sáng, nhìn ra ngoài song thấy ánh dương le lói mới vội vã trốn đi.
Một hôm, thư sinh họ Tiết đến thăm, gặp Dương đang ngủ ngày. Nhìn trong phòng thì bàn cờ, đàn tỳ bà còn đó, biết là những thứ mà bạn không sành. Lại giở sách xem thì thấy tập cung từ, chữ viết đẹp và ngay ngắn, càng thêm ngờ. Dương tỉnh dậy, Tiết hỏi những đồ chơi ấy ở đâu ra.
Đáp rằng:
- Đang định học đấy!
Lại hỏi đến tập thơ, Dương nói dối là mượn của nguời bạn. Tiết lật từng trang xem, thấy ở trang cuối có dòng chữ rất nhỏ: "ngày... tháng ...Liên Tỏa chép", liền cười:
- Đây là tên tự của con gái, sao giấu nhau mãi thế?
Dương bí quá không biết nói sao. Tiết càng gặn hỏi, Dương vẫn không chịu nói. Tiết kẹp quyển sách nhất định mang đi, Dương càng quẫn đành phải nói thật. Tiết xin được gặp mặt nàng. Dương nhân nhắc lại lời nàng căn dặn; Tiết càng thiết tha ngưỡng mộ hơn, Dương bất đắc dĩ phải nhận lời.
Nửa đêm cô gái đến, Dương chuyển lời cầu khẩn của bạn. Nàng nổi giận:
- Dặn anh thế nào mà lại bép xép với người khác rồi?
Dương đem hết tình thực ra nói, nàng bảo:
- Duyên phận với chàng đến đây là hết.
Dương khuyên giải bằng trăm cách, rốt cuộc nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói:
- Thiếp tạm lánh mặt họ đã.
Hôm sau Tiết đến, Dương chuyển lời nàng rằng không được. Tiết ngờ chàng thoái thác, chiều tối bèn cùng hai người bạn đồng song đến nhà Dương ở lì lại không chịu đi, cố ý quấy nhiễu làm ầm ỹ suốt đêm, khiến Dương phải thức trắng, mà vẫn chẳng có gì. Chúng thấy mấy đêm liền vẫn yên vắng, nên bụng cũng hơi khoái chí, sự huyên náo dần dần lắng xuống. Bỗng nhiên có tiếng ngâm thơ cất lên. Cả bọn cùng để ý nghe, giọng ngâm buồn não ruột. Đương lúc Tiết lằng tay chăm chú, thì một anh chàng học võ họ Vương cùng trong đám bè bạn, nhặt hòn đá to ném ra ngoài rồi nói lớn:
- Làm bộ không cho khách gặp mặt; câu thơ thậm hay lại nỉ non rầu rĩ khiến người ta buồn phiền?
Tiếng ngâm thơ tắt ngay. Mọi người đều bực tức, Dương uất quá để lộ ra cả nét mặt, lời nói. Hôm sau, cả bọn mới kéo nhau đi. Chỉ còn Dương ở một mình trong thư trai trống vắng, hy vọng cô gái lại tới nữa, nhưng tuyệt nhiên không cìn tăm dạng gì. Qua hai ngày nữa, nàng đột nhiên bước vào, khóc rằng:
- Chàng rước đám hung tợn đến nhà quát nạt làm thiếp chết khiếp.
Dương cuống quít tạ lỗi, nhưng nàng đã vội vàng đi ra, nói rằng:
- Thiếp đã nói duyên phận đã hết rồi, từ nay xin vĩnh biệt.
Dương cố níu lại thì đã biến mất. Từ hôm đó đến hơn một tháng sau, nàng không trở lại, Dương thương nhớ đến mình gầy mặt võ nhưng không làm thế nào tìm lại được nàng.
Một đêm đang uống rượu một mình, cô gái bỗng vén màn bước vào. Dương mừng quá hỏi:
- Nàng tha thứ cho tôi rồi ư?
Cô gái nước mắt lã chã, lặng lẽ không nói một lời. Gạn hỏi mãi, nàng định nói lại thôi, chỉ đáp:
- Giận dỗi bỏ đi, bây giờ có việc khẩn cấp lại phải đến năn nỉ, thật khó tránh khỏi hổ thẹn.
Dương hỏi đi hỏi lại đôi ba phen, mới nói:
- Có một đêm nha lại cục súc không biết ở nơi nào đến, buộc thiếp nhận làm vợ lẽ hắn. Nghĩ mình con nhà thanh bạch, không lẽ chịu khuất thân làm vợ con quỷ hèn hạ đó. Nhưng tấm thân yếu đuối kháng cự sao được. Nếu chàng có lòng liệt thiếp vào hàng cầm sắc, ắt không để mặt thiếp sống chết thế nào cũng được.
Dương giận quá, phẫn uất muốn chết. Song nghĩ kẻ sống người chết hai đàng khác nhau khó mà dùng sức được. Nàng dặn:
- Đêm mai đi ngủ sớm, thiếp sẽ đón chàng trong giắc mộng.
Thế rồi cùng nhau trò chuyện, ngồi lại đợi sáng. Trước khi đi, nàng dặn ban ngày chớ có ngủ(****) chờ giữ đúng lời hẹn vào đêm. Dương nghe theo. Buổi chiều chàng uống một chút rượu, nhân lúc chếnh choáng lên giường để nguyên áo xống mà nằm. Bỗng thấy cô gái đến, đưa cho con dao rồi cầm tay dắt đi. Đến một trang viện, vừa mới khép cửa trò chuyện, đã nghe có nguời cầm đá đập vào cánh cửa ầm ầm. Cô gái sợ hãi bảo:
- Kẻ thù đến rồi.
Dương mở cửa lao ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu tua tủa quanh mồm như lông nhím, liền nổi giận quát mắng. Kẻ kia trợn mắt nhìn lại, lời lẽ hung hăng ngạo mạn. Dương càng giận đuổi hắn đi, nhưng tên nha lại nhặt đá ném rào rào như mưa, trúng cổ tay Dương, Dương không thể cầm dao được nữa. Đang lúc nguy cấp, trông xa thấy một người lưng đeo cung tên đi săn giữa đồng. Nhìn kỹ thì ra chàng võ sinh họ Vương, bèn gọi cầu cứu. Chàng Vương giương cung chạy tới, bắn một phát trúng đùi tên nha lại, bồi thêm nhát nữa y lăn ra chết. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi nguyên do, chàng kể sự tình. Vương cũng lấy làm mừng đã chuộc lỗi cũ, bèn cùng tới nhà cô gái. Nhưng nàng sợ hãi thẹn thùng, chỉ đứng xa không nói một lời. Trên thư án có con dao nhỏ dài chừng hơn một thước, khảm vàng, dát ngọc, rút ra khỏi vỏ thì sáng loáng như gương. Vương tấm tắc khen mãi, không nỡ rời tay. Cùng Dương chuyện trò thấy cô gái e ấp thật tội nghiệp, Vương liền bỏ ra, chia tay mỗi người một ngã.
Dương cũng trở về, trèo lên giường ngã sóng soài. Vừa hay giật mình tỉnh dậy, nghe trong thôn gà đã gáy ran. Chợt cảm thấy cổ tay đau nhói, sáng sớm nhìn xem thì da thịt vẫn còn tấy đỏ. Giữa trưa chàng Vương đến, nhân nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương nói:
- Có phải mơ thấy bằn cung không?
Vương lấy làm lạ sao bạn lại biết trước như vậy, Dương bèn đưa cổ tay cho xem, kể lại rõ nguyên do. Vương nhớ lại nhan sắc người đẹp trong mộng, chỉ hận rằng không được trông thấy người thật. Lại lấy làm may đã có chút công lao với nàng nên một lần nữa xin cho được thấy dung nhan. Đêm đến nàng tới cảm ơn. Dương nói công của Vương, rồi đạo đạt ý của bạn. Nàng đáp:
- Công lao giúo đỡ nghĩ chẳng dám quên, nhưng anh ta dáng dấp hùng dũng, thực lòng thiếp sợ lắm!
Lát sau lại nói:
- Anh ta thích thanh bội đao của thiếp. Thanh đao ấy vốn thực cha thiếp mua ở Việt Trung, giá một trăm đồng vàng. Thiếp thích nên mới được giữ, lại tết bằng dây kim tuyến, dát bằng ngọc minh châu. Phụ thân thương thiếp chết yểu, chôn nó theo. Nay xin dứt lòng yêu thích đưa tặng. Thâý đao cũng như thấy thiếp vậy.
Hôm sau Dương nói lại ý nàng, Vương thích lắm. Đêm đến cô gái quả mang đao lại, dặn:
- Bảo anh hãy trân trọng giữ gìn. Đao này không phải là sản vật của Trung Hoa đâu.
Từ đấy nàng lại tới lui như xưa.
Được vài tháng, bỗng một hôm nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như muốn nói điều gì, nhưng đôi ba phen đỏ mặt lại thôi. Chàng hỏi thì đáp:
- Ơn chàng yêu thương đã lâu, thiếp được tiếp hơi người sống, hằng ngày lại ăn thức ăn nấu nướng, nên bộ xương trắng lại có cơ hồi sinh. Song cần có tinh huyết của người sống nữa mơí có thể sống lại được.
Dương cười đáp:
- Tại nàng không chịu, chứ tôi nào có tiếc gì.
Nàng nói:
-Sau khi chung đụng chàng tất bị ốm nặng trong hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc vào sẽ khỏi.
Bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi mặc áo ngồi dậy, lại nói:
- Cần một giọt máu tươi. Chàng có thể vì yêu mà chịu đau được không?
Được. Lấy con dao sắc chích vào cánh tay cho chảy máu. Cô gái nằm trên giường bảo nhỏ vào rốn. Rồi ngồi dậy dặn:
- Thiếp không đến nữa. Chàng nhớ tính đủ kỳ hạn trăm ngày, hễ có con chim xanh đậu trên ngọn cây trước mộ thiếp kêu lên mấy tiếng thì phải đào mộ ngay.
Dương cẩn thận ghi nhớ lời dặn. Bước ra cửa rồi, nàng còn nghoảnh lại bảo:
- Hãy nhớ kỹ đừng quên nhé, sớm hay muộn đều không thể được!
Nói rồi ra đi. Hơn mườn ngày sau Dương quả ốm nặng, bụng trướng lên tưởng chết. Thầy lang cho thuốc uống, chàng đi ngoài ra những chất đen nhão như bùn, đúng muời hai hôm thì khỏi.
Tính đúng một trăm ngày, chàng sai người nhà vác mai thuổng ra đợi sẵn. Khi mặt trời sắp lặn, quả thấy con chim xanh kêu hai tiếng. Dương mừng nói:
- Được rồi!
Bèn phát gai góc, đào mộ. Thấy quan quách đã nát mà nét mặt vẫn tươi như người sống, sờ vào còn ấm. Trùm áo mang về, đặt chỗ nằm ấm áp, nghe có hơi thở thoảng nhẹ, mảnh như sợ tơ. Dần dần đổ cháo nóng cho, nửa đêm thì tỉnh hẳn.
Vẫn thường bảo Dương rằng:
- Hai mươi năm mà như một giấc mộng vậy.

TRẦN THỊ BĂNG THANH dịch
Chú thích
(*) sông Tứ Thủy : thuộc huyện Tứ Thủy, tỉnh Sơn Đông.
(**)Liên xương cung từ : tập thơ của Nguyên Chẩn (778-831) nhà thơ đời Đường.
(***) Nguyên văn : "cung từ" là những bài thơ chuyên vịnh các việc lặt vặt trong cung cấm, nhất là về số phận người cung nữ.
(****) Có bản chép : "ban ngày phải ngủ"
:)




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
PHẠM TÚ CHÂU dịch
Hoa Cô Tử

An Ấu Dư đỗ khoa bạt cống (*) là người ở Thiểm Tây. Tính chuộng nghĩa, hay vung tiền vì người khác, lại thích phóng sinh, gặp ai săn được chim đều không ngại giá cao, mua lấy rồi thả ra.
Gặp lúc nhà ông cậu có tang, chàng đến giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc lối quẩn quanh trong núi, lòng rất lo sợ. Chợt thấy cách một quãng xa chừng mũi tên bắn có ánh đèn, bèn xăm xăm đi lại. Được mấy bướcbỗng thấy một cụ già lưng còng kéo lê gậy, băng đường tắt đi tới rất mau. An dừng chân toan hỏi thăm thì cụ già đã hỏi trước chàng là ai. An thưa là lạc lối và nói chỗ có ánh đèn kia hẳn là xóm núi, định đến ngủ nhờ.
Cụ già bảo:
- Đấy không phải là nơi yên ổn đâu. May gặp lão đây, hãy theo về, nhà tranh cũng xếp được nơi nghỉ cho ngài.
An mừng quá, đi theo chừng một dặm tới một xóm nhỏ. Ông già gõ vào cửa phên, một bà già ra mở cửa chào hỏi:
- Ông nó đã về đấy à?
Ông già đáp:
- Phải.
An bước vào thấy nhà thấp mà hẹp. Cụ già khêu đèn giục chàng ngồi rồi bảo có gì thì bày lên mời khách. Lại bảo với cụ bà:
- Ông đây không phải ai khác, chính là ân nhân của nhà ta đó. Bà đi lại không thuận, hãy gọi Hoa Cô Tử ra lọc rượu đi.
Lát sau một cô gái bưng mâm bát vào rồi đứng cạnh ông cụ liếc mắt nhìn chàng. An nhìn lại thấy nàng nhỏ tuổi mà xinh đẹp như tiên. Ông già nghoảnh lại sai hâm rượu. Phía Tây phòng trong có lò than, cô gái vào đó cời lửa. An hỏi:
- Cô đó là người thế nào với cụ!
Cụ già đáp:
- Lão họ Chương, bảy chục tuổi đầu chỉ có một mụn con gái đó thôi. Nhà nông ít tôi tớ, lại vì ngài không phải là ai khác lạ, cho nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, mong chớ chê cười!
An lại hỏi:
- Nhà chồng cô em ở làng nào?
Cụ gìa đáp:
- Còn chưa có ai.
An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh. Cụ già vừa mới ngỏ ý khiêm nhường bô4ng nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì rượi sôi lửa bốc. Cụ giập tắt xong, mắng:
- Lớn chừng ấy, rượu trào ra không biết à?
Ngoái lại thấy bên cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô (**) ghép bằng ruột cây quỳ còn dở dang, ông già lại mắng:
- Tóc bồng bồng chừng ấy mà còn như con nít.
Bèn cầm lên cho An xem và nói:
- Nó mải làm cái trò kiếm ăn này để cho rượu sôi trào lên. Được ngài quá khen, há chẳng thẹn chết đi được ư?
An ngắm nghía thấy mắt mày xiêm áo làm rất tinh xảo, bèn khen:
- Tuy tựa đồ chơi trẻ nhỏ nhưng cũng cho thấy em nhà rất sáng dạ.
Chuốc chén giờ lâu, cô gái nhiều lần ra rót rượu, mỉm miệng cười tươi không ngượng ngùng chút nào. An nhìn chăm chú, xao xuyến tâm tình. Bỗng nghe bà cụ gọi, ông lão bèn đi vào. An thấy không có ai, bảo cô gái:
- Em đẹp quá khiến tôi mất cả hồn vía. Muốn nhờ mối lái, nhưng sợ việc không thành, ý em thế nào?
Nàng lẳng lặng ôm hồ rượu, tới bên lò, dường như không nghe tiếng. Hỏi mấy lần đều không đáp, chàng bèn vào buồng. Cô gái đứng phắt dậy nghiêm mặt nói:
- Ông khùng này vào buồng định làm gì thế?
An cứ quì nài nỉ mãi, nàng định đi nhanh tới cửa định ra ngoài. Chàng vụt đứng lên chắn lối, ôm chầm lấy, hôn vào miệng vào môi. Nàng run rẩy gọi to lên, ông già vội vàng chạy vào hỏi. An buông tay bước ra, vừa thẹn vừa sợ. Nhưng cô gái thong dong thưa với cha:
- Rượu lại sôi trào, nếu ông đây không vào thì tiêu tan cả hồ rượu rồi.
An nghe nàng nói như thế trong lòng mới yên, càng cảm ơn nàng, hồn phách đảo điên, mất cả ý định ban nãy. Bèn vờ say rời chiếu rượu, cô gái cũng bỏ ra ngoài. Ông già trải chăn nệm xong, đóng cửa rồi ra nốt. An không ngủ được, trời chưa sáng đã gọi ông cụ từ biệt.
Về đến nhà, chàng lập tức nhờ bè bạn thân tới nhà cô gái cầu hôn, nhưng mất cả ngày rồi về mà không tìm được xóm nhà đâu cả. An bèn sai người hầu thắng yên cương tự tìm đường đi đến. Đến nơi chỉ thấy vách núi cao ngất, chẳng có xóm làng nào. Hỏi thăm các thôn xóm gần quanh thì chẳng có mấy ai họ Chương . Chàng thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đấy mắc chứng ngẩn ngơ, cố ép húp tí nước cháo thì nôn naomuốn mửa. Trong cơn mê sảng cứ gọi tên Hoa Cô Tử, người nhà chẳng hiểu ra sao, đành suốt đêm đứng quanh theo dõi, thế xem ra muốn nguy. Một đêm, người canh mỏi mệt ngủ cả, chàng lờ mờ thấy có người đụng vào mình, hé mắt nhìn thì Hoa cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác thần khí tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chăm chú, hai hàng nước mắt muốn trào rơi. Nàng nghiêng đầu cười bảo:
- Anh si tình sao đến nông nỗi này?
Bèn trèo lên giường, ngồi lên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An cảm thấy mùi xạ hương thơm lạ lùng, xộc vào mũi thấm tận xương. Day một lúc, bỗng trên sống mũi đổ mố hôi, dần dần lan tới chân tay mình mẩy. Nàng khẽ nói:
- Trong nhà đông người em không tiện ở lại. Ba ngày nữa em lại đến thăm.
Lại lấy trong ống tay áo thêu ra mấy cái bánh hấp đặt ở đầu giưòng rồi lẳng lặng ra đi. Đến nửa đêm, An toát hết mồ hôi, thấy thèm ăn, bèn quờ bánh mà ăn. Không biết bánh bao nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái, rồi lấy áo đậy lên chỗ bánh còn lại, thiêm thiếp ngủ say, đến sáng bảnh mới tỉnh giấc, như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái, bèn cho ngươì nhà tản đi hết; sợ nàng đén không vào được cửa, bèn lẻn ra mảnh sân ăn thông vào thư phòng mở hết then khóa. Lát sau, quả nhiên nàng đến, cười nói:
- Anh chàng si tình kia không tạ ơn bà lang à?
An mừng quá, ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Sau đó cô gái nói:
- Thiếp mạo hiểm chịu nhơ là vì cớ báo đền ơn sâu đó thôi, thực không thể vui hòa cầm sắc dài lâu, xin chàng sớm lo nơi chốn khác.
An nín lặng hồi lâu mới hỏi:
- Vốn không rõ bình sinh đã từng giao tiếp với gia đình nàng ở đâu, quả thực không nhớ nữa.
Cô gái không chịu nói, chỉ bảo:
- Chàng tự nghĩ thì biết.
An cố nài xin được gắn bó dài lâu, nàng đáp:
- êm nào cũng trốn đi thì hẳn không được rồi, mà mãi mãi vui vầy lứa đôi cũng không được nốt.
An nghe nói rầu rầu buồn bã, cô gái bèn bảo:
- Nếu muốn nên việc, đêm mai mời chàng đến nhà thiếp.
An bèn đổi buồn thành vui, hỏi:
- Đường sá xa xôi, bước chân em nhỏ bé thế kia, sao tới được đây?
Nàng đáp:
- Thiếp đã về nhà đâu. Bà điếc ở xóm Đông này là bà dì của thiếp. Vì chàng mà thiếp nấn ná đến nay, sợ ở nhà nghi ngại.
An chung chăn với nàng chỉ thấy từ hơi thở đến thịt da, không chỗ nào không thơm,bèn hỏi:
- Nàng xức thứ dầu thơm gì mà thấm cả vào xương thịt thế?
Nàng đáp:
- Thiếp sinh ra đã như thế rồi, không phải do xức dầu thơm đâu.
An càng lấy làm lạ. Nàng dậy sớm từ biệt, An sợ mình lạc đường, nàng hẹn sẽ đứng chờ bên đường. Đến chiều tối An phóng ngựa đi, quả nhiên nàng đón đợi, cùng đi tới chốn cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu chẳng c1 món gì ngon, chỉ toàn những món rau tạp, ăn xong mời khách đi nghỉ. Cô gái chẳng ngó ngàng gì đến, An càng nghi ngại. Canh khuya nàng mới đến, nói:
- Cha mẹ rì rầm mãi không ngủ khiến chàng vất vả chờ đợi lâu.
Hai người quấn quít suốt đêm, rồi nàng mới bảo An:
- Gặp đêm nay để rồi xa cách trăm năm đấy.
An sửng sốt hỏi lại, nàng đáp:
- Cha thiếp thấy xóm này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời đi xa. Sum vầy với chàng đêm nay là hết.
An không nỡ buông nàng ra, thở than buồn bã. Trong lúc bịn rịn màn đêm dần tan, ông già bỗng sồng sộc bước vào mắng:
Con ranh, làm nhơ nhuốc cửa nhà thanh sạch khiến tao xấu hổ muốn chết.
Cô gái tái mặt vội vội vàng vàng chạy mất. Ông già cũng ra theo, vừa đi vừa chửi mắng con. An kinh sợ cuống quít, không còn biết làm thé nào đành lẻn trốn về nhà. Mấu ngày bồi hồi, trong lòng bức rứt không yên, nhân nghĩ rằng đến đêm lần tới đó, trèo tường vào xem sao. Ông cụ đã nói ta có ơn với họ, thì dù việc có bại lộ chắc cũng không khiển trách quá nặng nề. Bèn thừ lúc đêm tối cấ lẻn ra đi. Chàng lần mò giữa núi,, lạc lối chẳng biết đường nào. Sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hẻm núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đến nơi thấy tường cao cổng rộng tựa nhà thế gian, mấy lớp cử vào còn chưa đóng. Chàng hỏi thăm người gác cổng về nhà họ Chương. Có cô hầu áo xanh ra hỏi:
- Đêm hôm ai hỏi thăm nhà họ Chương thế?
An đáp:
- Đó là người quen thân với tôi, tự nhiên lạc mất lối đến nhà.
Cô hầu nói:
- Ông không phải hỏi họ Chương nữa. Đây là nhà mợ của cô ấy, Hoa Cô hiện đang ở đây, để tôi báo với cô ấy.
Cô hàu vào một lát rồi trở ra mời An vào. Vừa mới bước vào hành lang, Hoa Cô đã bước nhanh ra đón, rồi bảo cô hầu:
- Chàng An xuôi ngược đêm hôm hẳn đã mệt mỏi, hãy sửa soạn chỗ ngủ đi!
Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi:
- Nhà mợ sao không còn ai khác nữa?
Cô gái đáp:
-Mợ đi vắng để thiếp lại trông nhà. May được gặp chàng, há không phải có duyên số từ trước hay sao?
Nhưng trong lúc tựa kề bên nhau, An thấy mùi rất tanh hôi, lòng ngờ có điều lạ. Nàng ôm lấy cổ An, thè ngay lưỡi liếm vào lỗ mũi, như mũi kim đâm buốt lên tận óc. An sợ quá chỉ muốn trốn thoát nhưng thân thể như bị dây chão trói chặt, giây lát băn bặt thiếp đi.
An không về, người nhà tìm hết những nơi có thể tìm được. Có người mách một chiều tối gặp An trên đường vào núi. Người nhà bèn vào núi, tìm thấy chàng trần truồng nằm chết dưới chân vách núi cao, lạ lùng kinh sợ chẳng rõ nguyên do, khiêng về nhà. Cả nhà xúm lại than khóc thì có một cô gái đến viếng, từ ngoài cửa gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi, nước mắt rỏ ròng ròng, rồi kêu to:
- Trời ôi! Trời ôi! Sao lại ngu muội đến thế?
Nàng đau đớn kêu khóc khản cả tiếng, một lúc sau mới nguôi, bảo với người nhà:
- Xin để đó bảy ngày đừng liệm vội!
Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì nàng không chào hỏi gì hết, chỉ nuốt nước mắt lừng lững đi ra, giữ lại cũng không thèm nghoảnh mặt. i theo dấu chân, chớp mặt đã không thấy đâu nữa. Ai nấy ngờ là thần, kính cẩn vâng theo lời dặn. Đêm, nàng lại đến khóc như ngày hôm trước. Đến đêm thứ bảy, An bông hồi tỉnh, trở mình ren rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào ngẹn ngào nhìn chàng. An giơ tay vẫy bảo mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ tươi, nấu với chừng một đấu nước rồi cho uống ngay trên giường. Lát sau An nói được, thở dài bảo nàng:
- Giết chết tôi lần nữa là nàng mà tái sinh tôi cũng là nàng đấy!
Nhân đó kể lại những chuyện đã gặp. Nàng bảo:
- Con yêu rắn giả mạo làm thiếp đó. Hôm chàng lạc lối đầu tiên nhìn thấy ánh đèn chính là của nó đấy!
An hỏi:
- Sao nàng có thể làm cho người chết hồi sinh, xương khô mọc được thế? Chẳng phải là tiên ư?
Cô gái đáp:
- Bấy lâu nay định nói nhưng lại e chàng kinh lạ. Năm năm trước đây, trên đường núi Hoa Sơn, chàng từng mua lại con chương săn được rồi thả ra, có phải thế không?
An đáp:
- Đúng, có việc đó.
Nàng bảo:
- Con chương ấy là cha thiếp. Trưóc đây thiếp nói ơn lớn chính là về cớ đó. Hôm mới rồi chàng đã đầu thai vào nhà ông ph3 chính họ Vương ở thôn Đoài, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương, nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp tình nguyện hủy đạo để chết thay cho chàng, nài nỉ đến bảy ngày mới nên việc. Buổi gặp gỡ hôm nay là may mắn lắm. Nhưng chàng tuy sống lại vẫn bị tê liệt, phải lấy được máu rắn ấy hoà với rượu mà uống thì bệnh mới khỏi hẳn.
An nghiến răng căm giận nhưng lo nghĩ không có phép gì bắt được nó. Cô gái bảo:
- Không khó đâu. Có điều giết nhiều sinh mạng sẽ để lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ ấy, vào lúc xế trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài phòng bị thêm nỏ cứng ắt bắt được con yêu ấy.
Nói xong, nàng từ biệt rằng:
- Thiếp không thể hầu chàng mãn đời, thực rất đau buồn. Nhưng vì cứu chàng mà sự nghiệp tổn thất hết bảy phần rồi, xin chàng thương xót dùm thiếp. Một tháng nay nghe máy trong bụng, chắc là nghiệt căn. Con trai hay con gái, sang năm sẽ gửi cho chàng.
Rồi rơi lệ mà ra đi. Qua đêm ấy, An thấy từ thắt lưng trở xuống như chết rồi, cấu vét cũng không biết đau, bèn đem lời cô gái dặn bảo với người nhà. Người nhà tới nơi, hun đốt hang như lời nàng. Có con rắn trắng lớn xông qua lửa trườn ra, bị cung nỏ bắn một loạt giết được. Lửa cháy vào hang, rắn lớn rắn bé mấy trăm con đều chết cháy, mùi tanh nồng mũi. Người nhà ra về, đưa máu rắn cho An. Chàng uống ba ngày, hai chân dần dần có thể xoay trở, nửa năm mới đứng lên được.
Sau đó,một mình vào núi, gặp bà già ôm đứa trẻ quấn tã cói trao cho, bảo rằng:
- Con gái già gửi cho chàng đây.
An toan hỏi thăm, loáng đã không thấy đâu nữa. Giở tã ra xem thì là trai. Chàng bế về nhà, rồi suốt đời không lấy ai nữa.
:)
PHẠM TÚ CHÂU dịch
Chú thích
(*) bạt cống: Tên một khoa thi đời Thanh. Cứ 12 năm một lần, quan học chính đề bạt những người học giỏi lên kinh, triều đình khảo hạch xong, tùy hạng đỗ mà trao chức.
(**) nữ thần Tử Cô : Tên mộ cô gái làm lễ nhà người, bị vợ cả ghen, chết vào ngày rằm tháng giêng. Dân thờ làm thần, đón vào ngày rằm tháng giêng để bói việc tằm tang và nhiều việc khác.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
HƯƠNG NGỌC

Ở trong cung Hạ Thanh núi Lao Sơn có cây nại đông cao hai trượng, thân lớn mươi chét tay, cây mẫu đơn cao hơn trượng, khi trổ hoa rực rỡ như gấm. Thư sinh họ Hoàng ở Mục Châu làm nhà ở đấy để đọc sách.
Một hôm ngồi trong cửa sổ trông ra thấy một cô gái áo trắng thấp thoáng trong đám hoa, bụng nghĩ trong đạo quán sao lại có người như thế được, vội chạy ra thì đã trốn mất. Từ đó thường thấy luôn. Bèn nấp trong bụi cây, đợi người ấy tới. Chẳng bao lâu cô gái ấy lại cùng một người mặc xiêm hống nữa đến. Từ xa trông tháy cả hai đều tuyệt đẹp, đi tới gần thì cô xiêm hồng lùi bước nói:
- Ở đây có người.
Chàng bèn đứng vùng dậy, hai cô sợ hãi bỏ chạy, áo quần phấp phới, thoang thoảng hương thơm. Đuổi theo quá bứa tường ngắn thì đã biến mất tăm. Chàng ái mộ hết sức, nhân đó đề bài thơ lên thân cây rằng:
Tưởng nhớ bao đau khổ
Tần ngần ngóng trước song
Gặp tay Sa Trá Lợi
Đâu còn thấy Vô Song (1)
Về phòng học ngồi mơ tưởng, chợt một bóng thiếu nữ bước vào. Chàng vừa mừng vừa ngạc nhiên, đứng dậy đón chào. Người cười nói:
- Chàng hùng hổ như giặc, khiến người ta hoảng sợ, ai hay cũng là người tao nhã, có gần cũng không hại gì.
Chàng bèn hỏi qua thân thế, cô gái đáp:
- Thiếp tiểu tự là Hương Ngọc, người chốn bình khang, bị đạo sĩ nhốt ở trong núi này, thực không phải là ý nguyện.
Chàng hỏi:
- Đạo sĩ tên là gì? Tôi sẽ rửa hờn cho nàng.
Cô gái nói:
- Bất tất. Hắn ta cũng chưa dám ép buộc gì. Mượn nơi này để cùng khách hào hoa làm chốn gặp gỡ vắng vẻ kể cũng hay.
Chàng nói:
- Cô gái mặc áo hồng là ai thế?
Đáp:
- Chị ấy tên là Giáng Tuyết, chị kết nghĩa của thiếp.
Bèn ôm nhau đi nằm. Khi tỉnh giấc trời đã rạng đông. Nàng vội đứng dậy nói:
- Ham vui quên cả trời đã sáng.
Mặc áo, đi giày xong lại nói:
- Thiếp xin khẩu chiếm đáp lại chàng bài thơ, chớ có cười nhé:
Chóng hết đêm vui thế
Vừng đông đã dọi song
Muốn như đôi én nọ
Cùng chốn đậu song song.
Chàng nắm cổ tay nói:
-Nàng đã đẹp lại thông minh, khiến người ta yêu quên chết. Một ngày xa nhau như cách biệt ngàn năm, nàng lúc nào rỗi cứ lại, đừng đợi đêm nữa.
Nàng nhận lời. Từ đó sớm tối cùng nhau. Chàng vẫn thường bảo mời Giáng Tuyết, mà nàng không thấy đến, nên lấy làm buồn bực. Nàng nói:
- Chị Giáng Tuyết là người lạnh lùng, không si tình như thiếp. Cứ thong thả để thiếp khuyên nhủ, không việc gì phải vội.
Một hôm nàng buồn thảm bước vào nói rằng:
- Chàng không giữ được đất Lũng mà còn mong lấy được đất Thục ư (2)? Thôi từ nay xin vĩnh biệt.
Chàng hỏi đi đâu thì lấy tay áo lau nước mắt rồi nói:
- Cũng do số mệnh cả, không thể nói cùng chàng được. Câu thơ ngày trước này thành lời sấm:
Người đẹp vào tay Sa Trá Lợi
Nghĩa sĩ đâu còn Cổ Áp Nha.
Đem vịnh cảnh ngộ thiếp thế mà đúng.
Gạn hỏi nàng không chịu nói, chỉ nức nở khóc, suốt đêm không ngủ. Sáng dậy đi sớm. Chàng lấy làm lạ. Hôm sau có họ Lam người ở Tức Mặc, vào cung quán vãn cảnh, thấy cây bạch mẫu đơn, thích ý đào lên mang đi. Chàng mới hiểu ra rằng Hương Ngọc là tinh của hoa vậy, buồn rầu mãi không thôi.
Cách vài hôm nghe nói họ Lam đem hoa về trồng , càng ngày càng héo, chàng lại càng ân hận, làm năm mươi bài thơ khóc hoa, ngày ngày đến viếng chỗ hố đào, nước mắt tuông rơi đầm đìa.
Một hôm đi vãng cảnh quay về, xa xa thoáng thấy cô gái mặc áo hồng đứng khóc bên hố đất. Chàng thong thả đi đến gần, nàng cũng không trốn tránh, nhân níu vạt áo, nhìn nhau rưng rưng nước mắt, rồi mời vào nhà. Nàng cũng đi theo than rằng:
- Chị em với nhau từ tấm bé, một sớm chia lìa, thấy chàng thương cảm, thiếp cũng mủi lòng nước mắt rơi xuống suối vàng may ra cảm thấu lòng thành mà tái sinh chăng? Nhưng lẻ chết đi thần khí đã tan, trong chốc lát làm sao có thể cùng hai chúng ta cười nói được.
Chàng nói:
- Tiểu sinh phận bạc, làm hại tới người yêu, thực không có phúc được cả hai người đẹp. Ngày trước nhiều lần nhờ Huơng Ngọc đạo đạt lòng thành, sao cô nương không hạ cố?
Nàng nói:
- Thiếp cho rằng bọn học trò trẻ tuổi, mười người thì có chín người là phường bạc hãnh, có biết đâu chàng là khách chung tình. Tuy nhiên thiếp cùng chàng giao hảo, xin lấy chữ tình, không lấy chữ dâm, còn như đêm ngày suồng sả thì thiếp không kham được.
Nói xong xin từ biệt. Chàng nói:
- Phải xa Hương Ngọc lâu ngày bỏ cả ăn cả ngủ. Nhờ nàng ở lại đây chốc lát cho khuây khỏa nỗi nhớ, sao lại quyết liệt như vậy?
Nàng bèn ở lại, hết đêm ra về, mấy ngày sao không trở lại. Một hôm mưa lạnh bên ngoài, chàng nhớ thương Hương Ngọc, trằn trọc trên giường lệ đẫm chăn gối, bèn xốc áo đứng lên, khêu đèn cầm bút vịnh một bài thơ nối theo vần trước:
Nhà núi chiều mưa lạnh,
Buông rèm tựa trước song.
Người tương tư chẳng thấy,
Đêm nhỏ lệ song song.
Làm xong thơ tự ngâm nga, chợt có tiếng người ngoài cửa sổ:
- Có xướng tất phải có họa chứ.
Nghe chính là Giáng Tuyết, mở cửa mời vào. Nàng xem thơ xong nối vần liền:
Chung gối người đâu nhỉ?
Đèn le lói rọi song.
Một mình nơi núi thẳm,
Đổi bóng bỗng thành song.
Chàng đọc thơ, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nhân trách nàng thưa gặp mặt. Nàng nói:
- Thiếp không thể nồng nàn như Hương Ngọc được, chỉ có thể an ủi chàng khuây cảnh tịch mịch đôi chút thôi.
Chàng muốn cùng nàng chăn gối. Nàng nói:
Niềm vui gặp gỡ, đâu phải vì chuyện đó.
Từ đó, cứ lúc nào chàng thấy quạnh hiu thì nàng lại đến. Đến thì yến ẩm xướng họa, có khi không ở lại ngủ đêm, tan tiệc rồi là về. Chàng cũng chiều theo, thường bảo nàng:
- Hương Ngọc là vợ yêu của ta, Giáng Tuyết là bạn tốt của ta.
Mỗi lần gặp lại hỏi:
- Nàng là cây thứ mấy trong viện, xin sớm bảo cho biết, anh sẽ mang về trồng ở trong nhà, khỏi bị bọn ác cướp đi mất như Hương Ngọc, để hận lại suốt đời.
Giáng Tuyết đáp:
- Chốn cũ khó dời, nói cho chàng biết cũng vô ích. Vợ còn chẳng giữ được, huống hồ là bạn.
Chàng không nghe, kéo tay cùng đi ra, đến mỗi cây mẫu đơn lại hỏi:
- Có phải nàng đây không?
Nàng không nói gì, chỉ bưng miệng cười.
Cuối năm chàng về quê ăn tết. Vào khoảng tháng hai, chợt nằm mơ thấy giáng Tuyết đến, buồn rầu nói:
- Thiếp gặp nạn lớn, chàng hãy mau trở lại, may còn được gặp nhau, nếu chậm là không kịp nữa.
Tỉnh dậy lấy làm lạ, vội bảo ngưòi nhà lấy ngựa, ruổi lên núi ngay; đến nơi thấy đạo sĩ sắp làm nhà, có cây nại đông vướng chỗ xây cất, thợ mộc sắp chặt bỏ đi. Chàng liền cản lại (3). Đến đêm, Giáng Tuyết vào tạ ơn. Chàng cười bảo:
Trước kia không nói thực nên gặp nạn này. Bây giờ biết đích nàng rồi, nếu không tới tôi sẽ lấy mồi ngải đốt cứu cho mà coi.
Nàng đáp:
- Thiếp vốn biết thế, nên trước kia mới không dám nói đấy.
Ngồi một lát,chàng nói:
- Nay ngồi với bạn tốt, lại càng nhớ vợ đẹp. Lâu không đi viếng Hương Ngọc, bây giờ nàng có thể cùng tôi đến viếng được chăng?
Hai người bèn đi đến bên hố đất mà khóc. Đến lúc sắp tan canh một, Giáng Tuyết lau nước mắt khuyên chàng thôi, rồi ra về. Cách vài ngày sau chàng đang ngồi một mình buồn bã, Giáng Tuyết tười cười bước vào bảo rằng:
- Có tin mừng báo chàng hay. Thần hoa cảm động vì lòng chí tình của chàng, cho Hương Ngọc tái sinh ơởtrog cung này.
Chàng mừng hỏi:
- Bao giờ?
Đáp:
- Không biết chắc nhưng cũng không lâu nữa.
Trời sáng bước xuống giường, chàng bảo nàng:
- Tôi vì nàng mà đến đây, chớ để người ta chịu hiu quạnh lâu nhá!
Nàng cười gật đầu. Hai ngày không thấy đến, chàng bèn đi đến ôm lấy thân cây, vuốt ve lay động, gọi tên Giáng Tuyết mấy lần, không nghe tiếng gì đáp lại. Bèn ra về ngồi trước đèn vê mồi ngải định tới đốt cây. Giáng Tuyết lật đật chạy vào, giật mồi ngải ném đi mà nói:
- Chàng hay đùa nhả, khiến người ta bị đau, phải đoạn tuyệt với chàng thôi.
Chàng cười ôm lấy nàng, vừa ngồi chưa yên thì Hương Ngọc lững thững đi vào. Chàng trông thấy từ xa đã bật khóc, vội vàng đứng lên ôm lấy nàng, Hương Ngọc giơ một tay kéo Giáng Tuyết, nhìn nhau nghẹn ngào. Đến khi ngồi xuống (4) chàng cầm tay Hương Ngọc mà cảm thấy trống không như tự nắm tay mình, nên rất ngạc nhiên hỏi nàng. Hương Ngọc ứa nước mắt nói:
- Ngày trước thiếp là thần hoa cho nên thể chất ngưng tụ, nay thiếp là ma nên thể chất hư tán, chàng đừng nên coi là chân tướng, chỉ nên coi là người trong mộng thôi.
Giáng Tuyết nói:
- Em lại đây tốt quá; chị bị chồng em quấy quả lằng nhằng muốn chết.
Nói rồi liền cáo thoái.
Hương Ngọc vẫn âu yếm như xưa, song lúc tựa kề nhau, phảng phất như là một hình tựa bóng.Chàng bần thần không vui , Hương Ngọc cũng bâng khuân tủi hận, bèn dặn:
- Chàng lấy ít bột bạch liễm trộng với ít lưu hoàng đem vun bón và mỗi ngày tưới một chén nướ cho thiếp, đến ngày này sang năm sẽ đền ơn chàng.
Nói đoạn cũng từ biệt mà đi.
Hôm sau ra xem chỗ cũ thấy có một nhánh mẫu đơn mới mọc, chàng bèn làm theo lời dặn, ngày nào cũng vun tưới, lại làm hàng rào vây quanh để giữ gìn. Hương Ngọc đến bội phần cảm kích. Chàng bàn dời cây, mang về nhà. Nàng không chịu, nói:
-Thiếp vốn thể chất yếu đuối, không chịu được cảnh đào lên trồng xuống. Vả lại mọi vật sinh ra đều có nơi có chốn cả, thiếp từ trước vốn không tính sinh ở nhà chàng, làm trái đi sợ giảm tuổi thọ; nhưng nếu có thương yêu nhau thì thế nào cũng sum họp.
Chàng hận Giáng Tuyết không đến. Hương Ngọc nói:
- Nếu muốn cưỡng bức bắt đền, thiếp có thể làm được.
Bèn bảo chàng khêu đèn lên, đến dưới gốc cây, lấy một cuộn cỏ, lấy gang tay làm cữ, rồi đo từ dưới lên, đến bốn thước sáu tấc đánh dấu vào chỗ đó, bảo chàng lâý hai móng tay gãi. Giây lát Giáng Tuyết từ sau thân cây đi ra cười mà mắng rằng:
- Con nhỏ này đến đây giúp Kiệt làm điều bạo ngược à? (5)
Đoạn dắt tay cùng về. Hương Ngọc nói:
- Xin chị đừng phiền trách, tạm thời nhờ chị hâù hạ chàng, một năm sau, không dám quấy rầy nữa.
Từ đó bèn đi lại như thường. Chàng ngắm chồi hoa ngày càng tốt tươi nảy nở. Hết mùa xuân đã mọc gần hai thước. Sau khi về nhà, lấy vàng bạc tặng đạo sĩ, nhờ vun tưới cho cây. Sang năm sau, tháng Tư trở lại cung quán, thấy một bông hoa hàm tiếu; đang lúc tần ngần, hoa bỗng lay động như muốn gãy, lát sau đã nở lớn như cái mâm, nghiễm nhiên có một người đẹp nhỏ xíu ngồi trong nhụy hoa, chỉ bằng ba ngón tay, nháy mắt đã nhẹ nhàng nhảy xuống, chính là Hương Ngọc. Nàng nhoẻn miệng cuời:
- Thiếp chịu mưa gió để đợi chàng, sao tới muộn thế?
Đoạn cùng vào nhà, thấy Giáng Tuyết đã đến, cười bảo:
- Ngày ngày làm vợ thay người, bây giờ may mắn lại được rút lui làm bạn.
Rồi cùng nhau ngồi chuyện trò xướng họa. Đến nửa đêm, Giáng Tuyết ra về, hai người cùng đi nằm, lại mặn nồng như xưa.
Về sau, vợ chàng mất, chàng vào ở hẳn trong núi, không về nhà nữa, bấy giờ cây mẫu đơn đã lớn bằng như cánh tay. Chàng thường chỉ vào cây và bảo:
- Ngày sau ta gửi hồn ta ở đó, sẽ mọc bên trái nàng.
Hơn mười năm sau, thốt nhiên chàng mắc bệnh, con đến thăm, nhìn mà thương xót. Chàng cười mà bảo:
- Đây là ngày ta sinh chứ không phải là ngày ta chết, sao mày lại buồn?
Lại nói với đạo sĩ:
- Sau này, dưới gốc mẫu đơn có một mầm đỏ mọc lên, mọc một lúc năm lá tức là tôi đó.
Đoạn không nói gì nữa. Con lấy xe chở về, đến nhà thì chết. Năm sau quả có một cái mầm lớn vụt mọc lên, đủ năm lá như chàng nói trước. Đạo sĩ lấy làm lạ, năng tưới vun cây ấy. Ba năm sau cao mấy thước, to một ôm, nhưng không trổ hoa.
Đến khi đạo sĩ già rồi chết đi, đệ tử không biết, nhân thấy cây không trổ hoa, đẳn bỏ đi. Cây bạch mẫu đơn cũng héo đi rồi chết. Chẳng được bao lâu, cây nại đông củng chết nốt.
TRẦN VĂN TỪ - NGUYỄN CHÍ VIỄN dịch
Chú thích
(1) Sa Trá Lợi là một viên tướng phiên đã cướp Liễu thị, vợ Hàn Dực. Vô Song là tên một cô gái đẹp xưa, người yêu của Lưu Tiên Khách, bị lưu lạc trở thành cung nữ. Sau nhờ một nghĩa sĩ là Cổ Áp Nha giúp đỡ, lại được sum họp.
(2) Xuấ xứ từ câu nói của vua Hán Quang Vũ “Người ta khổ ở chỗ không biết thế nào là đủ. Đã dẹp được Lũng lại còn mong được cả Thục” Thục và Lũng đây ám chỉ hai người đẹp.
(3) Có bản thêm vào một câu: “biết rằng giấc mộng mới đây chính là việc này”.
(4) Có bản thêm: “ kể nỗi khổ biệt ly”.
(5)Kiệt là ông vua nổi tiếng bạo ngược ở TQ.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN HUỆ CHI dịch
Tiên Ông Họ Thành
Thành tiên

Chàng họ Chu, người Văn Đăng (1) cùng với chàng họ Thành, thuở nhỏ cùng theo đòi nghiên bút, do đó mà kết thành bạn thiết (2). Nhưng Thành nghèo, nên quanh năm nhờ vả vào Chu. So với tuổi tác thì Chu lớn hơn, nên gọi vợ Chu bằng chị dâu. Các dịp giỗ tết vẫn đi lại với nhau như một nhà. Vợ Chu sau sinh được đứa con trai thì bạo bệnh chết. Chu cưới vợ kế họ Vương; Thành lấy cớ cô còn ít tuổi nên chưa từng gặp mặt.
Một hôm em trai cô Vương đến nhà Chu thăm chị, yến tiệc mở ở ngay phòng ngủ. Thành cũng vừa đến chơi. Người nhà vào báo tin, Chu đang ngồi cho mời vào. Thành không vào từ tạ ra về. Chu phải dời bàn tiệc ra nhà ngoài, rồi chạy theo giữ, Thành mới quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo, một người đầy tớ trai giữ trại cho nhà Chu bị quan huyện đánh rất đau. Nguyên trước đây, kẻ giữ trâu nhà quan lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu, vì thế mà đâm ra cãi nhau. Tên giữ trâu của họ Hoàng chạy về trình chủ. Chủ cho bắt đầy tớ của Chu giải lên quan, rồi bị quan phạt đòn.
Chu hỏi rõ tình đầu, nổi giận nói:
- Tên nặc nô chăn lợn (3) họ Hoàng kia sao dám làm vậy! Tổ tiên nó còn phải hầu hạ tổ phụ ta, thế mà nay mới gặp thời đác chí đã không coi ai ra gì nữa.
Giận tràn lên cổ, chàng phẫn chí vùng dậy, muốn chạy ngay đi tìm Hoàng. Thành kéo tay ngăn lại, nói:
- Giữa thời buổi bạo ngược này, làm gì phân rõ đen trắng. Huống chi quan lại ngày nay quá nửa cũng là lũ trộm cướp không cầm giáo cung đấy thôi!
Chu không nghe. Thành năn nỉ hai ba lần, đến chảy nước mắt, chàng mới chịu, nhưng uất ức vẫn không nguôi, trằn trọc suốt đêm. Sáng ra bảo gia nhân rằng:
- Họ Hoàng khinh ta quá, ta thù hận nó, nhưng hẵng để đấy đã. Còn quan huyện là quan của triều đình, chẳng phải là quan của quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng cần hỏi cả hai bên, chứ sao lại như con chó “suỵt” đâu chạy đấy được? Ta cũng phải làm đơn kiện đầy tớ nhà kia xem nó phân xử thế nào.
Đám gia nhân hết thảy đều vun vào, chàng bèn quyết kế, viết tờ cáo trạng gửi lên quan huyện. Quan huyện xé vứt đi. Chu uất, nói những lời xúc phạm đến quan. Quan vừa thẹn vừa căm, lấy cớ bắt chàng tống ngục.
Sáng hôm sau, Thành sang thăm Chu mới biết đã vào thành thưa kiện. Vội vàng chạy theo để ngăn lại, thì đã bị nhốt vào ngục rồi, chàng giậm chân than thở, không biết làm thế nào. Bây giờ vừa tóm được ba tên giặc biển; quan huyện và Hoàng đút lót tiền dặn chúng vu cho Chu là đồng đảng, rồi vịn vào lời khai đó mà lột bỏ mũ áo nhà nho, dùng roi tra khảo Chu một cách thảm khốc. Thành vào ngục nhìn nhau mà cay đắng. Bàn tính kêu lên tận cửa khuyết. Chu bảo:
- Nay thân đã bị xiềng trong cũi, giống như chim trong lồng; dẫu còn một chú em yếu hèn thì cũng chỉ làm được việc đưa cơm tu mà thôi.
Thành sốt sắng tự nhận lấy, nói rằng:
- Đây là phận sự của tôi. Khó khăn không giúp nhau thì còn gọi là bạn bè làm gì.
Rồi chàng lên đường ngay. Em trai Chu định đưa tiền lộ phí đi thì đã đi lâu rồi.
Đến kinh chưa biết cửa nào vào mà kêu thì nghe đồn xa giá sắp sửa đi săn. Thành dự tính nấp sẵn trong khu chợ gỗ. Chốt lát xa giá đi qua, chàng ra sụp lạy kêu van thảm thiết. Sớ bèn được chuẩn, giao cho các trạm chuyển về để bộ viện cứu xét và tâu lên. Bấy giờ đã trải qua hơn mười tháng, Chu đã bị ghép bừa vào tội hình. Pháp viện tiếp được ngự phê cả sợ, phải cho tra xét lại cả lời cung lẫn nghị án. Hoàng cũng sợ mưu giết Chu. Nhân đó hối lộ cho cai ngục, để chúng tuyệt hẵn đường cơm nước. Em Chu mang thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt. Thành lại lên tận viện bày tỏ điều khuất khúc, Chu mới được gia ơn hỏi đến, thì đã đói lã không dậy được nữa. Quan pháp viện tức giận, cho đánh trượng cai ngục đến chết. Hoàng đâm hoảng phải dùng nghìn lạng vàng đút lót chạy vạy thoát thân, mới được bỏ qua đi một cách mập mờ. Còn quan huyện thì vì bẻ cong pháp luật phải khép tội đày.
Chu được thả về càng phục Thành can đảm. Riêng Thành từ sau khi trải qua kiện tụng, tình đời nguội lạnh như tro. Muốn rủ Chu cùng mình đi ẩn, nhưng Chu còn đắm đuối vợ trẻ, nên nghe nói thì cười chàng viễn vong. Thành tuy không đáp song y đã quyết. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy chàng trở lại, Chu cho người sang nhà Thành thám thính, thì người nhà cũng ngỡ chàng đang ở nhà Chu; hai nơi đều không thấy nên mới đâm ngờ. Chu biết có chuyện lạ, cho người đi tìm; chùa quán, hang hốc không đâu không dò hỏi. Thỉnh thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con của bạn.
Được khoảng tám chín năm thì Thành bỗng tự tìm về. Khăn vàng áo lông, nghiễm nhiên đã có dáng dấp đạo sĩ. Chu mừng nắm tay bạn hỏi:
- Anh đi đâu để tôi tìm khắp?
Cười đáp:
- Mấy ngàn hạc nội, nào có nhất định ở đâu. Nhưng từ bấy đến nay may vẫn mạnh khỏe.
Chu sai bày tiệc rượu, kể sơ với bạn nổi niềm xa cách, có ý muốn Thành cởi bỏ áo đạo đổi lấy áo thuờng. Thành chỉ cười không nói,. Chu bảo:
- Ngu thật! Sao có thể bỏ vợ bỏ con như bỏ cái chổi cùn được.
Thành cười mà rằng:
- Không phải thế! Người định bỏ ta chứ ta nào có bỏ được người.
Hỏi đến chỗ ở thì chỉ trả lời là trên cung Thượng Thanh núi Lao Sơn.
Tiệc xong trở về giường nằm, Chu mơ thấy Thành trần truồng nằm đè lên ngực, ngạt muốn tức thở. Gặng hỏi làm gì vậy, tuyệt nhiên không đáp. Giật mình tỉnh dậy, gọi Thành không thấy thưa, nhổm lên nhìn thì đã bỏ đi đâu mất tăm. Định thần nhìn lại mới biết mình đang ở trên giường của Thành. Sợ hãi kêu lên:
- Tối qua không say, sao mà đảo điên đến thế?
Bèn gọi người nhà. Người nhà thắp đèn lên, thì người ngồi đấy là Thành. Chu vốn nhiều râu, lấy tay sờ thì cằm lơ thơ chẳng có mấy sợi. Vội tìm gương soi, lạ lẫm thốt lên:
- Thành sờ sờ ở đây, thế thì mình đi đâu rồi?
Nói xong vụt hiểu ra, Tành sùng ảo thuật để gọi mình đi ẩn. Muốn về thăm vợ (4) nhưng người em thấy dung mạo khác anh ngăn lại không nghe. Chu cũng không cớ cách gì biện bạch, liền sai sắp ngựa và đầy tớ để đi tìm Thành.
Mấy ngày sau, đến núi Lao Sơn. Ngựa chạy nhanh đầy tớ theo không kịp. Chu tạm nghỉ dưới gốc cây, thấy những người khách mặc áo lông chim (5) qua lại rất đông. Một đạo nhân trong số đó đưa mắt nhìn Chu. Chu nhân dịp hỏi thăm về Thành thì đạo sĩ cười đáp: Cũng có nghe anh. Hình như ở trên cung Thượng Thanh thì phải.
Nói xong đi ngay. Chu đưa mắt nhìn theo thì thấy ông ta đi ước chừng ngoài một tầm tên bắn, dừng lại chuyện trò với một người nào đấy nhưng cũng chỉ dăm câu rồi đi luôn. Người vừa chuyện trò với đạo sĩ dần dần đi đến, thì ra là người học trò cùng làng. Thấy Chu, anh ta kinh ngạc kêu lên:
- Bao năm không gặp, nghe người ta nói anh lên non học đạo, thế mà nay còn dạo chơi cõi trần tục được ư?
Chu kể lại chuyện đổi lốt kỳ dị của mình; chàng kia hốt hoảng nói:
- Thế thì tôi vừa gặp anh ta kia mà cứ ngỡ là anh. Mới đi chưa được bao lâu, chắc cũng không xa đây lắm.
Chu kinh dị nói:
- Quái thật! Sao lại mặt mũi của mình mà mình vừa nhìn tận mặt cũng không nhận ra được?
Đầy tớ cũng vừa tìm tới, vội gấp gáp đuổi theo, nhưng rốt cuộc dấu vết vẫn mất hút. Nhìn lên phía trước chỉ thấy mịt mù xa tắp tiến thoái không còn biết đường nào mà tính. Tự nghĩ còn nhà đâu nữa mà về. Bèn quyết ý đuổi theo đến cùng. Mà đường thì quá cheo leo hiểm trở, không thể đi ngựa được nữa, đành giao ngựa cho đầy tớ dắt về, một mình thất thiểu đi tiếp.
Bỗng đâu xa xa nhác thấy một cậu tiểu đồng ngồi lẻ loi, vội đến gần hỏi đường, và nói rõ duyên cớ.Tiểu đồng tự nhận là đệ tử của Thành, thân mang giúp áo quần, lương thực dẫn chàng cùng đi. Nằm sương gối đất, vượt muôn dặm hành trình ba ngày mới tới, thì hóa ra Thượng Thanh lại chẳng phải như lời thế giam vẫn đồn. Bấy giờ đã là giữa tháng mười thế mà hoa rừng nở đầy lối đi, chẳng có vẻ gì là đầu mùa đông.
Tiểu đồng vào báo tin khách đến, Thành vội vàng chạy ra, chàng mới nhận ra được hình dáng của mình. Cầm tay dắt vào bày tiệc rượu chuyện trò yếm ẩm. Chu thấy nhiều giống chim sắc màu kỳ dị, dạn dĩ không sợ người, thường đến đậu ngay chỗ ngồi mà hót, tiếng nghe như đàn sáo, trong lòng rất lấy làm lạ. Nhưng lòng trần còn vấn vít, không có ý muốn lưu lại. Dưới đất trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo Chu cùng ngồi. Quá canh hai, muôn vàn lo nghĩ đều lắng xuống, vừa chợp mắt một cái, bỗng cảm thấy giữa mình và Thành thân hình lại có sự trao đổi. Ngờ vực, đưa tay sờ cằm, thì lại rậm râu như cũ.
Sáng ra, hăng hái muốn về ngay. Thành cố giữ lại, sau ba ngày mới bảo:
- Xin cứ ngủ một lúc, sáng mai sẽ đưa anh về.
Mới thiu thiu thì đã nghe tiếng Thành gọi: “Hành trang đã sẵn rồi!” Bèn trở dậy theo đi. Con đường lần này khác xa lối cũ. Chưa được bao lâu đã cảm thấy làng quê hiện ra trong tầm mắt. Thành ngồi lại bên đường đợi, bảo Chu cứ về. Chu cố nài không được, đành lầm lũi đi về. Đến trước cổng nhà, gõ không thấy thưa, đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ tựa như chiếc lá, nhảy một cái phóc qua tường ngay. Vượt qua mấy lớp tường thấp mới tới phòng ngủ. Bên trong đèn đuốc sáng trưng, vợ mình vẫn chưa ngủ, đang trò chuyện thì thầm với ngưòi nào đấy. Chàng dùng lưỡi nhấm giấy dán cửa sổ, khẽ nhòm vào, thì cô vợ đang ngồi cùng một tên đầy tớ vai u thịt bắp (6) chuốc rượu cho nhau, bộ dạng rất lả lơi. Lửa giận bốc lên, đã toan xông vào bắt, lại sợ thế cô thắng không nổi, bèn lẳng lặng nhảy ra khỏi cửa, chạy đến báo với Thành, nhờ giúp một tay, Thành khảng khái nhận lời, cùng đi thẳng tới buồng ngủ của vợ. Chu nhấc một hòn đá đập cửa. Bên trong hoảng sợ rối rít. Cửa càng đập gấp, trong càng cài chặt. Thành rút gươm đưa một nhát, cửa bậc tung ra. Chu ập vào, tên đầy tớ vùng chạy ra cửa. Thành đứng ngoài cửa dùng kiếm chém, đứt lìa cánh tay đến tận vai. Chu bắt vợ ra tra khảo, mới biết nàng tư thông với đứa ở từ hồi chàng còn trong ngục. Chu mượn gươm chặt đầu vợ, treo ruột lên cành cây trước sân, rồi theo Thành quay ra, tìm đường trở về núi. Thốt nhiên giật mình tỉnh dậy, thì thân thể vẫn đang nằm trên giường. Chàng kinh ngạc nói:
- Mộng mị quàng xiên, làm mình đâm hoảng.
Thành cười đáp:
- Mơ thì anh bảo là thực, thực anh lại bảo là mơ.
Chu ngạc nhiên hỏi lại, Thành đưa gươm cho xem thì thấy vết máu vẫn còn nguyên. Chu sợ đến thất thần, nhưng lại trộm ngờ Thành bày trò ảo thuật dối gạt. Thành biết ý, bèn sắp sửa hành trang đưa chàng về.
Thấm thoát đã đến đầu làng. Thành bảo:
- Đêm đó tôi chống kiếm đợi anh, chẳng phải ở đây là gì! Tôi đã chán nhìn trò đời vẩn đục, xin lại được đợi anh ở đây. Nếu quá giờ thân anh không ra, sẽ đi một mình.
Chu đến nhà, nhìn thấy cửa ngõ tiêu điều, dường như không có người ở, bèn vòng sang nhà người em. Vừa gặp anh, em đã giàn giụa nước mắt kể lể:
- Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị, khoét ruột thảm thương không thể tả. Đến nay quan lùng bắt chưa được.
Chu như người trong mộng chợt tỉnh, bèn đem tình thực mà nói, lại dặn đừng truy cứu nữa làm gì. Người em đứng ngây ra một lúc lâu. Chu hỏi thăm con mình. Bèn gọi vú già bế tới. Chu bảo em:
- cái vật trong bọc tã này có quan hệ đến việc nối dõi tông đường, em hãy cố mà chăm sóc. Anh nay sắp từ giã việc đời rồi.
Thế rồi đứng dậy đi ngay. Người em nước mắt lã chã, chạy theo níu lại, chỉ cười mà đi thẳng. Ra đến ngoài làng gặp lại Thành, cùng nhau đi tiếp. Khi đã xa quay đầu lại dặn:
- Sự đới nhẫn nhục là hay nhất.
Người em muốn nói thì Thành đã khoát tay áo một cái, lập tức không còn nhìn thấy đâu nữa. Đành đứng sững hồi lâu, gào khóc rồi về.
Em Chu là ngưòi vụng về chất phác, không biết dạy bảo người nhà trông nom vườn ruộng. Sống được vài năm thì nhà càng nghèo. Con trai Chu dần lớn lên, không thể đón được thầy, phải tự mình dạy cháu học. Một hôm đến thư trai vào sáng sớm, thấy một phong thư để trên án, niêm rất kỹ ngoài đề: “Em trai mở”. Nhìn xem thì đúng là nét chữ của anh. Mở ra, trống rỗng chẳng có gì, chỉ thấy một cái móng dài chừng hai đốt tay. Bụng lấy làm kỳ quái. Đặt móng tay lên nghiên mực rồi bước ra, hỏi người nhà thư ở đâu gửi tới, song không ai biết cả. Quay trở lại nhìn thì thấy nghiên đá sáng chói, đã hóa thành vàng. Vô cùng kinh ngạc. Đem đặt thử lên đồng, sắt đều như thế cả. Từ đấy giàu to. Đem ngàn vàng giúp cho con Thành. Vì thế, thiên hạ đồn rằng hai nhà này có thuật điểm kim.

NGUYỄN HUỆ CHI dịch

Chú Thích
(1) Văn Đăng: một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.
(2) Nguyên văn “chữ cứu giao” là một điển cố chỉ sự kết thân không kể sang hèn. Chúng tôi dịch thoát. (là người dịch)
(3) Nguyên văn “mục trư nô” thường gọi thô tục cho dân cờ bạc.
(4) Vì phòng “trai” tức là nhà học, thường cất cách biệt với nhà ở, cho nên ở đây nói là về thăm vợ.
(5) Chỉ theo Đạo giáo. điển cố này bắt nguồn từ biệt hiệu Kim Môn Vũ Khách của đạo sĩ Đàm Từ Tiêu thời Nam Đường.
(6) Nguyên văn “ty bộc” là hạng đầy tớ dùng vào việc lạo động nặng nhọc như chặt củi, nuôi ngựa.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Tịch Phương Bình

Tịch Phương Bình người Đông An (1) , cha tên là Liêm, thẳng tính nhưng nói vụng; nhân cùng một người nhà giàu họ Dương trong làng có chuyện hiềm khích. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, bảo mọi người rằng:
- Lão Dương nay đang lo lót ở dưới âm ty, sai người bắt tôi.
Được một chốc, mình mẩy tấy đỏ lên, kêu gào mấy tiếng rồi chết. Tịch buồn thảm, không ăn, nói:
- Cha tôi thực thà chất phác, nay bị loài quỷ dữ lăng nhục, tôi phải đánh đường xuống đất thân oan cho cha mới được.
Từ bấy giờ không nói năng gì nữa, lúc thì ngồi, lúc lại đứng, tình trạng giống hệt như người ngây, thì ra hồn đã lìa khỏi xác.
Thoạt đầu, Tịch cảm thấy mình ra khỏi cửa, không biết đi đâu. Nhìn trên đường thấy có người đi, bèn hỏi thăm đâu là thành quách của ấp. Một lát, vào đến thành thì cha mình đã bị giam vào ngục. Đi đến cửa ngục, xa xa trông thấy cha mình đang ngồi dưới thềm, có vẻ khổ sở lắm. Ngước lên nhìn thấy con, nước mắt ông bỗng trào ra, liền gọi:
- Quan lại ngục đứa nào cũng nhận hối lộ cả, và được rỉ tai trước cả, nên ngày đêm đánh đập tra khảo, đùi vế dập náp đến tệ hại.
Tịch nổi nóng lớn tiếng mắng quân canh ngục:
- Nếu như cha ta có tội, thì đã có phép vua, đồ quỷ chết rấp chúng bay há lại có thể hoành hành như thế được sao?
Mắng rồi bèn trở ra, kiếm giấy bút làm đơn. Vừa gặp thiên hầu buổi sớm của hoàng thành (2), chàng đệ đơn lên kêu oan. Họ Dương sợ, đút lót từ trong đến ngoài, rồi mới ra công đường đối chất. Thành hoàng lấy cớ lời tố cáo của Tịch không có bằng cớ, chẳng coi ra gì cả.Tịch uất ức mà không còn chỗ nào để giải bày, bèn cứ mò mẫm mà đi, chừng hơn trăm dặm thì đến quận, đem tình trạng quan lại chức dịch tư túi, trình lên viên quan đầu quận. Việc trì hoãn đến nửa tháng mới đem ra xét xử. Quan quận cho Tịch một trận đòn, rồi phê vào đơn, trả về cho thành hoàng xét lại án.
Tịch trở về ấp cũ, chịu đủ mọi thứ gông cùm, đau đớn oan ức không biết trút đi đâu cho hả. Thành hoàng sợ chàng lại kiện nữa, bàn sai nha dịch áp giải về nhà. Nha dịch đưa về đến cổng mới bỏ đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống cõi âm, đến tận phủ Diêm vương, tố cáo tội tham tàn của quận và ấp. Diêm vương lập tức cho bắt cả hai đến đối chất. Hai viên qua mật sai người tâm phúc đến thương thuyết với Tịch hứa biếu tịch ngàn vàng. Tịch không nghe. Mấy hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch rằng:
- Anh giữ ý khăng khăng quá, quan phủ đã cầu hòa mà cố chấp không nghe. Nay nghe đâu người nào cũng có thư riêng dâng lên Diêm vương, sợ việc hỏng mất.
Tịch cho là lời đồn vu vơ ngoài đường, cũng chưa tin lắm. Chốc lát có người mặc áo đen (3) gọi vào hầu.
Lên giữa công đường, trông thấy Diêm vương mặt có sắc giận, không nói năng gì, truyền đánh ngay hai mươi roi. Tịch xẵng giọng hỏi:
- Kẻ tiểu nhân có tội gì?
Diêm vương tảng lờ như không nghe. Tịch chịu đòn, kêu to lên:
- Phải đòn là đáng lắm! Ai bảo mi (4) không có tiền.
Diêm vương càng giận, truyền lệnh đặt lên giường lửa. Hai tên quỷ liền tóm lấy hai chân Tịch. Trông sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt, lửa đốt ở phía dưới, cả mặt giường đều đỏ rực. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, đặt chàng nằm lên giường, đưa tay lăn qua lật lại. Đau buốt xương thịt cháy đen, khổ không chết đi được. Ước chừng hơn một giờ, quỷ bảo:
- Đủ rồi!
Bèn đỡ chàng dậy, bắt xuống giường mặc áo, may còn tập tễnh mà đi được. Lại dẫn đến trước công đường. Diêm vương hỏi:
- Còn dám kiện nữa không?
Tịch đáp:
- Oan to chưa giải, tấc lòng này vẫn không nguội lạnh; nếu nói rằng không kiện nữa chính là lừa dối đại vương thôi. Nhất định còn kiện nữa.
Lại hỏi:
- Lấy lời lẽ gì mà kiện?
Tịch đáp:
- Những cái thân tôi đang phải chịu đây, đều là lời lẽ cả đấy.
Diêm vương nổi giận, hạ lệnh dùng cưa, xẻ thân hình chàng ra. Hai tên quỷ liền kéo đi, nhìn thấy một cây gỗ dựng đứng, cao hơn tám chín thước, lại có hai tấm ván đặt ngửa ở phía dưới; từ trên xuống dưới máu còng đọng bê bết. Đang sắp chịu trói, bỗng trên công đường có tiếng gọi to:
- Họ Tịch kia!
Hai tên quỷ lại điệu chàng về ngay chỗ cũ. Diêm vương lại hỏi:
- Còn dám kiện nữa thôi?
Đáp rằng:
- Nhất định kiện nữa!
Diêm vương truyền lệnh bắt ra cửa mau. Đến dưới cây gỗ, bọn quỷ dùng hai mảnh ván kẹp Tịch vào giữa, rồi trói vào thân cây. Lưỡi cưa vừa hạ xuống, đã cảm thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không chịu nổi, nhưng cố nhịn đau không kêu. Nghe bọn quỷ nói với nhau:
- Gan thay anh chàng này!
Lưỡi cưa đưa xoèn xoẹt, xuống dần đến dưới ngực. Lại nghe một tên quỷ nói:
- Người này chí hiếu, không có tội gì, hãy cho lưỡi cưa lệch một tí, đừng để hại đến quả tim của hắn.
Liền cảm thấy lưỡi cưa cong chênh chếch mà ấn xuống, cang đau đớn khổ sở gấp bội. Chỉ giây lát nửa thân hình đã tách rời. Vừa cởi ván ra, hai mảnh thân đều đổ ụp. Quỷ lên công đường lớn tiếng trình báo. Trên công đường truyền gọi, bảo khớp thân thể lại rồi lên bái kiến. Hai tên quỷ tức thì đưa tay đẩy, khiến cho hai mảnh thân hợp ngay lại, rồi kéo dậy bảo đi. Tịch cảm thấy ở đường cưa đã dính liền, đau nhức nhối, chừng như lại muốn xé ra, đi nửa bước lại ngã dúi. Một tên quỷ rút ngay giải thắt lưng bằng dây tơ của mình ra, trao cho chàng, nói:
- Tặng cái này, để đền đáp lòng hiếu của ngươi.
Chàng nhận lấy đeo vào thì thân thể đột nhiên khỏe khoắn trở lại, không còn nhức nhối khổ sở chút nào. Bèn lên công đường sụp lại. Diêm vương lại vấn hỏi như trước. Tịch sợ lại tái diễn những cực hình tàn ác, đành đáp rằng không kiện nữa. Diêm vương lập tức hạ lệnh đưa chàng trở về dương gian. Sai nha đưa ra khỏi cửa Bắc chỉ vẽ đường cho chàng rồi quay đi.
Tịch nghĩ các công sở dưới cõi âm lại còn mờ ám hơn ở trên trần thế, nhưng không còn đường nào để kêu thấu đến tai thượng đế thì biết làm gì được. Thế gian vẫn truyền rằng có Nhị Lang (5) ở Quán Khâu là thân thuộc về bên ngoại Ngọc Đế. Vị thần này thông minh chính trực, đến đấy kêu tất có linh ứng khác thường. Lại mừng thầm hai tên sai nha đã đi rồi, bèn quay sang hướng Nam. Giữa lúc đang rong ruổi, bỗng có hai người đuổi theo nói:
- Đại vương ngờ ngươi không chịu về, nay quả thế thực.
Rồi tóm lấy chàng đưa trở lại yết kiến Diêm vương. Bụng nghĩ chắc Diêm vương lần này sẽ càng bực bội hơn, tai vạ lại càng thảm khốc; ấy thế mà Diêm vương không hề có sắc giận, chỉ bảo Tịch rằng:
- Lòng hiếu của ngươi thật chí thành. Nhưng nỗi oan của cha ngươi, ta đã rửa sạch cho rồi, nay đã được đầu thai vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi kêu nài làm gì nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi một sản nghiệp đáng giá nghìn vàng, lại ban cho tuổi thọ, thì đã mãn nguyện hay chưa?
Bèn ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, sai lính đưa cho nhìn tận mắt. Tịch tạ ơn lui xuống. quỷ đưa chàng trở ra. Ra đến đường, đuổi mà mắng rằng:
- Thằng giặc gian hoạt này, luôn luôn tráo trở, khiến cho người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết! Nếu còn tái phạm thì phải bắt mà bỏ vào cái cối xay lớn, nghiền cho nát nhừ ra.
Tịch trừng mắt quát:
- Đồ ma quỷ, làm gì thế? Tính ta chịu được dao cưa chứ không chịu được roi vọt đâu. Xin hãy trở lại yết kiến đại vươngạc nhiên, nếu vương cho ta tự mình về lấy, thì cũng chẳng việc gì vất vả các anh đưa tiễn. Nói rồi liền quay trở lại. hai tên quỷ sợ, dùng lời ôn tồn khuyên dỗ chàng về. Tịch cố đi thực chậm rãi, đi được vài bước lại nghỉ ở bên đường. Quỷ nuốt giận không dám nói gì nữa. Chừng nửa ngày, đến một thôn kia, có ngôi nhà cánh cửa nửa mở nửa khép, quỷ kéo chàng ngồi xuống. Tịch nhân tiện ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ thừa lúc chàng không đề phòng, đẩy luôn vào bên trong cửa. Chàng thất đảm, định thần nhìn kỹ lại, thì thân mình đã hóa thành đưá trẻ sơ sinh. Phẫn uất chỉ kêu khóc, không bú ba ngày liền chết.
Vong hồn phiêu diêu đây đó mà vẫn không quên Quán Khẩu. Bôn tẩu chừng vài chục dặm, bỗng thấy một cỗ xe cắm lông chim đi tới, cờ quạt kiếm kích đứng chắn ngang đường. Đang vượt đường để tránh, chẳng may chạm vào nghi trượng, chàng bị mấy người cưỡi ngựa đi trước bắt được, trói lại giải đến trước xe. Ngẩng lên thấy ở trong xe có một người trai trẻ, tướng mạo khôi ngô, kỳ vĩ, hỏi Tịch là người nào? Giữa lúc lòng đầy oan ức mà chưa có chỗ để tuôn ra, lại nghĩ đây tất là một vị quan lớn, hoặc giả cũng là người có thể ra oai tác phúc được. Tịch bèn kể hết mọi nỗi thống khổ đau đớn của mình. Người trong xe truyền lịnh cởi trói cho chàng, và bảo đi theo sau xe. Lát sau, đến một nơi, có hơn mười quan viên ra đón ở bên đường. Nguời ngồi trong xe hỏi han từng người một. Thế rồi trỏ vào Tịch, bảo một vị quan rằng:
- Đây là người dưới âm, đang muốn đến đây tố tụng. Nên giúp anh ta làm rõ trắng đen ngay.
Tịch dò hỏi những người theo hầu, mới biết người ngồi trong xe là Cửu Vương điện hạ (6), con trai thượng đế, còn người mà ông dặn dò là Nhị Lang, Tịch nhìn Nhị Lang mình cao râu rậm, không giống như lời thế gian vẫn đồn.
Sau khi Cửu vương đa đi khỏi, Tịch theo Nhị Lang đến một tòa dinh thự, thì cha mình và họ Dương cùng đám nha lại đều đã có mặt. Chỉ thoáng chốc, trong xe tù lại có những tù nhân bước ra, đó là Diêm vương, viên quan đầu quận và thành hoàng.
Tất cả đều phải lên công đường đối chất và thẩm vấn. Những lời Tịch khai không có chỗ nào dối trá. Ba viên quan run lẩy bẩy, trông bộ dạng y như những con chuột bò mọp dưới đất. Nhị Lang cầm bút phê ngay bản án, khoảnh khắc sau truyền đưa phán quyết xuống cho mấy người can án cùng xem.
Án rằng:
“Kẻ giữ ngôi báu dưới Diêm La: Chức phong cho đến tước vương; thân chịu ơn Thượng Đế. Tự mình phải giữ lòng cao khiết; để nêu gương dẫn dắt quần thần. Không nên vẩy mực đua tham; chuốc lấy tiếng dèm quan nhuốc. Thế mà cũng yên đai kiếm kích; luống khoe khoang phẩm trật cao sang. Gớm thay loài dê độc lang tham; làm điếm nhục cả nhân thần khí tiết. Đục đánh khăng, dùi liền đánh đục, vợ con người còng trơ mỗi xương da; kình vồ cá, tôm bị cá vồ, mạng sâu kiến nhỏ nhoi đáng xót. Vậy nên: vốc nước Tây giang, vì ngươi rửa ruột; tất phải: đốt đường Đông Bích, mời bác vào vò (7) .
Thành hoàng, quận thú: là chức quan phụ mẫu chi dân; giúp Thượng đế trâu dê chăn dắt.Dẫu phẩm trật đứng vào hàng thấp; mà tận tâm nào sợ gãy lưng (8). Hoặc có khi chịu sức ép quan trên; người vững chí cũng cần cứng cổ. Thế mà: trên dưới vung tay làm diều làm ó, quên phắt đi dân chúng khốn cùng; lại nữa: dương dương đắc chí giảo hoạt gian manh, nào sá kể mình là quỷ đói. Vì của đút mà bẻ cong pháp luật; thật là quân dạ thú mặt ngưòi. Cho nên cần rút tủy nhổ long, liệt vào tội chết; kể cũng đáng lột da xé xác, bắt phải đầu thai.
Bọn sai nha: đã phiên chế vào nha môn ma quỷ; còn làm sao giữ cho được tính người! Nơi cửa công lẽ ra nên tu tỉnh hành vi, ngõ hầu có dịp hoàn sinh; chốn bể khổ cớ sao dám khuấy cho nổi sóng, gây thêm một trời oan nghiệt? Tung hoành như cường khấu, mặt chó gầy tháng sáu sinh sương (9) phá phách lại kêu làng, cậy oai hổ chặn đường chín ngả (10). Chốn u minh mặc sức ra uy, ai cũng biết cai tù thân thể, giúp hôn quan làm điều bạo ngược, người đều kinh đồ tể (11) to quyền. Thật đáng đem ra trước pháp trường, chân ta chặt hết; lại phải ném vào nước sôi trong vạc, rút hết gân xương.
Dương Mỗ kia: giàu có mà bất nhân; ranh ma thêm điêu trá. Đem vàng chóe che trùm địa phủ, khiến cõi âm tối tăm mù mịt, điện Diêm La khuất lấp mây mù, để hơi đồng xông thấu trời cao, làm cho thành chết uổng bao người, không được chứng đôi vầng nhật nguyệt. Mùi tiền tanh còn khiến sai được quỷ; sức bạc mạnh thông suốt thẳng đến thần. Cần tịch thu gia sản họ Dương; để đền đáp hiếu tình chàng Tịch”.
Lập tức giải phạm nhân ra núi Đông Nhạc thi hành bản án. Lại nói với Tịch Liêm:
- Nghĩ đến lòng hiếu thảo của con ngươi, và tính ngươi cũng hiền lành, vậy tăng tuổi thọ thêm ba kỷ nữa (12).
Nhân sai hai người đưa họ về làng. Tịch bèn sao chép lại bản án, trên đường đi hai cha con cùng xem. Về tới nhà Tịch sực tỉnh lại trước, bảo người nhà mờ áo quan để nhìn cha, thì xác còn cứng đờ lạnh như băng. Đợi suốt một ngày mới nóng dần lên, rồi sau sống lại. Kịp đến khi tìm tờ sao bản án thì không thấy đâu nữa.
Từ đấy nhà càng thịnh vượng; trong khoảng ba năm ruộng tốt đầy đồng. Mà con cháu họ Dương trở nên nghèo hèn; lầu gác ruộng nương hết thảy đều về tay họ Tịch. Trong làng cũng có người mua những ruộng ấy, đêm nằm mộng thấy thần nhân đến mắng:
- Đây là sản vật của nhà họ Tịch, ngươi làm sao có được?
Trước kia còn chưa tin lắm, đến khi trồng trọt thì suốt năm không thu hoạch được lấy một đấu thóc; vì thế lại phải bán về cho Tịch.
Cha con Tịch đều sống đến hơn chín mươi tuổi mới mất.
NGUYỄN HUỆ CHI dịch

Chú thích
(1) có nhiều nơi mang tên Đông An. Có thể đây là tên một châu xưa, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
(2) thành hoàng: viên quan ở âm phủ, coi một ấp.
(3) người mặc áo đen: lính hầu ở các nha môn ngày trước.
(4) Nguyên văn: “ngã” là tôi, chúng tôi dịch thoát.
(5) Nhị Lang: Chỉ Dương Tiễn, theo truyền thuyết là cháu ngoại của Ngọc Hoàng thượng đế.
(6) điện hạ: tiếng xưng hô của hoàng tử hoặc vua chư hầu.
(7) Ý nói người giữ cán pháp luật mà bất minh thì phải xử theo pháp luật. Theo tư trị thông giám: Chu Hưng là quan hữu thừa đời Đường, cùng Lai Tuấn Thần, đều là những lại ngục tàn ác. Có lần Chu Hưng phạm tội, Võ Tắc Thiên mật sai Tuấn Thần thẩm vấn. Tuấn Thần đến hỏi Chu Hưng: nếu thẩm vấn tội nhân mà chúng không chịu khai thì nên dùng cách gì? Hưng bảo: lấy một chiếc vờ lớn nung đỏ lên rồi bỏ phạm nhân vào đấy thì chúng phải khai ngay. Tuấn Thần làm như lời Hưng nói, xong bảo Hưng rằng: Trong cung có cáo giác anh phạm tội, vậy xin mời anh vào vò ho. Hưng đành sợ hãi cúi đầu nhận tội.
Các điển tích “nước Tây Giang” và “giường Đông Bích” nhiều chú thích trước nay đều chưa thật rõ.
(8) Xuấ xứ từ điển tích Đào Tiềm đời Tấn không vì mấy đấu gạo mà chịu gãy lưng. Ở đây ý nói cúc cung tận tụy vì công việc.
(9) Mặt chó gầy tháng sáu sinh sương: Ý muốn hình dung khuông mặt bon nha lại nham hiểm, sắ trắng nhợt. Ngoài ra có còn nói thêm ý nghĩa: chính bọn quan lại đó bẻ cong pháp luật, muốn làm gì thì làm, nên dân chúng phải chịu nhiều oan khuất. Xuất xứ từ điển tích: Trâu Diễn thời chiến quốc trung thành với Yến Huệ vương, khi Yến bị hạ ngục, Diễn ngữa mặt lên trời mà khóc. Trời cảm động nên mặc dầu đang giữa mùa hạ, mà sương vẫn rơi xuống.
(10) đường chín ngả: Tức con đường lớn, phần lớn là đưòng ở kinh đô.
(11) đồ tể: nguyên văn là “đồ bá” là biệt hiệu dân chúng dành cho Nghiêm Diên Niên đời Hán, một viên thái thú tàn ác, giết hại rất nhiều tù phạm. Chúng tôi dịch thoát.
(12) một kỷ là mười hai năm.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hoa Sen Mùa Lạnh
Hàn nguyệt phù cừ

Tế Nam có một đạo nhân, không biết quê quán ở đâu, cũng không rõ họ tên là gì, mùa đông hay mùa hè đều mặc một chiếc áo mỏng, thắt một sợi dây lưng màu vàng, ngoài ra không còn quần áo gì khác. Ông ta thường chải đầu bằng nửa miếng lược gỗ, chải xong lại cài vào tóc, làm như đội mũ; ngày ngày đi chân đất lang thang ngoài chợ, đem thì ngủ ở đầu đường. Quanh chỗ ông ta nằm khoảng vài thước, băng tuyết tan hết. Khi mới đến đất Tế, ông thường làm trò ảo thuật cho mọi ngườixem, người trong phố tranh nhau cho tiền. Có mấy tên vô lại trong ngõ, đem rượu tới, xin ông truyền phép cho, không nghe. Gặp lúc đạosĩ tắm dưới bến sông, chúng sấn lại ôm áo dấu đi để bắt bí. Đạo sĩ chắp tay vái nói:
- Xin trả lại cho, sẽ không tiếc gì mà không truyền phép thuật.
Tên vô lại sợ ông dối, cứ khư khư không chịu buông. Đạo nhân hỏi:
- Có thực không chịu trả không?
Đáp: Thực.
Đạo nhân nín lặng không nói gì với hắn nữa. Phúc chốc chiếc dây lưng vàng hóa thành con rắn, khoanh to bằng vài nắm tay, quấn lấy mình tên kia đến sáu bảy vòng, trừng mắt ngóc đầu thè lưỡi nhìn hắn. Tên kia kinh hoảng, quì xuống, mặt xanh nhợt, thở hổn hển, van xin cứu mệnh. Đạo nhân bèn lấy lại chiếc thắt lưng, thì té ra vẫn là thắt lưng, không phải rắn; ngoài ra còn một con rắn khác thì ngoằn ngoèo bò vào thành.
Vì thế danh tiếng của đạo nhân càng lừng lẫy. Các nhà quyền quý nghe thấy lạ, mời đến, cùng ông giao du. Từ đấy ông thường qua lại nhà các tiên sinh trong làng. Các vị quan to trong hạt đều nghe danh, mỗi khi có yến tiệc thường dắt đạo nhân đi cùng.
Một hôm, đạo nhân thết tiệc ở ngôi đình thủy tạ để đáp lễ các quan. Tới ngày hẹn các quan khách đều nhận được thiếp mời của đạo nhân để trên án thư, mà không biết từ đâu tới. Quan khách tới nơi, đạo nhân bước ra cung kính đón tiếp. Vào bên trong, thấy thủy đình trống rỗng, im lặng như tờ, bàn ghế cũng chưa kê, đều ngờ là lừa gạt. Đạo nhân thưa với các quan rằng:
- Bần đạo không có người hầu phiền các ngài cho mượn mấy người tùy tùng đỡ tay một lút.
Các quan xin vâng. đạo nhân vẽ lên vách hai cánh cửa, lấy tay gõ, nghe bên trong có tiếng thưa, liền rút then nâng cửa lên. Mọi người đổ xô ngó vào, thấy bên trong thấp thoáng những người qua lại. Bình phong rèm cửa, bàn ghế đều đủ cả. Rồi có người truyền đem tất cả mọi thứ ra cửa ngoài. Đạo nhân sai bọn người hầu của các quan đỡ lấy bày ra giữa đình, lại dặn đừng nói chuyện với những người bên trong. Hai bên trao nhận chỉ nhìn nhau mà cười. Giây lát mọi thứ trang hoàng bày chật cả thủy đình, lịch sự đến cùng cực. Thế rồi rượu ngon tỏa hơi ngào ngạt, mùi chả nướng thơm lừng, đều là những thứ từ trong vách đưa ra cả. Tân khách không ai không kinh dị.
Nhà thủy đình vốn xây lưng ra mặt hồ. Hằng năm vào tháng sáu, hoa sen nở chạy dài vài mươi khoảnh, bát ngát không thấy bờ. Nhưng bấy giờ đương vào tiết đông, ngoài cửa sổ chỉ thấy mênh mông làn khói biếc. Chợt một vị quan than rằng:
- Hôm nay được hội tụ tưng bừng (1), chỉ tiếc không có hoa sen tô điểm!
Mọi người cùng đồng thanh phụ họa. Phúc chốc một tên lệ mặc áo xanh chạy vào bẩm:
- Lá sen đã phủ kín mặt hồ rồi!
Cả bàn tiệc cùng kinh ngạc, đẩy cửa sổ trông ra, quả thấy đầy tầm mắt đều là lá non xanh biếc, chen lẫn với những bông sen. Rồi chỉ trong khoảng chớp mắt, muôn nghìn đóa sen nở tung một lượt, một làn gió bấc thổi tới, hương thơm ngào ngạt thấm tận tâm can. Mọi người đều lấy làm lạ lùng. Sai một tên nha lại chèo thuyền ra hái sen, đứng xa trông thấy thuyền vào tít giữa hồ sen, một lát bơi về tay không lên trình quan. Quan hỏi, nha lại thưa rằng:
- Tiểu nhân chèo thuyền đi, thấy hoa ở phía xa xa, dần dần sang tới bờ phía Bắc, ngoảnh lại, lại thấy xa tắp mãi tận phía Nam.
Đạo nhân cười nói:
- Đó chỉ là những bông hoa ở trong ảo mộng.
Không bao lâu, tiệc rượu tàn, hoa sen cũng tả tơi héo úa. Gió bấc vụt nổi lên làm gãy hết các cuống lá, không còn một cây nào sót lại.
Quan án Tế Đông bằng lòng lắm, dắt đạo sĩ về dinh, hàng ngày vui chơi tiêu khiển. Một hôm quan cùng khách uống rượu. Nhà quan vốn có một thứ rượu ngon gia truyền, mỗi lần uống chỉ lấy ra một đấu, không chịu cho uống phí. Hôm ấy khách uống ngon miệng, cố đòi dốc thêm vò rượu, quan khăng khăng chối từ, lấy cớ rượu đã nhẵn. Đạo nhân cười bảo khách rằng:
- Các ngài nếu muốn uống cho thỏa, cứ hỏi bần đạo này là được.
Khách vâng ngay. Đạo nhân cầm hồ bỏ trong tay áo, giây lát lấy ra, rót khắp một lượt, chẳng khác gì thứ rượu quan dấu trong nhà. Ai nấy say sưa thỏa thích mới thôi.
Quan đâm ngờ, vào nhìn bình rượu, thì dấu niêm phong hãy còn nguyên, mà rượu đã không còn một giọt. Trong bụng vừa thẹn vừa giận, lấy cớ là yêu quái, cho bắt đạo sĩ đánh đòn. Gậy vừa quất vào, quan cảm thấy đùi mình thốt nhiên đau buốt; đánh thêm một hèo nữa, thịt đùi tưởng như muốn toạt ra. Dưới thềm tuy đạo nhân cất tiếng kêu rên, nhưng trên công đường, quan án đã chảy máu đầm đìa. Quan bèn truyền dừng tay, không đánh nữa và đuổi đạo nhân đi. Đạo nhân bèn rời khỏi đất Tế, không biết là đi đâu. Sau có người gặp ở Kim Lăng, cách ăn mặc vẫn như cũ. Hỏi, chỉ cười không nói.
MỘNG TIẾN dịch
Chú thích
(1) có bản: “cảnh đẹp thế này”



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Vụ Án Bài Thơ
Thi Nguyệt

Người dân Thanh Châu (1) là Phạm Tiểu Sơn làm nghề buông bút, đi buôn chưa về. Khoảng tháng tư vợ là Hạ thị ở nhà một mình, đêm bị cướp giết chết. Đêm ấy mưa phùn, giữa bùng rơi một chiếc quạt đề thơ là thơ của Vương Thạnh tặng Ngô Phi Khanh. Không biết thạnh người ở đâu, còn Ngô là một người giàu có ở Ích Đô, cùng làng với Phạm, thường ngày hay có hành vi thiếu đứng đắn, bởi vậy hàng xóm đều tin Ngô là thủ phạm. Quan huyện bắt lên tra hỏi, một mực không nhận, gông cùm thảm khốc rồi bị vu mà thành án. Tra đi xét lại, trải hơn mười vị quan cũng không ai nghị án khác đi. Ngô nghĩ mình ắc chết bèn dặn vợ dốc hết của nhà ra giúp đỡ những người cô quả. Ai ngoảnh mặt vào cửa niệm Phật một nghìn lần thì được quần bông, niệm đến vạn lần thì được áo bông, thế là những kẻ ăn xin kéo đến đông như chợ, tiếng khấn Phật vang dài đến chục dặm, do vậy nhà nghèo đi rất nhanh, chỉ còn cách ngày ngày bán ruộng đất để chi dùng.
Ngô ngầm mua chuộc người coi ngục để nhờ mua hộ thuốc độc. Đêm ấy, Ngô nằm mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Nhà ngươi chớ vội chết, ngày trước bên ngoài hung thì nay bên trong cát rồi!” Ngủ thiếp đi vẫn mơ thấy nói thế, bèn không quyết chết nữa.
Ít lâu sau, ông Chu Nguyên Lượng (2) về trấn thủ vùng này. Thẩm tra lại các án tù, đến Ngô, ông có chiều suy nghĩ, nhân đó hỏi rằng:
- Tên Ngô giết người có chứng cớ xác thực không?
Phạm trả lời là có quạt. Ông Chu xem kỹ cái quạt rồi hỏi:
- Vương Thạnh là người nào?
Tất cả đều không biết. Ông lại lấy tờ cáo trạng ra xem kỹ một lượt rồi lập tức ra lệnh tháo cùm tử tù cho Ngô, từ nhà giam chuyển ra cho ở nhà kho.
Phạm cố tranh cãi, ông giận dữ mắng rằng:
- Nhà ngươi muốn giết oan một người cho xong hay là muốn tìm cho ra kẻ thù thì mới cam lòng?
Mọi người nghi ông có tư tình với Ngô nhưng đều không dám nói. Ông bèn lâý cái thẻ màu đỏ cho bắt ngay người chủ quán ở Nam Quách. Chủ quán sợ hãi không hiểu nguyên do. Khi chủ quán đến, ông hỏi rằng:
- Trên vách quán nhà anh có bài thơ của Lý Tú người ở Đông Quan; Lý viết khi nào vậy?
Đáp rằng:
- Năm ngoái quan đốc học đến kiểm tra, có hai ba thầy tú tài ở Nhật Chiếu uống say rồi đề thơ, không biết họ ở làng nào.
Ông sai nha dịch đến đất Nhật Chiếu bắt Lý Tú. Mấy ngày sau Tú đến, ông giận dữ hỏi:
- Đã là tú tài, sao còn mưu giết người?
Tú rập đầu ngơ ngác đáp:
- Không hề có chuyện ấy!
Ông sai ném cái quạt xuống, sai Tú tự xem rồi nói:
- Rõ ràng là thơ của ngươi, sao dám nói dối là của Vương Thạnh?
Tú xem kỹ rồi thưa:
- Thơ quả do tôi làm, chữ thực không phải tôi viết.
Ông bảo:
- Kẻ nào đã viết thơ của ngươi thì ắt kẻ đó là bạn của ngươi. Ai lả người viết?
Tú đáp:
- Xem nét chữ chừng như Vương Tá ở Nghi Châu.
Ông sai nha dịch bắt giữ Vương Tá. Tá đến, ông cũng quát hỏi như đối với Tú. Tá khai rằng:
- Ấy là người buôn sắt ở Ìch Đô là Trương Thành khẩn cầu tôi viết và có nói Thạnh là anh họ ông ta.
Ông nói:
Thằng cướp đây rồi!
Cho bắt Thành đến, vừa tra hỏi hắn đã phải nhận ngay.
Trước đó, Thành trộm thấy Hà thị đẹp, muốn gợi tình nhưng sợ việc không xong, mới nghĩ cách mượn tên Ngô thì ắt mọi người đều tin, cho nên mới giả làm chiếc quạt của Ngô rồi cầm theo. Nếu việc thành thì tự nhận là mình, không thành thì gán cho Ngô, nhưng thực lòng không ngờ đến nỗi giết người. Hắn leo tường vào cưỡng bức người thiếu phụ. Thiếu phụ vì sống có một mình nên thường để sẵn dao tự vệ. Khi phát giác, túm lấy áo Thành rồi rút dao ngồi dậy. Thành sợ giật lấy dao, còn thiếu phụ thì cứ cố níu không cho thoát, lại kêu ầm lên. Thành càng cuống bèn đâm chết rồi vứt quạt bỏ đi.
Vụ án oan uổng ba năm trước chỉ một sớm mà rửa được oan, ai cũng khen ông sáng suốt như thần. Ngô lúc bấy giờ mới tỉnh ngộ “bên trong cát” là chữ Chu (3)周 , nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu vì sao ông biết là oan. Sau đó, một vị thân hào trong làng thừa dịp hỏi ông, ông cười mà rằng:
- Điều ấy dễ biết lắm. Đọc kỹ tờ cáo trạng thì Hà thị bị giết vào thượng tuần tháng tư. Đêm ấy mưa phùn, tiết trời còn lạnh, quạt là thứ không cần thiết, thủ phạm há vào lúc vội vàng cấp bách còn mang theo cho phiền lụy thêm sao? Đủ biết là nhằm giá họa vậy. Trước đây nhân lúc trú mưa ở Nam Quách, thấy bài thơ đề trên vách quán, khẩu khí tương tự bài thơ đề trên quạt, do đó cứ đồ chừng là chàng họ Lý, quả nhiên nhân đó mà rìm ra tên cướp thật.
Ai nghe chuyện cũng đều thán phục.

PHẠM TÚ CHÂU dịch
Chú thích
(1) Thanh Châu: một trong chín châu thời xưa ở TQ, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh. Nhưng Thanh Châu cũng là tên một phủ của tỉnh Sơn Đông.
(2) Chu Nguyên Lượng: nhân vật có tên thật là Lượng Công, hiệu là Lịch Viên, người Tường Phù tỉnh Hà Nam, từng làm thị lang Hộ Bộ.
(3) “bên trong cát” chỉ họ của ông Nguyên Lượng




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Mộng Thấy Chó Sói
Mộng lang

Ông họ Bạch người Trực Lệ, có con trai lớn là Giáp, mới ra làm quan ở phương Nam, ba năm không có tin tức. Chợt có một người họ Đinh có họ hàng dây mơ rễ má đến thăm, ông giữ ở lại. Đinh vốn làm phụ đồng thiếp(1). Trong lúc chuyện trò, ông bèn hỏi chuyện âm phủ, Đinh trả lờicó nói đến những điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ cười ruồi.
Chia tay được mấy ngày, ông vừa nằm nghỉ, thấy Đinh lại đến, mời ông cùng đi chơi. Ông đi theo, vào một tòa thành. Lát sau, Đinh trỏ một cái cửa bảo:
- Cháu ông ở trong ấy đấy.
Bấy giờ ông có người cháu con chị gái, đang làm quan huyện đất Tấn, bèn ngạc nhiên hỏi:
- Sao nó ở đây được?
Đinh đáp:
- Không tin, cứ vào sẽ biết.
Ông vào, quả nhiên thấy cháu, mũ điêu thiền, áo trãi tú (2) ngồi trên công đường, cờ kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ông ra bảo:
- Còn nha môn của công tử cũng cách đây không xa, ông có muốn đến xem không?
Ông bằng lòng. Lát sau đến một tòa nhà, Đinh bảo:
- Ông vào đi!
Nhòm qua cửa thấy một con sói to tướng chắn giữa lối, ông sợ quá không dám bước tới. Đinh giục:
- Ông cứ vào đi!
Lại vào một cửa nữa thấy trên nhà dưới nhà, con nằm con ngồi đều là sói cả.Nhìn đến thềm, xương trắng chất cao như núi, ông lại càng sợ. Đinh phải lấy mình che cho ông mà đi vào.
Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm. Ngồi một lát, Giáp gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Bỗng một con sói ngoạm xác người chết đem vào. Ông run rẩy đứng dậy hỏi:
- Để làm gì?
Giáp đáp:
- Để đưa xuống nhà bếp.
Ông vội ngăn lại, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng đàn sói đã cản đường. Đang lúc tiến lui chưa quyết bỗng thấy lũ sói tán loạn chạy trốn, con chui gầm giường, con rút gầm ghế, ông kinh ngạc không hiểu vì sao. Giây lát có hai lực sĩ dũng mãnh mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây thừng đem ra trói Giáp. Giáp ngã xuống đất hóa thành hổ, răng nhe tua tủa. Một người rút kiếm sắt toan chặt đầu, người kia ngăn:
- Hãy khoan, hãy khoan! Đấy là việc của tháng tư năm sau, chi bằng hãy tạm bẻ răng nó đã.
Bèn rút cây chùy sắt thật lớn ra đập vào răng, răng rơi rụng xuống đất. Hổ rống lên vang động núi non. Ông thất kinh, sực tỉnh, mới biết là mộng. Trong lòng lấy làm lạ, cho người mời Đinh, Đinh từ chối không đến. Ông ghi lại giấc mộng sai con trai thứ mang đưa cho Giáp, trong thư răn đe thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gãy hết, kinh hãi hỏi anh, thì ra bị gãy vì ngã ngựa trong cơn say rượu. Hỏi kỹ thời gian thì đúng vào ngày cha nằm mộng thì càng hãi, đưa thư của cha cho xem. Giáp xem thư tái mặt, lát sau nói:
- Đấy là ảo mộng, ngẫu nhiên phù hợp, có gì đáng lạ.
Khi ấy Giáp đang hối lộ các quan trên để được tiến cử trước, cho nên không để ý đến giấc mộng gỡ của cha. Người em ở chơi mấy ngày, thấy bọn nha lại sâu mọt đầy công đường, người nộp của đút và người xin hộ đến nửa đêm vẫn không ngớt, bèn rớt nước mắt can ngăn anh. Giáp đáp:
- Em hàng ngày ở chốn nhà tranh cho nên không biết điều quan yếu của đường làm quan. Quyền thăng hay truất ở quan trên chứ không do trăm họ. Quan trên hài lòng là quan tốt. Thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?
Người em biết không thể can ngăn được nên về thuật lại với cha. Ông Bạch nghe xong khóc rống lên, không biết làm thế nào, chỉ còn biết bỏ của ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần kinh, chỉ xin nếu báo oán đứa nghịch tử thì đừng để lụy đến vợ con.
Năm sau có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người mừng đến chật cổng. Ông chỉ khóc tức tưởi, phục xuống gối thác bệnh không ra. Chẳng bao lâu nghe tin con trai trên đường về gặp cướp, tớ thầy đều chết. Ông trở dậy bảo người nhà:
- Cơn giận của quỷ thần chỉ tới một mình nó, còn sự phù hộ cho nhà ta không phải không sâu nặng vậy.
Nhân đó ông thắp hương lễ tạ. Người đến hỏi thăm đều cho rằng đó là lời đồn đại sai ngoa ngoài đường sá, chỉ có ông tin chắc không chút nghi ngờ, định ngày bói nơi chôn cất.
Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước đó, khoảng tháng tư, Giáp thôi chức cũ, vừa ra khỏi điạ phận liền gặp cướp, Giáp dốc hết hành trang nộp cho chúng. Bọn cướp bảo:
- Chúng tao đến đây để hả nỗi oan phẫn cho dân cả ấp, đâu chỉ vì những thứ này.
Nói rồi chém đầu Giáp, xong, hỏi người hầu:
- Tư Đại Thành là đứa nào:
- Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp Kiệt làm điều bạo ngược. Gia nhân đều chỉ vào hắn, cướp cũng giết chết nốt. Lại thêm bốn tên nha dịch sâu mọt là tay sai vơ vét cho Giáp, được Giáp đưa về kinh, đều bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của bỏ vào túi, phóng ngựa bỏ đi.
Hồn Giáp phục ở bên đường, thấy một quan tể đi qua hỏi:
- Người bị giết là ai thế nhỉ?
Toán quân đi trước đáp:
- Đó là tri huyện họ Bạch ở huyện nọ đấy?
Quan tể bảo:
- Hắn là con trai ông họ Bạch, không nên để cho ông lão đến sau phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này. Nên chắp đầu lại cho hắn.
Lập tức có một người nhặt đầu đặt vào cổ rồi nói:
- Kẻ gian tà không nên để đầu ngay ngắn, nên cho vai đỡ lấy cằm (3) là được.
Nói rồi trẩy đi. Lát sau Giáp sống lại. Vợ con đến nhặt xác thấy còn thoi thóp, bèn chở về, từ từ cho uống, cũng uống được, nhưng đành sống gửi nơi quán trọ vì nghèo quá không thể về được. Khoảng nửa năm sau, ông mới biết tin đích xác, sai con thứ đến đưa về.
Giáp tuy sống lại nhưng mắt tự nhìn được lưng mình, không còn ra vẻ con người được mấy nỗi. Còn con trai người chị thì nhờ được tiếng trị dân giỏi, năm đó được thăng ngự sử. Tất cả đều hệt như trong giấc mộng.
Dị sử thị bàn rằng:
Ta trộm than rằng: trong thiên hạ, quan là cọp mà nha môn lại là sói, đâu cũng thế cả. Cho dẫu quan chưa là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói; huống chi lại có chính lệnh khắc nghiệt còn dữ hơn cả cọp (4) nữa kia! Điều người ta lo là không thể tự mình quay nhìn lại phía sau; cho sống lại mà lại còn làm cho chính mình nhìn thấy được đằng sau, bài học của quỷ thàn mới sâu xa tinh tế biết bao!
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Chú thích
(1) phụ đồng thiếp: một thuật mê tín cho là có thể đưa hồn người sống xuống thăm âm phủ.
(2) mũ điêu thiền: mũ vẽ hoa văn hình ve tượng trưng cho thanh cao trong sạch và cắm đuôi điêu tượng trưng cho sức mạnh bên trong mà bên ngoài ôn hòa.
Áo trãi tú: áo thêu hình con thú một sừng gọi là giải trãi, biết phân biệt ngay gian. Cả hai loại mũ áo trên là trang phục của quan ngự sử.
(3) nên cho vai đỡ lấy cằm: bản gốc là “cổ” không hợp lắm. Chúng tôi dựa vào một bản khác.
(4) Lời Khổng Tử trong thiên “Đàn cung” sách Lễ ký: “Chính sách hà khắc còn dữ hơn cọp”.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN ĐỨC LÂN- NGUYỄN HUỆ CHI dịch
CÔ TIÊM
( A Tiêm)

Hề Sơn, người miền Cao Mật (1), làm nghề chạy hàng xách, thường qua lại làm khách ở vùng Mông, Nghi. Một hôm giữa đường trời mưa, vội tới nhà trọ quen, nhưng đêm đã khuya, gõ cửa mãi mà chẳng ai lên tiếng. Đang quẩn quanh dưới mái hiên, bỗng hai cánh cửa mở hé, một cụ già bước ra mời khách vào. Sơn mừng vào theo, tấp tểnh bước lên nhà trên. Trong nhà không có giường ghế gì cả. Ông già nói:
- Tôi thương ông khách không biết về đâu, mới cho tạm trú, chứ tôi thực không phải là người bán cơm ,buôn rượu. Trong nhà không ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái yếu đuối, đều đã ngủ kỹ. Thức ăn thì có đấy nhưng khổ nỗi là không còn nóng mấy nữa. Xin chớ hiềm ăn nguội nhé!
Nói rồi vào nhà trong. Một lát khiêng ra một chiếc giường chân thấp, đặt xuống mặt đất, giục khách ngồi. Lại vào, mang ra một cái bàn chân thấp. Hết ra lại vào, trông dáng tất tả cực nhọc. Sơn đứng lên ngồi xuống không yên, níu lại xin cụ hãy tạm nghỉ. Chốc sau, một cô gái bưng rượu ra. Ông già nói:
- Con A Tiêm nhà tôi đã dậy đấy.
Nhìn xem tuổi chừng mười sáu mười bảy, yểu điệu thanh tú, tươi tắn đoan trang. Sơn có người em chưa vợ, bụng thầm muốn se vào, nhân hỏi thăm cửa nhà gia thế ông cụ. Đáp rằng:
- Già này tên Sĩ Hư họ cổ, con cháu đều chết yểu, còn lại mỗi mụn con gái này, nên không nỡ phá giấc ngủ đang say của nó. Chắc bà lão nhà tôi gọi nó dậy đấy.
Hỏi:
- Chồng cô em là ai?
Đáp rằng:
- Còn chưa hứa gả.
Sơn mừng thầm. Thế rồi thức ăn bày ra lắm món, chẳng khác gì ở cửa hàng. Ăn xong cung kính thưa rằng:
- Con người bèo nước, đội ơn cụ có lòng đoái thương, đến chết cũng chẳng dám quên. Nhân thấy cụ thịnh đức, nên xin mạo muội bày tỏ tấm lòng chất phác quê mùa; tôi có đứa em nhỏ, đứng thứ ba, nay đã mười bảy tuổi, đang theo đuổi nghiệp sách đèn, cũng không đến nỗi ngu đần. Muốn cầu chỉ thắm se duyên, chẳng hay cụ có chê là nghèo hèn chăng?
Ông già mừng mà rằng:
- Già ở đây cũng là dân ngụ cư; nếu em nó tìm được chỗ gửi thân, nhân tiện mượn được túp liều, thì dời cả nhà mà đi, chẳng có gì luyến tiếc.
Sơn luôn miệng xin vâng, bèn đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đă chỗ ngủ cho khách đâu vào đó rồi mới đi vào. Gà vừa gáy ông đã ra, gọi khách rửa mặt. Gói buộc xong hành lý, chàng lấy tiền trả tiền cơm, cụ cố từ chối, nói rằng:
- Khách ở lại dùng bữa cơm, muôn vàn chẳng có lý gì mà nhận tiền. Hay là định đưa tiền dẫn cưới đây?
Bèn từ biệt. Hơn một tháng sau, khách trở lại. Cách thôn chừng ngoài một dặm, gặp một bà lão một cô gái, khăn áo đều trắng. Đến gần ngờ ngợ như A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần ngó lại, rồi nắm áo bà cụ, nói thì thầm câu gì không rõ.. Bà cụ liền dừng bước, quay lại hỏi Sơn:
- Ông có phải họ Hề không?
Sơn dạ dạ. Bà cụ buồn bã nói:
- Ông lão nhà tôi chẳng may bị tường đổ, đè chết rồi. Hôm nay chúng tôi đi thăm mộ đây. Nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát, chúng tôi đi rồi quay trở lại ngay.
Nói rồi đi về phía khu rừng. Hồi lâu trở lại, trên đường trời đã tối, bèn dẫn chàng cùng về. nói đến mẹ goá cpn côi, bất giác mủi lòng thương khóc. Son cũng bùi ngùi. Bà cụ bảo:
- Dân tình ở đây thật không yên ổn lương thiện chút nào. Con côi mẹ góa khó mà sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà anh, từ bấy đến này sợ ngày tháng cũng trễ rồi, chi bằng sớm mai cùng đưa nhau về.
Sơn chấp thuận. Khi tới nhà, bà cụ khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, bảo Sơn rằng:
- Nghĩ là anh cũng sắp đến nên thóc lúa cất trữ đã bán cũng gần hết, chỉ còn chừng hơn hai mươi thạch, vì xa nên chưa có ai đến lấy. Cách đây chừng bốn năm dặm về phía Bắc, có ngôi nhà lớn nhất xóm là nhà ông Đàm Nhị Tuyển, chủ mua thóc của tôi xưa nay. Phiền anh chịu khó, trước hãy mang giúp một túi đi, đến gõ cửa bảo họ rằng bà lão họ Cổ ở xóm Nam có ít thạch thóc, định bán lấy tiền tiêu dùng dọc đường, phiền họ cho lừa ngựa tới chở đi.
Nói rồi bèn đưa túi gạo cho Sơn. Son tất tả đi ngay. Gõ cửa, một người đàn ông bụng phệ bước ra. Chàng nói rõ duyên cớ, trút thóc cho anh ta rồi về trước. Một lát, có hai người làm công, dắt năm con lừa đến. Bà cu dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên. Mẹ con bà cụ chuyển cho nhau, chốc lát đã đầy tải, trao cho họ chở đi. Đi lại đến bốn lượt, thóc mới cạn. Họ lấy tiền đưa cho bà cụ. Bà cụ giữ một người và hai con lừa lại, chở giúp đồ đạc đi về miền Đông. Đi được hai mươi dặm trời mới sáng rõ. Đến một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đấy tớ họ Đàm mới quay về. Về đến nhà, Sơn thưa chuyện lại với cha mẹ. Hai bên gặp gỡ rất vui mừng, bèn dọn một phòng riêng cho bà cụ ở, và chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho chàng Ba. Bà cụ sắm sửa tư trang cho con thật tươm tất.
A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện với mình chỉ mỉm cười. Ngày đêm dệt cửi đưa thoi, không bỏ phí một tấc bong. Vì thế người trên kẻ dưới ai cũng thương yêu. Nàng thường bảo chàng Ba rằng:
Nhớ dặn anh Cả có trở lại miền Tây đừng nói gì về mẹ con thiếp nhé.
Ở được ba, bốn năm, nhà họ Hề ngày càng giàu có; chàng Ba được vào học nhà Phán.
Một hôm Sơn chợt ghé trọ nhà hàng xóm của họ Cổ ngày xưa, ngẩu nhiên nhắc đến chuyện hồi trước không kiếm ra nhà, phải ngủ nhờ nhà ông bà cụ. Chủ nhân bảo:
Ông lầm rồi, sát vách phía Đông là căn nhà riêng của ông bác tôi. Từ trước ba năm rồi kia, những người ở đó thường thấy quái dị, nên bỏ hoang đã lâu, làm gì mà có ông bà cụ nào mà lưu ông lại?
Sơn lấy làm ngờ, nhưng cũng chưa tin hẳn. Chủ nhân lại nói:
- Khu nhà ấy bỏ hoang gần mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị đổ, ông bác tôi đến xem thì thấy đã đè lên một con chuột lớn như con mèo, khúc đuôi thò ra ngoài còn quẫy. Vội quay về gọi người nhà đến thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi chính vật đó là yêu quái. Hơn mười ngày sau trở lại, vào xem thử thì yên tĩnh không thấy tăm hơi gì. Lại hơn một năm sau mới có người tới ở.
Sơn càng lấy làm kỳ quái. Trở về nhà, chàng nói riêng với người khác, trộm ngờ em dâu không phải là người, và thầm lo cho chàng Ba. Nhưng chàng Ba vẫn hết lòng yêu quí vợ như thường. Lâu dần người trong nhà thì thào bàn tán, cô gái cũng phong phanh biết được. Nửa đêm nói với chàng Ba rằng:
- Thiếp theo chàng từ bấy năm nay, đạo làm vợ chưa xảy ra một lỗi nhỏ. Nay bày đặt ra việc để mọi người khinh rẻ thiếp. Xin chàng làm ơn viết cho thiếp tờ giấy ly hôn, để chàng chọn người xứng đáng hơn.
Nói rồi sụt sịt khóc. Chàng Ba bảo:
-Tấc lòng gắn bó thế nào, hẳn nàng đã rõ biết. Từ ngày nàng về nhà này, nhà ngày một no đủ, lúc nào cũng nghĩ nhờ phúc trạch của nàng mới được thế, có đâu lại còn điều này tiếng khác?
Nàng nói:
- Chàng một lòng một dạ, thiếp há không biết sao? Nhưng chĩ vì nhiều người nói ra nói vào, sợ rồi lại không khỏi như cây quạt mùa thu bị bỏ xó.
Chàng Ba khuyên giải ba bốn lượt mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, hàng ngày tìm mấy con mèo giỏi bắt chuột để dò ý tứ. Nàng chẳng sợ gì, nhưng rầu rầu không vui. Một đêm, bảo rằng mẹ không khỏe, xin phép chàng Ba về chăm nom săn sóc. Trời sáng chàng Ba sang tìm, thì trong phòng đã trống không. Hốt hoảng cho người đổ đi khắp bốn ngả, vẫn không tìm ra dấu vết. Trong lòng ấm ức, bỏ cả ăn cả ngủ. Nhưng cha và anh thì lại lấy làm may, cùng nhau vỗ về an ủi, toan kiếm vợ khác cho chàng. Nhưng chàng Ba nhất định không bằng lòng.
Đợi hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh thường chế giễu trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi.
Lại vài năm nữa, nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng cảm nhớ A Tiêm. Có người em nhà chú tên là Lam nhân có việc đi đến đất Giao, đường xa ngủ lại ở nhà người bà con bên ngoại là chàng họ Lục, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất thê thảm, cũng chưa tiện hỏi thăm. Đến lúc quay về, lại nghe thấy, bèn hỏi chủ nhà. Đáp rằng:
- Mấy năm trước đây có người đàn bà góa và cô gái mồ côi, thuê nhà ở đây. Tháng trước bà lão mất, cô gái ở một mình, không có ai thân thích vì thế mà khóc.
Hỏi:
- Cô ấy họ gì?
Đáp họ Cổ. Thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm, nên cũng không rỏ gia thế ra sao.
Lam kinh ngạc nói:
- Thế thì là chị dâu tôi rồi.
Bèn ra gõ cửa. Có người lau nước mắt đi ra, đứng bên trong cửa lên tiếng:
- Quý khách là ai? Nhà tôi không có đàn ông.
Lam nhòm qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ, quả là chị dâu. Bèn nói:
- Chị hãy mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây.
Cô gái nghe tiếng mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh éo le khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói:
- Anh Ba nhớ chị đến khổ. Vợ chồng có điều gì ngang trái mà chị phải lánh xa đến tận đây?
Ngỏ ý muốn thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu mà rằng:
- Tôi vì bị người khinh rẻ, mới đem mẹ đi trốn, nay lại trở về nhờ vả người thì ai chẳng khinh như mẻ? Như muốn tôi trở về thì phải cùng anh cả chia bếp, nếu không tôi chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi.
Lam về, kể lại cho chàng Ba. Chàng Ba vội lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau, ai nấy đều rơi lệ. Hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là giám sinh họ Tạ, thấy nàng đẹp, ngầm mưu tính cưới nàng làm thiếp, nên mấy năm không lấy tiền nhà; đã nhiều lần đánh tiếng cho bà cụ, bị bà cụ cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong, thì chàng Ba bất chợt tìm đến. Bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó dễ. Nhà chàng Ba vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Nàng bảo không sợ, rồi dẫn Ba vào xem dựa thóc, ước chừng hơn ba mươi thãch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Chàng Ba mừng nói với họ Tạ. Tạ không nhận thóc, nhất định đòi tiền. Cô gái than rằng:
- Trăm sự cũng tại nghiệp chướng thân này mà ra cả.
Rồi kể tình thực cho chàng Ba hay. Chàng Ba giận định kiện lên ấp. Họ Lục bèn vào đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng, lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.
Chàng Ba thưa thực cùng cha mẹ, xin cùng anh chia nhà để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc, mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lạ. Hơn năm xem lại, thì kho đã đầy. Không đầy vài năm, nhà đã giàu lớn, còn Sơn thì vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng, và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Chàng Ba mừng nói:
- Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán.
Cô gaí đáp:
- Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?
Về sau, cũng không có chuyện gì quái lạ.
NGUYỄN ĐỨC LÂN- NGUYỄN HUỆ CHI dịch
Chú thích
(1) Cao Mật là một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN HUỆ CHI dịch
BẠCH THU LUYỆN
BẠCH THU LUYỆN

Miền Trực Lệ có thư sinh họ Mộ, tự là Thiềm Cung, con một thương gia tên là Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Vừa tròn mười sáu tuổi thì người cha cho rằng theo đuổi nghề văn chỉ là viễn vong, bắt bỏ học theo nghề buôn. Chàng theo cha tới đấ Sở (2), mỗi khi trong thuyền rổi rãi, lại mở sách ngâm đọc.
Đến Vũ Xương, cha lên quán trọ để cất trữ hàng. Nhân những lúc cha ra ngoài, chàng cầm lấy sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng. Bỗng chốc thấy ngoài cửa sổ có bóng ai lay động, tựa hồ như một người nào đó đang nghe trộm, nhưng cũng chẳng để ý ngờ vực. Một đêm cha đi uống rượu, lâu không về. Chàng ngâm nga càng réo rắc hơn. Tự nhiên có một người quanh quẩn ngoài song, ánh trăng soi rõ mồn một. Lấy làm lạ, vội chạy ra xem, thì là một thiếu nữ đẹp nghiêng thành, tuổi mười lăm mười sáu; thoáng trông thấy chàng đã lẩn đi mất.
Vài ba ngày sau, chở hàng quay về miền Bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ. Cha vừa ra khỏi thuyền, một người đàn bà đã bước vào, nói:
- Chàng hại con gái tôi rồi.
Chàng kinh ngạc hỏi nguồn cơn, đáp rằng:
- Tôi họ Bạch, được một gái tên là Thu Luyện, cũng hơi am hiểu chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh tao của cậu bỗng đem lòng quyến luyến, đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết mối lương duyên, xin đừng cự tuyệt.
Chàng trong lòng thích lắm, song vẫn còn lo cha giận, nên lấy tình thực mà tỏ lại. Bà già không tin hẳn, bắt phải thề nguyền. Chàng không chịu. Bà giận nói:
- Việc nhân duyên ở đời, có kẻ cầu mong đem sính lễ đến mà không được. Nay lão tự mình đứng ra làm mối cho con lại không đắt. Còn gì nhục nhã hơn! Đã thế xin chớ nghĩ đến việc về đất Bắc nữa.
Nói rồi bỏ đi. Một lát sau cha về, chàng dùng lời khéo léo giải bày với cha, ngầm mong cha chấp thuận, chưng cha lấy cớ đường xá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái “hoài xuân” (2), nên cười mà bỏ qua.
Chỗ đậu thuyền, nước chống con sào không thấu, đến đêm cát sỏi bỗng bồi lên, thuyền mắc cạn không sao quay trở được. Hàng năm, thuyền buôn trong hồ gặp nạn này vẫn phải đậu lại, chờ đến tận mùa nước hoa đào (3) năm sau. Bấy giờ hàng hóa các nơi chưa kịp gởi đến, những gì trong thuyền đều tăng giá gấp trăm; vì thế người cha cũng không thấy lo phiền, chỉ tính cách làm sao sang năm thuyền từ Nam về, hàng vẫn giữ được giá. Thế là ông để con ở lại, còn mình trở về nhà. Chàng mừng thầm chỉ tiếc không hỏi kỹ làng ở của bà cụ.
Trời chạng vạng, bà già cùng với con hầu dìu một nữ lang tới, cởi áo khoác và đặt nàng nằm lên giường, rồi quay nhìn chàng mà rằng:
- Bệnh người ta đã đến nước này, xin đừng ghếch đầu lên gối làm ra vô sự nữa.
Nói rồi đi liền. Chàng mới nghe thì hoảng, nhưng cầm đèn soi vào cô gái mới hay, bệnh trạng vẫn không giảm vẻ yêu kiều, làn thu ba vẫn không ngớt lóng lánh. Lại gần hỏi han, chỉ một nụ cười yếu ớt đáp lại. Chàng cố ép nàng lên tiếng, thì nói:
- Xin hãy vì thiếp mà ngâm cho nghe bài “Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng”.
Chàng mừng cuống lên, rất muốn chuyện thân cận, nhưng lại thương còn ốm yếu, nên chỉ lấy tay sờ vào bụng vuốt ve và ghé môi hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày tưuơi cười nói:
- Hãy ngâm cho thiếp ba lần bài thơ “Từng nếp áo là” của Vương Kiến (4) bệnh sẽ khỏi.
Chàng nghe lời, mới ngâm xong lần thứ hai nàng đã xốc áo ngồi dậy nói rằng:
- Thiếp khỏi rồi.
Lại ngâm tiếp, thì nàng cất gịong yêu kiều run rẩy họa theo. Chàng bây giờ tâm thần ý chí đều phiêu diêu, bèn tắc đèn cùng nằm ngủ. Trời chưa sáng rõ nàng đã trở dậy bảo:
- Mẹ già sắp đến rồi.
Một chốc bà già quả nhiên bước vào. Nhìn thấy con gái đang ngồi vui tươi, mặt điểm trang lộng lẫy, bất giác cũng mừng rỡ. Giục về,, cô gái cúi đầu không nói. Bà lập tức về ngay, bảo con:
- Mày còn muốn vui đùa với lang quân, thôi thì mặc mày.
Chàng cũng nhân đó hỏi đến nơi ăn chốn ở của nàng. Nàng đáp:
- Thiếp với chàng chẳng qua mới là bạn sơ giao, việc cưới xin đã lấy gì làm chắc, cần gì phải biết đến nhà cửa.
Tuy thế, hai bên vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một hôm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn, mở sách ra xem rồi bùi ngùi rơi lệ. Chàng cũng vội trở dậy hỏi han. Nàng nói:
- Ông về sắp trở lại. Câu chuyện giữa đôi ta, thiếp vừa giở sách bói một quẻ, đúng vào bài Giang Nam khúc của Lý Ích (5) ý bài thơ chẳng được lành.
Chàng vỗ về khuyên giải bảo nàng:
- Câu đầu bài thơ là “Cưới được chàng lái buôn đất Cù Đường” thì đó là “đại cát”, chứ còn gì mà chẳng lành.
Nàng bèn tươi dần nét mặt, đứng lên từ biệt, nói:
- Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người nhòm ngó.
Chàng nắm tay nghẹn ngào hỏi:
- Nếu việc lương duyên êm thắm thì biết tìm đâu mà báo cho nhau?
Đáp:
- Thiếp vẫn thường cắt người dò la, việc êm thắm hay không thế nào mà chẳng biết.
Chàng định lên bờ tiễn chân, nhưng nàng cố ý từ mà đi.
Chẳng bao lâu ông Mộ quả trở lại. Chàng lân la kể tình thực. Cha ngờ là dắt gái lầu xanh về, nổi giận quát mắng tàn tệ. Đến khi xét thấy của cải trên thuyền tịnh không suy suyển, cơn giận mới nguôi. Một đêm ông không có mặt trong thuyền, nàng chợt tìm đến. Ca hai nhìn nhau âu sầu, chẳng biết cách nào xoay sở. Nàng bảo:
- Nên hay hư đã có số, hẳng lo việc trước mắt đã. Xin giữ chàng thêm hai tháng nữa, rồi sẽ bàn tính ở hay đi.
Lúc sắp chia tay, hẹn ước lấy tiếng ngâm thơ làm dấu hiệu gặp nhau. Từ đó hễ cha bước ra khỏi thuyền, chàng lại cao giọng ngâm nga thì thế nào nàng cũng đến.
Tháng Tư sắp hết, các thứ hàng đều mất giá, đám khách buôn không còn kế sách gì nữa, đành sắm lễ vật đến cầu đảo ở ngôi miếu thờ vị thần hồ. Sau tết đoan dương (6) trời bỗng mưa to nước lớn thuyền mới đi lại được.
Chàng về tới nhà tưởng nhớ thành bệnh. Ông Mộ rất lo, bói toán thuốc thang đủ cách. Chàng nói riêng với mẹ:
- Bệnh con chẳng thuốc men cầu cúng nào thuyên giảm được. Chỉ có Thu Luyện đến đây mới mong.
Mới đầu ông nghe thì nổi giận, nhưng về sau thấy chân tay con ngày càng rời rã, đâm sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chốn cũ. Hỏi người quanh vùng, tịnh không ai biết bà già họ Bạch là người nào. Vừa hay, có bà lão lái con thuyền ghé vào bờ bước ra tự nhận mình họ Bạch. Ông trèo lên thuyền thấy Thu Luyện, lòng mừng thầm. Nhưng hỏi kỹ về họ hàng, thì ra chỉ lấy thuyền làm nhà, nay đây mai đó lênh đênh trôi nổi mà thôi. Ông nhân đó nói thực bệnh của con, mong nàng đến thuyền mình, hẳng để giúp làm vơi căn bệnh trầm trọng. Bà lão lấy cớ hôn ước chưa thành, không chịu. Cô gái hé nửa mặt, chăm chú lắng nghe. Thấy lời lẽ của hai bên, rưng rưng muốn khóc. Bà mẹ nhìn con gái, lại nhân ông Mộ năn nỉ tha thiết quá, nên cũng nhận lời. Đến đêm ông ra ngoài, nàng quả nhiên đến thật. Lại gần giường mà than khóc rằng:
- Tình trạng thiếp năm trước, nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng mà gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy!
Chàng cũng mừng. Nàng bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến hồi trước. Chàng nói:
- Đấy là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người thì hiệu nghiệm sao được? Nhưng chỉ nghe gịong nàng, tâm thần cũng đã thấy sản khoái. Hãy thử ngâm cho nghe bài “Nghìn cành dương liễu hướng về Tây” (7) xem nào?
Nàng vâng lời. Chàng thích thú kêu lên:
- Khoan khoái quá! Hồi trước nàng đọc tập Thi dư có bài Hái Sen trong có câu “Ngậm gương thơm ngát khắp mười gò” bụng vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa.
Nàng lại vâng lời. Vừa dứt tiếng ngâm, chàng đã nhót ngay dậy kêu lên:
- Tiểu sinh nào có bệnh chi đâu!
Rồi cùng ôm chầm lấy nhau. Chứng bệnh trầm trọng ngỡ như tiêu tán sạch. Xong xuôi chàng hỏi:
- Cha anh gặp bà cụ nói những gì? Việc có êm thấm hay không?
Nàng đã xét biết ý của ông, nói thẳng rằng “Không xuôi”. Sau khi nàng đi, cha về, đã thấy con đã ngồi dậy được, mừng lắm, nhưng chỉ lựa lời khuyên giải, nhân nói rằng:
- Con bé thậm xinh. Song từ thuở để chỏm đến nay, chỉ biết ôm dầm chèo, tựa bánh lái ca hát, chưa nói con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh được rồi.
Chàng không đáp. Cha vừa đi thì nàng đã trở lại. Chàng kể rõ ý của cha. Nàng bảo:
- Thiếp vừa nhòm đã biết hết rồi. Việc đời là thế, càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt. Chi bằng cứ để cho ông tự đổi ý, rồi lại quay lại cầu cạnh nhau đấy thôi.
Chàng hỏi mưu kế, nàng đáp:
- Đại phàm đã là nhà buôn thì chí để vào chữ lợi. Thiếp có chút tài mọn biết được giá cả hàng hóa. Vừa xem qua các thứ chở trong thuyền, chẳng có một thứ nào có được một mảy may lời lãi. Hãy thưa lại với ông dùm thiếp, muốn lãi gấp ba thì mua trữ thứ hàng kia, lãi gấp mười thì thứ hàng này. Về đến nhà, nếu lời thiếp ứng nghiệm, thì cầm chắc thiếp là dâu hiền rồi. Lúc trở lại đây, chàng vừa mười tám tuổi, còn thiếp mười bảy, ấy là ngày ta vui vầy với nhau, việc gì mà lo.
Chàng đem lời nàng khuyên về giá cả thuật lại với bố. Bố không tin lắm, song cũng đem nửa số tiền còn thừa mua theo lời nàng dặn. Sau khi về, những hàng hóa do ông tự ý mua đều lỗ nặng. May có chút hàng mua theo lời cô gái được lãi lớn, nên cũng bù lại được. Vì thế phục Thu Luyện như thần. Chàng còn thêm thắt vào, nói rằng theo lời nàng thì nàng có thể làm cho mình trở nên giàu có. Vì thế, ông bỏ thêm vốn liếng trẩy xuống miền Nam.
Trở lại bên hồ, tìm mấy ngày không thấy bà già họ Bạch. Lại qua mấy ngày nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu. Bèn đem đồ sính lễ đến. Nhưng lễ vật gì bà cũng không nhận, chỉ chọn ngày lành cho con gái sang thuyền. Ông thuê một chiếc thuyền riêng để con mình làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông trẩy thuyền quá xuống Nam, loại hàng nào cần mua đều chép ra giấy đưa ông. Còn bà già thì mời luôn chàng rể sang ở trong thuyền mình. Ba tháng sau, thuyền ông trở lại, hàng hóa chỉ mới về đến đất Sở giá đã tăng gấp đôi. Khi sắp trở lại nhà, cô gái xin chở thêm một ít nước trong hồ. Đến nhà rồi, mỗi lần ăn cơm, rưới vào một ít như chan tương, nêm dấm. Về sau mỗi bận trẩy xuống Nam thế nào ông cũng mang về cho một vài bình.
Được chừng ba bốn năm, nàng sinh một trai. Một hôm nàng khóc lóc nhớ nhà muốn về thăm. Ông bèn dẫn cả con và dâu cùg đi đến đất Sở. Khi đến nơi hồ cũ, không thấy bà lão ở đâu. Cô gái gõ vào mạn thuyền gọi mẹ, mặt mày thất đảm, giục chàng mau chạy ven hồ tìm hỏi. Gặp một lúc bọn câu cá “tầm hoàng” (8) câu được một con cá ngựa trắng. Chàng đến gần nhìn xem, thì là một giống cá lớn, hình thù rất giống người, vú và âm hộ đủ cả. Chàng lấy làm lạ, trở về nói với nàng. Nàng hoảng hốt, nói rằng trước kia đã có lời nguyền phóng sinh, bảo chàng mua mà thả ra. Chàng tìm thương lượng với làng câu thì họ đòi giá rất cao. Cô gái bảo:
- Từ khi thiếp về nhà chàng, nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới vạn bạc, thế mà chỉ tiêu một món vặt vảnh lại nỡ khư khư tiếc sẻn. Nếu chẳng nghe nhau, thiếp đâm đầu xuống hồ chết quách cho xong.
Chàng sợ hãi, không dám nói với bố, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy nàng đâu, tìm khắp nơi cũng chẳng thấy, đến tàn canh nàng mới trở về. Hỏi:
- Đi đâu thế?
Đáp:
- Vừa về nhà mẹ.
Hỏi:
- Mẹ ở đâu?
Nàng bối rối đáp:
- Hôm nay thì không thể không thưa thực, con cá chàng vừa chuộc ra chính là mẹ thiếp đấy. Xưa kia sinh sống ở hồ Động Đình, được Long Quân giao cho trông coi việc bộ hành qua lại. Gần đây, trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên mới có sắc chỉ cho mẹ, tự nhiên vô cớ bắt tìm thiếp bằng được. Mẹ thiếp cứ thực tâu lên nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, chịu đói khát gần chết, vì thế mới mắc vào đại nạn vừa rồi. Nay tuy đã tai nạn qua khỏi nhưng tội vẫn chưa được xóa. Chàng có yêu, hãy thay thiếp khản cầu với Chân Quân (9) may ra thì thoát. Nhược bằng thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con lại cho chàng, thiếp đi. Hàu hạ chốn Long cung vị tất đã không gấp trăm lần ở nhà chàng.
Chàng nghe mà rụng rời, lo rằng không có cách gì gặp Chân Quân được. Nàng bảo:
- Ngày mai giờ mùi, Chân Quân thế nào cũng đến. Cứ thấy một đạo sĩ chân thọt thì kíp phục xuống lạy, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân Quân vốn thích các văn nhân học sĩ, tất rủ lòng thương mà nhận lời.
Nói rồi, lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá, đoạn bảo chàng:
- Như ngài có hỏi muốn cầu điều gì thì đưa ngay cái này ra, xin ngài viết cho một chữ “miễn”.
Chàng theo lời nàng dặn, cố chờ. Quả nhiên có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Chàng nằm phục xuống lạy. Đạo sĩ rảo chân bước gấp, chàng cũng bám gót theo sau. Đạo sĩ ném chiếc gậy xuống nước, rồi nhảy vọt theo, đứng trên gậy. Chàng cũng lội xuống nước leo lên, thì không phải là gậy nữa mà là một chiếc thuyền. Chàng lại sụp xuống lạy. Đạo sĩ hỏi:
- Cần gì?
Chàng đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ nhìn kỹ nói:
- Đây là vẩy cá ngựa trắng, anh làm sao gặp được?
Thiềm cung không dám giấu, bày tỏ đầu đuôi mọi sự. Đạo sĩ cười:
- Loài này đặ biệt phong nhã, tên Long Vương già kia sao dám hoang dâm như vậy.
Bèn rút ngay ngọn bút lông ra, viết một chữ “miễn” theo lối chữ thảo, hình dáng giống như một đạobùa. Rồi quay thuyền lại cho chàng ghé vào bờ. Thoắt đã thấy đạo sĩ đạp lên cây gậy nổi trên nước mà đi, chỉ phúc chốc đã mất dạng.
Chàng trở lại thuyền. Nàng mừng lắm, chỉ dặn đừng nói hở ra với bố mẹ.
Sau khi trở về nhà được vài ba năm, một lần ông trẩy xuống Nam mấy tháng không về. Bình nước hồ đem về dần dần đã cạn hết mà chờ mãi vẫn không thấy tăm hơi. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc. Dặn chồng rằng:
- Nếu thiếp có chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ mão, ngọ, dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi có nước về, rót vào bồn, rồi đóng cửa, cởi hết quần áo của thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, hẳn sẽ sống lại.
Thở thoi thóp được mấy ngày, cô gái lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ trở về, chàng vội vã làm theo lời đặn. Ngâm nước khoảng một giờ thì nàng lại dần dần tỉnh lại.
Từ đó, nàng thường có ý muốn trở lại miền Nam. Sau khi ông mất, chàng chiều ý vợ, dời nhà xuống sống ở đất Sở.
NGUYỄN HUỆ CHI dịch
_______________
(1) đất Sở: tên gọi chung hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.
(2) hoài xuân: chỉ những người phụ nữ tơ tưởng việc hôn nhân
(3) mùa nước hoa đào: mùa nước lớn, cũng là lúc hoa đào ra hoa, nên gọi là mùa hoa đào.
(4) Vương Kiến (768- 830?) là nhà thơ Đường, sáng tác một trăm bài Cung Từ . Trên đây là một trong số bài đó.
(5) Lý Ích: (748-827) là nhà thơ đời Đường.
(6) Đoan dương: cũng là tết đoan ngọ, tức ngày mồng 5 tháng năm Âm lịch.
(7) tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình (710 -?) nhà thơ đời Đường.
(8) cá tầm hoàng: một giống cá lớn và hiếm, ở hồ và biển, hình dạng rất giống phụ nữ.
(9) Chân Quân: tức Lão tử, vốn là nhà triết học TQ thời cổ đại, được Đạo giáo suy tôn thành thần.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Dịch giả:NGUYỄN HUỆ CHI
Cô Gái Họ Mai

Phong Vân Đình, người Thái Hàng (1) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ ở nhà trọ. Hồi ấy tuổi đang trẻ đã góa vợ, những lúc quạnh vắng thường hay tơ tưởng. Giữa lúc mắt đang đắm vào đâu đấy, bỗng thấy trên giường có bóng một cô gái, thấp thoáng như vẽ, tự nghĩ hẵn vì lòng mơ tưởng nên mới sinh ra.Mãi lâu không thấy động, cũng không tan đi, mới lấy làm lạ. Nhổm dậy thì hóa ra người thật; lại gần thêm, thì rõ ràng là một thiếu nữ, mặt cau lưỡi thè, một sợi dây vòng quanh cái cổ thanh tú. Chàng sợ hãi nhìn không thôi, thấy rụt rịt muốn bước xuống. Biết là ma thắt cổ, nhưng vì đang giữa ban ngày, tính cũng bạo, nên không sợ lắm.
Hỏi rằng:
Nương tử như có điều gì oan khuất, tiểu sinh xin hết sức giúp.
Bóng ma thong thả bước xuống, nói:
- Con người bèo nước, đâu dám vội vàng đem việc hệ trọng làm phiền quân tử, nhưng nắm xương khô ở dưới suối vàng, lưỡi không rụt vào được, dây không cắt bỏ được; xin chàng chặt cây xà ngang đem đốt đi, thì ơn ấy thật sáng tày non.
Chàng nhận lời. Bóng liền biến mất. Bèn gọi chủ nhân đến, hỏi về những điều mình vừa thấy. Chủ nhân đáp:
- Nhà này mười năm trước là nhà cũ của họ Mai, đang đêm có một tên trộm nhép lẻn vào nhà, bị Mai bắt được giải lên quan điển sử (2). Điền sử nhận ba trăm lạng bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với tên này, toan bắt nàng lên tra khám. Cô gái nghe tin thắt cổ chết. Về sau, vợ chồng họ Mai lần lượt chết cả, ngôi nhà mới về tay tôi. Khách trọ vẫn thường nhìn thấy quái dị, nhưng không có phép gì yểm cho yên cả.
Phong đem lời ma nói kể lại với chủ nhân. Chủ nhân tính phải dỡ nhà, thay thanh dầm khác, phí tổn không ít, nên ngần ngại. Phong bèn góp tiền trợ lực thêm. Chữa xong lại dọn về đấy ở.
Đến đêm, cô gái họ Mai đến cảm tạ, sắc mặt đầy vẻ vui mừng, phong thái thật tươi đẹp. Phong yêu thích lắm, muốn cùng nàng giao hoan. Nàng đưa mắt nhìn xuống, thẹn thùng nói:
- Khí âm héo hắt, không phải chỉ bất lợi cho chàng thôi đâu; nếu làm việc đó thì cái tiếng nhơ nhuốc của thiếp lúc còn sống, dẫu nước sông Tây Giang cũng không thể rửa sạch. Đôi ta rồi sẽ có ngày sum họp, bây giờ thì chưa.
Hỏi đến bao giờ, chỉ cười mà không nói. Phong lại hỏi có biết uống rượu không, đáp rằng không uống được. Phong nói:
- Trước người đẹp mà cứ đưa mắt ảo não nhìn nhau thì còn gì là thú vị?
Nàng đáp:
-Bình sinh thiếp chỉ biết mỗi trò chơi đánh cờ ngựa; nay hai người ngồi cô quạnh, đêm đã khuya, lại khỗ nỗi không tìm ra đâu bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hay là hãy cùng nhau chơi trò giao tuyến (3) vậy!
Phong nhận lời. Cùng ngồi bó gối, đưa đẩy mấy ngón tay, trao qua chuyền lại rất lâu, đến lúc Phong loạn cả mắt, không còn biết đâu mà lần. Cô gái miệng vừa nhắc vừa hấc hàm chỉ trỏ, càng đánh càng biến ảo, kỹ xảo tinh diệu vô cùng. Phong cười bảo:
- Đây là ngón nhà nghề nới khuê phòng đây.
Nàng đáp:
- Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được. Người khác không chịu để ý đấy thôi.
Canh về khuya có phần mỏi mệt, liền ép nàng đi ngủ. Nàng đáp:
- Người cõi âm chúng em không biết ngủ, chàng cứ ngủ đi. Thiếp có biết qua thuật xoa bóp, xin trổ hết tài nghệ để giúp chàng ngon giấc.
Phong theo lời. Nàng chụm hai tay lại, rồi xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu đến gót chân; tay đưa tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế đấy lại nắm tay lại đấm sẽ, giống như cầm nắm bông thúc nhẹ, khắp mình thư thái không thể nói hết. Đấm đến lưng thì mắt đã ríu lại, đến đùi thì chìm luôn vào giác ngủ. Tỉnh dậy trời đã gần trưa, cảm thấy các đốt xương đều nhẹ nhàng khoan khoái, khác hẳn mọi ngày. Lòng càng thêm ái mộ, bèn đi vòng quanh nhà cất tiếng gọi, tịnh không một lời đáp lại.
Chiều tối, cô gái mới đến. Phong hỏi:
- Nàng ở đâu để tôi gọi khắp nơi không thấy?
Đáp:
- Ma thì chẳng có chỗ nào nhất định, chỉ ở dưới đất thôi.
Hỏi:
- Dưới đất có chỗ trống, có thể ở được sao?
Đáp:
- Ma không thấy đất cũng như cá không thấy nước vậy.
Phong nắm lấy cổ tay nàng nói:
- Nếu nàng sống lại thì xin dốc hết cơ nghiệp để cưới nàng.
Cô gái cười đáp:
- Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp mới được!
Chơi đến nửa đêm, Phong cố sức nài ép. Cô gái bảo:
- Chàng đừng ép buộc thiếp; có cô ca kỷ ở đất Triết tên là Ái Khanh vừa mới đến trọ ở nhà láng giềng phía Bắc, vẻ người cực kỳ phong nhã; để tối mai thiếp sẽ rủ nàng cùng đến, tạm thay cho thiếp có được không?
Phong bằng lòng. Tối hôm sau, quả nhiên nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi chừng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ lẳng lơ ngầm. Ba người ngồi sát vào nhau, chơi trò đánh cờ ngựa. Xong cuộc cờ, cô gái đứng lên nói:
- Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây.
Phong toan giữ lại, nàng đã phất phới biến mất. Hai người bèn lên giường, vẫy vùng thỏa thích. Hỏi về gia thế thì cứ lấp lửng không chịu nói rõ. Chỉ bảo:
- Nếu chàng có yêu thiếp, thì chỉ cần gõ tay lên tường phía Bắc, khẽ gọi “Hồ Lô Tử” là thiếp đến ngay. Gọi ba lần không thưa, ấy là thiếp không rổi, đừng gọi thiếp nữa.
Trời sáng, chui vào khe tường phía Bắc mà đi.
Hôm sau, cô gái đến. Phong hỏi Ái Khanh đâu, nàng đáp:
- Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu rồi, vì thế mới không đến đây được.
Nhân đốt đèn cùng trò chuyện. Cô gái có điều gì muốn nói, mấy lần đã mở miệng lại thôi. Cố gặng hỏi, rốt cuộc vẫn không chịu trả lời, chỉ thở dài. Phong ép nàng bày trò cùng chơi, đến hết canh tư mới ra đi.
Từ đấy hai nàng đến luôn. Tiếng cười thường rộn rã thâu đê. Vì thế hàng phố đều biết hết. Có viên điển sử nọ, cũng là con nhà thế tộc ở đất Triết, vợ cả gian dâm với đầy tớ, bị truất, cưới tiếp ngưòi vợ kế họ Cố, yêu thương nhau nồng nàn, nhưng mới đầy tháng đã chết yểu. Đau điếng trong lòng, nghe Phong có ma thiêng, muốn nhờ hỏi về người vợ mình ở dưới âm ty, bèn cưỡi ngựa đến tìm Phong. Mới đầu Phong không chịu tiếp, chàng nọ ra sức khẩn cầu không thôi. Phong bày tiệc rượu, mời ngồi, và nhận lời gọi nàng kỹ nữ ma tới. Trời bắt đầu tối, chàng gõ lên vách mà gọi. Chưa dứt ba tiếng, Ái Khanh đã bước vào. Vừa ngẩng đầu nhìn thấy ông khách, mặt nàng biến sắc định chạy. Phong lấy mình chắn lối ngăn lại. Chàng nọ nhìn kỹ, bỗng giận sôi lên, ném luôn cái bát lớn vào nàng. Thoắt cái nàng biến mất. Phong hoảng hốt, không biết duyên cớ ra sao, đang định hỏi, thì bỗng nhiên từ trong ngôi nhà tối, một bà lão bước ra mắng rằng:
- Thằng giặc tham lam bỉ ổi kia! Làm hỏng mất cả một “cây tiền” của nhà ba rồi đấy! Đền ngay ba chục quan tiền đây!
Nói rồi cầm gậy đánh chàng nọ, trúng vào đầu. Chàng ta ôm đầu kêu lên rằng:
- Nó là Cố thị, vợ tôi, chết non. Đang đau đớn xót xa vì nó, có ngờ đâu nó lại là con ma bất trinh. Có can dự gì đến bà nào?
Bà lão giận mắng rằng:
- Mày vốn là tên tặc tử vô lại ở Triết Giang, mới mua được một giải thắt lưng nạm miếng sừng đen (4) mà mũi đã hếch ngược lên. Mày làm quan mà có kể gì đen trắng? Đứa nào trong tay áo có ba trăm quan thì mày thưa bẩm bằng ông! Thần căm người oán, giờ tận số đã đến sau lưng. Cha mẹ mày phải kêu xin ở dưới Âm ty, tình nguyện cho con dâu quý vào ở lầu xanh, để trả món nợ tham nhũng của mày, thế mà còn chưa biết sao?
Mắng xong lại đánh. Chàng nọ lạy lục kêu xin. Phong đang kinh ngạc, chưa biết làm cách nào cứu gỡ cho y, chợt thấy cô gái họ Mai từ trong phòng bước ra, trợn mắt lè lưỡi, khuôn mặt thay đổi kỳ dị, lại gần rút cây trâm dài đâm vào tai hắn. Phong hết sức kinh hoảng, lấy mình che cho ong khách. Cơn thịnh nộ của cô gái vẫn không nguôi. Phong lựa lời khuyên can:
- Ông này tuy có tội, nhưng nếu chết ở nhà trọ, thì lỗi rơi vào tiểu sinh. Xin hãy nhớ lời răn ném chuột đừng để vỡ lọ quý.
Cô gái bèn kéo tay bà lão mà nói:
- Bà hãy nể mặt tôi mà nghĩ đến chàng Phong, tạm tha cái mạng sống thừa của nó.
Chàng nọ bàng hoàng lủi nhanh như chuột. Về dinh, lo sợ, phát bệnh buốt óc, nửa đêm thì chết. Đêm hôm sau, cô gái hiện ra nói:
Khoái cực! Thế là mọi uất ức đã trúc sạch rồi!
Hỏi :
- Thù oán thế nào?
Nàng đáp:
- Hồi trước thiếp đã từng nói: ăn của đút rồi vu cho người ta thông gian, mối hờn ngậm đã từ lâu. Nhiều lần định kể với chàng, mong mượn tay chàng vì ai rửa hờn, nhưng thẹn vì chưa có chút ơn đức gì, nên toan nói lại thôi. Đêm qua nghe thấy tiếng huyên náo, lén đến rình xem, ngờ đâu lại gặp chính kẻ thù.
Phong ngạc nhiên hỏi:
- Đấy chính là kẻ vu cáo cho nàng đấy ư ?
Đáp:
- Hắn làm điển sử ở đây đã được mười tám năm, mà thiếp chết oan đã được mười sáu mùa nóng lạnh rồi.
Hỏi:
- Bà lão là ai?
Đáp:
- Là một kỹ nữ về già.
Lại hỏi đến Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Nhân tươi cười bảo chàng:
- Trước thiếp từng nói đôi ta thế nào cũng có ngày sum họp, nay quả thật không xa nữa. Chàng vẫn thường muốn dốc hết gia sản để chuộc thiếp, còn nhớ không?
Phong đáp:
- Bây giờ tôi vẫn có bụng ấy.
Nàng bảo:
- Nói thực với chàng, ngày thiếp chết đã đầu thai vào nhà ông hiếu liêm họ Triển ở Diên An. Chỉ vì oan lớn chưa giải, nên còn dùng dằng ở đây. Xin hãy lấy tấm lụa mới may thành cái túi quý, để thiếp được theo chàng cùng đi, rồi đến nhà họ Triển cầu hôn thì chắc thế nào cũng xong.
Phong lo gia thế hai bên quá cách biệt, sợ họ không bằng lòng. Cô gái bảo:
- Hãy cứ đi, đừng lo.
Phong nghe theo lời. Cô gái dặn rằng:
- Trên đường nhớ thận trọng, đừng có gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy cái túi ra chụp lên đầu cô dâu,rồi gọi thật gấp rằng: “Đừng quên! Đừng quên!”
Phong vâng lời. Vừa mở túi, cô gái đã nhảy luôn vào.Mang đến Diên An hỏi thăm, quả có nhà ông hiếu liêm họ Triển, sinh được một gái, dung mạo cực kỳ xinh nhã, chỉ phải bệnh ngẩn ngơ, lại thường thè lưỡi ra ngoài môi, như con chó những lúc thở dốc. Tuổi đã mười sáu mà chưa có người làm lễ dạm hỏi, cha mẹ lo buồn thành bệnh.
Phong tìm đến cổng đưa danh thiếp, tỏ bày dòng dõi, gia thế. Khi trở ra cậy bà mối tới. Họ Triển mừng rỡ, giữ chàng gửi rể tại nhà mình.
Cô gái quá ngây ngô, không biết làm lễ, phải bảo hai con hầu dìu đỡ vào buồng. Khi đám con hầu đã trở lui, cô gái phanh ngay vạt áo, để hở cả vú ra, đứng trước Phong, ngây mặt cười. Phong úp túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái sững lại nhìn chăm chú, tựa như có điều gì nghĩ ngợi, Phong cười hỏi:
- Nàng không nhớ tiểu sinh nữa ư?
Rồi giơ cái túi cho xem. Nàng chợt tỉnh ra, vội che vạt áo lại. Mừng rỡ , cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
Sáng ngày, Phong vào thăm bố vợ. Họ Triển an ủi rằng:
- Con bé ngớ ngẩn không biết gì, may được anh để mắt xanh thương đến; nếu anh có lòng, thì trong nhà bọn hầu gái sáng sủa không thiếu gì, ưng ai xin tặng anh không tiếc.
Phong cố sức biện bạch rằng vợ mình không ngớ ngẩn. Triển rất lấy làm ngờ. Lát sau con gái đến, mọi cử chỉ đều đoan trang, thân thế càng lạ lùng khó hiểu. Cô gái chỉ che miệng tủm tỉm cười. Triển gạn hỏi, cô gái ngập ngừng, e thẹn nói không nên lời. Phong bèn đỡ lời, kể sơ qua ngành ngọn. Triển hết sức mừng rỡ, yêu thương con hơn lúc bình thường. Bèn bảo con trai là Đại Thành cùng chung sách đèn với con rể, cung cấp thật đầy đủ.
Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm ra khinh rẻ Phong. Nhân vì anh rể em vợ không hợp nhau, bọn đầy tớ cũng bới lông tìm vết. Triển ngấm mãi những lời xúi giục của chúng, đối đãi cũng nhạt nhẽo hơn trước. Nàng biết chuyện bảo Phong rằng:
- Nhà bố vợ không thể ở lâu được. Phàm những kẻ ở nhà vợ quá lâu, đều là những kẻ hèn hạ. Nay chưa đến chỗ căn thẳng, nên về mau.
Phong cho là phải, vào thưa với Triển. Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều giận, không cho xe ngựa đưa về. Nàng tự bỏ tư trang mua ngựa mà về.
Về sau, Triển gọi con về thăm nhà, nàng cố từ, không đi. Mãi tới khi Phong thi đậu hiếu liêm, hai nhà mới giao hảo trở lại.
NGUYỄN HUỆ CHI dịch
Chú thích
(1) có núi Thái Hàng và cửa ải Thái Hàng, một trong tám cửa ải lớn của núi này, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
(2) điển sử: chức quan ngang hiệu úy, chuyên coi việc trộm cắp.
(3) giao tuyến: dùng hai sợi dây mắc vào ngón tay để chơi. Ở vùng Giang ,Tả thường gọi là “cải cổ” (thay đổi bắp chân) chưa rõ cách chơi.
(4) giải thắt lưng nạm miếng sùng đen: theo quan chế ngày xưa, chức điển sử được dùng giải thắt lưng nạm miếng sừng đen. Ở đây muốn nói tên vô lại nay bỏ tiền ra mua chức điển sử.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Dịch giả: Nguyễn Văn Huyền
Trần Vân Thê
Phan Trần đùa mà hơn thực
Châu Dục Sinh người Di Lăng đất Hồ Nam là con một cử nhân. Anh ta học giỏi lại đẹp trai, tuổi hai mươi đã được nhiều người biết tiếng. Lúc còn nhỏ, có thầy tướng đoán: “Sau này sẽ lấy vợ đạo cô”. Cha mẹ đều coi đó làm một chuyện cười. Khi tính đến việc hôn nhân của anh ta thì lại buồn vì xa gần chưa tìm được đám nào ưng ý.
Bà mẹ Sinh, người họ Tang, quê gốc ở Hoàng Cương. Dịp về thăm quê ngoại, anh ta nghe đồn đại: “Bốn cô Vân ở Hoàng Cương, trẻ đẹp ai sánh bằng”. Số là, trong quận có một am thờ Lã Tổ (1), bốn đạo cô tu ở đấy đều xinh đẹp cho nên có lời đồn thế.
Am này chỉ cách nhà họ Tang khoản mươi dặm cho nên Sinh lẻn đến coi xem sao. Vừa mới gõ cửa, quả nhiên bốn đạo cô đã hớn hở chạy ra đón tiếp, thái độ đều tao nhã khiêm nhường. Trong đó, cô trẻ nhất thực là một tuyệt thế giai nhân. Chàng ta thích ý quá cứ chăm chăm nhìn. Cô ta lấy tay che mặt mà ngó qua nơi khác. Các cô khác đi tìm ấm chén, pha trà tiếp khách. Sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ cô ta. Đáp:
- Họ Trần, tên Vân Thê.
Sinh nói đùa:
- Thế thì lạ quá! Tiểu sinh này lại đúng họ Phan. (2)
Ửng hồng đôi má, cô ta cúi đầu không nói, đứng dậy ra ngoài. Rồi các đạo cô rót chè, bày quả mời khách và nói rõ tên họ:
Một cô: Bạch Vân Thâm, tuổi chừng ba mươi.
Một cô: Lương Vân Đống, ước hăm bốn hăm lăm.
Một cô: Thịnh Vân Miên tuổi đôi mươi trở về.
Còn Vân Thê thì không trở lại nữa. Sinh thấy thế mất vui, nhân hỏi lí do. Cô Bạch đáp:
- Con bé ấy sợ người lạ.
Sinh đứng dậy từ biệt. Cô Bạch hết sức lưu giữ nhưng không được, đành hẹn:
- Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai lại đến.
Sinh trở về quê ngoại cứ tưởng nhớ người đẹp không nguôi, cho nên ngay hôm sau đã trở lại am. Các đạo cô khác đều có mặt, lại chỉ vắng Vân Thê, song Sinh chưa tiện hỏi. Các đạo cô sửa soạn cơm mời khách, Sinh cố từ chối không được. Cô Bạch bóc bánh, trao đũa khuyên mời Sinh rất mực niềm nở, ân cần. Chàng sốt ruột hỏi:
- Vân Thê đi đâu?
Đáp:
- Cô ấy sẽ đến.
Ăn uống lâu lâu, trời đã xế bóng, Sinh ngỏ ý xin về. Cô Bạch nắm lấy cánh tay giữ lại, nài rằng:
- Xin chàng cố lưu lại đây, tôi sẽ bắt con bé phải ra mắt.
Sinh đành ở lại. Lát sau, họ châm đèn bày rượu. Vân Miên không dự, ra ngoài. Rượu được vài tuần, Sinh kiếu say. Cô Bạch lại nài:
- Xin cứ cạn ba chén nữa, Vân Thê sẽ ra thôi!
Sinh uống đủ số. Cô Lương cũng theo số ấy nài mời. Sinh lại cố cạn hết, úp chén kiếu từ. Cô Bạch quay sang bảo cô Lương:
- Bọn ta phận bạc khuyên mời không đắt. Cô đi ngay dẫn con Trần vào đây, bảo rằng chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi.
Lương ra, lát sau quay lại:
- Vân Thê không chịu tới.
Sinh muốn về nhưng đêm đã khuya, liền vờ say nằm ngay tại chỗ. Hai cô ả lần cởi quần áo chàng ta rồi thay phiên nhau “liễu ép, hoa đòi” suốt đêm làm chàng mệt lử, không chịu nổi. Sáng ra, Sinh chẳng buồn cáo biệt, chuồn thẳng.
Đến mấy ngày sau chàng ta chẳng dám quay lại nhưng trong lòng vẫn mê mẩn Vân Thê cho nên bất chợt lại lảng vảng đến gần am thăm dò. Một hôm trời đã xẩm tối, thoáng thấy cô Bạch đi ra ngoài cùng một gã trẻ tuổi. Còn cô Lương ở nhà thì không đáng sợ lắm. Sinh nghĩ thế lấy làm mừng, vội đến gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng không ở nhà. Hỏi đến Vân Thê, Miên liền dẫn vào một căn viện khác, cất tiếng gọi:
- Vân Thê! Có khách đến đấy!
Chỉ thấy tiếng “binh”, cửa đóng sập lại. Vân Miên cười:
- Thôi. Nó đóng cửa rồi!
Sinh đứng ngoài cửa sổ, dáng băn khoăn như có điều gì muốn nói. Vân Miên ý tứ lảng đi, có tiếng Vân Thê nói qua song cửa:
- Họ chỉ lấy em làm mồi để câu anh đấy. Nếu anh đến luôn sẽ tiêu mạng. Em biết em không thể giữ được phép tắc trong sạch trọn đời, song cũng không dám bừa bãi phạm đến liêm sỉ. Em chỉ muốn được người như chàng Phan để gửi thân.
Sinh xin kết ước cho đến đầu bạc răng long. Vân Thê bảo:
- Công sư phụ em chăm nom nuôi dưỡng cũng không phải dễ. Nếu quả chàng thực bụng thương em thì chàng phải chạy 20 lượng chuộc về. Em đợi chàng ba năm nữa. Còn như muốn bày trò “trên bộc trong dâu” (3) thì không thể được đâu.
Sinh xin nhận. còn đang muốn bày tỏ nỗi lòng thì Vân Miên đã trở lại. Sinh đành phải cùng cô ta quay ra, từ biệt mà về. Trong lòng chàng vẫn buồn rầu, những muốn nấn ná gặp gỡ Vân Thê thì bỗng có người nhà đến báo ông thân mệt nặng. Chàng vội vã đêm ngày tất tả trở về quê.
Không bao lâu ông thân mất. Phu nhân dạy bảo con cái phép tắc rất nghiêm. Chàng không dám lộ chuyện tâm sự, chỉ lo dè xẻn bớt tiêu để dành tiền bạc. Nếu mẹ có bàn tính chuyện hỏi vợ, chàng lấy cớ đại tang, từ chối. Bà mẹ không nghe, chàng phải lựa lời nói dối:
- Trước đây ở Hoàng Cương, bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thực đúng sở nguyện. Nay gia đình có việc, tin tức cách trở, đã lâu con chưa đi Hoàng Cương thăm viếng quê ngoại. Nay mai con sẽ đi, nếu việc ở quê ngoại không xong, con sẽ xin vâng mệnh mẹ.
Bà mẹ bằng lòng. Chàng ta tất tả thu xếp tiền để dành được đem theo. Vừa đến Hoàng Cương, chàng vội tới am cũ thì am đã hoang vắng, cảnh vật khác xưa. Tìm vào bên trong, chỉ có một nhà sư già đang thổi nấu. Hỏi thăm tin tức, bà cho biết: ông đạo sĩ già đã tịch, bốn cô Vân đều mỗi người một ngả.
Hỏi đi đâu cả, bà đáp:
- Vân Thâm, Vân Đống bỏ theo mấy gã trai trẻ bợm bãi. Nghe đâu Vân Thê đến trú ngụ ở phía bắc quận này. Còn Vân Miên thì không có tin tức gì.
Sinh nghe vậy mà trong lòng khôn xiết buồn thương, lập tức sai đánh xe lên bắc quận, gặp đạo quán nào cũng vào hỏi thăm mà tịnh không thấy bóng hồng. Chàng đành ôm hận trở về, lại phải nói dối mẹ:
- Cậu nói Trần công đi Nhạc Châu vắng. Khi nào ông về sẽ báo tin ngay.
Nửa năm sau, phu nhân về thăm quê ngoại đem chuyện đó hỏi mẹ già, bà cụ ngớ người không hiểu ra sao. Phu nhân giận về tội con nói dối, song bà cụ cho rằng hay là hai cậu cháu nó mưu mô riêng với nhau mà mình chưa biết chăng. May mà ông cậu đi vắng cho nên những điều chàng bịa chưa bị lộ.
Phu nhân lên lễ Phật ở núi Liên Phong, tối nghỉ trọ dưới chân núi. Bà đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa buồng, dẫn vào một đạo cô tự xưng tên là Trần Vân Thê. Cô ta nghe nói phu nhân nhà ở Di Lăng liền sang ngồi cùng giường, rầu rĩ kể lể mọi nỗi trắc trở của mình. Cuối cùng cô ta nói:
- Tôi có ông anh họ họ Phan là người đồng hương với phu nhân. Xin phiền phu nhân sai con cháu trong nhà nói lại với ông anh tôi: tôi đang tạm ở chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại Thê Hạc đạo quán, sớm chiều khổ sở lắm, một ngày đằng đẵng tựa hàng năm. Xin sớm đến cho thấy mặt nhau. Chỉ sợ qua lúc này rồi, chưa biết sự tình sẽ ra thế nào.
Phu nhân hỏi Phan tên gì thì đạo cô cũng chịu không rõ, chỉ nói:
- Anh ấy đã đi học trường, các vị tú tài ai mà không biết.
Trời chưa sáng, đạo cô đã từ biệt lên đường, còn ân cần dặn đi dặn lại phu nhân.
Về tới nhà, phu nhân nói lại chuyện ấy với con. Chàng ta quỳ xuống thưa:
- Thú thực với mẹ: cái anh chàng Phan ấy chính thực là con.
Phu nhân căn vặn hết đầu đuôi, bừng bừng nổi giận:
- Con nhà bất hiếu: dám hẹn hò trai gái giữa nơi chùa quán. Nếu lấy đạo sĩ thì còn mặt mũi nào với họ hàng thân thích nữa!
Sinh cúi gằm mặt, không dám nói gì.
Đến khi Sinh lên quận dự thi, bí mật đi thuyền đến thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi, Vân Thê đã đi đâu mất từ nửa tháng trước. Về đến nhà, Sinh buồn bực phát ốm.
Trong dịp phu nhân qua quê ngoại chịu tang mẹ đẻ, khi trở về lạc đường, vào nhà họ Kinh. Không ngờ, hỏi ra thì bà ta lại là em họ phu nhân. Phu nhân vào nhà trong bắt gặp một trang thiếu nữ tuổi trạc đôi mươi, dung nhan tuyệt vời, bà chưa bao giờ thấy một người như thế. Phu nhân thường tâm niệm sao tìm được một cô con dâu thật đẹp để con trai không còn chê trách vào đâu. Nay nhìn thấy cô này thì đẹp ý quá đỗi, mới dò hỏi bà em họ. Bà cho biết:
- Cô ấy họ Vương, cháu gọi ông Kinh nhà tôi bằng cậu. Cha mẹ nó đều mất cả rồi, nay tạm ở nhờ nhà tôi.
Hỏi:
- Rể là con nhà ai?
Đáp:
- Chưa có.
Hai chị em nắm tay nhau trò chuyện, ý hợp tâm đầu. Phu nhân đẹp lòng lắm. Lúc nghỉ lại đấy, bà ngỏ ý riêng với bà Kinh ý định tác thành cho con trai bà. Bà ta vui vẻ:
- Xứng đôi quá. Song có lẽ nó còn làm cao, nếu không thì sao còn lần lữa đến giờ. Để em dò ý xem sao.
Phu nhân kéo cô gái đến ngủ chung giường, nói cười cực kì cởi mở. Cô ta xin được nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân cả mừng, rủ cùng về quê với mình. Cô ta nhận lời, vui vẻ lắm. Hôm sau hai người xuống thuyền về quê. Đến nơi, Sinh còn ốm chưa dậy được. Muốn đem lại niềm vui cho con đang lúc ốm đâu, bà sai con hầu vào ngầm mách với Sinh:
- Phu nhân đã đưa người đẹp về cho công tử đó.
Sinh chưa tin, cố vịn cửa sổ nhòm ra, xa xa nhác thấy cô gái so với Vân Thê còn đẹp hơn nhiều. Nhân nghĩ đến lời hẹn ước ba năm đã qua rồi, đã cất công tìm đến nơi thì cô ta lại đi đâu mất. Như thế hoa thơm ắt hẳn đã có chủ. Nay nếu được cô gái đẹp này thì nỗi lòng tưởng nhớ ý trung nhân cũng nguôi được một phần. Nghĩ vậy mà hồng hào lại sắc mặt, bệnh dần khỏi.
Phu nhân cho hai người làm lễ bái kiến. Trước đó, phu nhân bảo cô gái:
- Con có hiểu ý mẹ đưa con cùng về chưa?
Cô gái mủm mỉm thưa:
- Dạ, con đã rõ. Song ý con lúc đầu nhận về cùng mẹ thì mẹ chưa biết đâu. Lúc còn nhỏ, con đã đính ước với chàng Phan ở Di Lăng, song từ đó bằn bặt âm hao, hẳn chàng đã có bạn đời khác. Nếu quả vậy con sẽ làm dâu của mẹ. Nếu không như vậy thì trọn đời con là con gái của mẹ, sẽ có ngày báo đáp ơn sâu.
Phu nhân ôn tồn:
- Nếu con đã có lời định ước, mẹ không dám ép. Song ngày trước ở núi Ngũ Tổ, có một đạo cô nhắn lời mẹ tới họ Phan, nay con lại nói tới họ Phan. Thế mà mẹ biết các nhà thế tộc đất Di Lăng này không có họ ấy.
Cô gái sửng sốt:
- Vậy phu nhân đã nghỉ lại dưới chân núi Liên Phong là mẹ ư? Thế thì người hỏi thăm họ Phan chính là con đấy.
Phu nhân lúc ấy mới bừng hiểu, cười mà bảo:
- Ôi, nếu vậy thì Phan Sinh vốn ở ngay tại đây.
Cô gái cuống quýt:
- Thế ở đâu ạ?
Phu nhân sai con hầu dẫn cô gái đến chỗ Sinh. Sinh vừa trông thấy đã kinh ngạc:
- Cô… Vân Thê phải không?
Cô gái hỏi lại:
- Sao biết?
Sinh thuật đầu cuối sự tình, lúc ấy cô mới biết chàng ta nhận bịa họ Phan cốt để đùa. Cô gái biết đúng là người tình cũ rồi mới mắc cỡ mà bàn chuyện chung thân, sau đó vội quay ra thưa lại với phu nhân. Phu nhân hỏi:
- Thế sao con lại nhận họ Vương?
- Con vốn gốc họ Vương. Chỉ vì đạo sư quý con nhận làm con gái cho nên đổi theo họ ông.
Thế là mọi sự mắc mớ, trớ trêu nay tình cờ mà đều trở nên rõ ràng êm đẹp. Phu nhân mừng quá, chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.
Nguyên trước đây Vân Miên và Vân Thê đều đến nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ở nơi sâu hiểm, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu. Còn Vân Thê vốn người yểu điệu ngây thơ không chịu được khổ ải, lại xấu hổ không dám ra mặt hành nghề đạo sĩ cho nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đi Hoàng Cương, cô gái bắt gặp cứ khóc lóc than vãn. Nhân đó ông dẫn cháu về nhà mình, cho đổi mặc quần áo bình thường, toan tính chuyện hôn nhân cho cháu với người dòng dõi Nho học cho nên giấu biệt việc cô ta đã từng là đạo sĩ. Song đến lễ vấn danh cô ta không chịu, cậu mợ không biết ý hướng cháu ra sao cho nên không khỏi có phần khó chịu. Đến khi cô ta theo Tang phu nhân, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng vậy.
Lại nói sau lễ hợp cẩn, chàng và nàng cùng nhau tình tự khúc nhôi, mừng quá mà nước mắt ròng ròng. Vân Thê là người hiếu cẩn, phu nhân rất mực thương yêu. Song nàng chỉ những hết chơi đàn đến đánh cờ mà không biết trông coi gia nhân làm ăn, khiến phu nhân có phần lo ngại.
Hơn một tháng sau, phu nhân sai hai vợ chồng đến cáo lễ với bên ngoại họ Kinh, lưu lại mấy ngày rồi trở về. Thuyền đang rẽ nước trên sông thì một thuyền khác đi tới, bên trong thấp thoáng một đạo cô. Lại gần thì đúng là Vân Miên. Vốn là hai bạn chí thiết, Vân Thê gọi ngay Vân Miên sang thuyền mình hàn huyên mọi nỗi ngọt cay. Hỏi Miên đi đâu, đáp:
- Lâu ngày nhớ nhau quá, tôi đến Thê Hạc đạo quán tìm, thì nghe tin cô đến nương tựa cậu Kinh. Cho nên tôi lại đến Hoàng Cương để thăm cô, biết đâu người ta đã chăn ấm gối êm với ý trung nhân rồi. Nay trông người ta như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt này không biết bao giờ cho hết kiếp ấy.
Nói rồi cứ sụt sùi mãi. Vân Thê nghĩ ngay ra một kế: bảo Miên cởi bỏ áo đạo sĩ giả làm chị gái của mình, đến ở với phu nhân, rồi sẽ từ từ chọn nơi xứng đôi vừa lứa. Miên theo kế ấy.
Về đến nhà, Vân Thê vào thưa trước với phu nhân, Miên vào sau. Cử chỉ cô ta đĩnh đạc kiểu con nhà đại gia, trong khi nói cười rõ vẻ thấu đạt thế cố nhân tình. Phu nhân trong cảnh goá bụa đang khổ vì nỗi vắng vẻ cô đơn, nay có Vân Miên thì vui quá, chỉ e cô ta đi mất. Cô ta còn dậy sớm giúp bà mọi việc nặng nhọc, không hề coi mình là khách. Phu nhân lại càng mừng trong bung, thầm nghĩ hay là cưới thêm cô chị này cho con để át cái tiếng đạo sĩ cho cô em. Cũng mới nghĩ vậy mà chưa dám ngỏ, một hôm bà quên làm một việc gì đó, vội hỏi lại xem sao thì Miên đã thu xếp gọn từ lâu. Nhân đó bà bảo con dâu:
- Người đẹp như tranh mà không chăm lo nổi gia đình thì được việc gì? Con mà như chị ấy thì mẹ khỏi phải lo lắng.
Nào ngờ trúng vào ý Vân Thê đã trù tính từ lâu, nói ra chỉ sợ mẹ giận. Cô ta cười thưa lại:
- Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu của mẹ chỉ muốn bắt chước Nữ Anh – Nga Hoàng (4), ý mẹ thế nào?
Được lời như cởi tấm lòng, bà mẹ không nói gì nhưng tỏ vẻ đồng tình ngay. Vân Thê lui vào, bảo chồng:
- Mẹ già ưng rồi đó!
Rồi sai quét dọn, sửa sang luôn một buồng riêng và nói với Miên:
- Ngày trước khi chúng ta còn chung gối trong đạo quán, chị đã nói với em: nếu có người biết điều thân ái thì chị em ta cùng phụng sự chung. Chị còn nhớ không?
Miên bất giác trợn trừng mắt nói:
- Điều mà tôi gọi là “thân ái” ấy không phải là thế này: nếu như ngày ngày lo việc làm ăn, không một ai biết cho những nỗi ngọt bùi cay đắng, mấy ngày tới bởi có chút khó nhọc được mẹ già yêu thương thì trong lòng đã trước nóng sau lạnh, thái độ đổi thay nhanh chóng. Nhược bằng nhà đây không có ý đuổi đi thì xin được sống chung lâu dài với mẹ già. Như thế là đủ thoả nguyền. Chứ không mong lời nói trước đây thành sự thực.
Vân Thê đem chuyện đó thưa với phu nhân, bà bắt chị em phải thắp hương thề sẽ không oán hối. Rồi sai con làm lễ kết nghĩa vợ chồng.
Khi sắp động phòng hoa chúc, Vân Miên bảo Sinh:
- Em là cô gái già hăm ba tuổi đồng trinh đấy.
Sinh còn chưa tin, song đến khi trên đệm còn đọng vết hồng, lúc ấy mới lấy làm lạ. Miên còn bày tỏ với chàng:
- Em sở dĩ còn vui thú chồng con, chẳng phải không chịu được cảnh núi non vắng vẻ, song thực là vì tấm thân khuê các không kham được sự thù ứng như nơi kĩ viện. Nhân việc hôn lễ này mà mượn danh tiếng chàng, chỉ là vì chàng mà phụng dưỡng mẹ già, cai quản gia đình. Còn sự vui thú buồng the, xin chàng cứ chia sẻ với người khác.
Ba ngày sau, Miên ôm chăn chiếu sang buồng phu nhân, bà đuổi cũng không đi. Vân Thê biết vậy, vào buồng phu nhân từ sớm, chiếm lấy giường chiếu. Bất đắc dĩ Miên lại phải trở về với Sinh. Bời vậy từ đó cứ hai ba ngày một lần đổi phen, dần thành lệ.
Phu nhân vốn thích đánh cờ, từ khi ở goá không còn lúc rảnh mà chơi. Sau khi có Miên quán xuyến việc nhà cửa, bà được thư thái, hàng ngày mới cùng Vân Thê chơi cờ thoả thuê. Tối đến lại thắp đèn, pha trà ngồi nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới thôi. Bà thường bảo:
- Khi cha bay còn sống cũng chưa bao giờ được vui thế này.
Miên trông coi việc xuất nhập, thường ghi chép sổ sách rành mạch để trình báo với phu nhân. Bà hỏi lại:
- Các con thường kể là mồ côi từ tấm bé. Vậy ai dạy cho học chữ học cờ?
Vân Thê kể lại thực tình về hai chị em. Bà mẹ cười:
- Hồi trước ta không muốn cho con ta lấy một đạo cô, nay hoá ra lại vớ được cả hai.
Chợt nhớ lại điều thầy tướng đoán cho con trai hồi còn bé, mới biết số định khó tránh.
Còn Sinh cứ thi đi thi lại không đỗ. Phu nhân bảo con:
- Nhà ta tuy chưa thực dư dật, song ba trăm mẫu bạc điền được Vân Miên trông coi khéo cho nên ngày càng no ấm. Bên gối ta, đã có con cùng hai nàng dâu hàng ngày vui thú đoàn viên, cho nên ta không mong con phải đi tìm giàu tìm sang chi nữa.
Sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai, một gái, Vân Thê một gái, ba trai. Bà mẹ hơn tám mươi mới về già. Các cháu đều vào học trường huyện, trường quận. Cháu đích tôn – con Vân Miên – đậu cử nhân./.






Nguyễn Văn Huyền dịch


Chú thích:
(1) Tức Lã Đồng Tân, một trong bát tiên.
(2) Tích Phan Trần ở một vở kịch Trung Quốc: ni cô Trần Diệu Thường và chàng thư sinh Phan Pháp Thành yêu nhau, sau nên vợ nên chồng (ở Việt Nam cũng có truyện thơ nôm Phan Trần). Ở đây Châu Dục Sinh nhân Vân Thê họ Trần xưng bừa mình họ Phan để đùa.
(3) Trai gái hò hẹn tư thông.
(4) Hai chị em cùng lấy vua Thuấn.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Mặc áo lá cây
(Phiên Phiên)

La Tử Phù người Phân Châu, cha mẹ đều mất sớm, hồi tám chín tuổi ở nhà chú là Đại Nghiệp nuôi.
Ông này làm quan ở Quốc Tử Giám, nhà giàu mà không có con, cho nên thương yêu La như con ruột vậy. Lúc chàng mười bốn tuổi, bị kẻ gian dụ dỗ đi chơi gái. Vừa gặp một ả lầu xanh ở Kim Lăng đến quận này ở trọ kiếm tiền, La trông thấy say mê. Sau ả trở về Kim Lăng, chàng bỏ nhà chú mà trốn đi theo, đêm ngày ăn ở nhà ả.
Được nửa năm, tiền túi hết sạch, bị các chị em khỉnh rẻ lạnh lùng, nhưng chưa nỡ tống cổ đi. Không bao lâu, ung nhọt bể mủ, thối tha, làm thấm ướt dơ dáy cả giường chiếu, chàng bị chị em lầu xanh đuổi ra khỏi nhà, phải ra ngoài chợ ăn xin. Người chợ trông thấy vội vàng xa lánh.
Chàng lo sợ chết mất xác ở quê người, nên quyết kế xin ăn dọc đường, lần mò trở về quê quán. Mỗi ngày đi ba bốn chục dặm, lần hồi về đến ranh giới Phân Châu.
Nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối, không mặt mũi nào về làng xóm mình, còn thơ thẩn ở quanh miền chưa dám về nhà vội.
Trời tối, định bụng đến ngủ nhờ một ngôi chùa trên núi, nửa đường lại gặp một thiếu nữ, dung mạo như tiên, tới gần hỏi chàng đi đâu? Chàng kể tình thật. Nàng nói:
- Tôi xuất gia tu hành, ở trong hang núi, có thừa chỗ trải chiếu cho anh ngủ nhờ, không sợ gì beo cọp đâu.
Chàng mừng rỡ, theo đi, vào tận núi sâu, thấy một hang động. Bước vào bên trong, thấy cửa bắt ngang khe suối; đi mấy bước, có hai căn nhà đá, ánh sáng chói lọi, không cần đèn đuốc. Nàng bảo cởi áo rách, ra khe suối tắm thì khỏi mụn nhọt. Lại kéo màn quét chiếu, giục chàng đi nằm.
- Anh đi ngủ cho khoẻ, tôi may áo quần cho.
Đoạn, nàng lấy mấy tàu lá to như lá chuối, cắt và may thành áo. Chàng nằm liếc mắt dòm, thấy nàng may chốc lát đã xong, xếp để trên giường, nói:
- Sáng thức dậy, lấy áo mới đó mà mặc!
Rồi nàng nằm giường đối nhau mà ngủ.
Sau khi chàng ra khe suối tắm rửa sạch sẽ nghe những vết thương không đau đớn gì nữa. Chàng tỉnh ngủ rờ xem, thì mụn đã lên da. Trời sáng sắp dậy lòng còn ngờ vực lá chuối may áo thì mặc sao đặng, nhưng cầm tay nhìn kĩ, té ra gấm xanh cực đẹp.
Một lúc sau, dọn cơm, nàng hái lá gì trên núi chẳng rõ, nói là bánh và bảo chàng ăn: chàng ăn quả thật là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà với cá, đem ra mổ, đều như vật sống. Một cái lọ để góc nhà, bảo là rượu ngon, múc uống, quả thật rượu. Múc hơi cạn thì lấy nước suối đổ thêm vào.
Mấy hôm ghẻ lở khỏi hẳn, đòi nằm ngủ chung với nàng. Nàng tức cười và nói:
- Thằng cha bợm bãi này mới vừa được yên thân, đã muốn nọ kia.
Chàng nói:
- Tôi muốn đền ơn cô mà!
Rồi hai người nằm chung, hết sức ân ái.
Một hôm, có một thiếu phụ đến, cười nói:
- Con ranh Phiên Phiên độ này vui sướng quá ta! Liệu bao giờ có mang đấy, em?
Phiên Phiên mơn trớn nói:
- A, cô Hoa Thành hèn lâu không bước chân tới đây. Hôm nay bị gió tây nam thổi vù đến. Thế nào? Cậu bé đã ẵm đi chơi được chưa?
Hoa Thành đáp:
- Lại một con bé thì có.
- Sao Hoa cô không ẵm cháu lại chơi luôn thể?
- Nó vừa khóc rồi ngủ thít, chị mới đi được đấy.
Hoa Thành nói đoạn ngồi xuống đòi đãi rượu uống chơi, lại day qua La sinh, bảo chàng đốt thứ hương tốt cho thơm. Chàng để ý dòm Hoa Thành độ hai mươi ba hay hai mươi bốn tuổi, tuy gái mấy con nhưng vẫn còn đẹp, trong ý ưa muốn lắm. Lúc gọt trái cây, lỡ đánh rớt xuống bàn, chàng vờ cúi xuống lượm, để thừa dịp rờ chân. Hoa Thành ngó lảng và cười như tuồng không hay biết gì cả.
Chàng đang vui sướng tâm thần, chợt thấy trong mình lạnh lẽo, ngó lại áo mình mặc, đã biến ra lá cây, trong trí hoảng sợ, phải ngồi lặng giây lát mới thấy nó biến trở lại gấm vóc như cũ. Lòng khấp khởi mừng thầm hai nàng không thấy.
Chén tạc chén thù chốc lát, chàng lại nổi chứng cũ, thừa lúc Phiên Phiên ngoảnh mặt chỗ khác, thò ngón tay gãi vào bàn tay mềm mại của Hoa Thành.
Hoa Thành cứ thản nhiên cười đùa, hình như không để ý. Nhưng áo quần chàng bỗng hiện nguyên hình lá cây, một lát mới biến trở lại. Từ đó chàng hổ thẹn ngồi nín khe, chẳng dám mơ tưởng xằng bậy nữa.
Bấy giờ Hoa Thành mới cười xoà, nói với Phiên Phiên:
- Anh chồng tí hon của dì nó thật không đứng đắn tí nào, ví bằng gặp phải vợ dữ, thì có lẽ hắn nhảy vọt lên tới mây xanh không chừng.
Phiên Phiên cũng cười mỉm:
- Thằng cha bạc tình nên để chết rét cho đáng kiếp.
Hai người cùng vỗ tay thích chí. Đoạn Hoa Thành đứng dậy nói:
- Thôi, phải đi! Con bé ngủ thức dậy khát sữa, e khóc tới đứt ruột mất.
Nàng cũng đứng dậy nói giỡn.
Sau khi Hoa Thành đi rồi, chàng nơm nớp lo sợ Phiên Phiên trách mắng về tội thấy gái như mèo thấy mỡ, nhưng may nàng làm lơ không nói gì, đối đãi y như bình thường.
Không bao lâu, thu mãn sang đông, sương sa lá rụng, nàng lo nhặt nhạnh những lá rơi, để dành làm đồ ngự hàn. Chừng day lại ngó chàng rét ngồi co ro, bèn ra ngoài cửa động, bốc lấy mây trắng làm bông gòn, may áo lót cho chàng mặc, thấy mềm nhuyễn mà nhẹ nhàng, lúc nào cũng ấm áp như bông mới tinh vậy.
Qua năm, nàng sinh hạ một con trai, cực xinh xắn thông minh, hàng ngày chàng ở trong động ẵm bồng nựng nịu con làm vui. Nhưng lòng thương nhớ quê hương muốn rủ nàng cùng về; nàng nói:
- Tôi không thể đi theo mình đặng. Nếu nhớ quê thì xin tự đi một mình, mặc tôi ở đây.
Nấn ná hai ba năm, thằng con lớn dần, chàng bèn định ước sui gia với Hoa Thành. Nhiều khi chàng ngỏ ý lo nghĩ đến ông chú già ở nhà, không ai chăm sóc, nàng nói:
- Ông chú, cố nhiên tuổi tác đã cao, nhưng nhờ trời phù hộ vẫn còn mạnh khoẻ, mình không phải lo. Thôi thì mình cố ở đây cho tới khi cưới vợ cho con rồi sự đi hay ở tuỳ mình quyết định.
Nàng ở trong động, lấy lá làm giấy viết chữ chép sách, dạy con học. Thằng nhỏ sáng dạ, chữ nào qua mắt cũng thuộc lòng ngay. Nàng nói:
- Thằng bé này có phúc to lắm, cứ thả cho nó lăn lộn vào cõi trần, chả lo gì không làm nên quan lớn.
Thấm thoát, nó được mười bốn tuổi. Hoa Thành tự đưa con gái đến nhà chồng. Con nhỏ mặt đẹp, dung nhan lộng lẫy như trên trời sa xuống. Hai vợ chồng La sinh và Phiên Phiên rất vui lòng. Cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ cây trâm làm nhịp mà hát:
Ta có con hiền,
Không chuộng quan sang.
Ta có dâu thảo,
Không chuộng bạc vàng.
Đêm nay sum vầy
Cả nhà vui vẻ
Mời chàng chén này,
Cầu chàng sức khoẻ!
Hoa Thành đi rồi, hai người cùng đôi vợ chồng mới cùng ở đối diện nhau trong hang đá. Con dâu hiếu thảo, chăm lo săn sóc hầu hạ mẹ chồng tối ngày ríu rít bên cạnh, vì đó Phiên Phiên thương yêu như con ruột.
Chàng lại bàn chuyện hồi hương, nàng biết thế không cầm giữ được nữa, đành thu xếp cho chồng đi.
- Mình có cốt tục, chung quy không sao thành tiên đặng, thôi thì mình đi. Thằng con chúng ta cũng là người trong làng phú quý, vậy mình nên đem con về theo, tôi không muốn cầm giữ để lỡ mất cuộc vinh hoa một đời của nó.
Con dâu đang suy nghĩ làm thế nào gặp mẹ để từ giã, thì Hoa Thành đã tới nơi. Con khóc lóc bịn rịn, hai bà mẹ cùng yên ủi:
- Con hãy tạm đi, sau sẽ có dịp trở lại.
Phiên Phiên cắt lá thành hình con lừa, cho ba người cưỡi mà đi.
Lúc này ông chú ruột La sinh già nua, đã cáo quan về nhà, trong trí tin tưởng bề nào thằng cháu cũng chết bỏ xác đâu rồi; nay bỗng thấy cháu lù lù trở về, lại có cả con trai con dâu cùng theo, ông cụ hết sức vui mừng như bắt được của báu vậy.
Khi ba cha con vào đến trong nhà, ngó lại áo mặc, đều thành lá chuối, xé ra, may lót bên trong ngùn ngụt bay lên không. Ông chú đưa quần áo thật cho ba cha con thay đổi.
Sau chàng thương nhớ Phiên Phiên, dắt con đi vào núi thăm, chỉ thấy lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, cùng nhau ngậm ngùi trở về.



Đào Trinh Nhất dịch

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Mê sách
(Thư si)



Lang Ngọc Trụ quê Bành Thành. Ông bố làm quan đến chức thái thú, rất liêm khiết, được bổng lộc không tính chuyện làm giàu, chỉ tích sách đầy nhà. Đến Ngọc Trụ lại càng mê sách, gia cảnh nghèo khó phải bán hết đồ đạc, nhưng số sách cha để lại vẫn không suy suyển một quyển.
Khi còn sống, người cha đã viết cả thiên Khuyến học (1) dán lên vách bên phải toà nhà ở:
Nhà giàu chẳng cần bán ruộng tốt
Trong sách tự có nghìn chung thóc
Ăn ở chẳng cần nhà cao to
Trong sách tự có lầu kim ốc
Lấy vợ chớ e mai mối xoàng
Trong sách có nàng mặt như ngọc

Hàng ngày Lang thường ngâm đọc, lại còn viết bài ấy vào bức lụa trắng, chỉ sợ mờ rách mất. Anh ta cũng không mơ tưởng đường công danh vì đinh ninh tin rằng trong sách thế nào cũng có vàng có thóc. Suốt ngày suốt đêm, anh ta chỉ mải mê đọc sách, bất kể lúc nóng nung người khi rét cắt da. Tuổi ngoài đôi mươi, anh ta chả thiết gì tìm vợ vì hi vọng người đẹp trong sách sẽ tự đến. Bạn bè thân thích đến chơi, anh ta cũng chẳng thiết chuyện trò, chỉ qua quýt hỏi đáp vài câu rồi lại lớn tiếng ngâm đọc, khách ngồi chán rồi đi. Mỗi lần sát hạch, anh ta đều được lấy đứng đầu, nhưng khổ nỗi thi hoài không đỗ.
Một hôm Lang đang ngồi đọc sách, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, anh ta vội đuổi theo, chợt chân bị sụt xuống đất. Hoá ra chỗ đó có hố thóc mục đã tơi như đất mùn, do người xưa cất giấu. tuy không ăn được thứ ấy, nhưng anh ta càng tin mấy chữ “nghìn chung thóc” là không sai, cho nên lại càng chăm đọc sách. Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đám sách vở linh tinh, vớ được cái xe vàng độ hai gang, anh ta mừng quá, cho rằng nghiệm với chữ “kim ốc” (nhà vàng). Đưa xe cho người ta xem thì hoá ra là vàng mạ, không phải vàng thật. Anh ta có ý oán cổ nhân lừa dối mình. Không bao lâu, có người khuyên Lang cúng cái xe ấy vào việc xây dựng tháp Phật. Người bạn đồng khoa với cha Lang, đang làm quan ở đất ấy, vốn là người mộ đạo Phật liền tặng hai con ngựa, ba trăm đồng vàng. Lang mừng quá cho là ứng nghiệm với chữ “xe ngựa, nhà vàng” cho nên lại càng khổ công dùi mài kinh sử.
Tuổi đã ba mươi, người ta khuyên lấy vợ đi. Lang chỉ trả lời: “Đã có câu Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp.” Rồi lại miệt mài đọc sách, hai ba năm nữa vẫn không thấy kiến hiệu gì. Người ta chế giễu quá. Lúc ấy trong dân gian có thành ngữ: “Chức Nữ trên trời đã trốn rồi”, người ta dựa vào đó mà đùa Lang rằng: “Cháu Trời (2) đi mất là vì anh đấy”. Lang cho là chuyện đùa, bỏ ngoài tai.
Một tối, đọc sách Hán thư đến quyển thứ 8, bỗng thấy hình một mĩ nhân cắt bằng lụa mỏng ép giữa hai trang giấy, Lang kinh ngạc tự nhủ: “Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc ứng ở đây chăng?”. Nhìn kĩ mĩ nhân thì đầu mày cuối mặt y như người sống, sau lưng mờ mờ có chữ “Chức Nữ”, anh ta càng lấy làm lạ lắm. Từ đó, Lang thường đặt hình mĩ nhân lên trên sách, trở đi lật lại ngắm nghía đến quên ăn quên ngủ.
Một hôm, Lang đang bần thần ngắm nghía thì mĩ nhân bỗng nhỏm dậy, ngồi trên sách mà hé môi cười mỉm. Lang hãi quá, phục lạy trước bàn. Mĩ nhân đứng dậy đã cao tới hai gang. Lang càng sợ, cứ lạy như tế sao. Mĩ nhân thong dong bước xuống đất, đứng thẳng lên nghiễm nhiên trở thành một trang giai nhân tuyệt thế. Lang vừa vái vừa đánh bạo hỏi:
- Bẩm, Người là vị thần gì?
Mĩ nhân cười đáp:
- Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc mà chàng đã biết từ lâu (3). Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh tới, thiếp mà không đến sợ nghìn năm sau sẽ không còn ai tin ở cổ nhân.
Lang mừng quá, để ở cùng phòng chung chăn chung gối bội phần thân ái. Song khổ nỗi chàng ta ngú ngớ quá, không biết cách thể hiện bản lĩnh của trang nam tử như thế nào. Từ đó, mỗi khi đọc sách, thế nào anh ta cũng kéo cô gái ngồi kề. Cô gái bảo thôi đừng học cách như thế nữa, nhưng anh ta nhất định không nghe. Cô rành rọt khuyên bảo:
- Chàng sở dĩ không thành đạt được chính vì đọc sách nhiều quá mê muội đi đấy. Thử xem những ông nghè ông cống, hỏi mấy người đọc được như chàng? Can chàng chẳng nghe, em bỏ đi đấy!
Lang nể lời nghe theo, nhưng chốc lát quên mất, lại cất tiếng sang sảng ngâm đọc, lúc sau nhớ ra ngoái tìm cô gái thì cô đã biến đâu mất. Thần hồn hoảng hốt, chàng ta vội vã quỳ xuống cầu khấn song nàng vẫn biệt tăm. Sực nhớ ra nơi ẩn cũ của người đẹp, chàng ta vội mở lại sách Hán thư, kiểm kĩ đến chỗ cũ thì thấy hình mĩ nhân. Gọi mãi vẫn không động tĩnh, chàng phải phục xuống khóc lóc, van xin, cô gái mới hiện ra và doạ ngay:
- Còn không nghe, nhất định sẽ vĩnh biệt!
Rồi nàng lấy bộ quân cờ, cỗ bài để hàng ngày cùng chơi. Nhưng Lang chẳng để ý gì lắm, hễ nàng vắng lại giở trộm sách. Vẫn sợ nàng biết nên anh ta ngầm cất quyển 8 sách Hán thư vào một chỗ khác, hòng để nàng không còn tìm thấy chốn ẩn cũ.
Hôm khác, đang say đọc thì nàng tới. Chợt thấy bóng, Lang vội gấp sách, song nàng lại đã biến đâu mất. Lang cả sợ, tra soát khắp các sách không thấy đâu cả, đến giữa quyển 8 sách Hán thư lại thấy Nhan Như Ngọc, không sai số tờ. Chàng phải van lạy, thề thốt không đọc nữa, lúc ấy cô gái mới ra, bắt phải cùng đánh cờ. Nàng hẹn trước: “Nếu ba ngày đánh không được, sẽ lại đi”. Đến ngày thứ ba, Lang thắng hai ván. Cô gái tỏ lời khen, trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang chăm chú, tập trung mắt nhìn tay gảy, lâu sau đã quen với tiết tấu, giai điệu. Rồi cô gái rủ cùng uống rượu, đánh bài, Lang vui thích mà bớt dần việc đọc sách lu bù. Cô gái lại thúc giục Lang ra ngoài gặp gỡ bạn bè, giao du ngày càng rộng rãi. Lúc ấy nàng mới bảo:
- Chàng có thể đi thi được rồi đấy.
Một đêm, Lang tỉ tê hỏi nàng:
- Phàm, người ta nam nữ ở với nhau sẽ sinh con đẻ cái. Nay tôi với mình chung đụng đã lâu mà sao không thấy gì cả?
Cô gái nhoẻn cười:
- Chàng cứ mê mải vùi đầu vào sách hoài, em đã bảo khéo kẻo mà vô tích sự. Bởi vậy cho đến nay chàng vẫn chưa hiểu nổi chương “chồng vợ” và hai chữ “gối chăn” cũng phải dày công đấy.
Lang ngẩn mặt hỏi:
- Công phu gì cơ?
Cô gái cười ngặt nghẽo, không nói. Lát sau vắng vẻ, mới tỉ tê bày vẽ cho Lang những ngón bí mật chốn buồng the. Lang thực hành ngay, khoái lắm bảo nàng:
- Tôi không nghĩ rằng cái lạc thú chồng vợ lại không thể truyền bá cho nhau được.
Thế rồi gặp ai anh ta cũng thông thốc kể lại mọi sự “thú lí tình” với người đẹp, không giấu giếm điều chi. Cô gái biết trách Lang. Lang đáp:
- Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám ngỏ với ai. Còn cái lạc thú trong đạo thiên luân ai cũng vậy cả, việc gì phải giấu giếm, kiêng kị.
Chín tháng sau, nàng đẻ con trai, thuê một người vú trông nom đứa trẻ. Một hôm nàng bảo chồng:
- Em ở với chàng hai năm đã nghiệp dĩ sinh con. Nay có thể chia tay, ở lâu sợ gây tai hoạ cho chàng, hối không kịp.
Lang nghe nói cứ khóc ròng, phục xuống mà nói:
- Em không nghĩ đến đứa hài nhi còn oa oa đó chăng?
Cô gái cũng buồn rầu, lâu sau mới ra điều kiện:
- Nếu chàng muốn em ở lại, phải phá tán hết sách trên giá đi!
Lang từ chối:
- Đó là cố hương của em, là tính mệnh của tôi, sao em lại nói thế?
Cô gái không ép nữa, chỉ thở dài bảo:
- Em cũng biết là có số mệnh cả, song không thể không dự báo cho chàng.
Trước đây, thân thích trong họ Lang dòm thấy cô gái đã khả nghi lắm, lại chưa nghe thấy mối lái cưới xin, cho nên họ kéo đến chất vấn. Lang không thể đặt điều nói dối, song cũng úp mở không để lộ chuyện, cho nên họ lại càng ngờ. Lời đồn đại loan truyền đến tai quan huyện họ Sử, xuất thân tiến sĩ người đất Mân. Nghe chuyện lạ về Lang, quan huyện trẻ tuổi đã động lòng thèm khát, muốn được tận mắt nhìn ngắm dung nhan người đẹp, liền ra lệnh bắt giải cả Lang và mĩ nhân lên huyện. Cô gái biết, bỏ trốn biệt tích. Quan huyện càng nổi giận, sai lột hết quần áo Lang rồi cùm lại, hòng cô gái thương người tình mà tự dẫn thân đến.
Song Lang bị đày đoạ gần chết vẫn không chịu nói một lời. Tra khảo đến con hầu, nó mới cung ra đôi điều loáng thoáng. Quan huyện phán quyết đúng là yêu quái trá hình, cho nên tự thân đến nhà Lang khám xét. Quan thấy sách chất đầy nhà, nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt sách, khói kết lại không tan, âm u mù mịt.
Sau Lang được thả vì chàng xin được thư can thiệp của người học trò cũ của cha đang có quyền thế, cho nên chàng được miễn tội, khôi phục các quyền lợi. Năm ấy chàng đi thi đỗ cử nhân, năm sau đỗ luôn tiến sĩ. Trong lòng chứa chất mối hận thù khắc cốt ghi xương, chàng thiết lập bài vị Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn vái: “Nàng có khôn thiêng xin phù trợ cho ta làm quan ở đất Mân”.
Sau quả nhiên Lang được cử đi thanh tra đất Mân. Ở ba tháng chàng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên nhà cửa. Rồi lại được cử làm tư lí. Lang bức Sử phải nộp người thiếp yêu, thác cớ mua thị tì hầu hạ trong dinh. Vụ án kết thúc, Lang lập tức đưa cả người thiếp đi theo.
Nguyễn Văn Huyền dịch
Chú thích:
(1) Đó là bài thơ của Tống Chân Tông, trong đó có câu (nguyên văn):
Phú đa bất dụng mại lương điền
Thư trung tự hữu thiên chung túc
An cư bất khả giá cao đường
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc
Thu thê mạc hận vô lương môi
Thư trung tự hữu nhan như ngọc

(2) Nguyên văn: Thiên Tôn, tên một ngôi sao, cũng gọi là Chức Nữ. Theo truyền thuyết, Chức Nữ là cháu trời, trốn xuống trần lấy anh chăn trâu (Ngưu Lang).
(3) Tên từ trong câu thơ của bài Khuyến học: “Thư trung tự hữu nhan như ngọc”



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Cởi truồng rượt ma
Chương A Đoan



Vệ Huy Thích, người tuổi trẻ chín chắn, có gan dạ dám làm. Lúc đó, một họ lớn trong làng có toà nhà to, giữa ban ngày thấy ma hiện lên, người ở kế tiếp nhau chết, thành ra sợ hãi, tình nguyện bán rẻ.
Chàng thấy giá rẻ liền mua để ở. Nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành bỏ hoang phế. Thường đêm gia nhân kinh hoảng, la sợ có ma. Được hai tháng, chết một con hầu. Cách ít lâu, vợ chàng mò đến khu lầu gác hoang phế kia trong lúc chiều hôm, trở về phát bệnh được mấy hôm cũng chết.
Gia nhân sợ quá, khuyên chàng dời đi chỗ khác. Chàng không nghe. Bây giờ vợ goá, trơ trọi một mình đã buồn cho thân, lại thêm lũ tôi tớ thường đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói, chàng phát cáu, ôm chăn gối ra nằm ngủ độc thân ở giữa căn nhà bỏ hoang bấy lâu.
Chàng để đèn sáng, chờ xem có sự gì lạ xảy đến không. Đợi lâu chẳng thấy gì, rồi ngủ quên đi.
Bỗng có người thò tay vào chăn, rờ mò sờ soạng. Chàng tỉnh giấc ngó thấy một mụ vú già, mặt mày đầu tóc trông nhăn nheo bù rối gớm ghiếc. Chàng biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra, vừa cười vừa nói:
- Bà thì tôi không dám chơi.
Mụ hổ thẹn, khựng tay lại, bước cao bước thấp chuồn đi mất.
Giây lát một thiếu nữ từ mé tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, đến thẳng dưới đèn, giận dữ la mắng:
- Thằng học trò ngông cuồng ở đâu? Sao dám đến chỗ này nằm ngất ngưởng như thế?
Chàng trỗi dậy cười nói:
- Tôi là chủ nhà này, nằm đợi cô đến để đòi tiền thuê nhà đó.
Rồi đứng phắt lên, cởi trần truồng mà rượt bắt nàng. Nàng vội vàng chạy trốn. Chàng mau lẹ đến trước mé tây bắc mà chặn đường. Nàng cùng đường bí lối, ngồi phịch trên giường chịu trận. Chàng đến tận nơi, thấy dưới ánh đèn nàng đẹp như tiên, lần hồi ôm nàng vào lòng. Nàng cười hỏi:
- Cuồng sinh không sợ ma ư? Ta sẽ vật cho xem.
Chàng cởi tuột áo quần của nàng, nàng cũng không mấy chống cự. Kế đó dịu dàng biện bạch:
- Em họ Chương, tên là A Đoan, sinh thời lấy phải thằng chồng lêu lổng chơi bời, tính nó hung dữ bất nhân, thường đánh đập thẳng tay, khiến em buồn rầu chết yểu, xác chôn tại đây trên 20 năm rồi. Dưới nền nhà này, toàn là mồ mả.
Chàng hỏi mụ vú già là ai, nàng đáp:
- Mụ cũng là một con ma cũ ở đây, theo em để hầu hạ. Trên có người sống ở, thì ma quỷ ở dưới không yên, vì thế vừa rồi em sai mụ ra đuổi chàng đi.
Chàng lại hỏi mụ rờ rẫm là nghĩa thế nào, A Đoan nhoẻn cười và đáp:
- Mụ đó từng sống hơn 30 năm mà chưa được nếm mùi đời thú vị ra sao, nghĩ tình đáng thương, nhưng mụ rờ rẫm chàng như vậy, kể ra thật không tự biết xét mình chút nào. Tóm lại, người nào nhút nhát thì ma chòng ghẹo, còn người cứng cỏi thì chẳng dám phạm đến.
Nghe chuông chùa bên xóm gõ rền, nàng mặc quần áo rồi bước xuống giường nói:
- Nếu chàng không nghi ngại, thì đêm em lại tới.
Trời tối, quả thật nàng lại đến, cùng nhau ôm ấp mây mưa cực vui vẻ. Trong lúc đầu gối tay ấp, chàng thở dài và nói:
- Vợ tôi chẳng may qua đời, tôi nghĩ thương nhớ không lúc nguôi, nàng có thể làm cách nào dắt hồn y về được không?
Nàng nghe nói càng chạnh lòng tủi thân:
- Tội nghiệp, em đây chết hai chục năm nay, có ai đâu đoái hoài tưởng nhớ em như thế. Anh thật là người đa tình, em xin ráng sức giúp anh việc đó. Nhưng nghe nói chị đã đi đầu thai rồi, chẳng rõ còn ở dưới âm ti hay không?
Qua đêm sau nàng đến báo tin:
- Chị sắp được đầu thai vào nhà sang trọng anh ạ. Nhưng vì sinh thời có lúc mất đôi hoa tai, nghi con hầu ăn cắp, đánh nó, nó bực trí tự tử. Vụ án đó hiện nay chưa xong, nên còn hoãn lại. Bây giờ chị đang bị tạm giam ở trước công đường Diêm Vương, có lính canh giữ. Em sai mụ vú đi lo lót hối lộ có lẽ sắp về.
Chàng hỏi sao nàng lại được thong thả. Nàng đáp:
- Phàm những ma quỷ uổng tử, nếu không tự xuống âm ti đầu thú, thì Diêm Vương cũng không biết tới.
Hết canh hai, mụ vú già dẫn vợ chàng cùng đến. Chàng nắm tay vợ khóc lóc bi thảm, vợ chàng cũng sướt mướt, nói không ra tiếng.
Nàng từ giã đi, nói:
- Thôi để anh chị hàn huyên với nhau, em xin đi, tối mai lại đến nhé.
Chàng yên ủi mà hỏi thăm vụ án con hầu tự tử, vợ đáp:
- Không hề chi, đã xử xong rồi.
Hai người đi ngủ, ôm ấp yêu đương y như lúc còn sống. Từ đó vợ chồng sum họp như thường. Sau năm bữa, vợ bỗng khóc ròng và nói:
- Ngày mai em phải đi Sơn Đông, thế là vợ chồng ta vĩnh quyết, biết làm thế nào?
Chàng nghe nói ôm mặt mà khóc vùi, hết sức thống thiết. A Đoan khuyên giải hiến kế:
- Em có một cách, làm cho anh chị tạm thời sum họp được.
Hai người cùng gạt lệ hỏi cách thế nào? Nàng xin lấy mười xấp giấy tiền, đem đốt ở dưới gốc cây hạnh, trước nhà hướng nam, để nàng đem xuống âm ti hối lộ với kẻ phụ trách áp dẫn những người phải đi đầu thai, cầu xin trì hoãn ngày giờ lại ít lâu. Chàng làm y theo.
Tối đến, vợ trở về nói:
- May nhờ cô Đoan lo lót đắc lực, nay được tụ họp thêm mười bữa.
Chàng mừng quá, không cho Đoan bỏ về như mọi đêm, cố giữ nàng lưu lại, cùng nằm chung giường, suốt đêm tới sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng hết.
Qua bảy tám ngày, thấy kì hạn sắp hết, vợ chồng khóc nức nở suốt đêm, lại hỏi Đoan xem có mẹo cao gì khác. Nàng nói:
- Xem chừng bận này khó tính quá! Tuy vậy, em cũng thử làm xem, nhưng không có giấy tiền trăm vạn không xong.
Chàng mua đủ số trăm vạn giấy tiền về đốt như trước.
- Em cậy người nói lót với chú cai áp dẫn, ban đầu ra vẻ khó khăn, chừng trông thấy tiền nhiều mới xiêu lòng. Bây giờ đã chọn con ma khác đi đầu thai thế chân chị rồi.
Từ đó ban ngày cùng ở với nhau, chẳng đi đâu nữa. Đoan bảo chàng dán giấy bịt kín cửa sổ, bên trong đèn thắp sáng luôn không lúc nào tắt.
Sống như vậy hơn một năm, bỗng dưng nàng mắc bệnh, mê man rầu rĩ, luôn luôn hoảng hốt như thấy ma làm. Vợ chàng rờ vào mình nàng và nói:
- Đây là bệnh ma thật.
Chàng ngạc nhiên hỏi:
- Quái lạ! Đoan đã là ma rồi, lại còn ma nào làm bệnh nữa kia?
Vợ cắt nghĩa:
- Không phải vậy đâu. Sự thật ma chết thành mị. Ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy.
Chàng muốn đi mời thầy phù thuỷ về cúng lễ, vợ không nghe.
- Bệnh ma phải có thầy ma, chứ người chữa sao được. Mụ già họ Vương ở xóm ta hiện đang làm nghề cúng lễ ở dưới âm ti, để tôi đi gọi. Nhưng mụ ở cách xa hơn mười dặm, mà chân cẳng tôi yếu lắm, không thể đi được, vậy mình đốt cho tôi con ngựa giấy.
Chàng làm theo lời. Ngựa giấy chưa cháy tàn đã thấy con tớ gái dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân. Vợ chàng leo lên, chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một mụ già cưỡi ngựa đến, cột ở dưới thềm. Mụ vào bóp mười ngón tay nàng, rồi thì ngồi xếp bằng ngay ngắn, tay bưng đầu lắc lư lên đồng, giây lát ngã xuống đất, rồi bò dậy nói:
- Ta là thần Hắc Sơn đại vương đây. Người con gái này bệnh nặng, gặp ta thật là phúc lớn. Bệnh này là bệnh ma làm nhưng không hề gì. Muốn khỏi bệnh, phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào cả.
Vợ chàng đứng bên, vâng dạ răm rắp. Mụ đồng lại ngã xuống mà hồi tỉnh, hướng về phía bệnh nhân la hét ít tiếng rồi thăng đồng, thế là xong việc. Mụ xin đi, vợ chàng đưa ra ngoài sân tặng luôn con ngựa, mụ hớn hở lên đường.
Trở vào xem nàng, dường như hơi tỉnh, hai vợ chồng rất mừng vỗ về thăm hỏi, bỗng dưng nàng nói:
- Em sợ không sống ở đời được nữa. Hễ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện lên, âu cũng là số mệnh đã đến lúc hết rồi.
Nói đonạ khóc mướt.
Qua đêm sau bệnh càng trầm trọng thêm, nằm co run rẩy, như là trông thấy yêu quái gì nhát sợ vậy, kéo chàng nằm chung, rúc đầu vào bụng chàng, sợ ai đến bắt đi. Chàng đứng dậy đi chỗ khác, nàng liền kinh hoảng kêu la dữ dội. Như thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng hết phương, không còn biết tính liệu cách nào.
Một hôm chàng có việc đi khỏi, nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ gào khóc, té ra Đoan nương đã tắt nghỉ trên giường, thi hài phủ chăn còn đó. Chàng mở ra xem, thấy xương trắng một đống, thương khóc cực thảm rồi lấy lễ tống táng như người, chôn cất bên cạnh mồ mả ông bà.
Đêm nọ, vợ đang ngủ mà khóc thổn thức. Chàng lại hỏi chuyện gì, vợ nói:
- Vừa rồi tôi chiêm bao thấy Đoan nương về, kể chuyện thằng chồng cô đã hoá ra mị (ma chết thành mị), tối đến đòi mạng. Cô xin vợ chồng ta làm một tuần chay cho vong linh cô.
Sáng ra chàng thức dậy sớm, sửa soạn, đi rước thầy chùa và mua sắm các thứ để làm tuần chay, vợ ngăn lại và nói:
- Làm chay siêu độ ma mị, chàng biết đâu mà sắm sửa. Để đó tôi lo.
Nói rồi đi liền, một chặp trở về, cho hay đã sai người đi mời thầy chùa, bây giờ phải đốt giấy tiền trước cho họ làm lộ phí.
Chàng làm y lời.
Mặt trời vừa lặn, đã thấy lũ thầy chùa kéo đến, trống mõ đồ cúng mọi thứ giống như trần gian. Vợ chàng kêu trống mõ làm đinh tai nhức óc, nhưng chàng tuyệt nhiên không nghe tiếng động gì hết.
Cúng xong, vợ lại chiêm bao thấy Đoan nương về tạ ơn, nhân dịp cho biết oan cừu đã rửa sạch rồi, sắp sửa đi thác sinh làm con gái của một vị Thành hoàng, nhờ chị nói lại cho anh hay.
Vờ chàng ở nhà với chồng ba năm, ban đầu gia nhân nghe thì sợ hãi, lâu dần trở nên quen thuộc, thân cận như thường. Chàng đi đâu vắng thì tôi tớ đứng ngoài cửa sổ, thưa bẩm công kia việc nọ cho bà chủ biết.
Một đêm, tự dưng vợ khóc và nói với chồng:
- Mình ơi! Người lính áp dẫn đầu thai độ nọ đã bị tiết lộ công việc man trá mà bị mất chức và bị tội rồi. Nay âm ti lùng bắt tôi gắt lắm, e vợ chồng ta không còn được sum họp bao lâu nữa.
Mấy hôm sau, quả nhiên sinh bệnh, nàng nói:
- Mối tình gắn bó, chỉ mong được chết mãi còn hơn, chẳng vui sướng gì được đi thác sinh. Thế mà nay chúng ta sắp phải vĩnh quyết nhau, chẳng phải tự số trời xếp đặt ư?
Chàng bi thương hết sức, hỏi xem còn có mưu kế gì để được đoàn tụ mãi với nhau, vợ nói:
- Bây giờ không còn có cách gì nữa.
- Thế, mình trốn bấy lâu, có bị trừng phạt gì không?
- Có, nhưng chỉ phạt xoàng thôi. Trốn sống mới có tội to, trốn chết qua tội nhỏ.
Nói đoạn, không nhúc nhích cựa quậy gì cả, dòm kĩ lại thì mặt mày hình thể biến đi lần lần tới hết.
Chàng thường nằm ngủ một mình trong gian nhà hoang, mong được tái ngộ, nhưng không có chi lạ. Từ đó, nhà cửa hết có ma quỷ quấy nhiễu, gia nhân ở yên./.






Đào Trinh Nhất dịch




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Mỹ Nhân Cứu Mạng
Kiều Na

Một kiếp tài hoa chẳng hổ danh
Khen ai lấy vợ khéo đa tình
Cô Tùng sắc đẹp, cô Na cứu
Lưỡi búa thiên lôi chết chẳng đành.

Khổng Tuyết Lạp dòng dõi Khổng Thánh Nhân, tính tình đằm thắm, tài làm thơ, có người bạn đồng học cũ làm huyện lệnh Thiên Thai, gửi thư mời chàng đến huyện chơi.
Chàng tới nơi thì ông huyện vừa mới qua đời, bơ vơ không có tiền trở về quê quán, phải ở đậu trong chùa Bồ Đà, viết thuê chép mướn cho mấy thầy sãi để nuôi thân.
Cách chùa hơn trăm bước về phía Tây, có toà nhà của Đơn tiên sinh. Tiên sinh vốn con nhà quan, vì kiện cáo mãi mà nhà hiu quạnh, gia quyến lại ít người, ông liền dời vô trong xóm thành ra tòa nhà bỏ không.
Một hôm tuyết xuống, trên đường vắng tanh không có người qua lại, Khổng sinh chợt đi ngoài cửa thấy một thiếu niên từ trong đi ra, vẻ người rất lịch sự. Thiếu niên trông thấy chàng liền chào hỏi rất niềm nở, rồi mời vào trong nhà chơi.
Chàng vui vẻ theo chân vào liền.
Nhà không rộng rãi mấy nhưng chỗ nào cũng treo màn gấm, trên tường đầy những tranh vẽ và chữ viết của người xưa. Trên bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề chữ “Loan hoàn tỏa ký” (nghĩa là chuyện vặt ở động Loan Hoàn).
Chàng mở ra xem qua một lượt toàn thấy chép những cảnh mình chưa được thấy bao giờ. Nhân nghĩ thiếu niên ở tòa nhà họ Đơn, vậy tất là chủ nhà, cho nên không màng hỏi thăm về gia thế làm gì. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của chàng, tỏ ý thương xót khuyên bảo chàng nên mở lớp dạy học.
Chàng than thở:
- Tôi là người bơ vơ lữ thứ thế này, có ai chịu dương danh mách mối cho mình?
Thiếu niên nói:
- Nếu đừng chê tôi đơn hèn, thì chính tôi xin thụ giáo đây!
Chàng mừng rỡ, nhưng không dám nhận là thầy học, chỉ xin làm bạn, nhân dịp hỏi thăm tại sao nhà này đóng cửa bịt bùng đã lâu?
Thiếu niên đáp:
- Đây là nhà của ông Đơn, lúc trước vì ông dời vào ở trong làng, cho nên chốn này bỏ hoang đã lâu. Tôi họ Hoàng Phủ, quê quán ông bà vốn ở đất Thiểm, vì nhà cửa tôi bị cháy rụi, phải đến tạm ở nhà này.
Bấy giờ chàng mới rõ thiếu niên không phải là Đơn Ngay đêm hôm đó hai người chuyện vãn rất vui vẻ, khi ngủ nằm chung một giường. Tảng sáng, đã có thằng nhỏ dậy đốt lò than trong nhà. Thiếu niên thức dậy trước, đi vào nhà trong, chàng vẫn còn ôm mềm trên giường. Thằng nhỏ vào nói có ông cụ đến. Chàng sửng sốt vùng dậy. Một cụ già bước vào, râu tóc bạc phơ, chào hỏi rồi ngỏ lời cảm tạ chàng:
- Tiên sinh có lòng thương đến thằng con khờ dại của lão mà chịu ở lại đây dạy dỗ, lão rất cám ơn. Nó mới bắt đầu tập viết và tập đọc, vậy xin đừng lấy nê làm bạn, coi nó như cùng trang lứa.
Đoạn lão sai mang ra biếu chàng một bộ áo gấm, và mũ lông cùng giấy vở, mỗi thứ một món. Lão săn sóc cho chàng rửa mặt chải đầu xong rồi, gọi bưng cơm rượu ta thết đãi. Các thứ áo giường ghế không biết gọi tên là gì, chỉ thấy bóng lộn sáng ngời, choáng cả mắt.
Ngồi tiếp một hai chén rượu, lão đứng dậy từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, toàn là giọng điệu cổ văn không có lối khoa cử theo thời một chút nào...
Chàng hỏi tại sao, thiếu niên cười và nói:
- Tôi không cần học để thi đỗ làm quan chi hết.
Tối đến thiếu niên sai bày tiệc rượu lại nói rằng đêm nay uống thật say rồi thôi, ngày mai trở đi không được uống rượu nữa. Rồi gọi thằng nhỏ và nói:
- Mày xem ông cụ đã đi nằm ngủ chưa, hễ nằm ngủ rồi thì lên bảo Hương Nô ra đây nghe.
Thằng nhỏ đi một lát trở lại, ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà mang ra trước. Giây lát một nàng hầu bước vào, mặc áo đỏ tuyệt đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương Phi. Nàng cầm thẻ ngà gảy đàn bổng trầm bi tráng, bài bản nhịp nhàng, không phải như người ta thường nghe. Laị sai nàng mang chén lớn tới chuốc rượu, canh ba mới tan.
Ngày hôm sau cùng dậy sớm đọc sách. Thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ. Hai ba tháng sau, câu văn viết cực rắn rỏi. Đôi bên hẹn nhau năm ngày uống rượu một lần. Mỗi lần có tiệc rượu, đều gọi Hương Nô tới góp vui.
Một hôm, rượu say nóng mặt, chàng ngó Hương Nô đăm đăm.
Thiếu niên hiểu ý nói:
- Người nàng hầu này, ông cụ tôi nuôi dạy đã lâu. Nay anh trơ trọi không có gia đình, ngày đêm tôi vẫn trù tính cho anh về chuyện đó. Để tôi sẽ tính một người vợ thật đẹp.
Chàng nói:
- Nếu cậu có lòng tốt, phải tìm cho tôi một người như Hương Nô mới được.
Thiếu niên cười đáp:
- Anh này thật là người thấy ít, lạ nhiều. Hạng như con Hương Nô mà anh cho là đẹp, té ra sở nguyện của anh muốn được vừa lòng cũng dễ lắm nhỉ.
Ở được nửa năm, chàng muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng đến cửa thì hai cánh khóa trái. Hỏi thiếu niên cắt nghĩa rằng: “ông cụ nhà tôi sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách đó thôi!” Chàng tin như thế, yên tâm ở nhà.
Lúc đó nắng bức gắt gao, phải dời nhà học ra ngoài vườn, giữa bụng chàng nổi một cái ung, to như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên la. Sớm tối thiếu niên chăm nom săn sóc, đến nỗi bỏ ăn quên ngủ.
Mấy ngày nữa chỗ đau lại nặng thêm, cũng tuyệt ăn uống. Cụ già cũng ra thăm, đứng nhìn và thở dài. Thiếu niên nói:
- Đêm trước con nghĩ chứng bịnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, nên đã cho người đến nhà bà ngoại kêu nó về. Không hiểu sao đến chừng này còn chưa thấy đến.
Bỗng thằng nhỏ vào thưa:
- Cô Na đã tới, cả dì và cô Tùng cũng đến một lượt.
Hai cha con lật đật đón vào trong nhà, một lát thiếu niên đưa em lại thăm bênệ cho chàng. Cô này lối chừng mười ba mười bốn tuổi vẻ hoa lộng lẫy, vóc liễu thước tha, chàng ngó thấy nhan sắc, bỗng quên cả đau đớn rên la, tinh thần tự nhiên khoẻ khoắn.
- Anh này là bạn thân không khác chi ruột thịt, vậy em rán xem mạch, điều trị cho anh.
Nàng bèn nén vẻ thẹn thùng, vén tay áo lên đến cạnh giường bắt mạch. Trong lúc tay chạm tay, chàng nghe mùi thơm phức, hơn mùi bông lan. Nàng bắt mạch rồi cười nói:
- Phát ra chứng bệnh này là phải, vì mạch tâm động lắm. Bệnh tuy rằng nguy, nhưng có thể trị đặng. Có điều cái nhọt đã cương, không bóc da khoét thịt không đặng.
Đoạn nàng tháo chiếc xuyến vàng đeo ở cánh tay mình ra, đặt vào chỗ nhọt của chàng, từ từ đè xuống, nhọt bỗng nỗi lên chừng một tấc, cao hơn bên ngoài chiếc xuyến, nhưng cả vùng tím bầm dưới chân đều thu gọn cả vào bên trong chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Nàng vén áo móc lấy con dao đeo bên mình, lưỡi mỏng tang như tờ giấy, rồi tay đè xuyến, tay cầm dao nhẹ nhàng lựa theo quanh nhọt mà cắt, máu tím chảy phun, ướt đẫm giường chiếu.
Chàng thèm thuồng gần kề sắc đẹp, cho nên chẳng những không thấy dau đớn, lại còn lo công việc mổ xẻ mau xong thì vái khoái mình kề, tay ấp không hưởng được lâu.
Không mấy chốc, nàng khoét xong thịt thối, từng hòn từng cục như cái bướu ở trên thân cây cắt xuống vậy. Nàng gọi đem nươớ lại để rửa chỗ mới cắt, rồi nhá một hoàn thuốc màu đỏ ở trong miệng ra, nhỏ như viên đạn, đặt trên thịt chàng và thoa khắp xung quanh.
Mới một vòng đầu, chàng nghe khí nóng phừng phừng, vòng thứ hai thì làm như xốn xang ngứa ngáy, vòng thứ ba thì khắp thân thể mát mẻ thấu đến xương tủy. Nàng thu lấy hồng hoàn bỏ vô miệng và nói:
- Thế là khỏi bệnh rồi!
Miệng nói chân rảo bước đi ra.
Chàng vùng trỗi dậy chạy theo cảm tạ. Bao nhiêu bệnh tật lê mê dường đã tiêu tan đâu hết, trong trí tưởng nhớ vẻ đẹp của n không thể nào khuây.
Từ hôm đó trở đi, bỏ cả sách vở không đọc chỉ ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ, không được hoạt bác vui vẻ như cũ. Thiếu niên nhòm thấy, hiểu ý, nói:
- Em đã vì anh kén chọn được một người vợ đẹp rồi!
Chàng hỏi người nào? Thiếu niên đáp:
- Người đẹp cùng họ hàng với em.
Chàng lặng nghĩ giây lâu, chỉ thốt ra hai tiếng:
- Thôi đừng!
Rồi day mặt vào tường ngâm hai câu thơ cổ:
Ngoài ra biển cả khôn tìm nước
Nếu bỏ non Vu đâu có mây.(1)
Hoàng Phủ công tử nghe qua hiểu ý, nói rằng:
- Thân phụ tôi vẫn mến tài anh, thường muốn kết làm hôn nhân.
Ngặt vì tôi chỉ có một con em bé, tuổi còn nhỏ quá, nhưng bà dì tôi có người con gái tên là A Tùng năm nay đã mười bảy tuổi, nhan sắc không đến nỗi xấu xa. Nếu anh không tin lời toi nói, thì Tùng nương sớm nào cũng dạo chơi ngoài vườn, anh đứng núp trước hiên, dòm coi sẽ biết.
Chàng y lời dặn, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nữ ra vườn, mắt vẽ mày ngài, chân mang giày phượng, sắt mặt xấp xỉ Kiều Na. Chàng rất mừng nhờ công tử làm mối dùm.
Qua hôm sau, công tử ở trong nhà đi ra, chúc mừng chàng và nói:
- Việc xong rồi!
Đoạn, công tử sai dọn một nhà riêng, lo việc làm đám cưới cho chàng.
Đêm ấy, nhạc trỗi vang nhà, hương bay khắp chốn, chàng thấy như mình được nàng tiên cung trăng bỗng cùng chăn gối, bất giác đâm ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc ở trên mây xanh tuyệt vời kia mới có.
Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hợp.
Bỗng một đêm công tử đến nói với chàng:
- Cái ơn của anh dùi mài bảo tôi học, không có ngày giờ nào tôi quên được, Mới rồi, Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi lại nhà này rất gấp. Vì đó, gia đình tôi muốn bỏ chốn này mà dời đi phía Tây, thế khó tụ họp với nhau thành ra nông nỗi lìa tan khiến tôi vấn vương trong bụng.
Khổng sinh tình nguyện đi theo, nhưng công tử khuyên chàng trở về quê quán. Chàng lấy chuyện ấy làm khó khăn. Công tử nói:
- Đừng lo, bây giờ tôi có thể đưa chân anh về.
Một chốc cụ già dẫn Tùng nương ra, lấy một trăm lượng vàng tặng cho hai vợ chồng. Công tử đưa hai tay, dặn phải nhắm mắt đừng nhìn. Thế rồi vùn vụt bay trên không, bên tay chỉ nghe gió thổi. Chặp lâu công tử nói:
- Đến nơi rồi đây!
Chàng mở mắt ra trong thấy quê quán mình, bây giờ mới rõ công tử không phải là người. Đến nhà gõ cửa, bà mẹ không ngờ thấy con về, mừng rỡ khôn tả lại thấy con có vợ đẹp, càng mừng hơn nữa. Mẹ con hớn hở chuyện trò, chừng nghoảnh lại thì công tử đã biến đâu mất.
Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền, sắc đẹp đồn dậy xa gần.
Sau khi chàng đậu tiến sĩ, được bổ chức Tự Lý ( coi việc hình án) ở quận Diên An, muốn đem cả gia quyến đi theo, nhưng bà mẹ ngại đường xa, ở nhà không đi.
Tùng nương sinh đứa con trai đặt tên là Tiểu Hoạn.
Chàng vì tính khí cương trực, trái ý quan khâm sai, nên bị bãi chức. Nhưng vì còn có chuyện ngăn trở, chưa tiện trở về quê nhà. Hôm đó ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một chàng thiếu niên đẹp trai cưỡi một con ngựa nhỏ, đôi ba phen đưa mắt nhòm chàng: Nhìn kỹ té ra là Hoàng Phủ công tử! Hai người cùng dừng ngựa buông cương, nói chuyện mừng mừng tủi tủi.
Công tử mời chàng đi tới một xóm cây um tùm không trông thấy mặt trời. Vào trong nhà, thì đâu đó thiếp vàng chạm nổi, rõ ràng là một đại gia quý tộc. Hỏi thăm cô em, thì cô em đã xuất giá, bá nhạc cũng đã qua đời, chàng rất động lòng thương tiếc.
Ngủ có một đêm rồi từ biệt ra về, hôm sau dắt vợ con cùng đến.
Kiều Na cũng tới, ẵm đứa con chàng nựng nịu hôn hít và nói bỡn:
- Bà chị làm loạn mát dòng giống nhà rồi!
Khổng sinh ta ơn Kiều Na đã cứu mạng ngày trước. Nàng cười và nói:
- Nay dượng sang trọng rồi. Vết thương đã hàn, có nhớ hồi đó đau rên như thế nào không?
Ngô lang là chồng nàng cũng đến thăm nhà vợ, ở một hai bữa rồi đi.
Một hôm công tử có sắc lo, hớt hải bảo chàng:
- Trời giáng tai họa, có cứu được nhau chăng?
Chàng không biết tai họa gì, nhưng cứ hăng hái nhận lời. Công tử chạy dẫn cả gia nhân cùng vào, quì lạy la liệt. Chàng kinh ngạc vội hỏi chuyện gì. Công tử nói:
- Thú thực chúng tôi là hồ tinh, chứ không phải là người. Hôm nay có số kiếp bị sét đánh, nếu anh chịu lấy thân ra cứu nạn, thì cả nhà tôi có trông được sanh toàn. Bằng không thì xin anh phải bồng con đi trước, đừng ở đây mà phải vạ lây!
Chàng kêu trời thề sống chết. Công tử bèn nhủ chàng cầm gươm đứng trấn ngoài cửa và căn dặn kỹ lưỡng:
- Sấm sét đùng đùng, anh đừng nhúc nhích!
Chàng y theo lời dặn quả thấy mây mù kéo tới, đen tối như mực, nghoảnh lại chỗ ở cũ, không còn thấy tòa ngang dãy dọc gì nữa, chỉ thấy đá cao lù lù, hang hốc thăm thẳm. Giữa cơn kinh ngạc, một tiếng sét đánh dữ dội, vang động núi non, mưa to gió lớn, đánh bậc cả những gốc cây đã già. Chàng hoa mắt choáng tai, nhưng cứ đứng nguyên, không hề cục cựa.
Bỗng trong đám mây đen gió thét hiện ra một con quỷ, mỏ dài nanh nhọn cắp một người từ trong hang ra, bay thẳng lên mây. Chàng trông thoáng áo giày giống hệt Kiều Na, vội vàng nhảy lên khỏi mặt đất, hươ kiếm đánh với theo. Người đó theo tay rớt xuống. Thế rồi núi non rung chuyển, sấm sét đùng đùng, chàng té rụi xuống đất chết giấc.
Một lát sau, trời quang mây tạnh, Kiều Na đã tự tỉnh hồn trông thấy chàng chết cạnh, cất tiếng khóc rống:
- Khổng lang vì ta mà chết, thì ta còn sống làm gì?
Lúc ấy Tùng nương vừa ra đến nơi. Chị em xúm lại vực chàng đem về nhà.
Kiều Na sai Tùng nương ôm đầu, thoạt tiên lấy cây trâm cạy hàm răng, dùng lưỡi đẩy viên hồng hoàn vào trong miệng, lại kề môi mà hà hơi vào. Hồn hoàn theo hơi thở vào cuống họng, nghe tiếng ừng ực.
Một lát chàng tỉnh dậy, trông thấy vợ con, người nhà đông đủ trước mặt, nghĩ như cơn mộng bừng tỉnh.
Bấy giờ hết sợ tới mừng, cả nhà sum họp. Chàng nghĩ nơi mồ mả âm u chẳng nên ở lâu, bèn đề nghị cùng về quê nhà mình.
Ai nấy cũng tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Chàng xin mời cả Ngô lang cùng về ở chung, nhưng lại lo ngại ông cụ không chịu xa lìa cô bé. Vì thế suốt ngày bàn soạn chưa biết nhất định thế nào?
Chợt thấy thằng nhỏ ở bên nhà họ Ngô, mồ hôi nhễ nhại hơi thở hổn hển, từ ngoài bước vào. Mọi người sửng sốt hỏi thăm nguyên do, thì ra cũng ngày hôm đó. Ngô gia bị số kiếp lôi đình, cả nhà chết ráo.
Kiều Na dậm chân gào khóc, nước mắt tuôn mãi không thôi. Ai nấy xúm lại an ủi khuyên lơn, rồi đó cái mưu toan tính cùng về mới được quyết định.
Chàng vào trong thành, mua bán, cách vài ngày sửa soạn hành lý lên đường. Về đến nơi, chàng để một khu vườn cất riêng cho công tử ở. Nhà thường khóa trái, lúc nào chàng và Tùng nương đến mới mở cửa ra.
Chàng với anh em công tử, chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà.
Tiểu Hoạn lớn lên, mặt mày xinh đẹp, hơi có vẻ chồn. Mỗi khi nó đi chơi phố phường, ai cũng biết là con chồn đẻ ra.
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Chú thích:
(1) Nguyên văn:
Tằng kinh thương hải nan vi thủy
Trừ khước Vu Sơn bắt thị vân.
Thơ của một thi sĩ đời Đường khóc vợ, cực tả nỗi niềm thương nhớ, trên đời không có ai đáng cho mình yêu quý hơn nữa, cũng như đã ra biển cả mênh mông , thì nước sông nước hồ chẳng có nghĩa gì: đã lên tận Vu sơn trông thấy mây đẹp thì mây ở chỗ khác chỉ là đám khói chứ không phải mây.
Khổng sinh mượn hai câu thơ này ngâm nga cảm khái, muốn tỏ ra trước mắt mình không còn ai đẹp hơn Kiều Na và chỉ Kiều Na mới đáng để cho mình lấy làm vợ thôi!



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Kết duyên với ong
Liên Hoa công chúa

Giao Châu Đậu Húc, tự Hiểu Huy, bữa nọ đang nằm ngủ trưa, chiêm bao một người bận áo vải nâu tới đứng bên giường, dòm quanh ngó quẩn, dường có điều chi muốn nói vậy.
Chàng hỏi đi đâu, người ấy thưa:
- Tướng công tôi mời ngài lại chơi.
- Nhưng tướng công nhà chú là ai? Chàng hỏi lại.
- Bẩm nhà ở gần đây.
Chàng dậy theo đi vòng qua vách tường nhà mình rồi đưa tới một nơi, lâu đài nguy nga, tiếp liền muôn lớp, đi quanh ngả vòng khúc kia, có đến trăm cổng ngàn ngõ, không phải là cảnh ở trần gian. Lại thấy những cung tần nữ quan, đi lại cực đông, ai nấy cũng hỏi người áo vải:
- Đậu lang tới đó ư?
Người áo vải gật đầu.
Chợt một vị quý quan đi đến, chào rất cung kính, chàng hỏi:
- Bấy lâu không được hân hạnh quen biết, cho nên chẳng đến bái kiến, nay ngài quá yêu đón rước như vậy, khiến tôi e ngại hết sức.
Vị quý quan đáp:
- Đức vua của tôi thấy tiên sinh là nhà dòng dõi tử tế, lòng vẫn hâm mộ, nên cần gặp mặt.
Chàng nghe càng sợ, hỏi đại vương là ai, vị quý quan trả lời vắn tắt:
- Lát nữa ngài sẽ biết.
Giây lát, có hai nữ quan ra đón, cầm hai lá cờ dẫn chàng đi, qua lớp cổng lớn vào ở trong, thấy một Vương giả đang ngồi trên điện.
Vương vừa thấy chàng đến, liền bước xuống thềm chào đón, giữ lễ chủ khách.
Lễ tương kiến xong, yến tiệc dọn ra, cực kì sang trọng. Ngửa mặt trên điện, có bức hoành phi sơn son thếp vàng đề hai chữ Quế Phủ. Chàng thêm lúng túng run sợ, không biết ăn nói thế nnào. Vương mở lời trước:
- Là chỗ xóm giềng với nhau, tình phải tự nhiên khăng khít. Vậy xin ngài cứ việc ăn uống chuyện vãn thong thả, đừng quản ngại gì hết.
Chàng dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm có phường nhạc trỗi đàn ca chiêng trống, nhưng tiếng nhỏ li ti, chàng không nghe rõ. Một lát, Vương hỏi tả hữu bá quan:
- Trẫm có câu văn này, chư khanh thử đối xem: Tài nhân đăng quế phủ (Tài nhân lên phủ quế).
Các quan còn đang suy nghĩ chưa ra, chàng đối liền:
- Tâu đại vương, tôi xin đối: Quân tử ái liên hoa (Quân tử thích hoa sen).
Vương phán:
- Hay, hay quá, Liên Hoa là tên công chúa, sao ngài đối thích hợp khéo léo đén thế, há chẳng phải là có túc đế nhân duyên?
Lập tức truyền gọi công chúa phải ra chào quân tử.
Giây lát, nghe tiếng ngọc khua rổn rảng, hương bay ngạt ngào, công chúa ra điện, tuổi độ mười lăm, mười sáu, nhan sắc dáng điệu tuyệt đẹp. Vương truyền làm lễ chào khách, rồi giới thiệu với chàng:
- Đây là tiểu nữ Liên Hoa.
Nàng chào rồi trở vào. Chàng trông thấy người tiên, tâm hồn rung động ngây ngất, đến nỗi ngồi thừ như tượng gỗ, dồn cả tơ tưởng vào ai. Vương nâng chén rượu khuyên mời, nhưng mắt chàng không thấy. Có lẽ Vương xét rõ tình ý, bèn nói:
- Con gái tôi đáng nâng khăn sửa túi cho ngài đó, nhưng còn tự thẹn không phải cùng loài, thì làm thế nào?
Chàng vẫn còn ngơ ngẩn vì ai, mà không nghe mấy lời Vương nói.
Người ngồi bên cạnh, đạp nhẹ vô chân chàng và hỏi:
- Vương mời, ông không thấy ư?
Bấy giờ chàng như cơn mê mới tỉnh, mặt bẽn lẽn thẹn thùng, đứng ra ngoài tiệc, chắp tay nói:
- Thần mang ơn rất hậu, không dè vui chén quá say, thất thố về nghi lễ, cúi xin đại vương rộng lượng tha thứ. Ngày giờ đã muộn, đại vương lại nhiều việc cần phải xem xét, vậy thì thần xin kiếu từ lui về.
Vương đứng dậy đáp lễ:
- Được thấy dung nhan quân tử, thật là thoả lòng ta, chưa chi khanh đã thoái lui sao phải. Tuy vậy, khanh đã muốn về, quả nhân cũng không dám ép nài ở lại. Thôi, để dịp khác quả nhân lại sai mời đến.
Đoạn, Vương truyền nội quan đi tiễn chàng về.
Giữa đường, nội quan nói:
- Lúc nãy, đại vương có nói ngài cùng công chúa xứng đôi vừa lứa, cho nên muốn kết hôn.
Chàng giậm chân ăn năn, mỗi bước chân là mỗi tiếng than tiếc, thế rồi về tới nhà, thì mặt trời đã lặn, ngồi thừ mặt ra mơ tưởng cảnh đẹp người tiên, như còn phảng phất trước mắt.
Tối đến, chàng ở nhà học một mình, tắt đèn ngủ sớm, trong ý mong đợi giấc chiêm bao cũ lại tìm đến mình, nhưng suốt đêm không thấy tăm dạng gì cả, chỉ có thở than thèm tiếc mà thôi.
Một đêm, chàng đang nằm ngủ trên giường với một người bạn thì nội quan hôm nọ đến nói đại vương sai mời.
Chàng mừng quýnh, theo đi liền.
Đến nơi, chàng phủ phục làm lễ bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi và nói:
- Từ hôm từ biệt, quả nhân biết khanh nhọc lòng tơ tưởng. Nay mời khanh đến ý muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, tưởng khanh không đến nỗi chê bỏ.
Chàng bái tạ nhận lời ngay.
Vương liền sai các quan học sĩ đại thần yến ẩm.
Tiệc xong cung nhân vào tâu:
- Công chúa đã sửa soạn xong rồi.
Một lát mấy chục cung nữ phò công chúa ra, gấm đỏ bịt đầu, chân bước êm ái, đứng trên nệm lông chiên, cùng chàng làm lễ giao bái thành vợ chồng.
Rồi cung nữ đưa hai vợ chồng về toà riêng, vui thú động phòng, hết sức nhuần nhị. Chàng nói:
- Có khách ở trước mắt, thật là khiến người ta vui sướng quên chết. Nhưng e cuộc gặp gỡ ngày nay, chỉ là giấc mộng thôi.
Công chúa vội vàng bưng miệng chàng và nói:
- Rõ ràng thiếp với chàng ngồi đây, sao lại bảo là mộng cho được!
Sáng dậy chàng đùa thoa son dồi phấn cho công chúa, rồi lấy dây lưng đo quanh bụng cho đến ngón tay ngón chân. Công chúa phì cười hỏi:
- Chàng điên sao chớ?
Chàng nói:
- Tôi thường bị chiêm bao đánh lừa nhiều rồi, cho nên muốn ghi chép vào trí cho nhớ, phòng khi có mộng đi nữa, cũng đủ chạnh lòng tưởng niệm nhau vậy.
Hai người đang nô giỡn cười đùa như thế, bỗng một cung nữ hơ hải chạy vào, vừa thở vừa nói:
- Yêu quái kéo vào nội cung. Đại vương đã lánh mình ra biệt điện rồi. Vạ lớn đến nơi đây bây giờ.
Chàng cả kinh, liền tới biệt điện ra mắt. Vương cầm tay chàng, khóc nói:
- Vừa mới được người quân tử có lòng đoái thương gắn bó, ý muốn cùng nhau tụ hội lâu dài, nào ngờ trời làm tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính làm sao đây?
Chàng sửng sốt hỏi tại sao, Vương lấy một bản tâu còn để trên án, trao cho chàng đọc. Bản tâu ấy viết như vậy:
Hàm hương đại học sĩ, thần Hắc Dực, cúi xin tâu bày về việc yêu quái phi thường, phải sớm dời đô, nhà nước mới còn.
Cứ theo viên Huỳnh môn quan báo cáo từ hôm mùng sáu tháng năm, một con rắn lớn dài ngàn trượng, chiếm giữ ngoài cung, ăn hết tôi dân trong ngoài, tính lại cả thảy một muôn ba ngàn tám trăm mạng. Nó đi qua chỗ nào, đền đài chỗ ấy sụp đổ thành gò bãi.
Thần phấn khởi dũng khí, ra trước thăm dò, quả thấy con yêu quái, đầu tựa núi non, mắt như sông biển, nghển đầu thì cung điện trôi, vươn mình thì lâu đài sụp, thật là dữ dội ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu, nguy ngập sớm hôm. Cúi xin Bệ hạ sớm đem cung quyến, dời đi nơi nào yên ổn…
Chàng đọc xong, mặt tái mét, liên có cung nhân chạy vào cấp báo yêu vật đã đến. Khắp cung điện nổi tiếng khóc lóc kêu gào, tình cảnh rất thê thảm. Vương luống cuống không biết làm cách nào, chỉ khóc và day lại bảo chàng:
- Phiền tiên sinh lo giùm tiểu nữ nghe!
Chàng nghẹn ngào trở về tư thất, công chúa đang cùng tả hữu ôm nhau kêu khóc, thấy chàng bước vào, liền nắm áo nói:
- Lang quân tính sao cho thiếp bây giờ?
Chàng đau đớn muốn chết, hỏi công chúa:
- Tôi vốn nghèo hèn, tự thẹn không có nhà vàng để khanh ở, chỉ có vài ba gian nhà lá, vậy ta đưa nhau về đó tạm lánh, được chăng?
Công chúa nức nở nói:
- Việc nguy cấp lắm rồi, còn lựa chọn sao đặng? Lang quân dẫn thiếp đi mau!
Chàng bèn đỡ công chúa ra đi. Một chập về đến nhà. Công chúa nói:
- Nhà này rộng lớn yên ổn gấp mấy cố quốc của thiếp. Nhưng thiếp theo chàng đến đây được yên thân còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu? Vậy xin chàng cất cho một gian nhà riêng, để phụ hoàng đem cả nước tới ở đậu cho vui.
Chàng cho là việc khó khăn. Công chúa gào thét:
- Trời ơi! Không thể cứu giúp người trong nguy cấp, thì ai còn cần dùng chàng được việc chi?
Chàng tìm lời an ủi qua loa rồi vô nhà trong. Công chúa nằm phục bên giường mà kêu khóc bi thảm, không thể khuyên can đặng. Chàng bối rối gan ruột vì nỗi vô phương. Tới đó bỗng dưng tỉnh dậy, mới biết là giấc chiêm bao. Bên tai còn nghe tiếng than khóc vu vu chưa hết, lắng tai nghe kĩ, chẳng phải là tiếng người, chỉ hai ba con ong, bay lượn vo ve trên gối. Chàng kêu to:
- Quái lạ!
Người bạn nằm bên hỏi nguồn cơn, chàng kể rõ chiêm bao khiến ông ta cũng lấy làm lạ.
Hai người cùng dậy xem, thấy ong cứ bay đậu quanh quẩn bên áo chàng, duổi cũng không đi. Bạn khuyên chàng làm ổ cho chúng ở.
Chàng nghe theo, mướn thợ về làm, vừa mới dựng xong hai bên, đã thấy đàn ong từ ngoài tường bay vào, liên tiếp như dệt, dò xem gốc tích, thì ra ở cái vườn cũ của ông lão hàng xóm bay đến.
Trong vườn này nguyên có một ổ nuôi ong, đã ngoài ba chục năm, sinh đẻ cực nhiều. Có người kể lại việc của Đậu sinh cho ông lão hàng xóm nghe. Ông chạy ra xem, thì ổ ong vắng tanh, lật bức vách ra, thật có con rắn nằm trong, dài lối một trượng, liền bắt giết đi. Trên kia nói mãng xà ngàn trượng, tức là vật đó.
Từ ngày ong vào ở nhà chàng, sinh nở càng phồn thịnh hơn./.

Đào Trinh Nhất dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thứ Cỏ Giết Người
Thủy Mảng Thảo

Chén ngọc trà xinh cũng thế thôi
Cô em mời mọc quá non xơi
Dù ai đã khát trong khi ấy
Mảnh vải chiêu hồn biết mượn ai?

Thủy mảng là loài cỏ độc, mọc tràn dưới nước như dây sắn leo, bông nó sắc tím giống như đậu ván. Ai lỡ ăn lầm, chết ngay hoá thành con thủy mảng. Tục truyền thứ ma này không được luân hồi phải có người khác trúng độc chết thay, bấy giờ mới được thác sinh. Vì thế, ở đất Sở, suốt một dọc sông Đào Hoa rất nhiều ma đó.
Người Sở có tục nhìn nhận những người cùng sinh ra một năm với mình là đồng niên, đến nơi đưa thiếp yết kiến, gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu gọi bề trên là canh thúc canh bá, thói quen từ xưa như thế.
Một hôm, Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, nửa đường khát nước thèm uống, chợt thấy bên đường có một cụ già bày cái quán để bố thí nước uống cho người qua lại. Chàng liền ghé và nhà, bà cụ niềm nở chào mời và rót trà rất ân cần.
Chàng ngửi nước có mùi lạ, không giống mùi trà, để đó không uống, đứng dậy đi ra. Bà cụ vội ngăn khách lưu lại rồi nói:
- Tam nương ơi! Pha một chén trà thật ngon ra đây.
Giây lát, có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi chừng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, tay đeo nhẫn vòng vàng bóng lộn, có thể soi gương được. Chàng đỡ lấy chén trà, tâm hồn ngây ngất. Ngửi trà có mùi thơm ngào ngạt, chàng uống một hơi cạn chén, lại xin cho chén nữa. Thừa lúc cụ già vắng mặt, chàng đùa bỡn nắm cánh tay nàng, tháo ra một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, khiến chàng bị cám dỗ thêm, nhân dịp hỏi về gia thế, nàng nói:
- Buổi tối cậu đến, em còn ở đây.
Chàng xin một nắm trà, lại lấy luôn chiếc nhẫn mà đi. Đến nhà bạn đồng niên thì ruột gan quằn quại, chàng nghi nước trà làm đau bụng, kể chuyện tình đầu cho bạn nghe. Bạn hoảng hồn và nói:
- Thôi chết rồi! Đó là con ma thủy mảng. Thân phụ tôi ngày xưa chết cũng vì nó, không thể cứu đưọc! Biết làm thế nào bây giờ?
Chàng sợ quá, đưa gói trà cho bạn xem, quả thật là cỏ thủy mảng. Lại khoe chiếc nhẫn và tả hình dạng người thiếu nữ. Bạn ngẫm nghĩ, nhớ ra:
- Chắc là Khấu Tam nương đó!
Chúc sinh thấy đúng tên, hỏi bạn vì sao mà biết, bạn nói:
- Con gái nhà họ Khấu ở Nam thôn, vốn có tiếng sắc đẹp, mấy năm trước ăn nhầm thủy mảng mà qua đời, tất cả là nàng làm yêu quái để giết anh đó. Có người nói rằng ai bị con yêu quái ấy hành, nếu biết được tính danh của nó, mà xin được cái quần đũng nó mặc, đem về nấu nước uống thì sẽ có thể lành mạnh vô sự.
Bạn lập tức đến nhà họ Khấu, kể rõ thật tình và năn nỉ xin cứu mạng. Khấu nghĩ rằng: Chúc sinh sắp chết, đặng thay thế con gái mình đi đầu thai, cho nên ích kỷ không cho cái quần cũ. Bạn tức giận ra về mà nói cho chàng hay. Chàng cũng nghiến răng tức giận nói:
- Tôi chết, nhất định không cho con gái nhà nó đi đầu thai.
Bạn sai người cõng chàng về nhà, gần tới nơi thì chết, mẹ chàng khóc lóc mà lo việc tống táng cho con.
Chàng mất để lại một thằng bé mới đầy năm. Vợ chàng không ở góa được, cách nửa năm bỏ đi lấy chồng khác. Tội nghiệp bà cụ ôm đứa cháu mồ côi cho ăn dỗ ngủ, vất vả không kham, sớm chiều nhớ thương con cháu, gàu khóc thảm thiết.
Một hôm bà đương ôm cháu ngồi trong nhà, bỗng thấy chàng sừng sững bước vào, lấy làm sợ hãi, gạt nước mắt mà hỏi rõ nguồn cơn. Chàng nói:
- Con ở dưới đất nghe mẹ khóc mãi rất đau lòng xót ruột, cho nên con trở về để sớm hôm hầu hạ giúp đỡ mẹ đây. Con tuy chết nhưng đã lập thành gia thất, nay vợ con cũng theo về đặng chia sẻ khổ cực với mẹ, xin mẹ đừng bi thương nữa.
Bà mẹ hỏi :
- Vợ con là ai?
Chàng thưa:
- Họ Khấu đành lòng để con chết, con hết sức oán hận. Chết rồi con muốn tìm kiếm Tam nương mà không biết nàng ở chỗ nào, gần đây gặp một vị canh bá trỏ đường lối, con đến nơi thì Tam nương đã đi đầu thai ở nhà quan thị họ Nhiệm. Con lập tức đuổi theo bắt nàng trở về và buộc phải làm vợ con. Vợ chồng con cũng tâm đầu ý hợp, chẳng khổ sở chi.
Giậy lát, tiến vào một người con gái, ăn mặc xinh đẹp, quì xuống đất lạy mẹ. Chàng nói:
- Thưa mẹ, người này là Khấu Tam nương, vợ con.
Tuy con trai con dâu chẳng phải là người sống, nhưng bà mẹ được trông thấy cũng khuây khỏa nỗi lòng. Chàng hối Tam nương làm công việc trong nhà. Nàng không quen làm lụng, nhưng biết chiều chuộng mẹ chồng, ở luôn nhà cũ, không đi.
Nàng xin mẹ chồng báo tin cho bên nhà nàng hay. Chàng bảo đừng, song mẹ chiều lòng con dâu, sai người đi báo cho nhà họ Khấu biết.
Ông bà Khấu nghe tin hãi hùng, lập tức mướn xe đến nơi, trông quả là Tam nương, nhìn nhau khóc thất thanh. Nàng khuyên can mãi mới thôi.
Khấu bà thấy cảnh nhà chàng nghèo khổ, có vẻ thương hại con gái mình vất vả. Nàng nói:
- Con đã thành ma rồi, cần gì giàu nghèo. Huống chi mẹ con Chúc lang đối với con tình nghĩa ân cần, con lấy thế làm an phận lắm rồi.
Nhân dịp, Khấu bà hỏi thăm bà lão bán trà là người nào, nàng nói:
- Bà ấy họ Nghê, tự thẹn tuổi già, không thể cám dỗ được khác qua lại, cho nên cậy con giúp sức, vậy thôi. Nay mụ đã thác sinh vào một ngôi nhà bán rượu trong thành.
Nói đoạn lại quay sang bảo chàng:
- Mình đã làm rể mà không lạy mẹ vợ thì lòng em sao đành?
Chàng liền lạy chào theo lễ.
Rồi đó nàng xuống bếp đỡ tay mẹ chồng, nấu cơm để đãi ông bà xui gia.
Khấu bà trông thấy động lòng thương xót sau khi trở về, liền sai hai con tới phục dịch. Thêm vàng trăm cân, vải lụa mấy chục tấm. Thỉnh thoảng, cho người mang rượu thịt đến biếu xén, thành ra Chúc mẫu trở nên một nhà giàu nho nhỏ.
Cũng có lúc Khấu gia kêu nàng về thăm bên nhà nhưng ở được vài ba ngày, nàng liền đòi về, nói rằng:
- Nhà chồng con vắng vẻ không có ai, phải đưa con về sớm mới được.
Có khi cha mẹ kiếm cớ lần khân chưa cho người đưa về, thì nàng vụt đi một mình.
Khấu ông xuấ tiền cất nhà đàng hoàng cho Chúc sinh, mọi việc xếp đặt đầy đủ. Nhưng chàng chưa hề bước chân tới nhà cha mẹ vợ lần nào.
Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mảng chết rồi sống lại, thiên hạ đồn rùm là một chuyện lạ.
Chàng nói:
- Ta cứu nó sống đó. Nguyên nó bị ma Lý Cửu hãm hại, ta vì nó mà đánh con ma ấy đi.
Bà mẹ hỏi:
-Sao con không tìm người khác để thay thế cho mình?
Chàng nói:
- Con vẫn đương oán hờn tụi đó đáo để, đương ra sức khu trừ cho hết giống. Vậy khi nào con thèm làm cách ích kỷ hại nhân như chúng nó. Vả lại con được phụng sự mẹ, thấy vui sướng lắm rồi, không muốn thác sinh nữa.
Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn ở giữa sân mà khấn vái chàng , đều thấy hiệu nghiệm.
Trải hơn mười năm sau, bà mẹ qua đời, hai vợ chồng cũng thương theo lễ, nhưng không ra mặt tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy, cử hành tang lễ thay mình mà thôi.
Chôn cất mẹ già rồi, lại ở hơn hai năm nữa, cớ vợ cho con, nàng dâu tức là cháu gái ông Nhiệm thị lang.
Nguyên trước người thiếp của Nhiệm công sinh ra đứa con gái được mấy tháng thì chết, nghe chuyện lạ của Chúc liền đến tận nhà đính ước xui gia. Đến giờ gả cháu gái cho con Chúc sinh, hai nhà qua lại với nhau luôn luôn.
Một bữa chàng bảo con:
- Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong ta làm Tứ Độc Mục Long Quân. Bây giờ ta đi nhậm chức đây.
Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa, thắng vào cỗ xe mui vàng, cẳng ngựa đều mọc vảy lân. Vợ chồng cùng mặc áo tốt bước ra, ngồi chung một xe. Đứa con trai và vợ nó khóc lạy tiễn chân. Trong nháy mắt ngựa xe đều mất tăm dạng.
Cũng trong ngày hôm đó Khấu gia thấy con gái hiện về từ giã mẹ cha, cũng nói những lời như chàng đã nói trên đây. Khấu bà muốn lưu lại, nàng nói:
- Mẹ để con đi, Chúc lang đã đi trước rồi!
Nói đoạn đi ra khỏi cửa biến mất.
Đứa con trai của chàng tên là Ngạc, tự Lý Trần, đến xin phép Khấu ông cho lấy hài cốt Tam nương đem về hiệp táng với chàng một chỗ.
ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Vạn Lý Tầm Phu
Cung Mộng Bật

Liễu Phương Hoa, người đất Bảo Định người giàu có nhất trong làng, tính khảng khái, ưa tiếp đãi khách cho nên trên tiệc từng tụ hợp trăm người. Lại hay giúp đỡ người ta trong lúc nguy cấp, bạc vàng không tiếc. Bạn bè khách khứa vay mượn không trả sự thường thấy.
Duy có một người khách là Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây, trước sau chưa hề cầu xin chuyện gì hoặc hỏi vay đồng nào. Một lần đến chơi, ở lại hàng năm, người nói năng lanh lẹ đứng đắn cho nên Liễu hay cùng ăn ở chuyện trò nhiều hơn những khách khác.
Con trai của Liễu tên là Hòa, lúc này còn bé, vẫn gọi Cung là chú. Cung thích chơi với Hòa, mỗi lần Hoà ở trường học về, cùng nhau gỡ những viên gạch lát trong nhà lên chôn đá vụn ở dưới, giả như chôn dấu vàng bạc, lấy thế làm vui. Nhà năm gian, bới đào chôn dấu khắp. Mọi người cười là tính khí trẻ con, chỉ có Hòa là ưa đùa nghịch với Cung là thân mật hơn ai hết.
Mười năm sau, nhà hơi kém, không thể làm vừa lòng của nhiều khách khứa đòi hỏi, thành ra khách khứa vắng dần. Tuy vậy trong nhà vẫn đôi ba chục người hội họp rượu trà chuyện vãn, thâu canh suốt sáng là thường.
Tuổi Liễu càng về già, nhà càng sa sút, nhưng vẫn còn cắp ruộng bán dần lấy tiền để những khi có khách đến thì mổ gà, dọn cơm rượu đãi đằng.
Hòa cũng xài lớn theo gương cha, mời thỉnh các bạn bè con nít với nhau, Liễu biết mà chẳng ngăn cản gì.
Không bao lâu, Liễu thọ bệnh qua đời, trong nhà đến nỗi không còn tiền để lo liệu việc tang. Cung bèn xuất tiền túi ra lo liệu giùm. Vì thế, Hòa càng mang ơn, phàm việc gì lớn nhỏ, đều nhờ chú trông nom.
Mỗi lần Cung ở ngoài về, tất có bọc ít ngói bể gạch vụn về ném vào trong xó. Nội nhà không ai hiểu là ý gì.
Hòa thường than thở cảnh nghèo với Cung, Cung nói:
- Cháu không biết sự làm việc khó khăn vất vả, dù bây giờ có đưa cho cháu ngàn vàng, cháu cũng vung vãi hết ngay. Thằng con trai chỉ lo không biết tự lập chứ lo gì nghèo.
Một hôm Cung từ giã ra đi, Hòa khóc và năn nỉ mau mau trở lại, Cung gật đầu rồi ra đi.
Hòa nghèo đến nỗi ăn uống hàng ngày cũng thiếu thốn, có gì cầm bán mãi, đến nỗi không còn thứ gì cần bán nữa. Hàng ngày mong chú Cung đến, hầu lo chạy dùm mình, nhưng Cung vẫn vắng bặt tăm bặt tích, như chim hạc vàng một đi không về.
Nguyên hồi Liễu còn sống, đi dạm hỏi con gái nhà họ Huỳnh ở quận Vô Cực cho Hòa.
Họ Huỳnh nhà giàu có, sau khi nghe Liễu hết của nghèo, cho nên đã ngầm có ý trở mặt nuốt lời.
Khi Liễu mất, nhà có gửi thiếp báo tang đến. Huỳnh làm lơ chẳng đến phúng điếu chi hết. Ai nấy cũng nghĩ tại đường sá xa xôi mà thể lượng.
Đến lúc mãn tang, mẹ Hòa sai Hòa tự đến nhà nhạc gia để xin hẹn ngày cưới, trong ý trông mong Huỳnh thấy cảnh nghèo túng mà đoái thương giúp đỡ con rể vậy.
Nào ngờ khi Hòa đến nơi, Huỳnh nghe nói áo giày lôi thôi rách rưới, bèn ngầm bảo kẻ giữ cổng không cho Hòa vào, chỉ nhắn miệng rằng, về lo kiếm trăm bạc rồi hãy trở lại đây, bằng không thì từ nay xin tuyệt.
Hòa nghe, khóc lóc thảm thiết. Bà lão họ Lưu ở đối cửa thấy thế động lòng thương hại, gọi Hòa vào cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, bảo kiếm đường về quê quán đi.
Về nhà thuật lại nông nỗi cho mẹ nghe, mẹ cũng phẫn uất xót xa nhưng không biết làm sao khác hơn. Nhân đó, đến khách khứa thuở xưa vay mượn của nhà mình nhiều, mười ông còn đến tám chín ông chưa trả, bà liền bảo Hòa chọn lựa những ông giàu có thì đến mà cầu họ giúp đỡ lại, Hòa lắc đầu:
- Mẹ ơi, ngày xưa họ lui tới giao du với nhà ta, chỉ vì nhà ta có tiền của nhiều đó thôi. Phải chi ngày nay con ngồi xe sang, cưỡi ngựa quý, thì vay mượn người ta ngàn vàng chẳng khó chi đâu. Nay cảnh nhà ta nghèo khổ sa sút thế này, còn ai nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ mà hòng. Vả lại cha con sinh thời, cho ai vay mượn cũng chẳng có giấy tờ gì, nay đi đòi họ rất khó khăn lắm.
Nhưng mẹ cố ép, Hòa đi hơn hai mươi ngày không đòi được một trinh nào hết. Duy có người kép hát Lý Tự còn nhớ ơn xưa Liễu thường cứu giúp mình bèn tặng Hòa một đồng gọi là báo đáp.
Mẹ con ngồi khóc lóc với nhau, từ đó tuyệt vọng chẳng còn trông nom vào đâu nữa.
Nói về con gái họ Huỳnh đã đến tuổi lấy chồng, nghe việc cha tuyệt Hòa, trong lòng thầm nghĩ như thế là quấy.
Huỳnh muốn gả chồng khác, nàng khóc và nói:
- Thưa cha, Liễu sinh có phải lọt lòng ra là nghèo túng đâu. Chớ chi bây giờ nhà chàng giàu có gấp mấy thuở xưa thì bất tất phải nói, chả ai có thể tranh đoạt với chàng cho được. Nhưng ngày nay chàng nghèo mà ta khinh bỏ như thế là bất nhân cha ạ!
Huỳnh không nghe, kiếm cớ lời này cớ kia, khuyên dỗ nàng trăm cách nàng cũng không chuyển. Hai ông bà giận con, suốt ngày mắng nhiếc, nàng vẫn lặng thinh.
Cách không bao lâu, đang đêm cướp đến đánh nhà, nung dùi nưóc kẹp, tra khảo vợ chồng Huỳnh gần chết rồi vơ vét trong nhà sạch sành sanh.
Thấm thoát ba năm, nhà lại sa sút thêm. Có người chủ hiệu nghe biết nàng đẹp, tình nguyện cưới năm ngàn đồng. Huỳnh thấy tiền nhiều chói mắt, ưng chịu liền, định ép uổng con cho bằng được.
Nàng biết mưu ấy, tự hủy hình dung, bôi mặt lem luốc, thừa cơ đêm tối bỏ nhà đi trốn, ăn xin dọc đường ròng rã hai tháng mới đến Bảo Định, hỏi thăm hàng xóm và thẳng đến nhà Hòa.
Bà mẹ Hòa thoạt đầu trông tưởng là con ăn mày nào mắng và đuổi đi. Nàng thổn thức tự nói tên họ, bà nắm tay tay nàng khóc òa và nói:
- Tội nghiệp cho con, làm sao thân thể ra thế này?
Nàng thảm thiết giải bày căn do, rồi hai mẹ con cùng khóc. Khóc đã thèm rồi, bà đi múc nước rửa ráy cho nàng, mặt mày sáng sủa, nhan sắc tươi đẹp trở lại. Mẹ con cùng mừng.
Song nhà ba miệng ăn, ngày chỉ có một bữa. Bà mẹ thương hại, không cầm nước mắt:
- Mẹ con ta cực khổ đã quen rồi, chỉ thương cho con dâu hiền của ta cũng phải chịu chung cảnh này thôi.
Nàng cười và an ủi mẹ chồng:
- Con dâu của mẹ từng trà trộn vào đám ăn mày, ăn xin nếm trải mùi khổ lắm rồi mẹ ạ! Bây giờ đem sánh với lúc đó, con thấy cách xa như cảnh thiên đàng địa ngục kia lận.
Bà mẹ nghe nói lấy làm hả lòng.
Một hôm nàng vào căn nhà bỏ không bấy lâu, thấy cỏ mọc rập rạp, chẳng hở chỗ nào. Vào dần mãi bên trong, rác bụi ngập đầy. Trong xó nhà có vật gì chất đống, chân vấp phải, lượm lên coi, té ra là tiền bạc tất cả. Nàng sửng sốt chạy đi gọi Hòa.
Hòa cũng vào xem tận nơi, thì ra những gạch ngói vụn bể ngày xưa chú Cung ném vào xó nhà này toàn thị tiền bạc trắng xóa. Nhân dịp nhớ lại hồi nhỏ mình thường cùng chú Cung chơi nghịch giở gạch lót lên mà chôn đá cuội xuống dưới làm vui, có lẽ đều là vàng bạc thật cả chăng?
Nhưng ngôi nhà cũ đó đã cầm thế cho người ở xóm Đông mất rồi, chàng vội vàng mang tiền sang chuộc nhà lại. Đào lên, té ra những viên đá chôn duới nền gạch xưa, cũng đều là tiền bạc hết thảy.
Ai ngờ chỉ trong chốc lát bỗng nhiên thu gom thành có bạc vạn.
Từ đó chuộc lại điền sản, xây dựng nhà mới, nuôi tôi trai tớ gái tấp nập, cửa nhà nguy nga sang trọng còn hơn ngày trước. Hòa còn phấn chí tự cường:
- Trời ơi! Nếu không cố lập lấy công danh, thì phụ lòng tốt của chú Cung ta biết mấy!
Rồi cặm cụi đọc sách, ba năm sau đậu thi hương, bèn thân hành đem trăm bạc đến tận nhà bà Lưu ta ơn bữa cơm hồi nào. Hòa mặc áo lịch sự thoáng mắt, mấy chục kẻ tùy tùng đều trai tráng, cưỡi ngựa đẹp như rồng. Lưu bà ở căn nhà nhỏ hẹp, Hòa vào ngồi ở bộ ván, còn tùy tùng đứng cả ở bên ngoài, người đông ngựa hí tấp nập cả xóm.
Nhắc lại ông Huỳnh từ khi con gái bỏ nhà trốn đi, người chủ hiệu bức bách hồi lại món tiền dẫn cưới, mà lỡ tiêu xài mất quá nửa rồi, thành ra buộc phải bán ngôi nhà đang ở mới trả đủ cho người ta. Vì đó mà trở nên khốn qu64n, y như cảnh Hòa lúc nào. Giờ nghe chàng rể cũ đỗ đạt sang trọng, mà đến huyền diệu ngay lối xóm mình, không khác gì gai đâm trước mắt, vợ chồng Huỳnh hổ người, đóng chặt cửa ngồi trong nhà thở than với nhau, chẳng dám ló mặt ra.
Lưu bà mua rượu dọn cơm đãi Hòa, trong bữa thuật chuyện người con gái Huỳnh hiền đức ra sao, lại tỏ ý than tiếc nàng bỏ nhà đi đâu mất biệt. đoạn hỏi Hòa lấy vợ chưa. Hòa đáp lấy vợ rồi.
Cơm nước xong, Hòa cố mời Lưu bà đi với mình về nhà, cho được xem mặt vơ mình mới cưới. Thế rồi Hòa chở Lưu bà lên đường cùng về.
Đến nhà nàng vận y phục lộng lẫy ra chào, thị nữ dàn hầu hai bên, trông như tiên nữ giáng phàm. Nàng cùng bà Lưu ngó thấy nhau cùng hãi hùng sửng sốt, rồi tay bắt mắt mừng, nhắc lại chuyện cũ, nhân dịp nàng hỏi thăm tin tức cha mẹ.
Bà ở chơi mấy ngày, được tiếp đãi hết sức niềm nở, phong hậu. Nàng may sắm y phục từ đầu đến chân, bấy giờ mới đưa bà về.
Bà sang nhà Huỳnh, nói cho biết tin tức con gái còn sống và nhắn lời hỏi thăm. Vợ chồng Huỳnh cả kinh, Lưu bà khuyên nhủ nên đi thăm con và rể, nhưng Huỳnh có vẻ ngần ngại.
Thế rồi đói rách bức bách, cực chẳng đã phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cửa trợn mắt tỏ vẻ giận dữ. Huỳnh lóng nhóng suốt ngày chẳng được vào.
Mãi sau có một mụ từ trong nhà đi ra, Huỳnh xuống nước dịu ngọt, tự nói họ tên, nhờ ên thằng báo cho con gái biết. Một lát mụ trở ra dắt Huỳnh vào một căn nhà cạnh và nói:
- Nương tử muốn gặp liền nhưng sợ lang quân hay đặng sinh rầy, vậy tốt hơn ngồi tạm ở đây chờ có cơ hội thuận tiện đã. Tội nghiệp ông ão đến đây từ hồi nào, đã ăn uống gì chưa, có đói bụng không?
Huỳnh được dịp tỏ hết nỗi khỗ cực cho mụ nghe. Mụ đem ra một ve rượu, hai giỏ cơm, để trước mặt Huỳnh kèm thêm năm đồng bạc rồi nói:
- Lang quân hiện đang ăn tiệc ở phòng trong, nương tử e không có giờ phút nào hở mà tiếp rước ông ão được đâu. Mai sáng ông nên đi thật sớm, chớ để lang quân hay được thì khốn.
Huỳnh vâng lời. Mờ sáng, ông ôm gói ra đi, nhưng người giữ chìa khóa còn chưa mở cổng, đành phải nép mình bên xó cửa ngồi bên bọc hành lý mà đợi. Chợt có tiếng vang truyền ông chủ đi ra. Huỳnh muốn tìm chỗ ẩn mình lánh mặt, nhưng Hòa đã trông thấy, thét hỏi lão già ăn mày là ai. Gia nhân đều làm thinh không trả lời, Hòa giận:
Tất là đứa gian, bay đâu bắt trói nó giải lên quan phủ xét nghe!
Chúng dạ vân lấy dây thừng trói Huỳnh vào gốc cây. Huỳnh vừa sợ vừa thẹn, không dám nói năng gì hết. Giây lát mụ ở hồi hôm trước lại ra quỳ trước mặt Hòa năn nỉ:
- Thưa ông chủ, người này là cậu ruột tôi, mới đến hồi hôm cho nên chưa kịp trình ông chủ rõ!
Hòa truyền lệnh cởi trói cho Huỳnh.
Mụ ở dẫn Huỳnh ra cửa và nói:
- Chỉ tại tôi quên dặn trước người giữ cửa, thành ra có chuyện phiền. Nương tử có lời nhắn miệng rằng: khi nào tưởng nhớ thì cho bà lão ở nhà giả làm mụ bán hoa cùng đi với Lưu bà đến đây mới được.
Huỳnh vâng lời.
Về nhà kể chuyện với bà vợ, bà này nhớ con muốn mau gặp mặt, bèn ngỏ ý với Lưu bà, rồi hai người cùng đến nhà Hòa.
Qua hơn mười lớp cửa ngõ mới đến được chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, mang châu ngọc khắp người, hương thơm bay ra ngào ngạt, một tiếng véo von hô kêu, tức khắc cả đoàn thị nữ lớn bé già trẻ cùng dạ vang rân, chạy đến chung quanh đợi lệnh. Nào người nhắc ghế nạm vàng, nào kẻ pha trà mời khách.
Mẹ con dùng tiếng lóng đàm đạo việc nhà, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm lại, dọn riêng ra một gian nhà để hai bà già nghỉ với nhau. Nệm gối êm đẹp, dù chính nhà mình năm xưa giàu có cũng chưa từng được dùng của quý âý.
Lưu lại năm ba ngày, bà lão được nàng tiếp đãi cực tử tế. Bà dẫn con ra chỗ vắng nói chuyện, khóc lóc giải bày sự ăn ở quấy ngày xưa. Nàng nói:
- Giả mẹ con ta điều chi lầm lỗi mà chẳng quên được. Duy có nhà con vẫn còn tức giận không nguôi, bây giờ nói gì chàng cũng không nghe đâu.
Mỗi khi thấy bóng Hòa đi tới, bà liền lẩn trốn. Một hôm đang ngồi chơi, bỗng Hòa vô tình trông thấy, nổi giận thét mắng:
- Con mụ nhà quê nào đó, dám ngồi ngang hàng với nương tử à? Bây đâu lôi nó đi cho ta!
Lưu bà đỡ lời và nói:
- Đó là Vương tẩu, làm nghề bán hoa có họ với bà già đây, xin ngài tha lỗi.
Hòa bèn chấp tay tạ lỗi, đoạn ngồi lại nói chuyện với Lưu bà:
- Bà đến đây chơi mấy bữa nay, tôi vì bận việc quá không có giờ rảnh hỏi chuyện gì được. Chẳng biết lão già súc sinh họ Huỳnh còn sống hay chết?
Lưu bà đáp:
- Thưa, cả ông bà còn mạnh khỏe, chỉ phải tội nghèo túng quá. Ngài bây giờ giàu sang, sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút?
Hòa vỗ bàn nói:
- Năm trước tôi không nhờ có bà cho một bát cơm đỡ lòng thì còn sống đâu mà về quê quán cho có ngày hôm nay. Lão già bất nhân bất nghĩa, bây giờ tôi muốn lột da mới cam lòng, can chi phải tưởng nhớ lão ta nữa?
Chàng phản kích quá, dận cẳng đứng lên, chỉ trời vạch đất, mắng chửi Oa muộisòm.
Nàng chạnh lòng xen vào:
- Người dù bất nhân cũng là cha mẹ sinh đẻ ra tôi. Tôi đem thân ăn xin dọc đường từ ngàn dặm tới đây phồng da rách rả cẳng, tự nghĩ như thế thật không phụ lòng chàng ở chỗ nào? Sao chàng đứng trước mặt con mà chửi mắng cha, khiến tôi đau tủi vô cùng.
Bấy giờ Hòa mới nguôi mà đứng dậy đi.
Bà vợ Huỳnh thẹn thùng tím mặt, từ giã ra về. Nàng lấy hai chục đồng tặng riêng cho mẹ.
Sau khi bà trở về, tin tức hạn tuyệt. Nàng thương nhớ cha mẹ rầu buồn hiện ra sắc mặt. Hòa bèn sai người mời hai ông bà đến.
Vợ chồng Huỳnh tới vẫn còn vẻ thẹn, đứng ngồi không yên. Hòa kiếm lời an ủi và xin lỗi trước.
- Năm nọ ông bà đến chơi tôi không được rõ, thành ra nói năng xúc phạm rất nhiều. Xin lượng thứ cho!
Huỳnh chỉ ầm ừ không nói gì đặng, Hòa sắm áo quần mới tinh cho hai ông bà thay đổi.
Ở chơi hơn một tháng, Huỳnh vẫn tự thấy lương tâm cắn rứt, mấy lần xin về. Hòa biếu một trăm lượng bạc và nói:
- Tôi xin biếu số tiền nhiều gấp hai món năm nghìn của thằng chủ hiệu năm xưa đó!
Huỳnh bẽn lẽn nhận lãnh, Hòa cho xe ngựa đưa về tận nhà.
Nhờ món tiền đó mấy năm về già, Huỳnh sống một cách phong lưu trung bình.
ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Một nhà đĩ chồn
Nha Đầu



Học sinh Vương Văn người Đông Xương, từ nhỏ tính vốn thật thà, đi chơi đất Sở, trời tối gặp sông lớn chưa qua được phải vào nhà trọ nghỉ ngơi, dạo bước ngoài cửa xem cảnh.
Người đồng hương là Triệu Đông Lâu, buôn bán lớn, thường mấy năm không về nhà một lần, nay gặp Vương ở xứ lạ, tay bắt mặt mừng, liền mời đi tiêu khiển chơi.
Đến nơi, chàng dòm thấy trong nhà có mỹ nhân ngồi, kinh ngạc lùi bước. Triệu cố lôi kéo, lại đứng ngoài cửa sổ kêu gọi Nật Tử, biểu nàng tránh đi, bấy giờ Vương mới chịu vào.
Triệu sai dọn cơm rượu thết đãi, chuyện vãn ân cần. Vương nói:
- Đây là nhà ai?
- Nhà này là một nhà chứa nho nhỏ – Triệu đáp. – Tôi vì sống ở quê người đất khách lâu ngày, cho nên tạm lấy chốn này làm trò vậy.
Trong lúc hai người nói chuyện, Nật Tử thường ra vào dòm ngó luôn, khiến cho Vương nhột nhạt không yên, liền đứng dậy từ biệt. Triệu cố níu chàng ngồi lại. Giây lát, một thiếu nữ đi qua trước cửa trông thấy chàng, liếc mắt đưa tình, sóng thu lai láng, mà dáng người ả có vẻ thần tiên. Thuở nay chàng vốn đứng đắn thế mà bây giờ ngây ngất xiêu lòng, hỏi thăm cô gái đẹp ấy là ai? Triệu đáp:
- Con gái út của bà chủ nhà này đó. Nàng tên là Nha Đầu, mới có mười bốn tuổi, bọn vương tôn quý khách thường đem nhiều tiền cám dỗ bà mẹ, nhưng nàng nhất định không chịu, thành ra bị mẹ đánh đập khốn khổ, chỉ vì nàng còn ít tuổi, nhờ năn nỉ lạy lục mới êm, hiện nay còn đang kén chồng đó.
Vương nghe nói cúi đầu ngồi lặng, như mộng như si, đến nỗi chuyện trò thù tạc sai cả đầu đề. Triệu hỏi bỡn:
- Nếu anh ưng ý thì tôi làm mai cho.
Vương ngậm ngùi nói mình không dám có ý nghĩ ấy đâu. Tuy nhiên, trời đã xế bóng, chàng vẫn ngồi chẳng nói gì tới sự đi về. Triệu lại đùa bỡn hỏi lại lần nữa. Vương nói:
- Bạn có lòng tốt, tôi rất cảm tạ, chỉ hiềm cạn túi biết làm thế nào?
Triệu biết tính ý Nha Đầu cứng cỏi, nếu ít tiền chắc nàng không chịu tiếp, cho nên tình nguyện giúp thêm mười lượng. Chàng bái tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc trong hầu bao rồi lại đến chỗ cũ, đếm được năm lượng, năn nỉ Triệu nói giùm với mụ tào kê. Quả nhiên mụ chê ít, không thuận. Nha Đầu nói:
- Thường ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay con xin theo ý mẹ muốn. Con mới học ra đời, thế nào cũng có ngày báo đáp ơn mẹ. Vậy mẹ đừng chê món tiền nhỏ mọn, mà xua đuổi ông Thần Tài đi.
Mụ thấy tính con bướng bỉnh, giờ được nó ưng chịu như thế, hết sức mừng rỡ, bèn nhận lời ngay và sai con ở đi mời Vương Văn.
Triệu thấy vậy, không thể chạy chối lời hứa, liền xuất thêm mười lượng phụ vào món tiền của Vương mà trao cho mụ.
Vương cùng Nha Đầu vui vẻ yêu đương nhau rất mực. Đoạn, nàng hỏi Vương:
- Em là con nhà trăng hoa hèn mọn, không đáng cùng chàng sánh đôi bằng lứa. Nay được chàng đoái thương, nghĩa ấy rất nặng, em không quên. Nhưng chàng trút túi để mua cho được một cuộc vui thú đêm nay, rồi ngày mai thì sao?
Chàng cảm động, khóc lóc than thở. Nàng khuyên can:
- Xin đừng bi thường làm chi. Em gửi thân trong chốn phong trần, nhưng không phải thật tâm muốn vậy, chẳng qua chưa gặp được người thành thực như chàng, đáng cho em trao gửi tấm thân, cho nên đành phải nấn ná đó thôi. Bây giờ em xin trốn đi theo chàng đêm nay.
Vương hớn hở vùng dậy, nàng cũng đứng lên, nghe trống cảnh đã điểm ba tiếng, lật đật thay đổi y phục, giả làm con trai, cùng chàng mở cửa ra đi.
Chàng ghé nhà trọ, gõ cửa chủ nhân, lấy cớ có việc gấp rút, kêu lão bộc thức dậy thu nhặt hành lý và dắt lừa ra đi tức khắc.
Nàng lấy bùa dán vào lão và bên tai lừa, thế rồi buông cương cho chạy như bay, hai mắt nhắm nghiền, bên tai chỉ nghe gió thổi vu vu. Sáng sớm đến Hán Giang, mướn phố ở tại đó. Vương ngỏ ý kinh ngạc, nàng thú thiệt:
- Nói ra có lẽ chàng sợ hãi chăng? Sự thật em không phải là người, chính là chồn đây. Mẹ em tham dâm, hàng ngày em bị ngược đãi, chứa chất tức bực trong lòng đã nhiều, nay gặp may mắn được thoát thân bể khổ, ở ngoài trăm dặm, mẹ em chẳng biết đâu mà tìm, huống chi còn xa hơn nữa, vợ chồng ta có thể yên ổn vô ngại.
Chàng nghe nói yên lòng, chẳng còn ngờ vực chi, nhưng rồi chậm rãi thở than:
- Ngồi ngắm bông phù dung tươi đẹp, mà nhà trơ bốn vách, nghĩ thật buồn rầu, chỉ sợ mình cực khổ quá, rồi sớm muộn cũng đến bỏ tôi mà đi.
Nàng an ủi chồng:
- Sao lại lo nghĩ vớ vẩn như thế? Bây giờ ta buôn bán lặt vặt, trong nhà chỉ có ba miệng ăn, sống với nhau một cách đạm bạc có thể no đủ. Vậy chàng bán phắt con lừa kia đi mà làm vốn mua bán.
Chàng y lời, lập ngay trước cửa một quán tạp hoá nho nhỏ; hai thầy trò xuất lực làm việc, bên trong bán rượu và tương, mắm phụ thêm; còn nàng thì may thuê thêu mướn, ngày ngày kiếm được dư dật, sự ăn uống cũng được phong lưu.
Hơn một năm lần hồi nuôi được vú bõ con hầu, từ đó chàng không phải bắt tay vào việc nặng nhọc nữa, chỉ đứng chỉ bảo trông nom thế thôi.
Một hôm, bỗng dưng nàng buồn rầu và nói:
- Đêm nay phải có tai nạn đưa tới, biết làm thế nào?
Vương gạn hỏi tai nạn gì, nàng đáp:
- Mẹ em đã dò biết tung tích, chắc bà sinh sự bức bách chứ không để yên. Nếu bà sai Nật đến thì vợ chồng ta khỏi lo, chỉ sợ bà thân hành đến mới nguy.
Đêm ấy đã khuya, nàng ngỏ ý vui mừng và nói cho chồng hay rằng:
- Chị Nật sắp tới đó.
Một lúc, quả nhiên Nật Tử đẩy cửa vào. Nàng tươi cười đón rước. Nật Tử nhiếc mắng:
- Con ranh bỏ nhà theo trai đi trốn, không biết thế là xấu hổ ư? Má sai tao trói mày dẫn về xử tội.
Nói đoạn lấy dây lòi tói ra, buộc vào cổ nàng.
Nàng phát giận, chống cự lại:
- Đi theo một người mà thờ, thì có tội gì chớ?
Nật Tử càng tức, lôi kéo nàng đứt cả vạt áo. Lũ tôi tớ trong nhà nghe động, cùng tụ tập lại can thiệp. Nật Tử sợ hãi, vội vàng dông mất. Nàng nói:
- Chị về báo tin, mẹ em chắc sẽ tự đến. Vạ lớn tới nơi, ta nên tính trước.
Lập tức hô bảo gia nhân thu dọn đồ đạc để dời đi nơi khác. Bất đồ bà mẹ đã xồng xộc bước vào, nét mặt hầm hầm:
- Tao biết con khốn nạn này vô lễ, cho nên tao phải tự tới đây mới xong.
Nàng quỳ xuống khóc lóc năn nỉ. Mụ chẳng nói chẳng rằng túm tóc nàng lôi đi mất.
Chàng thương nhớ bâng khuâng, bỏ ăn quên ngủ, mau mau lên đường tới Đại Hà, mong có thể bỏ tiền ra chuộc lấy nàng về. Nhưng đến nơi thì cửa nhà y cũ, người ở khác xưa, hỏi thăm không ai biết nhà mụ dọn đi đâu. Chàng ngậm ngùi trở về Hán Giang, rồi phân tán đồ đạc cho người ta, còn bao nhiêu thì chuyển vận về quê nhà Đông Xương.
Cách mấy năm sau, ngẫu nhiên đi vào Yên Kinh, qua viện Dục Anh (tức là nhà nuôi con trẻ côi cút), trông thấy đứa bé chừng bảy, tám tuổi, người lão bộc lấy làm lạ, bởi mặt mày đứa bé thật giống chủ như đúc, cho nên chăm chăm dòm ngó mãi. Vương hỏi tại sao cứ nhìn thằng bé không chớp mắt, lão bộc cười và nói rõ nguyên nhân.
Chàng cũng cười, nhìn kĩ thằng bé bộ dạng chững chạc, tự nghĩ mình chưa có con, nhận thấy nó giống mình, liền động lòng thương yêu, xuất tiền chuộc nó.
Hỏi tên họ là gì nó tự xưng là Vương Tư. Chàng hỏi vặn:
- Khi mày còn bé tí, đã bị cha mẹ bỏ rơi cho vào viện Dục Anh, tại sao biết tên họ rành mạch như thế?
Vương Tư đáp:
- Thầy học con thường kể chuyện lúc bắt được con đem về nuôi, trước bụng có viết hàng chữ: Con của Vương Văn ở Sơn Đông.
Chàng nghe cả kinh:
- Quái lạ! Ta đây chính là Vương Văn, có con hồi nào ở đây?
Chàng nói vậy, rồi suy nghĩ tất là người nào trùng tên với mình, nhưng trong bụng mừng thầm vớ được thằng bé ngộ nghĩnh lanh lợi, cho nên hết sức thương yêu. Đưa nó về quê nhà, người ta trông thấy không cần phải hỏi, biết ngay là con của Vương Văn.
Tư lớn lên, vạm vỡ có sức, thích săn bắn chứ không lo công việc trong nhà, lại ham đánh lộn chém người. Vương chẳng ngăn cấm được. Tư lại khoe mình trông thấy ma quỷ chồn tinh, ban đầu không ai thèm tin, về sau trong làng có nhà nọ bị chồn quấy nhiễu, mời Tư đến xem giùm.
Tư đến nơi, chỉ vạch những nơi chồn ẩn núp kín đáo, sai mấy người vác gậy cứ theo ngón tay mình trỏ bảo mà đánh túi bụi, quả nhiên nghe tiếng chồn kêu rối rít và tìm thấy chỗ đó còn lông máu tơi bời. Nhờ vậy nhà này mới yên. Sau đó, người ta bàn tán với nhau, càng tin Tư là một nhân vật lạ lùng.
Một hôm, Vương đi dạo phố, chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo lôi thôi, mặt mày ảm đạm, bất giác sửng sốt, hỏi ở đâu đến mà thân thể tiêu điều quá vậy. Triệu nhăn mặt xin hẹn thong thả tỉnh hồn sẽ nói. Chàng liền dẫn về nhà đãi ăn uống, rồi Triệu kể chuyện:
- Mụ đi bắt được Nha Đầu đem về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên phía bắc, lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề chết không lấy hai chồng. Vì thế, mụ giam giữ trong buồng kín suốt ngày, như tù ở ngục vậy. Nàng sinh hạ đứa con trai, mụ đem bỏ ra ngoài đường. Tôi nghe người ta đưa về viện Dục Anh nuôi nấng nó, có lẽ nay đã trưởng thành, ấy là cục máu của anh bỏ rơi đó.
- Nhờ trời xui khiến tôi đã đưa con tôi về đây rồi.
Đoạn, kể chuyện đầu đuôi gặp gỡ cho Triệu nghe. Triệu thở dài và nói:
- Anh ạ! Ngày nay tôi mới biết lòng dạ bọn lầu xanh bạc bẽo, chớ có tin tưởng quá mà chết. Nhưng khi tỉnh ngộ thì đã muộn rồi, còn nói chi nữa.
Nguyên lúc mụ dời nhà lên phía bắc, tức là Yên Kinh, nơi đóng đô của Minh triều hồi đó, Triệu lấy cớ buôn bán đi theo, những hoá vật nặng nề khó chở thì bán rẻ đi hết. Dọc đường bao nhiêu phí tổn chi tiêu, Triệu đều nai lưng gánh vác; mà phí tổn rất nhiều, cho nên thâm thủng tiền vốn hết. Đã vậy, Nật Tử lại đòi hỏi bóc lột thẳng tay, trong vài năm, bạc muôn của Triệu mất sạch. Bấy giờ mụ thấy Triệu hết tiền, xoay ra bạc đãi. Nật Tử cũng bỏ nhà đi ngủ với những vương tôn quý khách, luôn mấy đêm không về là thường. Triệu tức giận quá, nhưng không biết làm cách nào.
Có bữa, mụ già đi vắng, Nha Đầu đứng cửa sổ kêu Triệu và nói:
- Chốn lầu xanh không có tình nghĩa gì cả. Họ gắn bó chiều chuộng người ta chỉ vì tiền bạc đó thôi. Anh còn luẩn quẩn ở nhà này, tất sẽ rước lấy tai vạ lớn đó.
Triệu sợ toát mồ hôi, như người ngủ mê mới tỉnh, quyết kế bỏ nhà này ra đi. Khi sắp lên đường, lén vào thăm Nha Đầu. Nàng trao cho bức thư, nhờ đưa hộ Vương. Đó rồi Triệu đi.
Nói đoạn, Triệu lấy bức thư của Nha Đầu đưa cho chàng. Đại khái thư viết thế này:
Em biết thằng Tư, đứa con yêu dấu của chúng ta, hiện đã ở bên cạnh chàng rồi. Tai ách của em ra sao, anh Đông Lâu thấy rõ, anh sẽ thuật lại cho chàng nghe. Kiếp trước em vụng tu thế nào khiến cho kiếp này khổ não, khôn xiết nói năng. Giờ em bị nhốt trong buồng kín, tối tăm không thấy bóng mặt trời, bị đánh đập tới phồng da nát thịt, mà lửa đói như thiêu đốt ruột gan. Một ngày ở đây dài đằng đẵng như một năm. Nếu chàng không quên lúc chúng ta ở Hán Giang: đêm tuyết trời lạnh mà vợ chồng chỉ có một chiếc mền đơn, co ro với nhau cho ấm; vậy chàng nên cùng con mưu tính, giải thoát cho em ra khỏi tai ách này. Mẹ em với chị em dẫu chi cũng là cốt nhục, xin chàng với con nhớ nương tay tha thứ, đừng làm thương tàn, ấy sở nguyện của em chỉ có thế thôi.
Vương xem thư khóc ngất, lấy vàng lụa ra tặng Triệu để cho Triệu đi.
Lúc này Tư đã mười lăm tuổi. Vương kể rõ gốc ngọn đầu đuôi cho con nghe, lại đưa cho con xem bức thư của mẹ nó gửi về. Tư trợn mắt tức giận, nội ngày hôm đó lên đường vào Yên Kinh, hỏi dò địa chỉ của Ngô Ổn. Giữa lúc xe ngựa đậu dày trước cửa, Tư đi thẳng vào trong nhà. Nật Tử đang ngồi uống rượu với khách, trông thấy Tư cầm dao, sợ hãi biến sắc toan chạy nhưng không kịp, vì Tư đã xông đến nơi đâm chém lia lịa.
Khách khứa cả kinh, tưởng là giặc cướp, chừng ngó lại xác Nật Tử đã thấy hiện nguyên hình là con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà sau, Ngô Ổn đang đốc thúc tôi tớ nấu đồ ăn, thoáng trông thấy Tư, biết có sự chẳng lành, vội vàng biến mất. Tư ngó quanh tứ phía, mau mau lấy cung lắp tên, bắn lên dầm nhà, một con chồn bị trúng tim rơi xuống chết ngay. Tư cắt lấy đầu rồi tìm đến chỗ mẹ bị giam, vác đá phá cửa mà vào. Mẹ con thấy nhau mừng mừng tủi tủi cùng la thất thanh.
Mẹ hỏi bà cụ đâu, Tư nói đã giết chết rồi. Mẹ hờn giận nói:
- Sao con không nghe lời ta dặn dò từ trước?
Nàng nói rồi bảo Tư thu nhặt thi thể bà cụ đem ra ngoài đồng chôn cất. Tư giả đò vâng lờ, nhưng lột lấy bộ da cất đi, rồi lục soát rương hòm của bà cụ, lấy hết áo xống tiền bạc trong đó, đưa mẹ lên đường trở về quê nhà.
Vợ chồng xa cách nay được trùng phùng, nửa vui nửa khóc. Chàng hỏi Tư về sự chôn cất Ngô Ổn, Tư đáp:
- Còn ở trong túi con đây này./.






Đào Trinh Nhất dịch

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch.
Vợ Bé Là Chồn
Hồ thiếp

Lai Vu, Lưu Động Cửu, làm quan ở Phân Châu, có bữa ngồi một mình ở trong đình, nghe ngoài sân có tiếng cười nói, trước xa sau gần, rồi vào tới trong nhà, thì ra là bốn người con gái. Người lớn nhất độ bốn mươi tuổi; thứ hai chừng ba mươi; thứ ba tới hai bốn hai nhăm trở lại; cuối cùng là một cô còn để tóc xõa.
Cả bốn cùng đứng trước kỷ ngó nhau mà cười.
Lưu vốn biết trong đình nhiều chồn, cho nên mặc kệ, không buồn để ý. Giây lát cô bé tóc xõa lấy chiếc khăn đỏ ra ném giỡ trên mặt Lưu, Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn.
Bốn cô cười rồi bỏ đi.
Một hôm người lớn tuổi nhất đến nói với Lưu:
- Con bé em tôi có nhân duyên với ông, xin ông chớ chê là hèn hạ mà bỏ qua.
Lưu ậm ừ cho qua chuyện, người ấy mới đi. Lát sau, lại cùng một thị nữ dẫn cô bé đến, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói:
- Thật là tốt đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc ráng ở với Lưu lang, chị về nhé!
Lưu nhìn kỹ, thấy nàng tươi đẹp vô song, bèn cùng chuyện trò thân mật, thăm hỏi gốc tích. Nàng nói:
- Em đây chẳng phải là người, nhưng thật cũng là người, nguyên em là con gái ông quan trấn nhậm ở đây trước, bị chồn làm chết, xác chôn trong vường. Lũ chồn làm phép cho em sống lại, cũng biến hóa như chồn vậy.
Lưu thò tay sờ phía sau. Nàng hiểu ý và cười nói:
- Ý hẳn chàng bảo chồn có đuôi phải không?
Rồi chuyển mình nói tiếp:
- Giờ thử rờ lại xem có đuôi không?
Từ đó nàng ở luôn trong đình, khi đứng ngồi đều có con hầu nhỏ bên cạnh. Gia nhân một mực tôn kính là bà nhỏ, vu bô tôi tớ lên chào, được thưởng tặng món này quà kia khá lắm.
Sắp đến ngày sinh nhật của Lưu, Lưu sợ quan khách đông đảo, tính tới ba chục mâm cỗ, vậy cần phải nhiều đầu bếp làm cỗ mới đủ. Trước đó, Lưu đã ra sức đòi ở các nơi, nhưng chỉ có một hai người tới, thành ra đâm lo. Nàng biết, bảo Lưu:
- Không can chi mà lo. Số đầu bếp đã không đủ dùng, chi bằng đuổi mấy đứa kia về. Tôi tuy kém tài nhưng làm ba chục mâm cỗ cũng chẳng khó gì.
Lưu mừng rỡ, sai mang các món rượu thịt tỏi gừng vào trong tư thất để nàng nấu cỗ. Người nhà chỉ nghe tiếng dao thớt kêu lách cách không dứt. Bên trong cửa đặt một chiếc bàn, những người tức trực bưng cỗ cứ để mâm trên đó, nghoảnh đi nghoảnh lại các món ăn đã dọn đầy mâm, họ chỉ có việc bưng đi. Hơn mười người đi lại liên tiếp, mà món ăn lấy hoài, có hoài chẳng hết.
Sau chót, một người bưng mâm vào gọi lấy bánh chay. Bên trong trả lời:
- Quan ngài có bảo trước đâu, bây giờ gấp rút quá làm sao có được?
Rồi nói tiếp:
- Thôi thì đành phải mượn đỡ của người ta vậy.
Giây lát, người đợi lấy bánh đã thấy trên bàn hơn ba chục bát còn nóng hổi, khói lên gnhi ngút.
Khi các quan khách ăn xong ra về cả rồi, nàng nói với Lưu:
- Mình đưa tiền trả tiền bánh cho nhà kia đi.
Lưu sai người đem tiền đến nhà ấy, quả thật họ mất trộm mấy chục bát bánh vừa nấu xong, đang lấy làm kinh ngạc thì có người đem đến trả tiền, bấy giờ mới hết nghi hoặc.
Một bữa, ngồi uống rượu buổi tối ,Lưu chợt nhớ rượu Sơn Đông mà thèm, nàng nói:
- Để tôi đi kiếm cho.
Nói đoạn bước ra cửa đi liền. Giây lát trở về chạy vào bảo Lưu:
- Tôi lấy về một hũ ngoài cửa kia, đủ cho mình nhắm mấy ngày.
Lưu ra xem, quả thật rượu Sơn Đông, y như thể rượu thường cất ở nhà mình như mọi lần.
Phu nhân (vợ lớn của Lưu) lúc này ở quê quán sai hai người gia bộc đến Phân Châu. Giữa đường một người nói:
- Nghe đồn “bà thứ chồn” vẫn khao thưởng rộng rãi cho con hầu người ở. Chuyến này được tiền thưởng ta để mua một chiếc áo lông chiên mặc chơi.
Nàng ngồi ở đình đã nghe biết cả rồi, bèn nói với Lưu:
- Gia nhân ở nhà quê sắp đến. Đáng ghét một thằng nói giọng xấc xược, phải trị mới được.
Sáng hôm sau, tên gia bộc mới vừa vào trong thằng đầu đã đau nhức, khi đến đình thì ôm đầu mà kêu cha kêu mẹ, ai nấy bèn đi rước thầy bốc thuốc cho y, Lưu cười:
- Bệnh này không cần phải chữa, hễ ngày giờ đến thì tự nó hết.
Mọi người hơi ngờ y phạm tội gì với bà bé chăng, nhưng y tự nghĩ mình mới tới đây, chân ướt chân ráo đã làm gì nên tội. Đến khi đầu nhức nhối quá, y không còn biết kêu van vào đâu, đành phải bò đến gần kêu bà bé.
Tiến người trong màn nói ra:
- Mi gọi bà bé là đủ, sao còn thêm một tiếng nữa là nghĩa gì?
Bấy giờ tên gia bộc mới tỉnh ngộ, kêu van chí chết.
Trong màn lại nói:
- Mi có cần áo lông, sao lại dám vô lễ?
Kế nói tiếp luôn:
- Thôi mi hết đau rồi.
Tức thời tên gia bộc thấy bệnh tiêu tan đâu mất, toan lạy tạ đi ra, chợt thấy trong màn quăng ra một cái bọc và nói:
-Một chiếc áo lông dê non đó, cho mi lấy đi!
Tên gia bộc mở ra xem, thấy bên trong có gói năm đồn bạc. Lưu hỏi thăam tin tức ở nhà, tên vô bộc thưa nội nhà đều vô sự, duy có một đêm khi không mất một hũ rượu. Tính ngày giờ chính là đêm bữa Lưu nói thèm rượu Sơn Đông mà bà bé đi lấy về cho.
Và từ đó ai cũng kinh sợ nàng có phép thần thông, bèn gọi là thánh tiên.
Lưu vẽ hình nàng để treo. Lúc đó ông Trương Đạo Nhất làm quan đề đốc sử nghe chuyện lạ lùng, lấy tình đồng hương đến chơi đình Lưu, khẩn cầu được thấy mặt nàng.
Nàng không chịu.
Lưu đưa ra tấm hình cho xem. Trương cố giật lấy đem về nhà treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn vái cầu đảo:
Xinh đẹp như cô,muốn gì lại chẳng được? Sao lại gửi mình ở lão rậm râu. Tôi đây không kém thua Động Cửu, cớ sao không hạ cố tôi một phen?
Giữa khi đó nàng ngồi ở đình nhà, thình lình bảo Lưu:
- Này, Trương công vô lễ, ta phạt lão đôi chút cho chừa đi.
Quả nhiên một hôm, Trương đang ngồi cầu chúc lâm râm như mọi khi, thấy như có người cầm thanh bản đánh ngay giữa trán nghe cái bốp, đau điếng vội vàng cuộn hình lại không dám cầu nữa.
Lúc hỏi cớ sao lại thôi, Trương dấu chuyện bị đánh trả lời xuôi xị, Lưu cười và hỏi:
- Trán ngài có đau không?
Trương hết chối cãi, phải kể hết chuyện thật.
Cách đó ít lâu, người rể Lưu tên Nguyên đến thăm cha vợ, ngỏ ý muốn kính chào bà bé. Nhưng nàng từ chối.
Nguyên năn nỉ mãi, Lưu bảo nàng:
- Rể là con ta, chớ phải người lạ nào mà cự tuyệt nó quá vậy?
Nàng đáp:
- Rể đến ra mắt, tất phải có quà cho nó. Nhưng nó hy vọng lắm cơ. Mà tôi xét hiện tại không làm vừa lòng nó được, cho nên không muốn cho nó giáp mặt là lẽ đó.
Sau Nguyên lại ngỏ lời cầu xin lần nữa, nàng ưng chịu, hẹn mười ngày sẽ cho ra mắt.
Đến ngày hẹn, Nguyên vô đứng cách màn, chắp tay vái và kính lời thăm hỏi, nhưng thấy dung nhan một cách phản phất, chứ không dám nhìn kỹ. Khi cách xa mấy bước mới nghoảnh mặt lại ngó đăm đăm, nghe tiếng nàng nói:
- Kìa chú rể day đầu lại!
Nói đoạn cười khanh khách như tiếng quạ kêu, Nguyên nghe mềm nhũn cả chân tay, run rẩy như mất hồn phách. Lúc ra bên ngoài, phải ngồi giây lát, mới định thần nói:
- Vừa rồi nghe tiếng cười của bà như tiếng sấm sét, đến nỗi không biết thân mình còn hay mất.
Một lát, con hầu vâng lệnh nàng, mang ra ba mươi lạng tặng Nguyên, Nguyên lãnh số tiền rồi nói với con hầu:
Thánh tiên ngày ngày ở với ông nhạc ta, há không rõ tính ta xài lớn, chứ không quen những món tiền nhỏ sao:?
Nàng nghe nói trả lời:
- Ta đã biết trước mà, Hiềm vì trong túi vừa vặn hết tiền, ta đã cùng bạn bè đi Biện Lương để lấy, rủi ro trong thành bọ thần Hà Bá chiếm giữ, bao nhiêu kho bạc đều ngập dưới nước. Vì thế ta không lấy được nhiều tiền để nhồi vào túi tham không đáy của y. Nói giả tỷ ta có cho nhiều đi nữa, phước đức của y mỏng manh, cũng không được hưỏng cơ mà.
Mọi việc, nàng hay kiên trì, cho nên trong nhà gặp việc chi nguy nan cứ bàn với nàng chẳng việc gì là không xong.
Bữa nọ, vợ chồng ngồi đàm đạo, bỗng nàng ngửa mặt lên trời, tỏ vẻ cả kinh và nói:
- Đại nạn sắp tới biết làm sao đây?
Lưu hoảng sợ hỏi vợ coi trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói:
- Tất cả vô sự, trừ ra cậu hai đáng lo. Chốn này nay mai trở thành chiến trường, vậy chàng xin quan trên cho đi công cán nơi xa, mới khỏi tai nạn.
Lưu nghe lời, xin quan trên cho đi áp tải lương thực ở miền Vân Nam, Quý Châu. Đường xá xa xôi hiểm hóc, ai cũng lo ngại cho Lưu, duy có nàng lấy làm vui mừng.
Quả nhiên ít lâu, Khương Khôi dấy binh làm phản, Phân Châu hóa ra hang ổ của giặc, con thứ hai của Lưu, từ Sơn Đông tới thăm cha, vừa gặp loạn nổi, bị giết. Thành bị giặc lấy, quan lại lớn nhỏ đều ngộ hại trừ Lưu đi việc quan xa, thoát nạn.
Chừng yên giặc xong. Lưu trở về. Rồi sau liên can vào vụ án lớn, nghèo túng tới nước thiếu cả bữa ăn. Các nhà cầm quyền ại đòi tiền đút nhiều, Lưu vừa quẫn vừa lo, muốn chết. Nàng bảo:
- Đừng lo, Còn ba nghìn đồng chôn dưới chân giường lấy lên dùng đỡ cũng được.
Lưu mừng, hỏi nàng đánh cắp của ai, nàng nói:
- Trong thiên hạ, thiếu gì của vô chủ can chi phải trộm cướp của ai.
Lưu dùng số tiền ấy lo chạy được thoát về quê quán. Nàng đi theo. Mấy năm sau, tự dưng đi mấy để lại mấy món đồ gói giấy tặng Lưu. Trong đó có cái phướn chỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc.
Ai cũng cho là điềm gở. Rồi ít ngày sau, Lưu chết.
ĐÀO TRINH NHẤT dịch.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch.
Con Gái Nhà Trời
Bạch Vu Ngọc

Ngô Thanh Am tên thật là Quân, tuổi trẻ đã nổi tiếng. Quan thái sử họ Cát, xem văn của chàng thường tấm tắc khen ngợi, bèn nhờ người quen mời đến nhà chơi cho được thấy rõ diện mạo và nghe chàng đàm luận. Thái sử nói:
- Lý nào một người có tài như Ngô sinh, mà lại nghèo hèn mãi ư?
Rồi ông sai người lối xóm đánh tiếng cho chàng biết rằng: “Nếu Thanh Am gắn chỉ mây xanh, thì ta gả con cho”.
Lúc đó thái sử còn một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, chàng nghe mừng rỡ hết sức tự tin mình bề nào thi cũng đậu.
Không ngờ đến khi thi khoa hương, chàng bị đánh rớt, cậy người đến nói với quan thái sử rằng: “Sự giàu sang nhật định sẽ có không biết sớm hay muộn đó thôi. Vậy xin tiểu thư rán đợi tôi ba năm nữa, nếu tôi không thành danh, cô sẽ đi lấy chồng.”
Từ đó chàng ra sức học càng chăm.
Một đêm sáng trăng, có một vị tú tài đến thăm, da trắng râu cụt, vóc người nhỏ nhắn, móng tay để dài. Hỏi khách ở đâu lại chơi, khách tự giới thiệu mình họ Bạch tên chữ là Vu Ngọc.
Chàng cùng Bạch nói chuyện mấy câu, trong lòng thấy khoan khoái cho nên vui mừng tiếp rước, mời ở nghỉ đêm.
Sáng ngày, Bạch sử soạn ra đi, chàng căn dặn mỗi khi đi qua tiện đường , bề nào cũng nhớ ghé chơi, Bạch cảm cái tính niềm nở ấy, tình nguyện lần sau đến, sẽ xin trọ ngay ở nhà này, rồi hẹn ngày tái ngộ và giã từ lên đường.
Tới kỳ hẹn, một tên nô bộc đem các vật dụng nấu ăn đến trước. Giây lát Bạch tới, mình cỡi ngựa vạm vỡ tướng như con rồng.
Chàng để căn nhà riêng Bạch ở, Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình thì ở lại, sớm tối cùng Ngô gần gũi tương đắc.
Ngô để ý thấy sách vở của Bạch của Bạch xem, không phải là thứ sách vở bình thường trông thấy. Lại cũng không thấy quyển sách nào là sách văn chương khoa cử. Chàng kinh ngạc và hỏi tại sao, Bạch cười đáp:
- Kẻ sĩ hiền đều có chí riêng, ai tùy thích nấy! sở dĩ tôi không có loại sách thơ phú vì tôi chẳng phải là người trong vòng khoa cử công danh.
Thường đêm Bạch mời chàng uống rượu, đưa ca một quyển sách cho chàng xem, toàn là thuật tu tiên, luyện đạo, nhiều chổ xem không hiểu nghĩa. Chàng thấy vu vơ không hợp với mình, không buồn để ý.
Lần khác, Bạch nói với chàng:
- Quyển sách tôi đưa cho anh hôm nọ, chính là con đường bất lão, nấc thang lên tên đó.
Chàng cười:
- Việc gấp của tôi không phải ở chỗ đó. Vả lại muốn được thành tiên, tất cả chấm dứt nhân duyên, để cho mọi điều tư tưởng đều tuyệt mới được. Khốn nhưng tôi còn có tật đa mang làm sao mà tu được?
- Xin hỏi vì cớ gì?
- Vì cớ phải lo sinh con nối dõi.
- Thế sao lớn tuổi vẫn chưa lấy vợ?
- Bởi tôi có tật hiếu sắc!
Chàng vừa nói vừa cười, Bạch cũng cười:
- Chỉ xin ông đừng hiếu cái sắc tầm thường nhé! Và muốn hỏi cái sắc ông biết ra thế nào?
Ngô đem hết câu chuyện Thái sử muốn gả con gái cho Bạch nghe.
Bạch ngờ cô ả của Thái sử chưa chắc thật là người đẹp. Chàng nói:
- Nhan sắc của Cát tiểu thư xa gần đều biết, chẳng phải là tôi hạ mình. Bạ ai cũng yêu được đâu.
Nói đoạn mỉm cười bỏ đi nơi khác.
Hôm sau bỗng dưng Bạch sửa soạn hành lý để đi. Chàng thấy vậy sinh buồn, cùng Bạch quyến luyến nói chuyện mãi chưa chịu thôi.
Bạch sai thằng nhỏ đội hành lý đi trước, mình còn nán lại cùng Ngô chuyện vãn từ biệt. Hai người bịn rịn không nỡ rời tay.
Chợt thấy con ve xanh kêu rít rít và đáp xuống bàn. Bạch nói:
- Ngựa xe tới rước rồi đó. Tôi xin giã từ ông từ đây. Nếu tưởng nhớ tôi thì quét chỗ giường tôi lên đó mà nằm sẽ thấy.
Chàng đang muốn hỏi han nhiều chuyện, nhưng trong chớp mắt Bạch đã thu hình nhỏ lại như ngón tay, ngồi lên lưng con ve mà bay lên không, biến vào trong mây.
Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ Bạch chẳng phải người thường, rồi đứng ngẩn ngơ nghĩ giây lâu, vẻ buồn hiện rõ lên mặt.
Mấy hôm sau, trời đêm mưa phùn, lòng càng tưởng nhớ họ Bạch, ngó lại giường thấy bụi trắng xóa chân chuột in tứ tung. Chàng thở than rồi lấy chổi quét dọn sạch sẽ, trải chiếu lên nằm ngủ liền.
Một lát sau thấy tiểu đồng của Bạch đến mời, chàng vui vẻ theo liền.
Vừa lúc đó có một con chim ngũ sắc bé nhỏ từ trên mây đậu xuống bên , tiểu đồng thưa:
- Đường tối đen khó đi, xin mời ông đỡ chân bằng con chim này.
Chàng lo chim bé nhỏ quá làm sao mang nổi. Tiểu đồng nói:
- Xin ông thử leo lên coi.
Chàng y lời leo lên mình chim. Té ra ngồi rộng rãi có thừa. Tiểu đồng bám ở khúc đuôi. Chim xòe cánh nghe một tiếng vù, cất mình lên không bay đi vùn vụt. Không bao lâu tới một cái cổng sơn đỏ. Tiểu đồng nhảy xuống trước, đỡ chàng xuống sau. Chàng hỏi đây là chỗ nào, tiểu đồng thưa:
- Thưa, đây là cửa trời!
Bên cửa có con cọp lớn nằm phục. Chàng sợ run. Tiểu đồng lấy mình che đỡ cho chàng khỏi sợ hãi.
Chàng nhìn phong cảnh, chỗ nào cũng lạ lùng tốt đẹp, khác hẳn thế gian.
Tiểu đồng dẫn chàng vào cung Quảng Hàn, bậc thềm đều lót bằng thủy tinh, người bước lên trên như đi lên tấm gương. Hàng bên hai cây quế cao ngất và ôm lấy nhau, mùi hoa theo gió thơm phức. Trong cung san sát những tòa nhà, trổ cửa sơn đỏ, thấp thoáng có mỹ nhân ra vào, người nào người ấy, xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp.
Tiểu đồng nói cho chàng biết rằng: ở cung Vương Mẫu con gái còn mỹ miều gấp trăm, nhưng nó sợ ông chủ đợi lâu cho nên không dám đưa chàng đi thơ thẩn xem người, ngoạn cảnh nhiều nơi, đành phải dắt chàng trở ra.
Một lát đi tới toà lầu đài kia, đã thấy Bạch đứng đón chàng ở ngoài cửa. Bạch nắm tay chàng cùng bước vào trong nhà. Chàng nhận thấy trước thềm có bãi cát trắng, suối nước trong nghe chảy rả rích. Khắp nhà dát ngọc sơn son, y như cung điện vua chúa.
Chủ với khách vừa ngồi xuống, liền có một cặp mỹ nữ bưng trà thơm ngát ra dùng. Kế đó Bạch sai người dọn rượu thì có bốn mỹ nhân khác bôn tẩu hầu hạ chung quanh. Đến vừa thấy trên lưng hơi ngứa, tức thời mỹ nhân thò tay vào áo mâm mê gãi dùm. Chàng thấy tấm thân khoan khoái lạ thường. Đến lúc hơi men ngà ngà, chàng không giữ vẻ nghiêm trang được nữa, cười cợt dòm liếc mỹ nhân, muốn kéo nàng lại nói nhỏ . Mỹ nhân mỉm cười và lánh đi.
Bạch truyền lệnh đàn hát để chuốc rượu, một nàng mặc áo sa bóng, bưng chén rượu đến trước mặt khách, rồi đứng tại đó, cất tiếng hát du dương, các mỹ nhân khác gõ xênh phách mà hát phụ họa theo, nghe rất nhịp nhàng réo rắc.
Qua lớp ấy, tới một cô áo xanh cũng chuốc rượu và hát. Còn một cô áo tím và cô áo trắng thì cười khúc khích, cô nọ khều cô kia, không ai chịu ra trước.
Bạch sai một cô mời một chén, hát một bài.
Cô áo tím bước tới bưng chén rượu mời khách. Chàng mượn cớ tiếp lấy chén rượu mà nắm cánh tay. Cô bật cười tuột tay, chén rượu nghiêng đổ xuống đất. Bạch rầy mắng. Cô lượm chén lên, miệng cố nhịn cười và cúi đầu nói khẽ:
- Da lạnh buốt như bàn tay ma, thế mà cố véo vào tay người ta đó!
Bạch cả cười, phạt nàng tự múa tự hát một mình. Múa hát xong tới phiên cô áo trắng tiến lên mời chàng một chén.
Chàng từ chối:
- Say quá rổi, uống không kham nổi!
Cô bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, chàng bèn gượng uống cạn chén cho cô vui lòng.
Nhìn kỹ bốn cô dấp dáng hay hay, không một cô nào mà chẳng kiều diễm tuyệt thế. Chàng nói với chủ nhân:
- Sắc đẹp trên đời, tôi đây mong có lấy một người mà còn khó khăn, sao ông tụ tập cả đám giai nhân mỹ sắc đến thế, liệu có sẵn lòng chia cho anh em hưởng với không nào?
Bạch ngó chàng cười và đáp:
- Sao! Tự ông đã có giai nhân trong tâm ý rồi mà. Lũ này đâu có xứng đáng lọt vào mắt xanh của ông?
Chàng phải thú thật:
- Hôm nay tôi mới tự biết sự thật của mình còn hẹp hòi quá.Bạch bèn gọi hết cả đám mỹ nhân đến trước để cho chàng tự chọn lấy.
Chàng thấy cô nào cũng đẹp thành ra phân vân, không thể tự quyết định. Bạch nghĩ cô áo tím đã có cái duyên khều véo cánh tay, liền sai cô sửa soạn chăn gối để hầu khách hôm nay.
Cố nhiên đầu gối tay ấp, hết sức yêu đương không cần phải nói. Chàng đòi tặng món chi làm kỷ niệm, nàng tháo ngay chiếc xuyến cho chàng.
Giữa lúc đó tiểu đồng chạy vào nói:
- Tiên phàm khác nhau, ở lâu không tiện, vậy xin mời ông đi ngay.
Nàng vội vàng trỗi dậy đi mất. Chàng hỏi ông chủ đâu. Tiểu đồng nói:
- ông chủ tôi đi chầu Ngọc Hoàng. Lúc ra đi có dặn tôi lo việc tiễn khách về trần.
Chàng buồn bã theo chân ra đi, lại noi theo đưòng lối cũ. Gần ra tới cổng ngoài, quay lại ngó tiểu đồng, thì nó đã biến đi từ lúc nào. Con cọp gầm thét chồm lên. Chàng sợ hãi cắm đầu chạy trông xuống dưới thăm thẳm mù khơi, chẳng biết đâu là đâu, nhưng hai chân đã lỡ rơi tuột xuống rồi. Chừng đó kinh hồn tỉnh dậy thì trời đã hửng sáng.
Lúc sắp đứng lên, có một vật rớt xuống nhẹ nhàng xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc vòng. Chàng càng lấy làm lạ.
Từ đó, ý nghĩ lúc trước thành ra nguội lạnh, thường muốn đi tìm ông Xích Tùng Tử để học đạo tu tiên, nhưng còn lo về nỗi không có con để nối dõi tông đường.
Cách hơn mười tháng, một hôm chàng đang ngủ say giữa ban ngày, mộng thấy cô áo tím ở ngoài đi vào tay ẳm đứa con nhỏ và nói:
- Xương máu của chàng đây. Trên trời không giữ vật này đặng, vậy nay tôi đem xuống trả cho anh.
Nói đoạn cô đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vai áo chàng mà đắp cho nó rồi vội vàng muốn đi. Chàng kéo lại đòi giao hoan. Cô áo tím nói:
- Chuyến trước là động phòng, chuyến này là vĩnh quyết vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí thì , may ra còn có lúc ta lại được gặp nhau.
Chàng tỉnh ngủ, mở mắt ra quả thấy đứa hài nhi nằm trên giường liền ôm vào trong nhà nói với bà mẹ.
Bà thấy được cháu rất mừng, tìm vú nuôi, đặt tên là Mộng Tiên.
Bấy giờ chàng sai người đến nhà ông Thái sử, báo tin cho ông hay rằng chàng sử soạn đi ẩn, vậy xin ông lo kén rể khác cho tiểu thư.
Nàng nói:
- Xa gần chẳng ai không biết rằng con hứa làm vợ họ Ngô lang rồi. Bây giờ thay đổi thế là hai chồng còn gì?
Thái sử đem ý chí đó ra ngăn bảo chàng. Chàng vẫn khăng khăng một mực:
- Ngày nay chẳng những tôi không có chí về công danh, lại tuyệt tình về đường gia thất nữa. Nên tôi chưa bỏ nhà vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi.
Thái sử lại bàn soạn với con gái, nàng ta trả lời:
- Ngô lang nghèo con cam sống với rau muối Ngô lang đi con xin thờ bà mẹ chồng, nhất định con không lấy người nào khác đâu.
Sứ giả lại đi thương thuyết đôi ba phen, đều không xong việc. Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe ngựa chở tư trang và đưa tiểu thư về nhà chồng.
Chàng cảm là người hiền đức, hết lòng kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất hiếu, nâng niu hầu hạ còn hơn gái nhà nghèo.
Qua hai năm bà mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang để lo liệu ma chay đủ lễ. Chàng nói:
- Tôi được người vợ hiền như nàng, còn lo gì. Nhưng nghĩ đến xưa kia một người đắc đạo, cả nhà cùng theo gót lên tiên, còn tôi ngày nay sắp sửa đi xa mà nàng ở lại, trăm ngàn công việc đều phó thác cho nàng hết thảy.
Nàng thản nhiên không có ý bịn rịn chút nào.
Thế rồi chàng bỏ nhà ra đi.
Nàng ở nhà, ngoài việc đồng áng ra, trông dạy nuôi con, đâu đó ngăn nắp. Mộng Tiên dần dà khôn lớn, tính chất rất thông minh, mười bốn tuổi đã nổi tiếng thần đồng và đậu thi hương, mười lăm tuổi vào hàn lâm. Thường khi triều đình hỏi thăm cha mẹ để phong tặng cho nhưng Mộng Tiên không biết tên họ của mẹ đẻ là gì, chỉ khai một mình Cát mẫu mà thôi.
Đến ngày sinh nhật cha, Mộng Tiên hỏi Cát mẫu chỗ ở của cha nơi nào. Cát mẫu nói rõ sự thật, Mộng Tiên muốn treo ấn từ quan để đi tìm cha, nhưng bà mẹ gạt đi:
- Cha con bỏ nhà vào núi đã ngoài mười năm, có lẽ nay đã lên tiên rồi, con biết chỗ nào mà tìm.
Sau có dịp, Mộng Tiên dâng chỉ nhà vua sai đi tế núi Nam Nhạc, chẳng may giữa đường gặp cướp, trong xe lúc nguy cấp, thấy một đạo sĩ xách gươm xông vào đánh cướp, cướp thua chạy tán loạn. Nhờ vậy Mộng Tiên được giải vây, cảm ơn đạo sĩ, muốn tặng tiền bạc nhưng đạo sĩ không lấy, chỉ đưa ra một phong thư và căn dặnL
- Bần đạo có một ông bạn cũ cìng làng với quan lớn, vậy xin dám nhờ quan lớn thay lời hỏi thăm hộ.
- Nhưng bạn cũ của ông tên họ là gì?
Thưa tên Vương Lâm!
Mộng Tiên nhớ kỹ trong làng không có ai tên ấy. Đạo sĩ nói:
- Hắn ta con nhà hàn vi nên quan lớn không biết đó thôi.
Lúc giã từ đưa ra một chiếc vòng vàng nói tiếp:
-Đây là món đồ khuê các, bần đạo lượm được, cũng chẳng biết dùng làm gì, vậy xin biếu ngài luôn dịp.
Mộng Tiên cầm lấy xem, thấy chạm trổ tuyệt khéo, đem về trao cho phu nhân.
Phu nhân sai thợ khéo cứ y mẫu cũ mà làm một chiếc nữa, nhưng nét tinh xảo vẫn kém ca. Lại dò hỏi khắp trong làng, chẳng ai có tên là Vương Lâm. Bấy giờ Mộng Tiên mới lén mở phong thư của ong đạo sĩ ra xem, phía trên có viết mấy hàng chữ như sau:
Ba năm loan phượng
Phân cách tới nay
Nuôi con chôn mẹ
Nhờ nàng một tay
Lâý gì báo đức
Tặng hoàng thuốc này
Mở ra uốnc xong
Lên tiên có ngày.
Sau chót là chữ: Kính gửi Lâm nương phu nhân!
Mộng Tiên đọc không hiểu là ai, liền đưa trình Cát mẫu. Cát mẫu xem thư khoc sướt mướt:
- Đây là thư của cha con gửi về cho ta. Lâm là tên chữ của ta đó!
Bấy giờ mới hiểu ra tên Vương Lâm là tên Cát mâẫ hồi nhỏ.
Mộng Tiên ân hận than tiếc mãi, vì chính mình đã gặp cha mà không ngờ. Chàng lại đưa vòng cho Cát mẫu xem. Bà nói:
- Vật kỷ niệm mẹ đẻ con đó. Hồi cha con ở nhà thường lấy ra, ta xem rồi.
Xem tới hoàn thuốc, thấy nhỏ bằng hạt đậu, Mộng Tiên mừng nói:
- Cha đã thành tiên, ngài cho hoàn thuốc này mẹ ta ăn hẳn trường sinh bất lão.
Nhưng Cát mẫu còn để dành, chưa muốn ăn vội, bèn gói cất đi. Gặp lúc quan Thái sử qua thăm, bà đọc bức Ngô lang cho cụ nghe, nhân dịp mang hoàn thuốc ra tặng cụ.
Thái sử cắt ra làm hai , mỗi người ăn một nửa, trong giây lát đã thấy tinh thần thay đổi mạnh mẽ. Lúc ấy thái sử đã gần thất tuần, mắt mờ sức yếu lắm rồi. Thế mà vừa ăn nửa hoàn thuốc vào, bỗng thấy gân sức khỏe ra đến nỗi b65n về, bỏ xe đi bộ mà đi rất mau gia nhân theo mướt mồ hôi mới kịp.
Năm sau do thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không ngớt. Cả nhà Mộng Tiên lo sợ, đêm không dám ngủ, tụ tập quây quần giữa sân, thấy lửa cháy lan, gần đến lối xóm. Cả nhà luýnh huýnh, chẳng biết làm thế nào.
Bỗng chiếc vòng vàng ở tay phu nhân nghe đánh vụt một tiếng, cất nhẹ bay đi. Trông lên thấy nó to lớn bằng mấy mẫu ruộng, úp quanh lên nhà, hình như vầng nguyệt, miệng vòng thì hướng về phí Đông Nam, ai nấy đều thấy rõ ràng, hết sức kinh ngạc.
Một lát lửa cháy từ phía tây lan tới chiếc vòng thì tạt qua hướng Đông. Tới khi lửa dịu dần, mọi người thầm nghĩ chiếc vòng chắc mất, không lâý lại được, tự dưng ngọn lửa vừa ngớt, thì chiếc vòng rơi xuống dưới chân nghe có tiếng kêu.
Trận hỏa hoạn này đốt hết mấy muôn căn nhà, trước sau tả hữu đề ra tro, chỉ có nhà họ Ngô không can gì, trừ ra một lầu nhỏ ở phía Nam bị đốt tức là nơi miệng vòng để hở vậy.
Cát mẫu ngoài năm mươi tuổi, trông còn trẻ đẹp như người mới độ hai mươi.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
HỒ HAY ĐÙA
( Hồ hài)
Vạn Phúc - tự Tử Đường, người Bắc Hưng thuở nhỏ đã theo đòi nghiệp nho, của nả không có gì lắm mà vận lại chậm, đã hai mươi có lẻ mà vẫn chưa giật được mảnh tú tài. Theo lệ tục hương thôn lúc ấy, nhiều người bị khoác chức trưởng lý đến nỗi khuynh gia bại sản. Vạn bị ép sung chức ấy, sợ quá bỏ trốn đến Tế Nam, thuê quán trọ ở.
Ban đêm có cô gái lần tới, nhan sắc cũng khá. Vạn vừa lòng, cùng nhau tư tình. Hỏi họ tên, cô ta đáp:
- Thú thực tôi là hồ ly, nhưng không làm hại anh đâu.
Van mạùng, không nghi ngờ gì cả. Cô gái còn dặn Vạn chớ ở chung với ai, hàng ngày cô sẽ tới cùng ăn nằm một giường. Thế là từ đấy mọi chi phí hàng ngày của Vạn đều do cô ta cung cấp.
Được ít lâu, vài ba người quen biết đến thăm hỏi, rồi ở lì cả đêm không về. Vạn ớn họ quá, song không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thực. Khác ngỏ ý muốn được chiêm ngưỡng dung nhan người đẹp, Vạn nói thẳng với Hồ nữ. Hồ bảo khách:
- Xem tôi làm gì? Tôi cũng như mọi người vậy thôi! Nghe tiếng nói thỏ thẻ cứ như ở trước mặt, nhìn khắp bốn chung quanh lại chẳng thấy đâu.
Khách có người tên là Tôn Đắc Ngôn vốn giỏi khôi hài cố ý xin gặp mặt. Anh ta năn nỉ:
- Được nghe giọng oanh, hay bay phách lạc. Còn giấu dung nhan làm gì khiến người mới nghe tiếng đồn mà lăn ốm tương tư.
Hồ cười đáp:
- Cháu hiền muốn vì bà cụ tổ họa bức hình hành lạc ( bức họa về những biểu hiện khoái lạc, những động tác trong tình dục) chăng?
Khách có mặt lại cười. Hồ lại nói:
- Tôi là hồ, xin vì khách kể chuyện hồ, khách có vui lòng nghe không?
Mọi người đều vân dạ, hưởng ứng. Hồ kể:
- Xưa ở lữ quán nọ có nhiều hồ lắm, thường hiện hình làm hại khách. Khách qua lại biết, rỉ nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán tiêu điều, chủ nhân lo quá, rất kiêng nói đến Hồ. Bỗng có một khách phương xa, tự xưng là người nước ngoài, đến cửa quán ấy thì dừng lại nghỉ. Chủ nhân đon đả rước vào. Lập tức có người đi đường mách kín với khách: nhà ấy có Hồ đấy! Khách sợ, nói thẳng với củ nhân rồi định bỏ đi nơi khác. Chủ nhân ra sức biện bạch, đó là lời nói bậy. Khách ở lại, vào nhà,, vừa ngã lưng đã thấy đàn chuột rút rích dưới gầm giường. Khách sợ quá, chạy bổ ra đường, hét tướng lên: “Có hồ!” Chủ nhânn hoảng hỏi sự tình, khách oán trách:
- Tổ Hồ ở đây, sao nói dối ta không có?
Chủ nhân lại hỏi: “Hình thù nó thế nào?” Khách đáp:
“Ta nay mới thấy, nó nho nhỏ, không phải là Hồ con tất là Hồ cháu”.
Hồ kể xong, tất cả khách trong nhà đều không nhịn được cười. Tôn lại dọa:
- Nếu không cho xem mặt, bọn tôi ngủ lại; cũng xin ai đó đừng bỏ đi, bỏ lỡ cuộc hẹn đợi mây mưa.
Hồ lại cười:
- Các ông cứ nghỉ lại, không sao. Nếu có làm điều gì ngỗ nghịch một tý, xin các ông chớ có trệ bụng ra thôi. Khách sợ bị cợt nhã quá đáng, đều cùng nhau chia tay ra về.
Sau đó, cứ vài ngày họ lại đến, quần tụ, đòi Hồ trêu cợt. Hồ khôi hài thậm giỏi, hễ cất tiếng là khách cười ngả cười nghiêng, đến ngay những người có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người gọi đùa nàng là “Hồ nương tử”.
Một hôm, bày rượu tụ hội vui mừng. Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai khách nữa chia ngôi tả hữu. Còn đặt một cái giường để mời Hồ, Hồ kiếu từ vì không hay rượu. Tất cả đều mời Hồ cùng ngồi nói chuyện, Hồ nhận. Rượu được vài tuần, khách bày trò ném súc dắc làm tửu lệnh “qua man” ( dây dưa). Khách trúng màu dưa, phải uống rượu, liền đùa nâng chén đưa lên giường nói:
- Hồ nương tử, bậc đại tinh, xin tạm cạn một chén.
Hồ cười:
- Tôi vốn không uống, xin kể một câu chuyện để góp vui cho cuộc rượu.
Tôn đã bị nhiều vố, nên bịt tai lại ra vẻ không muốn nghe. Những người khác đều đồng thanh:
- Nếu còn trêu chọc người thì phải phạt.
Hồ cười:
- Nếu tôi trêu chọc Hồ thì sao?
Tất cả đáp “được”, rồi cùng nhau giỏng tay nghe. Hồ kể:
- Ngày xửa ngày xưa có một bậc đại thần đi sứ nước Hồng Mao (chỉ nước Anh hoặc Hà Lan) đội mũ lông hồ, vào yết kiến quốc vương nước ấy. Vua trông thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dầy vừa mềm như thế? Quam đaị thần thưa: lông hồ. Quốc vương bảo: Bình sinh ta chưa được nghe nói tới, tự dạng chữ “hồ” như thế nào. Vị đại thần lấy tay vạch lên không tâu rằng: bên phải là chữ “qua” lớn, bên trái là chữ “khuyển” nhỏ (1). Thế là chủ kah1ch cười ầm cả nhà.
Trong số ba người khách, ngoài Tôn ra, có hai anh em họ Trần một người tên Sở Kiến, một người tên Sở Văn. Họ thấy Tôn bị hố nhiều quá, liền nói chọc Hồ:
- Hồ đực đi đâu mà để Hồ cái ác hại thế này?
Hồ nói thêm:
- Ấy, câu chuyện còn chưa hết thì đã bị sủa loạn lên, giờ xin kể tiếp. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, cũng lấy làm lạ. Sứ thần thưa rằng: con này do con ngựa đẻ ra. Vương lại càng lạ lắm. Sứ thần giải thích: Ở Trung Quốc chúng tôi, con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai. Vương hỏi rõ hình dáng chúng. Sứ thần đáp: Ngựa đẻ la đó là Thần Sở Kiến; la đẻ ra ngựa choai đó là Thần Sở Văn (chú ý tên hai ông khách họ Trần là Sở Kiến và Sở Văn).
Cử tọa lại cười ầm ĩ.
Họ cho là không thể địch nổi mồm mép Hồ nữ. liền giao hẹn đây nếu ai khơi ra chuyện ngạo ngược nữa thì phạt làm chủ rượu, phải bỏ tiền khao.
Lát sau, rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Văn:
- Tôi có vế đối, thách các vị đối.
Hỏi như thế nào, Tôn đọc:
- “Kỹ giả xuất môn phỏng tình nhân, lai thời: vạn phúc, khứ thời: vạn phúc (2).
Mọi người trên bàn rượu nghĩ mãi không ai đối được. Hồ lúc ấy mới khẽ cười:
- Tôi có câu đây.
Mọi người lắng tai nghe. Đọc:
- “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn. (3)
Mọi người lại cười rũ ra. Tôn giận lắm, trách Hồ:
- Đã giao hẹn thế, sao còn dám phạm.
Hồ cười dàn hòa:
- Đúng là tôi có lỗi, song nếu không thế thì không thể đối cho sát được. Sớm mai xin đặc tiệc để chuộc lỗi.
Mọi người cười xòa ra về.
Hồ khôi hài như thế, không thể kể hết được. Ở với nhau được vài tháng. Hồ cùng với Vạn về quê. đến địa giới Bắc Hưng, Hồ bảo với Vạn:
- Ở đây tôi có người bà con xa, đã lâu không qua lại, không thể không vào thăm hỏi. Trời cũng đã tối, ta cùng vào nghỉ, đợi sáng mai lại đi.
Vạn hỏi ở khoảng nào? Hồ nói:
- Không còn xa nữa.
Vạn ngờ ngợ, trước đây chốn này làm gì có làng mạc nào, song cứ đi theo. Qua hai dặm đường quả thấy một trang trại mà Vạn chưa bao giờ đến. Hồ gõ cổn, một người hầu ra mở cửa. Vào trong thì cửa tiếp cửa, gác nối gác, ra dáng là cảnh thế gia. Lúc sau, chủ nhân ra, hai ông bà lão, bái Vạn mời ngồi bày tiệc linh đình, khoản đãi như họ hàng thân thích. Hai người nghỉ lại đấy.
Sáng sớm hôm sau, Hồ bảo Vạn:
- Tôi về ngay cùng với anh, sợ đột ngột cho mọi người. Anh cứ về trước, tôi đi tiếp sau.
Vạn theo lời, về nhà trước nói rõ với gia nhân. Lát sau Hồ cũng tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ, song không nhìn thấy người.
Năm sau, Vạn lại có việc đi Tế, Hồ cùng đi. Bỗng có mấy người tới, Hồ đi theo hàn huyên mọi nỗi. Sau đó Hồ nói với Vạn:
- Tôi vốn gốc ở Thiểm Trung, cùng chàng có mối túc duyên cho nên theo chàng gả ngã bấy lâu. Nay anh em tôi đã đến, tôi sẽ theo về, không thể ở chung vui trọn đời.
Vạn cố sức lưu lại không được.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
(1)Theo tự dạng chữ Hán, chữ “hồ” (狐) gồm có hai chữ“qua” (瓜) và“khuyển” (犭) . Trong truyện, trò tửu lệnh này gọi là “qua man”: khách ngồi bên phải vừa bắt phải “màu dưa” (qua) còn khách ngồi bên trái bị ám chỉ là khuyển. Hồ lanh trí chơi chữ xỏ khách.
(2) nghĩa là: kỳ nữ ra khỏi nhà thăm tình nhân , lúc đến chữa “vạn phúc”l úc đi chữ “vạn phúc”. Vạn phúc: lời chào hỏi chúc tụng.
(3) chơi chữ, nghĩa là: long vương hạ chiếu cầu lời nói thẳng, ba ba cũng được, ruà cũng được. Chỗ hay và ẩn ý của câu này ở chỗ chữ “miết” (鼈) dùng nghĩa đen là con ba ba, “quy”(龜)là con rùa, thì có thể hiểu như trên. Song hai chữ ấy đối với vế trên được dùng như một động từ (đối với lai và khứ) thì lại có nghĩa khác: quy là thả rông cho vợ con đi lang chạ.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Chuyện Lạ Chim câu
(Cáp Dị)
Chim bồ câu rất nhiều giống: đất Tấn có Khôn Tinh, đất Lỗ có Hạc Tú, đất Kiềm có Dịch Diệp, đất Dương có Khiêu, đất Việt có Chư Tiêm, đều là những giống lạ. Lại còn có Hài Đầu, Điềm Tử, Đại Bạch, Hắc Thạch, Phu Phụ tước, Hoa Cẫu Nhỡn. Bấm đốt ngón tay không kể hết, duy chỏ những lẻ hiếu sự mới có thể làm được.
Công tử Trương Công Lượng đất Châu Bình rất thích chim câu, cứ theo sách Kinh (chỉ sách Cáp Tử kinh thời cổ đại TQ chuyên bàn về việc nuôi chim bồ câu) mà tìm, Cầu có được đủ các chủng loại. Có con nào Trương chăm chút y như trẻ thơ: bị bệnh lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, bệnh nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ, nhưng ngủ quá thì mắc bệnh bại liệt. Hồi ở Quảng Lăng, Trương mua một con mười đồng vàng, mình rất nhỏ, chạy rất nhanh, thả trên mặt đất nó cứ chạy loanh quanh không biết bao giờ, kỳ đến mệt lăn ra chết mới thôi, cho nên phải có người bắt giữ. Ban đêm Trương bỏ vào trong đàn chim, nó chạy lung tung làm cho các con khác giật mình không ngủ được, để tránh cho chúng bị bại liệt. Vì thế chim ấy có tên là Dạ Du. Kể thế, những nhà nuôi chim đất Tề, đất Lỗ cũng kém tài. Mà công tử cũng lấy việc nuôi chim câu để tự khoe một chút.
Một hôm công tử đang ngồi ở thư phòng, bỗng một trang thiếu niên mặc áo trắng gõ cửa bước vào. Hai người không biết nhau, công tử hỏi, chàng ta đáp:
- Con người phiêu bạt, tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe tin đồn công tử nuôi bồ câu được lắm. Bình sanh tôi cũng ưa thích thứ ấy, xin được cho xem.
Trương liền đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như gấm mây. Chàng thiếu niên cười mà rằng:
- Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Tôi cũng có mang theo một hai con, công tử có muốn xem không?
Trương mừng quá, theo người thiếu niên đi. Đêm ấy ánh trăng mờ ảo, đồng không mông quạnh, đi thì đi, trong lòng Trương đã thầm ngờ sợ. Thiếu niên vừa chỉ vừa nói:
- Xin gắng đi chút nữa, nơi tôi ngụ không còn xa nữa.
Đi thêm mấy bước nữa đã tới một ngôi nhà hai gian. Thiếu niên dắt tay đi vào. Trong nhà không ánh đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù. Bỗng có một đôi chim tầm cỡ như chim thường lông trắng tuyền bay ra ngang tầm mái hiên, vừa gù vừa chọi.Thiếu niên xua tay, hai con nối cánh bay vào chuồng.
Thiếu niên lại chúm miệng gù cách khác. Lại có hai con khác bay ra- con lớn như con lae, con bé bằng nắm tay- đậu trên thềm biểu diễn điệu hạt múa. Con lớn đứng vươn cổ, xoè cánh như hai cánh bình phong, vừa gù vừa nhảy rất uyển chuyển, dường như để khơi dẫn. Con nhỏ vừa gù vừa bay lên bay xuống đậu trên đầu con lớn vẫn đang giương cổ không động cựa cánh chấp chới như tiếng chim yến lạc vào đám lác. Tiếng kêu nhỏ như tiếng trống bỏi, tiếng con lớn lại y như tiếng khánh, đan hòa nhau như một dàn nhạc. Rồi chim nhỏ bay lên, con lớn cứ lắc lư như chào gọi vậy.
Công tử nhìn quang cảnh ấy, cứ khen ngợi mãi không thôi. Tự chỉ thấy mình chỉ là ếch ngồi đáy giếng, đáng xấu hổ bèn vái chàng thiếu niên, xin chia sẻ niềm yêu thích. Thiếu niên không nghe, lại cố gắng xin, lúc ấy thiếu niên mới gù gọi đôi chim trắng ra, bắt lấy đưa cho Trương, nói:
- Nếu công tử không ghét bỏ, tôi xin biếu đôi này.
Trương nhận lấy, ngắm nghía: đôi mắt tròn như hạt hồ tiêu, phản chiếu ánh trăng lóng lánh màu hổ phách như trong sưốt; mở đôi cánh ra da thịt nó mỏng tanh trong vắt như có thể nhìn rõ tim ruột. Trương rất lấy làm lạ, mà ý chưa cho là đủ, còn nài nỉ xin nữa. Thiếu niên miễn cưỡng bảo:
- Hãy còn hai đôi chưa đưa trình, nay không dám mời xem nữa.
Còn đang chuyện trò đàm đạo thì người nhà Trương đốt đuốc đi tìm chủ nhân. Trương vừa quay đi, chàng thiếu niên đã hóa thành bồ câu trắng, to như con gà, bay vút lên trời, đi đâu không rõ. Nhà cửa vừa trước mắt biến đâu mất mà chỉ còn một ngôi mộ có hai cây bách trồng bên. Trương vội cùng gia nhân ôm đôi chim về. Về đến nhà, thử cho bay, chim vẫn thuần và lạ như trước. Tuy chưa phải là cực hay, song trên đời cũng hiếm. Do vậy, Trương càng yêu quý.
Qua hai năm, chim đẻ được ba con cả trống lẫn mái. Những người thân thích nài nĩ cầu xin đều không được. Có ông Mỗ là bạn cha, là bậc quan sang, một hôm gặp công tử hỏi:
- Thế nào, nuôi chim câu có nhiều không?
Công tử chỉ dạ dạ rồi cáo lui, trong bụng chắc ông ta cũng thích, chàng cũng muốn làm vừa lòng ông ta song dứt ruột chia sẻ niềm yêu thương của mình thấy khó. Lại nghĩ: sự đòi hỏi của bề trên không thể làm ngơ được. Lại không dám đưa chim thường, cho nên phải chọn hai con tuyết trắng bo vào lồng mang biếu, đinh ninh rằng quà quý ngàn vàng không sánh được.
Ngày khác lại gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý về món quà tặng vừa rồi, song ông ta không mảy may ngỏ lời cảm ơn. Trương không ghìm được lòng hỏi ngay:
- Đôi chim hôm trước có tốt không ạ?
Đáp:
- Cũng béo ngon.
Trương hoảng lên:
- Thưa đa mổ thịt rồi à?
Ông Mỗ đáp một cách thản nhiên:
- Ừ!
Trương cả kinh thưa lại:
- Đó là loại chim cực quý, thường được gọi là Thát dát đấy ạ!
Ông Mỗ mơ màng như cố nhớ lại, thủng thẳng đáp:
- Thịt cũng không khác chim thường mấy.
Trương ôm hận ra về.
Đến tối Trương mộng thấy người thiếu niên áo trắng đến trách:
- Tôi thấy công tử có lòng yêu thương nên gởi con gởi cháu. Sao lại nỡ lòng đem châu báu vứt vào nơi đen tối để đến nỗi chịu nạn thớt đao? Nay tôi phải đưa hết con cái đi.
Nói rồi hóa thành bồ câu, tất cả các loại câu trắng đều bay đi theo. Trời sáng công tử xem lại chuồng, quả là chúng bay đi hết. Trương vô cùng ân hận, đem tất cả chim nuôi đưa tặng bạn tri giao. Mấy ngày thì hết sạch.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Người Nuôi Rắn
( Xà nhân)
Nhà Mỗ ở Đông Quận, sinh sống bằng nghề nuôi rắn làm trò. Có hai con đã thuần, cả hai đều màu xanh. Con lớn đặt tên là Đại Thanh, con nhỏ đặt là Nhị Thanh. Con Nhị Thanh trán có một cái chấm đỏ, thuần hơn. Anh ta đặc biệt yêu quý chúng hơn các con khác.
Năm ấy rắn Đại Thanh chết. Anh ta muốn thay bằng con khác nhưng chưa gặp dịp. Tối ây, anh ta ở trọ ở một ngôi chùa trong núi. Sáng ra mở giỏ rắn thì Nhị Thanh đã biến đâu mát. Anh ta buồn tưởng chết, vội vàng đi gọi, tim khắp các gốc cây bụi cỏ nhưng tuyệt nhiên không thấy dấu vết đâu. Anh ta đành phải quay về ngồi đợi, bụng vẫn mong ngóng nó sẽ tự tìm về.
Mặt trời lên cao, anh ta tuyệt vong, đành nhẽ rầu rĩ khăn gói lên đường. Mới được ít bước, bỗng có tiếng loạt xoạt trong bụi cây, vội ngừng lại nghiêng ngó dõi theo thì thấy Nhị Thanh đang trườn tới. Anh ta mùng quá như tìm lại được vàng, vội dừng lại, đứng đợi ở góc đường. Rắn cũng ngừng lại, phía sau có một chú rắn nhỏ đi theo. Anh ta vỗ về Nhị Thanh:
-Tao tưởng mày đã bỏ tao đi rồi? Nay còn dẫn thêm bạn nhỏ về nữa ư?
Rồi vội đem mồi cho ăn, cho cả con nhỏ nữa. Chú rắn tuy không bỏ đi nhưng còn có vẻ ngần ngừ không dám ăn. Nhị Thanh ngậm mồi mớm cho, y như chủ nhân tiếp khách vậy.
Người nuôi rắn cũng tiếp mồi thêm chưa. Bấy giờ rắn con mới ăn tự nhiên, ăn xong theo Nhị Thanh bò vào trong giỏ.
Người nuôi rắn đem dạy rắn con vào khuôn khép ngay không khác gì Nhị Thanh lắm. Anh ta đặt tên cho nó là Tiểu Thanh, rồi mang cả đi biểu diễn tư phương, thu tiền vô kể.
Đại khái người biểu diễn rắn chỉ dùng rắn dài độ bốn gang, dà quá thì nặng phải thay con khác. Con Nhị Thanh đã đến độ phải thay, song chỉ vì nó hay quá, thành thử chưa muốn thay ngay mà còn lưu dùng hai ba năm nữa. Đến khi nó dài đến sáu bảy gang nằm chật đầy giỏ, anh ta buộc phải thay. Đến đất Tuy ở Sơn Đông, anh ta cho Nhị Thanh ăn mồi ngon, vỗ về chúc tụng nói rồi thả ra. Nó đã bò đi, chốc lát quay lại, cứ lượn quanh ngoài giỏ. Người nuôi rắn vẫy tay ra hiệu:
- Đi đi! Trên đời này làm gì có tiệc vui sum họp trăm năm chưa tan. Từ nay mày vào ẩn trong hang lớn, thế nào cũng hóa thành thần long. Còn cái giỏ chật hẹp này mày sao có thể ở mãi được?
Dường như nghe hiểu ý vậy, lần này con rắn bò đi hẳn. Mỗ đưa mắt nhìn tiễn.
Thế rồi rắn lại quay trở lại. Mỗ vẫy tay ra hiệu cho nó đi, nó vẫn không đi, cứ lấy đầu cạ vào cái giỏ. Tiểu Thanh ở bên trong cũng động cựa soàn soạt. Lúc ấy Mỗ mới hiểu, bảo rằng:
- Có phải mày quay lại từ biệt Tiểu Thanh chăng?
Nói đoạn mở giỏ cho Tiểu Thanh ra. Hai con đầu quấn lấy nhau, lưỡi thè lè như muốn nói với nhau điều gì đó. Rồi hai con cùng bò đi. Mỗ đang còn ngỡ Tiểu Thanh không trở về nữa, nhưng chỉ một lát nó đã ngoằn ngoèo bò về một mình, rúc vào trong giỏ nằm.
Từ đó, công việc của Mỗ không lấy gì làm tốt. Tiểu Thanh cũng to dần ra không biểu diễn được nữa. Sau Mỗ kiếm một con cũng thuần, song không sao bằng Tiểu Thanh.
Lại nói Nhị Thanh vào trong núi, những người đi lấy củi thường gặp. Vài năm sau, nó dài đến mấy chục gang, khoang mình như cái miệng bát, thường hay xông ra phi đuổi người. Bởi vậy những người hay qua lại đấy mách nhau, sợ không dám ra đường.
Một hôm, Mỗ đi qua nơi ấy, rắn quăng mình như gió lao theo. Anh sợ quá bỏ chạy. Rắn đuổi theo rất gấp, sát tận chân. Anh ta quay nhìn lại thấy trán rắn có nốt đỏ mới nhận ra Nhị Thanh, liền hạ gánh xuống gọi: “Nhị Thanh! Nhị Thanh!” Rắn dừng lại, nghiển đầu hồi lâu rồi quăng mình quấn lấy chân Mỗ như diễn trò hồi nào vậy. Mỗ biết rắn không có gì làm hại, nhưng vì nó to quá, anh ta không chịu được sức nó quấn nên ngã vật xuống, kêu lên. Lúc ấy rắn mới buông ra, lấy đầu cọ cọ vào giỏ. Mỗ hiểu ý, mở giỏ thả Tiểu Thanh ra. Hai con vật quấn lấy nhau hồi lâu mới rời.
Mỗ thấy thế, liền chúc Tiểu Thanh:
- Tao đã có ý định thả mày lâu rồi. Nay thế là có bạn nhé!
Quay lại Nhị Thanh, anh ta bảo:
- Trước mày dẫn nó về, nay mày hãy dẫn nó đi.
Rồi cùng dặn cả hai:
- Núi sâu không thiếu mồi, chớ quấy người dọc đường.
Hai con rắn cùng cúi đầu như tỏ ý vâng lời. Rồi con lớn trước con bé sau, bò vào rừng. Người nuôi rắn đứng sừng sững nhìn theo cho đến khi cúng khuất hẳn.
Từ đó người qua lại đường ấy được yên ổn, không gặp rắn đuổi.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Nước Dạ Xoa
( Dạ Xoa Quốc)
Có người họ Từ ở đấ Giao Châu, vượt biển đi buôn bị bão thổi bạt thuyền vào một xứ núi cao, rừng rậm. Trông chừng nơi đây có người ở, anh ta buộc thuyền lại, đem theo lương khô rồi lên bờ.
Vừa đi một đoạn đã thấy hai bên núi đều có hang động, dầy đặc như lổ tổ ong, ở trong âm âm nghe có tiếng người. Dừng chân đứng ngoài cửa hang nhòm vào, thấy có hai tên dạ xoa răng tua tủa, mắt đỏ đòng đọc như ngọn đèn, đang lấy móng vuốt xé thịt hươu sống ăn. Anh ta hồn bay phách lạc vội ngoắt ra thì bọn dạ xoa đã nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt người. Hai dạ xoa trao đổi với nhau, tiếng như tiếng chim, tiếng thú. Chúng xé toan quần áo Từ, có ý muốn ăn tươi. Từ sợ quá, vội lấy lương khô, cùng thịt trâu khô trong đãy ra đưa cho chúng. Chúng chia nhau ăn ngon lành lắm. Quen mùi chúng lại lục đãy. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa có vẻ bực tức, lại túm lấy Từ, Từ kêu van:
- Xin tha cho, trong thuyền tôi có nhiều nồi niêu, có thể nấu nướng được.
Da xoa không hiểu gì lại càng tức, Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiều, chịu theo Từ ra thuyền. Từ đem đồ đạc vào trong hang, bắc củi nhóm lửa nấu số thịt hươu còn lại rồi đua cho lũ dạ xoa ăn. Chúng mừng rỡ chén ngay. Đêm xuống chúng vần đá lớn lấp cửa hang, chúng sợ Từ trốn. Từ nằm co quắp ngoài xa, trong bụng chỉ sợ phen này tất chết.
Sáng ra, chúng lấp chặt cửa hoang rồi đi. Một lát, chúng mang về một con hươu giao cho Từ. Từ lột da, lấy nước ở cuối hang, luộc thịt làm mấy nồi. Lát sau, một bầy dạ xoa đến, ngấu nghiến ăn hết rồi cùng chỉ vào nồi ra vẻ chê nồi nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn, giống như nồi người ta thường dùng. Rồi cả bầy đem đến nào nai, nào sói; khi thịt chín rồi chúng gọi Từ đến cùng ăn.
Ở với nhau mấy ngày, bọn dạ xoa đã hơi quen Từ , khi đi không giam anh ta lại nữa mà ăn ở với nhau như người trong bầy. Từ dần dần phân biệt được tiếng kêu của chúng để dò biết ý rồi cũng tập phát âm như thế, vô hình chung thành ra thứ tiếng dạ xoa. Chúng càng bằng lòng, rủ về một dạ xoa cái cho Từ làm vợ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần. Sau đó con dạ xoa cái lân la cùng Từ giao hợp, lấy làm khoái lắm. Mỗi khi đem thịt cho Từ ăn cũng thân thiết y như tình vợ chồng ở con người vậy.
Một hôm tất cả bọn dạ xoa đều dậy sớm, quấn chuỗi hạt minh châu trên cổ, thay phiên nhau ra cửa như có ý chờ đón khách quý. Chúng còn bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi vợ xem có chuyện gì vậy, vợ đáp:
- Đây là tiết Thiên thọ.
Rồi ra bảo bọn kia rằng:
- Anh Từ không có vòng hạt đeo.
Cả bọn trích trong từng chuỗi minh châu mỗi năm hạt đưa cho vợ Từ. Vợ Từ cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình, tất cả năm mươi hạt rồi lấy sợi đay xuyên thành chuỗi hạt đeo vào cổ cho chồng. Từ nhìn kỹ, thấy đều là hạt châu quý có dể phải hàng trăm đồn vàng một hạt.
Lát sau cả bầy dạ xoa đều ra ngoài. Từ cũng nấu thịt xong, vợ vào mời ra, bảo:
- Đón Thiên vương.
Đến một cái hang lớn, rộng khoảng một mẫu, ở giữa xếp đá thành một khối bằng phẳng như cái sập, bốn chung quanh đều có đá, bệ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu. Hai ba mươi bầy dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Lát sau gió to làm bụi mù, tất cả dạ xoa đều ra khỏi hang. Một con vật khổng lồ hình thù cũng loại da xoa, chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi tót lên bệ trên, hai chân duỗi thẳng, mắt láo lướt nhìn khắp. Bầy dạ xoa theo vào sau, chia hàng thứ ngồi hai bên đông tây, đầu ngẩng, hai tay chắp ngực thành hình chữ thập. Con vật ấy nhìn điểm các đầu một lượt, cất tiếng hỏi:
- Bọn Ngọa Mi Sơn ở hế cả đây chứ?
Cả bầy hét lên có ý trả lời : phải. Con vật ấy nhìn Từ, nói:
- Gì đây?
Vợ Từ thưa:
- Rể.
Cả bầy khen Từ có tài nấu thịt chín. Lập tức hai dạ xoa đem thịt đã nấu chín bày lên sập. Con vật ấy cúi xuống ăn thịt no căng, vừa ăn vừa gật gù khen ngon, lại còn hẹn phải cung đốn thường ngày. Xong rồi quay nhìn Từ bảo:
- Vòng hạt sao ngắn thế?
Bọn dạ xoa đáp:
- Mới đến, chưa đủ.
Con vật ấy rút mười hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào hạt ấy to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn. Vợ Từ vội nhận, đeo vào cổ cho chồng. Từ cũng chắp cánh tay, nói theo tiếng nói dạ xoa để tạ ơn. Xong con vật ấy ra khỏi hang, lướt gió mà đi, nhanh như bay. Cả bọn dạ xoa lúc sau mới xúm lại ăn nốt chỗ còn lại, rồi tản mát đi cả.
Được hơn bốn năm, vợ Từ đẻ sinh ba, hai trai một gái, đều giống bố cả. Bầy dạ xoa rất thích ba đứa trẻ, vỗ về đùa nghịch với chúng.
Một hôm, cả hang đi vắng, chỉ còn lại một mình Từ. Có một con sạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm Từ. Từ không chịu thế là nó quật Từ xuống đất. Vợ Từ bất thình lình về, nổi giận quần nhau với nó cắn đứt tai. Chồng nó về gỡ ra đuổi nó đi. Từ đó, vợ Từ giữ rịt lấy chồng không rời.
Ba năm sau, ba đứa trẻ đã biết đi. Từ dạy chúng nói tiếng ríu ríu nhưng đã nghe rõ là tiếng người. Tuy chúng còn là trẻ con song trèo núi cứ như đi trên đấtt bằng, khăng khít với Từ như tình cha con lòai người vậy.
Một hôm vợ Từ và hai con ra ngoài, nửa ngày chưa về. Gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê,, dẫn đứa con trai ra bờ biển, thấy thuyền cũ vẫn còn đó, liền quyết định trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm thì đến Giao Châu.
Đến nhà, vợ cũ đã bỏ đi lấy chồng. Từ đem hai hạt châu đi bán lấy tiền làm ăn sinh sống, gia cảnh ngày càng dư dật. Đứa con trai đặt tên là Bưu, mới mười bốn, mười lăm tuổi đã có thể cất nổi hàng tạ, tính tình lỗ mãng, chỉ thích đánh nhau. Viên tướng chỉ huy ở đất Giao lấy làm lạ, cho giữ một chức quan võ cấp thấp. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong làm phó tướng.
Thời ấy, một lái buôn đi biển cũng bị gió thổi bạt đến Ngọa Mi, treo lên bờ, thấy một thiếu niên đã lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là dân Trung Quốc liền hỏi thăm quê quán. Người lái buôn kể rõ. Thiếu niên dẫn ngay vào trong một cái hang đá nhỏ, bên ngoài có toàn gai góc, dặn cứ ở đây chớ đi ra ngoài. Lát sau trở về, anh ta đem thịt hươu cho người lái buôn và nói cha mình cũng là người Giao Châu. Người lái buôn ngày đó là Từ- vì họ cùng cánh buôn bán quen biết nhau- liền bảo với anh ta:
- Ông ấy là bạn tôi. Nay con ông ta đang làm phó tướng.
Thiếu niên không hiểu phó tướng là gì, người lái buôn giải thích:
- Đó là một chức quan ở Trung Quốc.
Lại hỏi: Quan là gì?
Trả lời:
- Ra đường cưỡi ngựa, đi xe; vào nhà ngồi trên cao chót vót; gọi một lời trăm tiếng dạ ran; ai gặp không dám nhìn, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan.
Thiếu niên nghe thấy nói về quan như thế, đã lấy làm kính mộ lắm. Nguời lái buôn bảo:
- Cha anh đã ở Giao Châu, sao anh còn chịu ở đây lâu thế?
Thiếu niên kể lại sự tình. Người lái buôn khuyên nên về Nam với cha, anh ta mới nói thực tình:
- Tôi cũng thường có ý ấy, song mẹ tôi không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác. Vả lại đồng loại của mẹ mà biết ý định ấy thì sẽ tàn hại, do đó còn chần chừ. Rồi còn hẹn: “Đợi gió bấc nổi lên, tôi sẽ tìm cách đưa ông về. Phiền ông báo cho cha và anh tôi biết tin”.
Gần nửa năm ẩn trong hang, người lái buôn có phen nhòm qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài thì sợ lắm, không dám động cựa. Một hôm gió bấc ù ù thổi, thiếu niên đến ngay, dẫn người lái buôn trốn ra khỏi hang tìm cách về Nam. Anh còn dặn đừng quên điều mình nhờ.
Về đến Giao Châu, người lái buôn vào ngay phủ phó tướng, kể lại đầy đủ những điều đã gặp. Bưu chạnh lòng nhơ mẹ nhớ em, muốn lập tức đi tìm. Người cha hết sức can ngăn, e biển khơi gió to sóng dữ, hiểm trở gian nan. Bưu cứ đấm ngực kêu khóc, người cha đành phải chịu. Rồi Bưu đến trình với quan chánh tướng, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược cản, phải hạ buồm ở giữa biển nửa tháng, bốn chung quanh chỉ thấy trời nước không bờ, chẳng phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp cơn sóng dữ lật úp thuyền, Bưu lộn xuống biển vật vờ chìm, nổi theo sóng. Hồi lâu được một con gì đó dìu vào một vùng đất có nhà cửa. Bưu tỉnh dậy, thấy con vật dìu mình ấy có hình dạng dạ xoa. Bưu nói tiếng dạ xoa kể lại cơn cớ của mình. Dạ xoa vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, bảo Bưu:
- Ngọa Mi chính là quê cũ của tôi. Anh đã chệnh tám nghìn dặm. Đây là hướng tới nước Độc Long, không phải là lối tới Ngọa Mi.
Nói rồi hắn ta tìm thuyền đưa Bưu xuống, rồi lội nước đẩy thuyền nhanh vùn vụt như gió lướt, loáng mắt đã vượt nhìn dặm. Qua một đêm thuyền đã tới bờ Bắc Ngọa Mi. Bưu thấy trên bờ có một thiếu niên có vẻ quẩn quanh trông ngóng. Biết đây không có loài người ở, Bưu ngờ đó là em mình, lại gần dò hỏi thì quả nhiên là đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc. Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, được biết đều còn khỏe mạnh, bình yên, muốn cùng đi tìm ngay. Người em ngăn lại, tự mình vội vã quay đi, định đi hỏi bầy dạ xoa để từ tạ thì chúng đã đi đâu mất cả.
Không bao lâu mẹ và em gái đều đến chỗ Bưu, vừa trông thấy nhau đã khóc ròng. Bưu nói ý định, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo:
- Sợ đến sẽ bị người hại.
Bưu cả quyết:
- Con ở Trung Quốc rất sanh trọng, người nào dám coi thường.
Khi ý định về Giao Châu đã quyết thì lại ngại nỗi gió ngược không sao đi được. Mẹ con còn đang lúng túng thì thấy cánh buồm ngả hướng về Nam.
Bưu mừng, reo lên:
- Trời giúp ta rồi!
Mẹ con xuôi thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới đất Giao Châu. Người trên bờ vừa nhìn thấy thì đã bỏ chạy tán loạn. Bưu phân phát quần áo cho mẹ và em.
Về đến nhà, mẹ dạ xoa thấy ông bố chồng ra mặt tức giận mắng mỏ, đã lấy làm ân hận vì đã trót dại về đây. Từ phải tạ lỗi mãi. Gia nhân đến chào chủ mẫu, ai nấy đều run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc. Rồi được mặc áo gấm, ăn cơm thịt, mẹ dạ xoa mới yên lòng, có vẻ vui. Cả mẹ và con gái đều mặc trang phục đàn ông.
Được vài tháng, họ dần dần nói rõ tiếng người, nước da trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái tên là Dạ Nhi, đều rất khoẻ.
Bưu tìm cách dạy em học chữ, Báo rất thông minh, kinh sử lướt qua một lượt là hiểu và thuộc. song anh ta không muốn theo đòi nghiệp nho mà thích tập cưỡi ngựa, bắn cung, sau đỗ tiến sĩ võ, lấy con gái viên quan họ A.
Dạ Nhi vì khác giống, mãi không ai lấy, sau có viên tướng của Bưu- người họ Viên- vì chết vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng “bách thạch”, từ xa trăm bước có thể bắn trúng chim nhỏ, không phát nào trật. Mỗi khi đi đánh dẹp đâu. Viên thường đưa vợ cùng đi. Sau ông ta được cất nhắc lên chức đồng tri tướng quân, nửa phần công trạng là do vợ lập.
Còn Báo năm ba mươi tư tuổi đeo ấn tướng quân. Mẹ dạ xoa cũng đi theo, mỗi khi vào trận đánh lớn thường mặc áo giáp, cầm gươm tiếp ứng cho con. Quân địch trông thấy là hoảng sợ bỏ chạy. Nhà vua xuống chiếu phong cho tước nam. Báo thay mẹ dâng sớ từ không nhận tước ấy. Sau được phong là phu nhân.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Nàng Ba Hoa Sen
Hà Hoa Tam Nương Tử
Tống Dương Nhược người Hồ Châu là bậc sĩ nhân. Một ngày mùa thu, đi thăm ruộng, thấy đám lúa tốt bời bời đang lay động dữ dội. Tống nghi hoặc, vượt bờ qua xem, thì ra đôi trai gái đang dở cuộc ái ân.Tống hắng giọng cười một tiếng định quay lại. Gã con trai thản nhiên thắt quần vội vã đi qua. Cô gái đứng dậy mặt mũi khá xinh. Tống vừa nhìn đã thấy ưa, chớm nảy ý nọ kia, song lại xấu hổ e thành thô bỉ. Chàng tiến lại vừa phủi quần áo cho, vừa đùa:
- Cuộc tình trong dâu có vui thú chăng?
Cô gái cười, lặng thinh. Tống sấn lại sát cô gái, khẽ cởi áo ngoài, thấy da thịt nõn nà, không kìm được liền vuốt ve trên dưới khắp người. Cô gái cười nói:
- Cái anh tú tài cổ lỗ này muốn làm gì thì làm, cứ rối rít lên cái gì?
Tống hỏi họ tên, cô gái đáp lấp lửng:
- Một độ xuân chơi thì tỏ tường mọi nhẽ, cần gì tra hỏi. Hay muốn lưu tên tuổi để lập phường trinh chăng?
Tống nghiêm giọng:
- Giữa nội đồng sương cỏ, đó là nơi bọn chăn heo sơn dã thường làm, tôi không quen thế. Thấy cô đẹp, đến việc ngỏ lời hẹn riêng cũng cần tự trọng, việc gì phải tuế toá lên thế!
Cô gái lặng nghe có ý thừa nhận là đúng. Tống hẹn:
- Túp nhà hoang vắng của tôi cũng không xa đây, xin mời quá bộ đến thăm.
Cô gái từ tạ:
- Tôi đi đã lâu sợ người ta ngờ. Có gì đợi tối.
Cô gái còn hỏi kỹ đặc điểm của nhà, đường ngõ rồi mới theo đường tắc bước quay đi.
Chập tối, cô gái đã đến phòng Tống, một cuộc mây mưa cực kỳ hoan lạc. Cứ thế ngày này tháng khác, không một ai hay. Hôm ấy, sư trụ trì chùa làng gặp Tống ngoài đường kinh ngạc hỏi:
- Người anh có ta khí, đã gặp việc gì chăng?
Tống trả lời : Không.
Sau đó về ốm liền. Đêm đêm cô gái lại tới, đều mang hoa quả ngon cho Tống ăn, ân cần hỏi han chăm sóc y như vợ chồng tận tụy. Đi ngủ, thế nào cô gái cũng ép Tống phải chiều bằng được. Tống mắc bệnh, không kham nổi, đã có ý nghi ngờ cô gái không phải là người, song chưa có cách nào dứt được, nay mới nói nửa kín nửa hở:
- Bữa trước đoán tôi bị yêu ám, nay quả bị bệnh, thật là nghiệm. Ngày mai nếu người đến tôi sẽ xin bùa yểm.
Cô gái biến sắc.
Tống càng ngờ, sai người đến kể với sư. Sư bảo:
- Đó là hồ ly. Thuật của nó còng thường lắm, dể bắt.
Sư vẽ cho một đạo bùa, dặn:
- Lấy một cái vò sành dán bùa vào miệng, đem đặt trước giường . Khi hồ ly chui vào, úp ngay một cái chậu lên, dán bùa rồi đổ nước vào, nổi lửa đun một lát là hồ chết.
Gia nhân về sắp sửa như lời sư dặn.
Đêm ấy, khuya cô gái mới đến, lấy quít vàng từ trong tay áo ra, vừa định đến giường thăm hỏi Tống, bỗng trong vò có tiếng kêu u ú. Cô gái bị hút tụt ngay vào. Gia nhân đợi sẵn, vội bịt lấy miệng vò, dán bùa, định đốt lửa. Tống thấy quít vàng tung toé trên mặt đất, nhớ lại những ngày tình nghĩa sâu đậm, trong lòng không nỡ, sai phóng thích ngay. Bùa vừa được giải, chậu vừa được nhấc, cô gái từ trong vò chui ra, vô cùng lúng túng, cúi đầu nói:
- Thiếp, đại đạo sắp thành, suýt nữa hóa ra thành đất. Chàng vô cùng nhân hậu, thiếp sẽ báo đền. Nói rồi ngoắt đi.
Vài ngày sau, bệnh tình Tống vô cùng nguy kịch. Gia nhân đi chợ mua gỗ. Một người con gái đón hỏi:
- Có phải người nhà Tống Dương Nhược không?
Người kia nhận : Phải.
Cô gái tiếp:
- Tống là anh họ. Nghe nói bị bệnh nặng cũng định đến thăm, chẳng may lại bận việc, không đi được. Có một thang linh dược, phiền anh đưa dùm.
Người gia nhân về, Tống không có chị em họ hàng nào như thế, nên biêế ngay là hồ ly đền ơn. Uống thuốc đến đâu thì bệnh khỏi đến đấy, chỉ mươi ngày bình phục hoàn toàn. Tống vô cùng cảm kích chắp tay ngửa mặt lên không trung nguyện được tái hợp.
Đêm ấy, Tống đóng cửa ngồi uống rượu một mình, bỗng nghe có tiếng móng tay cào cửa sổ, vội bật cửa chạy ra. Hồ nữ đến! Tống mừng quá chắp tay cảm tạ, bày rượu cùng uống. Cô gái giải tỏ nỗi lòng:
- Từ độ từ biệt, lòng cứ bồn chồn không biết lấy gì đền ơn đức cao dày. Nay vì chàng xin tìm một đám xứng đôi như thế đã tròn trách nhiệm thiếp chưa?
Tống vội hỏi:
- Người nào vậy?
Đáp:
- Chàng chưa biết đâu. Sáng mai vào giờ thìn, chàng vượt Nam Hồ, thấy cô gái hái dâu, quấn khăn tơ trắng thì chèo thuyền thật gấp đuổi theo. Nếu lạc hướng không kịp thấy bên đê có bông hoa sen cuống ngắn ẩn dưới tán lá, xin chàng hái lấy; mang về, đốt nến hơ vào cuống hoa, chàng sẽ có trong tay một cô gái đẹp, lại thêm tuổi thọ.
Tống chăm chú ghi nhớ lời dặn, đến khi cô gái cáo biệt, Tống cố chèo kéo. Cô gái từ chối phân giải:
- Từ gặp tai nguy, bỗng giác ngộ đại đạo, nay đâu còn ham muốn mối tình chăn gối để chuốc lấy thù oán của con người.
Nói rồi nghiêm nét mặt cáo biệt.
Tống theo lời dặn. Đến Nam Hồ thấy đầm sen mênh mông, gái đẹp vô kể. Trong đám có một cô bím tóc buông rũ, áo lụa trắng như băng, tươi đẹp tuyệt trần. Chàng vội phóng thuyền theo, luống cuống lạc huớng, để mất hút người đẹp. Chàng bắt thuyền vào đám sen, quả nhiên thấy một nhánh hoa sen, cuống sen chưa đầy hai gang, liền hái lấy mang về. Vào nhà Tống đặt hoa lên ghế, cắm nến vào bên, châm lửa hơ. Khoảnh khắc, sen đã hóa thành cô gái đẹp. Tống vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, phục xuống vái. Cô gái nghiêm giọng:
- Anh chàng si tình! Ta là hồ ly đây, sẽ gây vạ cho chàng đấy.
Tống tỏ vẻ không cho là thật. Cô gái hỏi vặn:
Ai bảo chàng làm thế?
Trả lời:
- Tự kẻ tiểu sinh biết nàng phải đợi ai bảo.
Tống nắm lấy cánh tay kéo đi, cô gái tuột theo tay Tống xuống đất, hóa thành hòn đá, cao khoảng hai gang, bốn mặt lấp lánh. Tống đặt đá lên án, đốt hương vái lạy và cầu khẩn. Tối xuống chận cửa gài then cẩn thận, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại không thấy đá đâu, chỉ thấy một cái khăn lụa trắng, vẫn còn thoảng hương. Tống ôm lấy, lên giường đắp chăn nằm ngủ; tối trở dậy thắp đèn, quay lại đã thấy cô gái, sợ cô gái hóa thân, nên ra sức cầu van rồi sau mới dần dà lấn tới. Cô gái cười:
- Thật là nghiệp chướng! Chẳng biết kẻ thừa hơi nào lại đi dạy cho lão si tình này những chuyện tầm bậy thế này?
Rồi cùng nhau nhu thuận, không cưỡng lại. Trong lúc giao tiếp, có lúc dường như không kham được, nhiều lần xin ngưng nghỉ. Tống không nghe. Cô gái phải dọa:
- Nếu cứ thế này, thiếp sẽ hóa ngay.
Lúc ấy Tống mới thôi.
Từ đó đôi bên rất hòa hợp, mà gia tự nhà Tống thường vàng lụa đầy rương , không hiểu từ đâu đem về. Cô gái gặp ai cứ “dạ, dạ” dường như miệng không thốt được thành lời. Còn Tống cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng. Lường đúng ngày sinh nàng vào buồng dặn Tống đóng cửa chặt không cho ai vào rồi nàng lấy dao tự rạch bụng mình ,lấy con ra, bảo Tống lấy lụa quấn con lại. Qua đêm mẹ tròn con vuông.
Sáu, bảy năm sau, nàng bảo Tống:
- Thiếp đã báo đền ơn cũ vẹn toàn, nay xin cáo biệt.
Tống nghe vậy, sửng sốt khóc:
- Lúc nàng mới về, ta nghèo khổ không thể tự lập. Nhờ nàng mới có ngày nay, sao vội nói lời chia ly quá sớm? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ, cũng là điều đáng ân hận.
Nàng rầu rĩ phân giải:
- Có tụ ắt có tán, đó là lẽ thường. con có phúc tướng, chàng tuổi thọ cũng dài, còn mong gì hơn nữa? Thiếp vốn họ Hà. Nếu chàng có chút ân tình quyến luyến, cứ ôm kỷ vật cũ của thiếp mà gọi. Nàng Ba Hoa Sen ( nguyên văn: Hà Hoa Tam Nương Tử) thì tự nhiên lại thấy mặt.
Rồi với dáng điệu thanh nhàn, nàng nói lời cáo biệt:
- Thiếp đi đây!
Kinh hãi quay lại nhìn thì nàng đã bay quá tầm người đứng. Tống lại nhảy lên níu giữ, nhưng chỉ cái giày tụt lại. Giày rơi xuống đất hóa thành con yến bằng đá, sắc đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh. Chàng nhặt lấy cất đi. Kiểm tra trong hòm thấy tấm khăn lụa trắng hồi mới về vẫn còn đây. Mỗi khi tưởng nhớ, chàng ôm ấp tấm khăn gọi “Nàng ba Hoa Sen” thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện về y như lúc còn ở trần thế vậy. Chỉ có điều không nói một lời nào.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Ma Học Đàn
Hoạn Nương

Ông như Xuân, con nhà dòng dõi đất Thiểm Tây, mê say đàn cầm từ nhỏ, ngày nào cũng luyện tập, dù đi đâu cũng không sao nhãng.
Có lần chàng đi chơi Sơn Tây,qua một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng rẽ vào nghỉ cho đỡ mệt.Trên hành lang có một đạo sĩ mặc áo vải ngồi xổm ở đó, gậy trúc tựa vách, cây đàn đựng trong túi vải thêu bông. Xuân thấy đàn hợp ý bèn cất tiếng hỏi làm quen:
- Đạo sị cũng sành nghề chơi này?
Đáp:
- Cũng chẳng sành. Chỉ mong gặp được bậc nào giỏi để học thêm.
Vừa nói ông vừa mở túi lấy đàn đưa cho Xuân xem. Chàng thấy cây đàn có vân tuyệt đẹp, thử dạo một vài tiếng thấy trong ấm lạ thường, liền nổi hứng gãy luôn một khúc ngăn ngắn. Đạo sĩ nhếch mép có ý cho đó là chưa được. Xuân trổ tài luông một khúc khác nữa. Đạo sĩ khen gượng:
- Cũng khá! Cũng khá! Nhưng chưa thể làm thầy ta được.
Xuân nghe nói có vẻ khoe khoang, muốn xem tài thực, liền xin cho được nghe ông thử đàn. Đạo sĩ tiếp lấy đàn đặc trên đầu gối, vừa mới gãy vào dây tơ đã nghe như có gió mát thoảng đến. Khúc đàn rung lên thì có cả trăm thứ chim lượn tới, đậu kín trên cây trước sân chùa. Xuân sửng sốt kính phục, vội vàng sụp lạy xin được dạy bảo cho.
Đạo sĩ đàn luôn ba lượt, chàng chăm chú nghe dần dần hiểu được khúc điệu. Đạo sĩ biểu chàng gảy lại chỗ nào sai thì uốn nắn cho. Cuối cùng ông nói:
- Như thế là trần gian không ai sánh bằng anh rôì!
Từ đó trở đi Xuân ra sức nghiền ngẫm tập dượt, tài đàn trở thành tuyệt giỏi.
Sau đó chàng trở về quê, còn cách nhà mấy chục dặm thì trời tối bỗng mưa to, không biết nghỉ chân vào đâu. Nhìn quanh quất bên đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, chỉ thấy có một cái cửa ngỏ là bước luôn vào, đến tận nhà giữa vẫn thấy vắng tanh.
Lát sau có một thiếu nữ độ mười bảy đến mười tám tuổi ở trong nhà đi ra, đẹp như tiên sa. Chợt thấy khách lạ, cô ta ù té chạy quay vào. Còn là trai tân, vừa nhìn thấy cô nàng, Xuân đã không kìm được lòng.
Rồi một bà lão ra tiếp khách. Chàng xưng tên họ, xin ngủ trọ một đêm. Bà lão cho biết, trọ lại cũng được, chỉ hiềm nhà không có giường chõng gì cho khách, chỉ có thể trải một thứ gì xuống đất nghỉ tạm. Nói xong, bà lão thắp đèn bưng ra ôm cỏ khô rãi xuống đất. Thấy thái độ ân cần, niềm nở của bà, chàng liền hỏi họ tên để làm quen. Bà trả lời:
- Già họ Tiêu.
- Còn cô em lúc nãy là ai?
- Đó là con gái nuôi của già, tên là Hoạn Nương.
Xuân đánh bạo tán luôn:
- Nếu cụ không chê tôi nghèo, tôi nhờ mối đến hỏi cô em có được không?
Bà cụ lắc đầu:
- Điều đó thì già không chìu lòng được.
Xuân căn dặn vì sao? Bà chỉ đáp: Khó nói!
Câu chuyện giữa chủ và khách đến đó chấm dứt. Bà lão vào nhà trong để khách đi nghỉ. Nhưng xem đến cỏ trải ổ thì ướt và mục không thể nào nằm được. Xuân đành ngồi gảy đàn cho qua đêm dài. Mưa tạnh, chàng từ giã chủ nhà ra về.
*
Trong làng có quan Lang trung họ Cát về hưu. Ông xưa nay vẫn quý những người có tài văn nghệ. Nhân đó Xuân tìm đến chơi. Ông Cát biết tài Xuân bảo gảy đàn cho nghe. Khi tiến đàn rung lên, thấp thoáng trong mành có bóng đàn bà con gái rình nghe. Một cơn gió thổi mạnh lay động bức mành. Xuân vội liếc mắt nhìn, thấy một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần. Đó chính là con gái chủ nhân tên là Lương Công, vừa giỏi văn chương từ phú lại nổi tiếng là bậc tiên nữ trong vùng.
Chàng xiêu lòng, về thưa với mẹ cậy người đến hỏi, nhưng ông Cát chê nhà Xuân sa sút không chịu gả.
Từ khi Lương Công được nghe Xuân trổ ngón đàn, lòng đã hâm mộ lắm, chỉ ước được nghe nữa. Song vì chuyện dạm hỏi không thành,Xuân phẫn chí không muốn lui tới nữa. Một hôm nàng ra vườn chơi, ngẫu nhiên nhặt được một tờ hoa tiên không còn mới lắm, trong có viết bài từ “Tiếc xuân thừa”. Nàng thích văn hay, ngâm ngợi ba bốn lần rồi đem vào buồng riêng, lấy vải hoa nền gấm chép cẩn thận thành một bản khác để trên án. Nhưng lạ quá, chỉ lát sau tờ giấy có bài từ ấy đã biến đâu mất. Nàng cứ ngỡ là gió thổi bay đi. Không ngờ ông Cát đi qua phòng ấy, nhặt được, tin là con gái làm ra. Thấy lời lẽ lẳng lơ, ông ghét lắm đem đốt đi mà không nói ra om sòm, chỉ mong mau chóng gả chồng cho con, khỏi ngại.
Vừa lúc ấy quan Lưu Phương Bá ở làng bên đến dạm hỏi cho con. Ông Cát lấy làm ưng, song muốn đợi xem mặt chàng rể mới quyết. Hôm ấy Lưu công tử ăn vận cực kỳ sang trọng đến ra mắt. Ông Cát thấy công tử đẹp trai, ưng ngay, bày tiệc khoản đãi rất hậu hĩ. Khi công tử đứng dậy ra về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Ông Cát thấy vậy, phát ghét anh chàng này là kẻ bờm xơm, đàng điếm, liền nói bà mối đến nói rõ lý do không gả con gái cho nữa. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng ông Cát nhất định bỏ ngoài tai.
Họ Cát có giống hoa cúc xanh, không truyền cho ai. Lương Công đem trồng một chậu cúc quý ấy trong buồng riêng. Và lạ thay vườn cúc nhà Xuân bỗng nhiên cũng nảy ra hai giò màu xanh. Mọi người nghe thấy đua nhau đến ngắm xem. Xuân coi như được của báu. Sáng hôm sau ra vườn hoa sớm, chàng nhặt được bên luống hoa một tờ giấy viết bài “Tiếc xuân thừa”. Không biết nó từ đâu tới chỉ thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, đọc đi đọc lại, suy ngẫm càng thấy làm lạ. Chàng liền đem về bàn, ra công tô điểm, bình luận, lời lẽ có phần thô lỗ.
Nghe nói cúc nhà họ Ông biến ra màu xanh, ông Cát ngạc nhiên thân hành đến nhà học của Xuân để xem thực hư. Ngẫu nhiên trông thấy bài từ, ông cầm lấy toan đọc. Xuân chợt nhớ lời bình của mình trót lỡ sổ sàng không muốn cho ông xem, sợ mang tiếng, vội giàng vò nát. Ông Cát chỉ kịp lướt một hai câu thì đúng là bài từ ông đã nhặt được ở buồng con gái. Ông lấy làm nghi ngờ lắm. Lại cả giống cúc xanh, ông cũng nghĩ là con gái ông tặng cho Xuân không thì anh đào đâu ra?
Về nhà ông nói chuyện với vợ, gọi Lương Công ra tra hỏi. Nàng khóc lóc kêu oan, xin chết để tỏ lòng thực. Mà nghĩ cho cùng việc chẳng có chứng cứ gì đích thực xác, tất cả chỉ là nghi hoặc, không rõ thực hư thế nào? Bà vợ sợ tai tiếng vỡ lở, bàn với chồng gả quách con gái cho Xuân là xong chuyện. Ông Cát đến lúc ấy cũng cho là phải, bèn nhắn tin cho chàng hay.
Xuân bất ngờ mừng quá đỗi, ngay ngày hôm ấy mời bạn bè tới dự tiệc cúc xanh rồi đốt hương thơm gảy đàn cho tới khuya. Chàng về phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng trông coi nhà học nghe đàn cứ tự nhiên thánh thói kêu hoài. Ban đầu nó nghi hay là bọn tôi tớ trong nhà đùa giỡn. Sau thấy không phải, nó chạy vội đi báo với chủ.
Chàng liền đến nhà học, quả thấy sự là đàn kêu, nghe kỹ thì tiếng đàn như cố bắt chước khúc mình chơi, nhưng âm điệu còn chưa chuẩn, chưa nhuyễn. Chàng lập tức cầm đèn xộc vào buồng học thì vẫn thấy vắng tanh không có ai, đem đàn đi, từ đấy mới im. Bấy giờ anh chàng mới nghi là hồ tinh, chắc là nó muốn học đàn. Từ đấy mỗi tối chàng gảy đàn một khúc rồi để đàn lại cho hồ tập, làm y như một thầy dạy đàn vậy.
Hàng đêm chàng lại rình nghe qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã réo ráo xuôi tai.
*
Sau khi thành hôn, hai vợ chồng Xuân đọc lại bài từ bỏ rơi hôm trước mới biết cuộc hôn nhân được tác thành đầu mối từ đó. Song còn tại sao nó lại bay tới nhà Xuân thì không rõ. Về sau tiếng đàn tự nhiên kêu, Lương Công cũng rình nghe. Nàng đoán:
- Không phải là hồ ly đâu. Nghe âm điệu não nùng ai oán lắm như có ma ở trong. Vậy chắc là ma.
Xuân không tin. Lương Công khoe ở nhà mình có cái gương cổ có thể soi rõ ma quỷ. Một hôm, nàng sai người về lấy, rình một lúc tiếng đàn nổi lên, lập tức ập vào trong đưa gương chiếu rồi thắp đèn lên. Quả có người con gái đang luống cuống ở góc nhà, không trốn đi đâu được. Xuân nhìn thì chính là Hoạn Nương mà chàng đã gặp ở nhà trọ hồi nào. Chàng cả kinh gặng hỏi tại sao nàng lại ẩn náo nơi đây. Nàng rớt nước mắt đáp lại:
- Thiếp làm mai mối cho chàng và tiểu thư nên duyên nên lứa, đâu phải không có chút công lao. Nay sao nỡ bức bách nhau quá vậy?
Xuân bảo vợ đem cất gương nhưng giao hẹn Hoạn Nương đừng có vội biến đi. Hoạn Nương ưng thuận, ngồi xuống hơi xa mà kể:
- Thiếp là con quan thái thú, sớm thiệt phận đã trăm năm nay. Còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh. Về đàn tranh thì đã tập được ít nhiều, chỉ còn đàn cầm thì chưa được học cho nên dù đã xuống suối vàng vẫn ấm ức mãi. Khi chàng tránh mưa, ghé vào trọ, trộm nghe được điệu đàn, lòng đã hâm mộ, say mê lắm. Chỉ thiệt phận mình là ma, không thể theo đòi nâng khăn sửa túi cho chàng được. Bởi vậy đã ngầm tính cách dun dủi cho chàng gá gá duyên được với nàng tài cao sắc đẹp, đặng báo đền chút tình đoái thương của chàng. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi và bài từ “Tiếc xuân thừa” bay đến, đều là do thiếp tạo ra. Việc báo ơn thấy học đến thế không phải là mệt trí tốn công!
Vợ chồng Xuân nghe xong, rưng rưng cảm động, vội vàng vái tạ. Hoạn Nương tiếp:
- Ngón đàn của chàng thiếp đã luyện được quá nửa rồi, chỉ còn chưa lột được hết tinh thần. Vậy phiền chàng gảy cho tập một lần nữa.
Xuân nhận lời và vừa gảy mẫu vừa chỉ bảo cách thức, Hoạn Nương mừng lắm.
Thiếp nhận được hết chỗ hay rồi. Nói đoạn định đứng dậy từ biệt.
Lương Công vốn giỏi đàng tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường, bèn xin nàng gảy cho nghe. Hoạn Nương vâng ngay, tiếng đàn vừa rung lên, âm điệu thật tiêu tao réo rắt, cõi trần khó ai sánh kịp. Lương Công trầm trồ khen ngợi, xin Hoạn Nương truyền bảo lại cho. Nàng lấy bút ghi lại bản đàn thành mười tám chương, xong rồi đứng dậy cáo biệt.
Cả hai vợ chồng Xuân cùng cố giữ lại. Giọng Hoạn Nương buồn thảm:
- Chàng và tiểu thư nên duyên cầm sắt tức là bạn tri âm của nhau. Thiếp là kẻ bạc phận có đâu được hưởng phúc ấy. Nếu có duyên trời gặp gỡ thì họa may sum họp kiếp sau.
Nói xong lấy ra một cuốn giấy đưa cho Xuân và nói:
- Đây là bức hình của thiếp. Nếu như không quên bà mối thì xin đem treo ở buồng nằm. Khi nào khoái ý, đốt nén hương thơm, gảy một khúc đàn, tức là thiếp được hưởng vậy.
Nói dứt, bước ra khỏi cửa biến mất.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Lớp Học ma
Tiểu Tạ

Nhà quan bộ lang họ Khương ở phía Nam sông Vị, có nhiều ma quỷ thường hiện hình nhát người. Vì thế ông phải dọn nhà đi, chỉ để lại người đầy tớ trông coi. Người ấy bị ma làm chết, thay người khác cũng bị chết nốt, cho nên nhà đành phải bỏ hoang.
Trong làng có một người học trò, tên là Đào Vọng Tam, tính tình phóng khoáng, ưa gần con hát, son cứ rượu ngà ngà là bỏ về. Bạn bè bảo đào hát chạy theo kéo lại, chàng cười mà không cưỡng, song dù có ở lại cả đêm chàng cũng không mảy may đụng chạm đến gái. Chàng thường ngủ nhà quan Bộ lang, có cô hầu gái đến gạ gẫm hiến thân, nhưng chàng cương quyết cự tuyệt không làm điều dâm loạn. Ông Bô lang thấy thế càng quý trọng.
Nhà Đào vốn nghèo, vợ lại chết, mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không thể chịu nổi. Vì thế chàng nói với quan Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà hoang. Ông Bộ lang từ chối, nói thực là nhà có ma không ở được. Đào liền làm bài văn: Lại luận về không có ma đưa cho ông bộ lang còn nói thêm: “Ma làm được gì mà sợ”. Bộ lang thấy chàng cứ cậy cục mãi như thế cũng đành phải bằng lòng.
Chàng dọn đến căn chính sảnh, mới chập tối vừa để quyển sách ở giữa bàn, trở về nhà cũ lấy đồ vặt khác thì quyển sách đã biến đâu mất. Chàng lấy làm lạ, nằm ngửa trên giường, lặng lẽ chờ xem có sự gì xảy ra. Chỉ một lát đã nghe thấy tiếng giày dép loẹt quẹt, hé mắt nhìn thấy hai cô gái từ trong buồng đi ra, đem theo quyển sách vừa mất lúc nãy để lên bàn. Một cô ước chừng hai mươi tuổi, một cô khoảng mười bảy đến mười tám tuổi đều xinh đẹp cả, cứ đứng quanh quẩn bên giường trông nhau mà cười. Chàng nín lặng không động cựa. Cô lớn gác một chân lên bụng chàng, cô nhỏ bưng miệng cười khúc khít. Đào thấy rạo rực không cầm lòng đặng, nhưng lập tức suy nghĩ đứng đắn trở lại, cuối cùng không đoái tưởng đến. Cô gái sáp gần lại, tay trái vuốt râu, tay phải khẽ vỗ lên trán, lên má chàng bem bép. Cô nhỏ tuổi càng cưòi tợn. Đào không chịu được, bật dậy quát:
- Lũ quỷ, sao dám hỗn xược như thế?
Hai cô gái hoảng sợ, ù té chạy biến mất. Đào ngại bị quấy nhiễu suốt đêm, đã muốn quay về nhà cũ song lại xấu hổ vì đã nói cứng, cho nên đành phải khêu đèn ngồi đọc sách. Trong các mảng tối, bóng ma vẫn chập chờn song chàng cứ làm ngơ , không dòm tới.
Gần nửa đêm chàng cứ để đèn đi nằm. Vừa mới nhắm mắt đã thấy có vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi làm chàng hăt hơi ầm lên. Trong bóng tối có tiếng cười khe khẽ. Đào vẫn chẳng nói chẳng rằng, giả bộ ngủ say xem chúng còn giở trò gì khác nữa.
Một lúc đã thấy cô nhỏ lấy tự quấn ngay vào bắp vế, lò dò tới gần, Đào nhổm dậy quát ầm lên, họ lại chui lũi trốn mất biệt, vừa chợp mắt, lỗ tai lại bị ngoáy, cứ thế suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi có gà gáy sáng, Đào mới được yên mà ngủ một giấc.
Cả ngày không nghe thấy chuyện gì lạ, nhưng không mặt trời vừa lặn, ma lại hiện hình. Đào bèn nấu cơm về đêm để thức luôn tới sáng. Cô lớn xếp chân bằng tròn tót lên ghế nhìn chàng đọc, rồi đột nhiên thò tay bịt lấy sách. Đào tức quá nắm lấy thì ma đã vụt biến mất. Chỉ có một lát lại bò ra, lại cầm lấy sách. Đào phải lấy tay chặn quyển sách mới đọc nổi. Còn cô bé thì lùi tới sau lưng Đào, lấy hai tay bịt mắt chàng rồi chạy vụt ra xa đứng nhăn nhở cười. Đào tức quá trỏ vào mặt mà mắng rằng:
- Đồ quỷ con! Ta mà bắt được ta giết chết cả đôi.
Nhưng hai cô gái vẫn cứ nhơn nhơn không sợ. Nhân vậy Đào mới đùa rằng:
- Thôi, cái trò lăn lóc chiếu giường đây không có màng đâu, các cô ghẹo tôi chỉ vô ích.
Hai cô mủm mỉm cười, quay mình vào bếp, kẻ chẻ củi kẻ vo gạo giúp Đào nấu cơm. Đào ngó vào khen:
- Hai cô cứ làm như thế chẳng hơn là trêu cợt tôi ư?
Lát sau cơm chín, lại tranh nhau lấy thìa đũa, bát đĩa bày đặt lên bàn. Đào nói:
- Cám ơn hai cô đã phục dịch, lấy gì để đền đáp công đức sau đây?
Cô gái lại cười nói dọa:
- Cơm có thuốc độc đấy, cẩn thận kẻo chết!
Đào đối lại:
- Xưa nay tôi với các cô có hiềm oán gì nhau, đâu nỡ hại nhau đến thế!
Đào vừa ăn hết bát cơm này đã có đầy bát khác, hai cô cứ giành nhau qua lại đơm tiếp cho chàng. Đào cũng lấy việc đó làm vui, quen đi thành thường lệ. Ngày lại ngày dần dần quen thân, cùng ngồi nói chuyện phiếm. Đào hỏi đến họ tên. Cô lớn thổ lộ:
- Em họ Kiều tên Thu Dung. Con bé kia họ Nguyễn tên Tiểu Tạ.
Lại tỉ tê hỏi từ đâu đến nương tựa chốn này. Tiểu Tạ cười ranh mãnh:
- Anh chàng ngốc ơi! Đến thân thể còn chẳng dám lộ cho người ta thấy, ai mượn anh hỏi đến nhà cửa, gia thế, ý chừng muốn cưới xin hay sao?
Đào giữ nét mặt nghiêm trang, đáp lại:
- Đối diện với người đẹp, bảo tôi làm sao vô tình cho được.Song vì âm khí nặng nề, người trần gian động vào tất chết. Vậy thì nếu ở chung với nhau không vui thì nên mỗi người một nẻo. Nếu ở chung với nahu mà vui thì ai yên phận nấy. Nếu như tôi không được yêu thương thì đâu dám xúc phạm đến hai cô? Ví bằng tôi được yêu thương thì can chi hai cô đi giết anh chàng cuồng si?
Hai cô nhìn nhau có vẻ cảm động. Từ đó trở đi không nỡ đùa nghịch quá quắt nữa. Song thỉnh thoảng vẫn thọc tay vào bụng Đào tụt quần chàng xuống đất, chàng cũng bỏ qua, không lấy làm điều.
Một hôm chàng đang chép sách dang dở thì có việc phải đi ra ngoài, đến lúc trở vào đã thấy Tiểu Tạ lúi cúi trên bàn cầm bút chép tiếp. Thấy Đào về, cô ta buông bút, cười bẽn lẽn. Đào lại gần xem, tuy chữ còn chưa đẹp nhưng hàng lối ngay ngắn, liền tấm tắc khen:
- Cô viết khá đấy! Nếu cô thích tôi sẽ dạy cho.
Nói rồi ôm Tiểu Tạ vào lòng, cầm lấy tay mà dạy viết chữ. Thu Dung bất ngờ từ ngoài vào, hơi biến sắc mặt vẻ như ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:
- Thuở bé em thường được cha dạy viết, nay bỏ lâu ngày cầm bút nó cứ mơ mơ màng màng thế nào ấy?
Thu Dugn vẫn không nói gì. Đào biết ý nhưng giả tảng như không biết, cũng ôm Thu Dung trao cho cây bút mà bảo:
- Để tôi xem cô có viết được không nào?
Đoạn cầm lấy tay Thu Dung đưa đẩy được mấy chữ rồi đứng dậy bảo:
- Nét bút cô Thu khá lắm đấy!
Thu Dung lúc này mới nở nang mày mặt. Đào liền rọc hai tờ giấy làm tờ phóng, giao cho hai cô cùng tập viết, còn chàng châm một ngọn đèn khác ngồi đọc. Chàng lấy làm mừng vì ai có việc nấy không còn quẫy nhiễu nhau nữa. Khi viết xong, hai cô kính cẩn mang đến bàn nhờ Đào chỉ bảo. Trước đây Thu Dung chưa được đi học, chữ viết còn nguệch ngoạc chưa ra chữ, không được đánh giá không bằng Tiểu Tạ thì có ý thẹn, Đào phải an ủi khích lệ mãi, Thư mới lấy lại được vẻ thường.
Từ đó, hai cô gái coi Đào làm thầy, khi ngồi thì gãi lưng, khi nằm thì xoa bóp cẳng, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Được mấy tháng chữ viết của Tiểu Tạ ngay ngắn đẹp đẽ, Đào buột miệng khen. Thế là Thu Dung xấu hổ tủi thân quá, nước mắt ròng ròng. Chàng phải đủ lời khuyên giải mới nguôi.
Sau đó, Đào dem sách ra dạy học, cả hai đều thông minh lạ thường, chi bảo một lượt là nhớ, không bao giờ hỏi lại lần thứ hai. Thế là thầy trò thi nhau đọc sách, thường suốt cả đêm. Tiểu Tạ còn dẫn cậu em trai là Tam Lang đến xin học. Cậu ta tuổi chừng mười lăm đến mười sáu, khá điển trai, mang cái móc vàng đến làm lễ nhập môn. Đào xếp cho Tam Lang học cùng lớp với Thu Dung. Thế là từ đó tiếng đọc sáchrâm ran cả cửa. Đào trở thành thầy đồ một lớp học toàn ma. Ông Bộ lang nghe tin đó mà mừng, thỉnh thoảng lại cấp cho gạo củi.
Được vải tháng Thu Dung và Tam Lang đã biết làm thơ, thi thoảng lại xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn Đào đừng có dạy cho Thu Dung, chàng gật đầu. Thu Dung bảo đừng dạy cho Tiểu Tạ, Đào cũng ừ.
Đến một hôm Đào phải lên trường thi, hai cô gái khóc tiễn biệt. Tam Lang can thầy:
- Thầy nên cáo ốm đừng đi. Nếu không, chuyến này có thể gặp điều chẳng lành.
Đào không nghe, cho rằng cáo ốm trốn thi là một điều nhục.
Nguyên là chàng hay làm thơ đả kích việc thời sự, động chạm đến bậc quyền qúy trong huyện. Họ vẫn ngày đêm tính chuyện hãm hại nhân dịp liền hối lộ các quan học chính để vu cáo chàng hạnh kiểm không tốt, bắt bỏ ngục. Tiền lưng hết sạch, chàng xin ăn các bạn bè, tự nhủ phen này thôi thế là hết đường sống. Bỗng có một bóng người lọt vào buồng giam, nhìn ra thì đúng là Thu Dung. Nàng đem cơm gạo cung đốn cho chàng. Hai người nhìn nhau tấm tức khóc ròng. Nàng bảo:
- Tam lang đã lo chàng gặp chuyện chẳng lành, nay quả không sai. Tam Lang cùng đi với em, nay nó đội đơn đến pháp ty kêu oan rồi.
Nàng chỉ nói qua loa dăm câu ba điều rồi quay ra, không ai trông thấy cả. Hôm sau, quan hình bộ đi xe ra ngoài, Tam Lang đón đường kêu oan, quan thu lấy đơn. Thu Dung lại vào ngục báo cho chàng, quay ra để thăm dò tin tức, nhưng ba ngày sau không trở lại nữa. Đào lòng buồn bụng đói, một ngày đằng đẳng như thể năm trường. Bỗng Tiểu Tạ đến, mặt buồn rười rượi, tưởng không còn gượng được nữa. Nàng báo tin dữ:
- Thu Dung hôm ở đây trở về, qua miếu Thành Hoàng bị viên phán quan mặt đen bắt, cưỡng bức làm vợ bé, Thu Dung không chịu nay cũng bị nhốt ngục tối. Em lặn lội suốt trăm dặm đường, mỏi mệt tưởng chết. Đến cửa Bắc lại bị gai già đâm giữa gan bàn chân, đau thấu xương, e rằng không thể đến đây lần nữa.
Nói rồi chìa chân cho Đào coi, máu me bê bết. Nàng đưa cho Đào ba lạng vàng rồi khập khiễng biến mất.
Quan hình bộ xét đến việc Tam Lang khiếu nại, cho rằng Tam Lang chẳng có họ hàng thân thích gì với bị can, vô cớ kêu oan hộ thế là trái lý, liền bắt nọc ra đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm kỳ dị, xem đến đơn khiếu oan thấy lời lẽ bi thiết, liền sai giải Đào ra công đường xét hỏi Tam Lang là người thế nào. Đào giả như không biết. Quan hình bộ biết là oan, thả cho chàng ra.
Đào trở về nhà, suốt đêm chẳng thấy một ai. Mãi lúc tàn canh mới thấy Tiểu Tạ tới, rầu rĩ báo:
- Tam Lang ở công đường ra, bị thần coi giữ công đường bắt giải xuống âm ty. Diêm Vương thấy Tam Lang là người nghĩa khí, cho thác sinh vào nhà giàu sang trên dương thế. Còn Thu Dung vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu tới thành hoàng thì bị ngăn trở không vào được, nay làm thế nào đây?
Đào nổi giận:
- Thằng quỷ đen, sao dám bạo ngược thế? Ngày mai ta sẽ đập nát tượng nó ra, gí nát nó thành bùn đất, lại vạch mặt Thành Hoàng mà hỏi tội: sao dám để cho bọn thuộc hạ tay chân hoành hành? Hắn ta cứ trong cơn mê mộng bí tỉ như vậy hay sao?
Hai người cùng bưồn bực ngồi suông với nhau, bất giác canh tư sắp tàn, bỗng Thu Dung vụt đến. Hai người vừa mừng vừa sợ, vội hỏi han tình hình. Thu Dung khóc sướt mướt:
- Vì chàng mà em phải chịu muôn vàng cay đắng. Lão Phán quan hằng ngày đem hết gậy lại đao ra bức em, đêm nay bỗng nhiên thả em về, còn bảo: “Ta chỉ vì yêu thương nàng mà xử xự như thế này chứ không vì cớ gì khác. Nếu nàng không thuận thì ta cũng chẳng ép buộc. Xin phiền nói với quan hình bộ họ Đào chớ có khiển trách ta đó!”.
Đào nghe cũng hả dạ đôi chút. Nhân lúc cao hứng muốn chung giường, liền gạ:
- Hôm nay xin vì các em mà chết cũng cam.
Hai cô tỏ bộ không thuận, van nỉ:
- Bấy nay được chàng dạy bảo cũng hiểu ra đôi điều nghĩa lý, nay nỡ nào vì yêu kính chàng mà lại hại chàng ư?
Hai nàng quyết định giữ gìn không cho chàng ngủ chung, song vẫn nghiêng đầu bá cổ thân thiết như vợ chồng. Mà hai cô đối với nhau không còn ghen tức gì nhau nữa.
Một vị đạo sĩ gặp Đào ở đường, nhìn chàng bảo ngay là có tà khí. Đào thấy lời nói lạ, liền đem hết chuyện nói lại. Đạo sĩ khuyên :
- Ma ấy tốt lắm, chớ nên bỏ đó.
Nói xong, ông vẽ hai lá bùa trao cho Đào, dặn:
- Anh mang về đưa cho hai cô ma, mỗi cô một lá để tuỳ theo phúc mệnh, ai may thì được, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt ngay lá bùa, ai chạy ra trước thì được sống lại.
Đào vái tạ nhận bùa đem về đưa hai cô, không quên nhắc lại lời dặn của đạo sĩ. Hơn một tháng sau, quả nghe có tiếng khóc hờ con gái chết. Hai cô tranh nhau chạy ra,. Tiểu Tạ vội quá quên nuốt lá bùa. Thấy có xe chạy qua, Thu Dung chạy vụt tới, chui luôn vào áo quan và biến mất. Tiểu Tạ không chui được tứcc tưởi khóc quay về.
Đào ra xem thì thấy đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy thấp thoáng bóng một cô gái chui vào áo quan, còn đang nửa ngờ nửa sợ, bỗng nghe trong áo quan có tiếng động liền dừng lại, mở ra xem, thì cô gái họ Hác đã sống lại. Nhà tang liền xin gởi tạm nàng ở ngoài nhà học của Đào và cử người trông coi.
Bỗng nàng mở mắt hỏi ngay đến Đào. Họ Hác gặn hỏi, cô ta đáp:
- Tôi không phải là con gái họ Hác đâu.
Rồi cô kể rõ sự tình. Họ Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về. Cô gái không chịu, chạy luôn vào buồng học của Đào, nằm đó không ra nữa. Họ Hác nhận Đào làm con rể rồi đi.
Đào lại gần coi xem, thấy diện mạo cô gái mới sốg dậy tuy khác Thu Dung song về kiều diễm thì không kém. Chàng mừng quá, thực là vượt sức mong muốn mới hỉ hả ngồi cùng nhau nhắc lại chuyện cũ. Bỗng nghe có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang tủi thân ngồi khóc nức nở trong bóng tối, làm cho cả hai người đều thương cảm. Họ cầm đèn tới soi, tìm lời an ủi, cố làm dịu nỗi đau thương song nàng vẫn cứ tấm tức không thôi, áo xiêm đẫm lệ, mãi gần sáng mới biến đi.
Sáng ngày, họ Hác sai con hầu mang rương hòm sang ở luôn nhà Đào để hầu hạ, cư xử như bố vợ đối với con rể vậy. Đêm đến Đào vào buồng vợ thì Tiểu Tạ khóc lóc thê thảm, cứ thế sáu bảy ngày, hai vợ chồng cảm động quá không thể nào làm lễ hợp cẩn được. Đào buồn lo nẫu ruột song đành bó tay không có cách nào giúp Tiểu Tạ được. Thu Dung chợt nghĩ ra:
- Đạo sĩ là người tiên. Hay ta đi cầu cứu một lần nữa, may ra người thương mà giúp cho.
Đào nghe lời, tìm đến nơi đạo sĩ ở, quỳ rạp xuống đất giải bày sự tình. Đạo sĩ cứ khăng khăng xin chịu, không còn phép thuật nào nữa. Đào vẫn kêu cầu thảm thiết không thôi. Cuối cùng đạo sĩ mới cười bảo:
- Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta quá! Thôi cũng vì anh còn duyên số với cô ta, ta xin dốc bằng hết mọi sức lực.
Rồi đạo sĩ theo chàng về nhà, đòi ở một gian riêng tĩnh mịch đóng chặt cửa ngồi trong đó, dặn không được ai gọi hỏi gì, cứ thế hơn mười ngày không ăn uống. Lên dòm thì thấy ông ngồi thiêm thiếp như ngủ vậy. Một hôm trời vừa sáng, có một thiếu nữ vém rèm bước vào nhà Đào, mắt sáng long lanh, răng trắng muốt, vẻ kiều diễm rực rỡ. Nàng cười bảo chàng:
- Tôi phải lặn lội lần dò suốt đêm, mệt tưởng chết. Bị các người đeo đẳng rầy rà mãi, bôn ba hơn một trăm dặm đường mới tìm được ngôi nhà tốt. Đạo sĩ đi đón và cũng cùng đến đây. Chờ gặp được người giao lại là xong.
Mới sẩm tối Tiểu Tạ tới, thiếu nữ đứng vội dậy đón, ôm chầm lấy. Hai người hòa vào làm một thân thể, ngã quay xuống đất cứng đờ. Đạo sĩ từ trong buồng đi ra, chắp tay chào rồi đi luôn. Đào vái tạ đưa tiễn thì cô gái đã tỉnh. Chàng vội ôm đặt lên giường, hơi thở cô gái đã điều hòa, nhưng còn ôm cẳng kêu đau, vài hôm sau mới dậy đi được.
Sau đó Đào thi đỗ tiến sĩ, có người bạn đỗ cùng khoa là Thái Tử Kính, nhân có việc đi qua, ghé vào nhà Đào vài ngày. Tiểu Tạ từ bên hàng xóm về, Thái trông thấy vội đuổi theo sát gót. Tiểu Tạ tìm cách lánh đi, trong lòng thầm trách con người không đứng đắn. Thái quay vào, nói với bạn:
- Có một việc kỳ quái hết sức, bác có cho phép tôi nói không?
Đào gặng hỏi. Thái nói:
- Ba năm trước đây, em tôi chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến đâu mất. Đến nay tôi vẫn còn băng khoăn không biết vì sao? Vừa rồi tôi thoáng thấy bác gái sao giống em tôi làm vậy?
Đào cười:
- Vợ tôi là kẻ quê mùa, sao giống được cô nương nhà ta. Song đã là bạn đồng khoa, nghĩa tình chí thiết, có ngại gì không để nhà tôi ra chào.
Đào vào nhà trong, bảo Tiểu Tạ mặc bộ đồ liệm táng ngày trước để ra chào khách. Thái vừa trông thấy thất kinh:
- Thực là em tôi đây rồi!
Rồi ông ta khóc rưng rức. Đào thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho bạn nghe. Ông mừng rỡ:
- Thế là em gái tôi chưa chết. Tôi phải về ngay để báo tin vui cho song thân.
Mấy ngày sau cả nhà họ Thái kéo sang. Sau thường thường lui tới như nhà họ Hác vậy.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
GIẤC MỘNG VỢ HỒ
( Hồ mộng)
Bạn ta ( tác giả tự xưng), Tất Di Am, là người phóng túng ít ai bì. Khuôn mặt ông ta đẫy đà, râu rậm. Trong đám sĩ lâm đều biết danh tiếng.
Khi có việc, Tất hay đến nhà riêng ông chú làm quan thứ sử, lên trên lầu nghỉ ngơi. Người ta thường đồn đại trên lầu có nhiều hồ tinh. Trước đây, mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng do ta chép. Tất tỏ ý rất hâm mộ, chỉ hận nỗi sao mình chưa một lần gặp được hồ. Nhân ở lầu này, ông lại càng đắm đuối tơ tưởng.
Ngày ấy, khi trở về buồng thì đã nhá nhem tối, trời nóng bức quá, ông nằm ngay trước cửa mà ngủ. Trong giấc ngủ, có người lay gọi, ông tỉnh dậy thấy một người đàn bà trạc ngoại tứ tuần nhưng còn có chiều phong vận lắm. Tất sửng sốt hỏi là ai, người ấy đáp:
- Tôi là hồ ly đây. Được ông mơ ước bấy lâu, tôi thầm cảm tấm lòng ấy mà đến.
Tất thấy nói thế mừng cuống, đã giở giọng trăng hoa. Nhưng người đàn bà cười bảo:
- Tôi đã luống tuổi rồi. Ví bằng người không nỡ chê, tự tôi đã hổ thẹn trước. Tôi có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể nâng khăn sửa túi cho ông được. Đêm nay xin đừng để cho ai ở nhà này, nó sẽ đến. Tối hôm sau, Tất đốt lò hương ngồi đợi. Quả nhiên người đàn bà dắt đứa con gái đến. Thật là một tuyệt thế giai nhân. Người đàn bà dặn con gái:
- Tất lang có duyên túc thế với con. Vậy con ở lại đây. Sớm mai phải về sớm, đừng có ngủ quên.
Tất nắm tay nàng dắt vào màn, mây mưa vui thú. Xong rồi cô gái nửa đùa nửa thật cười bảo:
- Gớm chết! Chàng vừa béo nặng vừa cuồng si, ai mà chịu nổi.
Chưa sáng rõ cô gái đã đi, vừa tối lại đến, bảo Tất:
- Mấy chị em nhà mở tiệc định mời chàng rể mới. Mai chàng cùng đi với em nhé!
Mãi ở đâu?- Tất hỏi.
- Bà chị cả làm chủ tiệc. Cách đây cũng không xa.
Đêm sau ngồi đợi mãi không thấy cô gái đến. Tất cảm thấy người mệt mỏi, liền gục đầu lên bàn. Cô gái tới tỏ ý áy náy:
- Chết nỗi! để chàng phải đợi lâu quá!
Nói rồi nắm tay Tất dẫn đi, tới một nơi có nhà cửa nguy nga. Đi thẳng vào gian chính thất thấy đèn đuốc lấp lánh như sao sa. Giây lát chủ nhân bước ra, trang phục đơn giản nhưng đẹp tươi vô ngần, khép nép thi lễ mừng chàng rể mới. Sửa soạn vào tiệc, con hầu bảo cô Hai tới. Cô Hai trạc tuổi từ mười tám đến mười chín, vừa vào đã hướng vào cô dâu mới cười đùa:
- Em thế là biết mùi đời rồi nhé! Sao? Được anh chàng như vậy có vừa lòng không?
Cô em cầm quạt đập vào lưng chị, lơ lơ nhìn không bắt lời. Cô Hai cười, tiếp:
- Nhớ lại chị em mình còn bé hay chơi vật lộn nhau. Em sợ bị cù vào mạng sườn, người ta chỉ mới giơ ngón tay ra là đã cười lăn cười lóc. Em tức chị, nguyền chị sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt. Chị trả đũa em: con oắt con thế nào cũng vớ phải anh chàng rậm râu, để khi hôn hít râu nó cù cho biết tay. Nay đúng thế chứ còn gì?
Chị cả cũng bật cười, giải hòa:
- Cái cô này! Chả trách em Ba nó cáu giận cũng phải. Ai đời rể mới đang ở dây mà ăn nói không giữ ý giữ tứ gì cả.
Kế đó, mọi người cùng ngồi vào bàn tiệc, trò chuyện vô cùng rôm rả. Bỗng nhiên một thiếu nữ bế mèo đến, tuổi chừng mười một đến mười hai, tóc chưa bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ thanh tú. Cô cả đon đả:
- Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể ư? Nhưng tiếc quá, đây hết ghế rồi, không có chỗ cho dì út.
Nói rồi bế em đặt lên đùi mình, lấy bánh trái cho nó ăn. Được một lát bế em vừa đặt vào lòng cô Hai vừa nói:
-Úi chà, nó đè lên đùi tôi đau quá không chịu được.
Cô Hai vội phân bua:
- Con nhỏ này mới bằng ấy tuổi mà thần xác đã nặng như cối đá. Tôi ốm o thế này chịu sao nổi? Nó muốn xem mặt ông anh rể, thì đây ngồi lên đùi anh. Ông to béo này mới chịu nổi mày.
Rồi xốc luôn em đặt vào lòng Tất. Tất ôm em vợ vào lòng hương thơm phưng phức mà cảm thấy nhẹ tênh như không, rồi cùng uống rượu chung chén với em. Cô Cả nhắc:
- Con ranh chớ có quá chén đấy, kẻo say mà thất thố thì ông anh cười cho!
Cô bé nghe thế cười khanh khách, lấy tay nghịch mèo làm nó kêu eo eo. Cô Cả thét lên:
- Sao không vứt nó đi cho rồi? Cứ ôm lấy nó trêu ngậu lên.
Cô Hai bỗng nãy ý hay:
- Thôi cứ để cho nó ôm mèo. Mượn ngay nó làm tửu lệnh cho vui cuộc rượu thế này nhé: cái đũa này cứ chuyền tay nhau, đến tay ai mèo kêu thì người đó phải uống rượu..
Mọi người vỗ tay tán thưởng. Lạ quá đũa này cứ đến tay Tất là mèo kêu ré lên. Tất vốn là tay bợm rượu, phải uống liền mấy chum lớn, lúc ấy mới rõ: cứ đũa đến lượt Tất là cô bé lại bóp cho mèo kêu. Phát hiện ra mọi người cùng phá lên cười. Cô Hai bảo em út:
- Thôi! Em bé đi ngủ đi. Mày ngồi đè nặng đùi ông anh lâu rồi, sợ chị Ba mày oán đó.
Cô bé vâng lời, ôm mèo quay ra. Cô Cả thấy Tất uống giỏi quá liền gỡ cái độn tóc ( ngày xưa phụ nữ TQ [hạng trung lưu] thường đeo tóc giả cuốn quanh một cái độn bằng gô, tựa như cái chén bên trong gắn sơn. Do đó có thể dùng cái độn ấy đựng rượu) rót rượu vào nàng mời. Tất ngó cái độn chỉ như cái chén con nhưng khi uống thì lượng rượu nhiều đến dễ bằng mấy đấu. Uống cạn rượu nhìn lại thì hóa ra tàu lá sen.
Cô Hai cũng tự mình chuốc rượu mừng. Chàng từ chối không thể kham được nữa. Cô ta lấy hộp son, bé tí như viên đạn, ân cần khuyên mời:
- Chú không uống được nhiều thì tôi chỉ mời một chút gọi là có thôi.
Tất nhìn cái hộp son bé tí, tưởng chỉ một hớp là xong. Ai ngờ tiếp đến hàng trăm hớp, rượu vần chưa hết.
Cô Ba- vợ Tất- ngồi bên cạnh thấy thế lấy cái chén hạt sen bé tí tẹo, thay thế cho cái hộp son, vừa cười vừa bảo chồng:
- Anh đừng để kẻ gian lường gạt!
Vừa nói vừa để cái hộp son lên bàn thì hóa ra là cái bát to tướng. Cô Hai chọi ngay:
- Việc gì đến cô! Anh chồng mới vài tối mà yêu thương thân thiết đến thế ư?
Tất cầm lấy cái cái chén hạt sen vợ vừa ý tứ đưa mời, ngửa cổ làm một hơi hết sạch, tay mân mê cái chén, thấy mềm nhũn, nhìn kỹ không phải chén mà là chiếc giày thêu (chân con gái phong lưu thường bó chặt từ thuở bé cho nên chân nhỏ và giày đi thường nhỏ xíu) cực kỳ khéo. Cô Hai vội giằng ngay lấy, mắng:
-Cái con ranh này! Mày đánh cắp giày tao tự bao giờ thế. Thảo nào chân cứ lạnh toát.
Rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày.
Cuộc rượu đã tàn, vợ Tất nhắc chồng cáo biệt các chị, tiễn chân ra đến ngoài làng, bảo Tất hãy trở về một mình.
Tất tỉnh dậy thì hóa ra là một giấc mộng, nhưng lổ mũi lổ miệng còn thơm lừng mùi rượu, tự lấy làm lạ. Buổi tối nàng đến hỏi ngay:
- Đêm qua say rượu chưa chết ư?
Tất cho đó chỉ là giấc chiêm bao. Nàng cắt nghĩa:
- Chị em em sợ chàng say sưa ngông cuồng cho nên phải thác vào mộng như thế. Thực ra không phải là mộng đâu.
*
Nàng Ba cùng Tất đánh cờ, phần thua thường về chàng ta. Nàng cười bảo:
- Hàng ngày chàng vẫn ham đánh cờ em cứ tưởng chàng cao cờ lắm, nay xem ra cũng chỉ bình thường vậy thôi.
Tất nhờ nàng chỉ bảo thêm cho. Nàng nói:
-Nghệ thuật chơi cờ, mỗi người tự lĩnh hội tìm tòi lâý, em làm sao có thể giúp chàng giỏi lên được. Tốt nhất là ngày một thấm nhuần rồi sẽ khá lên.
Luyện tập theo cách ấy được vài tháng, Tất cảm thấy hơi khá lên một chút. Nàng thử lại, vẫn cười mà chê: “Chưa được, chưa được.”, Tất ra ngoài tỷ thí với những bạn cờ trước đây, ai cũng lấy làm lạ, vì chàng đánh lên tay rõ.
Tất là người ngay thẳng bộc trực, không giữ kín được điều gì trong bụng, cho nên đã hé lộ với chúng bạn đôi điều quan hệ với hồ nữ. Thế là nàng biết ngay trách rằng:
- Chả trách các bạn bè đồng tâm không chơi với anh chàng bô lô ba la như điên này cũng phải. Em đã bao lần dặn anh phải giữ mồm giữ miệng cho cẩn thận kín đáo, ấy thế mà sao cứ thông thốc tuôn ra hết vậy?
Rồi ra mặt giận định bỏ đi. Tất phải xin lỗi đi xin lỗi lại nàng mới nguôi. Song cũng do đó nàng đi lại ăn nằm thưa hơn trước.
Ăn ở với nhau hơn một năm, một tối nàng đến ngồi lặng nhìn Tất, rủ đánh cờ không đánh, kéo đi ngủ cùng không đi. Cứ thế rầu rầu hồi lâu, nàng mới độ nhiên hỏi:
- Chàng xem em với Thanh Phượng ai hơn?
- Em hơn chứ? Tất đáp.
- Không em tự thẹn là không được bằng Thanh Phượng. Song ông Liêu Trai với chàng là bạn văn chương, phiền chàng cậy ông chép cho một thiên tiểu truyện. Ngàn năm về sau, vị tất không có người ao ước như chàng hiện nay.
- Ấy, tôi cũng có cái ý ấy. Song vì buộc phải theo lời dặn của em nên còn giữ kín.
- Đành rằng trước đây em dặn thế, nhưng nay sắp sửa chia tay nhau, còn gì phải dấu giếm nữa.
Tất hỏi nàng đi đâu? Đáp:
- Em cùng dì Tư được Tây Vương Mẫu triệu đi làm Hoa điển sứ, không trở về được nữa.
Tất xin nàng đôi lời lưu tặng. Nàng đọc: “Dẹp bực tức bớt lỗi lầm” rồi đứng dậy, nắm lấy tay Tất, nàng âu yếm:
- Chàng đưa chân em một đoạn.
Cùng đi khoảng một dặm dài, đôi bên nhỏ lệ chia tay.
Nàng còn căn dặn trước khi đi hẳn:
- Đôi ta có chí, biết đâu chẳng có dịp tái ngộ.
*
Ngày ấy tháng chạp năm Khang Hy thứ 21, ông Tất cùng ta gác chân lên nhau đàm đạo ở Xước Nhiên Đường. Ông ta đã kể tỉ mỉ cho ta chuyện lạ này. Ta nói: “Cô Hồ tâm giao như thế thì bút lực Liêu Trai này cũng vẻ vang thay!”
Ta bèn chép lại chuyện này.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
TẢN ĐÀ dịch.
LÂM TỨ NƯƠNG
(Lâm Tứ Nương)
Người ở tỉnh Mân (tên gọi tắt của tỉnh Phúc Kiến, tên cổ), Trần công tên là Bảo Thược, làm quan đạo Thanh Châu (địa hạt tỉnh Sơn Đông). Có đêm ngồi một mình, có người con gái vén bức màn che đi và, nhìn coi thời không quen, mà đẹp quá lắm, tay áo dài ra lối ăn mặc trong cung. Cười nói rằng: “Đêm thanh ngồi suông một mình vậy, khỏi buồn được sao?”
Ông giật mình hỏi là người nào?
Nói rằng: “Nhà thiếp không xa đây, chỉ gần ở xóm Tây”.
Ông đoán hẳn là ma, mà lòng yêu thích lắm, nắm vạt áo, kéo mời ngồi. Chuyện nói rất phong nhã. Thích ý quá, ôm lấy, cũng không chống cự.Rồi bên gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông lại hỏi kỹ đến nơi. Nói rằng: Một đời kiên trinh, đã để cho anh làm khinh bạc đến chết! Có lòng yêu thiếp, chỉ nên tính sự ái tình với nhau về lâu! Chớ hỏi lôi thôi mãi làm gì!
Không bao lâu gà gáy, vội dậy mà đi. Từ đó đêm nào cũng đế. Thường thường đóng kỹ cửa cùng uống rượu chơi, nói đến việc âm nhạc, thời ra thấu hết các cung bực. Ông bèn đoán là có khi hát cũng hay. Nói rằng: “Chính là cái việc có học từ lúc bé.” Ông xin cho nghe một khúc. Cô gái nói: “Đã lâu không nhắc đến việc tiếng nữa, cung điêu mất đến quá nửa, chỉ sợ để tri âm cười thôi!”
Cố nài ép nữa. Bèn cúi đầu đánh nhịp, hát giọng châu Y, châu Lương (1). Tiếng nghe thảm thương; hát xong rồi khóc. Ông cũng bùi ngùi đau đớn thay; nhân ôm lấy cô gái mà có câu an ủi rằng: “Mình đừng có đem cái giọng mất nước ra mà hát như thế, làm cho người ta buồn mất vui”.
Cô gái nói: “Tiếng của người ta, là để đem ý chí của mình ra. Kẻ có sự thương, không thể bảo làm vui; cũng như người đương vui, không hát cho thương được.”
Hai người thân mật nhau hơn là đạo cầm sắt. Lâu lâu những người nhà nghe trộm; ai nghe thấy tiếng hát, cũng đều phải chảy nước mắt cả. Phu nhân nhìn thấy dung mạo, ngờ là trên đời người không có của đẹp quái đến thế, vậy không phải ma, thời tất cũng là hồ. Sợ sẽ làm tai vã cho, khuyên ông nên tuyệt. Ông không theo được lời khuyên của phu nhân, mà chỉ hỏi cặn kẽ tích gốc của người con gái. Cô gái buồn bã nói:
-“Thiếp là cung nhân trong phủ Hành, gặp tai biến mà chết, kể đã đến mười bảy năm nay. Nghĩ ông là bậc người cao nghĩa nên mong gửi than làm vui; nhưng thực không có dám làm hại nhau. Nên có sự e ngờ nhau ,thời liền xin từ nay từ biệt”.
Ông nói: “Tôi không lấy làm sao cả; nhưng đã yêu đương nhau như vậy, thời cũng phải nên biết đến thật mà thôi”.
Bèn hỏi đến việc ở trong cung thuở xưa. Cô gái tỉ mỉ kể hết. Nghe lẩm nhẩm thấy hay lắm. Nói đến câu chuyện trong lúc biến cố, thời nức nở không thành tiếng được nữa.
Cô gái không ngủ lắm, mỗi đêm tất dậy đọc những lời chú trong các kinh “Bồ Đề, Kim Cương”.
Ông hỏi: “ở nơi chín suối, cũng có thể tự sám hối được à?”
Nói rằng: “Cũng một lẽ thế cả. Thiếp nghĩ suốt đời luân lạc, muốn cho kiếp sau được giãi thoát đó thôi”.
Lại cùng ông bình luận thơ từ, chỗ nào không hay thời chê ngay; đến câu nào hay thời ngâm tiếng ngâm nga, khiến cho người nghe quên hết cả sự mệt mỏi.
Ông hỏi: “Có hay thơ không?”
Nói: “Lúc còn sống ngẫu nhiên có làm”.
Ông đòi xin làm cho một bài.
Cười, cho rằng: “Lời thơ của đàn bà con trẻ, đâu đủ đến tai bậc cao nhân”.
Cùng đi lại được ba năm, một tối bỗng ảm đạm xin chào từ biệt. Ông phải giật mình hỏi.
Cười, nói rằng: “Vua dưới âm phủ nói rằng thiếp trong lúc sống trước không có tội gì, mà vẫn còn chăm chỉ không quên việc đọc kinh, vậy cho sinh vào một nhà vua; sự biệt nhau ở đêm nay, không bao giờ cùng gặp mặt nữa”.
Nói xong rồi mà buồn rầu. Ông cũng hơi rỏ nước mắt. Bèn làm rượu cùng uống thật say. Cô gái khảng khái mà hát, làm ra giọng thương mà khoan thai. Mỗi tiếng nhắc đi nhắc lại đến nhiều lần; đến chỗ thương tâm thời liền cho nghẹn hơn không thể hát đi được. Dừng mấy bận, hát mấy bận, như thế mới hát xong một bài. Rượu uống cũng không vui được, bèn đứng dậy xum xoe thong thả muốn đi. Ông cố lôi lại, mời lại ngồi thêm chút nữa.
Tiếng gà gáy động, bèn nói rằng: “Thôi, tất không thể ở lại lâu thêm nữa rồi. Những ông vẫn thường lạ vì thiếp không đem lời thơ dốt để trình hiến; nay đến lúc sắp vĩnh biệt, xin thao lượt làm nên một bài”.
Rồi đòi lấy bút, nghĩ nên thơ. Nói rằng: “Trong lòng thương xót, ý nghĩ rối loạn, không đắn đo được từng chữ. Vậy những tiếng dở luật sai, xin rằng chớ có đưa cho người khác biết chi”.
Xong, che vạt áo mà đi. Ông tiễn ra đến ngoài cửa, tan hình ra như khói mà mất.
Ông ngậm ngùi hồi lâu; coi đến thơ, thời chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, lấy làm quý mà cất đi.
Thơ rằng:
Mười bảy năm trời khóa chặt ai
Ai đem nước cũ hỏi: Trời ơi!
Cây trùm máy điện làn thu mỏi;
Cuốc hóa hồn vua, giọt lụy rơi!
Nước bể (2) sóng dồn, ô xế bóng;
Nhà Lưu (3) trống vỗ, khói lan hơi.
Má hồng sức yếu, làm ma khó (4)
Chất huệ lòng đau, hỏi Phật thôi.
Ngày đọc Bồ Đề (5) muôn chữ thuộc;
Nhàn xem Bối Diệp (6) mấy thiên chơi.
Hát khúc Lê Viên (7) thay tiếng khóc;
Nghe chơi rơi lệ một mình ai.
Nguyên văn chữ Hán (dịch âm)
Tỉnh tỏa thâm cung thập thất niên,
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
Nhân khang điệu vũ phong kiều mộc,
Khắp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hai quốc ba đào là tịch chiếu,
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ,
Huệ thất tâm bi chỉ vấn Thiền.
Nhật tụng Bồ Đề thiên bách cú,
Nhàn khan Bối Diệp lưỡng tam thiên.
Cao xướng Lê Viên ca đại khốc,
Thỉnh quân độc thinh diệc san thiên!

( Lời thơ lăng băng trùng điệp, không đúng niêm luật lắm, hoặc kẻ truyền đạt có sai lầm.
Xét ở bộ Chi Bắc Ngẫu Đàm của Vương Ngư Dương tiên sinh cũng chép việc này, thơ thời làm ra Đường luật; Lư Nhã Vũ tiên sinh có lấy đem vào tập thơ “Sơn Tả”. Nay phụ chép như sau để thêm sự so xét).
TẢN ĐÀ dịch.
___________________
(1) châu Y : từ đời Đường đặt ra, thành cũ ở huyện Cáp mật, tỉnh tân Cương nay- Khúc hát Châu Y, thời trong đời vua Minh Hoàng nhà Đường, qua tiết độ sứ Tây Hương là Cáp Gia Vận dâng lên vua.
Châu Lương, từ đời nhà Hán đặt, nay thuộc đất tỉnh Cam Túc- Khúc hát châu Lương thời từ cuối nhà Tấn, người châu Tây Hương truyền khúc cũ của TQ, hợp với giọng ca của rợ Khương Hồ mà chế ra. Đời vua Đường Minh Hoàng, quan Đô Đốc Tây Hương phủ là Quách Tri Vận dâng lên vua.
(2) nước bể: là một quốc gia nhỏ ở mạn bể, do hai chữ hải quốc dịch ra.
(3)Nhà Lưu: do hai chữ Hán gia, vì nhà Hán họ Lưu.
(4) Câu này là ý nói không có sức để báo thù cho nước.
(5) (6)Bồ Đề, Bối Diệp đều là tên sách kinh nhà Phật.
(7)Lê Viên là cảnh chơi vui hát của vua Minh Hoàng nhà Đường.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
HỒ NHƯ THẦN
(Tiểu Mai)

Vương Mộng Trinh, con nhà thế gia ở Mộng Am, đi chơi Triết Giang, tình cờ gặp một bà lão ngồi khóc ở giữa đường. Vương hỏi căn do bà lão cho cho biết chồng bà ta chỉ để lại một con trai, nay nó phạm tội tử hình, không biết nhờ ai cứu được.
Vương tính khẳng khái. Vương hỏi rõ họ tên rồi xuất tiền túi, tìm cách xoay sở gỡ tội cho. Chàng trai kia được tha, nghe tin Vương đã cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu duyên cớ ra sao, vội tìm đến nhà trọ khóc lóc mà lạy tạ. Vương an ủi:
- Chẳng có duyên cớ gì đặc biệt. Ta chỉ vì thương mẹ già anh đó thôi.
Chàng kia kinh ngạc, nói mẹ mình đã chết từ lâu. Vương cũng lấy làm lạ.
Tối đến, bà lão đến tạ ơn. Vương trách bà nói dối. Bà ta bày tỏ:
- Xin cho thưa thực: tôi chính là con hồ già ở Đông Sơn. Hai mươi năm về trước, có đêm tôi đã ân ái cùng cha hắn. Bởi vậy nay tôi không thể đành lòng thấy hắn chết làm con ma tội lỗi đói khổ.
Nghe mà rợn tóc gáy, nhưng Vương vẫn đáp lễ, định hỏi thăm cho rõ chuyện thì bà lão đã biến mất.
Vợ Vương là người hiền hậu, ăn chay niệm Phật không uống rượu. Nhà có thờ tượng Quan Âm, lúc nào cũng được lau chùi sạch sẽ, đèn hương cúng bái hàng ngày để cầu tự vì chị ta chưa có con trai.
Thần, Phật cũng linh, thường báo mộng dạy điều thiện trách điều ác, vì thế mọi việc trong nhà dường như đều so thần linh chỉ dẫn. Sau khi bệnh nặng, vợ Vương sai dời giường kê vào một góc gian thờ, còn cửa thì cứ đóng im ỉm suốt ngày đêm, dường như có điều gì ẩn dấu. Vương nghi hoặc nhưng lại nghĩ vợ bệnh hoạn mê mẩn, không nỡ trái ý. Nằm liệt hai năm, vợ Vương rất sợ tiếng ồn, thường sai che chỗ nằm kín mít, không cho ai vào. Song lắng nghe kỹ hình như chị ta vẫn chuyện trò to nhỏ cùng ai trong đó. Đến khi mở cửa ra thì chẳng có ai.
Trong suốt thời gian nằm bệnh chị ta không hề tỏ ra lo buồn, duy chỉ ngày ngaỳ sốt sắng giục giã chồng tìm nơi gá nghĩa cho đứa con gái mười bốn tuổi. Gả được con gái xong, chị ta mời chồng lại đầu giường, cầm tay trăn trối:
-Bây giờ đã đến lúc vĩnh biệt. Khi tôi mới ốm, được Bồ Tát báo mộng rằng vận tôi sắp hết nay mai. Tôi còn có điều chưa an tâm là con gái chưa thành gia thất cho nên ngài cho tôi chút thuốc kéo dài hơi tàn đợi con gái về nhà chồng. Năm ngoái đức Bồ Tát từ Nam Hải vể, có để thị nữ Tiểu Mai hầu hạ tôi trong những ngày thoi thóp. Nay tôi chết đi, Tiểu Mai phận mỏng không biết về đâu. Tôi rất thương thằng Bảo Nhi, chỉ sợ sau này chàng lấy phải vợ kế hay ghen thì mẹ con nó mất nơi nương tựa. Vì vậy, Tiểu Mai nhan sắc tươi đẹp, tính nết hiền hòa, mình nên lấy làm vợ kế cho vẹn cả mọi bề.
Bảo Nhi là đứa con trai do người thiếp của Vương sinh ra. Vương nghe vợ dặn dò thế, cho là nói vẩn vơ mới nhủ lại rằng:
- Mình vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói ra những điều lạ lùng như thế, e sàm sỡ gì chăng?
Vợ nói tiếp:
- Tiểu Mai đã quên mình phục dịch tôi hơn một năm nay rồi. Tôi cạn lời cầu cạnh nên Tiểu Mai đã nhận lời.
Hỏi Mai đâu, vợ hỏi lại:
- Không có trong buồng ư?
Vương vừa định hỏi nữa thì vợ Vương đã nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương ngồi một mình bên màn coi thi hài vợ, thoáng nghe trong buồng có tiếng nức nở. Tưởng là ma sợ quá, vội gọi người mở khóa cửa buồng ra xem. Hóa ra đó là một cô gái tuyệt trần, tuổi chừng đôi tám, mặc áo sô ngồi trong đó. Mọi người thấy vậy cho là thần, ai nấy đều cúi lạy. Cô gái lau nước mắt, đỡ mọi người dậy. Vương chăm chăm nhìn, nàng cúi đầu e thẹn. Vương bảo nàng:
- Nếu lời trối trăn của vợ tôi đã khuất không phải là mê sảng thì xin mời nàng lên nhả trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà được làm lễ lạy chào. Nếu không kẻ hèn mọn này đâu dám mơ tưởng hồ đồ mà đành chịu đác tội với vong linh người quá cố.
Nàng đỏ mặt ra khỏi buồng, lên nhà trên thẳng hướng Bắc. Vương sai người hầu đặt lễ hướng về Nam rồi đứng ra làm lễ. Nàng đáp lễ. Rồi thứ tự tùy theo ngôi thứ trong nhà, mọi người ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, đến lượt người thiếp, nàng đứng dậy đỡ.
Từ khi vợ Vương ốm liệt, kẻ ăn người ở trong nhà sinh thói ăn cắp, biếng lười, cho nên gia cảnh có phần sút kém. Khi họ làm lễ xong rồi, đứng nghiêm chỉnh đợi lệnh, nàng truyền bảo:
- Ta vì cảm lòng thành của phu nhân cho nên buộc phải ở lại trần gian để nhận lấy việc lớn mà phu nhân đã ủy. Bọn các ngươi ai nấy đều phài tẩy rửa tâm địa vì chỉ mà gắng gỏi, thì những lỗi trước nay không hỏi đến nữa. Không thế, chớ tưởng rằng nhà này không có người.
Ngước nhìn thấy nàng ngồi uy nghi như pho tượng Quan Âm lại dường như có một làn gió thổi qua, cả bọn nghe gịọng nói mà run sợ, bất giác đều dạ ran một loạt. Nàng cắt đặt việc tang lễ đâu vào đấy.
Từ đó, lớn bé trong nhà không ai dám tắt mắt, trễ nải. Suốt ngày nàng để mắt lo toan xếp đặt sai khiến mọi việc. Mỗi khi Vương cần việc gì, nàng đều lĩnh ý làm trọn. Tuy rằng đêm hôm gần gụi Vương nhưng nàng tuyệt không một lời tình tự nào cả.
Tang lễ xong. Vương muốn nhắc lại lời vợ dặn song không dám nói thẳng, phải nhờ người thiếp ngỏ ý. Nàng nói:
- Tôi đã nhận lời phu nhân căn dặn cặn kẽ. Song việc hôn phối là trọng, không thể cẩu thả sơ sài. Hoàng tiên sinh là bậc bác tôn quý, vừa cao tuổi vừa đức lớn, xin mời cho được người đứng ra làm chủ hôn thì tôi hết sức tuân theo.
Bấy giờ ông Hoàng làm Thái bộc đã về hưu sống ở Nghi Thủy là bậc bằng vai với cha Vương, vẫn thường đi lại thân thiết. Vương thân đến thăm, kể rõ sự tình, cầu ông giúp đỡ, Hoàng tiên sinh lấy làm lạ, bèn đi cùng Vương. Nàng nghe thấy tiếng vội ra lạy chào. Tiên sinh vừa trông thấy kinh ngạc, cho là tiên không nhận lạy.
Nàng trang điểm chỉnh tề để làm lễ cưới. Việc xong Hoàng tiên sinh ra về, nàng đưa tặng gối thêu, giày ấm, đối xử tử tế như cha. Từ đó sự đi lại giữa hai nhà lại càng thân.
Sau lễ hợp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nữ cho nên trong sự yêu thương vẫn có phần cung kính. Thỉnh thoảng Vương dò hỏi cách sống của Bồ Tát, Mai cười mà rằng:
- Anh mà không hiểu đến thế kia ư? Làm gì có Thần Phật đích thực nào mà hạ mình lấy người trầ thế bao giờ.
Vương lại căn vặn nàng từ đâu đến? Mai vẫn cười đùa:
Anh làm gì phải chất vấn kỹ càng đến thế? Đã cho em là thần thì cứ việc sớm tối cung cúc chiều chuộng, tự nhiên em không bắt tội nữa.
Đối với kẻ dưới nàng thường khoan dung song tuyệt đối không nhờn. Con hầu đầy tớ đùa cợt chớt nhả với nhau, thấy bóng nàng là im bặt. Mai cười nhủ rằng:
-Bọn bay cho ta là thần ư? Đâu phải. Ta chính là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại nên bay không biết. Chị ta ốm, nhớ em nên nhờ mụ Vương ở thôn nam gọi đến. Nhưng sợ rằng ngày đêm gần gũi anh rể là điều không tiện cho nên mói nói thác là thần, phải ngồi kín trong phòng chứ đâu phải thực là thần.
Bọn họ không tin hẳn như thế, song hàng ngày hầu hạ ở bên thấy nàng chẳng khác người thường cho nên những điều dị nghị mới hết dần. Tuy nhiên đối với những kẻ ngu độn. Vương vẫn phải đánh mắng mà họ vẫn không sửa được, nay nàng chỉ nói một lời là họ răm rắp nghe theo. Họ thường ca tụng, thực ra thì không có gì sợ hãi nhưng cứ trông thấy mặt nàng là lòng thấy êm dịu, không nỡ làm điều trái ý.
Từ đó, mọi sự trong nhà đều tốt đẹp lên, chỉ mới vài năm ruộng liền bờ, kho đầy dãy. Vài năm sau, người thiếp sinh con gái, nàng cũng đẻ con trai. Đứa con trai lúc mới đẻ đã có một nốt đỏ trên cánh tay, vì thế mới đặt là Tiểu Hồng.
Con đầy tháng tuổi, nàng bàn với chồng sửa tiệc lớn mời Hoàng tiên sinh. Tiên sinh cho quà mừng rất hậu nhưng từ chối không đến vì đã tám mươi tuổi, già yếu không đi xe được. Nàng lại sai hai lão bộc đến khấn khoản mời đi cho bằng được, Hoàng công mới đến. Nàng ẳm con ra vạch tay trái cho ông xem để nói cái ý đặt tên con. Lại hỏi xem đó là điềm tốt hay điềm xấu. Tiên sinh cười nhủ rằng:
- Vết đỏ là điềm tốt. Có thể thêm một chữ vào tên gọi là Hỉ Hồng.
Nàng rất vui mừng, sai sửa đại lễ, nhã nhạc vang lừng, họ hàng thân quý đến đông như chợ. Hoàng công lưu lại ba ngày mới về.
Sau đó, bỗng có một chiếc xe ngựa xịch đến ngoài cổng đón nàng về chơi nhà. Ai nấy đều lấy làm lạ, xôn xao bàn tán vì đã hơn mười năm nàng về đây, tuyệt nhiên không thấy có họ hàng thân thích nào lui tới. Song nàng không để ý, chỉ sửa soạn hành trang, ẵm con vào lòng bảo Vương theo tiễn. Đi trước chừng ba chục dặm đến chỗ không có bóng người nào, nàng dừng xe bảo Vương xuống ngựa, đứng vào bên đường, buì ngùi bảo chồng:
- Chàng ơi! Sum họp sao mà ngắn ngủi, chia ly mới thật lâu dài. Chàng có đau lòng vì nỗi cách biệt không?
Vương hoảng hốt hỏi có điều gì, nàng hỏi lại:
- Chàng có biết em là người thế nào chăng?
Đáp: không biết. Nàng lại hỏi:
- Ở Giang Nam chàng cứu một người bị tội chết. Việc ấy có không?
Đáp:có. Lúc ấy nàng mới bày tỏ:
- Bà lão khóc bên đường chính là mẹ em. Vì cảm cái nghĩa ấy muốn tìm cách đền đáp, cho nên nhân dịp phu nhân ham thờ Phật mà em phải giả làm thần, cốt để đem em mà đền cho chàng đó thôi. Nay may sinh được đứa con này, ước mong thế là toại. Em xem chàng vận xấu đã tới. Thằng này nếu để ở với anh sợ không nuôi được. Vì thế em phải mang theo để tránh tai ách cho nó. Xin anh nhớ lấy: khi nào trong nhà có người chết vì dịch tả, cứ gà gáy lần thứ nhất anh đến rặng liễu bờ sông Tây Hà, thấy người nào cầm đèn hoa quỳ cứ bên đường cầu khấn thì có thể thoát nạn.
Vương xin ghi lòng tạc dạ. Lại hỏi ngày nào trở lại, nàng đáp:
- Không thể nào biết trước được, song cẩn thận nhớ kỹ lời em thì ngày tái hợp cũng không ngại xa.
Phút chia ly hai vợ chồng cầm tay nhau khóc ròng. Nàng lên xe, vụt đi như gió. Vương nhìn theo hút bóng, lâu lâu mới lủi thủi quay về.
Sau đó dăm bảy năm Tiểu Mai vẫn bằng bặt tin tức. Rồi bỗng bệnh dịch tràn lan khắp nơi, người chết như ngã rạ. Một con ở trong nhà bi bệnh ba ngày rồi chết. Vương vẫn nhớ lời Tiểu Mai dặn dò, song hôm ấy có khách uống rượu say quá, quay ra ngủ mất. Tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy Vương vội vàng choàng dậy ra bờ liễu trên đê, quả nhiên thấy có ánh đèn le lói song đã đi xa rồi. Chàng vội vã đuổi theo, đã tới gần trăm bước, nhưng từ đấy càng đuổi theo ánh đèn càng xa cho đến khi mất hút. Vương buồn bực quay về được vài ngày cũng bị lây bệnh chết.
Họ hàng nhà Vương có nhiều kẻ vô lại, được thể nhà Vương con côi vợ góa, chúng hè nhau công nhiên tranh giành phá phách bòn rút tài sản. Chẳng bao lâu gia cảnh sa sút hẳn. Năm sau Bảo Nhi cũng chết nốt, cửa nhà thành ra vô chủ, bọn họ hàng lại càng ngang ngược chiếm đoạt. Trong nhà chuồng ngựa chồng trâu đều đã trống trơn, chúng lại còn định chia nhau nhà, đuổi người thiếp của Vương đi. Nguời thiếp không chịu, chúng hè nhau kéo đến bắt lấy đem đi bán. Chị ta thương con gái còn nhỏ, hai mẹ con ôm nhau kêu trời kêu đất khóc vang dậy, khiến cho cả làng cũng động lòng thương.
Đang lúc nguy nan ấy, chợt thấy ngoài cổng có tiếng xe ngựa xịch vào sân. Tiểu Mai dắt con trai từ trong xe đi ra. Người đứng xem rối rít chạy dạt ra như vỡ chợ. Nàng hỏi có chuyện gì, người thiếp kể lại ngọn nghành. Nàng biến sắc mặt, sai người hầu đóng ngay cổng, khóa chặt laị. Bọn vô lại định chống cự nhưng tự nhiên chúng thấy chân tay bủn rủn. Nàng ra lệnh trói hết chúng mỗi tên vào một cột, mỗi ngày chỉ cho vài bát cháo loãng, lại phái ngay một lão bộc phi ngựa đến nhà Hoàng tiên sinh. Rồi lúc ấy mới vào trong nhà khóc chồng thảm thiết. Sau đó nàng ngậm ngùi than thở với người thiếp:
- Kể thật không may, âu số trời là vậy. Tháng trước giáp dịp chàng bị nạn, đột ngột mẹ tôi ốm nặng, tôi phải đến thăm gấp, tới vẫn chưa hề chợp mắt. Bây giờ về đến nhà, chàng đả thành nhiều thiên cổ!
Lại thấy cửa nhả vắng bóng con hầu đầy tớ, hỏi ra đều bị bọn vô lại chia nhau cướp mất, nàng càng sụt sùi thương cảm. Vài ngày sau, gia nhân nghe tin nàng trở lại, tất thảy đều trốn về. Chủ tớ gặp nhau không ai không rơi nước mắt.
Bọn vô lại bị trói đã hoàn hồn, hè nhau kêu thằng bé không phải là con Vương Mộ Trinh. Nàng chẳng thèm đối lời. Không lâu, Hoàng tiên sinh lọn khọm đến. Nàng dẫn con ra mắt ông. Ông cầm tay thằng bé, vạch tay áo lên nốt son hãy còn y nguyên. Ông chỉ cho bọn vô lại thấy tận mắt. Đoạn ông tra hỏi cặn kẻ về những của đã mất, những đứa đã chiếm, biên hết vào sổ đem cáo lên quan. Quan huyện cho bắt tất cả bọn chúng, đánh suốt một lược mỗi tên bốn chục roi, ra lệnh phải bồi hoàn. Ruộng đất trâu bò từ đấylại trở về chỗ cũ.
Ông Hoàng sắp về, nàng dẫn con ra, khóc mà thưa:
- Con không phải là người thế gian, điều đó ông đã rõ. Nay xin đem đưa đứa con côi này giao lại cho ông.
Ông Hoàng buồn rầu đáp:
- Già này chỉ còn sống ngày nào biết ngày ấy, sao có thể cáng đáng được.
Ông Hoàng về rồi, nàng sắp đặt lại công việc đâu ra đấy giao thằng bé cho người thiếp rồi sửa soạn lễ vật ra mộ cúng chồng.
Nửa ngày sau chưa thấy nàng về, người nhà ra xem thấy lễ vật còn đấy mà nàng đã đi đâu.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢKhông để người phải tuyệt tự, người cũng không nỡ để mình không còn nối dõi. Đó là việc người, song cũng là việc trời.
Con như những ông bạn hiền ngửa nghêng chén chú chén anh tưởng chừng áo cừu ngựa đẹp có thể cùng nhau chia xẻ. Song cho đến khi nấm cỏ xanh rì, vợ con sa sút thì tất cả những kẻ chung ngựa độ nào đều lẳng lặng biến mất.
Bạn chết không nhẫn tâm quên, ân nghĩa còn lo báo đáp, có phải chỉ riêng người mới thế đâu. Loài hổ cũng còn biết vậy chứ không có cái thói:


Khi nào tiền đủ gạo đầy
Thì em ở lại sửa giày cho anh.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
TẤM GƯƠNG HIỆN HÌNH
(Phượng Tiên)
Lưu Xích Thủy người Bình Lạc, thuở trẻ vừa thông minh vừa đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện (theo chế độ khoa cử thời ấy, vào trường học huyện là có trình độ tú tài). Cha mẹ mất sớm, anh ta mãi mê chơi bời, bỏ học. Gia cảnh cũng chẳng có gì mà tính lại thích chải chuốt chưng diện, giường chiếu, chăn đệm nhất nhất đều là những của tốt đẹp, tinh xảo.
Một tối, Lưu được người ta kéo đi ăn uống, vội quên tắt đèn. Rượu được vài tuần, sực nhớ ra, anh ta quay về nhà, chợt nghe trong buồng mình có tiếng rì rầm. Lưu nấp dòm xem, té ra một chàng trai đang ôm cô gái đang nằm trong giường. Căn nhà nhà vốn là phủ đệ của một nhà quyền quý đã bỏ phế, thường xảy ra nhiều quái dị. Anh ta biết đôi trai gái kia là hồ ly tinh nhưng cũng không sợ, xông vào quát lên:
- Giường ta nằm để bay đú đởn hả?
Hai bóng người hoảng hốt vùng dậy, ôm áo, trần như nhộng chạy trốn. Trên giường còn xót lại cái quần lụa tía, trên dải còn đính cái bao kim, song đề phòng bị lấy trộm, liền dấu vào trong chăn ôm khư khư lấy.
Chỉ lát sau, một con hầu đầu tóc rối bời, len lén bước vào phòng, nằn nì xin Lưu trả lại của ấy. Lưu cười, đòi phải có cái gì chuộc. xin chuộc bằng rượu: không ưng. Bằng vàng: cũng không ưng. Con hầu dường như bắt được ý quay ra. Lát sau trở lại:
- Cô cả tôi bảo: Nếu cậu bằng lòng cho lại thì xin hiến cậu vợ đẹp.
Lưu vội hỏi:
- Ai thế?
- Nhà chủ tôi họ Bì. Cô cả là Bát Tiên. Cái người nằm với cô cả tôi đây là chồng cô, họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên, lấy quan nhân họ Đinh ở Phú Xuyên. Cô ba là Phượng Tiên, so với hai cô còn đẹp hơn nhiều, thực không chê vào đâu được. Đáng lắm!
Lưu sợ nuốt lời, đòi phải giao ước rõ ràng ngay. Con hầu quay về khá lâu, trở lại trả lời:
- Cô cả tôi nhắn với cậu: việc đại sự tốt lành đâu có phải vội vã được. Cô tôi vừa nói với cô Ba, đang bị cự lại. Xin nấn ná đợi cho ngày một ngày hai. Nhà chúng tôi không phải là loài chỉ cốt hứa cho xong việc mà coi nhẹ chữ tín đâu.
Lưu nghe vậy cũng tin liền trao lại cái quần tía. Đã qua mấy ngày rồi mà vẫn chưa thấy hồi âm. Sẩm tối Lưu ra ngoài trở về, vừa đóng cửa sổ ngồi chơi, bỗng hai cánh cửa tự mở toang ra: hai người, bốn tay túm bốn góc chăn, khiêng một cô gái nằm thu lu ở giữa. Họ đặt tất cả lên giường nói:
- Chúng tôi đưa cô dâu tới đây!
Đoạn quay trở ra ngay.
Lưu lại gần ngó xem : một cô gái nõn nà đang ngủ mê ngủ man miệng sặc mùi rượu, mặt ửng màu say. Còn ước gì hơn nữa, chàng ta cầm lấy tay, rút bít tất, cởi giải quần và ôm lấy cô ta. Mà cô gái thì đã hơi tỉnh, hé mắt nhìn thấy Lưu chân tay như bủn rủn ra, song vẫn có vẻ hận, lẩm bẩm:
- Cái con đĩ Bát Tiên, nó bán rẻ ta thế này!
Lưu ôm ấp vuốt ve cô gái. Cô ta ngán thịt da hở lạnh, mỉm cười đọc:





Đêm nay là đêm gì đây?
Gặp chàng mê mải thế này chàng ơi!

Lưu tiếp:


Nàng ơi! Nàng ơi! Nàng ơi!
Gặp ta mát mẻ sự đời thế nao? (1)
Vào cuộc giao hoan rồi, nàng còn ca cẩm:
- Cái con vô sỉ đã làm bẩn giường người, lại còn đem ta đổi lấy cái quần. Được rồi! Thế nào cũng phải báo thù.
Từ đó tối nào cô ta cũng đến chăn gối với Lưu, thật là đằm thắm. Một hôm cô ta lấy trong tay áo ra một cái xuyến vàng, bảo Lưu:
- Của Bát Tiên đấy!
Mấy hôm sau lại đem đến một đôi giày thêu vàng, dát hạt châu cực kỳ tinh xảo, nhủ Lưu cứ đưa ra khoe vung lên khắp bạn bè thân thích (như một chứng cứ người chủ giày đã có tư tình với mình). Những người đến xem đều mang rượu làm lễ tiếp kiến, do đó vật lạ cứ truyền tụng rộng mãi.
Tối đó, bỗng Phượng Tiên đến từ biệt. Lưu hỏi lý do. Đáp:
- Bà chị vì việc mấy giày mà giận em cho nên có ý địch dọn nhà đi xa để cách chia em cho tiện.
Lưu hoảng, có ý muốn trả lại giày. Cô gái can:
-Việc gì phải thế? Chị ta làm vậy hòng uy hiếp em. Trả lại là trúng mưu đồ đấy.
- Sao em không thể ở lại một mình?
- Cha mẹ em đi xa, nhà hơn mười miệng ăn đều trông cậy vào một tay anh Hồ xoay vật. Nếu em không đi e đầu lưỡi không xương đớm đặt trắng đen nhiều chuyện.
Từ đó cô ta không đến nữa. Hai năm trôi qua, nỗi tưởng nhớ trong Lưu ngày càng da diết. Tình cờ hôm ấy trên đường Lưu gặp một cô gái cưỡi ngựa có lão bộc giong cương, len sát vào người Lưu mà đi. Cô gái lật cái khăn lụa che mặt mà liếc nhìn Lưu, phong tư đẹp vô ngần. Lát sau một anh chàng trai trẻ đi cùng cô ta cũng vừa đến. Lưu bắt chuyện:
- Cô nào thế? Có vẻ đẹp đấy!
Lưu còn khen nức nở hồi lâu. Chàng trai chắp tay khiêm tốn cười:
- Anh khen quá đấy! Đó là người vợ hèn của tôi đó.
Lưu giật mình ngượng ngùng tạ lỗi. Chàng trai ôn tồn.
Không hề gì. Song Nam Dương có ba ông Cát thì anh chiếm được “rồng” rồi (2). Cứ bo bo giữ lấy một mình thì còn đáng nói gì nữa.
Lưu đã ngờ ngợ về điều anh chàng ấy mới nói. Anh lại nói tiếp:
- Anh có nhận ra kẻ nằm vụng ở giường anh độ nào không?
Lúc ấy Lưu mới biết đó là anh chàng họ Hồ, anh em đồn hao với mình. Thế là hai người trò chuyện, đùa cỡt rất vui. Hồ lại hỏi Lưu:
- Tôi đi thăm nhạc gia đây, chú có cùng đi được không?
Lưu được lời như cởi tấm lòng, theo ngay chàng ta đến vùng Vinh Sơn- trên núi trước đây có người tỵ nạn đến ở. Cô gái xuống ngựa vào trong nhà. Lát sau có mấy người ta nghiêng ngóng trông chừng, vào báo:
- Cả Lưu quan nhân cũng đến!
Khi vào chào hỏi ông bà nhạc, Lưu thấy ở đó có một chàng trẻ tuổi mặt áo bào, đi giày cao cổ bốt lóng loáng. Ông giới thiệu:
-Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên.
Hai người vái chào nhau, an vị. Lát sau cỗ bàn bày ra ngổn ngang, mọi người nói cười hồ hởi. Ông cụ đề xướng:
- Hôm nay cả ba chàng rể cùng đến, có thể gọi là cuộc tụ hội đẹp đẽ. Không có ai là khách lạ, có thể gọi cả bọn con gái ra đây, mở một đại hội đoàn viên.
Lát sau cả ba chị em cùng ra. Ông xếp đặt chỗ ngồi, vợ nào cạnh chồng ấy. Bát tiên trông thấy Lưu cứ che miệng cười khúc khích. Phượng tiên cũng theo đà mà giễu cợt. Chỉ có Thủy Tiên là ra vẻ trầm ngâm, khắc khổ, mọi người cười nói hể hả, cô ta chỉ mủm mỉm. Rượu vào không khí vui mỗi lúc một bốc, giày dép lẫn lộn lung tung, mùi hương bay lan xạ tỏa ra sực nức.
Trên đầu giưòng đã thấy bày sẵn các loại nhạc cụ. Lưu rút ra cây sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông nhạc. Ông cụ ra lệnh, ai chơi được thì cứ cầm lấy thứ ấy. Thế là mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên bảo Phượng:
- Chú Đinh không sành thì còn được, chứ mày sao lại không động ngón tay?
Rồi nhặt cái phách ném vào lòng Phượng. Tiếng tơ tiếng trúc đan nhau nổi lên. Ông cụ vui bụng lắm, nói:
- Tài nhạc người nhà ta tuyệt lắm! Bọn các con đều biết múa hát, ai có ngón gì sao không trổ hết ra?
Bát Tiên đứng luôn dậy bảo:
- Xưa nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám để vất vả đến cô ấy. Còn hai chị em ta có thể cùng ca khúc Lạc Phi. (nữ thần sông Lạc)
Hai chị em cùng múa hát xong, con hầu bưng ra một mâm hoa quả lạ, không ai biết thứ gì. Ông cụ cho biết:
-Đây là quả “Điền Bà La” (không biết quả gì, âm từ Hán- Việt) đem từ Chân Lạp sang.
Rồi cụ cầm luôn mấy quả đặt trước mặt Đinh. Phượng Tiên thấy thế có vẻ không vui:
- Đối với con rể sao cha lại có thể phân ra giàu nghèo mà yêu ghét?
Ông cụ chưa kịp nói thì Bát Tiên đã vội phân bua hộ:
- Đây là chú Đinh ở huyện khác, cha coi là khách nên mới xử sự thế. Còn nếu bàn về ngôi thứ cao thấp ấy mà, đâu phải chỉ có em Phượng mới có chồn nghèo khó chai tay.
Phượng Tiên cuối cùng vẫn không vui. Nàng cởi áo hoa, trao trống phách cho con hầu rồi cất gịọng hát một đoạn khúc “Phá dao” (3). Vừa hát nước mắt vừa ứa xuống. Hát hết đoạn, phát tay áo đi ra. Bài hát và cử chỉ ấy làm cả nhà mất vui. Bát Tiên nói:
- Cái con ấy vẫn còn hay hờn dỗi như trẻ con.
Đoạn đuổi theo song không biết cô ta đã đi đâu mất. Lưu tái mặt cũng từ tạ ra về. Đến nửa đường thấy Phượng Tiên đang ngồi bên vệ đường. Nàng cất tiếng gọi chàng đến ngồi bên cạcnh mà bảo:
- Một trang nam tử như anh mà không thể giúp cho người đầu ấp tay gối nguôi hận được sao? “Tự trong sách đã có nhà vàng” (4) xin anh làm được như người ấy. Rồi giơ chân lên bảo Lưu:
- Em ra khỏi nhà vội quá, gai đâm nát cả giày rồi. Đôi giày thêu em đưa cho anh ngày trước ấy, anh có mang bên mình không?
Lưu vội lấy ra đưa cho nàng thay rồi xin lại đôi rách. Nàng mủm mỉm:
- Cái anh này chẳng được tích sự gì! Dễ thường cả những đồ dùng khi chăn gối anh cũng lưu làm kỷ niệm chắc? Thôi, nếu anh có nhớ em, xin tặng một thứ này.
Nàng trao cho Lưu một tấm gương và dặn:
- Muốn thấy mặt em thì phải đang lúc đèn sách bài vở. Nếu không đừng hòng bao giờ em đến!
Nói đoạn đã không thấy nàng đâu nữa.
Lưu ủ ê trở về. Giơ gương ra thấy bóng Phượng Tiên đứng quay lưng lại, cứ như người đi đường ở ngoài tầm trăm bước. Nhớ đến lời dặn của nàng, Lưu buông rèm tạ khách, một mình chăm chỉ học hành. Hôm khác đem gương ra coi: nàng đã quay mặt trở ra môi mấp máy như muốn cười. Lưu càng yêu quý tấm gương, lúc vắng không có ai lại lấy gương ra đối mặt với nàng cho đỡ nhớ. Được hơn một tháng, ý chí dần suy giảm, chàng ta lại bỏ đi chơi hoài, trở về giở gương ra xem, nét mặt nàng bỗng trở nên ảm đạm như muốn khóc. Hôm sau xem lại, bóng đứng quay lưng như trước. Lúc ấy mới hiểu, đó là bóng nàng không bằng lòng với việc chàng trễ biếng. Từ đó chàng đóng cửa nghiền ngẫm kinh sử, ngày đêm miệt mài. Qua hơn một tháng, bóng quay mặt lại. Từ đấy nghiệm thấy: hễ chàng lơ là đèn sách thì bóng buồn, học hành chăm chỉ thì bóng cười vui. Thế là chàng treo hẳn gương trước mặt, coi như là một thầy giáo phụ vậy. Cứ thế hai năm, chàng đi thi đỗ luôn. Chàng mừng quá nghĩ bụng:
- Phen này có thể giáp mặt Phượn Tiên của ta rồi.
Đem gương ra coi: nét ngài cong cong, răng ngà hé lộ, dáng mừng rỡ, khuôn mặt yêu thương hiển hiện trước mắt. Tưởng nhớ đến cồn cào, chàng cứ chăm chăm nhìn không chớp mắt. Thốt nhiên người trong gương nhoẻn miệng cười lên tiếng:
- Bây giờ mới đúng là: người yêu trong trnh, tình nhân rõi bóng. Lưu giật mình mừng rỡ, nhìn khắp bốn bề thì Phượng Tiên đẽ đứng sau. Chàng nắm tay hỏi thăm tin tức ông bà nhạc. Nàng đáp:
- Từ buỗi chia tay ấy, em chưa từng về nhà mà cứ nương náu chốn hang động núi non những mong cùng chàng chia sẻ nỗi vất vả.
Lưu đi dự yến mừng ở quận, cô gái xin được đi theo, lúc hai người ngồi xe mà không ai thấy mặt nàng. Lúc sắp về, nàng bàn riêng với Lưu giả như làm lễ cưới ở quận. Đến khi trở về nhà nàng mới ra tiếp khách; chăm sóc việc nhà. Ai nấy cũng kinh ngạc về sắc đẹp tuyệt thế mà tuyệt nhiên không một ai biết nàng là hồ ly.
Lưu ra làm việc quan dưới quyền quan lệnh Phú xuyên cho nên phải đến yết kiến. Chàng gặp lại Đinh, được anh ta mời về nhà khoản đãi rất trọng hậu rồi bảo Lưu:
- Gần đây ông nhạc chuyển đi nơi khác. Nhà tôi đi thăm cũng sắp trở về. Ta nên gửi thư báo để họ cùng đến chúc mừng chú.
Lúc đầu, Lưu tưởng Đinh cũng là hồ, khi hỏi thăm kỹ họ hàng quên quán mới biết anh là một nhà buôn bán lớn ở Phú Xuyên. Nguyên trước đây, Đinh từ một hiệu sách trở về nhà, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy cô ta đẹp mới đưa mắt liếc nhìn. Cô ta xin ghé đi nhờ ngựa. Đinh vui lòng cho đi và chở luôn về nhà học cùng ăn cùng ở. Cô ta có thể lách qua khe chấn song mà vào, lúc ấy Đinh mới biết là hồ ly. Cô ta bảo:
- Chàng chớ nghi ngại. Em thấy chàng là người thành thực rất mực cho nên em tình nguyện gửi mình nương tựa.
Đinh yêu cô ta, không lấy ai nữa.
Lại nói về Lưu về đến quê, mượn một ngôi nhà rộng của nơi quyền quý, thu xếp đủ chỗ cho khách ăn nghỉ. Cửa nhà đã quét dọn sửa sang sạch sẽ, song Lưu còn loay hoay về việc tiệc tùng trần thiết. Qua một đêm, sáng ra đã thấy nhà cửa được trang hoàng bày tiệc lộng lẫy. Mấy ngày sau, quả có đoàn người hơn ba mươi người, trương cờ, khiêng rượu chè lễ vật đến, xe ngựa ngổn ngang đậu đầy đường ngõ. Lưu vái chào ông nhạc và hai ông anh đồng hao Đinh và Hồ, dẫn họ và nhà khách. Phượng Tiên đón mẹ và hai chị gái vào nhà trong.
Bát Tiên mào đầu:
- Thôi nhé! Con bé này đã lên bà rồi, đừng oán mụ mối nữa đấy. Xuyến với giày của tao còng không?
Phượng lục ra đưa lại, trả miếng:
- Giày thì vẫn còn đây, nhưng hàng nghìn con mắt đã ngắm nhìn nhão ra rồi.
Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng:
- Chị đánh mày để gửi truyền cho chú Lưu đấy, nghe chưa?
Rồi ném giày ra cửa mà chúc rằng:


Lúc mát như hoa nở
Khi cũ tựa hoa tàn
Trân trọng chưa dùng đến
Hằng Nga đã mượn luôn.
Thủy Tiên cũng chúc thay:


Đã từng luồn chân ngọc
Bước ra muôn người khen
Nếu để Hằng Nga mượn
Hẳn thương anh trò hèn.

Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:


Đêm đêm lên trời biếc
Một sớm tìm chốn vui
Lưu lại bóng nho nhỏ
Để khắp thế gian coi.


Rồi vun tro vào giữa mâm, cao đến vài đốt tay. Trông thấy Lưu, nàng bưng tặng: hóa ra đầy một mâm giày thêu, hệt như đôi giày trước đây. Bát tiên vội bước ra hắt mâm đổ xuống đất, chỉ còn lại vài chiếc nguyên. Nàng phục xuống đất mà thổi, lúc ấy giày mới tan biến, không còn dấu tích gì.
Mâý ngày sau, lấy cớ đường xa, hao vợ chồng Đinh về trước. Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông cụ và chồng phải thúc giục mấy lần, đến đúng ngọ nàng mới cùng mọi người ra về.
Lúc họ mới kéo đến, linh đình rầm rộ quá, người theo coi đông như chợ. Có hai tên cướp trông thấy Bát Tiên và Thủy Tiên đẹp quá, say chết mê chết mệt. Chúng âm mưu đón đường để cướp. Khi đó thấy họ về, chúng đuổi theo. Cách nhau độ tầm tên thì xe họ chạy cực nhanh, chúng không theo kịp. Đến một chỗ hai bên vách đá giáp đường, xe đi hơi chậm, lúc ấy chúng mới đuổi kịp, huơ đao mà hò hét hâm dọa. Mọi người tùy tùng đều bỏ chạy cả. Một tên cướp xuống ngựa mở rèm, trong xe chỉ có một bà già. Đang ngờ là nhắm nhầm bà mẹ, vừa định quay hướng khác liền bị dáo chém vào cánh tay phải và bị trói ngay tại chỗ. Nó định thần lại thì chung quanh không phải là núi, mà là cổng thành Bình Lạc. Bà mẹ ngồi trong xe chính là mẹ Lý tiến sĩ từ quê ra. Tên cướp đi sau cũng bị chặt chân ngựa và bắt trói vào cổng thành. Ông Lý bắt nộp quan Thái thú. Tra hỏi thì ra chính tên vừa bị bắt là một tên đại bợm đang bị truy nã.
Lại nói về Lưu. Mùa xuân năm sau chàng thi hội đỗ luôn tiến sĩ. Phượng Tiên thấy việc vừa xảy ra cũng lo không khéo rước lấy tai vạ cho nên hết lời từ tạ xin thân bằng cố hữu khỏi đến mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác. Chỉ đến khi làm quan thị lang thì mới mua thiếp, đẻ được hai con trai.

LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Than ôi! Thói đời sớm nắng chiều mưa, tiên hay trần cũng không khác nhau mấy. “Trẻ không gắng sức, già hối chẳng kịp”, tiếc rằng không có giai nhân hiếu thắng làm bóng trong gương để mà vui mà buồn vậy! Tôi mong có được hằng hà sa số bậc tiên sai con gái xuống lấy người trần thế thì cái bể bần cùng sẽ bớt những chúng sinh khổ sở . ( hàm ý nói về cảnh học trò)

(1) Nguyên văn mấy câu này trong Kinh Thi? “Kim tịch hà tịch, kiến thử lương nhân? Tử hồ tử hề, kiến thủ lương nhân hà? (Đêm nay là đêm gì mà ta gặp chàng đây? Nàng ơi, nàng ơi! Như vậy thì chúng ta thế nào). Trong truyện, tác giả để cho nhân vật dùng lối chơi chữ: “chữ “lương” trong “lương nhân” nguyên là “người lành” “chàng- vợ gọi là chồng” thành “lương” là “mát” do sự lạnh da thịt vì hở.
(2) Thời Tam Quốc ở Nam Dương có ba anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát đàn và Gia Cát Lượng (tục gọi là tam Cát) làm quan phò tá ba nước Ngụy, Thục và Ngô. Vì Gia Cát Lượng ở Thục là người có tài năng nhất cho nên người đương thời bảo “nước Thục được rồng”
Ở đây muốn ẩn dụ: Lưu được Phượng Tiên là cô đẹp nhất trong ba chị em.
(3)khúc Phá dao: Nói đầy đủ là khúc: “Lã Mông Chính phong tuyết phá dao lý” (bài ký Lã Mông Chính ở nhà hang trong cảnh gió tuyết) tức là Vương Thực Phủ thời Nguyên. Lã Mông Chính người đời Tống, thuở bé bị cha hắt hủi đuổi đi phải vào ở trong cái nhà hang đào trong núi, vô cùng cực khổ, sau làm quan đến tể tướng.
Hát khúc này Phượng Tiên có dụng ý cảm thán cho cảnh riêng vợ chồng mình.
(4) Nguyên văn là câu thơ cổ “Thư trung tự hữu hoàng kim ốc” ý nói học trò giỏi tất được giàu sang.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
Nghĩa Khí Cải Hóa Hồn Ma
Nhiếp Tiểu Thiện
Ninh Thái Thần người Triết Giang, tính tình khảng khái, chính trực, tự trọng. Chàng thường tuyên bố với mọi người:
- Ngoài vợ chính ra bình sanh không biết đến người đàn bà thứ hai.
Có việc đi Kim Hoa, Ninh đến vùng cổng Bắc, đặt hành trang ở một ngôi chùa. Trong chùa, điện tháp như không có dấu chân người qua lại. Hai ngôi nhà tăng bên đông và bên tây, cánh cửa khép hờ, chỉ có căn nhà nhỏ phía nam, khóa cửa còn mới. Ở ngoài góc đông điện có rặng tre, cây to bằng chét tay, phía dưới là một cái ao lớn, mặt ao hoa súng nở rộ. Ninh đã có ý thích nơi thanh u này. Dịp này phủ sở tại mở khoa thi khảo thường kỳ, trong thành giá cả ăn ở đắt đỏ, cho nên Ninh quyết ở đây cho tiện.
Nghĩ thế, Ninh dạo bước quẩn quanh, đợi nhà sư về. Trời đã sẩm tối, một sĩ nhân đến, mở cửa căn nhà phía nam. Ninh bước tới chào hỏi và nói rõý định của mình. Sĩ nhân nói:
- Nhà này không có chủ, tôi cũng chỉ là một người ở ngụ. Nếu anh không chê cảnh hoang vắng, sớm tối tôi được chỉ giáo thì hay lắm!
Ninh mừng, trải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Tối hôm đó trăng cao lồng lộng, trời trong như gương, hai người bạn mới quen kề đùi gác vế dưới mái hiên, chuyện trò thân thiết. Hỏi đến tên họ, sĩ nhân đáp:
- Tôi họ Yến tên là Xích Hà.
Ninh cứ tưởng anh ta là thí sinh đợi thi, song nghe tiếng không phải là người Triết Giang, hỏi ra quê ở mãi Thiểm Tây. Cứ xem cung cách nói năng thì anh ta là người chất phác thật thà. Chuyện vãn đã cạn, hai người chia tay đi nghỉ.
Ninh lạ nhà, mãi không ngủ được, chợt nghe phía bắc nhà có tiếng rì rầm như có người nói chuyện. Chàng vùng dậy, nấp bên cửa sổ đá, ghé mắt nhòm qua. Thì ra bên ngoài tường ngăn đá ấy còn có một ngôi nhà nhỏ, một người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi và một mụ vú đang chuyện trò với nhau dưới ánh trăng. Mụ vú già lưng còng, dáng điệu lọm khọm, mặt một cái áo cũ màu hồng bợt bạt, búi tóc gài lược to ( phục sức kiểu cổ). Người đàn bà ca cẩm:
- Con Tiểu Thiện sao mãi không thấy đến?
- Ta cứ đợi, nó sẽ đến đấy. - Mụ vú đáp.
Nó có ca thán gì với mụ không?
- Con bé ấy, không việc gì phải nể nang lắm đâu.
Nói chưa dứt lời thì một cô gái trạc tuổi mười bảy, mười tám đến, trông loáng thoáng có vẻ xinh xắn. Mụ vú cười bảo:
- Không nên tán chuyện người sau lưng. Hai chúng ta đang nói về mày, thế mà cái con tiểu yêu này lẻn đến lúc nào lẹ thế, không một tiếng động. May mà chúng ta không nói gì xấu.
Lại nịnh:
- Ôi tiểu nương tử mới xinh tươi như người trong tranh vậy. Giả sử thân già này là đàn ông ắt hẳn cũng bị bắt mất hồn luông rồi.
Tiếng cô gái:
- Vú mà không tán thơm tôi thì còn có cái gì để mà nói tốt nói đẹp.
Rồi không rõ họ còn nói với nhau những gì. Ninh cho đó chỉ là người trong gia đình hàng xóm, cho nên không buồn nghe nữa, quay vào đi nằm. Lát sau, tất cả lại yên ắng, không còn tiếng rì rầm trò chuyện.
Ninh đang ngà ngà sắp ngủ, bỗng cảm thấy có người vào chỗ nằm của mình, vội vùng dậy xem ai thì hóa ra cô gái lúc nãy ở bên nhà phía bắc. Chàng sửng sốt hỏi, cô gái cười và trả lời:
- Đêm trăng không ngủ được, xin đến chung tình.
Ninh nghiêm sắc mặt:
- Cô phải phòng điều dị nghị mà tôi thì sợ lời cười chê. Chỉ có một bước lỡ chân, còn đâu là liêm sỉ.
Cô gái năn nỉ:
- Đêm hôm ai biết đấy là đâu?
Ninh lớn tiến, nhưng cô gái cứ lần lựa, dường như còn muốn nói điều gì. Ninh phải quát lên:
- Cút ngay, không tôi kêu to cho người học trò bên kia biết.
Cô gái có vẻ sợ, lùi ra đến ngoài cửa. Rồi lại vào đặt một thoi vàng lên chỗ nằm. Ninh cầm quẳng ra sân:
- Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ra.
Cô gái thẹn, quay ra nhặt lấy vàng, lẩm bẩm một mình:
- Anh này là sắt đá hay sao ấy!
Sớm hôm sau, có một người học trò ở Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ đến trọ đợi thi, ngụ ở mái đông chùa, tối đến đột nhiên chết, bắp chân có một lổ nhỏ như dùi đâm, máu rỉ ra. Không ai biết là duyên cớ vì đâu? Tối sau, người đầy tớ chết nốt, cũng có những vết tích như vậy.
Buổi chiều Yến về, Ninh hỏi tại sao hai người thiệt mạng. Yến cho là yêu tinh. Ninh vốn là người khí phách cương trường, không cho là phải. Nửa đêm cô gái lại mò đến, bảo Ninh:
-Tôi đã từng trải nhiều người, không ai có lòng dạ sắt đá như anh đâu. Chàng thật là bậc thánh hiền, tôi không dám lừa dối. Tôi họ Nhiếp tên là Tiểu Thiện, chết yểu năm mười tám tuổi, chôn ở cạnh chùa. Tôi bị yêu tinh cưỡng ép phải làm những điều kinh tởm hèn hạ, mặt dạn mày dầy với mọi người, thực lòng chẳng vui thú. Nay trong chùa không còn ai giết đượcnữa, sợ chính quỷ Dạ Xoa sẽ hại tới chàng.
Ninh cả kinh, hỏi cách thoát thân. Cô gái mách:
-Chàng cứ ngủ chung một nhà với Yến sinh là yên.
Hỏi:
- Sao không dám mê hoặc Yến sinh?
- Ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần.
Vậy cô mê hoặc người ta thế nào?
- Ai ôm ấp tôi, tôi giấu dùi đâm vào chân, người đó lập tức mê đi rồi hút máu cho yêu tinh uống. Hoặc đưa cho vàng, thực không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát để kiếm cớ lưu lại rồi moi hết tim gan. Hai cách ấy làm được cả thì tốt nhất.
Ninh ngỏ lời cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào thời gian nào? Cô gái mách: đêm mai. Đến khi từ biệt, người con gái khóc mà rằng:
- Thiếp rơi vào bể khô, muốn tìm lên bờ mà không được. Chàng là người nghĩa khí, ắt có thể cứu thiếp qua khỏi khổ nạn. Chàng có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp, như thế cũng có thể ví với ơn tái tạo.
Ninh khẳng khái nhận lời và hỏi mộ cũ. Trả lời:
- Ở chỗ cây bạch dương, trên ngọn có quạ làm tổ.
Nói đoạn ra cửa vụt biến mất.
Hôm sau, Ninh sợ Yến đi vắng, ngay từ sớm đã mời Yến sang chơi, sửa soạn cơm rượu cùng ăn để lưu Yến lại. Ninh còn rủ ngủ chung giường. Yến lấy cớ ưa tĩnh để khước từ. Ninh không nghe ép phải mang giường chiếu sang. Yến bất đắc dĩ chiều ý, và còn dặn Ninh:
- Tôi biết túc hạ là bậc trượng phu cho nên rất kính mộ phong độ. Tôi còn chút niềm riêng chưa sớm bộc bạch được, vậy xin chớ mở xem cái tráp của tôi. Nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi.
Ninh hứa nghiêm cẩn tuân theo. Rồi ai nấy đi nghỉ. Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa nằm một chút đã gáy vang như sấm. Ninh không ngủ được. Khoảng gần trống canh một, thấp thoáng có bóng người ngoài cửa sổ. Một lát, cái bóng ấy tới gần cửa sở nhòm vào, mắt trợn trừng dữ tợn. Ninh hoảng đang định gọi Yến. Bỗng có một vật gì như dải lụa vọt từ trong tráp bay ra, vút như một mũi tên, cắt phăng cái chấn song đá cửa sổ rồi vụt quay vào trong tráp như một ánh chớp lặn biến.
Yến biết trở dậy, Ninh giả vờ ngủ xem sao. Yến bưng cái tráp, lấy ra một vật, vừa soi vừa nhìn hít ngửi dưới trăng. Nó dài khoảng vài tấc, đẹp như lá lúa, ánh bạc lóng lánh. Xem rồi, Yến bọc lại mấy lớp cẩn thận, bỏ vào cái tráp đã thủng, lẩm bẩm một mình:
- Cái con yêu cụ này khá lớn mặt, làm thủng mất tráp rồi.
Đoạn định đi nằm. Ninh ngạc nhiên không biết ra sao, liền trở dậy nói hết những điều mình đã trông thấy và hỏi Yến. Yến bảo:
- Đã là bạn tri giao tâm ái với nhau, tôi đâu dám giấu: tôi là kiếm khách. Nếu không vướng cái chấn song đá thì con yêu tinh kia tức khắc chết rồi. Tuy nhiên nó cũng bị thương.
Hỏi:
- Vật anh bọc lại đó là cái gì?
- Thanh kiếm đấy. Tôi vừa ngửi thấy có yêu khí.
Ninh muốn được nhìn tận mặt một chút. Yến lấy ra đưa cho xem một thanh đoản kiếm sán lóa. Ninh càng thêm kính phục.
Hôm sau trở dậy, Ninh xem xét bên ngoài cửa sổ, quả nhiên vẫn còn vết máu. Ra phía bắc chùa quả có một nấm mồ sè sè dưới gốc bạch dương, trên có tổ quạ.
Công việc đã giải quyết xong. Ninh thu xếp hành trang định về quê. Yến bày tiệc tiễn, tình nghĩa thật dạt dào. Rồi chàng đưa tặng Ninh một cái bao da đã rách, dặn rằng:
- Đây là cái bao kiếm, xin giữ cẩn thận, có nó thì lũ yêu quái không dám tới gần.
Ninh ngỏ ý xin học đạo. Yến bảo:
- Túc hạ là người tín nghĩa, cương trực, có thể học được. Song túc hạ thuộc dòng phú quý, không phải là người trong mạch đạo.
Chia tay với Yến rồi, Ninh nói thác là mình có cô em gái chôn ở đây, đào mồ lấy hài cốt, gói bọc trong quần áo, đưa xuống thuyền chở về quê.
Thư phòng của Ninh ở rìa làng, sat với cánh đồng cho nên chàng đem hài cốt Tiểu Thiện chôn và xây mộ ngay ngoài thư phòng. Khi tế mộ chàng khấn:
- Thương nàng hồn ma côi cút, nên chôn nàng ở cạch nhà khi cười khi khóc cùng nghe để khỏi lũ quỷ đàn ông làm nhục. Một bát nước mưa mời uống, có gì chưa được ngọt xin đừng chấp.
Khấn xong quay về, nghe đằng sau có tiếng gọi:
- Xin đợi cùng về với!
Ninh quay lại nhìn thì hóa ra là Tiểu Thiện. Cô ta vui mừng ra mặt, ngỏ lời cảm tạ:
- Chàng là bậc tín nghĩa, em dù có chết mười lần cũn không đủ đền đáp. Xin cho được theo về chào lại song thân cho lòng này khỏi hối.
Chàng nhìn kỹ Tiểu Thiện, da nõn nà như trứng gà bóc, chân tay thon thả như búp măng non, ban ngày ban mặt lại càng thấy đẹp. Hai người cùng vào thư phòng. Ninh dặn nàng ngồi đợi, vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc nhiên, nhân vợ Ninh ốm đã lâu, dạy rằng chớ có nói cho biết, e chị ta kinh sợ. Còn đang đôi hồi thì cô gái đã nhẹ nhàng bước vào, phục lạy dưới đất. Ninh giới thiệu:
- Thưa mẹ, đây là Tiểu Thiện.
Bà mẹ hoảng hốt nhìn cô gái, lòng bứt rứt không yên. Cô ta thưa:
- Con lênh đênh trơ trọi một mình,xa cha mẹ anh em, nay nhờ ơn công tử đến từng chân tơ kẽ tóc xin nguyện được sửa túi nâng khăn để báo đền ân nghĩa lớn.
Bà mẹ thấy cô ta cũng ra dáng xinh xắn đáng yêu, lúc ấy mới dám tiếp lời:
- Được nương tử chiếu cố đến con tôi, thân già này mừng không để đâu cho hết. Song tôi chỉ có một mình nó, những mong đợi có giọt máu nối dõi tông đường, cho nên không dám cho gá nghĩa cùng ma.
Cô gái buồn rầu thưa lại:
- Con thực không dám hai lòng. Người dưới suối vàng đã không để mẹ tin thì con thờ chàng làm anh trai. Từ nay xin nương tựa nơi mẹ, sớm tối hầu hạ, như thế có được không?
Bà mẹ cảm thương cô ta lòng thành, tỏ ý chấp nhận. Cô ta xin vào lạy chị dâu, song bà mẹ can vì chị ta đang ốm. Cô ta lập tức xuống bếp thay mẹ sửa soạn xơm nước, vào buồng sắp xếp giường chiếu như đã quen thuộc ở đây lâu. Tối đến bà mẹ vẫn còn e sợ, không dám đặt giường trải nệm cho cô. Biết ý cô lập tức quay ra. Qua thư phòng, cô định vào lại ra, cứ ngập ngừng ngoài cửa như e sợ điều gì. Ninh gọi vào, cô ta nói:
Trong nhà có kiếm khí toát ra kinh người. Đi qua em không dám vào là vì thế.
Lúc ấy Ninh mới biết là vì cái bao da, liền tháo đem treo sang buồng khác. Cô gái đến ngồi cạnh đèn, không nói không rằng. Lâu sau mới hỏi:
- Tối anh có đọc sách không? Hồi bé em tụng kinh La Nghiêm nay quên quá nửa. Xin anh cho mượn một quyển, tối rảnh em đến nhờ anh chỉ cho.
Ninh nhận lời. Cô ta ngồi yên lặng như trước, mãi đến canh hai mà chưa muốn đi. Ninh phải giục, cô ta mới ão não nói:
- Ở cõi âm cô hồn này khiếp nấm mồ hoang lạnh lẽo lắm.
Ninh an ủi:
- Trong thư phòng không có cái giường riêng nào để nằm. Vả chăng anh trai em gái không nên quá gần cận, tránh hiềm nghi.
Cô gái miễn cưỡng đứng dậy, mặt ủ mày chau, tưởng sắp phát khóc, loạng choạng cất bước ra khỏi cửa. Cám cảnh xót thầm, Ninh muốn lưu cô ta ngủ giường khác song lại e mẹ la rầy.
Từ đó, chiều hôm cô ta múc nước, bưng thau hầu mẹ, xuống nhà chăm sóc việc nhà việc cửa, không điều gì là không theo ý mẹ. Vào khoảng xẩm tối, cô ta lại cáo lui, đi qua đầu thư phòng đốt đèn tụng kinh. Đến khi thấy Ninh sắp đi ngủ, cô ta mới buồn bả lủi thủi trở ra.
Từ lâu, vợ Ninh ốm nặng bỏ bê việc nhà, bà mẹ không kham được nhọc nhằn vất vả. Sau khi Tiểu Thiện đến, bà cụ được thư thái, trong lòng đã mến cô gái, rồi lâu dần càng yêu quý như con đẻ, không còn bị ám ảnh là ma nữa. Do vậy bà cụ không nỡ chiều chiều để mặc cô gái ra khỏi nhà mà lưu lại ngủ chung giường. Lúc đầu cô gái mới đến không hề ăn uống gì, nửa năm sau dần dần mới hớp miếng canh cháo. Cả hai mẹ con cùng thương yêu cô ta, kiêng không nhắc đến điều quỷ ma cho nên mọi người cũng không ai biết cô ta không phải là người.
Không bao lâu vợ Ninh chết. Bà mẹ muốn cho lấy Tiểu Thiện song lại sợ ma hại. Cô gái thoáng ý ấy, thừa dịp thưa với mẹ:
- Con về đã hơn một năm, hẳn mẹ hiểu thấu lòng con không phải đi gieo vạ cho người. Con theo công tử chỉ chăm chắm một lòng, không hề có ý khác, là vì thấy chàng quang minh lỗi lạc, cả trời và người đều khâm phục, cho nên thực lòng muốn nương tựa và phục giúp cho chàng để nhờ hơi được chút sắc phong (phong cáo. thời phong kiến một người làm quan, cha mẹ vợ con thường được tặng phẩm hàm theo) hồn được vẻ vang ở dưới tuyền đài.
Bà mẹ cũng rõ rằng cô ta chẳng có ác tâm, song còn e không có cháu nối dõi. Nàng thưa:
- Con cái là do số trời. Tên chàng đã được ghi trong “sổ phúc”, rạng vẻ tông đường, có ba con trai, không vì lấy vợ ma mà bị cắt giảm.
Bà mẹ tin cùng con trai bàn bạc. Ninh được lời mừng lắm, sửa soạn cỗ bàn để cá với họ hàng bầu bạn. Có người muốn được coi cô dâu mới. Nàng trang điểm lộng lẫy, thản nhiên bước ra, người đầy một nhà, ai ai cũng trố mắt nhìn, không dám ngờ là ma mà cứ tưởng là tiên. Bởi vậy họ hàng nội ngoại đều biện lễ đến mừng, tranh nhau mời mọc làm quen. Còn Tiểu Thiện lại giỏi họa, nàng vẽ hoa lan,hoa mai lên giấy thước đưa tặng lại đáp lễ. Người nào được tặng đều vinh dự quý giá, bọc thật kỹ để giữ cho bền.
Một hôm, nàng cúi đầu đứng bên song, vẻ rầu rầu như mất vật gì. Đột nhiên nàng hỏi chồng:
- Cái bao da đâu rồi ạ?
Đáp:
- Vì mình có ý hãi nó, cho nên tôi bọc lại để chỗ khác.
- Em tiếp thụ được sinh khí đã lâu nên không còn sợ nó nữa. Chàng nên lấy về treo ở đầu giường.
Ninh hỏi sao phải thế? Nàng đáp:
- Ba ngày vừa rồi, tim em cứ hồi hộp không yên. Em e rằng lũ yêu tinh ở Kim Hoa hận em bỏ trốn đi xa, sớm muộn sẽ tìm cho bằng được.
Ninh đem cái bao da về, Tiểu Thiện lật trái lật phải xem kỹ rồi nói:
- Bao kiếm này, tiên đã dùng để bỏ đầu người. Nó đã rách nát đến thế này, không biết số kẻ ác bị giết là bao nhiêu? Bây giờ em trông thấy đây, vẫn còn sởn cả da gà.
Bèn đem treo. Hôm sau lại bảo Ninh đem treo lên trên cửa. Đêm đến nàng ngồi bên đèn, hẹn Ninh chớ ngủ. Bỗng có một vật như con chim bay rơi xuống. Tiểu Thiện hoảng sợ nép vào tấm rèm che. Ninh nhìn coi vật ấy hình như quỷ Dạ Xoa mắt lập loè như chớp, mồm nhễ nhãi những máu, tay chấp chới như chộp bắt, lừng lững tiến vào. Đến cửa nó dừng bước quẩn quanh, lúc sau tới gần cái bao da, lấy móng giật xuống tựa như muốn xé rách. Cái bao da tự nhiên “soạt” một tiếng, nghe như hai miếng cái sột đập vào nhau, từ trong bao một nửa hình quỷ ló ra, kéo giật Dạ Xoa vào bao. Bao co rút lại như cũ.
Chứng kiến sự việc kỳ lạ ấy, Ninh cũng bàng hoàng. Cô gái ra khỏi chỗ nấp mừng rỡ kêu lên: “Yên tâm rồi!” Hai người cngươilại cái bao, bên trong chỉ có độ mấy bát nước trong mà thôi.
Sau đó mâý năm, Ninh đỗ tiến sĩ, Tiểu Thiện sinh một con trai. Ninh lấy vợ lẽ, một vợ lại sinh một con trai nữa. Về sau cả ba con đều đỗ tiến sĩ, có danh tiếng đương thời.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
Duyên Tiên Âm Phủ
Cầm Sắt

Chàng thư sinh họ Vương ở Hán Thủy, mồ côi từ từ nhỏ, gia cảnh thanh bần, song phong nhã chỉnh tề, quần áo đẹp đẽ, tinh thơm.
Phú ông họ Lan ưng ý Vương, gả con gái và hứa sẽ bù trì nên cơ nghiệp. Cưới không bao lâu ông Lan chết. Anh em vợ đều coi rẻ Vương, không đếm xỉa đến. Còn vợ thì kiêu ngạo coi chồng như con ở. Một mình chị ta chễm chệ ăn uống của ngon vật lạ, còn chồng chỉ có cơm hẩm rau già. Vương ẩn nhận chịu đựng.
Năm mười chín tuổi, Vương đi thi khoa đồng tử (khoa thi chọn học trò giỏi, cung cấp cho học trường quốc tử giám) bị hỏng. Ở quận trở về, vợ đi vắng mà trong nồi có cái đùi dê ninh chín, đang lúc đói bụng Vương lấy ăn liền. Đang ăn vợ về không nói không rằng, bê luôn nồi thịt cất đi. Vương xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói phẫn rằng:
- Tình cảnh này chết đi cho rồi!
Vợ nổi đóa hỏi dồn, định bao giờ chết? Rồi ấn luôn sợi dây treo cổ vào tay anh ta. Vương uất quá, đập bát canh vào trán vợ rồi bỏ đi. Tự nghĩ nhục nhã thế này không đáng sống nữa. Vương đem theo dây lưng vào một cái thung sâu trong núi. Đến một cây um tùm, đang chọn cành buộc dây định tự vẫn, bỗng thấy trong hẻm núi đất, lấp ló có bóng quần đàn bà. Chớp mắt, một cô hầu gái bước ra, vừa trông thấy Vương đã quay người trở lại như cái bóng biến hút vào trong vách đất, không để lại dấu vết gì. Vương biết là yêu quái, song ý đang muốn chết cho nên cũng chẳng còn sợ hãi, bỏ cái dây treo lủng lẳng đó ngồi đợi xem sao. Lát sau, vách đất lại ló ra nửa khuôn mặt. Anh ta vừa nhác thấy, nó đã lại lặn biến. Vương nghĩ bụng nó đã là quỷ, theo nó có khi lại tìm được cái chết vui vẻ cũng nên. Nghĩ thế, liền vớ luôn một hòn đá đập vào vách đất, kêu to:
- Đất này nếu có thể vào được, xin ai đó chỉ cho tôi một đường đi! Tôi không tiết nguồn vui mà chỉ đi tìm lối chết thôi.
Đợi hồi lâu không thấy gì, Vương lại đập lại kêu như trước. Ở trong lòng đất có tiếng vẳng ra thanh lảnh nhưng chỉ ri rí như tiếng ong bay:
- Nếu cần chết, xin hãy tạm lui, tối đến!
Vương “vâng” rồi cứ ngồi đấy đợi. Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi bỗng hóa thành nhà cao, hai cánh cửa hé mở, Vương lần theo bậc thềm bước vào. Mới được mấy bước thấy có dòng nước chảy ngang, khóc bốc nghi ngút tựa như suối nước nóng. Nhúng tay xuống thấy nước nóng bỏng, song không biết nông sâu thế nào. Vương đoán dây là lối chết mà quỷ thần dẫn lối đến, liền trầm mình luôn xuống đó. Thế là nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát ràn rạt, may mà chàng ta cứ nổi không chìm, lềnh bềnh hồi lâu, quen dần với nước nóng, Vương cố vùng vẫy mới sang được bờ bên kia, da thịt may mà không rộp bỏng.
Lên đường, trông thấy xa xa một tòa nhà có ánh đèn, anh ta vội tới đó. Một con chó dữ xông ra đớp áo, nhay bít tất, Vương nhặt đá ném, nó mới hơi lùi. Nhưng rồi cả một đàn chó, con nào con nấy to như con bò, xúm đến sủa ầm ầm. Trong lúc nguy cấp, cô hầu gái chạy ra, quát đuổi lũ chó rồi bảo anh ta:
- Anh chàng cần chết đã tới đó phải không? Nương tử tôi thương hại anh gặp cơn khốn đốn, sai tôi đưa anh đến “ngôi nhà yên vui”, từ đây không còn gặp tai ương gì nữa.
Đoạn khêu đèn, dẫn đường, mở cổng sau lẳng lặng mà đi. Tới một căn nhà, ánh đuốc sáng hắt qua cửa sổ ra ngoài, cô ta bảo Vưong:
- Anh vào đi, tôi về đây!
Vương vào nhà nhìn bốn xung quanh thì ra lại chính là nhà mình. Quay ngoắt ra thì gặp bà vú vẫn phục dịch. Bà ta bảo:
- Cô tôi cả ngày trông ngóng cậu, sao cậu lại bỏ đi?
Nói đoạn dắt Vưonội giámvào, chị vợ- chỗ bị thương buộc khăn- tươi cười xuống giường đón bảo:
- Vợ chồng ăn ở với nhau hương lửa nồng bén đã hơn năm rồi, đùa nhau một chút mà không biết ư? Em biết em có tội, chàng bị trêu chơi mà em bị thương thật. Thôi xin chàng bớt giận làm lành!
Rồi lục ở đầu giường ra hai thoi vàng, dúi vào lòng Vương:
- Nay về sau việc ăn việc mặc xin chàng tùy sở thích, được không?
Vương chẳng nói chẳng rằng, vội vàng trở lại cứ đẩy cửa mà đi, định quay vào thung, tới ngôi nhà cao trước đây. Ra đến cánh cổng thì cô hầu gái lúc nãy còn lững thững bước một, khêu đèn đứng đằng xa ngóng lại. Vương vừa chạy theo vừa gọi, ánh đèn dừng lại hẳn. Đến nơi, cô hầu bảo:
- Anh lại tới à? Thật là phụ nỗi khổ công của nương tử tôi lắm đấy!
Vương đáp:
- Tôi thích chết, có nhờ cô để cầu sống đâu? Nương tử là bậc đại gia, dưới ấy chắc cần đến người làm, tôi xin hết sức phục dịch. Thực thà tôi khôngòn thấy sống là vui nữa.
- Sao anh nghĩ ngược đời thế. Chết vui vẫn không bẳng sống khổ. Nhà chúng tôi không có việc gì ngoài việc đào sông, hốt phân, nuôi chó, dọn xúc. Làm mà không đúng quy định thì cắt tai xẻo mủi, chặt chân, cắt gót. Anh có chịu được không?
- Được!
Vào đến cổng sau, Vương hỏi:
- Có những việc gì đây? Cô vừa nói việc dọn xác chết, ở đâu mà nhiều người chết thế?
Đáp:
- Nương tử tôi bản tính từ bi. Người đã lập một sở cứu tế cho những kẻ cô độc, thu nuôi các hồn ma ở dưới chín suối bị chết bất đác kỳ tử, không còn chốn đi về. Ma ấy kể có hàng nghìn, ngày nào có người chết là phải đi vác xác. Anh hãy đi xem qua!
Đi, thấy một cái cổng có chữ đề: “Vườn cứu tế kẻ cô độ”. Vào thấy nhà cửa ngang dọc linh tinh, hôi thối nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy có ánh đèn xúm lại, toàn là những thân hình đứt đầu, cụt cẳng, thảm thương quá không nỡ nhìn. Quay ra định đi tiếp, thấy có hàng dãy xác chết nằm ngang dưới chân tường, máu thịt tơi tả nhầy nhụa. Cô hầu gái bảo Vương:
- Đó, mới nửa ngày chưa kịp vác đi mà đã bị lũ chó cắn xé như thế đấy! Rồi cô ta sai luôn Vương chuyển đi. Anh ta cỏ vẻ ngần ngừ, cô gái bảo:
- Nếu không anh làm được thì xin mời về “ngôi nhà yên vui’ vậy!
Vương khẩn khoản nhờ cô gái liều hời xin cho mình khỏi phải làm cái công viêệ uế tạp kinh khủng ấy. Cô ta bằng lòng. Đi đến gần một căn nhà, cô ta bảo:
- Anh tạm ngồi đây, tôi vào thưa với nương tử. Việc nuôi chó nhẹ nhàng hơn, có thể xin giúp. Nếu được tôi báo cho!
Một lát sau cô ta chạy ra gọi:
- Lại đậy! Lại đây! Nương tử đã ra đấy!
Vương theo vào, trên đại sảnh đèn lồng treo khắp bốn bên, ngồi gần phía trong cùng là một vị nữ lang tuổi trạc độ đôi mươi phong thái rõ ràng là người nhà trời. Vương phục lạy dưới thềm. Nữ lang sai đỡ chàng dậy, phán rằng:
- Đây là một nho sinh, sao để nuôi chó được? Có thể giao cho việc trông coi sổ sách nhà bên tây.
Vương mừng lạy tạ. Nữ lang lại bảo:
- Anh có vẻ chất phác thật thà. Hãy làm việc của anh cho cẩn thận. Nều lầm lẫn sai sót, tội ắt không nhẹ đâu.
Vương cứ vâng dạ luôn mồm. Cô hầu gái lại dẫn đi sang tây. Thấy nhà cửa ở đây sạch sẽ sáng sủa, Vương đã mừng. Khi cảm tạ cô hầu gái, anh ta mới lựa lời hỏi thăm gia thế mương tử. Cô ta cho biết:
- Tiểu tự nương tử là Cầm Sắt. Người là con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Còn tôi tên là Xuân Yến. Khi nào cần gì, xin anh cứ nói cho biết.
Cô gái quay ra, đem lại đủ cả áo giày, chăn nệm, xếp lên giường. Vương mừng được chỗ yên thân. Thế là từ đó, hàng ngày mới sớm tinh mơ anh đã thức dậy làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Con hầu, đầy tớ trong nhà tất thảy đều yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều. Song nhất nhất Vương đều từ chối. Hai bữa cơm hàng ngày đều từ nhà trong cung cấp ra. Nương tử xét anh ta giữ được đức liêm cẩn cho nên cấp riêng cho mũ nho sinh, áo tươi màu. Phàm tiền bạc ban thưởng đều sai Xuân Yến đưa cho.
Cô gái này cũng vào loại lả lơi, khi đã thân thuộc Vương rồi, lúc qua lại vẫn thường khóe môi làn mắt đưa tình. Vương cẩn thận giữ mình không dám mảy may buông thả, thậm chí còn phải giả vờ như ngốc nghếch dại khờ.
Được hai năm sớ tiền thưởng đã gấp bội so vơí lệ thường, thế mà Vương vẫn giản dị, trước sau sao thế. Một đêm đang ngủ, bỗng nghe trong nhà có tiếng hô hoán, vội vàng trở dậy, xách dao chạy vào lửa thì lửa đỏ rực trời, bọn cưóp đã lố nhố đầy sân. Lũ đầy tớ ấy đã sợ hãi lẫn chạy như chuột. Mọi người giục chàng cùng chạy trốn nhưng chàng không nghe mà còn bôi mặt, thắt lưng lẩn vào trong đám cướp mà làm bộ thét to lên:
- Chớ làm cho Tiết nương kinh sợ! song phải lưu 1y của của, chớ bỏ sót!
Lúc bọn cướp đang lùng sục Cầm Sắt ở khắp các dãy nhà mà chưa thấy, Vương hiểu rằng nàng chưa bị bắt, liền lẻn đến tìm ở đằng sau nhà. Gặp một bà già đang nép ở đó, hỏi mới biết rằng nàng và Xuân Yến đã vượt tường ra ngoài. Vương liền trèo qua tường, bắt gặp chủ và tớ ở một góc tối. Chàng bảo:
- Ẩn náo ở đây sao được?
Nàng đáp:
- Nhưng tôi không thể đi được nữa.
Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy được khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới rút được vào trong hang sâu, ghé đặt nàng ngồi xuống.
Thoắt, một con hổ chồm tới. Vương cả kinh định xông ra chặn thì hổ đã ngoạm lấy nương tử. Vương vội túm chặt tai hổ, đút cánh tay mình vào miệng hổ để đỡ cho Cầm Sắt. Hổ gầm lên, bỏ cô gái, bập luôn cánh tay Vương. “Rắc” một cái,cánh tay Vưong rời ra rơi xuống đất. Hổ phóng vụt đi. Còn Cầm Sắt cứ nức nở:
- Khổ chàng rồi! Khổ chàng rồi!
Vương đang lúc hăng chưa thấy đau, chỉ thấy máu tuôn ra xối xả, vội nhờ cô hầu xé vạt áo băng bó vết thương, Cầm Sắt ngăn lại, tự mình nối cánh tay cho Vương rồi buộc chặt.
Trời hừng đông, họ mới chậm rãi quay về. Về đến nơi, nhà cửa vắng tanh vắng ngắt. Sáng ra con hầu đầy tớ dần dần tụ tập. Cầm Sắt thân đến nhà tây thăm hỏi Vương. Cởi vải buộc ra, cánh tay đã liền. Nàng đưa thuốc liều trị vết thương rồi mới đi.
Từ đó, nàng càng quý trọng Vương, mọi đồ ăn thức uống dùng chàng đều được hưởng ngang như nàng. Khi vết thương khỏi hẳn, nàng cho đặt rượu ở nhà trong để úy lạo. Đặt ghế cho ngồi, chàng ba lần từ chối, sau mới dám ngồi ghế vào một góc. Nàng nâng chén mời trân trọng như đối với khách, lâu sau mới nói:
- Chàng cõng cứu thiếp, hai thân thể gần cận. Nay thiếp muốn xin theo việc em gái vua Sở với người bầy tôi Chung Kiến (1) hiềm chưa có người mai mối, nhưng xấu hổ phải tự đến thân.
Vương bàng hoàng sợ hãi:
- Tôi chịu ơn sâu nương tử, thân này dù có tan nát cũng không đủ báo đền. Xử sự ấy không đúng phận, e búa rìu sấm sét chẳng dung, bởi vậy tôi không dám theo lệnh. Ví dù nương tử có thương lẻ bóng, cho tôi một cô hầu cũng đã quá.
Mấy hôm sau, bà chị cả Cầm Sắt là Dao Đài đến. Đó là một thiếu phụ đẹp, khoảng bốn mươi bốn. Tối, Vương được vời tới, Dao Đài mời ngồi và bảo:
- Ta từ nghìn dặm tới đây để làm chủ hôn cho em nó. Đêm nay có thể làm lễ với lang quân.
Vương lại vội đứng dậy tạ từ. Dao Đài sai bày tiệc rượu, bảo hai người đổi chén. Chàng lại cố từ. Dao Đài ép đổi cho bằng được. Chàng vái lạy ta rồi mới dám uống. Dao Đài đi ra, Cầm Sắt nói với Vương:
- Xin thưa thực với chàng: Thiếp là tiên trên thượng giới bị trích giáng. Thiếp tự nguyện xin ở dưới âm nuôi các oan hồn để chuộc lỗi. Vừa rồi gặp cướp- quỷ trời nên mới có chuyện gắn bó cùng chàng. Thiếp phải mời bà chị ở xa tới làm chủ hôn lễ cũng là để giúp trông coi việc ở đây cho thiếp tiện theo chàng về nhà nơi trần thế.
Vương đứng dậy cung kính:
- Ở dưới này vui lắm. Trên thế gian tôi có con vợ dữ, cửa nhà thấp hẹp, thế không thể về vun đắp cho vẹn tròn để giữ gìn cuộc sống lâu dài.
Nàng cười nhủ:
- Đừng ngại.
Rượu đã say đi nghỉ, cuộc ái ân rất đỗi đậm nồng.
Mấy ngày sau nàng bảo chồng:
- Vui thú ở cõi âm này không thể lâu. Chàng về ngay thu xếp nhà cửa, xong thiếp sẽ tự đến.
Đoạn sai đem người ngựa cho Vương, mở cửa đưa ra. Bức vách núi đất lại liền như cũ.
Vương cưỡi ngựa về làng, người làng trông thấy thảy đều kinh hãi. Về đến nhà, chốn cũ đã biến thành nhà cao cửa rộng. Nguyên là do: khi Vương bỏ đi, chị vợ mời hai anh đến báo sự thể gia đình. Tối Vương không về, họ bổ đi tìm. Có người nhặt được cái giày ở dưới ngòi cho là anh ta đã chết. Hơn một năm sau vẫn không có tin về Vương. Một anh lái buôn ở Thiểm cặp kê với vợ Vương đến ở luôn đấy, chỉ nửa năm đã xây cất tòa ngang dãy dọc. Anh ta buôn bán đi xa về gần lại mua một cô vợ bé đem về. Từ đó trong nhà sinh lục đục. Anh lái buôn cũng có khi hàng mấy tháng không về.
Vương nghe tin ấy ức lắm, buộc ngựa ở ngoài vào nhà. Bà vú kinh hãi lạy phục xuống đất. Vương quát mắng một trận, bắt dẫn tới buồng vợ. Chị ta nghe tin bỏ trốn, thắt cổ chết ngoài thềm nhà. Vương sai khiêng trả xác cho nhà họ Lan.
Anh gọi cô vợ bé tay lái buôn đến. Ngắm cô ta cũng xinh xẻo,mới khoảng mười tám mười chín tuổi. Vương giữ lại ngủ. Gã lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả cô vợ bé, nhưng cô ta kêu khóc không chịu đi. Vương làm đơn kiện gã lái buôn tội chiếm nhà, cướp vợ. gã ta không dám ho he, dọn hàng quay về Thiểm.
Việc nhà xong đã lâu la, Vương đã tưởng Cầm Sắt phụ ước. Một tối chàng đang cùng người thiếp ăn uống thì ngựa xe Cầm Sắt xịch đến cổng. Nàng bảo tất cả tùy tùng ra về, chỉ lưu lại Xuân Yến.
Vào buồng trong, người thiếp chạy ra lạy chào, nàng bảo:
- Người này có tướng sinh con trai, có thể thay tôi chịu khổ đây.
Nói rồi đem quần gấm đồ trang sức ra cho. Người thiếp lạy tạ đứng hầu. Nàng kéo ngồi xuống, nói cười vui vẻ. Lát sau nàng bảo:
- Tôi say rồi, muốn đi ngủ.
Vương cũng cởi dép lên giường cùng nàng, người thiếp lúc ấy mới đi ra. Đến khi cô ta vào buồng mình thì Vương đã nằm đó. Cô ta lấy làm lạ, quay trở lại buồng Cầm Sắt dòm xem, đã tắt đèn.
Từ đó, không đêm nào Vương không ngủ lại buồng người thiếp. Một đêm người thiếp trở dậy nhòm vào buồng Cầm Sắt thì lạ qú, Vương đang cùng nàng tình tự to nhỏ. Người thiếp lại định nói với Vương thì chỉ thấy giường không. Sáng ra, người thiếp kể lại với Vương điều ấy. Vương cũng không tự biết mình thế nào, chỉ thấy mình khi thì ngủ ở buồng người thiếp, khi thì ngủ ở buồng Cầm Sắt, Vương dặn phải giấu, đừng để hở ra những điều lạ lùng ấy. Lâu sau, cô hầu gái Xuân Yến có chửa. Cầm Sắt làm như không biết. Đến khi cô ta trở dạ, khó đẻ liền cất tiếng gọi “nương tử”. Nàng vào, thai ra ngay: một cậu con trai. Cắt rốn xong, đặt vào lòng cô hầu, nàng cười mà bảo:
- Thôi nhé, chớ có đẻ nữa! Nghiệp nhiều thì nạn lắm đó!
Từ đó, cô hầu gái không đẻ nữa. Người thiếp sinh năm trai hai gái. Trong ba mươi năm ở cùng Vương, nàng thỉnh thoảng lại trở về nhà mình, đều vào đêm cả. Một hôm nàng dắt cô hầu gái đi và thôi không trở lại nữa.
Vương sống đến tám mươi tuổi, đột nhiên đem theo lão bộc cùng đi đâu không thấy về.
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch.
(1) Thời Xuân Thu, hai nước Sở - Ngô đánh nhau. Sở thua phải bỏ đô thành chạy, vua Sở gọi bầy tôi là Chung Kiến sai đưa em gái vua là Quý Thiên chạy trốn. Sau Quý Thiên xin được lấy Chung Kiến, người mà mình đã gần gụi hình bóng.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Cắt Thịt Vì Tình
Liên Thành
Kiều sinh người quận Tấn Minh, nổi tiếng tài giỏi từ hồi nhỏ. Mới ngoài hai mươi tuổi, có gan dạ, chơi thân với Cố sinh; sau khi Cố mất, thời thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan ấp tể (cũng như chủ quận hay tri huyện) lấy văn chương cùng chàng kết giao thân mật. Khi ấp tể qua đời tại quận, gia quyến lần lữa mãi không về; chàng bán sản nghiệp đưa linh cửu ấp tể về quê quán, khứ hồi trên hai nghìn dặm. Vì thế mà giới trí thức càng trọng, nhưng gia đạo chàng từ đó càng thêm sa sút.
Ông Hiếu Lêm (cử nhân) họ Sử có con gái tên là Liên Thành, thêu thùa rất khéo, lại hay chữ nên Hiếu Liêm hết sức quý chuộng. Nàng thêu một bức tranh thiếu nữ ngồi thêu mệt mỏi. Sử Hiếu Liêm đưa ra trưng cầu các cậu thiếu niên đề thơ vào đó, trong ý là muốn kén rể. Kiều sinh đề bài thơ như vầy:





Dung hoàn cao kiết lục bà sa
Tảo hướng lan song tú bích bà
Thích áo uyên ương hồn giục đoạn
Ấm đình trâm tiến xúc song nga.


Nghĩa là:


Óng ả trên đầu mái tóc tiên
Sáng ngồi bên cửa rút bông sen
Uyên ương thêu đến lòng như thắt
Kim chỉ ngừng tay có vẻ phiền.


Ngoài ra chàng lại tặng riêng một bài khen nàng thêu khéo:


Tú tiến khiêu lai tự tả sinh
Bức trung hoa điểu tự nhiên thành
Đương nhiên chức cẩm phi trường kỷ
Hạnh bả hồi văn cẩm thánh minh.


Nghĩa là:
Thêu như sống thật thấy tài chưa?
Hoa điểu trời xanh há kém thua
Tranh gấm nàng Tô đâu sánh kịp
Hồi văn may được cảm lòng vua.

(Hai câu sau cùng nhắc tích xưa Tô Huệ thêu bài thơ Hồi Văn trên gấm, dâng vua để chuộc tội cho chồng. Hồi văn có thể đọc ngược xuôi đảo lộn, thành ra mấy trăm bài thơ. Kiều sinh tán tụng Sử tiểu thư. Sánh lại, Tô Huệ chỉ có Hồi văn cảm lòng thiên tử, chứ bức thêu gấm kia còn kém tài của tiểu thư.)
Nàng được hai bài thơ mừng lắm, trước mặt ai cũng khen Kiều sinh đáo để, nhưng cha có ý chê nhà chàng nghèo. Không muốn gả con gái cho.
Liên Thành gặp lại cũng khen ngợi Kiều sinh, lại sai mụ vú, giả vâng mệnh cha, đem tiền bạc đến giúp chàng chi phí đèn sách. Chàng nói:
- Liên Thành là người tri kỷ của ta.
Từ đó mơ màng tưởng nhớ như kẻ khát muốn uống, đói muốn ăn vậy.
Không bao lâu Sử Hiếu Liêm nhận gả nàng cho con một nhà buôn muối là Vương Hóa Thành; bấy giờ chàng mới tuyệt vọng, nhưng trong giấc chiêm bao vẫn còn tơ tưởng không dứt.
Ít lâu sau, nàng phát bệnh không ngồi dậy được. Có nhà sự Tây Vực đến thăm mạch, nói mình có thể chữa được, song phải có một đồng cân thịt ở ngực con trai, để trộn với thuốc mới đặng.
Sử công sai người đến nhà họ Vương nói cho chú rể hay. Chú rể cười nói:
- Lão già này kỳ cục, đòi cắt lấy thịt ở đầu trái tim ta ư?
Gia nhân trở về thuật lại, sử công giận lại rao cho mọi người hay rằng: bất cứ ai dám cắt thịt thì ta gả con gái cho.
Kiều sinh nghe tin, lập tức đến nhà họ Sử, tay cầm dao kéo, tự cắt lấy thịt trước ngực, trao cho nhà sư Tây Vực, máu vấy cả áo chàng. Nhà sư phải xừc thuốc cho mới hết.
Với chỗ thịt đó nhà sư trộn thuốc thành ba chén, nàng uống ba ngày bệnh tật khỏi hẳn.
Sử công sửa soạn làm theo lời hẹn, nhưng trước hết sai người nói cho Vương biết. Vương nổi giận đòi đi kiện. Sử công bèn làm tiệc mời Kiều sinh đến, bày ngàn vàng lên án rồi nói:
- Mang ơn rất nặng, vậy xin có chút đỉnh báo đền.
Đoạn, Sử công bày tỏ ý định sai hẹn cho chàng nghe, chàng cau mày nói:
- Tôi không tiếc chi miếng thịt, là để báo đáp người tri kỷ chứ có phải bán thịt lấy tiền đâu.
Nói xong, chàng đứng dậy, phủi áo ra đi. Liên Thành nghe chuyện trong lòng không nỡ, liền nhờ mụ vú đến an ủi chàng và nói nhắn:
- Người tài như cậu chắc không phải sa sút lâu ngày. Trên đời thiếu gì giai nhân mà lo. Tôi từng chiêm bao thấy điềm chẳng lành, ba năm nữa tất chết, vậy cậu đừng thèm cùng ai tranh giành lấy được con người sắp chết này làm gì?
Chàng nói với mụ vú:
- Con người ta vì tình tri kỷ mà chết, chứ không vì sắc đẹp. Tôi chỉ e rằng Liên Thành chưa chắc đã thật là biết tôi; nếu quả thật nàng biết tới thì việc nhân duyên chẳng thành cũng không hại chi.
Mục vú thay lời nàng thề thốt giải tỏ lòng thành, chàng nói:
- Quả thật như vậy thì tôi chỉ xin có một điều, là khi gặp nhau ở ngoài đường, nàng tặng cho tôi một nụ cười, dù tôi chết cũng không ân hận gì.
Mụ vú vế nhà thuật lại với nàng.
Cách mấy hôm, chàng ngẫu hứng đi chơi, vừa lúc gặp nàng ở bên nhà ông chú về. Nàng đưa mắt liếc nhìn chàng và hé miệng cười rất tươi. Chàng cả mừng, tự nghĩ trong trí:
- Phải rồi! Liên Thành quả thật biết rõ lòng ta.
Kế đến nhà họ Vương qua bàn định ngày lành tháng tốt xin đón dâu. Bệnh cũ của nàng tự dưng nổi lên, được vài tháng thì chết.
Kiều sinh đến viếng tang, kêu rú một tiếng, ngã xuống chết giấc. Sử công cho người đem xác về tận nhà.
Lúc đó chàng tự biết mình đã chết rồi, trong lòng không thấy buồn tiếc gì cả, vội vàng đi ra khỏi thôn muốn được nhìn thấy mặt Liên Thành. Xa trông nẻo đường phía tây bắc, người ta đi lại như kiến, chàng trốn lánh mình trà trộn vào trong đám đó.
Giây lát vào một dinh thự gặp lại Cố sinh. Cố lấy làm ngạc nhiên hỏi chàng tại sao đến đây, và muốn nắm tay chàng dắt lộn về ngay. Nhưng chàng thở dài nói rằng có chuyệng tâm sự còn lôi thôi, cho nên chẳng muốn trở về. Cố nói:
- Tôi ở chốn này giữ việc sổ sách hơi được tín nhiệm, nếu anh có chuyện chi nhờ cậy, tôi xin cố súuc không dám tiếc công.
Chàng hỏi về Liên Thành.
Cố liền dẫn đi tìm kiếm nhiều nơi, thấy Liên Thàng với cô áo trắng, mặt rầu lệ dầm, ngồi xổm ở một vỉa hè. Nàng thấy Kiều sinh đến, vội vàng trỗi dậy, vẻ như mừng rỡ, hỏi chàng đâu tới đây. Chàng nói:
- Nàng chết, tôi còn ở trên đời sống làm chi?
Liên Thàng khóc:
- Con người phụ nghĩa thế này, chàng không phỉ nhổ mà đá đi cho rảnh, còn lấy mình chết theo làm gì? Tôi đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, xin đền bồi ở kiếp sau.
Chàng nghoảnh lại bảo Cố sinh:
- Anh có công việc bận xin cứ tự tiện, để mặc tôi ở đây, tôi vui sướng được chết, chứ không thích sống nữa. Có điều tôi muốn phiền anh tra sổ sách hộ xem Liên Thành thác sinh chỗ nào, để tôi đi theo nàng.
Cố sinh gật đầu rồi đi.
Thiếu nữ áo trắng hỏi chàng là người như thế nào. Liên Thành thuật lại đầu cuối.
Thiếu nữ nghe chuyện bùi ngùi than thở. Liên Thành bảo chàng:
- Cô này cùng họ với em tên là Tân Nưuơng, con quan Sử thái thú ở quận Tràng Sa; Chúng em cùng đi một đường tới đây, cho nên thương yêu trìu mến nhau.
Chàng liếc thấy người có vẻ dễ thương, vừa muốn hỏi chuyện tỉ mỉ, thì Cố sinh đã trở lại ngó mặt chàng mà ngõ lời chúc mừng:
- Tôi đi thăm dò tin tức giùm chắc chắn lắm: nương tử đây được theo anh hoàn hồn về dương gian, như vậy có thích không?
Hai người cùng mừng rỡ, sửa soạn từ biệt ra đi. Cô Tân khóc rú lên:
- Chị đi thì em bơ vơ, biết nương tựa vào ai? Vậy xin chị vì tình cứu em, cho em được theo hầu hạ chị.
Liên Thành động lòng nhưng không biết phài làm cách nào, day lại bàn tính với chàng. Chàng lại năn nỉ với Cố sinh. Cố sinh tỏ vẻ khó khăn và can không nên làm việc đó, chàng cầu khẩn mãi. Cố nói:
- Để tôi làm đại thử coi.
Một lúc, chàng ăn xong bữa xơm, thì Cố sinh trở lại, khoát tay và nói:
- Ban nải tôi đã bảo là không được mà. Thú thật tôi chịu dở muôn phần, không sao giúp được.
Tân Nương nghe nói gào khóc thảm thương, đứng ríu ríu bên cạnh Liên Thành, chỉ sợ nàng vội đi. Cả hai cùng buồn bã không nghĩ cách nào, chỉ nhìn nhau đứng lặng, mà nét mặt thảm sầu, khiến cho ai nấy cũng phải não lòng héo ruột. Cố sinh phát phẫn nói:
- Thôi thì xin anh chị cứ cho cô Tân đi theo, rủi có tội vạ thì tôi xin chịu hết.
Bấy giờ Tân Nương mới mùng, theo chàng lên đường. Chàn lo ngại dùm cô đi về nhà cô đường xá xa xôi không ai làm bạn. Tân nương nói:
- Em xin theo cậu, chứ không muốn trở về nhà em.
Chàng gạt đi:
- Cô này ngây thơ quá, không về nhà cô thì lấy gì mà hồi sinh chứ. Mai sau tôi có dịp đi Hồ Nam, xin cô đừng lánh mặt thế là may mắn cho tôi.
Vừa vặn lúc ấy có hai mụ già, lãnh tờ sức đi tới Tràng Sa, chàng nói cho cô Tân đi theo và căn dặn hai mụ chăm nom hộ dọc đường.
Tân Nương khóc và từ giã.
Liên Thành đi theo rất chậm chạp, đi chừng hơn mười dặm đường thì phải nghỉ chân một lần. Nghỉ chân đến mười bận thì mới trông thấy cổng làng trước mặt. Nàng nói:
- Cậu ơi! Sau khi em tái sinh, sợ lại có chuyện lật lọng, chi bằng cậu xin lấy xác em đưa về nhà, rồi em hồi sinh tại nhà cậu, thì không có sự ăn năn về sau.
Chàng nghe lẽ phải, dắt nàng về thẳng nhà mình. Nàng hồi hộp uể oải như bước đi không nổi. Chàng phải đứng đợi. Nàng nói:
- Em về tới đây, chân tay run rẩy, như không còn sức tự chủ được mình, chỉ e ý mu6ón không toại vậy ta nên bàn tính thế nào cho thật kỹ lưỡng. Không thế thì sau khi hồi sinh, làm sao tự lo được?
Rồi hai người cùng vào căn phòng lạnh, lặng im giây lát, Liên Thành mỉm cười và nói:
- Mình có ghét em không?
Chàng kinh ngạc hỏi tại vớ gì, nàng đỏ mặt đáp:
- Em chỉ lo rủi ro không xong, thì lại phụ lòng chàng. Vậy em xin lấy hồn báo đáp cái tình tri kỷ của chàng trước đã.
Chàng mừng quá, cùng nàng giao hoan hết sức âu yếm. Nhân đó hai người quyến luyến không rời , ở luôn ba ngày trong phòng lạnh. Liên Thành chợt nhớ lại:
- Mình ơi! Tục ngữ có câu: Đàn bà xấu xí đến đâu, khi đã lấy chồng, trước sau bề nào cũng phải ra mắt cha mẹ họ hàng. Chúng ta bịn rịn ôm ấp ở đây mãi đâu phải là kế lâu dài.
Nói xong, nàng hối thúc chàng vào nhà giữa, vừa mới tới chỗ thờ, thì chàng hồi tỉnh. Người nhà kinh ngạc, vội vàng đi lấy nước cháo đổ cho chàng.
Sau khi tỉnh hồn, chàng sai người đi mời Sử Hiếu Liêm đến ngỏ ý xin xác Liên Thành đem về nhà, vì mình có phép làm cho nàng sống lại.
Sử công nghe lời. Xác của Liên Thành vừa khiêng đến nhà chàng, xem lại thì nàng đã hồi sinh, tự nói với cha:
- Thưa cha, con đã trao thân gửi phận cho Kiều sinh rồi, giờ không lẽ nào trở về được nữa. Hễ ai sinh sự đổi dời một chút thì con chết thôi.
Sử công về, lập tức sai con hầu đứa ở tới phục dịch nàng.
Bên nhà họ Vương nghe tin, làm đơn đi kiện. Quan sở tại ăn hối lộ xử nàng phải về nhà Vương.
Kiều sinh tức giận muốn chết, nhưng không làm sao ngăn cản được.
Liên Thành đến nhà Vương, phẫn uất bỏ cả ăn uống chỉ cầu mau chết. Thừa lúc nhà vắng người, liền treo cổ lên xa nhà. Qua hôm sau, bệnh tình càng nặng, sắp sửa tắt hơi, Vương sợ quá, đưa trả về nhà Sử. Sử lại cho khiêng về nhà chàng. Vương biết thế nên đành chịu phép bỏ qua.
Liên Thành trỗi dậy, bình phục như xưa. Nàng thường tưởng nhớ Tân Nương, muốn cho người đi hỏi thăm, nhưng vì đường sá xa xôi, chưa thể đi được.
Một hôm bỗng dưng gia nhân vào thưa rằng: ngoài cửa có ngựa xe khách lạ. Hai vợ chồng cùng nhau chạy ra ra thì là Tân Nương đã vào tới giữa sân. Đôi bên trông thấy nhau, vừa mừng vừa cảm. Quan thái thú thân đưa Tân Nương đến. Chàng mời ông vào. Thái thú nói:
- Con bé nhà tôi nhờ cậu mà sống lại, nó thề không chịu lấy ai, cho nên tôi phải phải theo ý muốn của nó mà dẫn nó đến đây.
Chàng vái lạy theo lễ con rể và cha vợ. Sử Hiếu Liêm cũng tới. Ba nhà đoàn tụ vui vẻ.
Kiều sinh tên thật là Niên, biểu tự là Đại Niên.

ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Lên Chơi Trên Trời
(Lôi Tào
Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình tử, hai người lúc nhỏ cùng xom, lớn lên cùng học một trường, chơi với nhau rất thân.
Hạ thông minh từ bé, mười tuổi đã học nổi tiếng. Nhạc thơ như bậc đàn anh. Hạ lấy tình anh em chăm chỉ khuyên bảo; nhờ đó Nhạc học ngày càng tấn tới, danh cũng nổi dậy. Duy có thi cử vất vả, khoa thi nào cũng rớt luôn.
Không bao lâu, Hạ mắc bệnh dịch qua đời, nhà nghèo quá, không có tiền chôn cất. Nhạc khảng khái nhận hết công việc ấy về phần mình lo liệu. Hạ chết để lại vợ góa và đứa con còn ẳm trên tay. Nhạc thường lui tới chăm sóc, kiếm được thưng lúa, đấu gạo nào đều chia làm hai.
Vợ con Hạ nhờ sự giúp đỡ tận tình ấy mà sống. Các bậc sĩ phu thấy thế càng khen Nhạc hiền đức.
Vốn nhà chẳng có của cải bao nhiêu, lại còn chu cấp cho vợ con của Hạ, thành ra Nhạc sa sút dần, phải than rằng:
- Tài học như Bình Tử, còn phải lận đận mà chết, huống chi là ta? Sự sang giàu của đời người cần phải kịp thời, nếu suốt năm cứ bận lòng rối trí như vậy mãi thì e đến chết bỏ xác ở ngòi rạch, trước lòai chó ngựa, chẳng hóa uổng phí cuộc đời mình lắm ư? Ta nên sớm tính xoay nghề thì hơn.
Từ đó, Nhạc xếp sách vở lại xoay ra buôn bán. Làm nghề này nửa năm, cảnh nhả hơi khá.
Một hôm đi buôn ở Kim Lăng, nghỉ ở trong quán trọ, thấy một người cao lớn, gân cốt nổi lên, mon men đến bên chỗ Nhạc ngồi, mà sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi muốn ăn chăng?
Người đó không nói gì hết. Nhạc đẩy mâm cơm ra mời ăn. Hắn lấy tay bốc ăn ngon lành, giây lát hết sạch.
Nhạc lại gọi một mâm cơm ê hề, cở hai ba người ăn mới xuể, thế mà một mình người ấy ngốn hết sạch. Nhạc gọi chủ quán cắt đùi heo và một đống bánh chưng đầy ắp, hắn lại ăn sạch chỗ phần ăn của mấy người đó. Chừng ấy mới thấy no bụng, tạ ơn và nói:
- Ba năm đến giờ, tôi chưa từng được ăn bữa nào no nê như hôm nay.
Nhạc hỏi:
- Xem anh ra đáng mặt tráng sĩ lắm, sao bơ vơ trôi nổi đến thế này?
- Tôi mắc tội trời hành không thể nói ra được.
- Vậy quê quán nhà cửa ở đâu?
- Thưa, trên bộ chẳng có nhà, dưới nước chẳng có ghe. Sớm đứng đầu làng, tối nằm xó chợ, thế thôi.
Nhạc sửa soạn hành lý ra đi; người ấy theo khít một bên có ý bịn rịn không nỡ rời nhau. Nhạc cố từ, người ấy nói:
- Anh sắp bị nạn lớn, tôi không muốn quên cái ơn đức một bữa ăn no.
Nhạc lấy làm lạ bằng lòng cho đi theo. Giữa đường vào quán cơm, nhạc kéo vào ăn chung với mình, nhưng người ấy lắc đầu:
- Cả năm, tôi chỉ ăn có vài bữa thôi.
Vì thế Nhạc càng kinh ngạc.
Hôm sau, qua sông lớn, sóng gió nổi lên đùng đùng, thuyền chở thuê chìm sạch. Hai người cùng chìm dưới nước. Một chặp gió yên lặng rồi, người ấy cõng Nhạc đạp sóng mà lên, ngồi tạm một thuyền khách, rồi lại đạp sóng rẽ nước đi.
Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc sang ngồi, dặn dò canh giữ, rồi nhảy ùm xuống sông nữa. Hai cánh tay ôm bao hàng hóa ném vào trong khoang thuyền. Xong lại hụp xuống nước. Mấy lần hụp lên hụp xuống như vậy, ôm hàng hóa bày để bên trong thuyền.
Nhạc cảm tạ:
- Anh cứu tôi sống là đủ lắm rồi, đâu dám mong mỏi hàng hóa lại được châu về hợp phố?
Kiểm tra lại của cải không mất tí gì, trong bụng càng mừng, kính phục người ấy là thần Nhạc giục lái ghe mở lái ra đi, người ấy xin từ biệt. Nhạc cố giữ mãi, bèn cùng nhau qua sông. Khi ghe mới xa bờ Nhạc cười và nói:
- Tính lại tai nạn này chỉ mất có một cây trâm vàng mà thôi.
Người ấy muốn đi tìm. Nhạc toan ngăn thì hắn đã nhào xuống nước mất tăm. Nhạc kinh ngạc giây lâu. Chợt thấy hắn mỉm cười ở dưới nước trồi lên, trao cây trâm cho Nhạc và nói:
- May quá tôi tìm thấy đây.
Mọi người trên bờ dưới sông đều phải lắc đầu lè lưỡi lấy làm quái lạ.
Nhạc dẫn về nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu. Cách mấy chục ngày hắn mới ăn một lần. Đã ăn thì ăn nhiều vô kể.
Một hôm lại đòi từ giã di. Nhạc cố lưu lại. Giữa khi ấy, trời tối tăm muốn mưa. Nhạc nói:
- Trên mây chả biết có những gì? Sấm sét là vật chi? Làm sao được lên mà xem một phen cho biết, trong lòng mới hết nghi hoặc.
Người ấy nói:
- Anh muốn lên mây chơi ư?
Liền đó, Nhạc nghe trong mình mỏi mệt, nằm trên giường ngủ mơ màng. Chừng tỉnh dậy thấy mình rung rung lắc lắc, không phải cảnh êm ái như nằm trên giường. Mở mắt ra nhìn té ra là mình đang ở trong đám mây, chung quanh trắng toát như bông gòn. Bấy giờ mới kinh hoảng đứng dậ, mắt hoa lên tưởng chừng như đi thuyền nhưng đạp chân xuống thì chẳng thấy ván sạp.
Chàng ngửa nhìn tinh tú như ở ngay trước mặt, bèn ngờ mình chiêm bao. Dòm kỹ tinh tú dán vào vòm trời, chẳng khác nào hạt sen nhú ở trên cái đài sen, ngòi lớn như cái lu, ngôi nhỏ như cái chén, lấy tay lắc thử xem, thấy ngôi sao lớn bám chặt quá, không nhúc nhích còn ngôi nhỏ thì lung lay, dường như có thể bứt ra được. Chàng liền bứt lấy một ngôi, giáu trong tay áo, rồi vén mây nhìn xuống dưới, thấy bể bạc mênh mông, thành quách nhỏ li ti như hạt đậu. Trong trí kinh hãi, tự nghĩ nếu như rủi ro trượt chân, thì chết còn gì?
Bỗng thấy hai con rồng uốn khúc, kéo theo một chiếc xe căng màn chạy lại, trên xe để những chiếc khạp chu vi mấy trượng, đựng nước đầy tràn. Có mấy chục người cầm gáo múc nước, rải khắp trên mây.
họ trông thấy Nhạc cùng lấy làm lạ.
Nhạc nhìn kỹ, té ra người bạn chí thiết của mình ở nhà cũng có dự trong ấy,. bèn nói với họ:
- Ông này là bạn tôi mà!
Họ lấy một gáo đưa cho Nhạc, bảo múc nước mà tưới đi.
Lúc đó trơì đang đại hạn. Nhạc tiếp lấy gáo nước, vạch mây nhìn xuống quê hương, cố tưới thật nhiều.
Một lát, người bạn nói với Nhạc:
- Tôi vốn là thần sấm sét, vì trước mắc lỗi sai hẹn làm mưa nên bị phạt đày ba năm, giờ đã mãn hạn trời, vậy xin từ đây vĩnh biệt.
Nói đoạn, lấy sợi dây buộc xe dài muôn thước bảo Nhạc nắm một đầu dây để thả xuống đất.
Nhạc lấy làm nguy, nhưng bạn cười mà bảo:
- Không hề gì đâu mà sợ.
Nhạc y lời vù vù chớp mắt đã xuống tới đất. Dòm lại thì rơi xuống ngay làng mình, còn sợi dây thì rút dần lên mây, không thấy hút đâu nữa.
Hồi bấy giờ cả làng này đại hạn lâu ngày, gặp được trận mưa, ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, duy có làng Nhạc thì hồ trạch đầy tràn.
Về nhà, mò lại trong túi, ngôi sao đã lấy vẫn còn, đem đặt lên bàn, ngày xem thì đen xạm như cục đá thường, đêm đến thì sáng lóng lánh, chiếu rọi khắp nhà. Bởi thế Nhạc càng quý báu, gói lại cất kỹ, mỗi khi khách uống rượu ban đêm, mới lấy ra thay đèn ngồi chung quanh chơi cho sáng. Nhìn thẳng vào tia sáng chói cả mắt.
Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ánh sáng đó vấn tóc, chợt thấy ngôi sao đó nhỏ dần đi, chỉ còn như con đom đóm, mà cựa quậy bay ngang. Nàng đương kinh ngạc mở miệng muốn la, ngôi sao chui tuột vào miệng, khạc nhổ chẳng ra, lại xuống cổ nàng; nàng sợ hãi chạy bảo Nhạc, Nhạc cũng lấy làm kỳ, rồi thì đi ngủ. Đêm nằm chiêm bao, thấy Hạ Bình Tử hiện hồn về nói:
- Tôi chính là ngôi sao Thiên Vi, những việc anh giúp đỡ gia quyến tôi, tôi hằng ghi nhớ không quên. Anh lại có lòng tốt đem tôi ở trên trời về, thế là chúng ta có duyên gắn bó, nay tôi xin đầu thai làm con anh để báo đền đức lớn.
Hồi đó Nhạc đã ba mươi tuổi mà chưa có con, nằm mộng thấy vậy lòng mừng khôn xiết.
Từ đó vợ thụ thai. Đến khi ở cữ, sáng chiếu khắp nhà, y như lúc ngôi sao còn để trên bàn làm đèn vậy. Nhân đó lấy chữ Tinh Nhi đặt tên cho con.
Tinh Nhi thông minh lạ thường, mười sáu tuổi thi đậu tiến sĩ.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Háo Sắc Lụy Mình
( Phong Tam Nương)
Cô Mười Một họ Phạm, con quan Tế tửu ở Lộ Thành, tuổi nhỏ tuyệt đẹp, lại rất phong nhã, cha mẹ yêu quý như nâng trứng hứng hoa. Những người đến hỏi chà mẹ bảo nàng tự chọn lấy, nhưng nàng chưa thuận đám nào.
Gặp tết thượng nguyên, các bà vãi ở chùa Thủy Nguyệt mở hội cúng chay đốt mã, nàng cũng tới xem.
Trong lúc nàng đi dạo cảnh cùa, một thiếu nữ đi theo bén gót, thường liếc nhòm nàng, ý chừng như muốn nói gì. Nàng nhìn kỹ là một cô gái đôi tám cực đẹp, trong lòng rất ưng càng chăm chú nhìn. Thiếu nữ mỉm cười hỏi:
- Cô có phải cô Mười Một họ Phạm không?
- Thưa, chính là tôi.
- Tôi nghe danh tiếng đã lâu, nay mới được thấy mặt, quả thật là người ta đồn đại không sai.
Cô Mười Một cũng hỏi thăm quê quán họ tên, thiếu nữ đáp:
- Tôi họ Phong hàng thứ ba, nhà ở một xóm gần đây.
Hai người nắm tay chuyện vảnn niềm nở vui vẻ, thành ra yêu mến nhau hết sức, không muốn rời ra, cô Mười Một hỏi sao đi trơ trọi một mình, chẳng có bầu bạn gia nhân cùng đi, thiếu nữ trả lòi:
- Cha mẹ mất sớm, nhà chỉ có một vú già, phải coi nhà không đi với tôi được.
Cô Mười Một sửa soạn ra về, Phong Tam Nương nhìn sững muốn khóc làm cô cũng buồn rầu, liền mời Tam Nương về nhà chơi. Tam Nưong nói:
- Nhà cô gác tía lầu son, tôi lại không họ hàng chi e đến chơi bị người nhà bàn tán nói này khák không tốt.
Cô Mười Một cố mời, Tam Nương hẹn để hôm khác.
Lúc từ biệt, cô rút một cành thoa vàng đưa tặng. Phong cũng lấy cây trâm biếc ở trên mái tóc để đáp lễ.
Cô về nhà đâm ra tưởng nhớ thiết tha, lấy cây trâm xem lại, không phải vàng cũng không phải ngọc, trong nhà không ai biết là thứ gì, đều lấy làm lạ.
Hàng ngày cô mong mỏi Tam Nương đến chơi không thấy đến nỗi buồn rầu phát bệnh. Cha dò biết cái nguyên cớ, sai người đi thăm các xóm làng chung quanh, nhưng không ai biết thiều nữ họ Phong là người nào.
Nhằm tiết trùng cửu ( mùng chín tháng chín), cô gầy còm buồn bã, gọi con hầu dìu đỡ ra vườn ngoài chơi, trải nệm gối dưới giàn hoa ngồi tiêu khiển, Bỗng dưng có một người con gái thò mặt lên vách tường dòm sang. Nhìn ra chính là Phong nữ chứ không phải là ai lạ. Phong kêu:
- Đỡ tôi xuống nào!
Con hầu chạy ra đỡ tay. Phong nhảy thoắt xuống. Cô Mười Một mừng khôn thể tả, tự nhiên đứng phắt dậy, kéo Phong cùng ngồi nói chuyện, trách nàng đã sai lời hẹn và hỏi bây giờ ở đâu lại đây? Phong đáp:
- Sự thật nhà tôi cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tôi đến chơi nhà ông cậu ở gần lối xóm này. Độ trước tôi có nói rằng nhà ở xóm gần đây, tức là nói nhà cậu tôi đấy.Từ lúc chị em từ biệt, tôi tưởng nhớ não nùng. Nhưng nghĩ mình phận nghèo khó, chơi với con nhà giàu sang, chân chưa bước tới nhà trong lòng đã có vẻ thẹn, chỉ e bị lũ tôi tớ trong nhà coi thường xem khinh. Vì thế mà tôi không muốn tới. Vừa rồi đi ra ngoài vách tường, nghe trong có tiếng con gái nói, liền trèo lên nhòm xem, mong rằng gặp cô, nay quả như nguyện.
Cô Mười Một bèn kể cho Phong nghe vì đâu mình sinh bệnh. Phong khóc như mưa, khóc chán rồi nói:
- Chị có đến chơi thì xin giữ bí mật, sợ những kẻ sinh sự lắm điều, bàn dài nói vắn, không thể chịu nổi.
Cô xin y lời, đoạn dẫn nàng về phòng riêng với mình, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, thích cùng chuyện trò tâm sự mà bệnh cũng khỏi dần. Rồi đính ước làm chị em, áo quần giày vớ thay đổi lẫn lộn, không hề phân biệt. Hễ có người nào đến thì Phong núp vào bên màn. Như thế trải năm sáu tháng Phạm công với phu nhân nghe phong phanh.
Một bữa hai chị em đang ngồi đánh cờ, phu nhân chợt đến thình lình, trông thấy, sửng sốt, và nói:
- Thật là xứng bạn con ta!
Rồi quay hỏi cô Mười Một:
- Trong chốn khuê phòng con có người bạn tốt thì cha mẹ vui mừng cho, sao con không nói cho mẹ hay.
Cô bày tỏ ý muốn của Phong.
- Cô đến làm bạn con ta, thế là điều hay, cần chi phải giấu diếm?
Phong đỏ mặt làm thinh, mâm mê dải áo, chẳng nói chẳng rằng. Sau lúc phu nhân đi, Phong muốn từ biệt, cô Mười Một năn nỉ mãi mới chịu ở lại.
Đêm nọ, nàng hớt hơ hớt hả từ ngoài chạy vào khóc nói:
- Chị đã nói rằng ở lại không nên, thế mà vì nể em phải ở lại, bây giờ mới gặp lại cái nhục lớn lao thế này!
Cô kinh ngạc hỏi chuyện gì, nàng đáp:
-Vừa rồi chị ra thay áo, một chàng thiếu niên đón đường chọc ghẹo, may chị chạy thoát. Như vậy chị còn mặt mũi nào mà ở đây nữa chứ?
Cô gạn hỏi hình dáng, rồi tạ lỗi:
- Thôi, xin chị bỏ qua đi, người ấy là ông anh ngây thơ của em đó. Để em thưa với mẹ đánh đòn anh ta cho biết thân!
Phong cố từ, một hai đòi đi. Cô Mười Một khuyên đợi trời sáng sẽ đi, vội gì. Phong nói:
- Nhà cậu của chị chỉ cách đây mấy bước để chị bắc thang leo qua vách tường là được rồi.
Nàng đi rồi, cô Mười Một gục mặt trên gối khóc lóc thảm thương, xem như mất bạn tơ tóc vậy.
Cách mấy tháng sau, con hầu có việc đi tới xóm Đông, chiều tối về, gặp Phong giữa đường, có bà cụ già theo sau. Con hầu mừng rỡ, đứng chào hỏi. Phong cũng ngậm ngùi, hỏi thăm sức khỏe của cô Mười Một độ rày ra sao. Cô hầu nắm áo nàng và nói:
- Cô Ba ghé lại nhà tôi chơi đi. Từ lúc cô bỏ đi, cô chủ nhà tôi rầu rĩ mong đợi muốn chết.
Phong nói:
- Chính ta cũng nhớ cô mày đáo để, nhưng ta không muốn để cho người nhà biết, vậy mi về trước mở sẳn cửa vườn, tự ta đến.
Con hầu về nói chuyện cho cô Mười Một biết, cô mừng quá giục nó đi mở cửa vườn, té ra nó chưa kịp đi đã thấy Phong vào trong vường lúc nào rồi. Hai người tay bắt mặt mừng, cùng kể lể lòng thương nỗi nhớ, hết chuyện nọ qua chuyện kia liên miên không ngủ. Phong dòm thấy con hầu đã ngủ say rồi, bèn trỗi dậy đến nằm chung gối với cô Mười Một, tỉ tê nói nhỏ:
- Chị vốn biệt em chưa nhận lời ưng thuận đám nào, con người tài sắc dòng dõi như em lo gì chẳng lấy được một người chồng sang trọng. Như lũ công tử bột không thèm kể, nếu em muốn được một người chồng tử tế, thì chớ phân bì giàu nghèo chi hết.
Cô Mười Một cho lời nói ấy đúng. Phong nói tiếp:
- Cách chùa chúng ta gặp hồi năm ngoái, năm nay họ làm chay rất to, ngày mai em đi với chị đến xem, chị sẽ cho thấy mặt một người đáng làm chồng em. Từ nhỏ, chị đã đọc sách tướng đã nhiều, quyết không sai lầm đâu. T\
Tảng sáng, Phong đi trước, hẹn đợi nhau ở chùa. Chặp sau cô Mười Một đến chùa đã thấy Phong ở đó trước rồi. Chị em dắt nhau đi dạo quanh chùa một vòng rồi mời cô Phong cùng đi xe về. Khi dắt tay ra cửa, thấy một vị tú tài lối mười bảy, mười tám tuổi bận áo xềnh xoàng và dáng dấp đứng đắn. Phong khều cô và nói nhỏ:
- Con người mai sau thành đạt lớn đó.
Cô Mười Một liếc qua rồi Phog từ giã đi riêng:
- Em cứ đi về trước đi, tối chị sẽ đến.
Quả nhiên buổi tối Phong đến nói:
- Chị đã dò kỹ càng rồi. Anh chàng ấy tức là Mạnh An Nhân, người cùng xóm này mà.
Cô biết chàng nghèo tỏ ý không thích. Phong thở dài:
- Cơ khổ, em mảng vướng phải thói đời như thế ư? Phải biết con người đó nếu như suốt đời nghèo hèn thì chị tự khoét mắt mình đi, không xem tướng ai nữa.
Cô hỏi:
- Nhưng biết làm thế nào bây giờ?
- Em cứ đưa một món chi, để chị đem lại trao cho chàng đính ước hôn nhân.
- Chị định làm dễ dàng quá vậy? Em còn cha mẹ sờ sờ, nếu cha mẹ không ưng ý thì sao?
- Ấy chỉ vì Phong sợ không được toại nguyện cho nên mới đính ước ngay bây giờ. Nếu như chị em cương quyết, thì dù có sống chết ai mà cướp được.
Cô Mười Một khăng khăng cho là không nên.
Phong nói:
- Nhân duyên của em đã nảy ra manh mối rồi nhưng nghiệp chướng vẫn còn vương vít trong lòng chưa tiêu, cho nên hôm nay chị đến là cốt se duyên cho em để báo đáp cái tình tử tế bấy lâu. Thôi để chị đi, tự lấy cành thoa vàng của em tặng chị năm ngoái vâng lệnh em mà đưa tặng chàng làm tin cũng được.
Cô Mười Một còn ngần ngừ suy nghĩ, Phong đã bước ra ngoài cửa đi tuốt.
Lúc đó Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học cực giỏi, ý muốn kén vợ thật xứng đáng mới lấy, cho nên tuổi đã mười tám chưa dạm hỏi đám nào. Ngày hôm đó đi chơi chùa được dịp trông thấy hai cô gái về nhà đâm ra tơ tưởng vẩn vơ. Mới tan canh một, Phong Tam Nương gõ cửa bước vào, chàng thắp sáng đèn nhìn mặt té ra một trong hai mỹ nữ mình may mắn trông thấy ban ngày, chàng mừng rỡ chào hỏi.
Phong nói:
- Tôi họ Phong, bạn gái của tôi cô Mười Một họ Phạm.
Chàng mừng quá không gạn hỏi chi nhiều lời, vội vàng tiến đến, muốn ôm lấy Phong. Phong cự hẳn hoi:
- Cậu này! Tôi chẳng phải là Mao Toại đem thân đến hiến nhé, mà chỉ đóng vai Tào Khâu đem tin đi mối cho người ta đó thôi. Số là cô Mười Một họ Phạm, muốn kết nhân duyên với cậu, cho nên tôi xin làm mụ mối cho cô cậu nên vợ nên chồng mà!
Chàng ngạc nhiên không rtin, Phong liền trao cành thoa vàng làm chứng. Chàng mừng hết sức, cảm tạ và thề nguyền:
- Cô có lòng quyến chỉ giùm tôi như thế, xin thề nếu không lấy được cô Mười Một, thà cam ở góa trọn đời.
Phong từ giã đi.
Sáng ngày, chàng cậy bà cụ lối xóm đến nói với Phạm phu nhân. Quả nhiên phu nhân chê nghèo không cần hỏi ý kiến con gái, cứ việc lập tức từ chối lập tức.
Cô Mười Một nghe chuyện như vậy, hết sức thất vọng, trở lại oán Phong báo hại mình, kimh thoa đã lỡ trao, khó nỗi đòi về, chỉ có cách thề chết giữ trọn lời nguyền thôi.
Một hôm sau có người con ông quan nọ đến cầu hôn, trong ý còn lo không thành, cho nên cậy quan huyện đứng ra làm mối. Lúc đó ông quan nọ đang ở chức trọng quyền to. Phạm công có ý kiêng sợ, hỏi cô Mười Một, cô tỏ vẻ không vui. Bà mẹ dỗ dành gạn hỏi, cô làm thinh không nói câu gì, chỉ khóc sướt mướt rồi cậy người nói riêng cho phu nhân biết rằng: không phải Mạnh sinh đến chì chết không lấy chồng nào cả.
Phạm công càng giận, cứ hứa gả cho người con ông quan nọ, trong ý lại ngờ cô có tư tình với Mạn sinh nên chi càng gấp chọn ngày lành tháng tốt, thành lễ cho mau.
Cô Mười Một phẫn uất bỏ ăn, ngày chỉ nằm kiệt, mãi đến hôm trước ngày cưới, tự dưng cô trở dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát thị nữ tức tốc chạy vào nói tiểu thư đã tự thắt cổ. Nội nhà kinh hãi khóc, ăn năn đã muộn. Ba ngày làm lễ táng.
Nói về Mạnh sinh, từ hôm bà cụ lối xóm trở về trả lời không xong, chàng ấm ức muốn chết nhưng vẫn xa xa theo dõi tin tức, còn mơ tưởng cuộc nhân duyên có thể vãn hồi. Chừng nghe tin danh hoa đã gần có chủ, ngày cưới đến nơi, bấy giờ chàng mới phẫn hận như lửa đốt ruột gan, từ đây muôn sự mong mỏi đều tiêu tan, không còn trông đợi gì nữa.
Không bao lâu nghe tin ngọc vỡ, hương vùi, nàng đã tự sát, Mạnh sinh càng đau đớn thảm thương, tức mình không được cùng mỹ nhân chết cho rồi đời. Chập tối chàng lần mò ra đi, trong ý muốn thừa lúc đêm hôm, đến khóc trước mả mỹ nhân cho hả chút lòng sầu khổ. Chợt thấy bóng người từ đầu kia đi tới. đến gần té ra Phong Tam Nương.
Phong nói:
- Tôi mừng dùm cậu đến lúc thành cuộc nhân duyên đấy.
Chàng khóc òa và hỏi:
- Vậy cô không hay tin Phạm tiểu thư đã chết rồi ư?
Phong đáp:
- Ấy, vậy tôi bảo rằng thành việc, chính ở chỗ cô ta chết mà. Mau mau gọi gia nhân đi đào mả lên, tôi có thuật lạ, có thể làm cho tôi hồi sinh.
Chàng mừng quá, nghe lời răm rắp. Đào mả bỏ hòm, lấp huyệt lại như cũ, rồi chàng tự cõng tử thi cùng Tam Nương về đặt nằm trên giường. Tam Nương đổ thuốc vào miệng, giây lát tiểu thư hồi tỉnh, nhìn thấy Tam Nương, hỏi đây là đâu. Phong trỏ vào chàng và đáp:
- Mạng An Nhân đây mà, em!
Rồi kể rõ nguyên do, lúc ấy cô như người chiêm bao mới tỉnh.
Phong sợ công việc tiếc lộ bèn dắt nhau đi xa mười lăm dặm, lẩn trốn ở một xóm nhỏ trong núi. Đoạn Phong đòi từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở riêng một gian nhà. Đem bán những đồ trang sức tẩm liệm làm vốn sinh sống, nhờ đó cũng hơi dư dật. Mỗi khi Phong gặp chàng đến, liền tìm cách lẫn tránh, cô Mười Một thung dung nói:
- Chị em ta khác nào ruột thịt, nhưng trước sau gì cũng người đông kẻ tây, chẳng được sum họp suốt đời. Chi bằng chúng ta bắt chước Nga Hoàng Nữ Anh ngày xưa thì hơn.
Phong gạt đi:
- Từ nhỏ, chị học được phép lạ có thể trường sinh, cho nên chị không chịu lấy chồng!
Cô Mười Một nói:
- Người đời truyền tụng những phép thuật trường sinh có thể chất đầy kín nhà bếp, chị học phép của tiên ông nào đó?
Phong đáp:
- Cái học của chị không phải như người đời đã biết kia đâu, người đời vẫn truyền tụng chẳng phài là chân truyền. Duy có Ngũ Cầm kinh cả Hoa Đà là đúng. Phàm người tu luyện, chẳng qua chỉ muốn cho khí huyết lưu thông vậy thôi. Nếu chị gặp nhiều nghịch chướng, cứ vương mình như cọp thì chết ngay.
Cô Mười Một âm mu với chàng giả đò có việc đi xa. Đêm ấy cô ép nàng uống rượu thật say, rồi chàng mò vào làm càn. Nàng tỉnh dậy thở dài và nói:
- Em hại chị rồi đó. Nếu không vương nhằm sắc giới mà tu luyện thành đạo, có thể lên đến từng thứ nhứt. Nay lại bị sa ngã vào mưu gian, cũng là số mệnh khiến vậy.
Tức thời đứng dậy cáo từ. Cô Mười Một ân cần bày tỏ lòng thành của mình, và tha thiết xin lỗi. Nàng nói:
- Giờ chị xin nói thật, chị là chồn tinh đây. Chỉ vì năm trước trông thấy sắc đẹp của em mà sinh lòng yêu mến, giống như con kén tự buộc lấy mình, mới đến nỗi xảy ra thế, chẳng phải tự sức người ta. Nếu em cố giữ chị ở lại thì ma chướng càng nảy ra mãi, không biết đến đâu là cùng. Em hạnh phúc còn nhiều, xin giữ lấy mình khỏe mạnh.
Nói đoạn biến mất. Hai vợ chồng sửng sốt than thở rất lâu.
Qua năm sau, chàng thi đậu cả hương lẫn hội được bổ chức hàm lâm, trở về đưa thiếp danh xin yết kiến Phạm công. Ban đầu Phạm công vừa thẹn vừa hối, không chịu tiếp, chàng năn nỉ mãi, ông mới chịu ra.
Chàng theo lễ con rể đối với cha vợ rất mực cung kính, Phạm công nổi giận, cho là chàng nhạo mình. Chàng xin phép nói riêng một câu chuyện kín, rồi kể hết đầu đuôi mọi việc đã qua. Phạm công chưa tin liền sai người đến tận nhà xem, bấy giờ mới chưng hửng vui mừng, dặn dò gia nhân kín miệng, khoan nói tung ra, sợ có họa, vì nhà ông quan cầu hôn trước kia hãy còn oai thế to.
Hai năm sau, ông ta phạm tội bị phát giác cả hai cha con phải đi đày làm lính ở Liên Hải, bấy giờ cô Mười Một mới về thăm nhà cha mẹ.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Tay áo làm mai
(Củng tiên)

Củng đạo nhân, không có tên tự, cũng không biết là người ở đâu, có lần đến xin ra mắt Lỗ vương, nhưng người canh cổng không cho vào.
Có người thân tín trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào và ngỏ ý muốn. Thân tín thấy ông xấu xa bẩn thỉu, lại xua đuổi thêm.
Ông đi rồi trở lại. Thân tín nổi giận sai thủ hạ vừa đuổi vừa đánh. Đến chỗ vắng vẻ không ai, đạo nhân cười và đưa ra cho trăm lượng vàng, nhờ kẻ đuổi theo nói hộ với vị thân tín kia rằng:
- Bản tâm ta không cần giáp mặt vương đâu, chỉ nghe tiếng vườn hoa sau vương phủ có cây cối lâu đài, đẹp nhất thế gian, nếu sẵn lòng dẫn ta đi xem một phen là đủ mãn nguyện.
Nói xong lại móc tiền bạc ra đút lót người đuổi theo mình. Anh này thấy tiền mừng rỡ, quay về thưa lại thân tín.
Thân tín cũng mừng, liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, xem đủ mọi cảnh, rồi bước lên lầu. Thân tín đang đứng dựa bên cửa sổ, đạo nhân xô một cái, tự nhiên thấy mình té xuống bên ngoài, may có dây leo vướng bụng, thành ra treo tòn teng lơ lửng giữa trời. Ngó xuống thấy sâu thăm thẳm mà nghe dây leo kêu rắc rắc, dường như sắp đứt, sợ hoảng hồn xám mặt, thân tín kêu la vang trời.
Mấy tên thái giám chạy đến, trông thấy cũng sợ khiếp đảm, vì nhắm thân tín thấy cách xa mặt đất cao quá. Họ chạy tuốt lên lầu cùng xem, thì ra đầu dây cột vào bao lơn, muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây leo vấn vít cả nùi, nhắm bề không thể dùng sức mà tháo gỡ nổi. Đi tìm đạo nhân thì đạo nhân đã biệt tăm dạng, họ nghĩ bó tay hết kế, bèn chạy tâu cho Lỗ vương hay.
Lỗ vương đến mục kích lấy làm lạ, đành sai lính tráng rải cỏ khô và bông gòn dưới đất, rồi sẽ chặt đứt dây leo cho thân tín rớt xuống khỏi bể đầu nhừ xương. Công việc dự bị vừa xong, thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước thôi, ai nấy cùng tức cười.
Xong đó Lỗ vương sai người đi tìm xem đạo sĩ ở đâu. Nghe tin ông ở đậu nhà thầy tú tài họ Thượng, lính đến đó hỏi, thì ông đi ngao du chưa về. Họ thất vọng, bảo nhau trở về, may gặp ông ở giữa đường, liền dẫn tới trước mặt Vương.
Vương mời ngồi ăn tiệc, và yêu cầu đạo sĩ làm trò lạ cho xem. Đạo sĩ thưa:
- Thần là người quê mùa, chẳng có tài giỏi chi, nay ngài thương đến mà sai bảo, vậy xin dâng nữ nhạc để chúc thọ ngài.
Nói đoạn, mò trong tay áo ra một mĩ nhân đặt xuống đất; nàng cúi đầu chào vương rồi đạo sĩ sai diễn tuồng Dao Trì tứ yến, chúc vương muôn năm. Nàng vừa ra sân khấu hát mấy câu, đạo sĩ lại thò vào tay áo lấy ra một người nữa, tự bạch là Tây Vương Mẫu. Giây lát nào Đổng Tiên Nga, nào Hứa Phi Quýnh, cả đám tiên cô trên trời, lần lượt xuất hiện. Sau hết tới Chức Nữ ra trò, hiến Lỗ vương một bộ áo trên trời, màu vàng rực rỡ, chói rạng khắp nhà.
Lỗ vương nghĩ là đồ giả, đòi xem tận nơi. Đạo sĩ vội vàng cản ngăn, nói rằng không nên. Vương không nghe, cứ việc lấy xem, quả nhiên áo trời liền lạc một mảnh, không có đường may nào hết, thật sức người không sao làm đặng. Đạo sĩ không vui, nói:
- Thần hết lòng tôn kính đại vương cho nên mượn bộ áo trời của Thiên tôn đem xuống, nay bị trọc khí nhuốm vào rồi, làm sao trả lại nguyên chủ được đây?
Lỗ vương lại nghĩ những nàng ca hát, tất đều là tiên cô, cho nên muốn giữ lại vài cô, nhưng khi nhìn kĩ, thì không ai khác hơn là con hát thường ngày trong phủ mình. Vương xoay ra ngờ khúc hát họ chưa từng học qua sao mà hát được? Hỏi ra chính họ mù mịt chẳng biết tại sao.
Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa mà đốt, rồi mới bỏ vào trong tay áo mình. Mới đó mà người ta khám xét, chẳng thấy dấu tích gì cả mới kì.
Từ đó, Vương rất trọng đạo sĩ, giữ ở trong phủ. Nhưng đạo sĩ từ chối, lấy cớ mình quen tính bình dân, ở cung điện xem như ở trong lồng chậu, không bằng ở nhà thầy tú tài quen, được tự do hơn.
Thế rồi ban ngày vô phủ Lỗ vương, nhưng thế nào tối cũng về nhà Thượng tú tài. Có lần Vương nài ép lắm thì cũng ngủ lại trong phủ. Mỗi khi giữa yến tiệc thường đảo lộn hoa cỏ bốn mùa để làm trò chơi. Vương hỏi:
- Ta nghe nói người tiên cũng chẳng khỏi động tình thích gái, có quả thế chăng?
Đạo sĩ đáp:
- Không chừng người tiên mới thế, còn tôi không phải người tiên, cho nên lòng như cây khô héo vậy.
Một đêm, ông ngủ lại trong phủ, Vương sai một ả đào non đến rình xem.
Nàng vào phòng, kêu mấy tiếng không nghe thưa, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường. Lay gọi, ông hé mắt một chút lại nhắm nghiền lại. Lay gọi nữa thì tiếng ngáy khò khò. Xô đẩy thì liền thấy ngã lăn xuống giường mà vẫn ngủ say và ngáy vang như sấm. Gõ trên trán, chỉ thấy ngón tay mình đau như gõ vào nồi gang hũ sắt vậy. Nàng trở về phục mạng, kể rõ tình đầu cho Vương nghe. Vương sai lấy kim mà đâm. Kim đâm không vào. Người ta cố sức xô đẩy, thấy nặng không thể lung lay. Thêm mười mấy người nữa, xúm nhau khiêng ông quăng xuống chân giường, nghe có tiếng nặng trịch như tảng đá ngàn cân rơi huỵch xuống đất vậy.
Sáng ngày đến dòm, ông vẫn ngủ nguyên dưới đất. Tỉnh dậy cười và nói:
- Một giấc ngủ say, rơi xuống chân giường mà không biết.
Lần khác, Vương sai lũ con gái trẻ măng sắc đẹp, nhè lúc nằm ngồi, đến bên véo thịt ông làm vui. Nhưng bận đầu véo còn thấy thịt mềm, qua bận sau đã cứng như sắt đá rồi.
Đạo sĩ ở nhà Thượng tú tài, thường khi suốt đêm không thấy về, tú tài khoá cửa đi ngủ, tới sáng đã tháy ông ngủ vùi trên giường hồi nào.
Nguyên trước, Thượng tú tài nhân tình với đào hát Huệ Kha, đôi bên thề thốt lấy nhau. Huệ hát cực hay, đường tơ giọng hát vang dậy một thời. Lỗ vương nghe tiếng, vời nàng vào ở trong phủ hầu hạ, vì thế Thượng tú tài với nàng dứt tuyệt đi lại, nhiều khi thương nhớ muốn chết, mầ không có cách nào thông tin được với nhau.
Một đêm, Thượng hỏi đạo sĩ vào phủ có trông thấy Huệ Kha lần nào không? Đạo sĩ nói:
- Đào hát trong phủ đều thấy, duy không biết Huệ Kha là cô nào.
Thượng tả hình dung và cỡ tuổi, đạo sĩ mới nhớ ra. Nhân đó Thượng cầu nhắn giùm một đôi lời. Đạo sĩ cười nói:
- Tôi là người tu hành, không làm chim xanh cho ông đặng.
Thượng nằn nì mãi, đạo sĩ đưa tay áo lên và nói:
- Nếu nhất định muốn thấy mặt người yêu một phen thì chui vào đây, tôi đưa đi.
Thượng dòm bên trong thấy rộng rãi như cả gian nhà, liền chui mình vào, lại thấy lộng lẫy sáng sủa, bàn ghế, giường mùng, chẳng thiếu thứ gì, cho nên ở trong thấy sung sướng, không buồn rầu chút nào. Đạo sĩ vào phủ, ngồi đánh cờ với Lỗ vương, thừa dịp Huệ Kha tới gần, giả vờ phe phẩy tay áo để giũ bụi. Huệ Kha bị thu hút vô trong, mà chẳng một người nào trông thấy.
Khi đó, Thượng đang ngồi tơ tưởng một mình, chợt nghe có vật gì từ mái nhà rơi xuống, nhìn lại té ra Huệ Kha. Hai người sửng sốt mừng rỡ, kể lể tình xưa. Thượng nói:
- Cái duyên lạ lùng của đôi ta hôm nay, không lẽ không ghi nhớ bằng văn chương. Vậy tôi với mình làm thơ liên cú để kỉ niệm nhé.
Chàng nói rồi viết câu mở đầu trên vách tường:
Hầu môn thăm thẳm bấy lâu nay
Huệ Kha nối theo:
Ai ngỡ chàng Tiêu lại gặp đây
Thượng tiếp câu thứ ba:
Tay áo mênh mông trời đất rộng
Huệ Kha đọc câu kết:
Trai thương gái nhớ được sum vầy.
Viết bài thơ vừa xong, bỗng có năm sáu người áp vào, bịt khăn đầu rìu, mặc áo màu hường, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng lẳng lặng không nói gì, chỉ bắt Huệ Kha dẫn đi. Thượng kinh hãi chẳng hiểu nguồn cơn tự đâu.
Về nhà đạo sĩ gọi Thượng ở trong tay áo ra, hỏi chuyện tình tự có hả lòng chưa, Thượng còn giấu giếm không nói hết, đạo sĩ mỉm cười, cởi áo lộn bên trong đưa cho chàng xem. Chàng nhìn kĩ thấy có tự tích lờ mờ, nhỏ tí, tức là bài thơ tình tự hai người liên cú hồi nãy.
Cách sau mười mấy hôm, chàng lại xin chui vào tay áo lần nữa. Trước sau gồm ba lần. Huệ Kha bảo Thượng:
- Em nghe trong bụng cục cựa, nghĩ mà lo quá, thường ngày em lấy lụa buộc bụng thắt lại, còn có thể giấu nhẹm được, nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, một mai ở cữ, làm sao giấu được đứa trẻ khóc oa oa, vậy chàng phải bàn tính với đạo sĩ, chừng nào em sinh đẻ, thì ông ra tay cứu cho mới đặng.
Thượng nghe lời, đêm ấy trở về quỳ mọp trước mặt đạo sĩ, chưa kịp nói chi, đạo sĩ đã nâng đỡ trở dậy và nói:
- Thôi mà, anh chị căn dặn nhau những gì, tôi biết dư rồi. Xin ông đừng lo, dòng giống nhà ông nhờ có một chút đó, lẽ nào tôi chẳng hết sức giúp đỡ. Nhưng từ nay trở đi chớ đòi chui vô tay áo nữa nhé! Tôi muốn báo đáp ông, chẳng phải nguyên ở tự tình mà thôi đâu.
Mấy tháng sau, một hôm đạo sĩ ở ngoài về, tươi cười và nói:
- Tôi đã rước cậu bé về đây, sửa soạn tã lót mau!
Người vợ Thượng vốn hiền lành, ngoài ba chục tuổi sinh nở mấy lần, chỉ nuôi được một đứa con trai, vừa lại sinh con gái, đầy tháng thì bỏ, nay nghe chồng báo tin, vui mừng khôn xiết, tức tốc chạy ra đón rước đứa bé.
Đạo sĩ thò vào tay áo, lấy đứa bé ra; nó đang ngủ say và rốn chưa cắt. Vợ Thượng đón lấy bồng trên tay, bấy giờ nó mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo và nói:
- Máu đẻ vấy dơ cả áo thế này, đạo môn kị nhất. Nay vì sự giúp đỡ ông, mà vật cũ hai chục năm, bỗng chốc phải bỏ đi.
Thượng đưa áo khác cho đạo sĩ thay. Đạo sĩ căn dặn:
- Cái áo cũ của tôi, chớ nên bỏ uổng. Để làm thuốc trị bệnh hay lắm đó. Chỉ xé một miếng độ một chỉ mà đốt, hoà với nước nóng, có thể cứu được truỵ thai và sinh đẻ khó.
Thượng xin vâng lời.
Đạo sĩ ở một thời gian lâu nữa, chợt bảo Thượng:
- Chiếc áo cũ nên để dành nhiều ít, về sau tự mình cần dùng, điều đó sau khi tôi chết cũng không nên quên, nghe!
Thượng cho là lời nói bất tường, nhưng đạo sĩ lẳng lặng ra đi, vào phủ Lỗ vương nói:
- Tôi muốn chết bây giờ.
Vương thất kinh hỏi tại sao. Đạo sĩ thưa:
- Đó là số trời đã định còn phải nói chi!
Vương không tin, cố giữ lại chơi, đánh xong một ván cờ, đạo sĩ vội vàng đứng lên. Vương lại ngăn cản. Chừng xin phép ra nhà ngoài, Vương mới y cho. Đạo sĩ ra đó nằm vật mình xuống, xem lại thì ông đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài chôn cất đủ lễ. Thượng rất thảm, bấy giờ mới hiểu lời ông nói hôm nào tức là báo trước vậy.
Cái áo cũ ông để lại làm thuốc cho đàn bầ đẻ mau, thật là linh nghiệm. Người đến xin, chen vai nối gót ở trước cửa. Ban đầu còn cho cái tay áo có vấy máu, lần hồi xé tới cổ áo, bất cứ chỗ nào làm thuốc cũng hay. Sau nhớ lại câu đạo sĩ căn dặn, e chính vợ mình sẽ có tai vạ vì sinh sản, cho nên cắt lấy một miếng vải có máu, to chừng bàn tay, cất kĩ để dành.
Gặp hồi Lỗ vương có nàng ái phi chuyển bụng ba ngày không đẻ, bao nhiêu lương y đều bó tay. Có người mách Thượng có cách chữa tuyệt diệu. Vương gọi Thượng vào, quả thật chỉ một chén thuốc là ái phi sinh đẻ dễ dàng. Vương mừng hết sức, trả lễ bằng tiền bạc gấm vóc cực nhiều. Nhưng món gì Thượng cũng từ chối không nhận. Vương hỏi:
- Vậy anh muốn chi?
- Thưa, tôi không dám nói ra.
Vương gạn hỏi đôi ba lần, Thượng cúi đầu nói:
- Nếu đại vương ban ơn cho, tôi xin người đào hát cũ Huệ Kha là đủ.
Lập tức, Vương gọi nàng ra hỏi bao nhiêu tuổi. Nàng thưa:
- Thiếp vô trong phủ từ hồi 18 tuổi, trái 14 năm nay rồi.
Vương thấy tuổi nàng đã lớn, bèn cho phép Thượng chọn lựa trong đám đào hát son trẻ, muốn lấy cô nào cũng cho. Thượng không chọn cô nào cả, khăng khăng chỉ chọn cô đào già Huệ Kha mà thôi. Vương cười nói:
- Anh học trò này khờ quá, Hay là đôi bên đã đính hôn từ mười năm về trước chăng?
Thượng kể chuyện thật từ trước đến sau. Vương liền sai thắng xe ngựa chở cả Huệ Kha và những tiền bạc gấm vóc đã cho, để làm tư trang cho nàng đi về nhà chồng.
Đứa con trai Huệ Kha đẻ lúc trước tên là Tú Sinh, có ẩn nghĩa là đẻ trong tay áo, lúc này đã được 11 tuổi.
Hàng ngày vợ chồng nhớ ơn đạo sĩ, năm nào đến tiết thanh minh cũng đi viếng mộ.
Có người ở Tứ Xuyên lâu năm, gặp đạo sĩ ở giữa đường trao cho một quyển sách và nói đó là sách trong phủ Lỗ vương, vì đi vội vàng, quên chưa nộp lại, nay phiền đem về trả giùm.
Người đó về, nghe tin đạo sĩ đã chết, thành ra không dám tâu bày cùng Lỗ vương. Sau nhờ Thượng trả quyển sách và tâu hộ tự sự, Lỗ vương mở ra coi thì quả là một quyển sách của mình đã cho đạo sĩ mượn coi năm xưa. Nhân đó, Vương sinh nghi, đào mả đạo sĩ lên xem, thì ra chỉ còn cái hòm trống rỗng.
Về sau, chính thằng con trai của vợ Thượng sinh ra chẳng may chết yểu, nhờ có Tú Sinh nối dõi tông môn, đúng lời tiên tri của đạo sĩ.
Đào Trinh Nhất dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Báo Ứng Trước Mắt
(a Hà)
Văn Đăng Cảnh Tỉnh, hơi có tên tuổi, ở cùng xóm với Trần xinh, nhà học chỉ cách nhau bức tường ngắn. Một bữa trời đã chạng vạngm Trần sinh qua bãi đất vắng vẻ, nghe trong bụi cây có tiếng con gái khóc. Đến gần, thấy sợi dây vắt ngang trên cành cây hình như sửa soạn thắt cổ.
Trần hỏi căn do, nàng gạt lệ và nói:
- Mẹ em đi vắng xa, gửi em ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói có dã tâm, xử với em không trọn thuỷ chung, thành ra thân phải bơ vơ thế này, không bằng chết đi cho rảnh.
Nói rồi lại khóc.
Trần sinh cởi sợi dây khuyên nhủ nàng tìm người mà lấy. Nàng lo không biết nương tựa vào ai. Trần mời về nhà ở tạm, nàng nghe theo.
Về đến nhà, khêu đèn sáng lên nhìn rõ mặt thật xinh đẹp, trong bụng thấy khoái, muốn vầy cuộc mây mưa. Nàng chống cự lại dữ dội. Những tiếng cãi lẫy ồn ào thấu qua vách vên kia. Cảnh sinh leo tường sang chơi, bấy giờ chàng mới buông nàng ra.
Nàng thấy Cảnh ngó lâu không chớp mắt, lâu mới chịu đi. Hai người cùng rượt theo, nhưng không thấy bóng nàng ngả nào.
Cảnh trở về nhà mình vừa mới đóng cửa đi ngủ, thì nàng lững thững từ trong buồng đi ra. Cảnh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp:
- Hắn ta bạc phước, tôi không nương tựa cả đời được.
Cảnh mừng lắm, gạn hỏi họ tên quê quán, nàng đáp:
- Ông bà tổ tiên tôi nhà ở đất Tề cho nên tôi lấy chữ Tề làm họ, tên là A Hà.
Cảnh giở ngón chòng ghẹo, nàng cười mà không ra vẻ chống cự, bèn cùng ăn nằm. Nhà thường có nhiều bạn bè lui tới, nên nàng hay núp trong buồng học. Qua mấy hôm nói:
- Tôi hãy tạm đi, bởi chổ này lộn xộn, làm mệt người ta lắm. Từ nay xin gặp nhau vào ban đêm thì hơn.
Chàng hỏi nhà ở đâu, nàng trả lời không xa. Cứ sáng ngày đi, đêm tối lại đến, tình yêu càng thấy nồng nàn. Cách mấy ngày lại bảo Cảnh:
- Tình ái đôi ta tuy đẹp, nhưng vẫn là mới chung chạ, ngày có ngày không. Nay sẳn dịp ông thân tôi bổ đi làm quan ở miền tây, sáng mai tôi phải theo mẹ đi. Vậy để tôi về nhà, thừa cơ thú thật với mẹ thì sẽ ở lại đây luôn với chàng trọn đời.
- Nhưng mình đi độ bao lâu?
- Phỏng một tuần thôi.
Thế rồi nàng đi. Cảnh suy nghĩ ở nhà học không tiện, bèn dọn vào nhà trong. Nhưng lại lo vợ ghen, tính là không gì hơn là bỏ vợ là xong. Chàng nghĩ rồi nhất định thực hành như vậy.
Vợ đến, chàng kiếm chuyện mắng chửi, khiến vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh dỗ vợ:
- Mày chết làm phiền cho tao, thôi mày về nhà mày là hơn.
Nói đoạn, giục vợ đi cho mau, vợ khóc và nói:
- Tôi lấy anh mười năm nay chưa từng có chuyện gì thất đức, sao anh đành dứt tình như thế?
Chàng khăng khăng một mực đuổi vợ càng gấp, vợ phải cuốn gói bỏ đi.
Từ đó, sớm tối chỉ đợi nàng trở lại, nhưng mây ngàn hạc nội, chẳng thấy tăm hơi.
Vợ về nhà mình rồi, mấy phen nhờ bạn bè quen thân nói giùm, xin trở lại với Cảnh, nhưng Cảnh nhất định không nghe, bấy giờ mới cải giá lấy họ Hạ Hầu.
Làng xóm Hạ Hầu giáp ranh với Cảnh, vì có ranh giới ruộng mà hai nhà thù hiềm với nhau lâu đời. Nay nghe vợ cũ đi lấy Hạ Hầu, Cảnh càng tức giận, nhưng trong lòng vẫn còn mong được A Hà trở lại, âu yếm an ủi tấm lòng.
Trải hơn một năm, càng ngày càng kiệt chẳng thấy tăm hơi gì cả.
Gặp ngày vái hải thần, trai tài gái sắc tấp nập trong miếu ngoài sân. Cảnh cũng đến đó, trông xa xa thấy một cô gái, mặt mũi giống hệt A Hà, chàng mon men đến gần thì nàng xen vào đám đông, chàng theo dõi, cho tới ra ngoài cửa cũng ra theo. Nhưng nghoảnh đi nghoảnh lại, nàng đi như bay. Cảnh đuổi theo không kịp, tức giận bỏ về.
Cách sau nửa năm, đang đi trên đường cái, thấy một cô mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đen, lão bộc theo sau, từ đằng kia đi tới. Cảnh nhìn mường tượng là A Hà, bèn hỏi thăm người tùy tùng: Nương tử là ai? Người này đáp là vợ kế của Trịnh công tử ở Nam thôn. Cảnh lại hỏi công tử lấy vợ từ hồi nào? Nghe lão bộc trả lời nhừng nửa tháng nay thôi.
Cảnh bỡ ngỡ có lẽ mình sai lầm chăng? Giữa lúc ấy người con gái nghe tiếng nói chuyện ở phía sau lưng nên day mặt ngó lại. Cảnh trông thấy đúng thật là Hà, lại thấy nàng đã lấy người ta, cơn ghen tức sôi gan óc, cất tiếng kêu lên:
- Cô Hà ơi! Sao lại quên lời hứa cũ?
Người nhà đi theo, nghe gọi tên tục của bà chủ mình, toan túm lại đấm đá Cảnh; nàng vội ngăn lại, mở tấm vải mỏng che mặt nói với Cảnh:
- Con người phụ tình, còn mặt mũi nào thấy nhau ư?
Cảnh nói:
- Cô phụ tôi thì có, chứ tôi đâu có phụ cô hồi nào?
Nàng đáp:
- Anh phụ rẫy vợ anh còn bằng máy phụ tôi kia. Với người kết tóc trăm năm còn thế, huống chi với ai? Trước kia nhờ âm đức ông bà để lại nên thấy rên anh được ghi vào bảng thi đậu, tôi mới đem thân lấy anh. Nay vì anh bỏ vợ tấm cám, thần thánh xử phạt đã rút tên anh đi rồi. Khoa thi này người đậu thứ hai có tên là Vương Xương, thế vào tên anh đó, nói cho mà biết. Nay tôi đã lấy Trịnh quân, anh đừng mơ tưởng tôi nữa vô ích.
Cảnh cúi đầu, cụp tai, không dám mở miệng thốt ra một lời tiếng nào. Chừng ngó lên thì nàng đã giục ngựa đi như bay. Chỉ còn có ấm ức đi về thôi.
Khoa thi ấy, quả nhiên Cảnh rớt; Người đậu số hai đúng là họ Vương tên Xương, cả Trịnh là chồng nàng cũng đậu.
Từ đó Cảnh mang tiếng là con người phụ bạc, bốn mươi tuổi không vợ, gia đạo sa sút, thường phải ăn nhờ ở vạ nhà bạn hữu.
Một hôm, ngẫu nhiên đến nhà Trịnh, Trịnh mời ăn cơm và giữ lại ngủ đêm. Nàng lén nhòm khách mà động lòng thương hỏi Trịnh:
- Người khách ở trên nhà có phải là ảnh Khách Vân chăng?
Trịnh hỏi từ đâu quen biết, nàng nói:
- Trước khi lấy ông, tôi từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng khá. Tính hạnh y tuy hèn, nhưng ân đức tổ tiên chưa dứt, vả lại, đối với ông cũng là cố nhân. Vậy cũng nên cứu giúp y manh quần tấm áo kẻo để rách rưới tội nghiệp.
Trịnh nghe lấy làm phải, liền sai đưa quần áo mới cho Cảnh thay và lưu lại khoản đãi mấy ngày.
Nửa đêm, chàng sửa soạn đi ngủ, có con ở đem hơn hai mươi đồng ra tặng, còn nàng thì đứng ngoài cửa sổ nói:
- Đó là của riêng của tôi để dành, nay tặng cho anh gọi là đền đáp nghĩa cũ. Anh nên nhận lấy rồi tìm lấy một người tử tế làm vợ. Còn may là ân đức của tổ tiên dày nặng, đủ mở mày mở mặt cho con cháu mai sau. Từ nay anh ráng giữ nết nànghẳn hoi, không thì tổn thọ đấy.
Cảnh cảm tạ, về nhà trích ra hơn mười đồng mua một con hầu ở nhà khoa cử trong miền về làm vợ, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai sau đỗ đại khoa.
Còn Trịnh làm quan đến Thị lang lại bộ thì qua đời. Nàng đưa đám chôn cất rồi về, người ta vén màn che chiếc kiệu xe nàng ngồi thì là xe không, bấy giờ ai nấy mới biết rõ nàng là chồn hóa thân, chứ không phải người.
Ôi! Con người ta bất lương, được mới nới cũ, rốt lại ổ vỡ mà chim bay vụt mất, ông trời báo ứng một cách thảm độc lắm thay!


ĐÀO TRINH NHẤT dịch




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Đào mả cô Canh
(Canh Nương)



Kim Đại Dụng, con một nhà thế gia cũ ở Trung Châu, lấy con gái quan thái thú họ Vưu làm vợ.
Nàng tên là Canh Nương, đẹp mà hiền đức. Vợ chồng rất âu yếm hoà thuận. Vì có loạn giặc cỏ đánh phá, ai nấy phải bỏ nhà, tìm đường xa lánh.
Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng đem vợ đi chạy loạn, tự giới thiệu mình là Vương Thập bát và tình nguyện làm hướng đạo, Kim mừng lắm, đi đứng lúc nào cũng có nhau. Canh Nương ghé bên tai chồng nói nhỏ:
- Ta chớ nên đi chung ghe với người đó. Hắn hay dòm liếc, đôi mắt nhấp nháy mà sắc mặt biến đổi, trong bụng hẳn là nham hiểm khó lường đó.
Chàng gật đầu.
Vương Thập bát sốt sắng đi tìm mướn chiếc ghe thật lớn, khiêng vác hành lí hộ chàng, ra vẻ khó nhọc đáo để. Chàng không nỡ từ chối để đi tách riêng. Lại suy nghĩ hắn có đem vợ trẻ đi theo, chắc không có chuyện gì xảy ra mà lo.
Vương phụ cùng Canh Nương ở chung một khoang thuyền, xem người cũng có vẻ hiền từ. Còn Vương thì ngồi trên mũi ghe, cùng người chân sào nghiêng mình nói chuyện, dường như có họ hàng hay là quen biết đã lâu.
Không mấy chốc mặt trời lặn, mà sóng nước mênh mông, chẳng phân biệt phương hướng đâu là nam bắc.
Kim nhìn quanh tứ phía, thấy chỗ này thâm sâu hiểm hóc, trong bụng hơi nghi sợ. Một lúc sau trăng mọc, nhìn thấy lau sậy bát ngát.
Ghe đậu lại đó.
Vương mời cha con Kim lên mui đứng xem phong cảnh, thừa cơ đẩy tuốt Kim xuống sông. Thân phụ Kim thấy vậy muốn kêu lên, nhưng người chủ ghe cầm sào đẩy ông xuống nước chết luôn. Đến bà mẹ chàng đang ở trong ghe, nghe tiếng ồn ào, chạy ra dòm xem, cũng bị dìm sông chết đuối nữa.
Bấy giờ Vương mới làm bộ kêu cứu.
Lúc bà mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã dòm biết sự tình ra sao rồi. Khi thấy cả nhà mình chết đuối, nàng cố trấn tĩnh, không lộ vẻ kinh hoàng, chỉ ôm mặt khóc nói:
- Cha mẹ chồng chết, chồng cũng chết nữa, thân tôi biết nương dựa vào đâu bây giờ, hỡi trời?
Vương đến bên vỗ về, khuyên nhủ:
- Nương tử chớ lo, xin theo tôi về Kim Lăng, tôi có ruộng đất cửa nhà đủ sinh sống, chẳng phải lo gì.
Nàng lau nước mắt và nói:
- Được như vậy là tôi mãn nguyện lắm rồi.
Vương rất mừng, đãi đằng chiều chuộng hết sức. Tối đến nó lôi kéo nàng đòi giao hoan. Nàng nói trong mình đang kì kinh, bấy giờ nó mới chịu về chỗ vợ nằm. Cuối canh một, nghe tiếng vợ chồng cãi nhau rầm rĩ, không hiểu vì cớ gì, chỉ nghe vợ nói:
- Mày làm chuyện đó, tao e sấm sét đánh nát đầu cho mày xem.
Vương đánh vợ. Vợ la lớn:
- Mày giỏi đánh chết tao đi càng hay, tao không muốn làm vợ một đứa giết người đâu.
Vương gào thét giận dữ, túm đầu vợ lôi ra bên ngoài, liền nghe một tiếng ùm, rồi Vương nói rêu rao lên rằng vợ té xuống sông chết đuối rồi.
Mấy hôm sau đến Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, chào hỏi bà mẹ. Bà lấy làm lạ sao người này không phải vợ cũ, Vương trả lời vợ cũ chết đuối, nên mới lấy người này.
Lúc nàng vào phòng riêng, Vương lại muốn mò mẫm kia khác, nàng cười và nói:
- Con trai ngót ba chục tuổi đầu mà không biết việc phải ở đời thế nào ư? Dầu là con nhà đầu đường xó chợ, khi mới lấy vợ cũng phải có chén rượu lạt gọi là thủ lễ. Nhà ngươi giàu có, việc ấy hẳn không khó khăn, chả lẽ đối diện suông tình với nhau còn ra thể thống gì nữa.
Vương nghe nhằm lí, bèn dọn tiệc rượu ngồi đối diện nhau. Canh Nương nâng chén khuyên mời hết sức niềm nở ân cần. Vương gần say, chối từ không uống được nữa. Nàng lại rót một li lớn, giả đò lả lơi mời ép Vương uống cho kì được. Vương thấy vậy khoái chí không nỡ chối từ, liền uống cạn một hơi.
Bấy giờ nó say mèm, cởi tuột quần áo thúc giục Canh Nương đi ngủ.
Nàng dọn dẹp mâm chén rồi tắt phụt đèn, lấy cớ đi tiểu bước ra ngoài phòng, dắt dao trong lưng đem vào, lò mò trong đêm tối, lấy tay vít chặt lấy cổ Vương.
Nó mơ màng ngỡ là người yêu bá cổ mình, cho nên còn nắm lấy cánh tay nàng nói giọng lả lơi. Nàng thừa thế ấn dao xuống thật mạnh. Vương kêu rú và vùng dậy, nàng chém bồi thêm mấy dao nữa hắn mới chết. Bà mẹ nghe có tiếng động chạy đến hỏi chuyện gì, nàng thuận tay giết nốt. Em trai nó là Thập cửu hay tin chạy đén. Canh Nương tự biết mình không thoát khỏi, liền trởmũi dao lại đâm cổ. Nhưng vì hốt hoảng nên đâm vào không sâu, vội vàng mở cửa vọt ra chạy trốn.
Thập cửu rượt theo bén gót.
Nàng kịp nhào đầu xuống giếng tự tử. Thập cửu hô xóm giềng vớt lên cứu, thì nàng đã tắt hơi rồi, mà nét mặt vẫn tươi đẹp như lúc còn sống.
Mọi người cùng vào buồng xem xét tử thi của Vương, thấy trên cửa sổ có để bức thư liền mở ra xem, tức là thư Canh Nương kể số nỗi oan khổ của mình.
Ai nấy đều tấm tắc khen ngợi nàng nghĩa liệt, bàn nhau chung đậu tiền bạc mua vải liệm xác và lo cuộc tống táng.
Sáng ra thiên hạ tựu lại có mấy ngàn người.
Ai trông thấy dung nhan nàng cũng kính cẩn vái lạy. Trọn ngày, quyên góp được trăm bạc, an táng nàng ở ngoại ô phía nam. Có kẻ bày đặt nhiều chuyện đem cả mão nạm hột châu và áo bào phục mặc vào thi thể nàng rồi đem chôn một cách sang trọng, đầy đủ.
Giờ xin trở lại Kim Đại Dụng, lúc bị xô té xuống sông, tưởng chắc chết đuối, nhưng may phúc níu được tấm ván trôi nổi theo dòng nước, thành ra thoát chết. Gần xế chiều, trôi đến Hoài Thương, nhờ một chiếc thuyền nhỏ vớt lên.
Thuyền này vốn của Doãn ông, nhà giàu có, thả luôn trên sông, chuyên việc cứu vớt những kẻ đắm, đuối làm phúc.
Chừng được hồi tỉnh, Kim đến tận nhà Doãn ông để cảm tạ.
Ông đãi rất tử tế, lại muốn giữ Kim ở lại trong nhà để dạy con học. Nhưng Kim sốt ruột vì không biết tin tức cha mẹ sống chết thế nào, cho nên còn đang lưỡng lự, chưa quyết.
Giữa lúc ấy có người vô trình Doãn ông biết sự mới vớt được xác một cụ già và một bà lão chết trôi. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy ra nhìn mặt quả đún. Doãn ông sắm sửa quan tài chôn cất tử tế.
Chàng đương khóc lóc, lại được tin mới vớt một chị đàn bà, tự nói chồng nàng là Kim Sinh.
Kim giật mình gạt lệ định chạy ra tận nơi xem mặt thì người đàn bà ấy đã tới nhà Doãn ông. Kim nhìn không phải Canh Nương, mà chính là vợ cũ Vương Thập bát.
Nàng trông thấy mặt Kim khóc ròng, một hai năn nỉ chàng đừng bỏ mình tội nghiệp. Chàng nói:
- Hiện tôi bối rối ruột gan, còn có bụng dạ nào lo việc hộ người cho đặng.
Nàng càng khóc già.
Doãn ông hỏi rõ nguồn cơn, mừng là đạo trời báo ứng, cho nên khuyên nhủ Kim Sinh nên lấy nàng làm vợ.
Kim chối từ:
- Đúng lúc cư tang, lấy vợ không tiện, vả lại còn phải lo việc báo thù cho cha mẹ, sợ có đàn bà bịn rịn bên mình, sinh ra hệ luỵ chăng?
Nàng nói:
- Theo như lời chàng, giả tỉ Canh Nương còn sống thì chàng cũng lấy cớ báo thù và cư tang mà bỏ chị ấy đi chăng?
Doãn ông cho lời nàng nói đúng, ông xin chàng hãy tạm thu dưỡng nàng, để sau sẽ tính. Lúc đó Kim mới khứng chịu, rồi lo việc chôn cất ông cụ và bà cụ. Nàng cũng mặc đồ gai và khóc lóc như đối với cha mẹ chồng thật.
Sau khi an táng cha mẹ xong, Kim giấu dao nhọn trong lưng, đeo bị ăn xin dọc đường định tới Quảng Lăng tìm kẻ thù. Nàng ngăn lại và nói:
- Tôi họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với thằng khốn nạn đó. Lúc trước nói ở Quảng Lăng ấy là nói láo. Vả lại quân ăn cướp giang hồ, phần nhiều là đồng đảng của nó. Chàng chớ có mạo hiểm vu vơ e rằng đại cừu không báo được mà tự rước lấy tai vạ vào mình đấy thôi.
Kim nghe ngần ngừ không biết tính sao cho phải.
Chợt nghe thiên hạ đồn ầm về chuyện một người con gái giết chết kẻ thù, khắp cả đò dọc biển sông, đâu đâu cũng biết, lại nói rõ cả tên họ. Kim nghe lấy làm khoái chí, nhưng lại càng thấy đau đớn trong lòng, nhất định chối từ không lấy Đường thị, nói rằng:
- Cũng may, vợ tôi không chịu ô nhục mà giết được kẻ thù. Một người có vợ nghĩa liệt đến thế, nỡ lòng nào phụ rẫy mà lấy vợ khác cho đành.
Đường thị trả lời rằng đã có lời nói nhất định trước rồi, không chịu giữa đường bỏ dở, thôi thì nguyện làm nàng hầu vợ mọn cũng cam.
Vừa vặn lúc đó có quan phó tướng Viên công, vốn quen biết Doãn ông, nhân tiện đổi đi trấn thủ miền tây, ghé vào thăm Doãn ông, được trông thấy Kim, đem lòng yêu mến, xin chàng đi theo làm thư kí.
Không bao lâu, giặc cướp phạm vào đất Thuận, họ Viên đánh dẹp có công to, Kim cũng tham dự khó nhọc trong việc quân cơ, được thưởng chức quan du kích mà về. Bấy giờ mới cùng Đường thị làm lễ kết hôn, thành ra vợ chồng chính thức.
Ở lại mấy ngày rồi dắt vợ đi Kim Lăng, định tìm viếng mộ Canh Nương.
Kim bảo ghé thuyền đỗ bến Trấn Giang, ý muốn lên núi Kim Sơn viếng cảnh, chợt thấy giữa dòng có một chiếc ghe nhỏ đi qua, bên trong có bà cụ và một thiếu phụ ngồi. Kim thoáng trông lấy làm lạ, thiếu phụ hơi giống Canh Nương.
Chiếc ghe lướt qua mau lẹ, thếu phụ thò đầu ra cửa sổ dòm Kim, khiến chàng nhận thấy hình dung càng giống như đúc, nhưng trong bụng nửa kinh nửa ngờ, không dám đuổi theo mà hỏi, chỉ vội vàng nói câu này thật lớn: “Xem đàn vịt đang bay trên trời kia kìa!”.
Thiếu phụ nghe lọt cũng nói to tiếng: “Chó con lại muốn ăn thịt của mèo ư?”. Ấy là câu nói lóng của vợ chồng thường đùa bỡn nhau trong chốn khuê phòng.
Kim cả kinh, giục ghe quay chèo lộn lại. Té ra thiếu phụ chính là Canh Nương.
Con hầu đỡ Canh Nương bước sang thuyền Kim. Vợ chồng ôm nhau khóc nức nở. Đường thị lấy lễ vợ bé đối với vợ lớn, chào hỏi Canh Nương.
Canh Nương sửng sốt hỏi tại sao vợ Vương Thập bát lại ở đây. Kim thuật rõ đầu cuối. Canh Nương cầm tay Đường thị và nói:
- Câu chuyện đàm đạo trong khi cùng một chuyến đò, vẫn ghi nhớ trong lòng không quên, chẳng dè ngày nay được sum họp với nhau một nhà. Tôi nhờ có chị thay mặt tống táng cha mẹ chồng, đáng lí tôi phải tạ ơn chị trước, sao chị lại lấy lễ đích thứ đối với tôi thế?
Canh Nương hỏi ra Đường thị kém mình một tuổi bèn gọi Đường thị là em.
Nguyên hồi Canh Nương chết rồi, được các người hảo tâm chôn cất, không tự biết là trải bao xuân thu đắp đổi. Một hôm chợt nghe có người gọi tên và nói:
- Canh Nương ơi! Chồng mi không chết đâu, rồi vợ chồng mi sẽ lại được sum họp.
Khi đó nàng như chiêm bao mới tỉnh, rờ tay thấy bốn phía bưng bít như tường kín, bấy giờ mới tỉnh ngộ rằng mình đã chết, chôn trong quan tài, nhưng trong trí chỉ thấy buồn bực, chứ không có điều chi khổ sở.
May sao, có bọn người tham lam, thấy được khi người ta liệm nàng có nhiều đồ vật sang trọng, bèn thừa đêm khuya rủ nhau ra đào mả bửa hòm, để lấy những vật quý giá đó. Nào dè mở ra, thấy Canh Nương còn sống, cả bọn sợ hãi cuống quýt.
Canh Nương sợ chúng sát hại mình, cho nên lấy lời nhỏ nhẹ năn nỉ:
- Thật là nhờ có mấy anh, mà tôi lại trông thấy mặt trời. Vậy bao nhiêu trâm cài lược giắt trên đầu tôi, xin mấy anh cứ việc lấy đi, rồi đem tôi bán cho một chùa nào làm ni cô thì mấy anh còn được món tiền nhiều ít nữa. Tôi thề giữ kín, không lộ với ai mà sợ.
Bọn trộm cúi đầu thưa:
- Nương tử nghĩa liệt, dù người hay quỷ thần đều phải kính nể. Anh em chúng tôi chỉ vì nghèo túng vô phương mà làm việc bất nhân thế này. Chỉ cầu nương tử không nói lộ chuyện là may phúc cho anh em chúng tôi lắm rồi, đâu dám đem nương tử đi bán cho chùa.
Canh Nương đáp:
- Điều đó tự lòng tôi muốn mà.
Một đứa trong bọn nói:
- Tại Trấn Giang có Cảnh phu nhân, goá chồng mà không có con cái chi, nếu được nương tử về làm con nuôi, thì hẳn bà mừng lắm.
Canh Nương tạ ơn, rồi tự tháo các món châu báu trang sức trên đầu trao cho lũ trộm. Chúng không dám nhận. Nàng cố ép mãi, chúng mới chịu lãnh rồi mời nàng xuống ghe, chở tới nhà Cảnh phu nhân, nói thác rằng nàng bị bạt phong chìm thuyền lưu lạc đến đây.
Cảnh phu nhân nhà cao cửa rộng, thân đàn bà goá vò võ một mình, đang trong cảnh buồn, bỗng được Canh Nương, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền nhận nuôi nàng và chăm nom chiều chuộng không khác nào con đẻ.
Hôm nọ, Kim Sinh gặp ở trên sông, là lúc hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về.
Canh Nương kể rõ tình đầu cho bà nghe, rồi Kim Sinh qua chào. Bà tiếp đãi như mẹ vợ đối với chàng rể, lại mời đến nhà ở chơi mấy ngày mới cho về.
Từ đó hai vợ chồng lui tới nhà phu nhân luôn.





Đào Trinh Nhất dịch




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Tình NGhĩa Với Chim
(A Anh)
Cam Ngọc, tự Bích Nhân, người quận Lộ Lăng, cha mẹ mất sớm còn người em trai, tên Giác tự Song Bích, mới có năm tuổi, nhờ anh chị nuôi nấng.
Người rất hữu ái, chăm nom em chẳng khác gì con ruột. Năm tháng qua đi, Giác trưởng thành, mặt mày khôi ngô lại thông minh học giỏi, cho nên Ngọc càng quý, thường nói:
- Thằng em ta lỗi lạc thế này, phải có vợ tài mạo song toàn mới xứng đáng.
Nhưng kén chọn khó tính quá, thành ra dạm hỏi chẳng xong đám nào. Một hôm, Ngọc lên chùa núi Khuông Sơn đọc sách rồi ngủ lại đó, gần khuya đi nằm nghe bên ngoài cửa sổ có tiếng con gái thỏ thẻ, nhìn ra thấy ba bốn cô gái ngồi xúm nhau trên bãi cỏ, mấy con tớ gái bày rượu và đồ nhắm, cả bọn đều có sắc đẹp. Một cô hỏi:
- Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không đến chơi với chị em ta?
Cô gái ngồi hàng cuối trả lời:
- Bữa qua nó từ cửa ải Hàm Cốc đến đây bị một thằng hung bạo làm đau cánh tay phải; cho nên không thể cùng chị em mình ngao du đêm nay.
Mỗi người một lời, tỏ vẻ tức tối cho A Anh. Rồi một cô gái nói:
- Đêm trước nằm chiêm bao ghê quá, hôm nay nhớ lại còn toát mồ hôi.
Cô ngồi hàng cuối xua tay gạt đi:
- Chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói chuyện nhát sợ người ta mất khoái đi.
- Con bé này sao nhát gan đến thế! Nó làm như beo cọp đến vồ đi chăng? Nếu muốn cho ta đừng nói thì phải một bài thuốc chuốc chén cho chị đây. Cô nọ liền ngâm nho nhỏ:





Bông đào đua nở đầy thềm tốt tươi
Hôm qua hẹn ước chớ có đơn sai
Nhắn nhủ cô em bên xóm
Đợi nhau chút đỉnh chớ nên giục tôi


Mang giày cánh phụng rồi tôi tới nơi.
Cô ngâm xong, cử tọa đều tấm tắc khen hay.
Giữa lúc chị em đang vui cười, bỗng một người to lớn hầm hầm đi vào, mắt lồi mặt dữ tợn, các cô cùng hoảng hốt la lên:
- Yêu tinh đến đó! Yêu tinh đến đó!
Rồi mạnh ai nấy chạy tán loạn, như chim lạc đàn, duy cô vừa mới hát không chạy kịp, bị yêu tinh bắt được, kêu la thảm thiết, cố sức giằng co để gỡ mình ra. Yêu tinh giận dữ cắt đứt một ngón tay cô của mà nhai liền đó. Cô ngã xuống đất chết giấc.
Cam Ngọc nhìn thấy động lòng xót thương không sao nhịn được, lập tức rút gươm mở cửa xông ra, chém yêu tinh, trúng vào bắp về đứt lìa, nó đau quá chạy mất.
Ngọc đỡ nàng vào nhà, thấy mặt đầy cát bụi, máu thấm ướt áo, té ra đứt ngón tay cái, liền xé vải buộc lại cho nàng. Bấy giờ nàng mới tỉnh, nói rên rỉ:
- Cái ơn cứu mạnh lấy gì mà đáp đền?
Từ khi Ngọc trông thấy nàng, đã ngầm tính tới chuyện làm mai cho em, bèn ngỏ ý với nàng, nàng nói:
- Con người có tật như tôi, không thể làm việc nội trợ được nữa, để tôi làm mai một người cho em ông.
- Người ấy họ chi?
- Cô ấy họ Tần.
Đoạn, Ngọc tự lấy chăn của mình đắp cho mình. Hôm sau, Ngọc về thuật chuyện với em, lấy làm hối hận không hỏi nàng cửa nhà làng xóm ở đâu.
Một hôm, em Ngọc là Giác ngẫu nhiên đi chơi ngoài đồng, gặp một cô xuân xanh đôi tám, mặt mày cực xinh, ngó chàng mà cười chúm chím, sau liếc quanh bốn phía rồi nói:
- Cậu có phải là cậu Hai nhà họ Cam đó không?
- Thưa phải! Chính tôi!
- Ông cụ thân sinh ra cậu hồi xưa có đính ước hôn nhân cho cậu với tôi, sao hôm nay cậu lại muốn trái lời ước cũ, đi dạm hỏi họ Tần?
- Thưa cô, tôi mồ côi cha từ hồi còn bé, cho nên những lời hẹn hò thế nào, không từng hay biết. Vậy xin cô nói rõ họ tên, để tôi về hỏi lại anh tôi.
- Thưa cậu ạ, không cần tra hỏi tỉ mỉ làm chi. Miễn được cậu ừ một tiếng, rồi tôi sẽ tự đến nhà.
Giác từ chối, lấy cớ là chưa nói với anh, không dám hứa bừa, nàng cau mày nói:
- Vậu này ngây thơ quá, sợ anh đến thế ư? Đã vậy thì thôi, nói cho biết: Tôi đây họ Lục ở thôn Sơn Vọng thuộc về Sơn Đông. Nội trong ba bữa tôi đợi tin cậu đấy.
Nói đoạn, nàng từ giã đi.
Giác về thuật chuyện với anh, anh nói:
- Con đó nói láo. Hồi cha mất, tao đã ngoài hai mươi tuổi, nếu có chuyện đính hôn đó, lẽ nào tao lại không hay.
Ngọc lại nghĩ, con gái đi một mình ngoài đồng, gặp đàn ông con trai tự dưng bắt chuyện như thế là hạng gái không ra gì, cho nên trong lòng khinh bỉ, không thèm để ý. Tuy nhiên, cũng hỏi em coi dung mạo nàng ra sao? Giác thẹn đỏ mặt, không thốt được một lời nào. Chị dâu cười hỏi:
- Ý chừng cô ả đẹp lắm thì phải.
Ngọc nói:
- Nó con nít, biết gì xấu đẹp? Dù cho đẹp cũng không bằng họ Tần đâu. Đợi xem chừng nào họ Tần không xong, sẽ tính đám này cũng chưa muộn.
Giác lẳng lặng bỏ đi.
Cách mấy hôm sau, Ngọc đi đường, thấy một thiếu nữ vừa đi vừa khóc trước mặt, liền buông cương kìm ngựa lại mà dòm mặt thấy sắc đẹp tuyệt trần bèn sai tên tùy tùng hỏi nàng vì sao mà khóc.
Nàng đáp:
- Tôi lúc trước đính hôn cậu hai nhà họ Cam vì nỗi nhà nghèo nên phải đi xa, phải bặt tin tức. Gần đây mới về, lại nghe Cam gia thay lòng đổi dạ, quên lời ước cũ, bây giờ tôi cốt đến hỏi người anh cả là Cam Bích Nhân xem anh ấy liệu cho tôi ra sao?
Ngọc sửng sốt vừa mừng vừa tự giới thiệu:
- Cam Bích Ngọc chính là tôi đây cô ạ! Ông cụ nhà tôi thuở trước có hẹn ước ra sao, thật tình là tôi không biết. Đây cách nhà tôi không xa, mời cô về nhà tôi bàn tính.
Nói rồi xuống ngựa, nhường cho nàng cưỡi, tự mình đi bộ theo sau, đưa nàng về nhà.
Nàng tự nói tên là A Anh, mà không có anh trên em dưới nào cả, duy chỉ có một người chị bên ngoại, họ Tần cùng ở chung. Bấy giờ Ngọc mới hiểu cô nọ đã nói hôm trước tức là người này. Ngọc muốn sai người đi báo tin cho nhà cô biết, nhưng cô nhất định cản đi.
Ngọc mừng thầm, em mình vớ được vợ đẹp, nhưng sợ nàng lẳng lơ, e bị thiên hạ chê cười. Cưới về một thời gian, nhận thấy cử chỉ đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như là mẹ, chị dâu cũng hết lòng yêu chuộng.
Gặp tiết trung thu, vợ chồng đang ngồi ăn uống thân mật, chị dâu sai người đến mời, kèo nài thế nào nàng cũng phải đến nhà anh chị uống rượu thưởng nguyệt cho vui. Trong ý Giác còn phân vân, thì nàng bảo người đi mời cứ về trước, nàng sẽ tới sau. Nhưng ròi nàng cứ ngồi lỳ ở nhà nói chuyện vui cười với chồng, lâu lâu mà không có ý ra đi, làm Giác phải giục giã, sợ chị dâu chờ đợi mãi, không nên. Nàng chỉ cười, sau rốt vẫn ngồi nhà chớ không đi đâu cả.
Sáng ngày, nàng chải đầu thoa phấn vừa xong, thì chị dâu thân hành đế thăm viếng, hỏi tại sao đêm qua ngồi với mình mà có vẻ xuôi xị không vui. Nàng mỉm cười.
Giác thấy chuyện lạ, hạch hỏi đôi co, té ra hồi hôm vợ ngồi cả buổi ở nhà không chịu đi, đồng thời lại có mặt tại nhà chị mới kỳ. Chị cả kinh, nghĩ bụng, nếu như nàng chẳng phải yêu ma, cớ sao có phép thân phân hai nơi như thế. Ngọc cũng phát sợ, đứng cách bức màn mà nói:
- Nhà tôi đời đời tu nhân tích đức, vốn không chuyện oán thù gì với cô. Nếu phải cô là yêu tinh thì xin đi mau, chớ giết em tôi tội nghiệp.
Nàng thẹn thùng nói:
- Vâng, em vốn không phải là người. Chỉ vì ngày xưa ông cụ có lời đính ước, thành ra chị Tần thúc giục em tới đây. Chính em tự nghĩ không thể sinh đẻ gì được, cho nên thường muốn từ biệt mà đi cho rảnh; bấy lâu hãy còn bịn rịn chẳng nỡ dứt tình chỉ vì cảm tấm lòng anh chị đối đãi tử tế đó thôi. Nay anh chị đã sinh lòng ngờ vực thì em xin đi biệt từ đây.
Chớp mắt đã hóa thành chim anh vũ bay mất.
*
Nguyên hồi Cam ông còn sống, có nuô một con anh vũ cực khôn, mỗi ngày ông tự đút mồi cho nó ăn. Lúc đó Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cha tại sao cứ phải cho chim ăn. Ông nói giỡn:
- Cho nó ăn để sau này làm vợ mày đó.
nhiều khi sợ chim ăn chưa đủ no, ông kêu Giác:
- Kìa, con không cho nó ăn thì dâu của tao chết đói còn gì?
Gia nhân cũng lấy chuyện đó mà đùa bỡn với Giác. Về sau, chim duộc dây, bay vù đi mất.
Nay người anh nhớ lại chuyện xưa, mới tỉnh ngộ nàng nói cựu cũ là vậy đó.
Bây giờ, Giác thấy rõ vợ không phải là người nhưng biến đi thì lòng thương nhớ khôn nguôi. Chị dâu cũng nặng tình tưởng nhớ, đến nỗi sớm chiều khóc lóc. Ngọc động lòng hối hận song việc đã lỡ chẳng biết làm sao kéo lại cho được.
Sau hai năm, Ngọc cưới con gái Khương thị về cho em, nhưng trong ý không nguôi chuyện cũ.
Có người anh họ là chức Tư Lý ở Quảng Đông, Ngọc đến thăm, lâu ngày không về. Vừa gặp thổ phỉ dấy loạn, xóm làng xung quanh đổ nát quá nửa. Giác sợ quá đưa cả nhà vào hang núi lánh nạn, trai gái hỗn tạp, không còn biết ai là ai. Chợt nghe tiếng con gái nói thỏ thẻ, nghe giống như A Anh, chị dâu hối Giác lại gần xem thì quả A Anh.
Giác mừng quýnh nắm chặt lấy cánh tay không buông, nàng nói với người cùng bọn:
- Cô hãy đi trước, tôi đợi chị dâu tôi đến.
Khi đến nơi, chị dâu trông thấy khóc nức nở, nàng an ủi đôi ba phen, lại nói chốn này không thể yên thân, nên kéo nhau về nhà là hơn. Mọi người sợ cướp quấy nhiễu thì nguy. Nàng nhất định bảo cứ về, không có gì lo. Bấy giờ mọi người đưa nhau về.
Nàng đào đất bịt cửa, dặn dò ai nấy cứ yên bên trong, không được ra ngoài. Ngồi nói ba điều bốn chuyện, nàng rục rịch muốn đi. Chị dâu vội vàng nắm chặt cánh tay, lại bào hai con hầu mỗi đứa ôm cứng một chân. Cực chẳng đã, nàng phải ở lại, nhưng chạy về buồng riêng. Giác năn nỉ hẹn hò ba bốn lần nàng mới đến một lần.
Chị dâu thường nói với nàng rằng Khương thị lôi thôi, nên không vừa ý chú hai (tức Giác) nàng bèn thức dậy thật sớm, ra tay trang điểm trau dồi cho Khương thị. Người ta vào thấy xinh đẹp gấp bội. Cách ba bốn ngày biến đổi rõ ràng là một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân dịp mình không có con, ý muốn mua một cô hầu cho chồng, nhưng bấy lâu chưa rảnh mà tính chuyện ấy, nay thấy nàng có tài biến xấu ra đẹp như thế, bèn hỏi nàng trong đám thị tì, chẳng biết có thể nào tô điểm biến hóa được không? Nàng nói:
- Bất cứ ai cũng có thể biến hóa được. Duy có kẻ nào sẳn sàng chất tốt, thì đỡ tốn công phu thế thôi.
Đoạn, nàng xem tướng khắp mặt con hầu trong nhà, có một đứa vừa đen vừa xấu nàng bảo có tướng sinh con trai. Liền đó nàng gọi nó đi tắm rửa xong, tự lấy phấn trộn với thuốc bột mà thoa khắp cơ thể cho nó. Làm vậy ba bốn bữa, sắc mặt lần lần biến vàng. Sau hơn hai mươi tám ngày thì dầu mỡ thấm nhuần da thịt, thành ra con người dễ coi.
Ngày ngày nàng chỉ đóng cửa làm trò vui cười, tuyệt nhiên chẳng hề kể gì tai nạn binh hỏa rầm rộ bên ngoài.
Một đêm, tiếng kêu ồn ào tứ phía, cả nhà sợ quýnh. Giây lát, ngoài cửa dậy tiếng người la ngựa hí, kéo đi nầm nập. Sáng ra mới biết hồi khuya cả xóm bị cướp đốt phá gần hết, bọn cướp lục soát khắp nơi, những người ẩn núp hang núi đều bị giết chóc. Bấy giờ cả nhà mới cám ơn nàng, coi nàng như thần. Bỗng dưng nàng nói với chị dâu:
- Em đến đây chuyến này chỉ vì cám ơn nghĩa của chị không thể quên được cho nên cùng chị chia sẻ cảnh buồn loạn ly. Anh sắp về tới nơi chị ạ! Em còn ở đây nghĩ cũng kỳ, khác nào tục ngữ thường nói: “Chẳng ra môn khoai gì cả”, âu thật buồn cười.Thôi em phải đi, chừng nào rảnh sẽ ghé thăm chị.
Chị dâu hỏi tin tức người dađg đi đường có bình yên mạnh giỏi không. Nàng đáp:
- Giữa đường có nạn lớn nhưng chuyện này không dự chi đến người ta. Chị Tần mang ơn nhiều, tất là nhân dịp báo đáp, vậy thì gặp nạn cũng chẳng hề chi.
Chị dâu cố giữ ngủ lại một đêm nữa, trời chưa sáng rõ thì nàng đã đi rồi.
Nói về Cam Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà giặc giã, cố đi ngày đêm để về cho mau. Giữa đường gặp giặc, hai thầy trò phải bỏ cả ngựa, gói ghém tiền nong cột vào bụng lén núp trong bụi gai góc. Một con Tần Các Liễu (tên riêng của loài chim anh vũ) bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che đậy. Ngọc nhìn cái cẳng thấy khuyết một ngón, trong bụng lấy làm lạ. Giây lát bọn giặc xúm quanh tứ phía tìm tòi khắp các bờ bụi, Ngọc và tên tùy bộ nín hơi, không dám thở mạnh.
Giặc lục soát không thấy gì, bỏ đi tứ tán, bấy giờ chim mới bay đi.
Về nhà, vợ chồng cùng thuật cho nhau ngh những chuyện đã thấy, lúc đó Ngọc mới biết Tần Các Liễu tức là mỹ nhân mình cứu mạng năm xưa.
Sau, hễ khi nào Ngọc đi chơi lâu không về, đêm ấy A Anh tất ghé về nhà, nhắm chừng Ngọc gần về thì nàng đi. Giác gặp lại nàng tại nhà chị dâu, lần nào cũng mời thỉnh đến nhà mình chơi, nàng ừ nhưng không đến bao giờ.
Một đêm, Ngọc đi chơi, Giác định chừng A Anh sẽ đến, bèn núp một nơi để chờ. Một lúc quả nàng có tới, Giác xông ra đón đường, lôi kéo về nhà mình kỳ được mới nghe. Nàng nói:
- Tôi với cậu tình duyên đã hết rồi, nếu cố sum họp e bị trời ghen ghét, vậy ta nên lưu chút tình đó để thỉnh thoảng gặp nhau thì hơn.
Giác không nghe, cứ việc ôm ấp nàng, rồi giao hoan.
Trời sáng, đến nhà chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói:
- Em đi nửa đường, bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải mong đợi, thật em có lỗi muôn vàn.
Nàng nói chuyện dăm ba câu rồi đi ra. Một luc sau, con mèo lớn trong nhà ngậm chim anh vũ đi qua trước cửa buồng ngủ, chị dâu nghi là A Anh, sửa soạn đi tắm mà phải bỏ tắm, kêu người nhà đổ ra bắt con mèo mà lấy chim anh vũ lại. Cánh bên tả rướm máu, hơi thở thoi thóp, chị dâu đặt lên đầu gối vuốt ve khá lâu, chim mới hồi tỉnh, tự lấy mỏ rỉa lại lông cánh, giây lát bay quanh trong nhà miệng nói:
- Xin chào chị ở lại, em đi. Em oán cậu Giác lắm.
Đoạn vỗ cánh bay thẳng.

ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Đào Trinh Nhất dịch
Bà chúa Tây Hồ
(Tây Hồ chúa)



Trần Bật Giáo, tự Minh Doãn, người đất Yên, vì cảnh nhà nghèo, đi theo phó tướng quân Giả Gián, làm chân thư kí.
Nhân có việc, đậu thuyền trên hồ Động Đình, chợt thấy một con thuồng luồng nổi lên mặt nước, Giả tướng quân lấy cung tên bắn trúng lưng nó. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không bỏ, thành ra bắt được cả đôi, kéo lên mạn thuyền, chỉ còn hơi thở thoi thóp. Thuồng luồng há miệng ngáp hoài, dường như kêu cứu. Trần sinh trông thấy động lòng, xin phép Giả tướng quân cho thả nó đi, sẵn trong túi có thuốc trị thương tích, chàng đùa xoa vào vết thương của nó rồi thả xuống hồ. Nó lặn hụp giây lâu rồi đi thẳng.
Hơn một năm sau, chàng nghỉ việc về bắc, lại qua hồ Động Đình, bị gió bão lớn đánh ghe lật chìm, may phúc chàng ôm được một cái phên tre, lênh đênh cả đêm mới dạt vào bờ. Khi lên rồi ngó lại thấy một cái xác cũng theo chân dạt vô. Thì ra xác tên tiểu đồng theo hầu mình. Chàng cố kéo lên bờ, nó đã chết cứng. Chàng trong lòng đau đớn rầu buồn, ngồi trơ trọi trước thây ma. Dòm quanh chỉ thấy núi non lởm chởm, hàng liễu xanh xanh, chẳng có bóng người nào lại qua hòng thăm hỏi đường sá.
Từ sáng sớm đến quá giờ thìn, buồn bực muốn chết. Bỗng dưng xác tiểu đồng cựa quậy, chàng mừng quá rờ xem, giây lát nó ộc nước ra cả thùng, rồi thì sống dậy.
Thầy trò cởi hết áo quần phơi trên mặt đá, gần trưa mới khô ráo, mặc vào mình được, tới phiên bụng đói như cào, không sao chịu nổi. Bấy giờ dắt nhau băng núi mà đi, mong gặp xóm làng để xin ăn đỡ dạ.
Mới bò lưng chừng núi, nghe tiếng rung reng, đang dáo dác suy nghĩ, thấy hai cô thiếu nữ cưỡi ngựa từ đầu kia đi tới, rong ruổi như bay. Cô nào cũng khăn lụa bịt trán, tóc cắm lông trĩ, mình vận áo tím chẽn tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua phía nam núi, có mấy chục người ngựa đang săn trong đám cỏ tranh, đều là mĩ nữ, trang sức như nhau.
Chàng không dám bước tới, chừng thấy một người đàn ông đi bộ, trông như lính chăn ngựa mới lần đến hỏi thăm.
Người lính đáp:
- Ngài là bà chúa Tây Hồ, lên Thủ Sơn săn bắn đó.
Chàng kể lai lịch của mình và kêu đói bụng. Người lính đưa cho gói cơm khô và căn dặn:
- Chú nên tìm đường tránh xa, nếu để chúa trông thấy thì chết mất xác đó!
Nghe nói sợ quá, chàng lật đật xuống núi, thấy trong rừng rậm có bóng lâu đài, ý chừng là cảnh chùa, liền nhắm hướng đó đi lần tới. Đến nơi, thấy vách tường sơn trắng, suối nước chảy qua, cửa sơn nửa khép, có cầu đá đi vào. Chàng dòm qua cửa, thấy bên trong san sát những lầu, những gác, như cảnh thượng uyển nhà vua, trong ý tưởng chắc là vườn của một nhà sang trọng nào đó, bèn lần mò vào. Hai bên đường đi, giàn hoa vắt ngang, hương thơm nức mũi. Qua mấy ngả quanh co, vào tới một toà lâu đài khác, mấy chục cây dương liễu thành hàng cao đụng mái nhà, chim núi hát ríu rít thì hoa càng bay, cơn gió thổi phe phẩy thì lá cây tự rụng, thật là cảnh sắc đẹp mắt khoái tâm, chẳng phải cõi trần. Đi xuyên qua một lớp tiểu đình, thấy một giá đu, cao vút mây xanh, lúc đó tứ bề lặng lẽ, không có bóng người nào. Chàng nghĩ gần chốn khuê các, cho nên nhút nhát không dám vào nữa.
Bỗng nghe tiếng ngựa hí cổng ngoài, với tiếng con gái cười nói, chàng với tiểu đồng cùng nép mình nằm phục trong đám cây hoa. Một lát, tiếng cười tiến đến gần, nghe một cô nói:
- Bữa nay đi săn không vui, bắt được muông chim rất ít.
Một cô khác nói:
- Nếu công chúa không bắn rơi một con nhạn hôm nay, thì ra cuộc săn tốn công vô ích.
Liền đó, mấy người thị nữ áo đỏ nâng đỡ một vị thiếu nữ đến ngồi trong tiểu đình. Nàng mặc nhung phục, tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc mướt mình thon, vẻ đẹp hoa ngọc nhị quỳnh cũng không bì kịp. Bọn gái hầu dâng trà thơm và đốt trầm hương, khói cuộn long lanh như gấm dệt. Giây lát, nàng đứng dậy bước xuống dưới thềm, một cô gái hầu nói:
- Công chúa cưỡi ngựa nhọc mệt, giờ có thể chơi đu được chăng?
Nàng cười và gật đầu. Bọn gái hầu liền xúm lại, kẻ đỡ vai, người nâng cẳng, lại có đứa xắn quần, cầm giày, đặt công chúa lên bàn đu. Công chúa đưa hai cánh tay nõn nà, nắm lấy dây đu, chân thì nhún nhảy trên bàn đạp, nhẹ nhàng như chim én bay liệng trên mây.
Công chúa đánh đu một lúc, bọn hầu lại đỡ xuống và nói:
- Công chúa thật là nàng tiên!
Thầy trò cùng nói cười vui vẻ, kéo nhau trở về cung.
Traâg lang hé mắt dòm từ đầu tới cuối, hồn phách tê mê. Chừng tiếng người im lặng đâu đó, chàng mới thò mặt ra, đến dưới cây đu, bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy dưới giàn có chiếc khăn đỏ, biết của các cô mĩ nữ bỏ rơi, liền lượm bỏ vào túi, rồi bước lên tiểu đình ngắm cảnh chơi. Trông thấy trên bàn sẵn có bút mực, chàng bèn lấy khăn ra, đề lên một bài thơ tức cảnh:
Người đâu tiên nữ nhởn nhơ chơi
Tung búp sen vàng rải khắp nơi
Đố chị Hằng Nga khỏi ganh ghét
Mây xanh nhẹ gót thẳng lên trời.

Đề xong, ngâm nga đắc ý rồi ra đi, tìm lại đường cũ thì mấy lớp cửa đóng then gài cả rồi. Chàng quanh quẩn không biết tính sao, quay lại dạo xem lầu nọ đài kia gần khắp lượt. Một thị nữ chợt đến, sửng sốt hỏi chàng tại sao lọt vào chốn này. Chàng vái chào nói:
- Tôi đi lạc đường, xin cô cứu cho.
- Anh có lượm được chiếc khăn đỏ nào không?
- Thưa có, nhưng đã viết chữ vào rồi làm sao?
Nói rồi lấy đưa cho nàng xem. Nàng cả kinh nói:
- Thôi, anh chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, giờ vẽ bậy vào rồi, biết nói làm sao!
Chàng tái xanh mặt, năn nỉ xin lỗi. Nàng lắc đầu:
- Vào chốn cung cấm dòm dỏ, tội đã không tha thứ được rồi. Tôi nghĩ anh là học trò nho nhã, muốn lấy sự tử tế riêng mà bênh vực chu toàn giùm anh, nhưng đằng này anh lại tự gây ra tai vạ đến như vậy, thì tôi hết lối.
Nói xong vội vàng cầm khăn chạy đi.
Chàng run sợ hồi hộp, tức mình không có cánh mà bay, chỉ còn có cách vươn cổ đợi chết. Một chặp sau, người thị nữ lúc nãy trở lại, nói nhỏ với chàng:
- May ra anh khỏi chết đấy. Công chúa cầm khăn xem đi xem lại ba bốn lần, mặt không có vẻ gì tức giận, có lẽ sẽ tha cho anh đi. Thôi, chịu khó ngồi đợi ở đây, chớ có tò mò leo cây trèo tường mà dòm ngó gì, nếu bị phát giác thì không tha được đâu.
Trời đã xế chiều, việc lành dữ ra sao chưa nhất định, mà bụng đói như thiêu như đốt muốn chết. Một lát, thị nữ cầm đèn đi tới, một cô khác thì xách giỏ cơm bầu rượu đem ra cho chàng ăn. Chàng săn đón dò hỏi tin tức, nàng nói:
- Vừa rồi tôi thừa dịp nói với công chúa liệu định có thả anh học trò trong vườn thì thả cho ra đi, không thì đói bụng chết. Công chúa ngẫm nghĩ rồi bảo trời tối rồi, đuổi người ta đi đâu bây giờ? Rồi công chúa dạy đem cơm ra cho ăn, thế tức không phải là điềm dữ đâu!
Chàng băn khoăn lo lắng suốt đêm, không sao yên tâm cho đặng. Qua hết giờ thìn, thị nữ lại xách cơm ra cho ăn. Chàng năn nỉ nói giùm. Nàng đáp:
- Công chúa không bảo giết, cũng chẳng bảo tha. Tôi là kẻ dưới đâu dám nhắc nhở lôi thôi.
Cho tới mặt trời xế bóng, chàng mong đợi mãi không thấy gì, bỗng thấy thị nữ hơ hải chạy đến, nói không ra hơi:
- Thôi chết đến nơi rồi. Kẻ nào nhiều chuyện không biết, đi nói lộ ra cho vương phi hay. Vương phi đòi lấy chiếc khăn xem rồi quăng xuống đất, la mắng ngông cuồng rầm rĩ. Vậy e tai vạ của anh không còn xa nữa.
Chàng nghe hết hồn hết vía, mặt nhợt ra không còn sắc máu, quỳ mọp dưới đất, van lơn cầu cứu.
Chợt nghe tiếng người xôn xao đến gần, nàng vội lảng đi chỗ khác. Mấy người vác hèo cầm dây, hầm hầm bước vào định trói chàng giải đi. Trong đám có một thị nữ nhìn kĩ chàng rồi la thất thanh:
- Tưởng ai, té ra Trần lang đây mà!
Nàng nói và ngăn bảo đừng trói:
- Khoan đã! Khoan đã! Đợi tôi tâu với vương phi xem sao.
Nàng lật đật chạy đi giây lát, trở lại nói rất lễ phép:
- Vương phi xin mời Trần lang vào.
Chàng run sợ đi theo, qua mấy chục lần cửa, đến toà cung điện, ngoài treo rèm ngọc móc vàng, liền có mĩ nữ cuốn rèm lên và xướng tâu:
- Trần lang vào chầu.
Một thiếu phụ ngồi trên, bào phục cực kì lộng lẫy. Chàng cúi đầu mọp mình nói:
- Thần là người ở xa xôi tới đây, rủi lạc vào chốn tôn nghiêm, muôn đội ơn trên tha thứ.
Vương phi vội vàng đứng dậy, tự đỡ tay chàng và nói:
- Nếu không nhờ có tiên sinh, thì tôi đâu còn tới ngày hôm nay. Bọn tôi tớ chẳng rõ nguồn cơn, đến nỗi thất lễ với quý khách, lỗi đó lấy gì chuộc đặng.
Lập tức sai dọn tiệc hoa, rót rượu bằng chén ngọc, ân cần thết đãi. Chàng mờ mịt chả hiểu duyên cớ ra sao. Vương phi nói:
- Đại ơn tái tạo, bấy lâu chưa được báo đền, lòng hằng cắn rứt. Con gái tôi được chàng đề thơ vào khăn, âu hẳn là duyên trời tác hợp. Vậy ngay đêm nay, tôi cho làm lễ thành hôn.
Chàng đã khỏi chết, lại sắp có vợ đẹp, thật là sự mừng ra ngoài tưởng tượng, tinh thần lúc bấy giờ vui sướng ngây ngất, không tả ra được.
Trời mới tối, một thị nữ đến bẩm:
- Thưa phò mã, công chúa đã sửa soạn xong rồi, xin mời ngài đi hành lễ.
Rồi dẫn chàng lên điện, tức thời đàn sáo trỗi lên inh ỏi, khắp nơi kết hoa treo đèn, mấy chục tiên cô phò công chúa cùng chàng làm lễ giao bái. Mùi thơm xạ hương sực nức trong ngoài.
Đoạn tân nương tân lang dắt nhau về buồng riêng, tình tự ân ái. Chàng hỏi công chúa:
- Tôi là người trôi nổi tha phương, thuở giờ chưa được hân hạnh bái yết, đã phạm tội bôi lọ vào chiếc khăn quý báu, được khỏi rìu búa là may rồi, ai còn gá nghĩa nhân duyên. Thật là cái phúc tôi không dám tưởng đến.
Công chúa nói:
- Mẹ em là vương phi của đức vua hồ này và là con gái Giang Dương Vương, năm ngoái về thăm nhà, ngẫu nhiên dạo chơi trong hồ, bị mũi tên bắn trúng. Nhờ có chàng cứu mà được thoát nạn, lại xức thuốc cho vết thương được lành, cả nhà em cảm bội, canh cánh bên lòng chẳng quên. Chàng đừng cho em là phi loại mà nghi ngại điều chi. Em theo Long Quân, đã được bí quyết trường sinh, nguyện cùng chàng hưởng chung cái thú muôn đời bất tử.
Bấy giờ chàng mới biết ra công chúa là thần. Lại hỏi trong đám gái hầu, sao có một đứa lại nhận được mặt, công chúa đáp:
- Hôm đó chàng ngồi trên thuyền ở hồ Động Đình, hẳn trông thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng bị thương mà không rời bỏ, tức là con hầu ấy.
Chàng tỉ tê hỏi nữa:
- Hôm bắt được tôi trong vườn, đã không giết chết, sao lại chần chừ không chịu thả đi?
Công chúa cười và nói:
- Em đọc bài thơ, trong bụng thật là yêu mến cái tài của chàng, nhưng không có quyền tự chủ, thành ra băn khoăn tơ tưởng cả đêm, nỗi khổ ấy có ai hiểu thấu cho mình?
Chàng tha thiết:
- Nàng thật là Bão Thúc của tôi đó! À, còn thị nữ vẫn đem cơm cho tôi là ai?
- Nó tên là A Niệm, người tâm phúc của em.
- Vậy tôi phải đền ơn nó cách nào bây giờ?
- Đừng lo, sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, chừng đó hãy lo đền ơn cũng không muộn mà.
- Còn đại vương thân phụ em, hiện nay ở đâu?
- Ngài đi theo Hoàng Đế đánh giặc Xuy Vưu chưa về.
Vợ chồng ăn ở với nhau mấy hôm, chàng nghĩ ở nhà mình mất bặt tin tức, chắc là trông mong dữ lắm, bèn viết thư báo tin bình yên, sai thằng tiểu đồng về trước, cho gia nhân yên lòng.
Chẳng dè mấy ngày thần tiên là hàng năm cõi trần. Nhà chàng từ hôm nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con sô gai để tang đã hơn một năm rồi. Tiểu đồng đem thư về, mới hay tin chàng còn sống. Nhưng âm hao cách trở, người nhà e chàng vui sống cuộc đời trôi nổi, trước sau khó nỗi trở về quê nhà.
Cách nửa năm sau, thình lình chàng về, ngựa xe cực sang, trong túi đầy nhóc vàng ròng ngọc báu. Từ đó trở nên nhà giàu hàng vạn, tối ngày đàn ngọt hát hay, rượu ngon gái đẹp, tiêu xài hết sức hào phóng, dù những nhà giàu sang mấy đời cũng không theo kịp.
Luôn bảy tám năm, chàng ở nhà với vợ, sinh hạ năm con, mà ngày nào cũng như ngày nấy, tụ họp bạn bè khách khứa ăn uống, cung phụng cực sang. Có người hỏi gặp gỡ món nào mà sẵn tiền lắm của như thế, chàng nói thật cả, không giấu giếm chút nào.
Có người bạn chơi từ nhỏ, tên là Lương Tú Tuân, đi làm quan ở miền nam hơn mười năm mới về, qua hồ Động Đình, trông thấy một chiếc du thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng trông cực đẹp, bên trong có tiếng đàn hát thanh tao, dập dờn trên mặt sóng hồ, thỉnh thoảng lại thấy mĩ nhân mở hé cửa sổ đứng ngắm phong cảnh.
Lương dòm kĩ trong thuyền, thấy một người đàn ông thiếu niên, dựa đầu gác vế mĩ nhân, bên cạnh có hai cô son trẻ chừng đôi tám, thay phiên nhau hầu hạ đấm bóp. Ban đầu, Lương nghĩ chắc là một vị quan lớn nào đó ở miền Tương Sở, nhưng lấy làm lạ sao chẳng có người hầu lính gác nào cả. Chừng nhướng mắt nhìn kĩ, té ra bạn cũ Trần Minh Doãn, liền đứng ra mạn thuyền kêu gọi rùm lên.
Chàng nghe tiếng kêu, bèn sai dừng chèo, ra trước mũi thuyền, mời Lương qua chơi.
Lương qua, trông thấy những món ăn thừa, la liệt trên bàn, mùi rượu hãy còn sực nức. Trần sai dẹp hết để dọn tiệc khác.
Giây lát, năm ba nàng hầu xinh đẹp, tíu tít châm trà rót rượu, các món sơn hào hải vị bày ra ê hề, toàn là thứ lạ, thuở nay mắt Lương chưa thấy bao giờ. Lương kinh hoảng hỏi bạn:
- Cách biệt mười năm không gặp nhau, sao anh phú quý đến thế này ư?
Chàng cười đáp:
- Anh khinh thằng khố dây này không thể mở mặt với đời hay sao?
Lương hỏi:
- Ban nãy có người đàn bà cùng ngồi uống rượu là ai?
Chàng đáp:
- Mẹ trẻ nhà tôi đó.
Lương càng lấy làm lạ, hỏi chàng đem cả gia quyến đi đâu đấy.
Chàng nói:
- Đi về miền tây.
Lương còn muốn hỏi nhiều chuyện nữa, nhưng chàng vội sai lũ ca nhi trỗi giọng đàn hát vang rền, làm như sấm đánh ù tai, rồi thì đũa chén và trúc tơ xen hoà ồn ào, che lấp cả những tiếng nói cười, không nghe được nữa.
Thấy gái đẹp nhởn nhơ trước mắt đông đầy, Lương thừa lúc ngà ngà say, cất tiếng nói lớn:
- Anh Minh Doãn có cho thằng bạn cũ này được hưởng thú bay hồn không nào?
Chàng cười xoà nói:
- Bạn say lắm rồi. Tuy nhiên tôi có thể tặng cho cố nhân để cưới một cô hầu cực đẹp nhé!
Nói đoạn, liền sai thị nữ lấy ra một trái minh châu sáng ngời để tặng Lương và nói:
- Với của này, anh có thể cưới một mĩ nhân tuyệt thế, như hàng con Lục Châu của Thạch Sùng ngày xưa cũng không khó gì. Như vậy để tỏ ra tôi không keo cú với bạn cũ từ ngày còn để chỏm với nhau.
Kế lại nói tiếp, ngỏ ý kiếu từ:
- Hiện tôi có việc cần kíp, rất tiếc không thể cùng bạn ngồi đối diện đàm tâm được lâu hơn nữa.
Liền đó tiễn Lương về thuyền, rồi hô thuỷ thủ thuyền mình mở dây đi thẳng.
Lương về, ghé thăm nhà Trần, thì ra chàng đang ngồi ngất ngưởng uống rượu với khách, trong bụng càng lấy làm lạ, liền hỏi:
- Vừa mới hôm kia gặp anh trên hồ Động Đình, về đây hồi nào mà nhanh quá vậy?
Chàng nói:
- Đâu có chuyện ấy. Tôi vẫn ở nhà mà!
Lương bèn thuật rõ mọi sự đã thấy, khiến cho mọi người cùng lắc đầu lè lưỡi, cho là một chuyện quái lạ.
- Anh trông gà hoá cuốc hay sao chớ! Nói vậy thì ra tôi có phép thuật phân thân ở hai nơi được ư?
Ai nấy cũng lấy làm lạ, nhưng nghĩ mãi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao.
Về sau, chàng thọ tới tám mươi mốt tuổi mới mất. Khi liệm thi thể, gắn kĩ rồi mà thấy hòm nhẹ như không, mở ra xem thì quan tài trống rỗng.





Đào Trinh Nhất dịch

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Chuyện Ở Đảo Thần Tiên
( Phấn Điệp)
Dương Viết Đán là sĩ nhân đất Quỳnh Châu. Dịp ấy chàng ta từ một quận khác trở về nhà, đi thuyền qua biển. Chẳng may gặp gió bão, thuyền sắp đắm, chàng vội nhảy sang một chiếc thuyền không vừa dạt tới. Nhìn lại, thuyền cũ đã đắm, mọi người trên ấy không thoát một ai.
Gió nổi càng dữ, chàng cứ nhắm mắt mặc cho muốn đến đâu thì đến. Khi trời lặng, mở mắt ra đã thấy một hòn đảo, nhà cửa san sát. Chèo thuyền vào bờ, đi thẳng đến cổng làng, trong làng không có tiếng chó sủa, gà kêu. Chung quanh một tòa nhà cổng quay hướng bắc, bóng tùng trúc ẩn hiện dưới sương mơ, trong tường vây không biết là cây gì mà nụ hoa chúm chím đầy cành mặc dù tiết đã bắt đầu đông.
Trước cảnh ngoạn mục ấy, lòng Dương đã thấy vui vui, liền quanh quẩn tìm vào. Trong nhà chợt có tiếng đàn văng vẳng. Dương ngập ngừng bước. Một cô hầu khoảng chừng mười bốn mười lăm, xinh xắn tươi đẹp, từ trong đi ra, vừa trông thấy Dương quay ngoắt vào. Tiếng đàn trong nhà ngừng bặt. Một chàng trai trẻ bước ra, hỏi khách từ đâu tới. Dương thuật lại từ đầu. Hỏi họ tên quê quán, Dương kể rõ ngọn ngành. Chàng trai sửng sốt:
- Hóa ra khách là người thân của vợ tôi.
Rồi vội thi lễ, dẫn khách vào nhà. Trong nhà trần thiết rất mực tinh tế, hoa lệ, tiếng đàn thánh thót ngân vang. Một cô gái trẻ chỉ khoảng mười tám mười chín, dáng vẻ lộng lẫy đang ngồi gảy đàn, thấy khách vào buông đàn định đi. Chàng trai giữ lại:
- Đừng vội, khách đây có họ với mình đấy!
Rồi kể tung tích khách. Thiếu phụ mừng rỡ:
- Thế là cháu tôi đó!
Rồi hỏi luôn:
- Bà cháu còn khỏe không? Cha mẹ cháu bao nhiêu tuổi rồi?
Dương thưa:
- Cha mẹ cháu đều ngoài bốn mươi, khỏe mạnh cả. Bà cháu đã sáu mươi, ốm yếu lắm, một bước cũng phải có người dìu. Cháu thực chưa biết cô thứ bậc thế nào trong gia tộc, xin cho được biết để khi về thuật lại.
- Đường xa cách trở, tin tức không thông đã lâu rồi. Cháu về thưa với cha: Cô Mười hỏi thăm, tự khắc cha cháu biết.
Dương lại hỏi:
- Thưa, dượng họ gì?
Người đàn ông đáp:
- Họ Ân, tên Hải Dư. Nơi đây là đảo thần tiên cách Quỳnh Châu ba nghìn dặm. Tôi ở đây cũng chưa lâu đâu.
Cô Mười vào nhà trong sai sửa soạn cơm rượu thết đãi khách, có nhiều món lạ. Dương chưa hề biết. Ăn xong họ dẫn nhau ra ngắm cảnh vườn đào mận còn đangủ nụ. Dương ngỡ ngàng, Ân giải thích:
- Ở đây mùa hè không nắng nhiều, mùa đông không rét lắm, hoa nở liên tiếp bốn mùa.
Dương hí hửng:
- Thế thật là cảnh tiên. Cháu về thưa với cha mẹ chuyển nhà đến đây ở với cô dượng.
Ân chỉ mỉm cười.
Khi trở vào thư phòng, Dương thấy có cây đàn đặt ngay giá sách, có ý xin được nghe. Ân liền nắn cần, so dây gọi cô Mười từ trong nhà đi ra:
- Lại đây! Lại đây! Mình gảy cho cháu nghe một khúc.
Cô Mười ngồi xuống hỏi cháu:
- Cháu muốn nghe bản nào?
Dương thưa:
- Cháu chưa từng đọc về sách đàn, cho nên không biết thế nào mà nói.
- Thế cháu cứ nêu đề tài ra, cô đều có thể ngẫu hứng gảy thành điệu, thành bản.
- Thưa, gió chuyển bạt thuyền, có thể thành một khúc được không?
- Được chứ!
Rồi nâng đàn, bật dây, âm thanh cứ theo ý mà thành điệu khoan nhặt, bổng trầm, thành thục y như theo một bài bản sẳn có. Dương lắng nghe mà cảm thấy mình như đang lênh đênh trên thuyền, sóng gió cuồn cuộn hất lên dội xuống. Dương vừa kính vừa phục, khen nức khen nở, hỏi cô:
- Thưa, có học được không?
Cô Mười trao đàn cho cháu sai gảy thử và bảo:
- Cháu có thể học được. Thíc học gì?
- Cô dạy cho cháu bản “gió bão” vừa rồi, không biết mấy ngày thì có thể thuộc. Xin cô viết ra trước cho cháu đọc đã.
- Không thể viết thành văn được đâu. Cô chỉ theo ý mà phổ đàn thôi.
Rồi cô lấy một cây đản khác, gảy trước một đoạn làm mẫu, bảo Dương tập theo. Tập được hơn một trống canh, tiếng đàn của Dương đã hợp làn điệu tuy còn thô vụng, thì cô và dượng tạm biệt đi nghỉ. Dương còn ngồi lại tập trung tinh thần tập gảy dưới đèn khá lâu, đột nhiên bừng hiểu, bất giác hứng khởi đứng lên múa. Bất chợt ngẩng đầu, Dương thấy cô hầu gái vẫn đang đứng đó, Dương sửng sốt hỏi:
- Cô vẫn còn đây vẫn chưa đi nghỉ ư?
Cô ta cười nhoẻn:
- Cô Mười sai em thu xếp giường chiếu chu đáo để chàng yên nghỉ. Lại còn phải đóng cửa tắt đèn.
Dương ngước nhìn kỹ cô ta: đôi mắt long lanh như làn thu thủy, dáng vẻ tình ý rất mực dể thương. Dương bồi hồi cả thần hồn, ỡm ờ kêu gọi. Cô lặng lẽ cúi đầu, làn môi mủm mỉm. Dương càng mê mẩn đứng vụt dậy bá lấy cổ.
Cô ta ngăn lại:
- Chớ! Chớ! Đêm đã canh tư rồi, chủ nhân sắp dậy. Đây đấy nếu có lòng nào, đêm mai chưa muộn.
Dương đang ôm cô ta, chợt có tiếng dượng Ân gọi:
- Phấn Điệp!
Cô gái thất sắc:
- Chết rồi!
Rồi vội vã bỏ đi. Dương lẻn theo nghe ngóng. Tiếng dượng Ân:
- Tôi đã bảo con bé này chưa dứt được trần duyên thế mà mình cứ nhất định thu nhận. Nay làm thế nào? Phải đánh đòn ba trăm roi.
Tiếng cô Mười:
- Cái tâm địa ấy mà nãy nòi thì không thể ngăn giũ được. chi bằng cho phắt thằng cháu tôi cho rồi.
Dương nghe vậy vừa thẹn vừa sợ quay lại thư phòng, tắt phục đèn đi ngủ. Sáng trở dậy chỉ có thằng nhỏ đến lấy nước rửa mặt, không thấy Phấn Điệp đâu. Trong bụng Dương cứ nơm nớp lo sợ sị quở trách. Lát sau dượng Ân và cô Mười cùng tới, tựa hồ như không có chuyện gì xảy ra, chỉ khảo ngón đàn Dương mới học. Dương gảy lại, cô Mười khen:
- Tuy chưa đạt đến chỗ thần diệu song đã được chín mười phần. Cố tập cho thuần thục thì tuyệt đấy.
Dương xin dạy cho khúc khác. Ân truyền cho khúc Thiên Nữ trích giáng (tiên nữ bị đày xuống phàm trần) trong đó còn đòi hỏi các kỹ xảo ngón tay như “bẻ” “cắt”. Dương tập ba ngày, gảy mới rõ tiếng. Ân bảo:
- Những khó khăn đại khái đã qua. Nay về sau chỉ cần sao cho thành thục. Nếu thuộc được hai khúc này, trong kỹ thuật đàm cầm không còn điệu nào đáng ngại nữa.
Đước ít ngày, Dương nhớ nhà, thưa với cô Mười:
- Cháu ở đây được cô săn sóc dạy dỗ rất vui, chỉ hiềm canh cánh nỗi tha hương. Đường sá xa xôi cách trở ba ngàn dặm, không biết ngày nào cháu mới về được đến nhà.
Cô Mười bảo:
- Điều đó chẳng có gì khó. Thuyền cũ của cháu còn đó, chỉ cần giúp cháu một buồm gió. Cháu không còn gia thất, cô sẽ cho Phấn Điệp.
Rồi cô tặng Dương một cây đàn, đưa một bọc thuốc mà dặn:
- Cháu đem thuốc về biếu bà, thuốc này không chỉ chữa bệnh mà còn kéo dài tuổi thọ.
Đoạn cô tiễn Dương ra bờ biển. Dương tìm mái chèo, cô bảo:
- Không cần đến đâu!
Rồi ghép quần của mình lại thành buồm, đem mắc buộc vào thuyền. Dương sợ không biết hướng đi, lạc nẻo. Cô nhủ:
- Đừng lo! Đã có buồm đưa lối, cứ theo nó.
Buộc xong, Dương xuống thuyền. Đang buồn rầu, định bái biệt cô thì gió nồm thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ. Trong thuyền có sẳn lương khô, song số lương thực chỉ ăn đủ khoảng một ngày, bụng Dương oán cô sao hà tiện? Bụng đói nhưng chàng không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Song khi ăn một cái bánh nướng ấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái nữa cất đi dành bữa sau thì lạ thay không thấy đói.
Bóng chiều đã ngả. Đang hối không mang theo đèn đuốc thì chỉ nháy mắt sau đã thấy khói bếp đất liền. Thì ra thuyền đã tới đất Quỳnh rồi. Thuyền cập bờ, Dương mừng quýnh, thu quần áo bọc bánh về nhà.
Vào đến cửa cả nhà sửng sốt vừa sợ vừa mừng. Thì ra chàng ta đã vắng nhà mười lăm năm trường và mới biết vừa qua đã gặp tiên. Bà nội Dương bệnh đã kịch, chàng đưa thuốc cô Mười ra cho uống, mọi chứng bệnh tật khắc tiêu tan. Chàng kể lại những điều mắt thấy tai nghe. Bà cụ mới bảo:
- Đó là cô ruột cháu đấy!
Xưa bà có người con gái út tên là cô Mười, sinh ra đã có dáng vẻ tiên nữ. Gia đình hứa gả cho họ Ân. Chú rể mới mười tuổi vào núi không thấy trở về. Cô Mười đợi đến hai mươi tuổi, bỗng nhiên không đau ốm gì mà mất, chôn cất đến nay tính ra đã hơn ba chục năm rồi.
Khi nghe Dương kể lại chuyện ở đảo thần tiên, mọi người đều ngờ là cô Mười chưa chết. Dương đưa cái quần dùng làm buồm ra thì đúng là cái mà trước đây cô vẫn hay thường mặc. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một chiếc thôi mà cả ngày không thấy đói, lại có cảm thấy tinh thần phấn chấn gấp bội. Người nhà đào mả cô Mười lên coi thử thì chỉ còn quan tài không.
Trước đây Dương đã lấy người vợ họ Ngô, song hơn chục năm đi vắng, chị ta đã đi lấy chồng khác. Lúc ấy Dương mới tin lòi cô Mười và có ý mong Phấn Điệp. Song đã hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, lúc ấy chàng mới đi tìm đám khác. Ở huyện Lam có ông tú tài họ Tiền có con gái là Hà Sinh nổi tiếng gần xa là đẹp, mới mười sáu tuổi mà ba chàng rể chưa cưới đã chết. Dương nhờ mối lái đính hôn, chọn ngày lễ. Khi cô dâu về nhà chồng, Dương nhìn kỹ thì đúng cô dâu mới là Phấn Điệp. Dương hỏi đến chuyện cũ ngoài đảo Thần Tiên, cô ta cứ mơ mơ hồ hồ. Thì ra khi cô ta bị đuổi, chính là lúc cô ta giáng sinh đầu thai vào nhà họ Tiền. Chỉ lúc nghe Dương gảy đàn Thiên Nữ trích giáng thì cô ta mới chống má trầm tư tựa như có sự cảm thụ, xúc động sâu sắc vậy.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Người Hóa Hổ
(Hướng Cảo)
Hướng Cảo tên chữ là Sơn Đán, người Thái Nguyên. Cảo đối với anh là Thạnh hết sức kính ái. Thạnh dan díu với một ca kỹ tên là Ba Tư. Hai bên đã cắt máu ăn thề song vì cha mẹ cô gái đòi sính lễ quá nặng nên lời ước nguyện không thành. Bà mẹ muốn rút ra khỏi sổ làng ca kỹ để hoàn lương trước hãy lo cho Ba Tư đã. Có công tử Trang vốn thích Ba Tư, đòi mua làm thiếp. Ba Tư nói với mẹ:
- Những ước mong cùng thoát nơi nước lửa, khác nào muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường. Nếu lại đâm đầu làm thiếp người ta thì khác gì như trước. Vì mẹ thuận theo chí con thì cậu Hướng là được.
Mẹ bằng lòng, ngỏ ý ấy với Thạnh. Vừa qua Thạnh có tang vẫn chưa lấy vợ cho nên được tin ấy mừng lắm, liền dốc hết của cải cưới Ba Tư. Công tử Trang tức giận Thạnh dám cả gan tránh gái yêu của mình, nhân gặp nhau trên đường liền lớn tiếng nhục mạ Thạnh. Thạnh không chịu, Trang thét người hầu vác gậy đập chết, phơi thây ra đấy rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy ra thì anh đã chết. Cảo đau thương phẫn uất khôn xiết, làm đơn kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, khắp chốn cho nên việc cứ như đáng bùn sang ao.
Cảo cứ ôm nỗi phẫn uất trong lòng không sao tố giác phơi bày ra được, nghĩ duy chỉ có cách đón đường mà giết kẻ thù. Từ đó, hàng ngày cứ thủ dao nhọn, phục ở bụi rậm trên đường núi. Lâu lâu việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy, cho nên hễ đi đâu là có phòng bị nghiêm ngặt. Hắn nghe tin ở Phần Châu có tên là Tiêu Đồng, đã gan dạ lại có tài thiện xạ, liền bỏ nhiều vàng ra đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế của mình, nhưng vẫn hàng ngày rình đón may ra có dịp nào chăng.
Một hôm Cảo phục trong bụi, bỗng mưa lớn trút xuống, trên dưới ướt dầm, rét run không chịu nổi. Rồi gió táp bốn bề dữ dội, băng tuyết tiếp đến, thân thể bỗng nhiên đau đớn tê liệt. Trên đỉnh núi có một ngôi đền thờ sơn thần, Hướng Cảo gắng gượng bò lên. Vào được đến miếu thì vị đạo sĩ quen biết vẫn còn ở đó. Nguyên trước đây đạo sĩ thường hay hành khất qua thôn, Cảo thường cho ăn, vì thế quen biết. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, ông lấy áo vải bố trao cho, bảo thay cho đỡ rét. Cảo thay xong tự nhiên thấy buộc phải phải ngồi chồm hổm như con chó. Nhìn lại mình thì lông lá đã mọc, rõ ràng hóa thành con hổ. Còn đạo sĩ thì biến đâu mất. Cảo vừa hãi vừa giận. Nhưng rồi lại nghĩ: chuyến này vồ được kẻ thù xé thịt mà ăn, như thế là kế đạt lắm rồi.
Cảo bò xuống đến nơi phục cũ, thấy thi thể mình nằm trong bụi rậm, lúc ấy mới biết mình đã chết, song chỉ sợ diều quạ riả xác, cho nên cứ loanh quanh đấy trông coi. Ngày hôm sau như trời xui đất khiến vậy. Trang đi qua đó hổ vụt ra tát hắn lộn từ trên ngựa xuống đất, ngoạn đứt đầu mà ăn. Tiêu Đồng quay trở lại bắn trúng bụng hổ, rồi xảy chân cũng chết.
Xác Cảo ở trong bụi rậm mơ màng như vừa tỉnh mộng, phải qua một đêm mới đứng lên được, thất thiểu đi bộ về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền biệt tăm đã ngờ và sợ, nay thấy về, đều mừng vả thăm hỏi. Cảo chỉ nằm, ngơ ngơ ngác ngác mà chưa thể nói gì được. Lát sau có tin Trang vị hổ vồ. Mọi người tranh nhau đến giường báo tin mừng. Lúc đó Cảo mới nói:
- Hổ là ta đó.
Bèn thuật lại đầu đuôi chuyện lạ. Do đó mà tin ấy lan truyền ra.
Con tên Trang đau đớn vì bố chết thảm thương, nghe chuyện càng sinh hằn, liền đầu đơn kiện Cảo. Quan thấy chuyện ấy quái đản lại không có cắn cứ cho nên không xét đến.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Vương Giả
(Vương Giả)
Tuần phủ Hồ Nam sai châu tá (quan giúp việc ở cấp châu) áp giải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường bị mưa, trời tối, cả đoàn ở độ đường, không nơi trọ, thấy một ngôi chùa cổ phía xa, tìm đến trú lại. Trời sáng nhìn đến số tiền áp giải thì đã sạch trơn không thấy đâu nữa. Mọi người thảy đều kinh hãi, nhưng không thể quy tội cho ai. Viên châu tá phải về bẩm rõ sự tình với quan tuần. Quan tuần cho là lừa bịp nói càn, định đem xử tử. Đến khi tra hỏi những người sai dịch cùng đi ai ai cũng đều cung như thế. Quan bắt viên châu tá phải trở lại chốn cũ dò xét manh mối vụ ấy.
Đi qua một ngôi miếu, ông ta thấy một người mù, hình mạo kỳ dị, với cái bảng đề mấy chữ: “Xem đoán mọi điều sâu kín trong lòng” liền nhờ bói một quẻ. Người mù nói: “việc mất vàng phải không?”. Viên châu tá nhận đúng, rồi thuật lại mọi chuyện. Người mù đòi đem cho một cỗ kiệu, rồi bảo:
- Hãy theo ta, sau sẽ hay.
Các sai dịch cùng đi theo cả. Người mù bảo: “Đông!” tất cả theo hướng đông, bảo “Bắc” lại đi theo hướng bắc. Đi năm ngày vào một hang núi sâu, bỗng thấy có thành quách, người ở đông đúc. Vào thành đi một lát, người mù ra lệnh: “Dừng lại!”. Ông ta xuống kiệu, lấy tay chỉ hướng nam dặn:
-“Thấy cái cổng cao phía nam, có thể vào đó để hỏi”, rồi chắp tay bỏ đi.
Viên châu tá theo đúng lời chỉ bảo, quả thấy cổng cao, liền đi vào. Có một người ra, mũ mão chỉnh tề theo kiểu đời Hán, không xưng tên họ. Viên châu tá nói rõ lý do tìm đến. Người ấy bảo:
- Xin lưu lại mấy ngày, ta sẽ cùng ông đến gặp người có liên quan đến chuyện ấy.
Nói rồi dẫn viên châu tá đi theo, xếp ở một buồng riêng, cho ăn uống đầy đủ.
Nhân lúc thư thả, viên châu tá đi dạo về phía sau ngôi nhà thì thấy một cái đình trong vườn, chung quanh tùng già che bóng mặt trời, cỏ non trải phẳng như thảm. Đi theo dãy hành lang đến một cái đình cao. Lần theo từng bậc bước lên, thấy trên vách đá có treo mấy tấm da người còn đủ tai mắt mũi mồm, mùi tanh tưởi nồng nặc, bất giác mà sởn hết gai ốc. Ông ta sợ quá vội quay lại buồng ở, tự nghĩ thôi chuyến này thì xương da phải để lại nơi đất lạ, không hòng gì sống. Song lại nghĩ, tiến hay lùi đều cùng một chết, hãy cố đợi xem thế nào.
Hôm sau cái người áo mũ chỉnh tề ấy lại đến gọi đi, nói: “Hôm nay có thể gặp được”. Rồi ông ta cưỡi ngựa phóng như điên. Viên châu tá cố đi bộ theo. Một lát, đến một cửa dinh như dinh tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên tả hữu, tư thế nghiêm chỉnh. Người ấy xuống ngựa dẫn viên châu tá vào. Lại qua một cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc, ngồi quay hướng nam. Viên châu tá bước lên làm lễ bái yết. Vị vương giả hỏi:
- Nhà ngươi có phải là viên quan áp giải Hồ Nam không?
Viên châu tá thưa phải. Vị vương giả nói:
- Tiền còn đầy đủ đây. Đó là tiền mà quan Tuần nha ngươi khảng khái dâng nộp, chắc chắn là như thế.
Viên châu tá khóc, thưa lại:
- Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị gia hình. Việc bẩm bạch với quan trên lấy gì làm chứng cớ?
Vị vương giả nói:
- Điều đó không khó.
Rồi sai mang ra một cái tráp to, bảo rằng:
- Đem cái này về bảo đảm sẽ yên ổn.
Rồi ra lệnh lực sĩ đưa ra.
Viên châu tá sợ quá không dám ho he điều gì nữa, chỉ còn việc nhận tráp mà về. Đường qua núi qua sông tất cả đều khác với đường đi vào. Ra khỏi núi, người đưa đường mới quay trở lại. Vài ngày về đến Trường Sa, viên châu tá trình báo lại hết với quan Tuần. Nhưng quan càng cho là nói càn, nổi giận không cho biện bạch gì nữa, sai tả hữu mang dây ra trói. Viên châu tá vội đưa cái tráp ra. Quan Tuần mở ra xem chưa xong, mặt đã tái như chàm đổ, liền sai cởi trói và bảo:
Tiền bạc là việc nhỏ, hãy cho người lui.
Quan Tuần liền phát lệnh cho các thuộc quan phải lập tức vận chuyển bổ sung. Vài ngày sau quan ốm rồi mất.
Trước đó, quan cùng người thiếp yêu nằm ngủ, đến khi tỉnh dậy thì tóc đã bị cắt hết. Cả nha môn đều kinh sợ, không biết tại sao. Bây giờ trong tráp là mớ tóc ấy. Ngoài ra còn có thư rằng:
- “Nhà ngươi từ khi thành đạt làm quan thú quan lệnh, chức vị cực cao thì của tham ô, quà hối lộ kể sao xiết. Khoản bạc sáu muơi vạn trước đây đã nghiệp dĩ thu vào kho. Hãy nên mở rộng túi tham nộp bổ sung thêm lệ cũ. Còn viên quan áp giải không có tội, không thể xử càn. Trước đây gọt tóc người thiếp để cảnh cáo tí chút, nếu như không tuân lời dạy bảo, sớm muộn sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc đưa lại kèm đây có thể làm tin”.Sau khi quan Tuần mất, người nhà mới truyền bức thư ấy. Về sau các thuộc viên sai người đi tìm lại cái xứ kỳ lạ nọ chỉ thấy núi cao lớp lớp, vực sâu thăm thẳm, không có một con đường qua lại nào.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Vụ Án Tình Si
(Yên Chi)
Họ Biện ở Đông Xương chuyên nghề chữa bệnh cho trâu. Ông ta có con gái, tiểu tự là Liên Chi, tài sắc đủ về. Người cha yêu quý lắm muốn gả cho con nhà thanh quý, song những bậc giàu sang lại khinh là xuất thân hèn kém không xứng đáng để làm thông gia. Bởi vậy cô ta đến tuổi cập kê mà chưa có nơi có chốn.
Ở nhà đối diện có Vương thị- vợ họ Củng- tính khí lả lơi cợt nhả, là bạn trò chuyện tỉ tê trong chốn buồng the của Yên Chi. Một hôm tiễn chân Vương thị ra đến cổng, chợt thấy một chàng trai đi qua, quần áo trắng tinh, phong thái đĩnh đạc, Yên Chi đã chiều như phải ý, nét thu ba lúng liếng đôi hồi.
Chàng trai cúi đầu rảo bước đi qua. Đi đã rồi mà cô nàng còn cứ nhìn theo đăm đắm. Vương thị đóan biết ý tình mới nói chơi rằng:
- Tài sắc cô thế này mà sánh với người ấy thì không có gì đáng hận.
Cô gái ửng hồng gò má, nín thinh không nói một lời. Vương thị lại hỏi:
- Cô có biết chàng ta không?
- Không biết.
- Đó là tú tài Thu Chuẩn, con cố chử nhân họ Ngạc ở ngõ Nam. Tôi là người cùng làng nên có biết. Đàn ông trên đời này dễ không ai hòa nhã được như cậu ta. Cậu ta mặc đồ trắng vì tang vợ chưa hết. Cô vừa ý tôi sẽ nhắn lời mai mối cho.
Cô gái nín thinh. Vương thị cười quay về.
Mấy ngày sau vẫn không có âm hao gì, cô gái cho hoặc là Vương thị bận chưa đi ngay cho được, hoặc họ dòng dõi nhà sang không chịu hạ mình. Rồi cứ bổi hổi bồi hồi, nghĩ quanh nghĩ quẩn đến bỏ cả ăn uống nằm liệt giường. Vương thị đến thăm, gặng hỏi bệnh tình làm sao. Yên Chi rên rỉ:
- Em cũng chẳng biết vì sao? Từ hôm ấy chị về rồi em cảm thấy khó chịu, hơi thở bây giờ chỉ còn như mượn, sớm muộn gì thì em cũng sẽ đi thôi!
Vương thị thầm thì:
- Anh ấy nhà tôi buôn bán chưa về, cho nên chưa có người đánh tiếng đến nhà họ Ngạc, mình ngọc không an, phải vì thế chăng?
Đôi má Yên Chi ửng hồng hồi lâu. Vương thị lại đùa:
- Nếu quả vậy mà bệnh đến thế này thì còn e gì nữa? Trước tiên hãy gặp nhau một tối, chàng ta đến mấy mà lại không ưng?
Cô than thở:
- Đúng! Sự tình đến thế này thì không thể đừng được nữa. Tuy nhiên nếu họ không hiềm nhà em thấp hèn nhờ người mai mối ngay đi thì bệnh em ắt khỏi. Còn như hò hẹn tự tình thì quyết không thể được.
Vương thị cúi đầu đi về.
Thuở còn đào non, Vương thị đã từng tư thông cùng người học trò trong xóm là Túc Giới. Sau khi Vương thị thành gia thất, Túc cứ rình người chồng vắng nhà là ngựa quen đường cũ, lại tìm đến hú hí với người tình cũ. Tối ấy Túc đến, thị thuật lại chuyện cô gái, cốt làm trò cười rút rít với tình nhân, lại còn dặn đùa Túc đánh tiếng với Ngạc. Túc biết tiếng cô gái đẹp từ lâu, nghe chuyện ấy mà khấp khởi trong dạ, chuyến này có thể mượn gió bẻ măng. Nhưng muốn cùng mưa tình với tình nhân song lại sợ ả ta ghen, bèn ra vẻ vô tâm, khuyấy khỏa hỏi dò đường ngang lối tắt nhà cô gái.
Đêm hôm sau hắn trèo tường vào, đến ngay buồng Yên Chi gõ nhẹ vào cửa. Bên trong có tiếng hỏi:
- Ai đấy?
Đáp: Ngạc đây!
Tiếng cô gái hổn hển nói vọng ra:
- Em sở dĩ nghĩ đến chàng là vì chuyện trăm năm, đâu phải vì một tối. Nếu chàng quả thực yêu thương em thì hãy nhờ mai mối tới ngay. Nếu có ý đòi tư thông thì em quyết không dám vâng lời.
Túc giả vờ ưng thuận, chỉ khẩn cầu được nắm bàn tay thon thả làm tin. Cô gái không nỡ cự tuyệt thẳng thừng, đành gượng dậy mở cửa. Túc nhảy xổ vào ôm chầm lấy đòi điều kia khác. Cô gái không còn sức nào chống cự, ngã quay ra đất, thở không ra hơi. Túc vội dìu lên, cô gái nói đứt đoạn:
- Sao tàn ác đến thế! Tất không phải là Ngạc lang... Nếu quả Ngạc lang là người thuần nhã thấy tôi đau ốm hẳn phải xót thương, có đâu lại cuồng bạo thế này! ... Nếu còn vậy tôi buộc phải kêu lên thì sẽ tổn thương đến phẩm hạnh cả hai. Hỏi có ích gì?
Túc sợ bại lộ tung tích không dám tiếp tục cưỡng bức chỉ xin được hẹn hò gặp gỡ sau này. Cô gái xin chờ ngày nghinh hôn. Túc cho rằng hẹn ấy xa quá, cứ nài nẵng. Để chóng thoát khỏi cảnh bày bây, cô đành hẹn khi khỏi bệnh. Túc xin vật làm tin, cô gái không cho. Túc sấn sổ tuột lấy chiếc giày thêu của cô gái rồi quay đi. Cô gái gọi, đòi trả lại:
- Đã có lời giao ước, tôi đâu dám tiếc? Chỉ sợ vẽ hổ thành chó, để rồi chịu tiếng chê cười. Nay của tin đã lọt vào tay anh, liệu không thể nào quay trở lại được nữa. Anh như có lòng nào phụ bạc, tôi chỉ còn một chết mà thôi.
Túc quay trở lại ngủ với Vương thị. Đã đi nằm rồi hắn vẫn không quên đôi giày, lén thò tay vào túi áo thì giày đã biến đâu mất. Hắn vội vàng dậy che đèn lục lọi áo, lần tìm trong bóng tối. Vương thị thấy thế gặng hỏi, hắn cứ im thin thít. Hắn nghi Vương thị dấu đi. Ả ta lại cứ cười cợt ỡm ờ làm cho hắn càng nghi. Rồi sốt ruột không kìm giữ được nữa, hắn nói toẹt ra. Nói xong hắn đốt đuốc ra tìm ngoài nhà nhưng vẫn không thấy, đành nuôi hận trở về buồng Vương thị. Hắn vẫn còn hy vọng, đêm hôm khya khoắt không ai qua lại, nếu có giày rơi thì vẫn còn ở ngoài đường. Tờ mờ sáng hắn đã trở dậy, lục lọi tìm tòi, song vẫn không thấy gì cả.
Nguyên là trong ngõ có Mao Đại là tên du thủ du thực, không có nơi ăn chốn ở nhất định. Hắn ve vãn Vương thị nhưng không ăn câu. Lại biết Túc thường lui tới nhà thị nên rình bắt để cho bêu rêu một phen. Đêm ấy hắn qua cổng nhà thị, đẩy cổng vào thì thấy chưa gài, hắn lẻn luôn vào. Vừa đến cửa sổ thì giẫm phải một vật gì mềm mại như nắm lụa. Nhặt lên xem thì ra cái giày con gái bọc trong khăn. Hắn rấp rình nghe được hết mọi điều Túc thuật lại với ả tình nhân, thì mừng rỡ vô cùng, liền quay ra ngay.
Vài đêm sau, hắn vượt tường đột nhập vào nhà Yên Chi. Vì không thuộc đường lối đi lại, cho nên hắn tới nhầm buồng ông bố. Ông Biện dòm qua cửa sổ thấy có bóng đàn ông, nhác thấy cung cách ấy biết ngay là kẻ gian đi mò gái. Ông ta nổi giận, rút dao xông ngay ra, Mao Đại sợ quá tháo chạy, đang định vọt tường thì ông Biện đã đuổi sáp tận nơi. Gấp quá, liệu khó bề tẩu thoát, hắn ngoắt lại cướp lấy dao. Bà Biện trở dậy, thấy thế hô lên. Mao thấy nguy cơ bị tóm, liền sẳn dao chém chết luôn ông Biện.
Yến Chi đã hơi đỡ, nghe tiếng huyên náo, hớt hơ hớt hải vùng dậy. Đốt đèn lên soi thì ông bố đã bị bể sọ không nói được tiếng nào, lát sau chết luôn. Thấy ở chân tường có cái giày thêu của con, bà mẹ tra hỏi, cô gái khóc lóc kể hết tình đầu. Song không nỡ để lụy đến Vương thị, cô gái chỉ nói là Ngạc tự tìm đến nhà mà thôi.
Sáng ra, gia đình họ Biện phát đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt luôn Ngạc. Ngạc vốn là người ngây thơ, chưa từng trải, mười chín tuổi rồi mà gặp khách lạ vẫn thẹn thẹn thò thò như con trẻ. Cho nên khi bị bắt, anh ta sợ hãi quá chừng, trước công đường chẳng biết mở miệng nói năng ra sao, chỉ những run như cầy sấy. Quan huyện thấy cung cách ấy, tin đúng anh ta phạm tội, sai tra tấn rất dữ. Tạng thư sinh yếu ớt, không chịu được đau đớn, Ngạc nhận hết những lời vu khác.
Giải lên quận, tình thế lại diễn ra như ở huyện. Ngạc xin được đối chất với Yên Chi, nhưng vừa giáp mặt, cô gái đinh ninh đó là kẻ thù giết bố mình, chửi mắng sỉ nhục Ngạc thậm tệ. Ngạc cứng lưỡi không sao giải tỏ được nỗi oan khiên. Do đó Ngạc bị luận án tử hình. Qua mấy quan toà lớn vẫn y án.
Sau này được ủy cho phủ Tế Nam phúc lại. Bấy giờ ông Ngô Nam Đại đang làm tri phủ, vừa thấy Ngạc sinh, trong thâm tâm đã ngờ: diện mạo ấy khó có thể là kẻ giết người. Ông ngầm sai người đến nói chuyện, hỏi riêng một cách thoải mái thì càng rõ Ngạc bị oan.Suy ngẫm mấy ngày rồi ông mới hỏi cung lại. Đầu tiên hỏi Yên Chi :
- Sau khi đính ước có ai biết chuyện hay không?
- Thưa không.
- Lúc gặp Ngạc có ai nữa không?
Thưa không.
Gọi Ngạc lên, ông ôn tồn, an ủi. Ngạc thưa:
- Khi tôi qua cổng ông Biện có thấy người hàng xóm cũ là Vương thị cùng một thiếu nữ đi ra, tôi vội rảo bước tịnh không nói nửa lời gọi có.
Ông Ngô quay ra quát cô gái:
- Ngươi vừa nói khi gặp Ngạc không có ai ở bên. Sao đây Ngạc lại nói có người đàn bà hàng xóm?
Nói rồi làm vẻ như định tra tấn. Cô gái sợ vội thưa:
- Tuy đúng lúc ấy có Vương thị, song thị không có quan hệ tới việc này.
Ông ấy kết thúc cuộc đối chất, sai lính đi bắt Vương thị.
Mấy ngày sau Vương thị đến, ông không cho ả ta liên lạc với cô gái và lập tức thẩm vấn. Hỏi Vương thị:
- Ai là kẻ sát nhân?
Thưa: không biết.
Ông vờ thắt buộc như thật:
Yên Chi đã cung, việc giết ông Biện nhà ngươi biết hết, sao còn dám giấu?
Vương thị vội kêu:
- Oan con quá! Con dâm nữ ấy phải lòng trai, con tuy có ngỏ ý mối manh chỉ để mua vui thôi. Nó tự dẫn gian phu vào nhà, con đâu có biết!
Ông Ngô truy vấn cặn kẽ, ả ta thuật lại tỉ mỉ những lời đùa bỡn trước sau. Ông gọi cô gái lên, làm mặt giận dữ:
- Ngươi khai ả ta không liên qua gì, thế sao bây giờ y lại cung cả hai phía?
Cô gái sụt sùi:
- Tự con không ra gì làm cho cha phải chết thê thảm. Kiện tụng chưa biết đến bao giờ mới xong, nếu làm lụy đến người khác thật là bất nhân.
Quan lại hỏi Vương thị:
- Đã cợt nhả quá đáng như thế, sau có nói lại với ai không?
- Thưa không.
Quan vặn lại:
- Vợ chồng tỉ tê đầu ấp tay gối, sao lại có thể không nói được? Lại còn chối?
- Chồng con vắng nhà đã lâu.
- Mặc dù vậy, phàm đã trêu cợt người khác đều là để cười người ta ngu, để tỏ ta đây là giỏi. Thế mà lại không nói với ai? Ngươi còn định dối trá ư?
Rồi quan sai kẹp mười đầu ngón tay, ả ta không chịu được phải khai thực: “Đã trót hở với Túc.’ Quan liền thả Ngạc đến bắt Túc.
Túc đến, cung là không biết gì cả. Quan phán:
- Đã ngủ ở nhà gái tất không phải là kẻ tử tế.
Sai tra khảo, Túc phải khai thật:
- Đúng là có lừa cô gái, nhưng từ khi đánh mất cái giày thì không dám đến nữa. Còn việc giết người thì quả thực không biết sự thể ra sao.
Quan nổi giận:
- Hừ! Kẻ trèo tường chim gái thì có đâu mà không đến?
Rồi lại sai tra khảo. Đau quá Túc không chịu nổi, phải nhận cả.
Án thành, cáo lên trên, không ai không khen tài thần minh của ông Ngô. Án sắt như núi, Túc chỉ còn vươn cổ đợi mùa thu chịu hành quyết.
Túc là kẻ phóng đãng song cũng là một kẻ sĩ ở đất Sơn Đông. Nghe thấy ông học sĩ Thi Ngu Sơn (Tên chính là Nhuận Cương, đỗ tiến sĩ, làm quan học chính đất Sơn Đông, là thầy học tác giả Bồ Tùng Linh) là bậc hiền năng, yêu người tài, thương kẻ sĩ, Túc làm một bài từ khiếu oan, lời lẽ rất thống thiết. Thi công nghiên cứu bản cung, lật đi lật lại suy ngẫm, ông vỗ bàn kêu lên: “Tay học trò này oan rồi”.
Ông xin với dình Tuần, dinh án được tra lại án ấy. Hỏi Túc:
- Để rơi giày ở đâu?
- Bẩm không rõ. Chỉ nhớ là khi gõ cửa nhà Vương thị thì giày vẫn còn trong ống tay áo.
Ông quay sang hỏi Vương thị:
- Ngoài Túc ra, còn ai thông gian với ai nữa?
- Bẩm, không có ai nữa.
- Đã là kẻ đĩ bợm, đâu chỉ có chuyện một người?
- Con đã trót dan díu với Túc Giới từ thuở nhỏ chưa thể đoạn tuyệt được. Về sau không phải là không có kẻ ve vãn, chim chuột, song thực chưa dám đi lại thêm với một ai khác.
Ông bắt nói rõ tên những kẻ ve vãn để chứng thực.Vương thị cung tiếp:
- Kẻ cùng làng là Mao Đại đã mấy lần rồi, lần nào cũng bị cụt hứng.
Thi công châm biếm:
- Gớm nhỉ? Sao tự nhiên lại trinh bạch thế?
Liền sai đánh trượng. Ả ta gục đầu chịu đòn, máu me đầm đìa, song vẫn hết sức biện bạch là quả không còn đi lại với ai khác. Lúc ấy Thi công mới tha đánh, vặn hỏi:
- Chồng ngươi đi xa, há lại không có kẻ nào thác cớ đến gạ gẫm hay sao?
- Thưa, thế thì cũng có. Tên Giáp, tên Ất... đến một vài lần, hoặc vay mượn, hoặc quà cáp.
Những tên Giáp tên Ất này đều là những tên du đãng trong ngõ, cũng có ý định với a nhưng chưa dám lộ.
Thi công ghi họ tên bọn ấy, sai bắt đến hết, giam chúng ra miếu Thành Hoàng, bắt quỳ phục trước hương án rồi phán bảo:
- Đêm qua ta được thần nhân báo mộng: kẻ sát nhân không ngoài bốn, năm tên lũ bay. Nay trước uy linh thần linh, bay không được dối trá. Đứa nào tự thú được hưởng lượng khoan hồng. Bằng không thì quyết chẳng khoan thứ.
Bọn chúng đều đồng thanh kêu là không có dính dáng đến vụ giết người. Thi công sai đem hết gông cùm, kìm kẹp bày ra trên mặt đất, như thể chuẩn bị gia hình. Chúng bị buộc trói lại, lột trần truồng ra, nhưng vẫn một mực kêu oan. Thi công sai ngừng gia hình, phán bảo:
- Bay đã không tự nhận thì buộc ta phải nhờ quỷ thần chỉ bảo.
Rồi sai người lấy chăn che kín các cửa đền, không để cho ánh sáng lọt vào; trật trần lưng bọn chúng ra dẫn vào trong buồng tối, đưa một chậu nước vào bắt đứa nào cũng phải rửa tay rồi sắp hàng đứng dưới bức vách. Xong xuôi ông mới ra lệnh:
- Bọn bay phải quay mặt vào vách, cấm không được động đậy để thần nhân viết chữ vào lưng kẻ có tội.
Lát sau, gọi chúng lên kiểm tra, ông chỉ vào mặt Mao Đại, thét lớn:
- Đây đúng là tên sát nhân.
Thì ra Thi công đã sai người xoa than lên vách. Nước rửa tay chính là nước muội đèn. Tên giết người sợ thần viết vào lưng, cho nên trong bóng tối đã quay lưng lại tựa vào vách, đến khi sắp ra lại lấy tay che lưng nên trên lưng có vệt đen. Khi thẩm phán, Thi công đã có ý nghi Mao, đến bây giờ càng rõ rành. Rồi dùng cực hình tra khảo, Mao phải khai ra hết sự thực.
Sau đó, Mao bị kết án chém đầu, Túc Giới là sĩ buông tuồng bị giáng một bậc học vị.
Văn án được công bố, xa gần đều truyền tụng.
Ngày từ khi được Ngô công phúc án. Yên Chi mới biết Ngạc Thu Chuẩn là oan. Mỗi khi ra vào chốn công môn, gặp nhau nàng thường nhìn chàng mà nuốt lệ, tựa như có điều gì đau đớn tiếc nuối mà chưa nói được thành lời. Ngạccũng cảm động vì tình quyến luyến không che giấu của cô gái, trong lòng cũng rất mực mến yêu. Song lại nghĩ đến điều cô ta xuất thân hèn kém, mỗi khi bị dẫn giải đến nha môn trăm nghìn người nhòm ngó, chỉ trỏ, nếu lấy e sợ người ta chê cười. Bởi vậy cứ ngày đêm nghĩ quanh nghĩ quẩn mà không dám tự quyết được. Văn án cuối cùng được ban bố, trong đó có mấy câu kết về Yên Chi thấu lý đạt tình: “ Khen cho biết chống cự khi kẻ xấu lọt vào nhà, đó là người tình nhân trong trắng. Còn như biểu lộ thái độ ái mộ chàng trai đẹp, đó cũng là việc thanh nhã, phong lưu. Bởi vậy mong quan huyện đứng ra tác thành cho đôi lứa”. Lúc ấy Ngạc mới ngả một bề.
Và quan huyện đã làm đúng theo lời quyết án.




LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Rất rõ ràng: xử kiện không thể không hết sức cẩn trọng vậy! Cũng có thể biết người này bị kết oan, song ai biết kẻ kia còn có nhiều điều khuất tất. Tuy sự việc có điều ám muội song ắt thế nào cũng có kẻ hở. Cho nên nếu không suy ngẫm nghiên cứu kỹ thì không thể được vậy! Than ôi! Người ta đều phục cái bậc hiền minh có tài xử đoán ngục tụng, mà không biết dụng tâm của trời giá kia cũng thực là công phu vậy. Những bậc cai trị dân trên đời này chỉ biết cờ rượu qua ngày, chăn gấm xỏ tay, dân tình bên dưới khốn đốn, nào có động một chút lòng? Đến khi trống gióng mở cửa công đường thì ngất ngưởng trên cao tót, dưới sân nháo nhác tố khổ thì lại gông cùm trấn áp. Thế thì có lạ gì trong chốn tối tăm còn biết bao nhiêu oan khiên trầm uất.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Dịch giả: Đào Trinh Nhất
Con Người Quốc Sắc
(Mao hồ)
Mã Thiên Vinh, con nhà làm ruộng, ngoài hai mươi tuổi goá vợ, vì nghèo quá không cưới nổi vợ khác.
Một hôm, đi ra thăm ruộng, trông thấy một thiếu phụ, mặc tử tế, xuyên bờ đạp lúa mà đi, mặt đỏ xem có vẻ phong lưu, Mã ngờ là người lạc đường, dòm quanh tứ phía không có ai, bèn chọc ghẹo chơi. Nàng mỉm cười, Mã toan đè ra giao hoan tại đó. Nàng gạt đi:
- Giữa thanh thiên bạch nhật, sao lại làm chuyện bậy bạ như vậy? Anh về nhà trước đi, khép cửa đợi tôi. Trời tối, tôi đến.
Mã không tin lời, nàng thề nguyền nói thật. Mã bèn vẽ đường lối cửa ngõ cho nàng biết, rồi nàng từ giã.
Đêm lại, quả đến, thuận cho giao hoan. Mã thấy mình mẩy nàng mềm nhũn, thắp đèn lên soi, da đỏ và mỏng manh như đứa trẻ sơ sinh lông tơ đầy mình, phải lấy làm lạ. Lại ngờ tông tích nàng vu vơ, tự nghĩ không khéo là chồn, liền thử hỏi đùa xem.
Nàng tự nhận ngay là chồn, không hề chối cãi giấu giếm. Mã nói:
- Đã là tiên nương, hẳn ai cần chi được nấy. Cô đã âu yếm với tôi, sao không cho tôi ít đồng qua cơn nghèo túng?
Nàng nhận lời. Đêm sau tới, Mã hỏi số tiền hứa cho đâu? Nàng làm bộ sửng sốt và nói: “Rủi tôi quên mất rồi”. Chừng sắp ra về, Mã lại nhắc. Đêm tới khi nàng vừa đến, Mã hỏi ngay:
- Món đó cô lại quên nữa chứ gì?
Nàng cười hẹn đến hôm khác.
Cách mấy hôm, Mã lại hỏi. Nàng vừa cười vừa rút trong tay áo ra hai nén bạc, đáng giá năm sáu đồng, hai bên rìa có những khía nhỏ trông xinh đẹp dễ thương. Mã mừng rỡ, cất kĩ trong rương. Chừng nửa năm sau, có việc cần xài bèn lấy ra cho người ta xem và nhờ bán giùm. Người ta nói:
- Đây là chì mà, đâu có phải bạc!
Đưa lên răng cắn thử, bể ngay. Mã sợ quá, vội vàng nhặt lấy về nhà. Đêm nàng đến, Mã gây gổ trách móc đáo để. Nàng cười:
- Mạng anh mỏng manh lắm, không xài được bạc thật đâu.
Thế rồi cười xoà bỏ qua chuyện đó. Mã cũng cười và hỏi:
- Nghe nói giống chồn thành tiên, đều là trang quốc sắc, nhưng nay tôi thấy đâu có phải vậy.
Nàng nói:
- Loài chúng tôi đều tuỳ theo hạng người gặp gỡ mà hoá thân hiện hình. Thứ anh, một đồng bạc còn không có phúc mà hưởng được, thì nhan sắc chim sa cá lặn, làm sao tiêu thụ cho nổi? Tôi xấu xí thế này, vốn không đủ dâng cho hạng thượng lưu, nhưng nếu đem so sánh với tụi chân to lưng gù thì tôi chính là quốc sắc đấy anh ạ!
Qua mấy hôm, nàng bỗng dưng đưa ra ba lượng bạc cho Mã và nói:
- Anh đòi hỏi nhiều phen, tôi suy nghĩ mạng anh không thể có tiền để dành mà cho anh làm chi. Nhưng nay đến kì cưới xin, vậy tôi đem cái giá cưới một con vợ để tặng anh, và xin cùng anh từ giã luôn thể.
Mã bày tỏ mình không hề có chuyện mối manh cưới hỏi gì cả. Nàng nói:
- Trong một hai ngày, sẽ có mụ mối tự đến.
Mã hỏi mặt mày người vợ sắp lấy xấu đẹp thế nào? Nàng đáp:
- Anh khao khát quốc sắc, rồi có quốc sắc cho anh mà!
- Tôi chẳng dám mong tới bực đó, nhưng với ba lượng bạc mua một con vợ sao đủ?
- Chuyện đó ông tơ bà nguyệt đã an bài, không cần ở nhân lực đâu.
- Nhưng tại sao cô vội từ giã tôi?
- Đêm nào tôi cũng dầm sương đội nguyệt mà đến hủ hỉ âm thầm với anh, đâu phải là cuộc lâu dài mãi được. Rồi anh sẽ có vợ anh, còn cầm giữ tôi làm chi?
Sáng hôm sau ra đi lại trao cho Mã một gói thuốc bột, dặn rằng: “Sau khi biệt nhau, e anh lâm bệnh, uống thuốc này thì khỏi”.
Liền ngày hôm sau nàng đi khỏi, quả có mụ mối đến. Mã hỏi nhan sắc người con gái trước hết. Mụ đáp rằng: ở giữa khoảng xấu đẹp. Lại hỏi tiền cưới độ bao nhiêu, mụ trả lời: chỉ độ bốn năm đồng.
Mã tuy không kèo nài về giá tiền đắt rẻ, nhưng chỉ muốn trông thấy người tận mắt cho được chắc ý. Mối tỏ ý lo ngại rằng con nhà tử tế, không chịu vác mặt đến nơi cho mình xem đâu. Nhưng rồi mụ hẹn cùng chàng đi đến nhà gái, sẽ tuỳ cơ liệu tính cho xem mặt cô dâu.
Khi đến làng đó, mối đi vào trước, bảo Mã đứng chờ bên ngoài. Lúc lâu mụ trở ra nói:
- Được rồi, người bà con bên ngoại tôi cùng ở nhà trên, vậy anh giả danh đến thăm bà con tôi. Nhà ngang trước cửa, chỉ cách gang tấc, tha hồ mà dòm.
Mã nghe lời, quả thấy nàng ngồi căn giữa, ngả mình xuống giường để cho người ta gãi lưng. Mã phớt qua, hai mắt ngó chăm thấy mặt mày như lời mối đã tả.
Đến lúc bàn định về khoản cưới, nhà gái không kèo nài gì hết, chỉ cần được một hai lượng, để mua sắm chút ít cho nàng xuất giá, có thế thôi.
Mã còn cò kè bớt một thêm hai, rồi mới nộp tiền, luôn dịp đền ơn mụ làm mai. Khi viết giấy tờ xong, tính ra ba lượng vừa hết, không thừa được xu con nào.
Vài hôm, chọn được ngày lành giờ tốt, đón vợ về nhà. Mã nhìn thấy vợ lưng gù bụng ỏng, cổ rụt như cổ rùa, trông xuống bàn chân to lớn phát sợ. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ những lời con chồn đã nói là có căn do vậy./.










Dịch giả: Đào Trinh Nhất




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Cô Tân thứ mười bốn
( Tân Thập Tứ Nương)
Quảng Bình Phùng sinh người ở khoảng triều Chánh Đức nhà Minh, từ lúc còn nhỏ đã có tính bê tha hay rượu. Một hôm tảng sáng đi chơi tha thẩn, gặp một thiếu nữ trùm vạt áo màu đỏ, nhan sắc cực xinh, có thằng nhỏ theo hầu, xăng xái dầm sương ướt cả giày tất; chàng trông thấy động lòng thầm mơ trộm nhớ.
Chiều tối, say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi nhà cũ, sân cỏ rêu mọc đã lâu, chàng bỗng thấy người con gái từ trong chùa ấy đi ra, nhìn lại chính là người đẹp ban sáng.
Nàng chợt thấy chàng đi qua, vội vàng day mình trở vào chùa.
Phùng sinh nghĩ thầm, người dẹp thế kia sao lại ở trong ngôi nhà hoang phế? Lập tức buộc buộc lừa ngoài cổng, rồi theo dõi vào tận chùa dò xem. Vào thấy tường đổ tứ tung , đầy thềm cỏ mọc, còn đương ngần ngừ về sự lui tới, thì một cụ già tóc bạc từ trong đi ra, áo mũ tươm tất sạch sẽ hỏi chàng từ đâu tới.
Chàng nói:
- Tôi thấy ngôi chùa cổ, nên muốn vào coi cho biết. Còn cụ vì sao lại ở trong này?
Cụ già đáp:
- Lão lênh đênh không có chỗ ở, nên phải tạm mượn cảnh chùa cho bầy trẻ ở đỡ. May mắn được ông chiếu cố, xin mời vào uống một chén trà núi để thay chén rượu.
Nói đoạn cụ kính cẩn mời Phùng vào chơi.
Phùng theo vào phía trong điện, tới một căn nhà đường đi lót đá bóng trơ, không thấy rêu phong cỏ mọc đâu cả. Vào trong nhà các thứ màn giường nệm chiếu đều có mùi hương ngào ngạt. Ngồi trò chuyện và hỏi thăm họ tên, cụ già đáp:
- Tôi là lão già Mông họ Tân.
Phùng thừa cơn say, hỏi liền:
- Nghe như cụ có một cô chưa lấy chồng, tôi không xét mình tự nguyện làm rể, mong đài gươong soi đến dấu bèo co được chăng?
Tân lão cười và nói để bàn tính với vợ đã. Phùng cao hứng liền cầm bút viết bài thơ:





Ngàn vàng mua chày ngọc
Ân cần dâng tận tay
Vân Anh nếu đoái tưởng
Giã thuốc hộ nàng ngay.(1)




Ông cụ xem thơ mỉm cười trao cho người nhà xem. Giây lát con hầu ở nhà trong ra nói thầm bên tai Tân lão. Tân lão đứng dậy, yên ủi chàng cố ngồi đợi, rồi cụ vén màn vào trong buồng, nghe văng vẳng cụ nói chuyện một hai câu lại trở ra liền.
Chàng tin chắc có tin lành, chẳng dè cụ ngồi nói những chuyện đâu đâu, không đả động chi tới việc đó, Phùng nhịn không được hỏi phăng:
- Việc đó ra sao, xin cụ dạy bảo cho tôi được yên lòng.
Tân lão nói:
- Cậu vốn là người xuất sắc, lão đem lòng kính mộ đã lâu, khốn nỗi vì có một cớ riêng chẳng dám hở môi đó thôi.
Chàng gạn hỏi cớ gì? Tân lão đáp:
- Con gái lão mười chín đứa mà mười lăm đứa có chồng rồi, việc gả bán thế nào là tự bà lão nhà tôi, chứ tôi không dự đến.
Chàng nói:
- Tiểu sinh chỉ cầu hôn với cô dắt một thằng nhỏ theo hầu, hồi sáng đi dầm sương đó.
Tân lão làm thinh. Hai người lặng lẽ ngó nhau. Nghe trong buồng có tiếng con gái rầm rì, Phùng hãy còn say, tức quá liền vạch màn xông đại vào nói:
- Cầu lấy làm vợ chẳng được, thì cũng phải để cho thấy tận mặt cho được hả lòng với nào!
Bên trong nghe cửa động, cùng đứng dậy nhìn sửng sốt. Trong đám quả có người vận áo đỏ đứng mân mê dải áo, có dáng e lệ. Cả nhà thấy chàng xông vào cùng hoảng hốt kêu lên. Tần lão cả giận sai mấy tên gia nhân lôi cổ chàng ra.
Lúc đó, hơi rượu càng nồng, chàng ngả lăn trong đám cỏ gai, gia nhân liệng gạch theo ngói như mưa, may sao không trúng vào người.
Chàng nằm trong đó một lúc mới tỉnh, nghe rõ con lừa của mình đương gậm cỏ bên đường, bấy giờ mới gượng dậy cưỡi lừa ra đi chập choạng. Trời tối, lạc đường, đi nhầm vào khe núi, những tiếng beo gầm vượn hú, làm cho chàng rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh tứ phía, không nhận ra chỗ này là đâu. Xa trông về phía rừng mù mịt, có ánh đèn thấp thoáng khi tỏ khi mờ, chàng nghĩ bụng chỗ đó tất có làng xóm, liền ra roi phóng lừa chạy tới. Nhìn lên thấy cổng cao lớn, chàng cầm roi gõ cửa. Bên trong có tiếng người hỏi” “Ai đó! Nửa đêm tới đây lảm chi?” Chàng đáp: “ Là kẻ lạc đường xin vào tạm trú”. Người bên trong nói: “Để hỏi chủ nhân đã, sẽ mở”.
Chàng đứng đợi sốt ruột, chợt nghe tiếng then động, cửa mở, một người tớ tráng kiện bước ra, đỡ lấy cương, dắt lừa vào mời chàng vào.
Nhà cửa rất sang trọng, gian giữa thắp sáng trưng. Chàng ngồi giây lát, một người đàn bà ra chào và hỏi họ tên. Chàng nói thật danh tánh của mình. Cách sau một khắc có hai ba con thanh y (con hầu mặc áo xanh) nâng đỡ một bà cụ tiến ra và nói: Quận quân ra đó! (Quận quân là danh từ tôn xưng bà mẹ vợ vua, hay các bà quý phái).
Chàng vội đứng lên, sửa soạn nghiêng mình cúi lạy, nhưng bà cũ ngăn lại, biểu chàng cùng ngồi và hỏi:
- Mi có phải cháu nội Phùng Văn Tử đó chăng?
Bẩm cụ phải ạ!
- Vậy thì mi là cháu gọi già đây bằng cô đây mà! Thân già bấy lâu như cảnh chuông đâm cành lụn, tuổi tác hồ tàn thành ra cách biệt bà con, chẳng tới lui thăm hỏi chi được.
- Thưa cô, con mồ côi từ nhỏ, những bà con đi về thăm nom ông nội, mười phần con không biết một. Cho nên hồi nào tới giờ chưa được hầu chuyện với cô, vậy xin chỉ bảo rõ ràng cho con biết.
- Rồi sau cháu sẽ tự rõ.
Chàng không dám hỏi nữa, ngồi đối diện với bà cụ mà óc tở tưởng ở đâu. Bà cụ lại hỏi:
- Đêm khuya sau cháu lần mò được đến đây?
Chàng muốn thừa dịp khoe mình gan dạ, bèn kể đầu đuôi câu chuyện gặp gõ trong ngày hôm đó. Bà cụ mỉm cười và nói:
- Thế cũng là một việc hay. Huống chi cháu là danh sĩ, sui gia với đám đó cũng xứng. Nhưng con chồn nhà quê lại dám lên mặt tự cao đến thế kia ư? Cháu đừng lo, để ta gọi nó tới đây.
Chàng vâng dạ cảm ơn lia lịa. Bà cụ day lại hỏi kẻ tả hữu:
- Ta không hay có gái nhà họ Tân có đứa nào xinh đẹp như thế à?
- Y có mười chín người con gái cả thảy, người nào cũng xinh xắn có vẻ, nhưng không rõ ngài định hỏi cô thứ mấy?
Chàng đáp cô ấy chừng mười lăm tuổi. Nàng áo xanh nói:
- Vậy thì là cô mười bốn đó. Cách ba hôm trước từng đi với mẹ tới đây chúc thọ Quận quân. Quận quân đã quên rồi sao?
Bà cụ cười:
- Hay con bé kết hột sen thành giày cao gót trong chứa bột thơm, ngoài bọc hàng mỏng mà đi, phải không?
- Thưa phải đó!
- Ừ! Con bé ấy biế làm ra vẻ quyến rũ khéo đáo để, nhưng quả thật có yểu điệu, thằng cháu ta thường đoán không sai tí nào.
Đoạn, bà cụ biểu nàng áo xanh:
- Sai thằng nhỏ đi kêu nói tới đây.
Nàng áo xanh dạ rồi đi liền. Một lát trở vào bẩm rằng:
- Cô Tân mười bốn đã đến.
Liền thấy cô mặc áo đỏ bước vào, cúi lạy bà cụ. Bà kéo dậy và nói:
- Mi sắp làm vợ thằng cháu ta, không nên làm lễ như con đòi đứa ở vậy nữa.
Nàng đứng thẳng mình buông tay, bà cụ vuốt ve mái tóc, rờ đôi bông tai của nàng và hỏi:
- Tân mười bốn, lúc này ở nhà có làm công việc gì không, con?
Nàng khe khẽ đáp:
- Bẩm lúc rảnh con chỉ thêu thùa.
Nói rồi day mặt trông thấy Phùng sinh có vẻ thẹn thùng bối rối. Bà cụ nói:
- Thằng cháu ta đó. Nó dốc lòng cùng con kết duyên sao con lại để nó đi lầm đường, đêm khuya lạc lõng vào khe núi thế này?
Nàng lẳng lặng không nói sao. Bà cụ tiếp:
- Ta sai gọi con tới đây không vì chuyện gì khác hơn là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi.
Nàng vẫn làm thinh.
Bà cụ gọi người nhà sửa soạn quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức. Nàng đỏ mặt nói:
- Xin để cho con về thưa với cha mẹ con đã.
- Ta làm mai cho con thì có chỗ nào sai sót mà lo chứ?
- Quận quân đã dạy, thế nào cha mẹ con cũng phải vân lời chớ đâu dám trái. Nhưng mà liều lĩnh như vậy con dù có chết, không dám phụng mạng đâu.
Bà cụ cười:
- Con bé này chí khí rắn rỏi, không thể ép uổng được, thật xứng đáng làm vợ thằng cháu ta.
Nói xong, bà rút lấy một cái trâm vàng gài trên đầu nàng, trao cho chàng giữ lấy làm tin, bảo chàng về nhà lựa chọn ngày lành giờ tốt thì làm lễ cưới.
Một mặt sai con hầu đưa cô Tân mười bốn về.
Lúc ngha xa xa có tiếng gà gáy, bà cụ hối gia nhân dắt lừa đến tiễn chàng ra đi.
Chàng đi mấy bước, nghoảnh lại chỉ thấy cây cối um tùm, lau sậy lấp mả mà thôi. Chàng định thần giây lát, mới nhớ ra đó là quan thượng thư họ Tiết. Ông này nguyên là em bà nội chàng, cho nên gọi chàng bằng cháu. Lúc đó chàng tự biết mình gặp ma, nhưng không hiểu rõ cô Tân mười bốn là người dính líu thế nào?
Chàng đoái cảnh thở than rồi đi về nhà, thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm những người ở gần họ nói trong chùa thường thấy chồn tinh xuất hiện. Chàng nghĩ thầm, miễn được vợ đẹp, có phảo là chồn cũng không sao.
Đến ngày lành đã định, chàng sai dọn dẹp quét tước trong nhà ngoài ngõ; người nhà thay phiên nhau túc trực chờ đợi. Mãi tới nửa đêm, còn lặng lẽ chẳng thấy động tĩnh gì, chàng đả chán nản thất vọng.
Giây lát, nghe ồn ào ngoài cổng, chàng vội vàng chạy ra xem thì kiệu hoa đã đến giữa sân, hai thể nữ đang đỡ nàng vào ngồi trong nhà; của hồi môn không có cái chi lạ, chỉ có hai đứa tớ trai khiêng một cái khạp, tục danh là “phúc mãn” làm bằng đất, có khe để bỏ tiền vào mà không moi ra được, khi nào đầy thì đập bể ra, to lớn như cái lu. Chúng đặt lu ấy vào một góc nhà rồi đi ra.
Chàng mừng được vợ đẹp, không ngờ là yêu ma, lấy làm lạ hỏi nàng rằng:
- Bà lão lia chính là người chết thành ma rồi sao cả nhà nàng kiêng sợ và phục tùng quá vậy?
Nàng đáp:
- Quan thượng thư họ Tiết, hiện làm chức Ngũ Do Tuân hoàn sứ, phàm loài chồn quỷ ở quanh miền này mấy trăm dặm đều phải theo hầu. Vì thế ngài có ít ngày giờ về mả đó.
Chàng không quên ơn mai mối cho mình được vợ, nên hôm sau,thân đến trước mả Tiết thượng thư để tế lễ tạ ơn.
Lúc về, thấy hai thị nữ mặc áo xanh, đem tới một cuộn gấm để mừng, vừa nói vừa đặt trên bàn rồi đi. Chàng kể chuyện này lại cho nàng hay. Nàng đem cuộn giấy ra và nói:
- Đây là vật báu của phu nhân đó!
Sở công tử, con một vị quan cũng ở trong miền, thuở nhỏ là bạn đèn sách với chàng, tình khá thân mật. Nay nghe tin mới cưới vợ là chồn tinh, công tử sai đem quà tặng, rồi lại đến nhà chàng uống rượu nói chuyện.
Cách mấy bữa sau, công tử gửi thư mời chàng đến nhà mình uống rượu.
Nàng nghe chuyện, nói riêng với chồng:
- Hôm nọ công tử đến đây, em dòm khe cửa, thấy con người ấy mặt vượn trán gồ, không giao du lâu bền, vậy mình đừn đi!
Chàng nghe lời.
Bữa sau, công tử thân đến nhà chàng trách sự lỗi hẹn hôm qua; nhân dịp đưa khoe bài văn mới làm. Chàng phê bình có vẻ giễu cợt, khiến công tử đỏ mặt ra về.
Chàng vừa cười vừa thuật chuyện cho vợ nghe, nàng tái mặt buồn thảm và nói rằng:
- Con người ấy bụng dạ độc ác giống như sài lang, chớ có chòng ghẹo nó mà khốn. Mình không thèm nghe lời em khuyên bảo, đi rước lấy tai vạ ắt đến nay mai.
Chàng cười và xin lỗi vợ. Về sau, chàng gặp lại công tử liền kiếm lời phỉnh phờ cho công tử mát ruột, nhờ vậy mà chuyện xích mích trước dần dần tiêu tan.
Vừa gặp có kỳ thi ở dinh đốc học, công tử được chấm đậu số một, lấy làm tự đắc, liền bày tiệc rượu để mời chàng đến.
Chàng cố từ. Công tử viết thư ân cần mời thỉnh mãi, chàng mới chịu đến. Khi đến nơi mới rõ là ngày ăn mừng sinh nhật của công tử, quan khách đầy nhà, cỗ bàn sang trọng. Công tử đưa quyển thi ra khoe khoang, chúng đưa nhau tán thưởng.
Rượu được vài tuần, dàn nhạc nổi lên, chủ khách chén tạc chén thù, hết sức vui vẻ. Bỗng dưng công tử nói với chàng:
- Tục ngữ có câu: “Trong trường học không luận văn chương hơn kém”, ngày nay mới rõ câu nói đó nói sai. Kỳ thi hôm rồi, em đậu trên anh chỉ nhờ có mấy câu khởi luận có ý kiến cao hơn của anh một bực đấy thôi.
Công tử nói đoạn, cử tọa hùa theo khen ngợi, Phùng sinh đang say ngà ngà, không sao nhịn được, cất tiếng cười vang và nói:
- Mãi tới ngày nay, anh mới biết văn chương sa sút tới mức ấy ư?
Nghe chàng nói ai nấy xanh mặt. Công tử vừa thẹn, vừa uất, không nói năng gì. Khách khứa lần lượt ra về, chàng cũng lẩn đi. Chàng tỉnh hơi men, lấy làm hối hận, kể hết chuyện thật cho vợ nghe.
Vợ trách:
- Mình thật là chú xã quê mùa. Phàm lời khinh bạc như thế, nói ra với người quân tử thì cái đức của mình thương tổn, nói ra với đứa tiểu nhân thì cái thân của mình nguy hiểm. Tất vạ sắp đến cho chàng, không con xa nữa. Em không nỡ trông thấy cảnh chàng khốn đốn lưu lạc, vậy em xin từ giã nhau từ đây.
Phùng sinh lo sợ khóc vùi tỏ ý ăn năn và cố lưu nàng ở lại, nàng nói:
- Nếu mình muốn cho em lưu lại thì phải hứa chắc với em điều này: Từ giờ trở đi, phải đóng cửa đọc sách, tuyệt hết bạn bè, không được bê tha trà rượu nữa.
Chàng xin y lời.
Cô Tân thứ mười bốn vốn có tính siêng năng cần kiệm, hàng ngày chăm chỉ dệt chiếu, thỉnh thoảng có về thăm gia quyến mình, nhưng đi rồi trở về nội ngày, không từng ở cách đêm bao giờ. Nàng lại xuất tiền ra mua bán kiếm lợi, hễ tiền bạc xài mỗi ngày còn dư, đều bỏ vào trong rương tiết kiệm như trên đã nói.
Ngày ngày chàng đóng cửa ngồi nhà đọc sách, bất cứ ai thăm viếng, nàng cũng bảo gia đinh ra từ tạ không tiếp.
Hôm sau ,công tử gửi thư đến, nàng giấu nhẹm không cho chàng hay.
Lại hôm sau nữa chàng phải vào trong thành điếu tang, gặp công tử ở trong nhà đám. Công tử lôi kéo, nài nỉ; chàng kiếm chuyện từ chối, không đi. Công tử sai bồi ngựa cố vực chàng lên lưng ngựa và nắm dây cương kéo đi bằng được mới thôi.
Về đến nhà, công tử liền sai bày tiệc, chàng uống vài chén rồi đứng dậy kiếu từ, công tử một hai nắm giữ, lại gọi mấy cô hầu đàn hát cho vui.
Phùng sinh sẵn tính ngang tàn bấy lâu lại bị giam hãm ở nhà, hơi thấy buồn bực. Nay gặp rượu ngon gái đẹp, đàn ngọt hát hay, bỗng sinh hào hứng trong lòng không còn lo nghĩ gì nữa, cứ việc uống cho say mèm đến nỗi nằm lăn trên bàn tiệc.
Vợ công tử, họ Nguyễn hung dữ và cả ghen rất đỗi, bọn hầu thiếp không dám trang điểm son phấn. Ban ngày hôm đó, một con hầu lẻn vào phòng học công tử. Nguyễn thị bắt được, dùng gậy đánh mãi trên đầu như mưa xối, con hầu bể óc chết liền, xác còn để đó chưa chôn.
Công tử vẫn căm giận Phùng sinh hay chế giễu mình, ngày ngày tìm cách báo thù, bây giờ gặp dịp bèn lập mưu phục rượuc ho chàng uống thực say, để vu hãm chàng vào tội gian dâm cố sát.
Sau khi chàng say rượu ngủ vùi, công tử cho khiêng xác con hầu kia đến bên cạnh rồi khép cửa bỏ đi. Chàng say tới canh năm mới tỉnh, bây giờ mới rõ lại mình ngủ trên ghế, liền đứng dậy đi tìm giường để ngủ thêm một giấc nữa. Bất đồ có vật gì mềm dịu, cản trở bước chân mình, rở xem, té ra là người. Trong ý chàng suy nghĩ có lẽ chủ nhà cho một tiểu đồng nằm bên để trông nom hầu hạ mình; nhưng chàng lại lay gọi và rờ nắn, thì người đó cứng đờ không cục cựa. Chàng cả sợ chạy vụt ra ngoài cửa, kêu la rầm rĩ.
Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác con hầu, liền tóm chặt lấy chàng hô hoán lên.
Công tử giả đò hốt hoảng chạy tới, trông thấy cớ sự liền vu cho chàng cưỡng gian sát hại con hầu nhà mình, hô người nhà bắt giải lên Quảng Bình để quan phủ xét xử.
Cách một ngày sau, cô Tân mười bốn mới biết câu chuyện là thế, khóc và nói:
- Từ trước ta đã tiên liệu có ngày hôm nay mà. Rồi đó mỗi ngày nàng gửi tiền bạc và thức ăn vào ngục cho chàng.
Trước mặt quan phủ, chàng nói nói rõ lý lẽ gì có thể giải bày nỗi oan của mình, cho nên sớm chiều bị tra khảo, đánh đập, đến tuột da nát thịt, mình mẩy không còn chỗ nào nguyên lành.
Nàng vào tận trong ngục hỏi thăm. Chàng trông thấy vợ đau đớn nghẹn ngào không thể nói ra.
Nàng biết chồng đã ngã xuống giếng sâu, bèn khuyên chàng đành phải nhận tội, cho khỏi bị tra tấn khổ thân. Chàng khóc lóc và xin nghe lời.
Chốn lao ngục canh gác nghiêm mật, mà nàng lui tới ra vào cách nhau gang tấc chẳng ai ngó thấy.
Hôm đó nàng đi thăm chồng trở về, buồn rầu than thở, đuổi hết tôi tớ ra ngoài, một mình đón cửa ở trong nhà luôn mấy ngày để nghĩ mưu tính kế.
Sau đó mấy hôm, nàng cậy mụ mối, đi mua hộ nàng một người con gái lương gia, tên là Lộc nhi, tuổi vừa đôi tám nhan sắc khá đẹp.
Nàng cùng Lộc nhi ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, yêu mến nâng niu, khác hẳn mọi người trong nhà.
Nói về Phùng sinh nghe lời nàng khuyên bảo, đành chịu nhận tội, quan phủ chiếu luật ngộ sát kết án thắt cổ, tên lão bộc hay tin khóc lóc thảm thiết, hộc tốc chạy về nhà báo tin cho nàng hay, mà không nói ra tiếng.
Nàng nghe với vẻ mặt thản nhiên dường như không thèm để ý.
Thấm thoát đã đến kỳ sửa soạn đem xử những tù phạm tử hình, bấy giờ nàng mới bồn chồn rối rít, ngày đi đêm về, không lúc nào yên nghỉ. Những lúc vắng vẻ thi ngồi than khóc một mình, đến nỗi bỏ ăn quên ngủ.
Một hôm trời nhá nhem tối, con hồ tì ( tức là con chồn thị nữ, lúc nàng còn ở trong mộ Tiết phu nhân rất yêu thương thắm thiết) xăng xái đến nhà, nàng vội vàng đứng lên dắt nó ra chỗ vắng nói chuyện thầm thì một hồi. Rồi thấy nàng tươi cười vui vẻ, trông nom cắt đặt việc nhà bình tĩnh như ngày thường.
Hôm sau tên lão bộc đến thăm, chàng gửi lời từ biệt nương tử vợ chồng vĩnh quyết nhau từ đây. Lão bộc về nhà thuật lại, nàng gật đầu qua loa mà nét mặt không thấy có chút đau thương buồn bã khi nghe chồn sắp bị hành hình. Trái lại nàng lạnh lùng như tuồng không thèm để ý đến chuyện đó.
Gia nhân bàn riêng lén với nhau, cho nàng là người vô tình và quá nhẫm tâm. Bỗng nghe đường sá tuyên truyền tin tức quan Sở ngân dài ( quan chánh án họ Sở, tức là cha ruột Sở công tử) đã bị cách chức, quan án Bình Dương vừa mới phụng chỉ xét lại vụ án Phùng sinh.
Lão bộc nghe tin, hớn hở chạy về báo với bà chủ. Nàng cũng vui mừng lập tức sai lão bộc vào ngục thăm dò, thì chàng đã được thả ra khỏi ngục thất. Thầy trò gặp nhau xiết bao mừng mừng tủi tủi. Giây lát thấy lính áp giải công tử đến dinh; quan án tra hỏi, công tử liền thúc hết thực tình vụ án. Vì đó Phùng sinh được quan tha ngay và cho về nhà.
Chàng về đến nhà trông thấy vợ, bất giác bưng mặt khóc ròng, nàng cũng khóc theo. Chàng khóc chán rồi mừng hớn hở, nhưng không hiểu vì sao vụ án của mình động tới tai hoàng đế, mà khỏi bị chết oan.
Nàng trỏ hồ tì và nói:
- Cứu tinh của chàng là con chồn nhỏ này đây.
Chàng kinh ngạc gạn hỏi mãi, nàng mới kể lại tự sự cho nghe.
Nguyên là hôm trước, nàng sai con hồ tì biến mình đến tận Yên kinh, muốn vào trong cung cấm để kêu hộ chàng. Nhưng cung cấm có thần canh giữ, nó không vào lọt phải lang thang quanh quẩn ở bên hồ ngự của nhà vua luôn mấy tháng không tài nào đến gần thiên tử mà tâu bày oan khúc.
Nó sợ dây dưa hỏng việc, tính trở về bàn mưu định kế với nàng, bỗng nghe tin thiên tử sắp ngự giá đi chơi Đại Đồng, nó liền tới trước giả làm con hát dạo, ở chốn hồng lâu. Thiên tử ngự vào đó chơi, thấy nó sắc đẹp hát hay rất mực yêu chuộng.
Ngài tỏ ý ngờ nó không phải là hạnh người phàm trần sa ngã, bấy giờ nó mới thừa dịp ôm mặt khóc nức nở. Nó liền thưa rằng, quê quán ở tận Quảng Bình con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan và kết án tử hình, cho nên nó bị bán vào chốn hồng lâu, thành ra lưu lạc đến đây.
Thiên tử nghe qua, vẻ mặt sầu thảm, ban cho một trăm lượng vàng trước khi ra đi, lại hỏi cặn kẻ đầu đuôi vụ án, lấy giấy bút ghi chép tên họ. Sau rốt ngài tỏ ý muốn rước nó về cung để chung hưởng phú quý. Nó tâu rằng, chỉ muốn cha con đoàn tụ là vui, chứ không dám mong hưởng giàu sang gì cả. Thiên tử gật đầu ba lời khen ngợi yên ủi rồi mới đi.
Con hồ ly thuật lại câu chuyện rõ ràng thêm cho chàng nghe. Chàng lật đật vái lạy tạ ơn, hai hàng lệ nhỏ ròng ròng.
Vợ chồng sum họp không được bao lâu, một hôm nàng nói với chàng:
- Em không vì tình duyên ràng buộc với chàng thì đâu có chịu lấy cảnh phiền não lâu này. Lúc mình bị bắt giam trong ngục, em ở ngoài bôn tẩu quanh nhà hàng họ thân thuộc, chớ hề có ai đoái hoài bày luôn cho một kế gì. Vì đó nay em chán đời phàm tục; em đả vì mình kén chọn người vợ hiền, còn em thì từ đây xin cùng chàng từ biệt.
Chàng nghe, nhào lăn mà khóc, nàng mới nể lòng ở lại không đi.
Đêm hôm, nàng sai Lộc nhi đến nằm với chàng. Chàng nhất định từ chối.
Sáng đến sau,. tự nhiên thấy nàng kém hẳn dung nhan. Hơn một tháng sau nữa thì da nhăn má hóp, gần như mụ già. Cách nửa năm lại đen thui và lọm khọm chả khác gì bà lão quê. Tuy nhiên, chàng vẫn một lòng kính mến, không hề suy suyễn.
Bấy giờ nàng lại nằng nặc đòi đi, nói rằng: “Nay chàng đã có vợ đẹo ia rồi, còn giữ mụ già xấu xí này làm chi?”
Chàng khóc lóc cầm giữ như trước.
Cách một tháng sau bỗng nàng phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống, chỉ nằm rủ riệt trong buồng. Chàng hầu hạ thuốc men, như đối với cha mẹ. Rước thầy pháp bà đồng về nhà, cúng lễ cũng vô hiệu; nàng tê liệt rồi chết. Chàng đau thương quá, chết giấc mấy phen. Nhờ có số vàng của con hồ tì được vua ban cho ngày trước, chàng làm lễ chôn cất long trọng.
Đám xong mấy hôm, con hồ tì cũng đi nốt.
Chàng bèn lấy Lộc nhi làm vợ, một năm sau, Lộc nhi sinh hạ một lúc hai đứa con trai. Nhưng chàng đi thi khoa nào cũng rớt, mà cảnh nhà ngày càng sa sút nghèo nàn. Vợ chồng không có cách gi mưu sinh, chỉ ngồi nhìn nhau buồn rầu than thở.
Bỗng chàng nhớ lại cái lu bể trong góc nhà, sonh thời cô Tân mười bốn thường hay ném tiền vào đó, chẳng biết có còn hay không? Chàng đến gần xem, thì vò tương chĩnh mắm bày la liệt bên trên, phải vời từng món đi mới đến cái lu, cầm đũa khoắn vào trong nhưng đũa không vào được. Bấy giờ đập lu tan vỡ, thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà.
Nhờ đó, chàng đương nghèo lại trở nen no đủ sung sướng.
Về sau, người lão bộc có dịp đi qua núi Thái Hoa, thấy cô Tân mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tì cưỡi lừa theo sau. Nàng trẻ và đẹp y như hồi nào, ân cần thăm hỏi Phùng lang có bình yên hay không. Lại căn dặn lão bộc về nói cho ông chủ biết rằng: Ta đã thành tiên rồi.
Lão bộc vừa nghe dứt lời thì nàng biến mất, không thấy gì nữa.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch
(1) Nguyên văn:
Thiên kim cầm ngọc chữ
Ân cần thủ thượng tương
Vân Anh như hữu ý
Thân vị đảo nguyên sương
Bài thơ này lấy sự tích Bùi Hàng thi rớt, về qua Lam Kiều vô quán uống nước, thấy nàng Vân Anh đẹp quá, muốn hỏi làm vợ. Bà mẹ nàng thách cưới một cái chày bằng ngọc, hễ có đem đến thì bà gả con gái cho. Bùi Hàng tìm tiò mua được chày ngọc đem lại, bà cụ dùng chày ấy giã thuốc tiên đơn cho chàng với Vân Anh cùng uống, cả hai cùng thành tiên.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Một Đêm Lấy Ma
( Công Tôn Cửu Nương)
Vụ án Vu Thất dậy giặc, làm người ta vị vạ lây mà chết, nhiều nhất là người ở hai huyện Thế Hà và Lai Dương. Có ngày bị bắt mấy trăm người, điều ra trường tập võ chém tất, máu đào lênh láng, xương trắng ngổn ngang. Quan trên động lòng từ bi, giúp tiền mua hòm; các tiệm đồ gỗ ở Thế Thành, đóng hòm tới đâu, bán sạch tới đó. Những người bị xử tử, phần nhiều bị chôn vùi ở Nam Giao.
Khoảng năm Giáp Dần, có người học trò người huyện Lai Dương, có việc đến phủ Tế Nam chơi; vì chàng có hai ba bạn thân cũng ở trong đám chém, nên nhân dịp mua vàng hương đi viếng mộ bạn, rồi thuê một căn phòng ở trong chùa trọ.
Sáng hôm sau, vào trong thàh có công việc mãi đến trời xế chưa về.
Bỗng có một thiếu niên đến buồng trọ của chàng thăm viếng, nhưng thấy chàng đi khỏi, liền bỏ mũ leo lên giường, chân để nguyên giày mà nằm ngửa mặt. Tên đầy tớ chàng hỏi là ai, khách nhắm mắt làm thinh không trả lời.
Đến lúc chàng về thì trời đã nhá nhem tối, nhìn mặt người không rõ, đến bên giường hỏi khách; khách trừng mắt nói:
- Ta đã bảo rằng đến viếng ông chủ mi, sao cứ phải hạch hỏi lôi thôi mãi, bộ ta ăn cướp ăn trộm gì ư?
Chàng cười nói:
- Chủ nhân chính là tôi đây.
Thiếu niên vùng dậy, đội mũ mặc áo mà ngồi, vồn vã hỏi thăm. Chàng nghe tiếng nói như người quen , liền hô thắp đèn cho sáng, nhìn mặt hoá ra Châu sinh, người đồng hương chết vì tai nạn Vu Thất. Chàng sợ hãi khiếp vía, toan chạy. Châu sinh níu lại và nói:
- Tôi với anh là bạn văn chương, sao lại vô tình với nhau như thế? Bây giờ tôi đã chết thành quỷ, nhưng cái tình bạn cũ vẫn canh cánh bên lòng. Nay có một chuyện đến làm rầy anh, xin chớ coi nhau là dị vật mà ra chiều bạc bẽo.
Chàng mạnh dạn ngồi xuống, hỏi muốn chuyện chi, Châu sinh nói:
- Người cháu gái của anh hiện còn ở goá chưa lấy ai; tôi cần một người nội trợ đôi ba phen cậy mối đến dạm hỏi, nhưng cô ta khăng khăng từ chối, lấy cớ không có mạng lệnh bề trên cho phép. Vậy xin anh, anh nghĩ tình bạn cũ, tán thành cuộc nhân duyên này giùm tôi.
Nguyên trước chàng có đứa cháu gái, kêu chàng bằng cậu, từ nhỏ mồ côi mẹ nên chàng đem về nuôi nấng, mười lăm tuổi mới về ở với cha. Nó bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha vừa bị tử hình, thương xót quá đỗi, kêu thét lên mà đứt hơi chết luôn. Nay Châu sinh muốn cưới người cháu gái đó về làm vợ.. Nhưng chàng lưỡng lự nói:
- Ủa! Con bé đó thì nó có cha nó làm chủ, sao anh phải cầu đến tôi?
Châu sinh đáp:
- Ông thân sinh cô ta đã được thằng cháu lấy xương cốt đi cải táng chỗ khác cho nên hiện thời không có mặt tại đây.
- Vậy thì con bé ở với ai?
- Cô ta sống chung với mụ hàng xóm.
- Nhưng tôi là người, làm sao mối lái cho ma được?
- Được, hễ anh bằng lòng thì xin theo tôi.
Châu sinh đứng dậy, nắm tay chàng kéo đi. Chàng cố từ chối và hỏi đi đâu.
Châu nói:
- Cứ việc đi với tôi sẽ thấy.
Chàng phải miễn cưỡng ra đi. Châu dẫn đi về hướng bắc độ một dặm, thấy một xóm làng to, chừng mấy trăm nóc nhà. Đến căn nhà thứ nhất, Châu gõ cửa, tức thời có mụ già chạy ra mở cửa, hỏi Châu muốn hỏi ai?
Châu nói:
- Bà làm ơn nói cô ở trong nhà rằng có ông cậu của cô đến đây.
Mụ trở vô giây lát, ra mời chàng vào, day lại nói với Châu sinh:
- Nhà tôi chật quá, phiền công tử đứng đợi ở bên ngoài một lát nhé.
Một mình chàng theo gót mụ vào, thấy nửa mẫu sân rêu, hai túp nhà nhỏ. Cháu gái đứng trước cửa đợi cậu, vừa chào vừa khóc sụt sùi. Trong nhà đèn thắp li ti, sắc mặt cháu xinh xắn như lúc còn sống. Nàng gạt nước mắt hỏi thăm cô thím ở nhà làm ăn có mạnh giỏi không? Chàng đáp:
- Mạnh giỏi tất cả. Duy chỉ có mợ cháu tức là vợ chàng thì đã qua đời rồi.
Nàng lại khóc nức nở và nói:
- Hồi bé, cháu nhờ cậu mợ nuôi nấng dạy bảo, công đức ấy cháu chưa đền đáp được một chút nào thì không may đã chết trước, nghĩ thật ân hận trong lòng. Năm nọ người anh con nhà bác đã dời xương cốt cha cháu đi nơi khác chứ không nghĩ đến cháu, thành ra ngoài mấy trăm dặm, chiếc thân bơ vơ côi cút như én lạc đàn. Nhờ cậu có lòng đoái tưởng đến, đốt vàng mã cho, cháu đã nhận được rồi.Sau hết, chàng nói chuyện với Châu sinh cầu hôn, nàng cúi mặt làm thinh, mụ già đứng bên đỡ lời:
Ấy, hôm trước Châu công tử cậy bà Dương đến dạm hỏi năm ba phen, già bảo là việc rất nên, nhưng cô em không chịu lấy chồng một cách gần như lén lút, nay có ông cậu đến chủ hôn cho, thì thật là danh chính ngôn thuận. Mụ đang nói thì có một cô mười bảy, mười tám tuổi, có con tớ gái theo hầu, ở đâu phăng phăng bước vào, trông thấy chàng liền day mình toan chạy. Nàng nắm chéo áo lại và nói:
- Chị đừng ngại. Đây là ông cậu ruột tôi, không phải ai lạ.
Chàng vái chào, thiếu nữ bẽn lẽn đáp lễ. Người cháu gái giới thiệu:
- Cô này là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thái Hà. Ông thân cô là người dòng dõi, nhưng nay cũng bị sa sút, cô không thích chơi với ai, sớm tối chỉ đánh bạn với cháu.
Chàng liếc thấy vẻ người tươi tắn, bẽn lẽn mà tuyệt đẹp, gật đầu khen ngợi.
- Phải trông người đủ biết là đại gia, chứ lều tranh vách đất làm gì có sắc mỹ miều đến thế.
Cháu cười và nói:
- Đã đẹp lại là thi sĩ nữa, cậu ạ! Thơ phú làm hay đáo để, cô thường dạy bảo cháu luôn.
Cửu nương mỉm cười:
- Con nhỏ này khi không bêu rếu người ta làm cho ông cậu cười chết!
Cháu cũng cười nói tiếp:
- Mợ cháu qua đời, mà cậu chưa lấy ai. Cậu xem cô này có vừa lòng không?
Cửu Nương cười thẹn vừa chạy vừa nói:
- Ranh con này phát khùng nói nhảm rồi đó.
Nói đoạn đi thẳng.
Lời nói tuy gần như đùa bỡn, nhưng chàng nghe lấy làm thích ý. Cháu dòm thấy ý cậu bèn nói:
- Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp. Nếu cậu không chê là dị loại, thì cháu xin nói giùm với bà mẹ cô ta.
Chàng bằng lòng lắm, nhưng sợ người với ma làm sao kết thành vợ chồng được, cháu biện bạch:
- Không hề chi đâu cậu ạ! Cậu với cô ta vốn có lương duyên túc thế với nhau.
Chàng từ biệt ra về, cháu tiễn chân và nói:
- Năm bữa nữa, trăng thanh người vắng có người đến rước.
Chàng ra ngoài cửa, không thấy Châu sinh đâu cả,nghểnh cổ nhìn về hướng tây, bóng trăng lờ mờ, nhận ra con đường cũ mà đi, thấy một toà nhà ở mé nam. Châu ngồi trên bệ đá ngoài cửa, lật đật đứng dậy đón chào:
Tôi ngồi đợi anh đã lâu. Đây là nhà tôi, mời anh quá bộ vào chơi.
Nói đoạn dắt tay chàng vào, ân cần cảm tạ, rồi đưa ra một cái chén vàng, trăm hột trân châu, và nói:
- Thưa anh, tôi xin nộp mấy vật mọn này để làm lễ cưới. Kế đó nói tiếp ngay:
- Nhà tôi có rượu đây, nhưng đó là vật dưới âm ty, không muốn đem mời khách quý, xin anh lượng cho.
Chàng xin cáo thoái, Châu tiễn ra đến cửa đường mới trở lui.
Về chùa, nhà sư và người tùy tùng xúm hỏi, chàng giấu giếm và nói:
- Bảo tôi gặp ma, ấy là nói xam. Vừa rồi tôi đến nhà bạn nhậu chơi đó thôi.
Sau năm hôm, quả thấy Châu đến, gương mặt rất vui vẻ, mới vào tới sân đã chào hỏi cười nói:
- Việc cui mừng của anh đã xếp đặt xong rồi, động phòng ngay trong đêm nay.
Đoạn, ngồi lại đợi anh sửa soạn cùng đi. Chàng tỏ vẻ sửng sốt:
- Quái lạ, tôi vì chưa nhận được hồi âm, cho nên chưa nộp lễ cưới gì cả, sao anh lại bảo là xong việc rồi?
Châu nói:
- Tôi đã thay mặt anh mà nộp đâu đó cả rồi.
Chàng hết sức cảm tạ, rồi theo Châu tới nhà Châu vào thẳng trong buồng, thấy có cháu gái y phục sang trọng, chờ đón rước cậu. Chàng nói:
- Cưới nhau hồi nào?
Châu trả lời:
- Đã ba hôm nay.
Chàng đưa ngay số hột ngọc của bạn tặng riêng cho hôm trước, cho cô cháu gái để thêm vào của hồi môn. Cô từ chối đôi ba lần rồi mới chịu lãnh, rồi kể chuyện lại cho cậu nghe:
- Cháu đem ý muốn của cậu bày tỏ với Công Tôn lão phu nhân; bà bằng lòng lắm, nhưng chỉ lấy cớ mình già nua, mà đường con cái hiếm hoi, ngoài Cửu Nương không có cốt nhục nào khác cho nên không muốn gả nàng đi lấy chồng xa. Phu nhân hẹn đêm nay cậu đến gửi rể tại nhà. Nhà không có ai là đàn ông, vậy để nhà cháu dẫn cậu đi.
Châu liền dẫn chàng đi, tới cuối xóm, thấy một nhà mở cửa sẳn sàng. Hai người vào trong nhà, ngồi giây lát thì gia nhân báo tin phu nhân đến. Hai nàng thanh y nâng đỡ bà cụ bước lên thềm nhà, chàng muốn lạy chào, nhưng bà cụ gạt đi:
- Tôi già yếu lọn khọm đáp lễ không đặng, vậy xin khước đi nhé.
Nói rồi, truyền thanh y bày tiệc rượu mừng. Châu cũng gọi gia nhân đem cỗ bàn riêng ở nhà mình lại và một hồ rượu riêng, để chuốc chén mừng chàng. Trong tiệc ăn uống không khác trần gian, duy có chủ nhân tự uống tự ăn, chứ không vồn vã mời khách. Tiệc tan, Châu ra về.
Thanh y dẫn đường cho chàng vào nhà trong, Cửu Nương diện sang, ngồi bên đuối hoa đợi sẵn. Trai tài gái sắc, cá nước duyên ưa, cuộc gặp gỡ nhau vui sướng thế nào, không cần phải nói ra.
Nguyên lúc trước, mẹ con Cửu Nương bị bắt, người ta định giải về kinh đô, nhưng khi đến quận Tế Nam thì bà mẹ chết vì không chịu nổi cực khổ, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo mẹ. Nay cùng tân lang đầu ấp tay gối kể chuyện thân thế đã qua mà thổn thức không tài nào ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:





I
Áo lụa hồi xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng trách tiền thân
Mười năm bóng chiếc sương khuya lạnh
Gác tía đêm nay mới thấy xuân.
II
Nấm mồ côi cút gió mưa vây
Ai ngỡ dương đài lại hóa mây?
Chợt nhớ rương xưa đem vật cũ
Quần là vấy máu hãy còn đây.




Trời gần sáng, nàng hối thúc chồng:
- Mình nên về sớm đi chớ để bọn tôi tớ bàn tán khó chịu.
Từ đó ngày tới đêm đi lại ái tình hết sức gắn bó. Một đêm chàng hỏi vợ:
- Làng này tên chi?
- Tên là Lai Hà Lý. Nàng đáp- Trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương, Thế Hà cho nên thành tên.
Chàng nghe bùi ngùi khôn xiết, nàng cũng bi cảm nói:
- Cô hồn bơ vơ, ngàn dặm trôi nổi, tình cảm hai má con tôi, nói ra đau lòng xót ruột. Nếu chàng nghĩ đến ân nghĩa một đêm, thì lấy cốt em mà táng bên mộ ông bà để cho em có chỗ nương tựa muôn đời không còn ân hận gì nữa.
Chàng nhận lờ, nàng lại nói:
- Âm dương cách trở, người quỷ khác nhau, mình cũng không nên bịn rịn ở chốn này lâu.
Nói rồi đưa tặng chàng cái khăn lụa để làm kỷ niệm và gạt lệ giục chàng lên đường. Chàng rầu rĩ ra đi, trong lòng còn thương tiếc không đành, bèn tiện đường gõ cửa nhà họ Châu.
Châu chạy chân không ra đón, vợ cũng trỗi dậy, đầu tóc rũ rượi, thấy cậu nửa đêm đến nhà mình, có ý sửng sốt hỏi gạn căn do. Chàng ngẩn người giây lát, mới thuật lại lời nói của Cửu Nương. Châu nói:
- Mợ cháu không nói với cậu thì cháu cũng định nói, vì mấy hôm nay cháu suy nghĩ đêm ngày đã tính đến việc đó. Chốn này không phải là trần gian, thiệt tình cậu chẳng nên ở lâu.
Hai cậu cháu ngó nhau trào nước mắt. Một lúc chàng mới gạt lụy, từ biệt lên đường.
Trở về gõ cửa nhà trọ nằm trằn trọc tới sáng.
Thức dậy, muốn đi tìm mộ Cửu Nương ngay, nhưng lại quên hỏi dấu tích thì biết mộ nàng ở đâu mà tìm. Mong cho mau tới đêm tối lại đi nhưng mồ mả lố nhố ngổn ngang không đường nào xóm cũ đành phải thở dài bỏ về.
Chàng nhớ chiếc khăn nàng tặng, lấy ra xem, gặp gió thổi rách tả tơi, nát như tro tàn.
Thầy trò sửa soạn hành lý trở về quê quán, luôn nửa năm trời bứt rứt trong tâm, không sao chịu nổi, lại cưỡi ngựa đến trước cửa thành Tế Nam, may ra gặp được nàng chăng? Khi đến Giao Nam, trời đã chạng vạng, liền buộc ngựa gốc cây trước sân, rồi lần mò vào bãi tha ma.
Nhưng chỉ thấy mồ con mả lớn, gai góc um tùm, lập loè lửa ma. Tê lòng sởn óc, đành bóp bụng trở về quán trọ, rồi ngày hôm sau rầu rĩ lên đường hồi hương.
Đi chừng một dặm, xa trông thấy một thiếu nữ đi thơ thẩn một mình trong đám mồ mả, nhìn cách ăn mặc đi đứng thật giống Cửu Nương, vội vàng xuống ngựa để nói chuyện với nàng. Nhưng nàng bỏ chạy, làm như không từng quen biết. Chàng lại muốn tới gần mữa, thì nàng nhăn mặt trừng mắt tỏ vẻ giận dữ, đưa tay áo lên che mặt. Chàng kêu Cửu Nương mấy tiếng, nàng biến đâu mất.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Tản Đà dịch
Ba Ông Tiên
Một người học trò đi vào thi ở Kim Lăng, đường qua huyện Túc Thiên, gặp ba ông đồ cùng nói chuyện rất khoáng đạt hơn chúng , bụng lấy làm thích lắm, mua rượu thết uống rồi cùng vui vẻ bày tỏ họ tên với nhau. Một người là Giới Thu Hành, một người là Thường Phong Lâm, một người là Ma Tông Từ. Rượu uống rất vui, trời tối lúc nào không biết. Giới nói: “Lê địa chủ chưa có gì, mà đã được hậu đãi như thế thực không yên. Vậy chỗ nhà tranh không xa đây, xin tiện mời được quá bộ tạm nghỉ”. Thường và Ma đứng dậy lôi áo gọi đầy tớ cùng nhau mời cùng đi. Đến chỗ núi phía bắc làng, chợt thấy có nhà cửa, có dòng nước chảy quanh, phong cảnh thực đáng yêu. Vào rồi thấy trong nhà sạch sẽ, gọi đầy tớ đốt đèn lại sai cho đứa đi hầu được yên nghỉ. Ma nói: “Từ trước ta vẫn chơi với nhau bằng văn chương, nay ngày thi đã đến nơi, không nên bỏ uổng phí đêm tối, xin gnhĩ bốn đầu bài, cho ai nấy tự bói chọn lấy một, văn làm xong hãy cùng uống rượu:” Chúng đều theo, mỗi người viết một đầu bài, viết để ra trên kỷ, ai nhặt được bài nào, đến chỗ làm riêng nghĩ ngồi làm. Chưa hết canh hai, mọi người đều xong cả bản ráp, rồi cùng đưa lẫn cho nhau xem. Ông đồ đọc ba bài làm rất là khen hay, chép bản thảo mà cất đi. Chủ nhân đem rượu ra kính khách, chén lớn uống ngụm to, đều say cả. Khách đứng dậy xin thôi, chủ nhân bèn đưa khách đến một chỗ mà ngủ. Trong lúc say không cởi giày nữa, mặc cả áo ngủ liền, tỉnh dậy thấy mặc trời đã lên cao, nhìn bốn xung quanh không có nhà cửa gì chỉ hai thầy trò nằm với nhau chổ hang núi. Sợ quá gọi đầy tớ dậy nốt, thấy ở cạnh có một cái động, như nước rót chảy ra, tự ngờ hay là mê chăng. Nhìn vào trong bọc, thời ba bài băn làm cũng còn cả. Xuống núi hỏi những người ở gần đó, mới biết chỗ ấy gọi là động ba vị tiên, vì trong động có ba con cua, rắn và ễnh ương rất thiêng, thời thường vẫn ngồi chơi người ta trông thấy cả. Sau rồi ông đồ vào trường thi, được ba bài đều trúng cả với ba bài tiên làm cho, thành thử được đỗ đầu.


TẢN ĐÀ dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Đại Bợm
( Cục trá)
I

Gia nhân nhà quan ngự sử nọ đang thơ thẩn đứng ở chợ. Một người áo mũ tốt đẹp ra dáng tới gần bắt chuyện, dần dà hỏi đến họ tên, quan chức chủ nhân. Anh gia nhân cứ thực thà mà nói hết.
Người ấy nói mình là họ Vương, là chân trong cho một quý chủ nọ. Chuyện trò đã dần dần cởi mở, anh ta nói bâng quơ:
- Thời buổi này con đường làm quan thực là quanh quẩn nhiều bề. Muốn thăng quan tiến chức thì phải nương tựa vào cửa một vị quý nào đấy. Ông chủ tôn quý nhà ta nhờ ở ai?
Anh gia nhân cười, nói không rõ. Vương bảo:
- Như thế đúng như người ta thường nói: Tiếc phí nhỏ mà quên họa lớn đây!
- Nhưng biết nương tựa cửa nào cho được?- Anh gia nhân hỏi lại.
- Công chú lấy lễ đãi người lại có thể nhón tay che chở. Qua thị lang tôi cũng tiến thân qua bậc thềm tôi tớ ấy. Nếu ông chủ anh không tiếc nghìn vàng trong việc ra mắt công chúa thì việc tiến thân cũng không khó lắm đâu.
Anh gia nhân cả mừng, hỏi địa chỉ người ấy. Người ấy chỉ nhà cửa, còn có ý trách:
- Cùng ngõ, qua lại hàng ngày mà chưa biết hay sao?
Gia nhân hí hửng về nhà báo ngay với quan ngự sư. Quan Ngự mừng không xiết kể, lập tức sai bày tiệc, cử người đi mời Vương, Vương hớn hở đến ngay. Trong khi ăn uống hắn kể tỉ mỉ tính tình công chúa ra sao, lại bàn soạn kỹ lưỡng đường đi nước bước mọi sự lặt vặt như thế nào, lại còn nói rằng: Nếu chẳng phải tình ngõ xóm thân cận thì cứ phải biện cho hắn một trăm đồng tiền thưởng chứ hắn không chịu làm thân trâu ngựa không công. Quan Ngự Sử càng tỏ ý hàm ơn, chịu nghĩa hắn. Trước khi về hắn hẹn:
- Xin ngài cứ chuẩn bị lễ vật. Gặp dịp tôi sẽ bẩm ngay với công chúa, sớm chiều là tôi báo tin cho tôn ông.
Vài ngày sau anh ta đến, cưỡi một con ngựa cực đẹp, bảo quan Ngự:
- Xin ngài mau chóng chỉnh tề khăn áo vào hầu. Công chúa bận nhiều việc lắm, người đến ra mắt nối nhau tự sáng bảnh đến chiều hôm. Nay may được một khoảng trống, phải đi ngay kẻo lỡ thì không còn dịp nào nữa.
Quan Ngự lật đật đem vàng ròng lụa là tốt đi theo ngay. Quanh co hơn mười dặm mới tới phủ đệ công chúa, xuống ngựa đứng chờ. Vương đem lễ vật vào trước, lúc lâu ra dõng dạc nói lớn:
- Công chúa triệu ngay quan Ngự mỗ vào.
Mấy người nối nhau xướng lời tuyên triệu.
Quan ngự sử lật đật vào phủ.
Ngồi cao cao giữa nội điện là một nữ nhân, dung mạo như tiên, trang phục rực rỡ. Bọn thị nữ mặc áo gấm dàn hàng la liệt.
Quan Ngự Sử phủ phục làm lễ bái kiến rất mực cung kính.
Công chúa truyền lệnh cho ngồi dưới thềm, ban trà bằng chén vàng và phủ dụ những lời ngon ngọt.
Qua ngự kính cẩn xin lui. Trong nội điện lại truyền ban cho mũ lông điêu, bít tất bằng đoạn.
Về đến nhà quan Ngự cứ ca ngợi công đức Vương mãi. Lại sai người cầm danh thiếp đến tạ ơn. Nhưng nhà cửa Vương đã vắng tanh vắng ngắt. Quan Ngự đồ rằng anh ta đi hầu Chúa chưa về. Ba ngày liền vẫn không gặp.
Quan Ngự lại sai người đến hỏi ở cửa bà Chúa. Thì ở đây cũng kín cổng cao tường. Hỏi người xung quanh, họ đều nói đây không có bà chúa nào cả. Trước đây ít lâu chỉ có mấy người đến thuê tạm nhà ở, nay đã đi đâu từ ba ngày nay rồi.
Sai nhân về nói lại.
Cả chủ lẫn tớ chỉ còn tức uất lên thôi.


II

Viên phó tướng mỗ, mang tiền vào kinh đô để cầu đường thăng quan tiến chức, nhưng khỗ nỗi chưa tìm được chỗ đỡ đầu. Một hôm có một người mặc áo cừu, cưỡi ngựa béo đến chơi, tự nói anh ruột mình là người hầu cận với thiên tử.
Trà nước xong, tướng quân ngõ lời nhờ và. Anh ta nói:
- Trước mắt ở xứ ấy còn khuyết một tướng quân. Nếu ngài không ngại tốn thì tôi sẽ dặn anh tôi gợi khéo trước mặt thánh chúa. Việc ấy mà xong thì kẻ có thế lực mấy mà tranh được.
Viên phó tướng còn ngần ngại:
- Tôi e đường đột, không ăn thua gì.
Người ấy lại nói:
- Đã định làm thì chớ nên trù trừ. Tôi chẳng qua chỉ muốn bòn chút ít ở ông anh, còn đối với tướng quân thì tơ hào tôi không đòi hỏi. Bây giờ ta chỉ cần định số tiền bạc là bao nhiêu, viết giấy làm tin, đợi khi nào ngài được thiên tử triệu kiến rồi mới phải chồng tiền. Nếu không xong thì tiền của ngài còn đó chứ ai móc mất của ngài đâu.
Viên phó tướng hởi dạ, bằng lòng.
Ngày hôm sau, người ấy đến để dẫn ông Mỗ đi gặp người anh.
Người anh xưng họ Điền, hách dịch như bậc hầu gia, nhìn ông Mỗ mốt cách đặc biệt ngạo mạn, không lấy gì làm hợp lễ lắm. Người em đưa tờ giao kèo cho ông Mỗ, bảo:
- Tôi vừa bàn với ông anh, việc này không đủ vạn bạc không được, xin ngài ký xuống dưới này.
Ông Mỗ làm theo, Điền anh còn nói:
- Lòng dạ người ta khó lường, chỉ ngại việc xong rồi lại lật lọng.
Điền em cười mà rằng:
- Anh quá lo xa. Đã có thể cho rồi há không thể đoạt lại hay sao? Vả lại các bậc văn võ trong triều có người tình nguyện nộp tiền mà không được. Bước đường tiến thân sau này của tướng quân đây còn xa rộng lắm. Xin anh đứng để ý đến điều đó.
Ông Mỗ cũng thề thốt hết điều rồi mới đi. Điền em đưa tiễn dặn:
- Ba bữa nữa, xin trả lời ngài.
Mới hai ngày, trời vừa sẩm tối, có mấy người chạy đến phi báo:
- Thánh thượng đang ngồi đợi.
Ông Mỗ cả kinh vội tất tả vào chầu.
Thiên tử ngồi ở trên điện, quân nanh vuốt xúm quanh. Ông Mỗ phủ phục làm lễ bái kiến xong, hoàng thượng cho phép ngồi, hỏi thăm ân cần rồi nghoảnh bảo tả hữu:
- Trẫm nghe danh Mỗ vũ dũng phi thường, nay được thấy mặt, quả đúng là bậc chân tướng quân.
Rồi phán truyền cho ông Mỗ:
- Xứ ấy là đất hiểm yếu, nay ủy thác cho khanh, khanh chớ phụ ý trẫm, hãy đợi sắc phong chính thức.
Ông Mỗ bái tạ ơn mưa móc rồi lui ra. Lập tức đã có anh chàng mặc áo cừu cưỡi ngựa béo trước đây, đi theo đến nơi trọ, cứ đúng như giao kèo nhận tiền.
Rồi sau đó, ông Mỗ cứ nằm khểnh đợi sắc phong, hàng ngày đã úp mở khoe khoang với bạn bè. Qua mấy bữa, ông ta dò hỏi mới biết chân tướng quân khuyết trước đây, đã có người được bổ rồi. Ông ta nổi cơn thịnh nộ, thốc thẳng tới bộ binh chất vấn:
- Mỗ đây đã nhận được lệnh của Hoàng đế, sao các ngài lại trao cho người khác?
Quan Tư Mã lấy làm lạ. Ông Mỗ kể lại những điều đã mắt thấy tai nghe, khi vào bái mệnh thánh chúa mơ mơ hồ hồ đến phân nửa như cảnh trong mộng. Quan Tư Mã nổi giận bắt đưa xuống quan Đình úy xét xử.Lúc ấy ông mỗ mới cung tên họ người dẫn tiến, tra xét lại thì trong triều không có ai như thế.
Ông Mỗ lại tổn phí bạc vạn nữa để chạy chọt may phúc mà chỉ bị cách chức đuổi về.
La thay! Hạng võ biền tuy mu mơ song lẽ nào chốn triều đình lại có thế đóng gỉa được sao? Như người ta thường nói: Loại trộm bậc thầy không cần đến dao thuổng khoét vách đào nghạch!


III


Lý sinh người Gia Tường, rất giỏi đàn kìm. Tình cờ ra xứ đông, Sinh mua rẻ được một cây đàn , kìm loại cổ do thợ thổ đào được. Lau chùi đi, thấy thân đàn có ánh sáng lạ; so dây gảy thứ nhất thì tiếng kêu trong và vang lạ thường. Sinh mừng quá như bắt được châu ngọc quý liền cất đàn luôn vào túi gấm, giấu biệt vào trong buồng kín, người thân thích mấy cũng không cho xem.
Quan huyện họ Trình vừa mới về nhận chức, đưa danh thiếp đến thăm Lý. Lý là người ít giao du song vì là lần đầu tiên nên nhận tiếp. Vài ngày sau ông ta mời đến uống rượu, cứ nài nẵng mãi cho nên Lý phải đến. Trình là người phong nhã khác đời, nghĩ luận sâu rộng cho nên Lý cũng ưa. Hôm sau Lý gửi mời lại, chuyện trò vui vẻ, ý hợp tâm đầu, từ đó sớm ngắm hoa đêm thưởng nguyệt, không mấy khi không có nhau.
Cứ thế được hơn năm, một hôm Lý tình cờ vào công thự Trình thấy có một cái túi gấm trong đựng đàn kìm đặt trên ghế, Lý tiện tay mở xem. Trình hỏi có am hiểu thứ này không? Lý trả lời không sành lắm nhưng thường ngày cũng thích. Trình xuýt xoa:
- Mối tri giao chẳng phải mới một ngày, sao lại không thể cho thưởng thức tài nghệ tuyệt vời?
Rồi vội vã đốt lò hương trầm, xin Lý dạo chơi vài khúc. Lý vâng theo, Trình khen:
- Thật là tay đàn tuyệt vời! Tôi cũn xin hiến chút tài mọn, mong đừng cười.
Nói rồi gảy khúc Ngự Phong, thanh âm lạnh lẽo đến gai người, thực là tuyệt trần đời, Lý phục sát đất xin tôn làm thầy.
Từ đó hai người trở thành bạn tri âm, tình thân càng gắn bó. Cứ như thế được hơn năm nữa, Trình truyền lại cho Lý hết mọi ngón đàn. Song mỗ khi Trình đến nhà, Lý chỉ đem cây đàn thường ra chơi, chưa từng đưa dùng cây đàn quý.
Tối đó khi đã say ngà ngà, Trình nói:
- Tôi mới soạn được một bản đàn, không biết anh có thích nghe không?
Rồi ông ta gảy khúc Tương Phi vừa soạn ấy, tiếng đàn sao mà ai oán sầu thương. Lý khen hết lời. Trình bảo:
- Chỉ tiếc không có cây đàn tốt. Nếu không thì âm điệu còn hay hơn gấp bội.
Lý hởn hở:
- Tôi có một cây đàn khác hẳn đàn thường. Nay đã gặp tri âm sao dám giữ kín mãi.
Nói đoạn, mở hòm xách túi đàn bằng gấm ra. Trình mở ra, lấy vạt áo lau bụi, đặt đàn lên ghế chơi lại khúc nhạc vừa soạn, tiếng trong tiếng đục theo điệu, chơi hay quá làm mê mẩn cả tâm thần người nghe. Lý vừa nghe mà tay bất giác cứ đánh nhịp theo. Đàn dứt, Lý nói:
- Vẻ chi một chút tài mọn mà phụ cả cây đàn quý. Nên chi để tiện nội tấu một khúc thì cũng có thể lọt tai bậc tri âm được vài ba tiếng.
Lý kinh ngạc:
- Ôi bậc khuê các bên bác cũng tin diệu đến thế ư?
Trình cười:
- Những ngón vừa rồi là do tiện nội truyền cho cả.
- Tiếc rằng trong chốn buồng khuê tiểu sinh chưa kịp được nghe.
- Bọn ta chơi bời với nhau hai mà như một, có gì cần phải giới hạn tránh né. Ngày mai xin cho mang cay đàn này đi, tôi có thể khiến để bác được thưởng thức qua bức rèm the.
Lý bằng lòng, hôm sau xách đàn sang nhà Trình. Trình sai sửa soạn cỗ bàn để cùng vui chén, rồi mang đàn vào trong nhà, lát sau lại ra ngồi vào bàn.
Sau màn thấp thoáng bóng giai nhân, mùi hương lan tỏa ngào ngạt ra ngoài. Tiếng đàn nổi lên thánh thót không hiểu là khúc gì, chỉ thấy thổn thức cả con tim, rung động cả xương cốt, hồn như bay, phách như lạc. Tiếng đàn ngưng, Lý liếc mắt qua rèm thấy một tuyệt thế giai nhân khoảng ngoài hai chục tuổi xuân xanh.
Trình rót rượu vào chén lớn chuốc cho Lý. Trong rèm tiếng đàn đổi thành tiếng ngâm bài phú Nhân tình, cả thần hồn thần xác đều rung động, ngả nghiêng nâng chén quá say, rời mâm lên tiếng xin lại cây đàn. Trình can:
- Anh say rồi sợ ngã. Ngày mai xin lại mời đến để tiện nội trổ hết tài nghệ.
Lý chịu phép trở về.
Mai đến thì chốn công thất vắng tanh, chỉ có người lệ già coi cổng. Hỏi thăm Trình, người lệ già cho biết: Canh năm quan huyện đã đưa hết gia quyến đi, không biết về việc gì, chỉ hẹn ba ngày quay lại.
Đến hẹn, Lý lại tới ngóng trông tối mịt vẫn không thấy âm hao. Các nhân viên trong viện đều ngờ, bẩm lên quan trên rồi phá cửa vào nhà. Nhà trống hoang chỉ còn lại có bàn ghế giường chiếu. Quan trên cũng không rõ ra sao.
Lý mất cây đàn quý, bỏ ăn quên ngủ. Hỏi thăm các nhà trong khoảng vài nghìn dặm thì được biết: Trình sinh ở đất Sở ba năm trước đây vì quyên tiền mà được nhận chức ở Gia Tường. Bằng vào tên họ, que hương thì đất Sở không có người ấy. Hoặc có người nói chỉ có một đạo sĩ họ Trình, giỏi đàn kìm lại nghe đâu biết thuật luyện đàn, ba năm trước đây bỗng đi đâu mất không thấy về, Lý ngờ đúng là người ấy. Lại so sánh tuổi tác hình dung thì quả đúng không sai. Lúc ấy mới biết, đạo sĩ quyên tiền làm quan đều là vì cây đàn quý; kết bạn hơn một năm không nói gì đến âm luật rồi dần dần đưa đàn ra, rồi dạy đánh đàn, rồi lại mê hoặc bằng người đẹp; dần dà như thế ba năm lấy được đàn là băng đi tuốt.
Cách lừa bịp trong thiên hạ thì vô kể nhưng như đạo sĩ thì là một tay phong nhã trong làng bợm.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Tấm Gương Thu Hình
(Bát Đại Vương)
Lâm Thao Phùng sinh, tên thật là gì, người thuật chuyện không nhớ, chỉ biết chàng vốn dòng dõi thế gia nay đã sa sút rồi. Có người chài lưới thiếu nợ chàng mà không trả nổi, hễ lần nào bắt ba ba cùng loài cua đinh cũng đem biếu chàng. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, chàng thấy hình dạng lạ lùng, liền thả ra sông.
Sau đó có dịp đi thăm con rể trở về đến bờ sông Hoàng Hà trời đã chạng vạng, thấy một người say rượu, hai ba tiểu đồng theo sau, ngất ngưởng đi từ đầu kia tới, giáp mặt chàng hỏi chàng là ai đi đâu vậy? Chàng trả lời là kẻ đi đường. Người say giận nói:
- Chàng có tên họ gì, sao lại nói cụt ngủn là kẻ đi đường?
Đường xa trời tối, chàng sốt ruột đi về, cho nên chẳng buồn trả lời, cứ phăng phăng đi qua. Người say càng giận, nắm chặt lấy áo chàng không cho đi, mùi rượu xông lên sặc sụa. Chàng rất khó chịu mà cố sức gỡ mình ra không được bèn nói xẵng:
- Nhà ngươi tên chi?
Người say đáp giọng lè nhè:
- Ta là Lệnh Doãn cũ ở Nam Đô. Mà chú hỏi làm chi.
Chàng nói:
- Thế gian có thứ Lệnh Doãn như vậy, thật là chửi thiên hạ. Ấy, may là Lệnh doãn cũ, phải là Lệnh doãn mới, dễ thường phải giết hết người ta chăng?
Người say giận lắm, toan giở võ ra với chàng. Chàng dõng dạc nói:
- Ta đây là Phùng mỗ, không chịu anh đánh đâu.
Nguời say nghe nói, liền đổi giận làm vui, cúi mọp xuống lạy mà nói:
- Ngài là ân nhân của tôi, vừa rồi đường đột, xin đừng chấp trách.
Đoạn, trỗi dậy bảo tiểu đồng đi mau về nhà trước dọn rượu. Chàng từ chối không được, nắm tay cùng đi vài dặm, đến một xóm nhỏ. Vào trong thì nhà cửa sang trọng, như phủ đệ qúy nhân. Sau khi thấy chủ nhân đã tỉnh rượu, chàng mới hỏi thăm tên họ là gì. Chủ nhân nói:
- Thú thật với ông xin ông chớ kinh hãi. Tôi là bát Đại Vương ở sông Thao đây. Mới đây, Thanh Đồng ở Sơn Tây mời đi uống rượu trở về có hơi quá say, nên mới xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn.
Chàng biết là yêu quái nhưng thấy tình ý niềm nở cho nên chẳng sợ hãi. Giây lát tiệc bày linh đình, mời chàng uống rượu nói chuyện. Bát vương uống cực hăng một hơi đã cạn luôn mấy ly lớn. Chàng sợ hắn lại say, sinh sự rắc rối như hồi nãy, bèn giã đò mình say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý, cười nói:
- Ông sợ tôi say quá hóa cuồng chăng? Xin ông chớ lo. Phàm người say nói xằng làm bậy, mà bảo rằng qua sáng mà tỉnh rượu, không còn nhớ gì việc mình là, ấy là nói dối, nhưng đối với người trưởng giả như ngài, thật không dám làm điều vô hạnh. Tại sao ngài cự tuyệt tôi như thế?
Chàng nể lòng, lại ngồi xuống, nghiêm sắc mặt can gián:
- Ông đã tự biết mình lầm lỗi, sao không sử đổi đi?
Bát vương đáp:
- Lão phu hồi làm Lệnh Doãn, say sưa be bét còn quá ngày nay. Từ ngày chọc giận Thượng đế, bị đày ở cù lao, cố chừa thói cũ, được hơn mười năm. Nay nghĩ mình già yếu sắp sửa vào hòm, mà tấm thân còn vất vả chẳng được vẫy vùng, cho nên thói cũ lại muốn trở lại mà không tự biết đó thô. Nay được ngày khuyên bảo, tôi xin vâng lời.
Còn đang nói chuyện, thì nghe thấy tiếng chuông chùa xa đã gõ. Bát vương đứng dậy cầm tay chàng nói:
- Tôi cùng ngài tụ họp không được lâu, vậy có một vật báu, xin tặng ngài để báo đáp ơn xưa. Vật này chẳng nên mang lâu. chừng được như nguyện rồi, xin trả lại cho tôi.
Nói đoạn, khạc trong miệng ra một hình nhân bé tí hon, độ chừng một tấc, rồi móng tay nọn rạch cánh tay chàng đau như xé ruột, vội vàng đặt hình nhân lên trên mà đè thật mạnh. Khi buông tay thì hình nhân đã lọt vào da thịt, mà dấu móng tay còn rành rành. Chàng sợ hãi cuống quít, Bát vương cười mà không đáp, chỉ nói rằng:
- Ngài nên đi thôi.
Đoạn tiễn chân chàng ra cửa. Bát vương trở lại.
Chàng ngoảnh lại, xóm làng nhà cửa đều biến mất, duy một con ba ba đang bò xuống sông, chàng sửng sốt giây lâu tự nghĩ vật báu mới cho tất là ngọc ba ba.
Từ đó cặp mắt cực sáng; phàm chỗ nào có châu báu, dù ở suối vàng cũng trông thấy. Ngay đến vật gì thuở nay không từng biết bao giờ cũng ứng khẩu nói ra đích danh. Nhờ vậy mà đào lên được mấy trăm bạc chôn giấu ngay trong buồng ngủ, thành ra sự ăn tiêu hơi phóng túc.
Sau có người bán ngôi nhà cũ, chàng dòm thấy tiền bạc chôn giấu nhiều lắm, bèn mua giá đắt để làm nhà ở. Dần dà giàu có ngang bậc vương hầu, phàm loại ngọc quý trong thiên hạ, nhà chàng sưu tập tích súc đủ cả.
Trong số đó có một tấm gương, sau lưng chạm trỏ hình chim phượng và bà Tương Phi, bề mặt chiếu sáng tới ngót một dặm, rõ ràng từ mảy tóc sợi lông, có thể đếm được.
Nhất là mỹ nhân nào soi gương này, tức thời hình dạng in vào gương, chùi lau cách gì cũng không mất được. Nếu người đó thay quần áo khác mà soi lại, hoặc một mỹ nhân khác soi thì hình ảnh in trước mới được mất đi.
Lúc bấy giờ, bà chúa Ba, con gái Túc vương ( tức là Túc Trang Vương), hoàng tử thứ mười bốn của Thái tổ nhà Minh nhan sắc tuyệt đẹp, chàng vẫn nghe danh mộ tiếng. Nhân dịp bà chúa đi chơi núi Không Động, chàng đi trước, lén núp trong hang, rình khi chúa ở trên kiệu bước xuống, lấy gương ra thu hình ảnh rồi mang về.
Chàng về, đặt gương trên bàn, nhìn kỹ, thấy mỹ nhân ơ trong, tay cầm khăn, miệng mỉm cười và mấp máy muốn nói, làn sóng mắt cũng long lanh muốn động, chàng mừng quá giấu kỹ một nơi.
Hơn một năm, vợ ngồi lê đôi mách, nói lộ chuyện ấy ra, lọt đến tai Túc phủ.
Túc vương cả giận, bắt giam chàng lại, đòi lấy tấm gương và định đem đi chém. Chàng hối lộ rất nhiều cho một vị thân tín trong phủ, nhờ băn tin với Túc vương rằng:
- Nếu vương tha thì của gì báu nhất trên đời, muốn có cũng dễ. Bằng không, tôi chỉ chết là cùng, sự đó lại chẳng ích lợi gì cho vương.
Túc vương muốn tịch thu gia sản và đày chàng đi xa. Chúa Ba nói:
- Hắn đã dòm con rồi, dù hắn chết mười phần, cũng không gội rửa cái nhơ bẩn này, chi bằng gả con cho hắn là hơn.
Vương không nghe. Chúa đóng cửa không chịu ăn. Vương phi lo quá, hết sức nói với vương, bấy giờ vương mới chịu thả chàng ra khỏi ngục, lại sai người thân ngỏ ý với chàng. Chàng từ chối:
- Vợ tôi lấy từ thuở hàn vì, nghĩa không sao bỏ đặng. Tôi thà chết, chứ không dám phụng mạng. Nếu vương cho tôi chuộc tội thì hết nhà hết cửa cũng cam.
Vương giận lắm, lại bắt chàng giam ngục.
Bà vương phi vời vợ chàng vào trong cung, toan đánh thuốc độc cho chết. Nàng đem chiếc giá gương bằng san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ cực mềm mỏng. Vương phi rất vui lòng, sai giáp mặt Chúa Ba, chúa cũng ưng ý, đính ước làm chị em, rồi sai người vào ngục dụ dỗ chàng nữa. Chàng nhắn bảo vợ: “Con nhà vương hầu, không nên kể trước sau mà bàn chuyện lớn bé được”.
Vợ không nghe, cứ việc sắm lễ vật, đưa nộp vương phủ. Số người mang đội lễ có hàng ngàn, nhiều thứ châu báu quý ngọc lạ, nhà vương không biết tên gì. Vương mừng thả chàng về làm lễ cưới với chúa. Hôm chúa về nhà chồng, cũng đem gương báu cùng về.
Một đêm chàng nằm một mình, mộng thấy Bát vương nghênh ngang đi vào nói:
- Món đồ tôi tặng năm xưa, giờ nên trả lại. Mang nó trong mình lâu quá tổn hao tâm quyết và haị mạng nữa.
Chàng xin vâng, muốn cầm giữ Bát vương ở lại uống rượu chơi, nhưng Bát vương từ chối:
- Thôi, rượu thì tôi xin kiếu. Từ lúc nghe lời ông khuyên can, tôi bỏ dứt hơi men, được ba năm rồi.
Đoạn há miệng cắn vào tay chàng. Đau quá chàng tỉnh dậy, xem cục thịt nổi đã tiêu mất rồi. Từ đó y như người bình thường.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Gái Báo Thù Cha
(Thượng Tam Quan)
Xưa ở Chư Cát Thành có Thường Sĩ Vũ là kẻ sĩ nhân. Do say rượu nói điều ngỗ ngược với vị huyện hào, Thường bị vị nọ sai gia nô túm lại đánh cho tơi bời, về đến nhà thì chết.
Thường có hai con trai, cả tên Thần, thứ tên Lễ, người con gái là Tam Quan, tuổi vừa trăng tròn lẻ, đẽ hẹn kỳ xuất giá, song vì việc cha phải dừng. Hai anh đâm đơn kiện, một năm ròng chưa được hỏi đến. Nhà trai sai người đến thăm dò hỏi ý kiến bà mẹ xin cho được tòng quyền cưới chạy tang. Bà mẹ đã xiêu nhưng cô gái thưa lại:
- Cha mất chưa kịp lạnh, sao có thể tính chuyện vui mừng? Dễ họ không có cha mẹ hay sao?
Nhà trai nghe thấy điều ấy, lấy làm xấu hổ đành bỏ ý định.
Không bao lâu, vụ kiện không được xét, hai người anh trai đành đội đơn về, cả nhà khôn xiết đau thương. Hai anh bàn hãy lưu thi hài cha, chưa chôn cất vội để tiếp tục theo kiện, Tam Quan nói:
- Người bị sát hại mà không được xử, đủ biết sự thế ngày nay như thế nào rồi?Có dễ trời sinh riêng cho anh em ta một Bao Công chăng? Ta nỡ lòng nào cứ để thi hài cha phơi mãi như thế!
Hai anh phục lời nói ấy, liền lo ngay việc mai táng cha.
Việc tang vừa xong, bỗng ban đêm Tam Quan trốn nhà đi đâu không biết. Bà mẹ coi chuyện này là điều tủi hổ cho gia phong nên sợ nhà trai nghe thấy, không dám để lộ chuyện với bà con họ hàng, chỉ rỉ tai hai con trai phải kín đáo dò tìm xem sao. Song nửa năm dã qua vẫn không thấy tăm tích Tam Quan.
Gặp dịp huyện hào bày lễ mừng thọ, gọi phường hát đến mua vui. Trùm phường họ Tân, dẫn theo hai đàm em giúp việc, một gã tên Vương Thành dung mạo bình thường nhưng tiếng trong vắt, mọi người tán thưởng lắm; một gã tên Lý Ngọc, mặt mày xinh đẹp như con gái, chủ bảo hát cứ cố từ rằng không được thường luyện, nài ép mãi thì ca giọng hát nửa phần lẫn lộn những khúc điệu dân ca của đàn bà con gái. Nghe xong cả đám vỗ tay cười rầm rĩ. Tân xấu hổ quá, phải thưa thực với chủ:
- Nó mới học chưa được bao lâu chỉ mới biết hầu rượu xin chớ trách mắng.
Rồi Tân sai gã ta đi chuốc rượu. Lý Ngọc lại qua nhẹ nhàng lúng liếng khi rót ra mời, lại rất khéo chiều ý hướng của chủ khiến ông ta đẹp lòng lắm.
Rượu tàn, khách về, huyện hào lưu Ngọc lại cùng ngủ. Ngọc rũ giưòng cởi giày cho chủ ân cần, chu đáo lắm. Huyện hào vờ say rượu ôm ấp cợt nhả, Ngọc chỉ mỉm cười, cho nên lão ta càng mê tợn. Hắn đuổi hết đầy tớ ra chỉ để một mình Ngọc lại. Ngọc đợi mọi người ra hết liền đóng cửa, khóa trái.
Bọn đầy tớ sang nhà khác ăn uống. Lát sau nghe thấy tiếng động công cốc trên sảnh nơi chủ ngủ, một người chạy sang, chỉ thấy trong sảnh tối đen như mực, im lặng như tờ, quay trở về, bỗng nghe tiếng huỵnh như có vật gì nặng treo cao đứt dây rơi xuống. Lên tiếng hỏi, không thấy trả lời. Gọi mọi người phá cửa vào, thấy chủ nhân đầu lìa khỏi xác. Còn Ngọc thì treo cổ tự tử, dây đứt xác rơi xuống đất. Trên xác vẫn còn lủng lẳng một đoạn dây.
Mọi người trong nhà kinh hãi, tụ tập bàn tán, không hiểu ra sao. Họ khiêng xác Ngọc ra sân, thấy trong giày và bít tất dường như không có bàn chân, cởi ra thì thấy bàn chân bó nhỏ, hóa ra là con gái. Họ lại càng hoảng gọi Tân đến gặng hỏi. Tân hãi quá, không biết trả lời thế nào, chỉ biết sơ sài: “Tháng trước, Ngọc đến xin làm đàn em, được đi theo đến cuộc lễ mừng thọ, thực không biết từ đâu đến”.
Vì thấy Ngọc mang đồ tang, họ ngờ là thích khách nhà họ Thương, tạm cử hai người trông coi xác. Cô gái nét mặt vẫn đẹp như ngọc, vỗ về thì thân thể tay chân ấm lại. Hai chàng máu dê liền giở trò khả ố. Một anh ôm lấy thi thể vần vò xoay nghiêng xoay ngửa, đang lần cởi giải thì đầu như một đòn búa bổ, máu mồm, máu mũi hộc ra, chết đứ đừ, còn anh kia thoát chết, kể chuyện lại với mọi người. Co gái được coi như thần.
Vụ này được báo lên quận, Quan hỏi Thần và Lễ, họ đều nói không biết gì, còn cô em Tam Quan thì đã bỏ nhà đi từ nửa năm rồi. Họ đến thử xem thì đúng là Tam Quan. Quan cũng phải coi điều kỳ lạ, truyền hai anh em mang thi hài em về mai táng, lại sức khuyên nhà huyện hào chớ có cậy thế gây thù chuốc oán nữa.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Bức Họa Trên Tường
Dịch Giả : Nguyễn Huệ Chi
Mạch Long Ðàm, người Giang Tây, với hiếu liêm họ Chu đều là khách trọ ở kinh đô. Ngẫu nhiên cùng dạo chơi một cảnh chùa. Ðiện Phật, giải vũ, phòng tăng đều không lấy gì làm rộng rãi. Chỉ có một vì sư già trụ trì trong đó, thấy khách vào bèn xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Trong điện có tô tượng Chí Công, hai bên tường đều vẽ vời rất tình xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Ðông vễ bức" Thiên nữ rắc hoa", ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề, tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn sóng mắt dường như đung đưa.
Chàng Chu chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên đến bức tường.
Nhìn thấy lầu gác trùng trùng không phải là cõi trần. Một vị sư già đang thuyết pháp ở trên tòa, những người mặc áo hở vai vây xung quanh đông vô kể.
Chu cũng đứng lẫn vào trong số đó. Một chốc, tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo.
Qua những hành lang quanh co thì có môt căn phòng nhỏ. Chu ngập ngừng không dám tiến nữa nhưng thiếu nữ đã quay đầu lại, đưa bông hoa trong tay lên có vẫy gọi, chàng liền bước theo vào.
Trong phòng tịnh không có người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.
Xong rồi nàng đóng cửa ra đi, dặn Chu đừng hỏi. Ðến đêm lại đến.
Cứ thế được hai hôm, các bạn gái nàng biết được, cùng nhau tìm thấy chàng, liền trêu trọc nàng rằng:
- Cậu bé trong bụng đã lớn tướng mà con để mái tóc bồng bồng, cũng học đòi làm gái còn son ư?
Rồi bảo nhau đưa cho nàng nào trâm, nào hoa tai, bắt nàng cuốn ngược tóc lên.
Cô gái thẹn thùng, không nói lời nào. Một nàng bảo:
- Chị em ơi, tụi mình đứng đây lâu, kẻo người ta mất vui.
Cả bọn liền cười và bỏ đi. Chàng nhìn lại nàng, thì tóc mây đã búi cao lên, vành tóc phượng buông thấp xuống, so với cô gái để tóc thề lúc trước lại càng xinh đẹp gấp bội.
Nhìn quanh không có ai, bàn dắt nhau bước vào cuộc ân ái.
Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nông, thì bỗng đâu nghe tiếng ủng da cồm cộp rất dữ, dây xích và khóa kêu loảng xoảng, cộng thêm tiếng quát tháo, tiếng cãi cọ huyên náo.
Nàng kinh hoàng nhỏm dậy, cùng với chàng đều ghé mắt nhìn trộm ra ngoài, thì thấy một vị sứ giả mặc áo giáp vàng, mặt đen như sơn, tay cầm khóa, tay nắm chùy, đám thiếu nữ xúm xít xung quanh.
Sứ giả nói:
- Ðã đủ chưa?
Có tiếng đáp:
- Ðủ cả rồi.
Sứ giả lại nói:
- Nhược bằng có chứa chấp người hạ giới thì lập tức bảo nhau cùng khai ra, chớ để phải hối về sau.
Cả bọn đồng thanh đáp:
- Không có đâu!
Sứ giả quay người, đưa cặp mắt cú vọ nhìn quanh, tựa hồ tìm ra kẻ đang nấp.
Cô gái cả sợ, mặt xám như tro, thảng thốt bảo chàng:
- Mau trốn xuống gầm giường.
Rồi mở cánh cửa ngách bên tường lẻn đi mất.
Chu nằm bẹp xuống, không dám thở.
Giây lát nghe tiếng ủng đi vào trong phòng rồi lại đi ra.
Chẳng bao lâu tiếng huyên náo xa dần, bụng đã yên, nhưng ngoài cửa vẫn có tiếng người qua lại bàn bạc.
Chu cứ thấp thỏm như thế giờ lâu, đến lúc bên tai như có tiếng ve kêu, trong mắt nẩy đom đóm, tình trạng ngỡ không chịu nổi nữa, chỉ còn cố lắng tai để đợi nàng về, cuối cùng cũng không còn nhớ thân mình từ đâu mà đến đây.

Bấy giờ Mạnh Long Ðàm đang đứng trước điện thờ chớp mắt đã không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi Nhà Sư.
Vị sư cười đáp:
- Ði nghe thuyết pháp rồi.
Mạnh Long Ðàm hỏi:
- Ở đâu?
Nhà Sư đáp:
- Không xa.
Một chốc Nhà Sư bèn gõ ngón tay lên tường mà gọi to lên rằng:
- Ông đàn việt họ Chu, đi chơi lâu thế, sao chẳng quay về?
Liền thấy giữa bức họa trên tường có hình của Chu, đang đứng nghển cổ lắng tai, chừng như nghe ngóng.
Nhà Sư lại gọi tiếp:
- Ông bạn cùng đi đợi lâu rồi đấy.
Thế rồi Chu bồng bềnh từ trên tường bay xuống, lòng lạnh như tro, người cứng đờ như gỗ, mắt trừng trừng, chân bủn rủn.
Mạnh đâm hoảng, sẽ sàng hỏi han.
Thì ra lúc đó Chu đang núp dưới giường, bỗng nghe tiếng gõ vang như sấm, vội chui ra khỏi phòng để nghe ngóng tình hình.
Cả hai cùng ngước nhìn cô gái nhón hoa thì mái tóc vặn hình ốc đã cuốn cao lên, không còn xõa tóc nữa.
Chu khiếp sợ, vái vị sư già mà hỏi duyên cớ.
Nhà Sư cười đáp:
- Ảo là do mình sinh ra, bần đạo làm sao giải thích được!
Chu ỉu xìu mất cả khí thế.
Mạnh sợ hãi không còn tự chủ nổi, vội đứng dậy lần bậc thềm ra về.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hồ Gã Con
Dịch Giả : Nguyễn Huệ Chi

Có một Thiên Quan họ Ân, người Lịch Thành thuở nhỏ, nhà nghèo, thường tỏ ra gan dạ. Trong ấp có khu nhà của một cố gia, rộng vài chục mẫu, lầu viện liền nóc, thường thấy chuyện quái dị, vì thế mà bỏ hoang, không ai ở.
Lâu ngày tranh cỏ mọc um tùm, giữa ban ngày cũng không ai dám bén mảng đến.
Một hôm, Ân đang cùng các bạn học trò uống rượu, có người nói đùa:
- Ai dám ngủ trong nhà đó một đêm, chúng tôi sẽ góp tiền đãi bữa rượu.
Ân ngồi nhổm ngay dậy, nói:
- Khó gì việc ấy:
Rồi cắp một chiếc chiếu mà đi. Chúng bạn tiễn Ân đến cổng, bảo đùa rằng:
- Chúng tôi hẵng đợi ngoài này, nếu như có thấy điều gì thì kíp gọi to lên.
Ân cười đáp lại:
- Nếu có ma hãy hồ thì sẽ tóm cổ đưa về làm bằng
Nói rồi đi vào. Thấy lau sậy mọc khuất cả lối đi, các loài cỏ dại mọc rậm như gai.
Hôm đó, nhằm khoảng đầu tháng, trăng non mờ nhạt, nên cửa ngõ cũng phân biệt được.
Ân đưa tay lần vách mà đi mãi, mới đến khu lầu phía sau.
Trèo lên sân thưởng nguyệt, thấy sáng sủa, sạch sẽ, một vành trăng sáng ngậm trên đầu núi, ngồi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, trong bụng cười thầm cho là thiên hạ đồn hão.
Rồi giải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá, nằm ngắm sao Ngưu Lang Chức Nữ.
Canh khuya, lơ mơ muốn ngủ, Ân chợt nghe dưới lầu có tiếng giầy lẹp kẹp đi lên.
Ân vờ ngủ, ghé mắt xem, thấy một nàng áo xanh xách chiếc đèn hoa sen, thốt nhiên nhìn thấy Ân thì giật mình lùi bước, bảo với người đi sau rằng:
- Có người lạ trên này.
Người bên dưới hỏi:
- Ai vậy?
- Cô gái đáp rằng:
- Không biết.
Giây lát, một ông già bước lên, đến tận nơi nhìn kỹ, nói:
- Ðây là quan thượng thư họ Ân. Ngài đã ngủ say, ta cứ làm việc mình. Ông lớn là người không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quở trách đâu.
Họ bèn đưa nhau lên, vào cả trong lầu. Các cửa lầu mở hết. Một lát nữa, kẻ đi người lại càng nhiều. Trên lầu, đèn sáng như ban ngày.
Ân khẽ cựa mình, cất tiếng ho hắng.
Ông già thấy ông đã tỉnh, bèn bước ra, quỳ xuống thưa rằng:
- Kẻ hèn mọn này có đứa con gái sắp gả chồng, đêm nay cho cháu làm lễ vu quy; không ngờ xúc phạm đến quan nhân, mong ngài lượng thứ.
Ân ngồi dậy, đỡ ông lão lên nói:
- Không biết hôm nay là ngày vui mừng của nhà ta, thật áy náy vì không có gì để mừng tặng.
Ông già đáp:
- Ðược quan nhân hạ cố, trấn áp điềm hung hiểm, là may lắm rồi. Lại xin được phiền ngài ngồi lại cùng vui, quý hóa biết chừng nào
Ân cũng mừng, nhận lời.
Vào trong lầu, nhìn xem, thấy bày biện đẹp đẽ, trang nhã.
Lúc ấy, có người đàn bà bước ra vái chào, tuổi đã ngoại bốn mươi. Ông già nói:
- Ðây là tiện nội.
Ông vái chào lại.
Bỗng nghe tiếng sênh, tiếng nhạc cất lên inh tai, có người nhà chạy vội lên thưa:
- Ðến rồi!
Ông lão chạy ra đón, Ân cũng đừng đợi.
Phút chốc, một chiếc đàn lồng bằng sa mỏng, dẫn chú rễ vào.
Chù rễ tuổi khoảng mười bảy mười tám, vẻ người sáng sủa, thanh tú.
Ông già bảo hãy chào quan khách trước.
Chàng trai đưa mắt nhìn ông.
Ông giữ chân tiếp khách dùm chủ nhà, nên nhận lễ nửa khách nửa chủ. Thứ đến là bố vợ và chàng rễ giao bái. Xong, bèn ngồi vào bàn tiệc.
Một loáng, đám người phấn sáp kéo lên như mây. Rượu thịt bày la liệt. Chén ngọc, bình vàng sáng nhoáng, chiếu rọi lên bàn ghế.
Rượu được vài tuần, ông già bảo con hầu vào mời tiểu thư ra.
Con hầu vâng lời đi vào, lúc lâu vẫn không thấy ra.
Ông lão tự mình đứng lên, vén bức màn, giục ra.
Phút chốc, một bọn hầu gái, trẻ có già có, cùng đỡ cô dâu ra.
Tiếng ngọc đeo vang lên lanh canh, mùi lan thơm sực nức.
Ông già truyền bảo nàng hãy trông lên mà chào lạy.
Lạy xong cô dâu đứng dậy, ngồi bên cạnh bà mẹ.
Ân đưa mắt liếc nhìn, thấy cô tóc phượng cài trâm thu, tai đeo ngọc minh châu, dung nhan tuyệt đẹp.
Thế rồi, rót rượu vào chén vàng, mỗi chén lớn chừng vài đấu.
Ân nghĩ:
-Vật này có thể đưa cho bạn bè làm chứng được, bèn giấu vào trong tay áo rồi vờ say, tựa xuống ghế, gục đầu mà ngủ.
Mọi người đều nói:
- Ông lớn say rồi!
Không bao lâu, nghe tiếng chú rễ có lời xin rước dâu.
Tiếng nhạc, tiếng sênh lại nổi lên, mọi người nhộn nhịp xuống lầu ra đi.
Xong xuôi, chủ nhân thu dọn bàn tiệc, thấy thiếu mất một cái chén, tìm khắp không thấy.
Có người bàn, vụng ngờ cho ông khách đang nằm ngủ.
Ông già vội gạt đi không cho nói hết, chỉ sợ Ân nghe được.
Lúc lâu nữa, trong ngoài im lặng cả, Ân mới trở dậy.
Tối mò không có đèn đuốc gì, chỉ có mùi thơm của phấn sáp và hơi rượu, như còn đầy cả bốn quanh tường.
Trông ra, hừng đông đã rạng, bèn thong thả bước ra. Sờ vào trong tay áo, cái chén vàng vẫn còn.
Ra đến cổng thì bạn bè đã đợi sẵn, họ cứ ngờ Ân đang đêm lẻn ra, gần sáng mới trở vào.
Ân đưa chén cho xem, ai cũng kinh ngạc, dò hỏi.
Ân bèn kể rõ đầu đuôi cho biết. Chúng đều nghĩ vật này thì anh học trò nghèo chẳng thể nào có, mới tin là chuyện thực.
Về sau, ông thi đỗ Tiến sĩ, nhậm chức ở Phù Khâu.
Có nhà gia thế họ Chu thết tiệc ông, sai lấy bộ chén lớn, mà mãi vẫn không thấy người hầu mang ra.
Có đứa hầu nhỏ che miệng nói thầm với chủ nhân điều gì đấy, nét mặt chủ nhân có vẻ tức giận.
Một lát sau đem bộ chén vàng ra, rót mời khách uống.
Nhìn kỹ kiểu chén cùng đường trạm trổ, không khác chút gì với thứ chén của hồ dạo nào.
Ân lấy làm lạ , Ân hỏi chén này chế tạo ở đâu. Chủ nhân đáp:
- Bộ chén này cả thảy có tám chiếc, đời ông thân tôi làm quan Khanh tại kinh, kén tìm thợ khéo chế ra, nên lấy làm vật gia bảo truyền thế, cất kỹ từ lâu. Vì được đại nhân hạ cố mới lấy ở trong hòm ra, thì chỉ còn bảy chiếc.
Ngờ đâu người nhà lấy trộm, mà dấu niêm phong mười năm vẫn như cũ, thật chẳng hiểu sao nữa.
Ân cười bảo:
- Chén vàng mọc cánh bay mất rồi, những vật báu truyền đời không nên để cho mất. Tôi có một chiếc cũng gần giống, xin đem để tặng ngài.
Tiệc xong, về dinh, ông lấy chén ra, cho người mang đến.
Chủ nhân xem kỹ, rất kinh hãi, đích thân đến tạ ơn, và hỏi nguyên do chiếc chén từ đâu mà có.
Ân bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện.
Mới hay rằng vật ngoài nghìn dặm, hồ cũng có thể lấy được, duy chỉ không dám giữ làm của mình.


Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Mưa Tiền
(Vũ tiền)
Thư sinh tú tài xứ Tân Châu đang đọc sách trong phòng học thì có tiếng gõ cữa. Một ông già tóc trắng phơ phơ, dáng người cũ kỹ bước vào.
Thư sinh đón mời vào hỏi họ tên. Ông cụ cho biết ông họ Hồ, tên Dưỡng Chân, vốn là hồ tiên, vì mến mộ chàng là người coa nhã, xin được đến cùng ăn ở sớm khuya.
Thư sinh tính khí khoáng đạt cho nên cũng không nghi ngại gì, hàng ngày cùng nhau bàn luận cổ kim. Ông cụ đặc biệt uyên bác, nói năng vanh vách như nhả ngọc phun châu, về mặt kinh nghĩa lại càng sâu sắc. Thư sinh tự thấy mình không thể kịp, càng kính phục lắm, lưu ông cụ ở lại rất lâu.
Một hôm thư sinh ngỏ lời tâm tình:
- Cụ thấy tôi là người hiền lành, phúc hậu mà lại nghèo khổ thế này. Cụ chỉ ra tay một chút là vàng bạc đến ngay, sao cụ không gia ơn cho chút đỉnh?
Ông cụ “hừ” một tiếng, tựa như cho là không thể được. Nhưng lát sau lại cười bảo:
- Việc đó cực dễ! Nhưng phải có mười đồng tiền mẹ làm mồi.
Thư sinh đưa ra đủ. Ông cụ dẫn vào một cái buồng kín đáo rồi làm phép, bắt quyết đọc chú. Chỉ một lát bỗng hàng chục vạn, tặm vạn đồng tiền từ trên nóc nhà loảng xoảng rơi xuống y như mưa rào vậy. Loáng cái đã ngập đến đầu gối người đứng dưới, rút chân đứng lên trên tiền lại ngập đến bắp vế. Một căn nhà rộng mênh mông mà tiền ngập đến ba, bốn thước.
Ông cụ quay lại hỏi chàng thư sinh:
- Thế nào, vừa ý anh chưa?
- Thưa đủ rồi - Chàng hoan hỉ trả lời.
Ông cụ vẫy tay một cái mưa tiền ngưng lại. Rồi cùng nhau đóng cửa gài then đi ra.
Chàng thư sinh mừng quá chắc mẩm phen này giàu nứt đố đổ vách. Lát sau phải vào căn nhà ấy để lấy đồ thì ôi thôi, căn nhà đầy tiền đã rỗng không. Chỉ còn mười đồng tiền mẹ làm mồi, nằm chỏng chơ ở đó.
Hy vọng thế là tiêu tan, chàng thư sinh tức điên lên, oán trách ông già lừa mình. Ông già nổi giận mắng lại:
- Lão này với anh chỉ là bạn văn chương chữ nghĩa, chứ không định cùng anh làm giặc. Muốn được như ý của anh thì phải kết thân với bọn trèo tường khóet vách, chứ lão đây không thể vâng mệnh!
Nói rồi phủi áo bỏ đi.


NGUYỄN VĂN HUYỂN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Thuật Mồm
( Khẩu kỹ)
Có một cô gái tuổi chừng hai bốn, hai nhăm, khoác một túi thuốc đến làng bán. Người đến chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn bốc thuốc, khất đợi tối đến hỏi thần.
Tối đến, cô ta dọn dẹp sạch sẽ căn buồng nhỏ, cài chặt cửa bên trong. Mọi người xúm đến quanh cửa sổ nhưng chỉ dám thầm thào nói nhỏ không dám ho. Trong ngoài lặng ngắt như tờ. Khoảng nửa trống canh sau bỗng rèm động, cô hàng thuốc hỏi:
- Cô Chín đến đấy ư?
Tiếng con gái đáp:
- Đến đây.
Lại hỏi:
- Lạp Mai có theo hầu cô Chín đến đây không?
Ả thị tì trả lời:
- Đến rồi ạ!
Ba người líu ríu trò chuyện. Lát sau, rèm lại động, cô bán thuốc reo lên:
- A! Cô Sáu đến rồi.
Tiếng tíu tít hỏi:
- Xuân Mai có bế cậu nhỏ theo không?
Tiếng một ả khác:
- Cậu cứ khóc không chịu ngủ, nằng nặc đòi theo nương tử. Gớm, nặng đến hàng tạ, cõng tưởng chết người.
Rồi tiếng cô bán thuốc ân cần, tiếng cô Chín thăm hỏi, tiếng cô Sáu hàn huyên, tiếng hai thị tì rúc rích, tiếng cậu bè cười đùa, tất cả cứ rối rít lên. Lại nghe cô hàng thuốc cười nói:
- Chàng nhỏ này nghịch quá xá, xa thế mà còn đem theo cả con mèo.
Sau đó lời qua tiếng lại thưa thớt dần. Bỗng rèm lại động. Gian buồng lại lao nhao lên:
- Cô Bốn sao đến chậm vậy?
Tiếng một cô bé gái lí nhí:
- Đường xa hơn nghìn dặm, đi với cô bao nhiêu lâu mới tới được. Cô đi hơi chậm.
Rồi tiếng nói chuyện dông dài, tiếng chuyển chỗ, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ láo nháo lào nhào, phải chừng giập bả trầu mới tạm ngớt.
Đến lúc cô hàng thuốc cầu xin đơn thuốc. Cô Chín nói phải có sâm. Cô Sáu nói phải có kỳ. Cô Bốn nói phải có truật, cùng bàn nhau châm chước. Một lúc có tiếng cô Chín lấy bút nghiên, tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt cán bút canh cánh, tiếng mài mực rí rách, tiếng cầm bút viết, tiếng chân chạm ghế, rồi tiếng gói thuốc loạt soạt.
Lát sau, cô hàng thuốc vén rèm gọi con bệnh nhận thuốc lấy đơn. Khi cô ta quay vào buồng, tức thì tiếng bà cô cáo biệt, tiếng bà thị tì cáo biệt, tiếng cô bé bi bô, tiếng con mèo meo meo, tất cả lại rộ lên. Giọng cô Chín trong, hơi cao. Giọng cô Sáu chậm mà buồn. Giọng cô Bốn mềm mại dịu dàng. Gịong ba ả thị tì đều có sắc thái riêng nghe thường có thể phân biệt.
Dân làng tin là thần giàng thật, song uống thuốc thử không kiến hiệu.
Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc cho chạy. Song ở đời cũng khối việc kỳ như vậy!


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Kiếm Khách
( kiếm khách)
Đổng sinh, người Từ Châu ưa thích kiếm thuật thường hay khoe khoang tự phụ. Một hôm đi cùng đường với một người lạ. Sinh gợi chuyện làm quen tuôn ra toàn giọng an hùng quá đáng. Được biết người ấy họ Đổng ở đất Liêu Dương, Sinh hỏi ông ta đi đâu. Người ấy đáp:
- Tôi xa nhà lang bạc đã hai mươi năm nay, vừa từ hải ngoại về.
-Ông ngao du bốn bể, gặp người cũng nhiều, có thấy bậc dị nhân nào không?
- Dị nhân về mặt nào?
Đổng kể sở thích của mình và lấy làm tiếc không được bâc dị nhân nào truyền cho kiếm thuật. Người lại hỏi:
- Ở đâu mà chẳng có dị nhân. Song phải là tôi trung, con hiếu thì mới mong được dị nhân truyền cho.
Đổng hứng chí huênh hoang là mìn sẽ làm được như thế. Rồi rút gươm ra, vỗ vào gươm mà hát. Nhân đà hưng phấn, Đổng phạt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Khách vuốt râu mỉm cười, tiện thể mượn gươm ngắm xem, Đổng đưa cho xem lấy lệ. Khác chê:
- Đây là thứ kiếm xoàng, thép đã non lại ám mồ hôi. Kẻ hèn này tuy chưa nghe về kiếm thuật nhưng cũng sẳn có một thanh dùng được.
Nói rồi ông rút trong áo ra một thanh đoản kiếm chừng một thước, lấy nó gọt gươm của Đổng ngọt như cạo khoai. Tiện tay lại phạt một ô đất chằn chặn như tiện. Đổng phát khiếp nằng nặc đòi xem, rồi lại ngứa ngáy nghề cầm lấy múa máy trông như phủi bụi. Rồi Đổng mời người nọ về nhà cố lưu lại một đêm, lân la hỏi han về kiếm pháp. Khách một mực tạ từ không biết. Đổng phải quỳ gối xin, lời lẽ vẫn hùng hồn trống rỗng. Khách chỉ kính cẩn lặng im ngồi nghe.
Đêm đã khuya. Bỗng ở nhà bên-nhà cha mẹ Đổng ở- có tiếng ồn ào mã bắt. Đổng sợ hãi không biết chuyện gì, vội chạy đến sát tườnội giámnghe. Có tiếng quát tháo:
- Gọi con mày ra chịu tội chết. Nếu không sẽ bắt mày.
Rồi tiếng đánh đập tới tấp. Tiếng rên rỉ không dứt. Đúng là tiếng cha của Đổng.
Đổng vớ lấy ngọn mác muốn xông sang. Khách ngăn lại:
- Ra khỏi đây, e anh khó thóat chết. Hãy nên xét kỹ được vẹn toàn.
Đổng đâm hoảng xin chỉ giáo cho, khách nói:
- Quân cướp tìm bắt anh là rắp tâm muốn giết anh. Anh không còn ai là cốt nhục ở đây, vậy nên dặn dò trối trăn lại vợ con đã. Tôi sẽ mở cửa giúp anh trị tội bọn ấy.
Đổng theo lời, vào nói với vợ. Vợ níu lấy áo khóc. Thế là bao “hùng khí” ở Đổng bỗng chốc xẹp hết. Anh ta theo khách lên lầu, tìm cung, tìm tên để đề phòng bọn cướp đánh sang. Anh ta còn hoảng hốt đã nghe tiếng khách trên mái lầu cười ha hả:
- May quá, cướp chạy rồi!
Đổng vội đốt đuốc lên, thì khách đã biến đâu mất, thập thò cổ ngó sang nhìn nhà bên thì Đổng ông đang ở hàng xóm uống rượu. Đốt đèn mời ông về nhà chỉ thấy trên sân đầy cỏ may và than bụi.
Mới biết ông khách lạ đó chính là dị nhân.
Trung hiếu là quý tính của người xưa. Xưa nay những kẻ là con không thể xả thân vì cha, lúc đầu há không có một chút toan cầm mác xông ra như Đổng ư? Cuối cùng chỉ cần trong nháy mắt lại nhầm lẫn u mê. Ngày xưa Giả Đại Thân và Phương Hiếu Nhu đã thề cùng nhau sống chết thế mà sau lại nuốt lời (1). Biết đâu khi về nhà lại nghe tiếng bạn cầu cứu ở đầu giường.
Làng ta có một anh lính thuộc loại vô lại. Một hôm đi đâu trở về, hắn bắt gặp một chàng trai trẻ từ trong buồng vợ mình ra. Ngờ vực, căn vặn vợ, vợ khăng khăng chối. Sau hắn bắt được tang chứng gã trai kia để lại ở đầu giường, vợ không chối được quỳ xuống khóc lóc xin tha tội. Hắn giận lắm, vứt cho cuộn dậy bắt phải thắt cổ chết. Vợ xin vào buồng trang điểm, hắn ngồi đợi ngoài, vừa rót rượu uống vừa chửi mắng thúc giục. Lát sau, cô vợ lộng lẫy trong y phục choáng lộn bước ra, nuốt lệ trách:
- Anh nhẫn tâm quá, nỡ bắt tấm thân xấu xa hèn mọn này chết thật ư?
Hắn vẫ làm vẻ tức giận, đùng đùng quát tháo ầm ĩ. Vợ không làm thế nào được đành trở vào buồng, vừa định tròng dây vào cổ thì chồng nâng chén rượu giật giọng gọi ra cười hềnh hệch:
- Thôi ra đây ta bảo: Một thằng khăn xanh (2) như ta lẽ nào bắt người khác chết được ư?
Rồi lại ăn ở với nhau khắn khít nồng nàn như thuở ban đầu.
Anh này cũng loại Đại Thân, Đổng Sinh. Đáng buồn cười vậy.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) theo Minh sử: Giả Đại Thần thời Hồng Vũ (Minh Thái Tổ, từ năm 1368) kết nghĩa cùng với một số danh sĩ trong đó có Hiếu Nhu, thề sống chết hoạn nạn có nhau. Sau Hiếu Nhu bị phanh thây ngoài chợ, có vài người bạn chết theo, còn phần lớn nuốt lời làm ngơ.
(2) thời Xuân Thu, ở TQ có những kẻ chuyên buôn bán đổi chác vợ kiếm lời, gọi là “xuớng phu”. Bọn này phải lấy khăn xanh bịt đầu để phân biệt với các loại người sang. Sau gọi chung những kẻ bịt đầu xanh (lục đầu cân) là loại ti tiện.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Người dịch: Đào Trinh Nhất
Lấy Vợ Công Chúa
(Vân La công chúa)



An Đại Nghiệp, người Lô Long, mới lọt lòng đã biết nói, bà mẹ phải lấy máu chó đổ cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai, chẳng ai bì kịp, lại thông minh học giỏi, nhiều nhà giàu sang muốn gả con gái cho.
Lúc trước, bà mẹ thường chiêm bao thần dạy:
- Con mụ sẽ lấy công chúa.
Trong bụng rất tin. Nhưng con đến mười lăm, mười sáu tuổi, chưa thấy linh nghiệm, khiến bà lần hồi ăn năn mình tin thần mộng quàng xiên.
Bữa nọ, An ngồi một mình, chợt có mùi thơm lạ sực nức, rồi một thị nữ đẹp chạy vào nói:
- Công chúa đến.
Vừa nói vừa trải chiếu dài trên mặt đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà, khít bên giường chàng ngồi. Chàng đang kinh ngạc hốt hoảng, thấy một thiếu nữ vịn vai gái hầu lững thững bước vào, y phục dung nhan sáng chiếu khắp nhà. Gái hầu lấy gối thêu, nệm gấm lót trên giường, rồi đỡ thiếu nữ ngồi xuống.
An luýnh quýnh không biết làm sao, vòng tay nói rất cung kính:
- Ngài là thần tiên ở núi nào, động nào, có lòng đoái tưởng, chịu dời gót giáng lâm nhà tôi?
Nàng mỉm cười, lấy tay áo che miệng không nói gì. Thị nữ nói:
- Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh Hậu. Vì Thánh Hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự đến xem nhà cửa đó.
Chàng mừng quá không nói ra lời. Nàng cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau làm thinh.
Bình nhật chàng vốn thích đánh cờ, bàn cờ thường để bên cạnh. Một thị nữ lấy khăn đỏ lau bụi sạch sẽ, đem ra đặt trên bàn và nói:
- Thường ngày công chúa ưa cuộc tiêu khiển này, thử chơi với lang quân xem ai thắng nào?
Chàng dời ghế gần. Công chúa cười và gật đầu ưng thuận. Hai người qua lại độ ba chục nước, thị nữ thò tay xoá bàn cờ và nói:
- Thôi phò mã thua rồi.
Lượm quân cờ bỏ vào hộp, nói tiếp:
- Có lẽ phò mã là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ có thể nhường sáu con thôi.
Liền chọn sáu con cờ đem ra bày lại bàn cờ, công chúa cũng gật đầu.
Lúc nàng ngồi đánh cờ, sai thị nữ ngồi dưới, đưa lưng cho nàng gác cẳng, còn cẳng kia thõng xuống đất, thì một thị nữ khác phục xuống mà đỡ. Hai bên hai con bé đứng hầu. Mỗi lúc An ngẫm nghĩ nước cờ khó khăn, nàng co một cánh tay gác lên vai, ngồi đợi.
Ván cờ đánh mãi chưa phân thắng phụ, con hầu nhỏ cười nói:
- Phò mã thua một con.
Nhân dịp, thị nữ xen vào, thưa:
- Công chúa đã mệt mỏi, nên dẹp đi thôi.
Nàng nghiêng mình nói nhỏ bên tai thị nữ điều gì không rõ. Thị nữ chạy ra, giây lát trở lại, đặt ngàn vàng trên giường và bảo chàng:
- Mới rồi công chúa nói nhà cửa ẩm thấp, chật chội, vậy phiền lang quân dùng số tiền này sửa sang lại, sửa xong thì sum họp đó.
Một thị nữ khác nói:
- Tháng này phạm vào sao Thiên Hình, không nên xây dựng gì cả. Qua tháng sau tốt lắm.
Công chúa đứng dậy, chàng ra trước mở cửa. Thị nữ lấy ra một vật trông giống như cái túi bằng da, liền gõ tại đó, tức thì có mây ở bên trong toả ra tứ phía rồi thì hợp lại, mù mịt chẳng trông thấy công chúa và bọn tuỳ tùng đâu nữa.
Mẹ chàng hay chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng chàng mơ tưởng mẩn mê, không sao quên được, lo gấp công việc cất nhà bất chấp ngày tháng kiêng kị. Chàng hối thúc thợ làm, không mấy ngày mà cửa nhà mới hẳn.
Nguyên trước có người học trò Loan Châu, tên là Viên Đại Dụng, đến trọ ở xóm bên, đưa danh thiếp vào tận nhà chàng để xin ra mắt. Chàng vốn ít giao du bè bạn, cho nên thác cớ đi vắng không tiếp, lại dò được hồi Viên không có ở nhà tọ, mà đến chơi đáp lễ.
Hơn tháng sau, thình lình gặp nhau ngoài cửa, té ra Viên là chàng thiếu niên mới ngoài đôi mươi, y phục thanh nhã. An đứng nói chuyện qua loa, thấy người rất đứng đắn, trong bụng khoái lắm, liền mời vào nhà đánh cờ tướng chơi, mỗi bên đều có hơn thua. Sau đó bày rượu ra uống liên miên, chuyện vãn cực tương đắc.
Ngày hôm sau, Viên mời chàng đến nhà trọ mình, cũng đãi tiệc rượu ân cần tử tế. Có thằng tiểu đồng lối mười hai, mười ba gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui.
Chàng say quá bước đi không nổi, Viên sai tiểu đồng cõng về. Chàng thấy nó nhỏ con, yếu đuối, sợ không cõng mình đặng, nhưng Viên một hai bảo cứ để nó cõng xem. Quả nhiên nó chàng về nhà khoẻ re. Chàng lấy làm kì. Hôm sau đem tiền đến thưởng nó, nó chối từ đôi ba phen rồi mới chịu lãnh.
Từ đó, Viên với chàng giao tình thân mật, cách đôi ba ngày lại đến nhà nhau một lần.
Viên có tính sơ sài, lặng lẽ, mà khảng khái hay giúp đỡ người ta. Trong chợ có kẻ mắc nợ phải bán con gái đi, Viên trút túi ra chuộc giùm, không có vẻ tiếc của chút nào. Vì thế An càng kính trọng.
Cách mấy hôm sau, Viên đến từ giã chàng, tặng những đũa ngà, kì nam, cả thảy mười món, lại thêm năm trăm đồng bạc để giúp chàng chữa nhà. Chàng trả bạc lại, chỉ lấy đồ vật, và đưa vải lụa tặng lại.
Vài tháng sau đó, ấp Lạc Đình có người đi làm quan xa về, hòm xiểng đầy nhóc của cải. Đêm khuya, cướp vào nhà, bắt trói chủ nhân mà nung sắt nướng kìm, tra tấn thảm độc, rồi vơ vét sạch sành sanh.
Người nhà biết họ Viên làm vụ đó, bèn trình báo quan sở tại. Quan tư giấy khắp nơi tróc nã.
Lối xóm An có nhà họ Đồ, ngày thường vốn xích mích với nhà chàng, nay thấy chàng xây dựng cửa nhà to tát, trong bụng âm thầm ghen tức. Sẵn dịp có thằng nhỏ ở của chàng lấy trộm đũa ngà, đem đến nhà Đồ dạm bán. Đồ biết là vật của Viên tặng, liền báo quan huyện.
Huyện sai lính kéo về bao vây nhà chàng, nhằm lúc chàng với tôi tớ vắng mặt, liền bắt mẹ chàng đi. Bà cụ già yếu lại bị kinh khủng, thở không ra hơi, luôn hai ba bữa không ăn uống gì cả, quan huyện thả cho về.
Chàng nghe tin mẹ, vội vã trở về nhà, thì mẹ đã bệnh nguy rồi, hôm sau qua đời. Thu liệm vừa xong còn chưa kịp chôn, thì chàng đã bị lính huyện áp giải đi.
Quan huyện thấy bộ tịch trẻ trung nho nhã, thầm nghĩ chàng bị vu oan, nhưng bề ngoài cũng làm ra nạt nộ. Chàng nói thật nguyên do kết bạn với Viên, không giấu một chút nào. Quan lại hỏi tự nhiên phát giàu là của ở đâu, chàng đáp:
- Mẹ tôi có chôn giấu được ít nhiều tiền của, nay tôi sắp sửa lấy vợ, cho nên sửa sang nhà cửa, thế thôi.
Quan huyện tin lời, liền viết tờ bẩm và cho lính đưa chàng lên quận xét nghỉ. Thằng cha hàng xóm là họ Đồ kia, biết thế nào lên quận chàng cũng vô sự, bèn đem nhiều tiền hối lộ cho tụi lính áp giải để chúng giết chàng ở dọc đường là xong.
Đường đi lên quận, phải qua núi sâu, lính kéo chàng đến sườn núi lởm chởm, rồi đấy xuống vực sâu là rồi đời. Giữa lúc thiên nguy vạn cấp đó, bỗng dưng một con cọp từ trong bụi rậm nhảy ra, cắn hai tên lính chết rồi tha chàng đến một nơi có lâu đài nguy nga, bỏ nằm ở đó.
Chàng hồi tỉnh, mở mắt thấy Vân La công chúa vịn vai thị nữ đi tới, nức nở chia buồn với chàng rồi nói:
- Thiếp muốn giữ lang quân ở lại đây, nhưng nghĩ lại chàng còn việc tang bà cụ chưa chôn cất xong, mà dính với quan nha cũng đang lỡ dở, nên ở lại đây không tiện. Vậy chàng nên cầm lấy tờ bẩm, lên quận tự nạp mình, chắc chắn là vô sự đó.
Nói đoạn lấy sợi dây lưng trước bụng chàng, thắt lại hơn mười nút, dặn dò chàng khi đứng trước mặt quan cứ lần mở những nút này, tức thì tia qua nạn khỏi.
Chàng nghe lời khuyên bảo, một mình đến quận, tự đầu. Quan thái thú mừng là người thành thực, lại xem tờ bẩm, hiểu rõ oan tình, liền phê cho chàng về.
Về nửa đường gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình trạng rắc rối bấy lâu. Viên nghe tức giận xám mặt, làm thinh không thốt lời. Chàng nói:
- Vẻ người như anh, làm chi tới chuyện trộm cướp để tự nhơ xấu danh tiếng.
Viên đáp:
- Tôi giết toàn hạng người bất nhân, tôi lấy toàn là tiền của phi nghĩa. Không vậy thì của bỏ rơi ở đường cũng không thèm lượm. Điều anh khuyên răn tôi rất phải, nhưng xin hỏi thứ người như thằng cha lối xóm nhà anh, có nên để nó sống ở trên đời không chớ?
Nói xong chào biệt, thúc ngựa đi thẳng.
Chàng về chôn cất mẹ rồi, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm, trộm vào nhà hàng xóm, cha con trên mười người, đều bị giết sạch, chỉ chừa lại một con ở. Giết xong cuốn gói tiền của đồ vật, chia bớt cho tiểu đồng mang xách. Lúc ra đi, lấy đèn soi mặt và bảo con ở:
- Mi nhìn cho kĩ nghe. Giết người nhà này là tao đây, chứ không dính dấp tới ai.
Nói đoạn không cần mở cửa, hai thầy trò vọt lên mái nhà, nhảy qua vách tường đi mất.
Hôm sau, vụ án này đến quan. Quan ngờ An sinh hay biết, lại bắt chàng đi, trừng mắt xem hỏi cực nghiêm. Chàng đứng giữa công đường, tay rờ vào dây lưng thắt nút, vừa tranh biện vừa cởi nút ra, quan không có chỗ nào buộc tội, lại tha cho về.
Lần này được về, chàng lại càng giữ gìn, chỉ ở nhà đọc sách, không đi đầu nửa bước, nội nhà chỉ có một vú già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang mẹ rồi, ngày ngày quét dọn nhà cửa chờ đợi tin lành.
Một hôm, mùi hương lạ thơm ngát trong nhà. Chàng leo lên gác xem, thấy trong ngoài đã bày biện khác hăn, cuốn rèm lên thì thấy công chúa đã ngồi chững chạc từ hồi nào rồi. Chàng vội vàng vái chào, nàng nắm lấy tay và nói:
- Chàng không tin số, thành ra xây dựng nhà cửa lỗi thời gây nên tai vạ, lại thêm tang tóc, làm trễ cuộc sum họp của chúng ta mất ba năm.
Muốn gặp, té ra lại chịu trì hoãn, ấy việc đời đại khái như thế cả.
Chàng tính lấy tiền cho mụ vú đi chợ, nàng gạt đi bảo không cần. Thị nữ lấy trong rương ra các món đồ ăn nóng sốt, như mới xào nấu dưới bếp đem lên, rượu cũng thơm ngon lạ lùng. Hai người uống rượu nói chuyện một lúc thì trời đã sẩm tối, mấy con hầu đưa lưng cho nàng gác cẳng đều tản mát đi hết. Nàng uể oải tay chân, co duỗi bắp đùi, dường như không che đậy gì cả. Chàng liền ôm nàng hôn hít. Nàng nói:
- Khoan đã! Chàng hãy buông tay ra, em giao hẹn câu này. Bây giờ có hai cách, chàng muốn chọn cách nào?
Chàng ôm cổ nàng và hỏi hai cách nào. Nàng đáp:
- Em với chàng, nếu kết bạn chén rượu cuộc cờ, thì được tụ họp đến ba chục năm, còn nếu kết bạn thú vui chăn gối, thì chỉ được sum họp sáu năm thôi. Chàng chọn cách nào?
Chàng cao hứng quá, nói đại:
- Hãy được sáu năm rồi sau lại tính.
Nàng làm thinh. Hai người giao hoan. Nàng nói:
- Em vốn biết chàng không sao tránh khỏi thú vui phàm tục, âu cũng là số mạng khiến vậy.
Rồi đó khuyên chàng nuôi thêm vú già con hầu, cho ở riêng căn nhà phía nam, lo việc thổi nấu cơm nước và kéo sợi dệt vải làm sinh kế. Còn ở căn nhà phía bắc tịnh không khói lửa, bên trong chỉ có bình rượu bàn cờ mà thôi, cửa đóng kín tối ngày. Chàng đẩy nhẹ thì cửa tự mở ra, ngoài chàng, không ai được tới đó. Tuy thế những người ở căn nhà phía nam làm việc chăm chỉ hay trễ nải, nàng đều biết rõ, thường khi bảo chàng qua rầy mắng người nào, thì người ấy phải chịu lỗi ngay.
Nàng không nói nhiều lời, không cười nói lớn tiếng, cùng chàng nói chuyện gì, chỉ cúi đầu cười nụ, hễ sánh vai ngồi thì ưa nghiêng mình dựa vào chàng. Có khi chàng ẵm nàng lên đầu gối, thấy nhẹ như ẵm trẻ thơ. Chàng nói:
- Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay người ta múa được.
Nàng trả lời:
- Chuyện đó có khó khăn gì đâu, có điều chỉ là phần việc của mấy con thị nữ, tôi không thèm làm đó thôi. Ví dụ con Phi Yến mà sách vở trần gian vẫn ca tụng đó, nguyên là thị nữ của chị Chín tôi, hay lẳng lơ mà bị tội, đày xuống trần gian, lại không biết giữ trinh tiết, cho nên bây giờ đang bị nhốt kín một nơi.
Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông chẳng thấy lạnh, mùa hạ chẳng thấy nóng. Giữa mùa đông lạnh lẽo cắt ruột, nàng cũng mặc áo mỏng và nhẹ. Chàng may áo mới, ép nàng phải mặc, nàng vì nể, mặc vào chốc lát, cởi ra nói:
- Vật phàm ô trọc đè nặng vào xương cốt đến thành bệnh lao chết.
Một hôm chàng ẵm nàng trên gối bỗng thấy nặng khác mọi ngày, lấy làm lạ. Nàng cười trỏ vào bụng:
- Trong này có giống phàm tục rồi.
Cách mấy hôm sau, nàng ngỏ ý muốn ăn đồ nấu nướng, chàng liền mua sắm những món lạ cho nàng ăn. Từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một bữa, nàng nói:
- Em vốn ốm yếu, không kham nổi việc sinh sản, con thị nữ Phàn Anh khoẻ mạnh, vậy để nó thay em.
Nói đoạn cởi áo lót mình, mặc vào cho Phàn Anh rồi nhốt nó trong phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ khóc, mở cửa ra coi té ra con trai. Nàng mừng và bảo:
- Thằng con này có phúc tướng, chắc sau thành người khá to, nên đặt tên là Đại Khí.
Nàng ẵm con trao cho chàng đưa về căn nhà phía nam cho vú sữa nuôi. Từ khi nàng thoát nợ sinh sản, vóc vạc lại nhỏ thó như cũ và không ăn vật thực phàm trần nữa. Bỗng từ biệt chàng để về thăm nhà. Hỏi bao giờ trở lại, nàng đáp là ba ngày. Lúc đi, lại có túi da tuôn mây rồi biến đi như bận trước.
Đến kì hẹn, không thấy nàng về. Hơn một năm bặt luôn tin tức, chàng đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, thi đậu cử nhân, song không chịu lấy vợ, mỗi đêm nằm ngủ một mình ở căn nhà phía bắc, tắm gội với hương thừa hãy còn phảng phất.
Đêm nọ, thao thức trên giường không ngủ, chợt thấy đèn lửa sáng trưng, rọi qua cửa sổ, rồi thì cửa giữa tự mở, bọn thị nữ xúm đỡ công chúa bước vào. Chàng mừng hết sức, vùng dậy chào hỏi và trách lỗi sai hẹn. Nàng nói:
- Em có sai hẹn đâu nào. Trên trời mới có hai ngày rưỡi đó thôi.
Chàng khoe khoang thi đâu, ý hẳn nàng mừng. Không dè nàng buồn rầu và nói:
- Ôi! Cái thứ danh vọng thoảng qua đó có nghĩa lí gì đâu. Chẳng qua làm tội người ta tổn thọ thì có. Ngờ đâu vắng mặt có ba bữa mà chàng đã vương phải tục luỵ sâu thêm một lớp nữa rồi.
Chàng nghĩ lời vợ nói phải, cho nên từ đó không muốn học hành thi cử gì hơn nữa. Cách mấy tháng nàng lại đòi về thăm nhà. Chàng bịn rịn không muốn cho vợ đi, nhưng nàng năn nỉ bằng được:
- Chuyến này em trở về mau, không để cho chàng trông đợi như kì trước. Vả lại, đời người biệt li đều có định số, mình xem trọng quá thì thấy nó dài, mặc kệ nó thì thấy nó ngắn mà.
Nàng ra đi, hơn tháng trở lại. Từ đấy thành lệ một năm hay nửa năm, có đi một kì, chừng vài tháng lại về, chàng thấy sự thường, không lạ gì nữa.
Vợ chồng ăn ở với nhau, lại sinh hạ thêm đứa con trai. Nàng ẵm lên và nói:
- Thằng này sài lang, nên bỏ đi, chớ nuôi.
Nhưng chàng không nỡ lòng bỏ, cứ để lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm, nàng đã gấp tìm nơi hỏi vợ sẵn sàng cho nó. Các bà làm mai mách mối, tới lui liền liền. Nàng hỏi tuổi đứa con gái kĩ lưỡng, đứa nào cũng chê không hợp, than thở rằng:
- Ta có ý muốn mưu sẵn một cái chuồng sắt để nhốt thằng con hùm beo này, mà mưu không thành, âu cũng là số.
Đoạn, dặn dò chồng:
- Chàng nhớ bốn năm sau, Hầu thị sinh đứa con gái, sườn bên tả có cái bướu nhỏ, chính là vợ của thằng Khả Khí đó. Chàng nên dạm hỏi cho nó, bất chấp nhà gái sang hèn gì cả.
Nàng nói rồi, buộc chàng chép vào giấy tức thời cho khỏi quên. Sau đó nàng lại về thăm nhà. Bận này đi luôn không trở lại nữa.
Chàng nhớ lời vợ căn dặn, thường cậy bạn thân đi hỏi, quả có Hầu thị sinh ra đứa con gái mọc bướu cạnh sườn, nhưng Hầu thị là người hèn hạ mà tính tình rất xấu, không ai thèm chơi với. Chàng mặc kệ, cứ việc cậy mối lái đi hỏi con gái Hầu thị cho thằng Khả Khí.
Con trưởng là Đại Khí mười bảy tuổi thi đậu, cưới vợ họ Vân. Hai vợ chồng đều hiếu hạnh, chàng rất yêu chuộng. Còn Khả Khí càng ngày lớn lên, xem chừng không thích học, chỉ lén ăn cắp tiền nhà đi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để trả nợ chơi bời. Cha giận đánh đòn nhiều trận, nhưng chứng nào vẫn giữ tật ấy không chừa. Thế rồi cả nhà bảo nhau đề phòng, không thể lấy gì được nữa, bèn đi đêm ăn trộm lặt vặt của người ta, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện xem rõ tên họ, viết danh thiếp cho lính đưa trả về nhà, nhưng cha và anh cùng trói lại. Cha lại đánh suýt chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ, cha mới chịu tha.
Vì đó cha phẫn uất sinh bệnh, kém ăn, bèn làm tờ chia của cho hai con. Những nhà lầu, ruộng tốt đều về phần Đại Khí. Thấy vậy Khả Khí tức tối, nửa đêm xách dao vô buồng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Nguyên trước công chúa có để lại chiếc áo cũ, nhẹ và mềm nhuyễn, anh giữ làm áo ngủ, giờ Khả Khí chém vào áo nảy lửa, cháy lập loè tứ tung làm hắn ta sợ hãi chạy mất.
Cha hay việc này, bệnh nặng thêm, mấy tháng sau thì mất. Khả Khí nghe tin cha qua đời mới mò về. Anh đối đãi tử tế, nhưng hắn ngày càng hư, chỉ hơn một năm, phá hết điền sản của cha chia cho, rồi làm đơn thưa anh tại quận. Quận thừa biết là người thế nào cho nên xé đơn đuổi về không xét. Tình nghĩa anh em thành ra đoạn tuyệt từ vụ đó.
Cách hơn năm sau, Khả Khí hai mươi ba tuổi. Hầu nữ mười lăm rồi, anh nhớ lời mẹ dặn dò, muốn gấp cưới vợ cho xong, liền kêu Khả Khí về nhường toà nhà đẹp cho ở. Khi cưới vợ về nhà, anh lại đem bao nhiêu ruộng tốt cha để lại, toàn số giao cho và nói với em dâu rằng:
- Mấy đám ruộng này, bấy lâu anh cố sống cố chết giữ gìn hộ, ngày nay anh giao lại hết đó. Em tôi vốn mất nết, dù cho nó nhiều ít gì cũng đều như của bỏ. Từ đây về sau, nên hay là hư cốt ở nơi thím. Nếu chú nó biết sửa nết, chịu khó làm ăn, thì chả phải lo đói rét, không vậy thì anh đây cũng chịu phép không lấy gì mà lấp đầy cái vực sâu không đáy kia đặng.
Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh, có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo gì cũng không dám trái ý. Đi đâu, hẹn giờ khắc mà về không đúng thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn uống chung.
Nhờ vậy, Khả Khí cũng chừa bớt lêu lổng ít nhiều. Hơn năm sau, sinh đứa con trai, Hầu nữ nói:
- Từ nay, chẳng cầu gì ai. Mấy đám ruộng tốt đó, ta lo cày cấy, mẹ con no ấm có thừa, bây giờ chẳng có chồng cũng chẳng cần.
Có hôm Khả Khí xúc trộm lúa đi bán để đánh bạc, vợ hay, cầm cung tên đứng chặn ở cửa để chống cự. Khả Khí sợ quá, lẩn trốn mất mặt. Chừng dòm thấy vợ vào trong nhà rồi, lại mon men trở vào, định lấy lúa cho bằng được. Không ngờ vợ xách dao rình sẵn. Khả Khí bỏ chạy, vợ rượt theo chém trúng mông, máu tuôn đẫm ướt giày tất, liền đến mách với anh, nhưng anh mặc kệ, đành hổ thẹn ra đi.
Sáng hôm sau lại bò về, quỳ trước mặt chị dâu mà khóc lóc kêu ca, nhờ chị nói giùm để vợ cho về nhà. Vợ nhất định không nghe. Khả Khí nổi xung định giết chết vợ. Anh cũng mặc kệ, không nói gì. Khả Khí càng phẫn, xách ngọn mác hầm hầm ra đi. Chị sửng sốt, toan chạy theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ cho Khả Khí đi rồi, mới cắt nghĩa:
- Nó làm bộ tịch vậy đó, cho ăn kẹo cũng không dám vác mặt về.
Nói rồi, sai người theo dõi, thì Khả Khí đã bước vào trong nhà rồi. Bấy giờ anh mới đâm lo tính, chạy theo can gián cho kịp, chẳng dè đến nơi, thì Khả Khí đã cúi mặt nín thít đi ra. Té ra chàng vào nhà, vợ đang đùa giỡn với con, thoáng trông thấy, liền đặt con trên giường, vào bếp xách con dao bổ củi ra. Chàng hết hồn hết vía, kéo lê ngọn mác chạy mất. Vợ rượt theo tới ngoài cổng mới chịu lui.
Anh biết rõ sự tình như vậy, nhưng làm bộ như không biết, cố ý gạn hỏi đã đâm vợ chết rồi chưa. Khả Khí chỉ úp mặt vào tường mà khóc nức nở, hai mắt đỏ ngầu. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu tiếp. Chờ anh đi rồi, phạt chàng quỳ dưới đất, buộc phải thề độc, bấy giờ mới lấy cơm đựng vào tô xấu cho ăn.
Từ đó chàng sửa nết làm lành, vợ lại chịu khó chăm nom công việc làm ăn, thành ra nhà được phong túc. Chàng chỉ có việc ngồi ăn sẵn mà thôi. Đến năm bảy mươi tuổi, con cháu đầy nhà, còn có lúc bị vợ nắm râu bạc và bắt quỳ./.

Người dịch: Đào Trinh Nhất
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Thiên Cung
( Thiên cung)
Quách sinh, người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều tà có bà già mang đến cho một chén rượu. Sinh hỏi duyên cớ, bà già cười bảo: “Không phải hỏi, uống đi, sẽ thấy cảnh tuyệt vời”. Nói rồi đi, Sinh nâng chén khẽ nhấp, thấy hương thơm tỏa khắp. uống vào rồi, say lịm đi không biết gì nữa.
Tỉnh ra Quách thấy mình nằm với một người. Sờ soạng thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, thì ra là con gái. Hỏi không nói, chẳng cần biết sấp tẻ. Quách cứ làm tới luôn. Xong rồi, lấy tay sờ mó xung quanh thấy bức vách toàn đá, không khí âm ấm hơi đất như ở trong mộ vậy. Hoàng quá, Quách nghi là quỷ bẫy. Thủ thỉ với cô gái là thần gì, cô gái đáp:
- Ta không phải là thần mà là tiên. Đây là động phủ. Ta với anh vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Vào qua một lần cừa nữa, nơi có ánh sáng lọt vào có thể đại tiểu tiện được.
Dặn rồi cô gái trờ dậy, đóng cửa đi mất. lâu sau, bụng Quách đã đói, một cô gái mang bánh bao canh vịt cho ăn. Xung quanh vẫn cứ đen như mực, không biết sớm tối. Chỉ khi cô gái vào ngủ mới đoán là đêm. Quách bực dọc bảo:
- Ngày không ánh nắng mặt trời, đêm không tia đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu. Cứ thứ này, nàng Hằng Nga có khác gì mụ La Sát, thiên đường không phân biệt với địa ngục.
Cô gái cười an ủi:
- Vì anh là người trần tục hay bép xép cho nên ta không muống lộ mặt. Vả lại ăn nằm trong bóng tối, méo tròn đẹp xấu cũng có thể phân biệt, hà tất phải đèn đuốc làm gì?
Ở mấy ngày buồn quá, Quách đòi về. Cô gái bảo:
- Đêm mai cùng chàng lên thiên cung rồi sẽ chia tay.
Hôm sau cô tiểu hoàn xách đèn lồng vào bảo:
- Nương tử đợi chàng lâu rồi.
Quách đi theo, trong ánh sao vằng vặc, thấy vô số lầu gác. Qua mấy khúc hành lang chạm vẽ thì đến một nơi: trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng tựa như ban ngày. Bước vào thấy một mỹ nhân tuổi trạc hai mươi, ngồi quay hướng nam, trang sức cự kỳ hoa lệ, đầu đính minh châu, áo gấm hoa mắt, quần sa bóng lộn, đúng là người trời. Quách bối rối, người như mụ đi, bất giác quì xuống. Mỹ nhân sai nữ tì đỡ dậy, dìu vào ghế. Lát sau các món sơn hào hải vị bày la liệt. Mỹ nhân rót rượu mời:
- Nâng chén rượu này để tiễn chàng về.
Quách gập mình thưa thốt:
- Trước đây giáp mặt mà không biết người tiên, thực lấy làm xấu hổ. Xin cho chuộc lỗi, được làm kẻ bầy tôi suốt đời không hai lòng.
Mỹ nhân đưa mắt nhìn tì nữ cười mủm mỉm, sai thu tiệc soạn giường.
Trong nội thất cũng thướt tha trướng gấm,, chăn gối nức hương. Mỹ nhân bảo Quách ngồi vào giường. Trong lúc uống nàng nhắc mấy lần:
- Chàng xa nhà lâu, nay về cũng được.
Đã hết canh một, Quách vẫn chưa ngõ lời từ biệt. mỹ nhân gọi nữ tỳ xách lồng đèn đưa tiễn. Quách nín thít giả vờ say rượu nằm lăn ra giường, lay gọi không dậy. Nàng sai các tì nữ cởi quần áo. Một cô gí vào chỗ kín của Quách giỡn:
- Anh chàng mặt mũi có vẻ ôn nhã mà cái của này lại chẳng “văn vẻ” tí nào!
Họ đưa Quách vào trong giường khúc khích đi ra. Mỹ nhân cũng lên giường. Quách trở mình. Nàng hỏi:
- Say à?
- Tiểu sinh có say đâu! Chỉ mới thấy người tiên, thần hồn đã nghiêng ngửa.
Mỹ nhân dặn:
- Đây là thiên cung, gần sáng phải ra. Vào trong động phủ nếu hiềm không vừa ý, chi bằng sớm từ biệt.
Quách gạ khéo:
- Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa đẹp, chỉ cầm cánh ngửi hương mà không thấy sắc màu thì tình cảnh ấy làm sao chịu được?
Nàng cười lấy đủ đèn đến, sáng trưng.
Vừa sang canh tư, mỹ nhân đã gọi nữ tì mang đèn lồng, ôm áo, đưa Quách vào động ngủ. ở đây các đồ trang sức màu hồng tinh xảo, nơi ngủ thì nệm da, thảm lông dày dặn. Quách cởi giày ôm chăn, ả nữ tì còn bần thần quanh quẩn chưa đi. Quách để ý nhìn kỹ thất phong tươi tốt, liền cợt nhả:
- Có phải cô bảo tôi cái của ấy không “văn vẻ” phải không?
Ả cười, lấy chân đá cái gối nói:
- Thôi anh cứ nằm đờ ra đi cho được việc, đừng lắm lời nữa.
Nhìn đôi giày của ả có đính ngọc châu long lanh, to như hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo ả vào, ả ngã vào lòng Quách, rồi ôm lấy nhau, hú hí rên rỉ mãi. Quách hỏi:
- Bao nhiêu tuổi rồi?
Đáp:
- Mười bảy.
- Xử nữ đã biết thế nào là tình chưa?
- Em không còn là xử nữ, song hoang vắng đã ba năm nay rồi.
Quách hỏi dò họ tên, tông tích tiên nữ bấy lâu chung đụng, ả nữ tì dọa:
- Chớ hỏi! Không phải là tiên nữ trên thượng giới thì cũng là dị nhân ở trần gian. Nhược bằng muốn biết tỉ mỉ chuyện đó thì e rằng không có đất mà chôn.
Thấy nói thế, Quách không dám hỏi thêm.
Đêm sau nữa nữ nhân lại mang đèn tới, cùng nhau ăn ngủ liền liền như vậy. Một tối, nàng bảo:
- Những ước được cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, cho nên không thể ăn nằm với nhau được nữa. Xin cùng chuốc chén từ biệt.
Quách khóc, xin một vật gì làm kỷ niệm ái ân. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng, trăm hạt ngọc châu.
Hết canh ba, Quách bỗng say lịm, tỉnh dậy thấy tứ chi bị trói rất chặt, chân không thể duỗi, đầu không thể thò ra, hết sức giãy giụa thì lăn xuống chân giường. Quách lấy tay sờ đoán thì biết mình bị nhét vào trong túi chăn gấm, ngoài nịt chặt dây. Ngồi dậy đắn đo suy gẫm, thoáng thấy cái giường mới biết đây là nhà mình.
Tính đến bây giờ, Quách biệt tích đã ba tháng, người nhà đều cho là anh ta đã chết. Giải thoát được rồi, lúc đầu Quách chưa dám ngỏ chuyện cùng ai, chỉ sợ bị tiên trừng phạt. Song mối ngờ vực vẫn day dứt trong lòng, dần dà anh ta thuật lại với bạn. Không ai biết duyên cớ ra sao. Cái chăn bọc anh ta vẫn gấp để đầu giường mùi hương sực nức, giở ra xem kỹ thì đó là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, liền trân trọng giấu đi. Sau có một quý quan biết chuyện ấy, hỏi căn hỏi vặn đến điều rồi cười mà bảo:
- Đó là ngón chơi của Giả hậu (1) bắt đĩ đực về đấy. Tiên nào lại như thế. Tuy nhiên phải hết sức giữ kín chuyện, lộ ra là chết cả họ. Có người thầy bói thường ra vào các nhà quyền quý, nói rằng hình dạng các lầu gác như Quách kể đúng là dinh Nghiêm Đông (2) rồi không sai.
Quách nghe thấy vậy, vô cùng sợ hãi, vội đưa cả gia đình đi nơi khác, ít lâu sau Nghiêm bị giết mới dám mon men trở về.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) Giả hậu: hoàng hậu của Tấn Huệ Đến, là người vô cùng dâm đãng, thường sai các mụ hầu ra ngoài tìm kiếm các trai tơ khỏe đẹp mang vào trong cung cấm để thỏa mãn lòng dục.
(2) Nghiêm Đông là tên hiệu của Nghiêm Thế Phan, con Nghiêm Tung đời Minh. Nhà này ỷ thế làm quan to người quyền thế, cho nên nhà cửa vô cùng xa hoa, đời sống hết sức phóng đãng, dâm dật.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Giấc Mộng Đắc Chí
(Vương Tử An)
Vương Tử An, danh sĩ đất Đông Xương, trầy trật hoài trong sự lều chõng Khoa ấy, vào trường thi hương xong rồi, Vương rất mực tin tưởng. Gần đến ngày treo bảng xướng danh, uống rượu say mèm về nằm ở buồng trong.
Bỗng có người đến bẩm:
- Ngựa đã tới!
Vương chồm dậy bảo:
- Thưởng cho người báo mười nghìn!
Người nhà biết là say, nói theo đà để cho Vương yên:
- Xin ngủ cho! Thưởng rồi.
Vương nằm ngủ yên.
Lát sau có người vào bẩm:
- Ngài đỗ tiến sĩ rồi!
Vương nói rằng mình chưa về Kinh thi Hội làm sao đỗ tiến sĩ? Người ấy nói:
- Ngài quên rồi ư? Đã qua tam trường rồi.
Vương mừng quá, trỗi dậy gọi:
- Thưởng người báo mười nghìn!
Người nhà lại nói gạt:
- Xin cứ ngủ đi! Đã thưởng rồi.
Không lâu, một người vội vã vào bẩm:
- Ngài được bổ vào viện Hàn Lâm, ông trưởng ban cũng đã đến.
Nhìn ra, quả có hai người, áo mũ chỉnh tề đang sụp lạy dưới giường. Vương gọi dọn rượu khoản đãi. Người nhà lại nói lừa cho ngủ và cứ cười mãi sao ông ta say quá thể như thế.
Vương lại nghĩ không thể không đi ra ngoài cho vẻ vang làng xóm, liền cất tiếng gọi to trưởng ban. Gọi đến hơn chục lần, không thấy ai thưa. Người nhà cười mà bảo:
- Xin tạm nằm đợi một chút, đã sai người đi tìm ông ta rồi.
Rồi trưởng ban tới thật. Vương đập giường giậm chận mắng:
- Đồ rùa!
Trưởng ban nổi giận cãi lại:
- Thực là đồ vô lại! Tôi chỉ muốn đùa ông một chút mà ông mắng thật à?
Vương tức lắm vùng dậy tát cho ông ta một cái làm rơi cả mụ xuống đất. Vương cũng ngã theo. Bà vợ đỡ dậy bảo:
- Trời ơi! Sao mà say thế này?
Vương lẩm bẩm:
- Tên trưởng ban ăn hại, tôi phải trị nó. Say đâu mà say!
Bà vợ cười:
- Trong nhà chỉ có bà lão giúp việc, ngày thổi cơm, đêm đốt lò cho ông, làm gì có trưởng ban, trưởng biếc gì? Thôi, đến khi ông rạc xương ra.
Con cái trong nhà đều cười phá.
Cơn say của Vương rồi cũng dần phai đi. Vương như vừa tỉnh mộng mới biết những việc xảy ra vừa qua đều là ảo cả. Song ông ta vẫn nhớ việc trưởng ban rơi mũ. Tìm ở sau cửa thì thấy một cái núm dải mũ to như cái chén. Mọi người đều lấy làm lạ.
Vương tự cười rằng:
- Xưa thì người bị quỷ trêu cợt, còn nay ta bị hồ báng bổ sỉ nhục.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Tú tài của trường thi có bảy cái “giống như”:
* Lúc mới vào trường, chân trắng vác chõng giống như ăn mày.
* Lúc gọi tên, quan thét lệ mắng giống như tù nhân.
* Lúc về nhà trọ, hốc vách rút đầu, buồng buồng thò cẳng, giống như ong lạnh cuối thu.
* Lúc ra khỏi trường thi, tâm thần thản thốt, trời đất đổi màu giống như chim ốm rời lồng.
* Lúc đợi yết bảng thì cây cỏ đều kinh, mộng tưởng cũng ảo. Nếu đỗ ư, thì khoảnh khắc đã này lầu này gác! Nếu trượt ư, thì nháy mắt xương cốt mục ra. Lúc ấy thôi đứng ngồi không yên giống như con khỉ bị bắt.
* Lúc xướng danh không có tên thì tinh thần đổ sụp người chết lặng đi giống như con nhặng nhả bả,có ai trêu đùa cũng thây kệ.
*Sau đó bất đắc chí mắng quan trường mù, bút mực không thiêng. Mọi vật dụng học hành đều đem đốt. Đốt không hết thì đập vỡ. Đập không hết thì đem ném xuống nướcbẩn. Từ đó xõa tóc vào núi tu tiên, úp mặt vào vách đá. Nếu có người thương tình bảo sẽ tiến cử, nhất định giơ dao dọa đuổi. Rồi thánh ngày qua mau, cơn uất hận tạm lắng, tài cũng dần mòn đi, chẳng khác gì con chim cưu vỡ trứng, thôi thì đành lại cõng rác làm tổ, ôm ấp trứng mà thôi.
Tình cảnh đến như vậy, người trong cuộc khóc thương tưởng chết mà người ngoài cuộc đứng nhìn chỉ thấy thật là đáng cười.
Tấc lòng Vương Tử An ngổn ngang muôn nỗi, chắc rằng quỷ, hồ cười trộm đã lâu mới nhân bị say mà đùa trêu như thế. Con người trên giường tỉnh rượu, há không phá lên mà tự cười mình sao? Thử xem cái ý vị khoa bảng đắc chí chẳng qua trong một lát, các ông nên danh nên giá chỉ trong đôi ba lát. Thế mà mới trong một sớm Vương Tử An đã được nếm hết. Cái ơn của hồ đáng là ơn bậc thầy vậy.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Người Học Trò Phượng Dương
( Phượng Dương sĩ nhân)
Một người học trò ở Phượng Dương (thời Minh Thanh là phủ Phượng Dương, tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về. Thế rồi hơn mười tháng qua mà vẫn tuyệt vô âm tín, chị vợ ở nhà mỏi mắt chờ trông.
Một đêm, chị ta lên giường nghỉ, bóng trăng lung linh ve vuốt tấm rèm the cửa sổ, càng làm thổn thức thêm nỗi nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì một cô gái đẹp, bím tóc cài trâm ngọc, vai quàng khăn hồng, vén rèm bước vào, nhoẻn miệng cười bảo chị ta:
- Thế nào, chị tôi có muốn gặp anh tôi không?
Chị ta hớn hở vùng dậy. Người đẹp rủ cùng đi, chị ta còn e ngại đường xa xa xôi, hiểm trở. Người đẹp khuyên nhủ đừng lo rồi dắt tau nhau, gội ánh trăng suông lên đường.
Mới độ tầm tên bắn, chị ta thấy người đẹp đi nhanh quá mà đôi giày của mình siết vào chân khó đi, liền gọi hãy đợi một chút, mình trở về thay đôi giày đế cao khác. Người đẹp kéo ngồi xuống bên đường rồi cởi giày của mình cho mượn. Chị vợ mừng quá, xỏ vào may mà vừa khít, liền đứng dậy đi theo, chân bước cứ thấy thoăn thoắt như gió lướt.
Chẳng bao lâu, họ gặp anh học trò đang cưỡi con la trên đường trở về. Anh ta trông thấy vợ ngạc nhiên, vội nhảy xuống hỏi:
- Mình đi đâu đó?
Chị vợ đáp:
- Tôi đi thăm mình chứ còn đi đâu?
Anh ta quay về phía người đẹp, rồi hỏi vợ là ai? Chị vợ chưa kịp trả lời.
Người đẹp đẽ bưng mìệng cười:
- Thôi, anh chẳng phải hỏi nữa. Chị đây thì đi đốc thôi đốc hồi chẳng nghỉ. Còn anh thì rong duổi suốt đêm, người ngựa đều mệt mõi. Chi bằng nhà em cũng không xa đây, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai hãy đi cũng không muộn.
Hai vợ chồng nhìn quanh, cách đó ít bước quả có một xóm, liền nhận lời cùng vào. Vào đến một ngôi nhà, người đẹp gọi con hầu đang ngủ trở dậy sửa soạn cơm nước cho khách và bảo:
- Đêm nay trăng sáng vằng vặc thế này, chẳng cần phải đốt đèn nữa. Ngồi ngay trên sạp đá ở căn nhà nhỏ này cũng được..
Anh học trò buộc la vào gốc cây ngô đồng bên mé nhà rồi ngồi ngay xuống.
Người đẹp nói với chị vợ:
- Đi giày to không vừa chân, trên đường về chắc sẽ phiền anh ấy đấy! Nhưng dù sao đã có vật đỡ chân, xin chị cho em xin lại.
Chị vợ cảm ơn, rút giày trao trả.
Lát sau, rượu quả bày ra, người đẹp nâng chén mời:
- Loan phượng xa lâu, đêm nay chắp cánh, xin có chén rượu nhạt kính mừng!
Anh học trò cũng nâng chén mời lại, bên trên, chủ khác nói cưòi, bên dưới giày dép lẫn lộn. Anh học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, luông buông những lời chọc ghẹo cợt nhả, còn chẳng thèm nói một lời với chị vợ bao lâu mới gặp lại. Người đẹp cũng sáng mắt đưa tình, thả lời bả lả. Còn chị vợ cứ ngồi câm lặng giả như kẻ ngu đần.
Lâu sau, hơi men đều ngấm, điều đối tiếng đáp ý tình hai người lại càng xoắn xuýt. Người đẹp rót rượu vào chén lớn mời khách, khách từ đã say, ả càng cố sức nài ép. Anh học trò cười mà rằng:
- Em hát cho nghe một khúc, tôi sẽ xin uống.
Người đẹp chiều ý ngay, liền dùng tre ngà voi gẩy đàn cầm mà hát rằng:





Bóng hoàng hôn ngã màu son phấn nhạt
Gió lạnh ngoài song ngăn ngắt thấu màn the
Thánh thót tàu tiêu mưa từng trận não nề
Mà nơi ấy, cùng ai mãi mê chi lắm
Trông mòn mắt chẳng về, một thân quạnh bóng
Lệ cạn đôi hàng những ngóng cùng mong
Nhớ vô chừng mà càng giận vô chừng
Thử lấy giày thêu tung quẻ bói (1)




Ca xong còn cười mà bảo:
- Đó là khúc hát ở chỗ đầu đường xó chợ, chẳng bõ làm bẩn tai anh. Song do thói đời hiện nay đang ưa chuộng, em mới học đòi bắt chước mà thôi.
Giọng hát của ả ta đậm đà, điệu bộ lả lơi làm cho anh học trò mê mẩn cả tâm thần dường như không còn tự chủ được nữa. Lát sau ả ra vẻ say sưa đi ra, anh học trò cũng đứng dậy theo.
Lâu lắm không thấy họ trở về, đứa con hầu mệt mõi nằm lăn ra ngủ ngoài hành lang. Còn chị vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không thể nào chịu được. Chị ta đã định bỏ ra về, song đêm tối mịt mờ, không nhớ đường đi lối về nên lại thôi. Lòng dạ cứ trăn trở khôn nguôi, chị ta mới đứng dậy thử lần dò xem anh chồng với cô ả ở đâu. Vừa đến gần cửa sổ một căn buồng, đã nghe phản phất tiếng cuộc mây mưa rả rích trên giường. Lại gần nghe rõ hơn thì mới biết mọi trò anh chồng vẫn thường giãi bày với mình trong chốn buồng the nay đến giở ra hết với ả nọ. Lúc đó tim chị ta đập mạnh, tay run bắn lên, vừa giận vừa tức, nghĩ chi bằng ra ngoài kia đâm đầu xuống rãnh ngòi mà chết đi cho khuất mắt.
Đang định đi thì cậu em thứ ba cưỡi ngựa đi tới. Cậu ta trông thấy vội vã xuống ngựa. Nghe chị kể lể mọi nỗi nguồn cơn, cậu Ba giận quá bảo chị cùng quay vào. Nhà đã đóng cửa cài then chặt chẽ, song vẫn có thể nghe thấy tiếng nói cười rúc rích trên gối. Cậu Ba vác luôn một hòn đá to tướng như cái đấu ném mạnh vào cửa sổ, làm cho mấy cái chấn song gãy gập. Bỗng bên trong vọng ra tiếng kêu thất thanh:
- Thôi anh ấy vỡ sọ rồi. Làm thế nào đây?
Chị vợ nghe thấy thế, kinh hoảng khóc lớn, mếu máo bảo em:
- Tôi có bảo cậu giết anh ấy đâu. Làm thế nào bây giờ?
Người em trợn mắt lên nói:
- Chị đã chẳng hu hu giục tôi vào, nay vừa mới tiêu xong cái hận trong bụng, đã lại vì chồng mà oán trách anh em. Tôi là tôi không có quen mà ngón tay trỏ cho hạng con đòi đâu.
Nói rồi ngoắt mình bỏ đi. Chị níu áo bảo:
- Cậu chẳng đưa chị về còn đi đâu?
Người em dứt áo ra làm chị ngã lăn xuống đất, rồi bỏ đi mất. Chị giật mình tỉnh dậy thì ra vừa rồi là giấc mộng .
Ngày hôm sau, quả nhiên anh học trò cưỡi con la trắng trở về. Chị vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì về chuyện mộng mị. Người chồng kể trước, đêm qua cũng nằm mộng, mọi chi tiết đều y như vợ đã nghe đã thấy. Cả hai đều cho là quái lạ.Rồi cậu Ba nghe tin anh rể đi xa về cũng đến chơi thăm hỏi. Cậu ta bảo anh rể:
- Đêm qua em nằm mơ thấy anh về, nay quả nhiên như thế. Thật lạ quá!
Anh học trò cười bảo:
- Cũng may mà tôi không bị đá choảng chết.
Cậu Ba ngạc nhiên hỏi tại sao anh biết? Anh nói là nằm mộng thấy. Cậu Ba càng kinh ngạc, hóa ra cậu ta cũng nằm mơ gặp chị khóc lóc tố giác chuyện bờm xơm của anh rể, tức giận quá cậu có ném đá thật.
Ba giấc mộng hợp nhau, song không biết người đẹp là thế nào?


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) nguyên văn:



Hoàng hôn xã đắc tàn trang bãi
Song ngoại tây phong lãnh thấu sa
Thinh tiêu thanh, nhất trận nhất trận tế vũ hạ
Hà xứ dữ nhân nhà hạp nha
Vọng xuyên thu thủy, bắt kiến hoàn gia
Tiềm tiềm lệ tự ma
Hựu thị tưởng tha,hựu thị hận tha
Thử nã chước hồng tú hài chi chiêm qủy quái.


Ngày xưa phụ nữ có chồng đi xa, muốn biết sắp về hay chưa thường bói bằng cách lấy giày đang đi tung lên cho rơi xuống đất. Hễ giày úp sấp là chồng sắp về.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Trộm Đào
( Du đào)
Thời còn trẻ, đang dịp tết lập xuân ta lên quận thi. Theo lễ cũ, trước lập xuân một ngày, mỗi nhà treo đèn kết hoa chiêng trống vang lừng, người ta đi mua bán và đến trước đình quan Tuần dự hội “xuân diễn”. Ta cũng theo bè bạn đi xem.
Đúng ngày lập xuân, người ta nô nức kéo nhau đi chơi đông như kiến cỏ. Trên công đường, bốn vị quan lớn đều mặt áo đỏ, đối diện theo bốn hướng đông tây. Lúc ấy ta còn nhỏ không biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng nói cười ồn ã, chiêng trống rát tai.
bỗng có người đàn ông dắt một đứa trẻ còn xỏa tóc, vai vác hòm nặng, tiến thẳng lên công đường, tựa như có việc gì muống bẩm báo. Thế là muôn ngàn tiếng hò reo sôi động, không còn nghe rõ là gì, chỉ thấy trên công đường, các quan nhìn nhau trao đổi. Viên nha lại hỏi giỏi về trò gì. Người ấy thưa: trò “đảo lộn vật sống”. Viên nha lại bẩm quan, lát sau hạ lệnh diễn trò “hái đào”.
Người biễu diễn tiếng dạ ran, cởi luôn áo trùm lấy cái hòm, cất tiếng làm bộ than oán:
- Bậc trưởng quan sao chẳng thấu tình! Trời rét băng chưa tan, đào đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, vậy làm sao đây?
Đứa bé nói:
- Cha đã xin nhận, từ chối sao được?
Người cha rầu rầu suy nghĩ hồi lâu:
- Ta tính kỹ: đầu xuân băng tuyết, tìm đâu được đào trên cõi đời này. Chỉ có trên vường Tây Vương Mẫu bốn mùa hoa lá xanh tươi. Phải lấy trộm trên trời mới được.
- Úi chà! Trời chứ có phải cái thang đâu mà lần bậc lên được.
- Đã có phép chứ!
Nói rồi người cha mở hòm lấy ra một cuộn dây ước vào trăm thước, thắt nút thòng lọng một đầu rồi tung lên không trung. Sợi dây dựng đứng lên y như được treo móc vào một vật gì đó. Không lâu, càng ném càng cao, dây cứ lẩn dần vào mây cho đến khi hết.
Lúc ấy người đàn ông mới gọi con:
- Lại đây! Cha già thân nặng, lóng ngóng khó lên. Con đi giúp cha! Cứ bám lấy dây mà leo.
Con cầm lấy đầu dây, tỏ vẻ khó khăn ngao ngán:
- Cha thật là bất nhẫn. Một sợi dây mỏng manh thế này, bảo tôi bám vào để leo lên trời cao muôn trượng. Ngộ nhỡ chừng dây đứt thì còn gì xương thịt nhà tôi.
Người cha lại giục:
- Cha lỡ mồm nhận với quan trên, hối không kịp nữa. Nhờ con đi một chuyến, đừng có phàn nàn, nếu lấy được đào ắt có thưởng trăm đồng tiền vàng, thế nào cũng cưới cho mấy con vợ đẹp.
Thằng con có vẻ bùi tai, cầm đầu dây, bám lấy leo lên, tay co đến đâu, chân quấn đến đấy y như con nhện leo tơ. Cứ thế khuất dần trong đám mây trời không trông thấy đâu nữa.
Lâu sau có quả đào rơi xuống to như cái bát. Người nha hớn hở nhặt lấy dâng lên công đường. Trên ấy các quan truyền tay nhau xem xét hồi lâu, cũng không biết là thật hay giả.
Chợt, sợi dây từ trên trời bỗng rơi tuột xuống đất. Người cha kinh hoàng:
- Chết rồi! Trên ấy có người cắt dây. Con tôi biết tựa vào đâu?
Lát sau,. Có một gì rơi bịch xuống . Không bao lâu chân tay mình mẩy đều lần lượt rơi xuống đủ cả. Người cha buồn rũ rượi, thu thập tất cả bỏ vào hòm đậy lại ca thán:
- Lão này chỉ có một thằng bé hàng ngày cùng lên bắc xuống nam. Nay phải vâng nghiêm lệnh quan trên chẳng dè chuốc lấy vạ thảm thương kỳ lạ này. Tôi phải đi chôn nó thôi.
Rồi bước lên công đường, quỳ xuống kêu:
- Vì chuyện đào mà giết mất con tôi. Các quan thương đến kẻ hèn mọn mà cấp cho chút đỉnh tiền chôn cất thì tôi xin kết cỏ ngậm vành báo đền ơn ấy.
Quan khách ngồi xem rùng mình khen ngợi, đều bỏ tiền ra cho. Người cha tu lấy giắt vào thắt lưng rồi ra gõ vào cái hòm, gọi:
- Cu Bút! Bút ơi! Không ra ta thưởng còn đợi gì nữa.
Bỗng cái đầu bù đội nắp hòm lên, cả người nhoài ra, hướng về phia bắc, cúi đầu bái tạ. Thì ra thằng bé vừa leo dây.
Thật là một thuật lạ, mãi đến bây giờ ta vẫn nhớ. Sau nghe nói phái Bạch Liên (1) còn có người làm được thuật ấy, ý giả là dòng dõi chăng?


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) tức Bạch Liên giáo. Đó là một tổ chức bí mật của quần chúng ở TQ, xuất hiện vào thế kỷ 13, 14. Thông qua các hình thức tín ngưỡng tôn giáo. Hội đó đã tổ chức đoàn kết để mọi người tiến hành đấu tranh chống ách thống trị ngoại tộc Nguyên- Mông. Đến đời Thanh- thời tác giả- nó phát triển thành một tổ chức dân gian với mục đích chống ngoại tộc Mãn Thanh thống trị. Cuộc khởi nghĩa đã diễn ra hơn mười năm ở nhiều tỉnh. Sau bị triều Thanh trấn áp rất khốc liệt.
Từ đó có thể thấy ý nghĩa sâu xa của câu chuyện này.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Ba Ngày Làm Diêm Vương
(Lý Bá Ngôn)
Lý Bá Ngôn, quê huyện Hàn Thủy tỉnh Sơn Đông, là người nghĩa khí cương trực. Một hôm bỗng nhiên mắc bệnh nguy cấp, người nhà đem thuốc đến ông ta không chịu dùng bảo:
- Bệnh ta không thể uống thuốc mà khỏi được, dưới âm phủ hiện nay khuyết Diêm vương cho nên ta được tạm cử thay thế. Ta chết rồi, nhất thiết không được mai táng, cứ để đấy, đợi sau này sẽ hay.
Thế rồi ông ta chết luôn ngày hôm đó. Còn đang trong cơn mơ mơ hoảng hoảng thì một đoàn hộ tống đã đến đón ông đi, vào một tòa cung điện, đem mũ áo ra mời mặc. Hai bên nha dịch đứng hầu, mười phần cung kính, nghiêm túc. Trên bàn đã xếp đống nhiều án tờ, trong đó có vụ án tên mỗ ở Giang Nam. Tra ra sinh thời hắn đã tư thông với 82 cô gái lương thiện. Xét hỏi đều có chứng cứ không chút oan uổng. Lý bèn theo đúng pháp luật dưới âm ty xử tội “nướng”
Dưới thềm có một cột dây đồng rỗng ruột cao khoảng 8-9 thước, chu vi đầy một ôm, trong ngoài cùng đốt than củi, cột đỏ rực. Một bầy quỷ sứ vác gậy đánh phạm nhân, xua phải leo cột đồng. Y hai tay ôm cột níu lên, hai chân quặp lấy cột đẩy tới, cứ từng nấc từng nấc choài lên. Vừa lên đến đỉnh cột bỗng một làn khói phun vọt, một tiếng nổ uỳnh như pháo đại. Phạm nhân ngã lộn xuống, sõng soài trên mặt đất, một hồi lâu mới tỉnh dậy. Quỉ sứ lại vác gậy đánh, bắt phải leo nữa. Một tiếng nổ ùng. Y lại bắn xuống đất giống như lần trước. Ba lần như thế, phạm nhân chỉ còn như một đụn khói lan tỏa trên mặt đất rồi tan đi, không khôi phục lại hình người.
Một vụ khác: Vương mỗ người cùng huyện Hàn Thủy, bị cha vợ bé anh ta tố cáo tội cưỡng đoạt con gái của ông. Nguyên trước đây có một người bán một cô gái, Vương biết do lại lịch song chính vì ham giá bán rẻ liền chuốc lấy. Đến giờ Vương chết đột nhiên. Một ngày sau bạn anh là Chu mỗ gặp ở đường biết anh là ma, vội chạy về thư phòng nằm, Vương theo hút vào. Chu sợ lắm hai con mắt cứ chằm chằm nhìn anh, hỏi cần gì? Đáp:
- Phiền anh xuống âm ty làm chứng cho.
Chu cả kinh hỏi việc gì. Đáp:
- Cái cô vợ bé nhà tôi, thực tôi bỏ tiền mua, nay bị họ vu cáo. Việc này chính anh đã thấy tận mắt, nay chỉ xin nhờ anh làm chứng, nói một câu sự thực. Ngoài ra không có việc gì khác nữa.
Chu kiên quyết không đi. Vương đành quay ra miện lẩm bẩm:
- Chỉ sợ anh không thể tự theo ý anh thôi.
quả nhiên lát sau Chu chết, hồn được dẫn đên trước Diêm vương đối chất, Lý vốn là thân thích của Vương nay trông thấy anh ta, tâm tư hơi ngầm có ý thiên vị. Bỗng trên nóc điện bùng cháy, Lý vội vọt dậy. Một viên thư lại bảo riêng Lý:
- Âm ti và dương thế khác nhau. Ở dưới này không dùng một chút lòng riêng. Xin ngài mau bỏ những tư tình không thẳng thắn, lửa kia sẽ tắt.
Lý nghe theo, quả nhiên ngọn lửa lập tức tắt ngấm.
Đến khi thẩm án, Vương và người bố cô gái tranh biện qua lại. Hỏi đến Chu, Chu cứ thực tình trình bày. Luận án: Vương vì đã biết trước có sự không minh bạch mà vẫn cố pạm, phải phạt đòn. Xử xong, Lý phái quỷ sứ dẫn Chu và Vương trở về dương thế. Hai người đã chết mấy ngày đều sống lại.
Lý Bá Ngôn làm việc công ở dưới âm phủ xong hạn, ngồi xe ngựa trở về nhà. Giữa đường thấy một đoàn mấy trăm người, kẻ cụt đầu, kẻ mất cẳng, bò lê bò càng trên mặt đất mà kêu gào thê thảm. Ông ta dừng xe, hỏi thăm cặn kẻ mới biết đó là những hồn ma chết ở nơi đất khách, nay muốn trở về quê nhà lại sợ các cửa quan ngăn trở không cho đi, mới kêu khóc khẩn cầu ông ta cấp cho giấy thông hành. Lý khuyên giải:
- Ta chỉ thay mặt Diêm vương có ba ngày, nay đã hết nhiệm kỳ còn có quyền gì để giúp các ngươi việc ấy được? Các hồn ma lại thưa:
Ở thôn nam có ông họ Hồ đang muốn làm chay cứu độ chúng sinh. Nhờ ngài thay chúng tôi nói giúp với ông ra để có thể sớm làm được.
Lý nhận lời. Về đến nhà, ông cho những người tùy tùng quay về hết, còn ông sống trở lại. Hồ sinh ở nam thôn, hiệu Thủy Tâm, là bạn thân của Lý. Ông ta nghe Lý hồi sinh liền đến thăm viếng. Lý hỏi ông ta chuẩn bị bao giờ lập bàn làm chay, Hồ kinh ngạc:
- Vừa trải qua một cơn binh hỏa lớn, gia quyến tôi may được chu toàn, vì thế tôi và bà vợ từ lâu đã có ý nguyện mở một đàn chay. Song chúng tôi chưa hở cùng ai, sao ông anh lại biết?
Lý thuật lại lời khẩn cầu của các hồn ma. Hồ than thở:
- Chỉ bàn một câu chuyện trong buồng mà dưới âm đã lan truyền khắp. Thật đáng sợ!
Do vậy ông thuận lập ngay đàn tràng.
Hôm sau, Lý đến nhà Vương, Vương còn đang mệt mỏi nằm trên giường, thấy Lý đến vội cung kính cảm tạ ông ta đã hạ cố. Lý bảo:
- Pháp luật không thể khoan thứ bất kỳ ai có tội. Bay giờ anh còn đau không?
- Không còn đau đớn gì khác, chỉ đợi những vết đòn liền miệng là khỏi.
Hơn hai mươi ngày sau Vương bình phục. Trên bắp vế đùi còn hằn những vết sẹo như những rằn roi.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Mối Tình Già
(Chúc Ông)
Thôn Chúc, huyện Tế Dương, có ông họ Chúc, tuổi hơn năm mươi ốm chết.
Người nhà đang tất bật sửa soạn làm tang, bỗng nghe tiếng ông gọi gấp, vội chạy đến chỗ đặt thi thể thì ông đã sống lại. Mọi người mừng quýnh xúm quanh hỏi han. Ông chỉ bảo riêng bà vợ:
- Tôi vừa mới đi, đâu tính chuyện trở lại. Nhưng đi được mấy dặm đường, nghĩ đến cái thân già mình còn ở lại phải nhờ vả lũ con, khi nóng nực, lúc rét mướt đều trông cậy ở người, sống như thế còn thú gì, chẳng thà cùng đi với tôi thì hơn. Bởi vậy tôi phải trở về rủ cả mình cùng đi nốt.
Ai cũng cho là ông mới sống lại nói mê nói sảng, không tin. Ông lại nhắc lại. Bà vợ nể lời đáp:
- Kể như thế cũng hay. Nhưng đang sống khoẻ mạnh trờ trờ thế này, chết ngay sao được.
Ông lấy tay vẫy, giục đi nói:
- Có khó gì! Những việc nhỏ nhặt trong nhà, xếp đặt qua loa chốt lát nhanh thôi!
Bà vợ cười nấn ná không đi.
Ông ta lại giục.
Bà chiều ý, ra ngoài cửa chốc lát quay vào, nói quấy nói quá:
- Đã thu xếp ổn cả rồi.
Ông bảo đi thay quần áo tử tế. Bà chần chừ, ông lại giục gấp.
Bà không nỡ trái ý cũng phải làm theo.
Con cái trong nhà, con gái con dâu đều bịt miệng cười.
Ông đặt đầu mình lên gối, vỗ vỗ tay bảo bà nằm xuống bên cạnh. Bà sượng sùng:
- Con cái đứng cá đó chúng nó cười cho, nằm sóng đôi nhau sườn sượt còn ra cái gì!
Ông đập mạnh tay xuống giường gắt:
- Cùng chết với nhau, cười cười, có cái gì đáng cười!
Con trai con gái thấy bố nổi nóng quá cũng khuyên mẹ tạm chiều.
Bà đành phải nghe theo, ghé mình nằm xuống cạnh nhau gối chung gối.
Cả nhà cùng phì cười mà không dám cười lên.
Lát sau nụ cười bà dịu đi, mắt nhắm dần lại. Chút nữa, nằm im bằn bặt lịm dần như ngủ hẳn.
Các con thấy lạ, lại gần để coi thì da thịt bà đã lạnh, hơi thở tắt hẳn. Thăm đến ông cũng thế.
Năm Khang Hi thứ 21, người em dâu ông Chúc đến làm thuê ở nhà ông thứ sử họ Tất, kể lại chuyện rõ rành lắm.


NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Xấu Người Đẹp Nết
(Kiều nữ)
Ông Kiều ở Bình Nguyên có cô con gái vừa đen vừa xấu, khuyết mũi thọt chân. Cho nên tuy cô đã hai lăm, hai sáu cái xuân xanh mà chưa ai đến hỏi. Trong huyện có chàng họ Mục hơn bốn mươi tuổi đầu, vợ chết mà nghèo quá không có tiền cưới vợ kế, mới chịu phép cưới chị ta. Ba năm sau chị ta sinh con trai. Sau đó ít lâu Mục chết. Gia cảnh túng quẫ, phải ngửa tay xin mẹ đẻ cưu mang, song mẹ cũng không cán đáng được. Chị ta đành ở lại nhà chồng, trông vào nghề canh cửi, lần hồi sinh sống.
Mạnh sinh cũng goá vợ, đứa con trai Ô Đầu mới tròn tuổi tôi. Thiếu người bú mớm cho con, chàng phải gấp nhờ người mối lái cho mấy đám nhưng chưa vừa ý. Bắt gặp Kiều thị chàng ta ưng lắm, nhờ người đánh tiếng. Kiều thị từ chối:
- Tôi đói rét thế này, nương bóng quan nhân sẽ được ăn no, sao lại chẳng muốn. Song tôi tàn tật xấu xí chẳng được bằng người. Điều còn đáng tin ở tôi là chữ đức, thế mà lại để mắc tiếng thờ hai chồng, vậy còn đi bước nữa làm gì?
Mạnh phục là hiền đức, càng đem lòng mến mộ, nhờ mối đem tiền bạc, vải lụa đến nói lót với bà mẹ. Bà mẹ thân đến nơi chị ta ở, cố khuyên nhủ nhưng không lay chuyển nổi. Bà mẹ xấu hổ vì trót nhận lời, định đem con gái út thế cho Mạnh. Người trong gia đình đều vừa ý, song Mạnh nhất quyết không chịu.
Chẳng bao lâu, Mạnh bị bệnh nặng chết. Kiều thị đến viếng tang, kêu khóc hết sức thảm thiết. Mạnh không có người thân thích gì đáng kể nên bọn vô lại trong thôn thừa gió bẻ măng, tìm cách lừa bịp lấy hết mọi vật dụng trong nhà và còn mưu tính chia nhau chiếm đoạt cả điền sản. Gia nhân cũng thừa cơ bỏ trốn. Trong nhà chỉ còn một bà vú ẳm đứa con nhỏ của Mạnh đang khóc ngằn ngặt trong màn.
Nghe chuyện đó, Kiều thị rất bất bình. Biết Lâm sinh bạn thân với Mạnh, chị ta tìm đến tận nhà mà bảo:
- Tình vợ chồng, nghĩa bạn bè là nhân luân lớn của con người. Tôi xấu xí bị người đời coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh là hiểu biết tôi. Trước đât tuy bề ngoài tôi từ chối song bên trong đã có ý bằng lòng. Nay chẳng may anh ấy thiệt phận, con còn trứng nước tôi tự thấy phải đền đáp ơn tri kỷ. Song việc nuôi dưỡng con côi cút cho anh ấy thì dễ, chống chọi lại sự cướp đoạt mới là khó. Anh không có cha mẹ anh em, nếu chỉ ngồi đó mà nhìn con bạn chết, nhà bạn tan mà không ra tay cứu giúp thì trong ngũ luân hóa không còn tình nghĩa bạn bè. Về phía tôi, tôi không góp sức được gì nhiều nhặn với anh, song đầu một lá đơn tố cáo với quan huyện, chăm sóc đứa con côi thì tôi không dám ngại khó.
Lâm hứa làm theo. Lúc ấy chị ta mới về. Lâm đang tìm cách giúp nhà bạn thì bọn vô lại biết, tức lắm, định thí cho một nhát dao. Lâm sợ quá đóng chặt cửa không dám đi nữa. Kiều thị đợi mấy ngày rồi mà chẳng có tin tức gì. Hỏi ra, điền sản nhà Mạnh đã bị cướp sạch trơn.
Kiều phẫn uất quá, bọc dao nhọn trong người, tức tốc lên quan. Quan vặn hỏi chị ta là người thế nào với Mạnh? Đáp:
- Ngài là quan tể một huyện. Cái căn cứ của ngài là có lý. Nếu như nói càn thì kẻ chí thân cũng không trốn được tội. Nếu không phải là nói càn thì tiếng nói của người qua đường cũng cần phải nghe.
Lời nói cương trực ấy đã làm quan nổi giận thét đuổi Kiều thị ra ngoài. Không còn đâu giãi bày nỗi oan phẫn, Kiều thị tìm đến cửa quan một thân sĩ. Ông Mỗ nghe chuyện ấy, cảm tấm nghĩa khí của người đàn bà, giúp đỡ đề bạt lên quan trên. Quan trên tra cứu quả điều tố cáo của chị ta là đúng, liền bắt bọn vo lại trừng trị nghiêm khắc, bắt phải haòn lại tài sản cho khổ chủ.
Có người bàn là Kiều nên chuyển sang ở hẳn nhà Mạnh để chăm sóc con côi, nhưng Kiều không chịu. Chị ta khóa chặt cửa nhà Mạnh, bảo bà vú ẵm thằng bé Ô Đầu cùng về nhà mình, để cho ở một căn riêng. Phàm những vật dụng cần thiết hàng ngày cho Ô Đầu, Kiều cùng bà vú đến nhà Mạnh mở cửa lấy để chi dùng dần. Còn mẹ con thì vẫn giữ phận nghèo, rau cháo hàng ngày như xưa, chứ không mảy may đụng đến con của Mạnh.
Khi Ô Đầu lớn, Kiều tìm thầy cho học, còn con đẻ của mình phải tập nghề nhiệp tay chân. Bà vú khuyên cho cả hai trẻ cùng học với nhau cho vui. Nàng đáp:
- Mọi phí tổn học hành là của cậu ta. Nếu tôi hao phí của người mà để cho con tôi học, sự tình ấy làm sao có thể coi là sáng tỏ được.
Mấy năm sau, Kiều đã để dành cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc. Liền hỏi con gái nhà dòng dõi cho nó, tu sửa nhà cửa, thu xếp cho nó trở về nhà cũ. Ô Đầu khóc lóc xin mẹ Kiều cùng về ở chung. Nể tình Kiều cũng nghe theo song vẫn giữ nghề dệt vải như trước. Hai vợ chồng Ô Đầu đem giấu hết đồ nghè canh cửi đi. Nàng bảo:
- Mẹ con tôi chỉ ngồi ăn thì sao yên tâm được?
Rồi sớm chiều Kiều chăm sóc việc trong nhà, lại sai con tuần hành đồng ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Vợ chồng Ô Đầu có làm sai điều gì dù nhỏ bé, nàng khiển trách luôn không nương nhẹ. Nếu có chút nào không có ý sửa lỗi, nàng lập tức thu xếp đòi đi. Hai vợ chồng phải quì xuống ăn năn xin lỗi lúc ấy nàng mới nguôi.
Ít lâu sau, Ô Đầu vào học trường quận, Kiều đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Chàng ta lại góp tiền cưới vợ cho chàng con họ Mục. Kiều cho con đẻ về ở nhà riêng cũ. Ô Đầu lưu thế nào cũng không được mới ngầm mua một trăm mẫu đất thôn để cho Mục làm phương tiện sinh sống.
Sau khi Kiều ốm lại đòi trở về nhà mình. Ô Đầu nhất định không nghe. Bệnh nguy kịch, bà trăng trối: thế nào cũng phải đưa về chôn nơi cũ. Ô Đầu nhận lời. Song đến khi bà mất, Ô Đầu đem vàng nói lót với con Mục, xin cho hợp táng với ông Mạnh. Đến khi đưa đám, cỗ quan tài tự nhiên quá nặng, ba chục người khiêng không nổi. Còn con Mục tự nhiên ngã lăn đùng ra đất, máu mũi hộc ra, tự miệng thốt lên:
- Đứa con bất hiếu! Sao được bán mẹ mày như thế.
Ô Đầu sợ quá, lễ lạy cầu khấn mãi hắn ta mới khỏi. Việc tống tánh phải đình lại mấy ngày để kịp sửa sang lại phần mộ ông Mục rồi hợp táng bà vào đó.
LỚI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Cảm ơn tri kỷ mà đem hi sinh thân mình đền đáp, đó là việc làm của trang nam nhi nghĩa liệt. Người đàn bà kia hỏi có hiểu biết gì nhiều lắm mà lại hành động cao cả lạ lùng đến thế? Nếu Phương Cửu Bình (1) còn sống mà gặp Kiều nữ ắt hẳn đánh giá ngay chị ta là “ngựa cự quý”
Truyện này ý nói: Phải coi trọng cái tinh thần bên trong và không nên chú ý đến những hình thức bên ngoài.

(1) Tức Cửu Phương Cao- một người xem tướng ngựa cực giỏi thời xuân thu- được Tần Mục Công sai đi tìm ngựa quý. Tìm được ngựa như ý ông ta về báo đó là ngựa cái màu vàng. Đến khi người khác đi lấy về thì đó là một con ngựa đực màu đen song rất cực tốt.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Mũi Dao Kinh Kha
(Điền Thất Lang)
Võ Thừa Hưu người Liêu Dương, thích giao du, phàm bạn chơi đều là người có tiếng. Đêm nằm chiêm bao, thấy một người đến nói rằng:
- Anh kết giao hầu khắp trong nước, nhưng toàn là bạn chơi phiếm. Duy có một người có thể cùng chia hoạn nạn, thì lại không hay.
- Người đó là ai?
- Điền Thất Lang chứ ai!
Võ tỉnh giấc lấy làm lạ, sáng ngày gặp bạn nào quen, cũng hỏi thăm Thất Lang là ai. Có người nói cho biết Thất Lang là thợ săn ở thôn Đông. Võ thân hành đến tận nhà, cầm roi ngựa gõ cửa; giây lát một người ở trong bước ra, độ hai mươi tuổi, lưng ong mắt báo, vận áo chẽn quần cụt, nhiều chỗ mạng vá, đứng chắp tay ngang trán, hỏi khách ở đâu tới. Võ tự khai tên họ và mượn cớ đi đường thấy khó chịu, muốn vô nghỉ nhờ cho đỡ mệt, nhân dịp hỏi Thất Lang. Người ấy đáp:
- Thất Lang là tôi đây.
Đoạn mời khách vào trong nhà. Võ thấy mấy gian nhà nát chống đỡ bằng cây. Vào một căn nhà nhỏ, trên vách treo đầy những da hổ báo, mà không có giường ghế chi để ngồi. Thất Lang trải tấm da cọp dưới đất, cùng Võ ngồi đàm đạo, lời lẽ thật thà. Võ nghe rất ưng bụng, liền đưa ra một món tiền, gọi là giúp chàng sinh kế.
Chàng không chịu lãnh. Võ nài ép mãi, chàng cầm tiền vô nhà trong nói cho mẹ hay. Lúc trở ra, lại đưa trả, nhất định không lấy. Võ ép đôi ba phen, chợt cụ già lọm khọm từ trong nhà bước ra, nghiêm sắc mặt nói:
- Già chỉ có vẻn vẹn thằng con đó, không muốn nó chơi với khách sang.
Võ thẹn ra về,, dọc đường suy nghĩ tới lui không hiểu ý bà cụ ra thế nào. Lúc nảy kẻ tùy tùng có dịp ra sau nhà nghe lõm được những lời bà cụ nói, giờ kể lại cho Võ hay.Nguyên lúc Thất Lang cầm tiền vô thưa mẹ, mẹ nói:
- Tao vừa dòm mặt công tử thấy có nám đen, tất sẽ gặp tai vạ lớn. Mẹ nghe cổ nhân có nói: được người ta biết đến thì chia sẻ điều lo, mang ơn của người ta thì phái gánh đỡ tai nạn. Giàu báo đáp bằng tiền, nghèo báo đáp bằng nghĩa. Nay vô cớ mà người ta cho được nhiều tiền, ấy là điềm chẳng lành. Mẹ e người ta sẽ đòi con đem cái chết ra báo đền ơn nghĩa đó.
Vì thế bà cụ khuyên con đừng nhận tiền.
Võ nghe chuyện, khâm phục bà cụ là người giỏi, lại càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang, qua hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang không đến, Võ đến tận nhà đòi uống rượu. Thất Lang mua rượu về thết đãi với nộm thịt nai, hết sức niềm nở theo lễ.
Cách ngày hôm sau, Võ lại mời tiệc, bấy giờ Thất Lang mới đến. Hai người uống rượu nói chuyện cực vui vẻ. Nhưng đem tiền ra tặng chàng vẫn không chịu lấy. Võ kiếm cớ đặt tiền để mua da cọp, chừng đó chàng mới chịu nhận, rồi từ biệt ra về.
Về nhà xem lại những tấm da cọp để dành, không đủ gán với số tiền, bèn nghĩ sự vào núi săn cọp mới có thể đủ số đem nạp cho Võ.
Vào núi luôn ba ngày không săn được gì. Lại nhằm hồi vợ lâm bệnh, phải ở chăm sóc thuốc men chẳng nghĩ tới việc săn bắn gì được. Ngót tuần vợ lại chết. Thất Lang phải lo việc ma chay, số tiền nhận phải đem tiêu xài gần hết. Võ đến nhà điếu tang, lễ phúng rất hậu.
Chôn cất vợ xong xuôi, Thất Lang lại mang nỏ đeo gươm lần mò vào núi, trong trí thiết tha về việc trả món nợ cho Võ. Nhưng rốt cuộc vẫn không săn được con cọp nào.
Võ dò biết ý tứ khuyên bảo đừng gấp, chỉ mong mời Thất Lang đến nhà chơi là vui, song Thất Lang băn khoăn về món nợ còn thiếu chưa trả được, nên chi nhất định không chịu tới.
Muốn buộc chàng phải đến. Võ đòi giao trước những tấm da để dành ở nhà cũng được. Thất Lang kiểm điểm da cũ, thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, trong lòng càng buồn.
Võ biết thế vội vàng đến nhà ân cần an ủi, rồi vào xem những tấm da cũ và nói:
- Da này cũng được, bản ý tôi không cần đủ cả lông mà.
Nói đoạn gỡ những tấm da xuống đem về, mời Thất Lang cùng đi chơi một thể. Chàng không chịu đi. Võ đành về một mình.
Luôn suy nghĩ về sự chưa trả đu số da cân với số tiền, lấy thế làm tấm tức, chàng lại gói lương khô, mang khí giới vào tận núi sâu. Rình mò mấy ngày đêm, hạ sát được một con cọp, để nguyên lông da, đưa nộp cho Võ.
Võ mừng, bày tiệc khoản đãi nài Thất Lang ở lại chơi luôn ba bữa với mình. Chàng khăng khăng từ chối. Võ sai gia nhân khóa chặt cửa ngõ để cầm chân chàng ở lại cho kỳ được.
Khách khứa bạn bè trông thấy Thất Lang thô kệch, thầm chê Võ công tử chọn bạn sai lầm, nhưng Võ săn sóc chiêu đãi Thất Lang hơn cả mọi người. Lại mang y phục mới nguyên cho chàng thay đổi, chàng không chịu. Võ thừa lúc chàng ngủ đem áo mới để bên, mà lấy áo cũ giấu đi. Cực chẳng đã chàng phải dùng mặc áo mới. Sau khi về nhà, vâng lời mẹ dạy, sai người đem áo mới trả lại và đòi áo cũ của mình về.Võ cười và nói với người thừa sai:
- Chú về thưa dùm với cụ rằng áo cũ đã lỡ cắt ra may lót giày rồi!
Từ đó, thường ngằy Thất Lang sai mang thịt thỏ, hoặc thịt nai đến biếu Võ, duy có mời đến chơi thì không đến nữa.
Một hôm Võ đến nhà Thất Lang, nhằm lúc chàng đi săn vắng, bà mẹ ra đứng tựa cửa nói:
- Từ nay xin ông chớ rủ rê con tôi nữa! Có ác ý gì đó vậy?
Võ rất kính lễ bà cụ, tự thẹn ra về.
Cách chừng nửa năm, gia nhân báo tin, Thất Lang vì tranh giành con heo săn được, mà đánh chết người ta, hiện đã bị giải lên quan rồi.
Võ nghe báo cả kinh, tức tốc đến quận nghe ngóng, khi chàng đã bị giam vào ngục rồi. Chàng thấy mặt Võ, không nói gì nhiều, chỉ dặn dò chăm nom giúp đỡ mẹ mình. Về nhà, Võ liền lấy ra nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm bạc nhét cho bên trên, cầu xin bãi nãi. Hơn tháng, xử vô tội, thả Thất Lang ra về. Bà cụ khẳng khái bảo con:
- Da thịt tánh mạng của con nhờ có Võ công tử mà còn, mẹ không có quyền chi nữa. Mẹ chỉ trông mong công tử suốt đời yên ổn không vướng họa chi, tức là cái phước cho con đó.
Thất Lang muốn đến tạ ơn Võ, bà mẹ lại nói:
- Con đến thì đến chớ có tạ ơn làm chi. Cái ơn nhỏ còn tạ được, chứ ơn to thì không tạ được đây!
Thất Lang đến nhà Võ, Võ tiếp rước niềm nở, Thất Lang chỉ vâng dạ lơ là, không đả động chi tới chuyện vừa qua. Người nhà Võ đều lấy làm lạ, cho là chàng sơ tình. Trái lại, Võ mừng tình ý thành đạt, càng đối đãi tử tế hơn.
Sau đó thường cách vài ba ngày, chàng lại ở chơi nhà công tử, hễ tặng món chi cũng nhận liền, không chối từ mà cũng không nói sự báo đáp.
Gặp ngày mừng sinh nhật của Võ khách khứa và bọn phục dịch tùy tùng đông quá, căn nhà chứa khách ngủ đêm đầy ứ. Võ và Thất Lang nằm trong căn nhà nhỏ. Ba người gia bộc lót rơm nằm ngay dưới chân giường. Qua canh hai, chúng đều ngủ kỹ, còn hai người vẫn nói chuyện chưa thôi.
Con dao của Thất Lang treo trên vách bỗng thò đầu ra ngoài vỏ đến mấy tác, nghe tiếng khua loảng xoảng, mà lưỡi dao lóe sáng như điện. Võ thất kinh, Thất Lang cũng chồm dậy hỏi ai nằm dưới giường.
Võ trả lời chúng nó đều là tôi tớ trong nhà. Thất Lang nói:
- Nội trong nhà này tất có đứa hung ác.
- Tại sao anh biết?
- Con dao này của tôi mua ở ngoại quốc. Nó giết người chưa từng thấm máu, họ nhà tôi đeo nó đã ba đời rồi, tính lại chặt đầu có tới số ngàn, mà vẫn bén tốt như mới rèn. Hễ có kẻ ác thì nó reo và nhẩy lên chắc chắn phải giết người đến nơi. Xin công tử nên thân người quân tử , xa kẻ tiểu nhân, họa chăng tránh khỏi tai vạ đến mình.
Võ gật đầu, Thất Lang vẫn ngậm ngùi chằng vui, cả đêm trằn trọc không ngủ. Võ nói:
- Chuyện lành chuyện dử đều do số cả, việc gì phải lo quá thế?
- Bất cứ chuyện nguy hiểm tới đâu tôi cũng chẳng sợ, chỉ băn khoăn còn có mẹ già thôi.
- Có lý đâu tai vạ đến nơi mà lo?
- Tôi trông đừng đến càng may.
Ba đứa gia bộc ngủ dưới giường là: Lâm nhi ở trong nhà đã lâu, Võ rất vừa ý; một thằng nhỏ sai vặt mới mười hai mười ba tuổi; một đứa nữa là Lý Ứng rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ mà cãi cọ với công tử luôn, khiến công tử phát giận vì nó.
Đêm ấy công tử nghĩ thầm có lẽ ác nhân là nó: cho nên tảng sáng gọi nó đến nói khéo dỗ về rồi đuổi nó đi.
Người con trường của công tử tên là Than, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm nhi ở coi nhà học giữa mùa cúc đang trổ hoa rực rỡ. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi khỏi nhà học vắng vẻ không ai, liền đến hái bông cúc. Lâm nhi chạy ra chòng ghẹo, nàng toan kêu lên, thì nó ôm đại vào trong nhà toan cưỡng hiếp. Nàng kêu khóc chống cự, đến nỗi xám mặt khản tiếng, Thân nghe chạy vào, Lâm nhi mới chịu buông nàng, rồi trốn đi mất.
Võ về nhà hay chuyện, nổi giận tìm Lâm nhi, nhưng không biết nó đi đằng nào. Qua hai ba bữa mới biết nó đã tới làm bộ hạ trong nhà ông Ngự sử nó. Ông ta làm quan ở kinh đô, việc nhà giao phó cho người em, Võ lấy tính thanh khí nói với nhau, viết thư đòi trả Lâm nhi. Người em ngự sử không trả, Võ càng tức, làm đơn lên huyện thưa.
Ông huyện có thảo trát đi bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi đến. Bấy giờ công tử cho người đến thăm dò tận nhà Thất Lang, thấy cửa đóng then cải, tứ bề vắng ngắt. Xóm giềng cũng đều không rõ tăm hơi của chàng.
Một hôm, người em Ngự sử đang ngồi trong tư thất ông huyện cùng nhau bàn chuyện riêng. Người chức việc đem hương bổng đến nộp. Bỗng dưng một người tiều phu xông tới trước mặt, đặt gánh củi xuống, rút dao nhọn ra chạy tới trước mặt Mỗ (tức là người em ông ngự sử) mà đâm. Mỗ hoảng sợ, đưa tay ra đỡ dao, dao chặt đứt cánh tay, tiều phu chém thêm nhát nữa đầu rơi xuống đất.
Ông huyện cả kinh chạy trốn. Tiều phu ngó dáo dác xem ông huyện chạy đường nào. Trong lúc đó bọn lính tráng và bọn chức dịch trong huyện, kịp đóng cửa ngõ, cầm dao vác gậy xúm lại vây bọc. Chú tiều phu tự biết khó thoát thân liền trở mũi dao tự đâm vào cổ chết.
Ai nấy xúm quanh nhìn mặt. Có kẻ nhìn biết đó là Điền Thất Lang.
Ông huyện lúc đó mới hoàn hồn hết sợ, trở ra phúc nghiệm, trông thấy Thất Lang nằm chết cứng giữa vũng máu lênh láng, tay vẫn nắm chặt dao nhọn.
Đột nhiên tử thi chồm dậy chém bay đầu ông huyện rồi lại ngã xuống.
Lính đến bắt bà mẹ Thất Lang nhưng bà mẹ đã trốn đi từ mấy bữa trước rồi.
Võ nghe Thất Lang chết, vội vàng đến nhìn mặt bạn khóc lóc cực thảm. Ai cũng bảo chính Võ chủ ý cho Thất Lang làm ra thảm sát này Võ bán hết điền sản để lo chạy quan, mới được vô sự.
Xác Thất Lang khiêng bỏ ngoài đồng, dầu dãi hơn ba chục ngày, các loài chim muông thay nhau canh giữ, Võ xin quan cho đem về tống táng rất hậu.
Đứa con Thất Lang trốn tránh đến Đặng Châu, đổi ra họ Đông, lớn lên đi lính, có nhiều công trận, được thăng dần dà tới chức đồng tri tướng quân. Khi ấy mới trở về Liêu Dương. Võ đã ngoài tám mươi, trỏ cho biết mồ mả thân phụ.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Dịch giả: Nguyễn Văn Huyền
Hoá quạ, lấy vợ thần
(Trúc Thanh)
Ngư Dung, quê Hồ Nam (người kể chuyện quên mất quận, huyện). Nhà anh ta nghèo lắm, đi thi bị trượt trở về, tiền lưng không còn một đồng dính túi, đói quá phải đi ăn xin. Anh ta vào tạm trú trong miếu Ngô Vương, bi phẫn mà khấn vái trước bàn thờ thần. Ra nằm ngoài hè, bỗng có một người dẫn đến yết kiến Ngô Vương. Người ấy quỳ tâu:
- Đội Hắc Y hiện nay còn thiếu một lính, xin cho người này sung vào cho đủ.
Ngô Vương phán được. Ngư được trao một tấm áo đen, mặc vào biến ngay thành quạ, vỗ cánh bay lên. Ra đến ngoài thấy bạn quạ tụ tập thành đàn theo nhau bay đi, phân ra từng bầy đậu trên các cánh buồm. Người trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không trung, đón đợi tranh thịt. Anh ta cũng bắt chước làm thế, lát sau đã no bụng, bay đậu trên ngọn cây, cũng tạm lấy làm mãn nguyện.
Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương tình Ngư Dung còn lẻ bạn, ghép cho một con mái tên gọi Trúc Thanh. Đôi vợ chồng mới thương yêu nhau lắm. Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng nguy hiểm. Trúc Thanh nhiều lần nhắc nhở khuyên lơn nhưng Ngư đâu có chịu để vào tai. Một hôm có một người lính đi thuyền qua, bắn cho một phát trúng bụng. May có Trúc Thanh kịp cứu, quắp mang đi, Ngư mới thoát nạn. Đàn quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng cuồn cuộn nổi lật úp con thuyền. Còn Trúc Thanh thì công mồi mớm cho Ngư. Ngư bị thương nặng, một ngày sau thì chết.
Ngư Dung thốt nhiên bừng tỉnh mộng, mở mắt ra thấy mình nằm trong miếu. Số là, trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ người thấy còn nóng chưa cứng, liền cử người thay nhau xoa bóp. Đến khi Ngư tỉnh dậy, họ hỏi rõ căn do liền góp tiền bạc giúp đỡ cho về quê.
Sau đó ba năm, Ngư lại qua chốn cũ, vào bái yết Ngô Vương. Rồi soạn bữa, gọi đàn quạ xuống ăn, khấn rằng:
- Trúc Thanh có đây, xin ở lại gặp!
Ăn no nê xong, đàn quạ bay đi mất.
Sau Ngư đỗ cử nhân trở về qua đây, lại vào bái yết miếu Ngô Vương, dâng cỗ thịt dê thịt lợn. Xong lại bày cỗ lớn mời tất thảy các bạn quạ, lại khấn như trước.
Tối hôm ấy, thuyền Ngư dừng chèo trên hồ. Chàng đang chong đuốc ngồi chơi, bỗng thấy như có một con chim sa xuống trước ghế, nhìn ra thì là một nữ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi tỉnh hỏi thăm:
- Từ khi chia tay đến nay, chàng vẫn mạnh giỏi?
Ngư kinh ngạc hỏi là ai? Đáp:
- Chàng không nhận ra Trúc Thanh ư?
Ngư mừng quá hỏi nàng từ đâu đến? Đáp:
- Ngày nay thiếp làm thần nữ sông Hán, ít khi có dịp về cố hương. Trước đây, bạn quạ hai lần kể lại tấm tình luyến ái của chàng, cho nên hôm nay đến họp mặt.
Ngư càng bồi hồi cảm động như đôi vợ chồng xa cách lâu ngày, vui thú yêu thương nồng nàn khôn xiết.
Hai người bàn chuyện, Ngư muốn đưa nàng xuôi Nam về quê mình. Nàng lại muốn cùng nhau sang Tây nơi nàng đang làm thần nữ. Ý kiến chưa ngã ngũ. Khi Ngư tỉnh ngủ, thấy nàng đã trở dậy rồi, chung quanh không còn là cảnh chật hẹp trên thuyền mà là một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng trưng. Chàng kinh ngạc trở dậy hỏi:
- Đây là đâu?
Nàng cười:
- Đây là Hán Dương. Nhà thiếp là nhà chàng, hà tất phải xuôi Nam.
Trời dần sáng. Kẻ hầu người hạ tề tựu. Rượu thịt đã bày. Hai vợ chồng lên giường cao cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi về người đầy tớ theo hầu mình ở đâu? Nàng đáp:
- Còn ở thuyền.
Ngư lo nhà thuyền không đợi được lâu. Nàng cho biết:
- Chàng đừng ngại. Thiếp phải giúp chàng bảo cho họ biết.
Thế là từ đó vợ chồng ngày đêm vui thú. Ngư quên cả chuyện về.
Lại nói, nhà thuyền tỉnh mộng bỗng thấy mình đã ở Hán Dương, hoảng sợ quá. Người đầy tớ của Ngư đi tìm chủ cũng chẳng thấy chủ đâu. Nhà thuyền muốn giong thuyền đi nơi khác thì chèo lái tự nhiên đã bị cột chặt, chỉ còn cách ngồi đấy trông thuyền.
Qua đi hơn hai tháng, Ngư bỗng động tình quê mới bảo nàng rằng:
- Tôi ở đây tuyệt đường thân thích. Vả tôi với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần nhận nhà cửa, họ hàng, vậy nên như thế nào đây?
Nàng đáp:
- Không nói đến chuyện thiếp không thể nào đi được, giả sử có đi được thì ở nhà chàng ắt phải có vợ, vậy sẽ xử sự với thiếp như thế nào? Chi bằng cứ để thiếp ở đây thành một phòng khác của chàng là được.
Ngư e ngại đường sá quá xa xôi, không thể năng lui tới. Nàng đưa ra một bộ áo đen, bảo chồng:
- Tấm áo cũ của chàng hãy còn đây. Khi chàng nhớ đến thiếp, cứ mặc áo này vào là có thể phút chốc đến được. Rồi thiếp sẽ cởi giúp ra cho.
Đoạn nàng sai bày tiệc lớn hoan tiễn, đủ các thức ngon lành, quý giá. Say rồi đi ngủ, khi tỉnh dậy Ngư đã thấy mình ở trong thuyền. Nhìn ra cảnh vật thì bến cũ Động Đình là đây. Nhà thuyền và người đầy tớ đều còn đủ ở đó. Thấy chàng bất chợt trở về họ cả kinh, xúm vào hỏi chuyện. Ngư nhớ lại việc vừa xảy ra, cũng không khỏi bàng hoàng.
Nhìn quanh, chàng thấy bên gối có cái bọc, giở ra xem thì đủ cả áo mới, giày thêu Trúc Thanh gói tặng, trong đó có tấm áo đen đã một thời thân thuộc. Lại thấy có cả một cái túi thêu có dây buộc thắt ngang, mở ra thấy đầy tiền bạc. Cứ thế giong buồm xuôi Nam, khi cập bến Ngư trả công cho nhà thuyền khá hậu.
Về nhà được mấy tháng chàng lại cháy lòng nhớ tới Hán Thuỷ, liền kín đáo giở tấm áo đen ra mặc. Tức thì đôi tay biến thành đôi cánh bay vút lên không. Chỉ độ vài khắc đồng hồ đã đến nơi mong nhớ. Bay liệng nhìn xuống dưới thấy giữa hòn đảo nhỏ đơn độc có một toà lâu đài, chàng liền hạ cánh xuống. Một thị tì nhanh mắt trông thấy đã vội reo lên:
- A! Quan nhân đã đến!
Loáng sau, Trúc Thanh đi ra, vội sai những người xung quanh cởi “áo” cho chàng, bộ lông bộ cánh đều trút ra hết. Hai vợ chồng nắm tay nhau bước vào nhà, nàng nhanh nhảu bảo:
- Chàng đến vừa khéo. Chỉ nay mai thiếp ở cữ.
Ngư hỏi đùa:
- Nàng đẻ thai hay đẻ trứng?
- Thiếp nay đã là thần, xương da đều đổi khác xưa kia rồi.
Mấy ngày sau quả nhiên nàng sinh nở. Bọc thai to như một quả trứng lớn. Xé vỏ ra là một cậu con trai. Ngư mừng lắm, đặt ngay tên là Hán Sản làm kỉ niệm. Ba ngày sau, các thần nữ Hán Thuỷ đem các vật quý lạ đến mứng. Đó là những cô nàng xinh đẹp, không quá ba mươi. Họ đều vào buồng, lấy ngón tay gí lên mũi thằng bé, gọi như thế là “tăng thọ”. Họ ra rồi, Ngư hỏi vợ:
- Đó là những ai vậy?
Đáp:
- Đều là bạn thiếp cả.
Ngư lưu lại vài tháng. Trúc Thanh sai đánh thuyền đưa chàng về quê. Thuyền không phải dùng buồm hoặc mái chèo mà cứ rẽ nước phăng phăng. Cập bờ, đã có người giữ ngựa đứng đợi sẵn, đưa cho chàng cưỡi về. Vì thế chàng cứ qua lại luôn luôn.
Mấy năm sau, Hán Sản lớn lên càng dĩnh ngộ. Ngư yêu quý lắm. Bà vợ họ Hoà ở quê khổ tâm vì nỗi không sinh nở, cứ khao khát được nhìn thấy Hán Sản. Ngư thuật lại nguyện vọng ấy cho Trúc Thanh nghe, nàng liền sắm sửa hành trang cho con theo bố về quê, hạn ba tháng phải quay lại.
Về đến nơi, Hoà thị yêu quý Hán Sản quá con đẻ, để hơn mười tháng không chịu cho về. Một hôm đứa bé đột nhiên mắc bệnh mất. Hoà thị xót thương tưởng chết. Ngư phải đi Hán Thuỷ báo tin, vừa bước vào nhà đã thấy Hán Sản chân trần nằm chơi trên giường, mừng quá vội hỏi Trúc Thanh. Nàng trả lời:
- Chàng lỗi hẹn lâu quá. Thiếp nhớ con không chịu được, phải tìm cách đưa nó về đây.
Ngư giãi bày, chậm là do Hoà thị quá mến con. Nàng hẹn:
- Thôi, đợi thiếp sinh nở tiếp rồi cho Hán Sản về hẳn quê.
Quả nhiên, hơn một năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái là Ngọc Bội. Ngư bèn dẫn Hán Sản về. Song mõi năm ba bốn lần đi lại thăm nom không được tiện, cho nên Ngư chuyển nhà luôn tới Hán Dương.
Hán Sản 12 tuổi vào học trường quận. Nàng cho là ở trần thế không có người đẹp, gọi con về Hán Thuỷ cưới vợ - tên là Hỗ Nương - cũng là con gái thần nữ, rồi mới cho trở về quê.
Sau Hoà thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang như mẹ đẻ. Tang lễ xong xuôi, Hán Sản lưu lại quê cũ còn Ngư Dung dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi hẳn không thấy trở về nữa./.







Dịch giả: Nguyễn Văn Huyền



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Nam Nam Thành Thần
( Vương Lục Lang)
Họ Hứa làm nghề đánh cá, nhà ở bắc thành Tuy Châu. Đêm đêm anh ta đem bầu rượu ra bờ sông kéo cá, mỗi lần uống rượu lại rưới một chén xuống đất lầm rầm khấn:
- Mời nam nam (ma chết đuối) uống rượu cùng ta.
Như thế trở thành thường lệ và hôm nào Hứa cũng đầy giỏ cá. Còn những người khác thì không được mấy.
Một đêm vừa giở rượu ra, có một chàng trai lảng vảng đi tới bên. Hứa sốt sắng gọi vào cùng uống. Tuần rượu có bạn, cảm khái say sưa kéo dài suốt đêm, nên không được con cá nào. Hứa có ý buồn phiền. Chàng trai đứng dậ nói:
- Để tôi xuống mạn dưới sông xua cá lên.
Nói rồi lãng đãng bước đi, lát sau trở lại bảo Hứa:
- Cá đã đến đấy!
Quả nghe có tiếng cá quẫy roàn roạt dưới sông. Hứa vội kéo vó lên, được liền mấy con cá dài hơn một thước (thước ta bằng 0,4m).
Hứa mừng quá, cảm tạ và muống đưa cá tặng chàng trai. Nhưng chàng ta không nhận:
- Đã từng mang ơn rượu ngon, kẻ hèn này chưa có gì báo đền, đâu dám nhận tạ. Nếu ông không ghét bỏ, xin cứ cho như thế này luôn luôn.
Hứa nói:
- Mới vừa mời nhau một chén rượu, sao nói là “đã từng”? Còn nếu anh có lòng muốn gặp gỡ lâu dài thì đó cũng là điều tôi mong muốn. Song tôi cũng lấy làm thẹn vì không có gì đáng kể để bày tỏ mối giao tình.
Hỏi đến tên họ, chàng ta nói:
- Tôi họ Vương, không có tên. Muốn gặp nhau, xin cứ gọi là “Vương Lục Lang”.
Từ biệt nhau, sáng ra Hứa đem bán cá, mua nhiều rượu hơn mọi khi. Tối đến, Hứa ra bờ sông đã thấy chàng trai lởn vởn ở đó. Hai người lại khề khà, chén chú chén anh. Được một chén, chàng ta đứng dậy đi xua cá cho Hứa.
Cứ thế nửa năm, một hôm Vương rầu rầu rầu bảo Hứa:
- Được quen biết nhau, mối thanh giao thân thiết như ruột thịt, ngày càng gắn bó. Nay sắp đến ngày phải từ biệt, nói ra mà đau lòng!
Hứa sửng sốt hỏi vì sao? Vương ngập ngừng định nói lại thôi, mãi sau mới bày tỏ được.
- Thân tình thế này có điều gì đáng ngại? Nay đến lúc từ biệt tôi xin nói rõ: tôi là ma nam nam. Thuở sinh thời tôi rất thích rượu, chết đuối vì say, hồn ma lẫn quất ở đây đã mấy năm rồi. Anh kéo được cá hơn mọi người là do tôi đuổi cá đến để đền ơn hàng đêm đổ rượu xuống đất cho. Ngày nay sắp có người làm ma ở đây, tôi được thác sinh làm người. Chúng ta chỉ còn gặp nhau đêm nay, cho nên không khỏi động lòng.
Hứa nghe nói là ma, trong bụng đã có ý kinh, song vì gần cận lâu ngày cho nên không thấy sợ, chỉ còn thương cảm, sụt sịt khóc, rót rượu mời:
- Lục lang! Anh hãy cạn chén rượu này cũng đừng cảm động quá làm gì. Hợp mặt với nhau chưa được mấy mà đã chia ly đôi ngả, ai chẳng buồn. Song anh đã mãn nghiệp chướng, chính là điều đáng mừng. Buồn vậy không nên!
Rồi cùng nhau nâng chén. Hứa hỏi kỹ:
- Người thay anh sắp tới đây là ai?
- Anh cứ ra bờ sông, trưa mai sẽ thấy, trưa mai sẽ thấy một người đàn bà qua sông rồi chết đuối. Người ấy thế chân tôi đấy!
Gà trong làng gáy sáng. Hai người nhỏ lệ chia tay.
Hôm sau Hứa ra bờ sông xem lời nói của Vương có ứng nghiệm không? Quả nhiên có một người đàn bà ẵm đứa bé sảy chân ngã xuống sông. Đứa bé văng lên bờ, quẫy chân, quờ tay, xệch mồm kêu khóc. Nguời đàn bà vật vờ chìm nổi mấy lần bỗng vùng vẫy mạnh tạt được vào bờ, trèo lên nằm vật ra đất. Chị ta thở mạnh một lúc, trở dậy bế đứa bé đi.
Lúc người đàn bà ngã xuống sông Hứa động lòng đã muốn nhảy xuống cứu. Chợt nhớ tới Lục lang, người này thế chân cho anh ta mãn kiếp, cho nên lại thôi. Khi người đàn bà tự lên được. Hứa cho là lời Vương không nghiệm. Đến tối, Hứa ra chỗ kéo vó thấy người bạn trẻ lò mò tới nói:
- Từ nay lại cùng nhau họp mặt tiếp không phải ly biệt nữa.
Hứa hỏi vì sao?
Đáp:
- Người đàn bà ấy sắp sửa thay tôi nhưng tôi cám cảnh cho chị ta còn đứa bé. Một người thay mà hại cả hai mạng thật không nỡ. Từ nay không biết đến bao giờ mới có người thế. Âu duyên hội ngộ hai ta chưa đến ngày dứt chăng?
Hứa cảm động than thở:
- Thật là một tấm lòng nhân hậu, có thể cảm thông đến thượng đế.
Hai người lại càng thân thiết chuốc ché. Chỉ vài ngày sau. Lục lang đến lại từ biệt. Hứa hỏi, đã có người thay chăng?
Đáp:
- Không phải. Việc nhỏ mọn hôm trước cảm động đến trời, nên nay có mệnh vời tôi đi xa làm thổ thần ở Ổ Trấn thuộc huyện Chiêu Viễn. Mai, tôi phải về châu nhậm chức. Vì anh không quên tình bạn cũ, xin mời anh đến thăm một chuyến, chớ hiềm đường xa cách trở.
Hứa lấy làm mừng cho bạn, song lại phân vân:
- Anh chính trực mà làm thần, thế đủ yên lòng thần dân. Còn việc tôi đi thăm thì thần với người cách xa trời vực, dù tôi không kiêng sợ song làm thế nào đến mà gặp mặt nhau cho được?
- Nếu có lòng đừng ngại điều đó.
Vương dặn kỹ càng năm bảy lượt mới chia tay. Hứa về nhà sắm sửa hành trang. Vợ cười bảo:
- Chiêu Viễn cách đây vài trăm dặm. Nhưng chỉ e đến nơi tượng đất không nói ra tiếng để mà nhận thì phiền.
Hứa bỏ ngoài tai, cứ đi, thẳng đến huyện Chiêu Viễn. Hỏi thăm, quả có ấp Ổ Trấn. Tìm đến nơi, mang hành lý gửi nhà trọ, hỏi thăm miếu thổ địa ở đâu, chủ nhà kinh ngạc hỏi ngay:
-Chắc hẳn ông khách họ Hứa?
- Đúng nhưng sao chủ biết?
Chắc hẳn khách đến chơi thăm ấp chúng tôi?
Hứa lại hỏi sao biết? Chủ nhà không trả lời, vội vã ra ngoài. Lát sau, một người đàn ông bế con tới, đàn bà con trẻ lấp ló đứng ngoài nhòm vào. Rồi cơ man nào là người tấp nập kéo đến đứng đông đặc ngoài cửa. Hứa lo sợ không hiểu ra sao. Họ cung kính thưa rằng:
- Trước đây mấy đêm. Thần bản địa đã báo mộng có người bạn họ Hứa ở Tuy Châu sắp đến thăm, phải sửa soạn đón tiếp giúp đỡ mọi thứ vật dụng hàng ngày. Vì vậy chúng tôi đã chờ từ bấy.
Hứa lấy làm lạ, liền tới miếu làm lễ khấn rằng:
- Từ sau khi chia tay tôi thức ngủ không yên cho nên không dám ngại đường xá, cho tròn hẹn trước. Thần còn báo mộng cho dân, nghĩa tình ấy ghi tạc trong dạ, riêng thẹn lễ vật không có chi đáng kể, chỉ xin có chén rượu này. Ví còn không ghét bỏ, xin lại cùng uống như những đêm cạn chén ở bờ sông.
Hứa khấn xong, đốt vàng đổ rượu. Liền đó, một trận gió nổi lên cuốn lễ vật đi mất. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy Lục lang tới, mũ áo óng ánh khác hẳn ngày trước, vái tạ Hứa rằng:
- Đường xa dặm thẳm, vất vả thăm nhau, thực là khó phân mừng tủi. Tôi nay ở vào chức mọn không tiện giáp mặt, thành ra chỉ trong gang tấc mà như cách trở núi sông thật là buồn dạ. Song đã có dân ấp khoản tặng lễ vật thay tôi đón tiếp. Khi nào trở lại nhà, tôi sẽ xin theo tiễn.
Được vài ngày Hứa muốn về. Dân làng khẩn khoản lưu lại, ân cần ngày đêm thay phiên nhau túc trực khoản đãi. Hứa cố từ tạ trở về. Họ truyền tin cho nhau tranh nhau đến gặp. Chưa tới nửa buổi, vật biếu mang tặng đã đầy túi. Từ người đầu bạc cho đến đứa trẻ để chỏm tụ tập đông nghịt tiễn đưa.
Hứa vừa ra khỏi thôn, một trận gió lốc nổi lên, cuốn theo đến mười dặm. Hứa đứng lại vài dặm mà khấn:
- Lục lang trân trọng quá, đừng phải mất công tiễn nhau xa thế. Lòng thần nhân ái có thể dành phúc cho cả một vùng không cần đến lời dặn dò của cố nhân nữa.
Trận gió còn quanh quất một hồi rồi mới tan đi. Dân làng thấy cũng bàng hoàng quay về. Từ đó gia tư nhà Hứa dần dần dư dật ít nhiều, không phải làm nghề đánh cá sinh sống như trước nữa.
Về sau, khi gặp người huyện Chiêu Viễn, Hứa hỏi thăm. Họ nói vị thần ấy linh thiêng lắm.
Lại có người nói đó chính là thổ thần ở tràng Thạch Thanh ấp Chương Khâu.
Chuyện thực ở đâu chưa rõ.
LỜI BÀN CỦA TÁC GIẢ
Thanh vân nhẹ bước mà không quên bạn nghèo hèn như thế mới là thần vậy. Ngày nay những kẻ cưỡi xe há có nhớ đến người bạn nón lá xưa cũ.
Quê tôi có người tên là Lâm hạ, nhà nghèo lắm. Có người bạn từ nhỏ nay giàu chức lớn, anh ta muốn đến thăm, cố sức lắm mới chê biện được hành trang, bôn ba hơn nghìn dặm. Đến nơi thất vọng về bạn thù tiếp, anh ta phải dốc túi bán ngựa mới trở về được nhà. Anh em họ hàng làm bài hát đùa rằng:





Tuần trăng đã đến, bác vừa về
Mũ lông đã mất dù che không còn
Hỏi đâu cái nghẽo * gầy mòn
Đôi giày há mõm có còn ở chân?



NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
* cái nghẽo: tiếng lóng chỉ ngựa



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
CAO XUÂN HUY dịch
Trương Thành
Người họ Trương ở đất Dự , tổ tiên là người nước Tề, cuối đời Minh, nước Tề có loạn to, vợ bị quân giặc cướp đem về Bắc. Trương vẫn thường lui tới làm khách đất Dự, bèn làm nhà luôn ở đó. Lấy vợ người Dự, sinh con trai tên là Nột.
Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai nữa tên là Thành. Vợ kế họ Ngưu, rất hung tợn, thường ghét Nột, nuôi Nột như đứa ở. Cho ăn toàn rau dưa hẩm hút. Sai đi chặt củi thì đòi hỏi cho được mỗi ngày một gánh. Nếu không thì roi vọt mắng chửi, không thể chịu nổi. Chỉ cất giấu những thứ ăn ngon ngọt cho Thành, lại cho vào trường tư để học.
Thành dần lớn lên, tính hiếu nghĩa, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên an mẹ, mẹ chẳng chịu nghe. Một hôm, Nột vào núi lấy củi, chưa xong việc thì gặp mưa to gió lớn, phải ẩn mình dưới vách núi. Hết mưa thì trời đã tối, bụng đói cồn cào, bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, giận dữ không cho ăn. Lửa đói đốt lòng, vào nhà nằm vật ra. Thành đi học về, thấy anh thờ thẫn, thì hỏi:
- Ốm sao?
Nột đáp:
- Đói thôi mà.
Thành hỏi nguyên do. Nột nói hết sự tình. Thành buồn rầu rồi đi ra. Một lúc sau đem bánh về cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra. Thành nói:
- Tôi lấy trộm bột, mướn chị hành xóm làm cho, hẵng cứ ăn đi, chớ nên nói gì cả.
Nột ăn xong dặn em rằng:
- Từ sau chớ làm như thế nữa, việc lộ thì liên lụy đến em. Vả lại, ngày ăn một bữa thì đói chức không chết đâu!
Thành nói:
- Anh đã yếu sẵn rồi, sao có thể hái nhiều củi được?
Ngày hôm sau, ăn xong, lén vào núi, đến tận chỗ anh làm củi. Anh trông thấy giật mình hỏi:
- Định làm cái gì thế?
Đáp:
- Định hái củi giúp anh.
Hỏi:
- Ai bảo em?
Đáp:
- Tự tôi đến mà thôi.
Anh nói:
- Không cứ là em không hái được, ví phỏng có hái được cũng không nên.
Thế rồi giục Thành về ngay. Thành không nghe cứ lấy tay bẻ củi giúp anh. Lại nói:
- Ngày mai em phải đem búa đi!
Anh đến gần bảo thôi, thì thấy ngón tay bị toạt, giày bị rách, buồng rầu bảo em rằng:
- Mày không về nhanh thì tao lấy búa tự chặt cổ chết đấy.
Thành bèn ra về. Anh đưa đến nửa đường, mới quay lại. Khi gánh củi về qua trường, dặn thấy học rằng:
-Em tôi còn nhỏ tuổi, nên răn cầm nó, kẻo trong núi nhiều hổ beo lắm!
Thầy nói:
- Trước giờ ngọ không biết nó đã đi đâu, đã cho ăn đòn rồi!
Nột về bảo Thành:
- Không nghe lời anh nên bị phạt roi rồi đấy!
Thành cười rằng:
- Không có đâu!
Ngày hôm sau, lại xách búa đi. Anh sợ hãi nói:
- Anh vẫn bảo em chớ đến đây, sao lại cứ thế?
Thành không trả lời, hối hả chặt củi, mồ hôi đầm đìa hai bên má vẫn không chịu nghỉ lấy một lúc, chừng đủ một bó, không nói năng gì trở ra về.
Thầy lại trách mắng Thành, bèn nói hết tình thực. Thầy khen là hiền, rồi cũng không ngăng cấm nữa.
Anh nhiều lần bảo thôi, cuối cùng Thành cũng chẳng nghe.
Một hôm đang cùng mấy người làm củi trong núi, bỗng có hổ đến. Mọi người sợ hãi trốn nấp hết cả, hổ liền tha Thành đi. Hổ mang người nên đi thong thả, bị Nột đuổi kịp. Nột ra sức giáng một búa trúng vào đùi. Hổ bị đau chạy lồng lên, không sao đuổi kịp nữa, đành chỉ đau đớn khóc lóc mà trở lại. Cả bọn khuyên dỗ an ủi, khóc càng thảm hơn, nói:
- Em tôi chẳng phải như em người khác; huống chi nó vì tôi mà chết, tôi sống làm sao được?
Bèn lấy búa tự chặt vào cổ. Mọi người vội cứu thì đã ngập vào thịt đến gần một phân, máu vọt ra lênh láng, mắt hoa muốn chết. Ai cũng khiếp, bèn xé áo buộc cho anh ta, rồi cả bọn cõng về.
Bà mẹ khóc lóc mắng rằng:
- Mày giết con ta, lại muốn chặt cổ, để liếm lấp hay sao?
Nột rên rỉ nói:
- Xin mẹ chớ phiền não, em chết, nhất định tôi chẳng sống nào!
Đặt lên giường, vết thương đau đớn không sao ngủ được. Ngày đêm chỉ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ con cũng chết nốt, thường đến bên giường bón cho ăn chút ít, Ngưu thị liền nhiếc mắng. Nột không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết.
Trong làng có thầy đồng rí (3); vong hồn Nột đi trên đường gặp thầy, bèn tỏ bày nông nỗi khổ sở mấy ngày trước đây, nhân hỏi chổ ở của em. Thầy đồng nói: “Không nghe tin gì”. Thế rồi quay lại đưa đường cho Nột đi. Đến một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen từ trong thành đi ra. Thầy đồng đón đường rồi thay Nột hỏi thăm Thành. Người áo đen xem kỹ lại tập trát ở trong túi đang treo, đàn ông đàn bà có hơn trăm, nhưng không có tội phạm nào họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trác khác chăng. Người áo đen nói:
- Con đường này thuộc về tôi, sao có thể bắt lầm được!
Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma mới, ma cũ qua lại nộn nhạo. Cũng có người quen biết cũ, đến hỏi, không ai biết cả.
Bỗng nhiên ai nấy cùng nhao nhao lên: “Bồ Tát đến!” Ngẩng lên nhìn, thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ từ trên xuống dưới, vụt cảm thấy như thế giới trong trẻo sáng bừng.
Thầy đồng mừng nói rằng:
- Cậu cả có phúc thay! Bồ Tát mấy mươi năm mới xuống âm ty một lần để nhổ sạch mọi khổ não. Vừa đúng hôm nay được gặp!
Liền kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ lúc nhúc ngổn ngang, chắp tay nhất tề tụng niệm: “Từ bi cứu khổ”. Tiếng vang chấn động mặt đất.
Bồ Tát lấy cành dương, rưới nước cam lộ khắp mọi nơi, hạt li ti như bụi. Một lát, sương mới tan, hào quang thu lại, thì không thấy đâu nữa. Nột cảm thấy trên cổ thấm nước cam lộ, chỗ vết búa không còn đau. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về. Trông cổng làng, thầy mới từ biệt mà đi.
Nột chết đã hai ngày, bỗng nhiên sống lại, bèn thuật hết những gì mình đã gặp, vào bảo rằng Thành chưa chết. Bà mẹ cho rằng đặt điều nói láo, lại chửi mắng Nột. Nột mang oan mà không thể tự giải bày. Sờ đến vết thương thì đã lành. Đành gượng dậy, lạy cha mà nói rằng:
-Con băng mây vượt biển tìm em. Như mà không thấy, thì thân này hết mong trở lại, xin cha cứ coi như là con đã chết.
Ông đưa con ra chỗ vắng, cùng nhau khóc lóc không dám giữ con lại. Nột ra đi, thường đến những con đường lớn để hỏi tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm đến Kim Lăng, quần áo rách xơ, buộc túm trăm múi lọm khọm trên đường. Ngẫu nhiên trông thấy hơn mười người cưỡi ngựa đi qua, Nột tránh sang bên đường. Trong đó có một người như quan lớn, tuổi chừng bốn mươi trở lại, lính hầu lực lưỡng, ngựa hung hăng rộn rịp trước sau. Một thiếu niên cưỡi ngựa nhỏ, nhìn Nột nhiều lần. Nột cho là một vị công tử con quan, chưa dám ngẩng nhìn, thì thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, rồi bỗng xuống ngựa gọi to:
- Có phải anh ta đó không?
Nột ngước đầu nhìn kỹ thì ra là Thành. Liền nắm lấy tay em, đau đớn quá, khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc và nói:
- Anh sao phải xiên bạt đến nỗi này?
Nột kể hết sự tình, Thành càng thêm âu sầu. Những người cưỡi ngựa đều xuống, hỏi duyên cớ rồi bẩm lại với quan lớn. Quan lớn truyền bớt ra một con ngựa để chở Nột, dong cương về đến nhà, rồi mới hỏi chuyện tường tận.
Trước đây, hổ tha Thành đi, đặt ở bên đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Vào lúc ông Trương Biệt Giá từ kinh đô đi đến, ngang qua chỗ Thành nằm, thấy mặt mày nho nhã, thương xót đến vực lên, vỗ về, Thành dần dần sống lại. Nói nhà cửa quê quán, thì đã đi quá xa. Vì thế bèn chở Thành cùng về, lấy thuốc đắp vào chỗ bị thương, vài ngày thì khỏi. Biệt Giá không có con trai bèn nhận Thành làm con. May hôm đó gặp buổi Thành theo bố nuôi đi dạo chơi ngắm cảnh.
Thành kể lại với anh đầy đủ mọi việc; vừa xong. Biệt Giá đi vào. Nột lạy tạ không thôi. Thành vào nhà trong, mang áo lụa ra biếu anh, rồi bày tiệc rượu, trò chuyện tự tình.
Biệt Giá hỏi:
- Họ nhà ta, ở tại Dự có bao nhiêu đinh?
Nột nói:
- Không ạ, cha tôi lúc bé người đất Tề, đến cư ngụ ở đất Dự.
Biệt Giá nói:
- Tôi cũng người Tề, quê nhà ta thuộc làng nào?
Nột đáp:
- Từng nghe cha tôi nói thuộc hạt Đông Xương.
Biệt Giá kinh ngạc hỏi:
- Thế tôi cũng cùng làng, vì sao lại dời đến Dự?
Nột nói:
- Cuối đời nhà Minh, quân Thanh vào biên giới bắt cóc bà mẹ già đem đi. Cha tôi gặp loạn đao binh, trôi dạt không nhà không cửa. Trước đây từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen, vì thế mà ở lại đó.
Biệt Giá kinh sợ hỏi:
- Cụ nhà ta tên là gì?
Nột nói cho biết, Biệt Giá tròn mắt nhìn, rồi cúi đầu như nghi ngờ, rảo bước mau vào nhà trong. Không bao lâu, thái phu nhân ra, tất cả đều lạy chào. Xong hỏi Nột rằng:
- Maỳ có phải là cháu của Trương Bỉnh Chi chăng?
Nột đáp: “Phải”
Thái phu nhân khóc lớn, bảo Biệt Giá rằng:
- Đây là em của mày.
Anh em Nột chưa hiểu thế nào. Thái phu nhân nói:
- Ta lấy cha chúng mày ba năm, lưu lạc sang bắc, thân mình thuộc về Hắc Cố Sơn, được nửa năm, sinh anh mày, lại nửa năm nữa, Cố Sơn chết, anh mày nhờ bổ trật trong quân ngũ mà chuyển dần lên chức quan này. Bây giờ không làm quan nữa, không một giờ khắc nào là không tưởng nhớ quê hương. Bèn ra sổ tịch lấy lại họ cũ. Đã nhiều lần cho người đến đất Tề, mà không chỗ nào tìm thấy âm hao gì cả. Nào có biết đâu cha chúng mày đã dời sang miền tây.
Rồi nói với Biệt Giá rằng:
- Mày nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi.
Biệt Giá nói:
- Hồi trước có hỏi Thành, Thành chưa từng nói là người Tề, cứ nghĩ còn bé dại, nên không nhớ.
Bèn dựa vào tuổi để xếp đặt lại: Biệt Giá bốn mươi mốt tuổi, làm anh cả, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi hai tuổi là anh cả mà thành anh hai.
Biệt Giá được hai em mừng quá, nằm ngồi cùng có nhau, nên biết tận cội nguồn mọi nguyên do chia lìa lưu lạc, và toan tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung chăng. Biệt Giá nói:
- Dung được thì ở cùng nhau, nếu không thì ở riêng ra, chứ trong thiên hạ, có nước nào mà lại không có tình cha con?
Rồi đó bán đất, bán nhà sắm sửa hành lý, định ngày đi về tây. Khi đến đầu làng, Nột và Thành dong ruổi về trước, báo tin cho bố biết. Ông bố từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết. Chỉ còn trơ trọi một ông lão góa, người và bóng đối nhau.
Bỗng nhiên thấy Nột vào, bội phần mừng rỡ, thảng thốt giật mình. Lại thấy Thành thì mừng quá đỗi, không nói được gì, nước mắt ràn rụa. Lại được tin mẹ con Biệt Giá cũng đến. Ông dừng khóc ngạc nhiên không ra vui, cũng không ra buồn, đứng ngây như phỗng. Không bao lâu Biệt Giá vào, lạy chào xong thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Đã thấy con hầu vú già, người giữ ngựa đầy tớ trong ngoài chật ních, đứa đứng đứa ngồi không còn biết như thế nào.
Thành không thấy mẹ liền hỏi, mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đựt hơi, một lúc tỉnh lại.
Biệt Giá đem tiền của ra xây dựng lầu gác, mời thầy dạy học cho hai em.
Ngựa nhảy trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.


CAO XUÂN HUY dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Nối Giấc kê Vàng
(Tục Hoàng Lương)
Mới đỗ ông nghè đã tự kiêu
Càng nghe tâng bốc lại như diều
Nồi kê tích cũ không chi lạ
Giấc mộng giàu sang só bấy nhiêu.





Ông cử họ Tăng, người Phúc Kiến, lúc vào kinh đô thi đỗ tiến sĩ vừa xong, cùng hai ông bạn tân khoa đi chơi ngoài thành. Chợt nghe trong chùa Bi Lô có một thầy xem số tử vi ở trọ, liền rẽ ngựa tới đó bói một quẻ.
Tăng vào, nghênh ngang tự ngồi chẳng đợi ai mời chào. Thầy tướng thấy người có vẻ tự đắc, bèn kiếm lời nịnh hót thâm. Tăng cầm quạt phe phẩy, mỉm cười hất hàm hỏi thầy tướng coi mình có số mệnh mặc mãng bào, đeo đai ngọc triều phục của tể tướng không?
Thầy tướng nghiêm trang nói Tăng sẽ làm Tể tướng yên ổn trong hai mươi năm. Tăng mừng lắm, vẻ mặt càng kiêu. Nhằm lúc trời mưa nhỏ bèn nhủ bạn vào trong chùa nhà thầy tạm ẩn. Một vị sư già, mũi cao mắt lõm, ngồi trên nệm cỏ, ngạo mạn không chào hỏi gì. Mấy người giơ tay chào qua loa, rồi tự leo lên giường ngồi nói chuyện với nhau. Ai nấy đều mừng Tăng là tể tướng. Tăng càng nở mũi tự kiêu trỏ bạn đồng du mà nói:
- Lúc nào tôi làm tể tướng, tôi cử Trương huynh làm tuần phủ một tỉnh miền nam; ông anh cô cậu với tôi làm chức tham du; lão bộc nhà tôi cũng được chức thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện.
Mọi người cười vang. Kế bên ngoài mưa như trút nước, Tăng mệt mõi, ngã người lên giường mà ngủ.
Bỗng thấy hai vị trung sứ đem tờ chiếu chỉ của thiên tử viết tay, đến vời Tăng tể tướng vào triều bàn định việc nước. Tăng khoái chí lật đật vào chầu. Ngài Ngự bước ra nghênh tiếp hỏi han niềm nở giây lâu, rồi truyền cho Tăng được tự quyền bổ các quan tam phẩm trở xuống; lại ban cho mãng ngọc và ngựa quý. Tăng mặc áo mãng bào, mang đai ngọc cúi đầu lạy tạ ơn rồi đi ra.
Về nhà thì thấy nhà mình ở cũ bây giờ là dinh thự, cột chạm cửa sơn, rất mực lộng lẫy, đến nỗi chính Tăng cũng không hiểu vì đâu mình chóng vinh hiển đến thế này. Chỉ biết giờ phút này cất tiếng khẽ gọi, đã nghe những tiếng vân dạ vang như sấm dậy. Rồi thì các quan công khanh đem biếu sơn hào hải vị, tấp nập ngoài cổng. Các quan lục khanh (tức lục bộ thượng thư) tới thăm thì Tăng còn đứng dậy chào mời; hạng thị lang thì xá và nói chuyện với, còn từ hạng đó trở xuống, Tăng chỉ trả lời bằng cái gật đầu mà thôi.
Tuần phủ Sơn Tây gửi tặng một phường nữ nhạc mười người đều là gái mỹ miều son trẻ. Đẹp nhất Niễu Niễu và Tiên Tiên, hai người càng được yêu quý, hầu hạ vấn tóc gội đầu, ngày ngày đàn hát làm vui.
Một hôm nhớ lại hồi còn hàn vi, thường được một thân sĩ trong làng là Vương Tử Lương giúp đỡ nay mình đã chót vót mây xanh, mà ông còn lênh đênh trên đường sĩ hoạn, sao không đưa tay dìu dắt ông ấy một phen?
Sáng hôm sau, Tăng dâng sớ tiến cử Vương làm chức Gián nghị, liền được vua giáng chỉ bổ dụng ngay.
Lại nghĩ Quách thái bộc từng trợn mắt gây gổ với mình liền mời bọn Lữ cấp gián và thị ngự Trần Xương tới, mách bảo ý tứ; rồi ngày hôm sau bọn ấy kế tiếp nhau dâng sớ kể tội Quách Thái bộc làm cho ông này bị cách chức và bị đuổi về vườn.
Xong việc ân đền oán trả, Tăng hơi mát lòng khoái ý.
Bữa nọ quan tể tướng đi chơi ngoài thành, một anh chàng say rượu đi loạng choạng thế nào đụng vào cờ quạt giàn hầu của ngài, ngài liền thét lính trói cổ và giải đến dinh phủ doãn kinh thành. Lập tức anh ta bị đánh đòn đến chết.
Những người có nhà cửa nguy nga, ruộng nương bát ngát đều sợ quyền thế mà dâng đất đai màu mỡ. Từ đó Tăng càng trở nên giàu có.
Không bao lâu Niễu Niễu và Tiên Tiên kế tiếp nhau qua đời. Tăng khuya sớm bâng khuâng, chợt nhớ lại năm nọ, mình trông thấy cô gái ở xóm đông tuyệt đẹp, thường ao ước mua nàng về làm hầu thiếp nhưng vì hồi đó còn nghèo nàn chẳng được như nguyện. Bây giờ có địa vị cao sang, muốn sao được vậy, liền sai mấy đứa tôi tớ giỏi đem tiền đến ấn đại vào nhà nàng mà bắt nàng đi. Một lúc, võng khiêng nàng về dinh. Tăng trông thấy so sánh với khi mình trông thấy ngày trước, giờ nàng càng đẹp hơn. Nghĩ lại bình sinh như vậy đủ mãn nguyện.
Hơn một năm, xem ra các quan trong triều có ý thầm thì bàn tán, trong bụng chê bai, nhưng chẳng ông nào dám nói ra miệng.
Tăng thấy vậy càng vênh váo nghênh ngang, chẳng thêm bận lòng chú ý.
Có quan long đồ học sĩ họ Bao, dâng sớ hạch tội Tăng đại lược như sau:
- “Thiết nghĩ: Tăng mỗ nguyên là một đứa rượu chè cờ bạc đàng điếm tiểu nhân, một lời nói hợp ý mà được hoàng thượng tin dùng, cha con vẻ vang, ơn huệ tột bậc. Thế mà chẳng nghĩ làm sao dốc lòng hiến thân, báo đáp ơn vua trong muôn một; lại dám lòng dạ buông lung, tự tiện làm điều oai, phúc, cái tội đáng chết, nhổ tóc mà đếm không đủ.
“Danh vị quý báu của triều đình coi như món hàng đem bán lấy tiền làm giàu, tha hồ so đo gầy béo, đánh giá hơn thua, vì đó mà công khanh tướng sĩ đều phải luồn lọt tới lui nhà hắn, tính toán lo lót, như tuồng bán buôn, núp bóng nhờ hơi kể sao cho xiết. Hoặc có người là hạng kiệt sĩ hiền thần, không chịu a dua theo hắn, nhẹ thì đuổi về vườn còn nặng thì giáng xuống làm lính. Rối đổi không về hùa với hắn, liền bị buộc tội hươu vượn không đâu, đày đi những chốn hùm beo xa lắc. Nhân sĩ thấy mà lạnh mình, triều đình hóa ra cô lập.
“Lại còn máu mỡ của dân, tha hồ bóc lột, con gái lương thiện ép uổng làm hầu; đến nỗi tiếng oán than dậy, khí uất xông lên, mặt trời cũng phải vì đó mà u ám.
“Tôi tớ của hắn đi tới đâu, thì quan lại địa phương phải nể mặt, thư từ của hắn gửi tới đâu thì người cầm quyền tư pháp ở đó phải làm trái phép cho được chiều lòng. Có khi con cái bọn nấu ăn, giữ ngựa cho hắn, hoặc là bà con đi đâu cũng hạch sách ngựa trâu, hò hét như sấm vang gió bão, hễ điạ phương cung cấp hơi trễ, là roi vọt lập tức ra oai. Thôi thì chúng ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, thầy trò đi tới chỗ nào thì đồng ruộng chỗ ấy không còn một ngọn cỏ xanh.
“Trong khi đó, Tăng mỗ vênh mặt ỷ mình đác thế, không chút ăn năn; khi ở trong triều đình thì giả dối xảo trá trước mặt nhà vua, chưa về tới nhà thì đàn ngọt hát hay đã chờ sẵn. Thanh sắc cẩu mã ngày đêm hoang dâm, quốc kế dân sinh không chút lo nghĩ, ở đời há có thứ tể tướng nhu vậy ư?
“Vì thế, trong ngoài xôn xao, nhân tâm hồi hộp, nếu không kịp trị bệnh bằng hình phạt búa rìu, thể tất gây nên cái họa Tháo Mảng cướp nước. Hạ thần sớm tối lo lắng, không dám có lúc nào ăn ngon ngủ yên, liều chết đề ra các khoản trên đây, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong thánh thượng ra lệnh chém đầu gian nịnh, tịch của tham ô, hầu trên hợp ý trời, dưới khoái lòng dân. Nếu xét ra thần bày đặt chuyện, thì dao búa vạc dầu xin làm tội thần lập tức. v.v....”
Sớ này dâng lên vua, Tăng nghe hồn xiêu phách lạc, lạnh mình như uống băng; nhưng may nhờ vua khoan dung, xem sớ bỏ đó, không hỏi gì cả.
Tiếp đến các quan trong triều, ngoài quận thi nhau dâng sớ hạch tội trạng của Tăng. Ngay bọn xưa kia xin làm đồ đệ, thờ kính bằng cha, nay cũng đổi lòng trở mặt, theo hùa hạch tội như thường.
Bấy giờ vua mới giáng chỉ tịch thu gia sản và bắt Tăng đi làm lính Vân Nam. Người con y làm thái thú quận Bình Dương, triều đình cũng sai quan ra tận nơi xét hỏi.
Tăng ở nhà nghe tin con, đang kinh hoảng đau xót thấy có mấy người võ sĩ, nách gươm tay mác, vào thẳng buồng, lột áo mão cũa Tăng, trói chung với vợ. Tiếp thấy bọn lính chuyển vận của cải trong nhà ra ngoài sân, vàng bạc tiền nong đến mấy trăm vạn; hột châu ngọc quý có đến mấy trăm hộc, những thứ chăn màn giường chiếu cũng mấy ngàn món. Đến nỗi những áo lót trẻ con và giày tất đàn bà rơi vãi lung tung ở trên thềm. Tăng nhất nhất trông thấy như đâm vào tim vào mắt.
Giây lát một người lính túm cổ nàng hầu đẹp của Tăng lôi ra, đầu bù miệng mếu, mặt ngọc tái xanh khiến Tăng càng bi thảm như lửa đốt ruột gan, nhưng nén tủi nuốt thương mà không dám nói.
Rồi thì lâu đài kho vựa, niêm phong đâu đó xong xuôi, võ sĩ mới thét Tăng ra đi. Người cầm đầu toán áp giải lôi kéo bắt đi thật mau.
Vợ chồng Tăng thổn thức lên đường; lúc này cầu lấy một con ngựa xoàng, cỗ xe xấu cho đỡ mỏi chân cũng không thể được.
Đi được ngoài mười dặm vợ mỏi chân, đuối sức loạng choạng muốn ngã, Tăng đưa một tay ra nâng đỡ vợ. Lại đi hơn mười dặm nữa, chính mình cũng mổi mệt hết hơi; xa trông thấy những ngọn núi cao ngất mây xanh, tự lo không thể trèo nổi. Chốc chốc lại nắm tay vợ nhìn nhau khóc sướt mướt nhưng chủ cai trợn mắt ra oai, không cho ngừng một tí nào khả dĩ ngủ đỡ, cực chẳng đã, vợ chồng níu nhau, cà nhắc đi từng bước.
Khi đến sườn núi vợ đã kiệt sức, ngồi phịch bên đường mà khóc. Tăng cũng đánh liều ngồi nghỉ, mặc kệ chủ cai mắng chửi.
Bỗng nghe trăm tiếng nổi lên ồn ào, một tốp trộm cướp vác giáo dài , dao nhọn nhảy qua lề đường mà tiến đến trước mặt. Chủ cai hoảng sợ bỏ chạy, Tăng quì mọp nói với bọn chúng rằng mình làm quan bị cách chức và đi đày xa, trơ trọi một thân, trong hành lý chẳng có tài vật gì đáng giá, năn nỉ chúng tha cho làm phúc.
Bọn cướp trợn mắt nói:
- Tụi tao là bọn lương dân bị hại, chỉ lấy cái đầu thằng nghịch tặc mà thôi, ngoài ra không đòi hỏi gì hết.
Tăng nổi giận:
- Tao dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ bay là lâu la giặc cỏ, sao dám hỗn xược như thế?
Bọn cướp nổi xung, huơ búa lớn chặt cổ Tăng, nghe đầu rơi xuống đất một tiếng huỵch.
Hồn vía đang hãi hùng bỡ ngỡ liền có hai quỷ sứ đến nắm lấy tay lôi đi. Đi mấy khắc đồng hồ, vào một nơi đô hội. Giây lát trông thấy một tòa cung điện trang nghiêm, trên điện có một vị vương giả mặt mày dữ tợn, ngồi chiễm chệ xét xử tội phúc. Tăng khúm núm ngồi xuống đợi lệnh.
Vương giả mở tập hồ sơ ra xem qua mấy hàng, bỗng thịnh nộ thét lớn:
- Thằng này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu.
Lũ quỷ dạ ran, muôn miệng họa theo, tiếng như sấm sét.
Tức thời có những quỷ cao lớn chặn lại, túm cổ Tăng lôi xuống giữa sân, thấy cái vạc dầu cao chừng bảy thước bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run rẩy kêu gào, muốn chạy trốn cũng chẳng được, quỷ lấy tay trái nắm lấy tóc, tay mặt xách cẳng đưa bổng Tăng lên mà ném vào vạc dầu. Tăng thấy mình tùy theo dầu sôi mà nổi lên chìm xuống, da thịt cháy bỏng, đau buốt đến tận tim, dầu sôi vào miệng, phanh xé ruột gan, ý muốn cho mau chết nhưng lại không chết liền cho. Phỏng chừng xong xuôi bữa ăn, quỷ mới cầm cây nĩa lớn khều Tăng ra ngoài, lại đặt dưới thềm.
Bấy giờ Vương giả lại kiểm sổ sách, nổi giận và nói:
- Nó cậy thế hiếp người, phải xử phạt núi đao phanh thây xé các nó mới xứng.
Quỷ lại lôi Tăng đi, đến chỗ thấy một trái núi không to lớn lắm nhưng đá mọc dựng đứng chung quanh có đao nhọn đâm ra ngang dọc tua tủa, như những khóm măng dày kiến. Đã sẵn có có mấy người bị đâm bụng thọc ruột đang vướng trên đó, nghe tiếng họ kêu gào và trông thấy cảnh tượng mà thương tâm thảm mục. Quỷ giục Tăng leo lên. Tăng khóc rống lùi trở lại, quỷ cầm đùi nhọn đâm vào óc, Tăng đau quá, kêu lên van nỉ, khiến quỷ nổi giận, chụp lấy Tăng rồi ra sức tung bổng lên không.
Tăng thấy mình lơ lửng trên không, rồi rơi xuống một bụi gai, mũi dao nhọn đâm thẳng vào bụng, đau đớn không sao tả xiết. Giây lát vì thân thể nặng nề, thành ra lổ dao đâm dần dà khoét rộng, rồi mới rớt xuống đất, chân tay rúm lại.Quỷ lại dẫn vào trước mặt vương giả.
Vương giả sai người tính sổ coi một đời Tăng bán chức buôn danh, cướp đơạt của cải thiên hạ, cộng lại số tiền là bao nhiêu? Tức thời, cón 1 rậm râu đứng gảy con toán rồi đáp: “Hết thảy là ba trăm hai mươi tư muôn”.
Vương giả nói:
- Nó đã chứa vào, giờ bắt nó phải uống đi.
Một lát, bầy quỷ khiêng vác tiền bạc ra xếp đống dưới thềm, cao như gò núi. Đoạn, bỏ lần vào trong nồi gang, chất lửa mà nấu cho hóa ra nước.
Mấy đứa quỷ sứ thay phiên nhau lấy gáo múc nước ấy đổ vào miệng Tăng tràn qua hai má thì da thịt cháy xèo xèo, vào tới cuống họng thì ruột gan sôi lên sùng sục. Sinh thời chỉ lo cái vật ấy thu vào ít, bây giờ lại sợ nó đến mình quá nhiều.
Công việc uống vàng bạc tới nửa ngày mới xong. Vương giả sai người áp giải Tăng đi Cẩm Khâu, chuyển sinh làm con gái.
Đi độ vài bước, thấy trên giàn cao, gác một cây dầm bằng sắt, chu vi độ mấy thước, buộc một bánh xe khổng lồ, rộng lớn không biết là mấy trăm dặm, sáng lòe năm sắc, chiếu rọi mây xanh. Quỷ cầm roi vụt Tăng, bắt phải leo lên bánh xe ấy. Tăng vừa nhắm mắt leo lên thì bánh xe quay tít, dường như bị té rơi xuống, khắp thân thể mát lạnh, té ra đã hóa làm đứa trẻ sơ sinh, mà lại là con gái.
Rồi nhìn tới cha mẹ, thì áo rách quần lành, ở trong lều tranh vách đất, bị gậy treo kia, bấy giờ Tăng mới tự biết mình đã chuyển sinh làm con kẻ ăn mày.
Lớn lên, ngày ngày đi theo lũ trẻ đồng bối ăn mày ăn xin khắp nơi. Cái bụng lép kẹp, không một bữa nào được ăn no, mình mặc áo rách tả tơi, gió thổi lạnh buốt thấu xương. Năm mười bốn tuổi, cha mẹ đem bán làm nàng hầu. Ông tú tài họ Cố, tuy cơm áo hơi đủ no ấm, nhưng phải người vợ lớn độc dữ, hàng ngày roi vọt đánh đập luôn tay, lại nung sắt đỏ mà đốt vú. May được ông chồng khá thương yêu, cho nên tự an ủi đôi chút. Xóm bên đông có một thiếu niên hung tợn leo tường sang nhà, ép phải giao hoan với nó. Nàng tự nghĩ kiếp trước của mình làm nên tội ác những gì, để bị quỷ sứ hình phạt đáo để rồi, có lý đâu kiếp này lại phải chịu nhơ nhuốc lép vế thế này nữa, nàng bèn kêu cứu ầm lên. Chồng và vợ lớn vùng dậy, tên thiếu niên kia mới chạy trốn.
Không bao lâu, một đêm ông tú qua buồng nà nằm ngủ, đầu ấp tay gối, nàng đang rủ rỉ kể nỗi oan khổ của mình cho chồng nghe, bỗng dưng có tiếng thét vang cửa buồng mở toang, hai tên côn đồ xách dao áp vào chặt đầu ông tú rồi vơ vét áo xống đồ vật mà đi. Nàng cuộn tròn trong chăn, không dám ho he. Bọn côn đồ đi rồi, mới kêu la ầm và chạy qua buồng vợ lớn. Chị này cả kinh, ôm thây chồng khóc lóc, nghĩ nàng đưa tình nhân đến giết chồng bèn làm đơn trình quan thứ sử bản hạt.
Nàng bị bắt và bị tra tấn đau quá, buộc phải nhận tội. Quan kết án lăng trì ( lóc từng miếng thịt) xử tử.
Lính trói ra chỗ hành hình, trong bụng nàng nghẹn ngào nỗi mình oan uổng, vừa đi vừa la trời cho rằng trên trần dưới âm, không có tình cảnh nào đen tối hơn thế này. Đang lúc kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn đồng du lay gọi:
- Anh bị ma đè hay sao mà la dữ thế.
Bấy giờ Tăng mới tỉnh giấc, thấy vị sư già vẫn ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Các bạn xúm lại hỏi: “Trời chiều bụng đói sao anh ngủ ngon thế?” Tăng buồn rười rượi đứng lên, vị sư già mỉm cười hỏi:
- Quẻ bói tể tướng đã thấy nghiệm chưa?
Tăng càng kinh hãi chắp tay vái sư và hỏi tại sao mà biết. Sư nói:
- Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có bóng sen nở ra chứ bần tăng có biết gì đâu.
Tăng vênh mặt khi đến, bây giờ xuôi xị trở về, cái ý nghĩ đài các từ đó nguội lạnh, rồi vào núi tu, về sau thế nào không rõ.



ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Phiên Chợ Giữa Biển
La Sát hải thị
Mã Tuấn biểu thị Long Môi, con nhà buôn bán, đẹp trai tính phóng khoáng, thích múa hát, theo phường hát hội lấy khăn gấm bịt đầu trông mỹ miều như con gái, nhân đấy có biệt hiệu là Tuấn Nhân.
Hồi mười bốn tuổi, lên học trường quận, liền nổi tiếng học giỏi. Cha già yếu, nghỉ buôn bán ở nhà, bèn khuyên con:
- Mấy quyển sách khi đói không thể náu mà ăn, khi rét không thể may mà mặc, con ạ! Thôi thì con nghỉ học nối nghiệp theo cha, xoay ra thương mại thì hay hơn.
Từ đó, Mã tập buôn bán, lần hồi, theo người ta đi buôn ngoài biển. Một hôm, ghe bị gió bão thổi băng đi mấy ngày đêm, tới một nơi đô hội, người trên đảo xấu xí lạ lùng.
Vậy mà họ thấy Mã, lại cho là yêu ma, ồn ào bỏ chạy. Ban đầu, Mã sợ hãi quá, đến khi biết rõ người bản xứ sợ mình, bèn lợi dụng ngay tình trạng ấy mà nhát họ. Gặp họ đang ngồi ăn, Mã chạy càn đến; ai nấy đều sợ hãi chạy tán loạn, chàng được xơi những món ăn thừa.
Lâu dần vào mãi xóm làng chân núi, thấy ở đây cũng có kẻ mặt mũi giống y như người, duy có quần áo lam lũ rách rưới như lũ ăn mày. Chàng ngồi nghỉ dưới gốc cây, người ta không dám mon men đến gần, chỉ đứng xa xa mà ngó trầm trồ. Lâu rồi thấy chàng không phải là loài cắn xé ai, bấy giờ mới dần dà đến gần.
Chàng cười và nói với họ. Tiếng họ tuy khác, nhưng có thể hiểu được nửa phần. Chàng tỏ căn do vì sao mình lạc đến xứ này. Người làng mừng rỡ loan báo cho làng xóm biết rằng người khách lạ không phải đến vồ cắn ai đâu. Tuy nhiên những kẻ xấu xí nhất hạng chỉ đứng xa ngó, chẳng nỡ bỏ đi ngay, nhưng không dám đến gần.
Bọn đến gần chàng, nhận thấy vị trí mũi miệng cũng giống người Trung Quốc. Họ bày rượu thịt ra mời ăn. Chàng hỏi tại sao thấy mình lại sợ. Họ đáp:
- Chúng tôi thường nghe ông bà truyền lại rằng: Cách đây hai mươi sáu ngàn dặm, về phía tây có người Trung Quốc, người dân mặt mũi kỳ quái. Bấy lâu chỉ nghe đồn thôi, ngày nay mới tin là có sự thật.
Hỏi tại sao dân bản xứ nghèo, họ đáp:
- Điều quý chuộng ở nước chúng tôi, chẳng phải ở văn chương mà ở hình mạo. Người đẹp nhất hạng làm chức thượng khanh; thứ đến chức dân xã; hạng dưới chót nữa cũng được các bậc quý nhân thương yêu, cho nên có lương bổng để nuôi con. Còn như hạng chúng tôi đây, lúc mới oa oa chào đời, cha mẹ cho là vật bất thường, nhiều nhà quăng đi không nuôi. Trừ ra nhà nào vì sự nối dõi tông môn thì mới không đành lòng bỏ đi; miễn cưỡng mà nuôi thôi.
- Nước này tên là nước gì?
- Đây là nước Đại La Sát, kinh đô ở cách ba mươi dặm về hướng Bắc.
Mã yêu cầu họ dẫn đi xem kinh đô một phen cho biết. Gà gáy thức dậy cùng đi. Trời sáng đến kinh đô. Thành xây bằng đá đen như mực; lâu đài cao ngót trăm thước, nhưng có ít lợp ngói chỉ lấy những phiến đá đỏ úp lên trên, trông chẳng khác son đỏ.
Vừa gặp lúc bấy giờ bãi chầu, các quan nghênh ngang võng lọng từ trong triều ra về. Người nhà quê cùng đi với Mã, trỏ vào một vị quan nói:
- Quan lớn tướng quốc đó.
Mã nhòm thấy hình dung quan lớn mà thấy rùng mình, hai tay ngoẳng ra lưng, mũi có ba lỗ, lông mày úp lấy ba mắt như treo tấm màn. Đến mấy ngài cưỡi ngựa đi qua, người hướng đạo nói với Mã:
- Đó là quan đại phu. Lần lượt giới thiệu quan chức mỗi vị từ trong triều kế tiếp ra về. Mã trông mặt mũi người nào người nấy dị hợm quái kỳ, có điều quan chức càng thấp kém chừng nào thì diện mạo cũng bớt xấu xí chừng ấy.
Một lúc sau, Mã đi về qua các phố phường; người ta trông thấy vừa la vừa chạy, té lên ngã xuống làm như gặp phải quái vật chi vậy. Người quê hết sức phân phải, bấy giờ người chợ mới dám đứng ngó xa xa, không chạy tán loạn nữa.
Sau khi Mã trở về sơn thôn, khắp trong nước trẻ già lớn nhỏ, chẳng ai không nghe biết sơn thôn có một người quái cư trú. Từ đó các nhà quyền quý danh vọng muốn cho dân gian được rộng kiến văn cho nên tranh nhau bảo người sơn thôn luân phiên nhau mời Mã đến chơi.
Nhưng, Mã đến nha nào, nhà ấy sợ hãi vội vàng đóng chặt cửa ngõ, đàn ông, đàn bà, con gái lén lút dòm qua khe cửa, run sợ bàn tán nhau; hết trọn ngày ấy, ngày khác không có ai mới tới gặp mặt. Người trong làng nói:
- Chốn này có một vị quan chấp kích, xưa kia từng phụng mạng tiên vương đi sứ ngoại quốc, từng trông thấy thiên hạ nhiều, có lẽ chỉ ông ta dám tiếp kiến anh mà không sợ hãi thôi.
Mã nghe lời, đến nhà ông chấp kích. Thật quả ông này vui mừng tiếp rước, đãi như thượng tân. Mã ngó diện mạo ông, như một cụ già tám chín mươi tuổi, hai con mắt nổi bật ra bên ngoài, râu tua tuả như lông con chim.
Ông ung dung nói chuyện:
- Hồi lão còn trẻ tuổi, từng phụng mạng vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ tiếc chưa đi tới nước Trung Hoa lần nào. Nay đã một trăm hai chục tuổi lại được trông thấy thượng quốc nhân vật thế này, thật là có phước, không thể nào không tâu thiên tử hay biết. Nhưng lão về ở ẩn nơi rừng núi đã mười năm nay, không để gót tới sân rồng; vậy sáng ngày mai, lão xin vì ông, cố gắng đi chầu thiên tử một phen.
Laõ nói đoạn, sai dọn tiệc thết đãi. Sau vài tuần rượu, gọi phường nữ nhạc gồm mười mấy cô ra trước tiệc thay phiên nhau múa hát làm vui. Cô nào mặt mày cũng xấu xí như quỷ dạ xoa, bịt đầu bằng gấm trắng, mình vận áo đỏ quét đất, giọng hát nghe ồ ồ, chả biết là bản gì, mà nhịp nhàng cũng kỳ cục khó hiểu. Coi bộ lão quan vui sướng lắm, hỏi coi Trung Hoa có đờn nhạc xướng hát như vầy không? Mã đáp: có. Lão quan xin Mã hát thử một bài ca Trung Hoa cho nghe. Mã gõ nhịp trên bàn, ca một bài.Lão quan hớn hở nói:
- Lạ thay! Tiếng hát như hoàng kêu, phụng gáy, lão chưa từng nghe bao giờ.
Sáng bữa sau, lão lên đường, vào chào quốc vương, cốt tiến cử Mã.
Vua hân hoan xuống chiếu vời ngay. Song có ba quan đại thần, tau bày hình dạng Mã quái gở, nếu vời vào chầu, e làm kinh hãi thánh thể. Quốc vương nghe tâu liền bãi lệnh tuyên triệu quái nhân Trung quốc.
Lão quan tức tốc về nhà, thuật chuyện cho Mã nghe và tỏ ý rất tiếc. Mã ở nhà lão quan lâu ngày đâm buồn, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, bèn cầm gươm đứng dậy múa, lấy than lọ bôi mặt đen thủi đen thui, đóng vai Trương Phi. Chủ nhân trầm trồ khen thế là đẹp:
- Xin ông cứ để bộ mặt Trương Phi đến bái yết quan tể tướng, chắc ngài trọng dụng lo gì chẳng được chức cao lộc nhiều.
Mã lắc đầu nói:
- Trời ơi! Bôi nhọ thế này mà chơi đùa, còn có thể yêu thương được, có lý nào vác bộ mặt hát bội đi cầu lấy vinh hiển.
Chủ nhân cố nài ép mãi, Mã mới chịu nghe.
Hôm sau, ông làm tiệc lớn, mời các nhà đương quyền đến nhà yến ẩm, bảo Mã vẽ bộ mặt nhọ nồi sẵn sàng chờ đợi. Một chặp quan khách kéo đến đông đủ, ông kêu Mã ra trình diện. Khách đều sửng sốt, nói:
- Quái lạ, sao bữa trước xấu như ma lem, nay hóa mỹ miều xinh đẹp đến thế?
Rồi các quan cùng kéo Mã ngồi chung tiệc rượu, chén tạc chén thù hết sức vui vẻ. Mã đứng dậy múa may, hát ê a một khúc đúm, cử tọa tấm tắc khen hay. Qua ngày sau, các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã với vua. Nghe nói Mã đã đổi xấu ra đẹp, vua lấy làm mừng rỡ sai đem cờ mao tiết đi vời chàng vào triều.
Khi làm lễ bái kiến xong, vua hỏi về đạo trị an của Trung !uốc, chàng cặn kẽ tâu bày, được vua khen thưởng đáo để, liền ban yến ở ly cung. Rượu ngà ngà say, vua hỏi:
- Nghe đồn khanh giỏi múa hát, có cho quả nhân được thưởng thức chăng.
Mã đứng lên bỏ bộ múa hát, cũng bắt chước trùm đầu bằng gấm trắng, hát giọng đò đưa. Vua nghe thích chí liền phong cho Mã chức hạ đại phu. Chàng thường được vua ban tứ yến riêng, hậu đãi khác cả mọi người.
Lâu dần, các quan lớn nhỏ trong triều biết cái mặt chàng bôi nhọ là bộ mặt giả, nhờ đó mà công danh phú quý. Chàng đi tới đâu cũng được người ta nói thì thầm với nhau, không niềm nở với mình nữa. Từ đó chàng hóa ra cô lập, trong lòng cắn rứt không yên, liền dâng biểu xin về hưu dưỡng. Vua không cho. Lại nằn nì xin nghỉ có hạn, vua cho nghỉ ba tháng.
Chàng dùng ngựa trạm, chở các món vàng bạc châu báu trở về sơn thôn. Dân sở tại kéo nhau ra quì đón bên đường. Chàng phân cấp tiền bạc cho những nhà tử tế với mình lúc nọ, tiếng chúc tụng hoan hô, vang dậy như sấm. Dân làng nói:
- Chúng tôi hèn mọn, mang ơn quan đại phu tặng cho tiền bạc, ngài mai có phiên chợ giữa biển, sẽ tìm mua vật quý để đền đáp quan đại phu.
Chàng hỏi chợ biển ở chỗ nào, dàn làng nói:
- Tức là chợ họp dưới biển, người cá (người sống dưới nước như cá) ở bốn biển, gom góp châu báu, bốn phương 1 hai nước, cùng tới trao đổi. Trong đó có nhiều thần nhân đến chơi, mây ráng đầy trời ba đào cuồn cuộn; vì thế những hạng quý nhân tự trọng, không dám xông pha hiểm nghèo, cứ trao lụa là cho chúng tôi, mua dùm các món đồ lạ đem về cho họ. Nay mai sắp đến phiên chợ ấy rồi.
Mã hỏi tại sao biết chắc ngày giờ nào đến phiên chợ biển họp. Dân chúng cắt nghĩa:
- Mỗi khi chúng tôi thấy có đàn chim đỏ bay liệng tới lui tức là bảy hôm sau có chợ.
Mã lại hỏi hành kỳ bao lâu, ý muốn cùng đi xem chợ cho biết nhưng dân làng ngăn bảo chàng phải tự trọng, vì đi chợ rất mạo hiểm, thường thường có đi không về. Chàng nói:
- Các ngươi đừng lo dùm tôi. Tôi vốn đi biển đã quen, sợ chi sóng gió.
Cách mấy ngày sau, quả thấy có người đến gửi tiền của để mua đồ. Tới kỳ chàng vận hành lý xuống thuyền cùng đi chợ biển với người ta. Thuyền chở được khoảng vài chục người, dáng thẳng lườn cao, mười tay bơi chèo, thuyền đi vùn vụt như tên.
Trải qua bốn ngày, xa trông khỏang mây nước giáp nhau, lâu đài lo nhô trùng điệp, những ghe buồm bán đậu dày như kiến. Một chặp đến dưới chành thành nhìn lên vách tường cao bằng đầu người, lầu gác trên mặt thành chót vót đụng mây xanh.
Buộc thuyền xong vào bờ, thấy các món châu báu la liệt trong chợ, ánh sáng lóng lánh chói mắt, nhiều thứcc trần gian không có. Một thiếu niên cưỡi ngưạ đi tới, người họp chợ đều dạt ra tránh đường, bảo nhau đó là Đông dương tam thái tử.
Thế tử đi ngang, liếc mắt thấy Mã, nói:
- Người này là người xứ lạ!
Lập tức, có kẻ tùy tùng đến hỏi Mã tên họ là gì, quê quán nơi nào. Chàng đứng bên đường, chắp tay vái chào thế tử và tự giới thiệu mình. Thế tử mừng và nói:
- Được ngài quá bộ tới đây, thật có duyên phận không ít.
Nói đoạn, trao một con ngựa cho chàng cưỡi, cùng nhau song song theo hướng tây một quãng, mới tới bờ đất cù lao.
Ngựa phăng phăng nhảy đại xuống nước, chàng khiếp đảm kêu lên thất thanh; bỗng thấy nước biển tách ra thành đường đi, hai bên chót vót như vách thành dựng đứng. Đi một lát thấy bày ra trước mắt những toà cung điện nguy nga, đồi mồi làm kèo, vẩy rồng làm ngói, bốn vách thủy tinh, lóng lánh chói mắt.
Chàng xuống ngựa, bước vào cung điện, ngó lên thấy Long vương ngồi trên. Thế tử kính tâu:
- Thần đi xem chợ, được gặp một hiền sĩ Trung Quốc, nên dẫn về đây ra mắt đại vương.
Chàng làm lễ bái yết xong, Long vương hỏi:
- Tiên sinh là bậc học sĩ, hẳn làm vă n hay, vậy quả nhân muốn cậy làm giùm bài phú chợ biển, xin đừng tiếc công nhả ngọc phun châu.
Chàng cúi đầu phụng mạng, liền có thị vệ đem ra nghiên thuỷ tinh, bút râu rồng, giấy trắng như tuyết, mực thơm như lan. Chàng tức thời viết thành bài văn hơn một nghìn chữ đưa trình. Long vương xem rồi khen không tiếc lời:
- Tài lớn của tiên sinh, làm cho thủy quốc vẻ vang biết mấy.
Rồi hội họp các thủy tộc, mở tiệc lớn ở cung Thế Hà. Sau vài tuần rượu, Long vương nâng chén hướng về phía khách nói:
- Quả nhân có đứa con gái cưng, hiện chưa lấy chồng, muốn gả cho tien sinh, thuận hay không?
Chàng tự thẹn không biết nói thế nào chỉ cúi đầu vâng dạ mà thôi, Long vương day lại tả hữu, nói gì chẳng rõ, giây lát mấy nàng cung nữ phò công chúa ra làm lễ, vàng ngọc leng kheng, đàn sáo inh ỏi. Chàng đáp lễ và liếc dòm công chúa, mỹ miều như tiên.
Công chúa chào khách xong trở vào hậu cung.
Sau khi bãi tiệc, hai thị nữ cầm đèn lồng, đưa chàng vào hậu cung.
Công chúa trang điểm ngồi đợi trong phòng kê giường san hô, chạm đồ bát bảo, tấm màn che ngoài kết bằng ngọc minh châu, viên nào viên nấy lớn như cái đấu; chăn mền nệm gối đều bằng thứ rêu mềm mại thơm tho. Trời mới bừng sáng, a hoàn cung nữ đã tấp nập trước mặt để chờ sai khiến.
Chàng ra triều đường bái tạ, Long vương phong chức phò mã đô úy, và sai chép bài phú gửi đi các biển xem.
Long vương ở các biển điều sai sứ đến mừng, nhân dịp gửi thiếp mời phò mã tới uống rượu.
Chàng vận đồ gấm vóc cưỡi rồng xanh ra đi, mấy chục võ sĩ cưỡi cá ngựa theo hộ vệ cùng mang cung sơn son, cầm hèo bịt bạc long lanh rầm rộ, lại có phường nhạc theo hầu, trên lưng ngựa gảy đàn tranh ngồi trong xe gõ phách ngọc.
Nội trong ba ngày, chàng dạo chơi khắp các biển, vì đó cái tên “Long môi” (rồng làm mai) vang dậy bốn biển. Trong cung có một cây ngọc, mình đầy một ôm sáng ngời và trong suốt như lưu ly trắng; giữa có rượu màu vàng lợt, nhỏ thua cánh tay, lá cây giống như bích ngọc dày bằng đồng tiền âm u rậm rạp. Thường ngày vợ chồng ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo làm vui. Đến mùa hoa nở chi chít, cứ mỗi lá rụng xuống đất, kêu lên một tiếng keng, lượm lên xem như mã não màu đỏ, có chạm trổ và trong sáng khác thường. Thỉnh thoảng có loài chim lạ, tới đậu trên cây hót vét von, lông vàng ánh, đuôi dài hơn mình, tiếng hót có khi não nùng tới gan ruột. Mỗi lần chàng nghe đều chạnh lòng tưởng nhớ quê hương, bèn thừa dịp nói với công chúa:
- Tôi lạc lõng đã ba năm, cha mẹ già bặt tin vắng bóng, lần nào tôi nghĩ đến cũng thắt lòng thắt ruột, muốn về thăm quê quán, khanh có vui lòng theo tôi về chăng?
Nàng nói:
- Tiên phàm cách trở em không thể nào đi theo. Tuy nhiên em cũng chẳng nỡ vì tình yêu cá nước mà để chàng lỗi đạo hiếu với cha mẹ, vậy thong thả, em tính cho.
Chàng nghe khóc vùi, nàng cũng than thở:
- Sự thế bắt buộc phải vậy, tình hiếu không thể lưỡng toàn.
Hôm sau chàng đi dạo, Long vương hỏi:
- Ta nghe phò mã muốn về thăm quê, vậy sớm mai khởi hành được chăng?
Chàng thưa:
- Thần bơ vơ lưu lạc may nhờ đại vương đoái tưởng,, bấy lâu mang ơn quá nhiều, vẫn ghi trong gan ruột, chỉ mong sẽ trở lại hầu đại vương.
Tối lại nàng đặt tiệc từ giã. Chàng hẹn sau lại gặp nhau, nhưng nàng thản nhiên nói:
- Tình duyên đôi ta đến đây là hết rồi.
Chàng xót xa khóc lóc cực thảm. Nàng an ủi và nói:
- Về nhà phụng dưỡng cha mẹ tỏ rõ lòng chàng hiếu thảo. Đời người ta tan hợp, trăm năm cũng như đầu hôm sớm mai, can chi khóc lóc như đàn bà? Miễn sao từ nay, em vì chàng mà giữ tiết trinh, cũng như chàng vì em mà giữ tín nghĩa, thì mỗi người một nơi, hai lòng như một, thế là vợ chồng gắn bó đấy; hà tất sớm tối ngồi ôm nhau, mới là bách niên giai lão ư? Nếu bên nào có ăn ở lỗi với thề nguyền, có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng gặp tốt lành êm đẹp. Ví bằng chàng lo trong nhà không ai nội trợ thì có thể mua hầu cưới thiếp, không sao. Nhân dịp em còn một chuyện nói với chàng: từ ngày kết bạn đến nay, dường như em đã có thai, vậy xin chàng đặt tên sẵn cho con.
Chàng nói:
- Hễ con gái thì tên là Long Cung, con trai thì mang tên Phước Hải.
Nàng xin để lại một vật làm tin. Khi chàng ở nước La Sát được một cặp hoa sen bằng ngọc đỏ, nay đem trao cho công chúa giữ làm tin, nàng tính đốt tay căn dặn:
- Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng nhớ bơi thuyền ra Nam đaả, em sẽ giao con.
Đoạn, nàng lấy một da cá làm túi, nhét đầy châu ngọc vào trong, đưa cho chồng và nói:
- Mình giữ kỹ túi này, mấy đời ăn xài cũng chẳng hết đâu.
Trời mờ sáng, Long vương thân đến từ biệt, tặng cho đồ vật cực nhiều. Chàng lạy tạ rồi ra khỏi cung vua. Nàng ngồi xuống xe dê trắng kéo,, đưa ra tận bờ biển. Chàng lên bờ, xuống ngựa. Nàn ngỏ lời chúc mong trân trọng rồi quay trở về thấm thoát đã thấy xa biệt. Nước biển khi ấy rẽ ra hai bên thành con đường đi, giờ khép lại cho nên không thấy công chúa đâu nữa. Chàng rầu rĩ xuống ghe, nhắm hướng về quê.
Từ ngày Mã sinh vượt biển, rồi mất tích, ai cũng bàn tán chết mất xác đâu rồi. Nay thấy lù lù trở về, cả nhà càng sửng sốt kinh ngạc.
Cũng may cha mẹ già còn khoẻ mạnh, tuy có người vợ đã đi lấy chồng khác. Chàng nhớ lại câu: “giữ vẹn tình nghĩa”, của long nữ đã nói, thì ra nàng đã tiên tri vợ chồng cải giá vậy.
Cha mẹ muốn cưới cho vợ khác, nhưng chàng không nghe, chỉ mua một người về làm cô hầu để hầu hạc song thân, lo việc nội trợ.
Đúng kỳ hẹn ba năm và ngày tháng đính ước, chàng bơi thuyền ra tận hải đảo, thấy hai đứa trẻ ngồi lềnh bềnh trên biển, đang tạt nước đùa giỡn nhau, không động mà cũng không chìm. Chàng đến gần, hai đứa trẻ mừng rú lên, mỗi đứa nắm một cánh tay chàng, và nhảy vào lòng đòi ẵm. Một trong hai đứa bỗng khóc lớn tiếng, hình như giận dỗi cha không ẵm mình trước vậy. Nhìn kỹ té ra một trai, một gái diện mạo cùng tuấn tú, khôi ngô, đồi đội mũ hoa gắn ngọc, tức là bông sen đỏ làm tin. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, chàng mở ra xem là bức thư nàng viết:
“Kính thăm chàng và song thân bình an.
Thấm thoát đã ba năm, bụi hồng cách tuyệt đôi nơi, chim xanh bề đi sứ; chẳng qua tơ tưởng trong giấc chiêm bao, nghểnh cổ xa trông nào thấy mênh mang trời biển, còn hận nào bằng?
Nhưng lại suy nghĩ: Chị Hằng còn để cung Quế vắng tanh, ả Chức còn bị sông Ngân cách trở, huống chi là đây là người gì mà hòng đoàn tụ mãi được. Em nghĩ tới đó, liền gạt nước mắt vui cười. Sau khi từ biệt được hai tháng thì em ở cữ sinh đôi. Nay hai đứa trẻ khỏi cần bồng ẵm, cười nói líu lo suốt ngày đòi táo đòi lê, dù xa mẹ cũng có thể sống được rồi cho nên em giao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ em gài trên mũ hai đứa trẻ để làm tin đó. Những chàng ôm con trên đầu gối, hôn hít nâng niu cũng như có em bên cạnh vậy.
Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền với em, em rất vui lòng. Phần em cũng một lòng duy nhất, đến chết không rời, bấy lâu vẫn sống một cách mộc mạc đơn sơ, gấm vóc xếp xó trong giương, phấn son không hề thoa mặt, chàng như chinh phu đi trận phương xa, em như quả phụ ở nhà thủ tiết, vậy đó chẳng là nhân duyên gắn bó sắt cầm hảo hợp ư?
Có điều em nghĩ, bây giờ cha mẹ chồng đã được ẵm cháu nội, mà còn chưa thấy mặt nàng dâu ra sao, xét đến tình lý cũng là điểm khuyết. Vậy nếu năm tới bà cụ quy tiên, lúc đó, em sẽ đến mộ ai điếu cho tròn đạo dâu con.
Ngoài việc ấy ra, Long Cung vô sự, có lúc mẹ con bắt tay; Phước Hải trường sinh, tất sẽ tới lui ngoài biển. Trân trọng kính thư, chúc chàng mạnh giỏi”.

Mã sinh đọc lại đôi ba lần, vừa đọc vừa khóc. Hai trẻ ôm cổ, nói: về nhà ta đi, khiến chàng đau đớn xót ruột, buồn lại thêm buồn, nựng con và hỏi: con có biết nhà ta ở đâu không nào?
Hai đứa cùng khóc rấm rức, một hai đòi về nhà. Chàng nhìn ra biển cả mênh mông, chân trời tít trong khoảng mây mờ sóng vỗ kia, có thấy đâu nhiều mình thương yêu tưởng nhớ ở đâu bèn buì ngùi ôm con, quay mũi thuyền trở về.
Theo lời nàng nói, chàng biết mẹ già không còn thọ lâu, cho nên lo việc tang sự sẵn sàng. Quanh nhà trồng hơn trăm cây tùng. Năm sau quả nhiên bà cụ qua đời, khi quan tài sắp sửa hạ huyệt, có người con gái mặt sô gai đến bên làm lễ. Mọi người đang nhìn có vẻ sửng sốt, bỗng dưng nổi cơn bão gió sấm sét, kế trời mưa to, trong nháy mắt nàng đã biến đi đằng nào mất. Những cây tùng bách mới trồng phần nhiều đã khô bây giờ trở lại tươi tốt.
Phước Hải lớn lên, nghĩ tới mẹ ruột, tự đi ra biển thăm viếng, mấy hôm mới về. Long Cung là phận nữ nhi, không thể mạo hiểm, thời thường đóng cửa ngồi khóc một mình. Bữa nọ đang giữa ban ngày, trời tự nhiên tối sầm lại, Long nữ chợt đến vỗ về con cái và nói: Con sẽ lập thành gia thất tốt còn ngồi khóc làm gì? Nói đoạn, cho nàng một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một hộp minh châu, một đôi vòng vàng chạm bát bảo, để làm của hồi môn khi lấy chồng.
Chàng nghe vợ tiên hiện về thăm con gái, tức tốc chạy đến nắm tay Long nữ mà khóc nức nở. Bỗng trời nổi mưa gió, sét đánh vang nhà, nàng biến đi mất.


ĐÀO TRINH NHẤT dịch



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
Oan Nghiệt Trường Văn
Tư Văn Lang

Vương Tử Bình, người Bình Dương, đi thi trọ ơ chùa Báo Quốc. Trong chùa đã có Dư Hàng là học trò đến ở từ trước. Vương lấy tình lân cận liền nhà, gửi danh thiếp sang làm quen. Dư không đáp. Sớm tối gặp nhau, anh ta còn tỏ vẻ vô lễ. Vương giận anh ta quá lên mặt, không đi lại chơi bời nữa.
Một hôm, có một chàng trai trẻ đến chơi chùa, mũ mãng quần áo đều trắng bong, dáng vẻ đường hoàng, Vương lại gần bắt chuyện, thấy nói năng hòa nhã troChâu”. Vương sai đầy tớ bày ghế mới ngồi, cùng nhau cười nói vui vẻ nhã nhặn. Đúng lúc Dư Hàng sang, ngồi tót lên cao, thái độ ngạo mạn. Thản nhiên, anh ta hỏi Tống:
- Anh cũng đi thi phải không?
Đáp:
- Không, tôi vốn tài hèn nên đã không có chí bay nhảy từ lâu rồi.
Lại hỏi:
- Ở tỉnh nào?
Tống kể rõ, Dư bảo:
- Đã không có chí tiến thủ, đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây, không có ai đáng bậc “thông giả”.
Tống đáp:
- Người phương Bắc (1) vốn ít kẻ thông tuệ. Nhưng người “không thông” chưa hẳn là kẻ tiểu sinh này, người phương nam vốn nhiều bậc thông tuệ, song bậc “thông giả”cũng vị tất là túc hạ.
Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa mà cười vang nhà. Dư Hàng xấu hổ vừa tức, trợn mắt phất tay áo, lớn tiếng:
- Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?
Tống nhìn anh ta cười nhạt: “Có gì mà không dám”, rồi lấy sách đưa cho Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu “Ở Khuyết Lý, trẻ con theo mệnh (2)”. Dư đứng dậy tìm giấy bút. Tống ngăn lại bảo:
- Đọc luôn ra miệng thôi cũng được. Tôi đã có đoạn phá đề thế này: “Ở chỗ tân khách qua lại, mà thấy một kẻ không biết tí gì”.
Vương ôm bụng cười lớn. Dư tức giận nói:
- Toàn là những kẻ không biết làm văn, bày trò để chửi xỏ, sao đáng là người!
Vương ra sức kêu là đố khó, xin tìm đề khá hay hơn. Lại lật trang khác đọc: “Thời Ân có ba vị vương giả (3)”. Tống lập tức ứng khẩu đọc:
- “Ba vị tuy hành động không đồng thanh nhưng cùng theo một đạo. Đạo ấy là gì? Thưa rằng: đạo nhân. Người quân tử chỉ cốt đạo nhân mà thôi, cần gì phải đồng”.
Dư thấy thế không làm nữa, đứng dậy nói: Đều là bọn tài xoàng. Rồi bỏ đi.
Từ đó, Vương càng trọng Tống, mời vào nhà chuyện phiếm suốt ngày, đưa hết văn thơ của mình ra xin Tống duyệt đọc. Tống lướt thật nhanh, một khắc đã hết trăm bài, nhận xét:
- Anh cũng đã sâu sắc trong nghiệp này, song cái bệnh của bút nghiên không cầu mà được. Văn anh còn gửi gắm cái lòng cầu may, do đó đã rơi xuống mức thấp kém.
Rồi lấy những bài đã duyệt nhất nhất giải thích rõ. Vương vừa ý lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía làm món bánh trôi. Tống ăn lấy làm thích lắm, khen:
- Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm nào đó lại làm cho ăn.
Từ đó hai người càng tâm đắc. Cứ dăm ba ngày Tống lại đến. Vương lại sai người làm món bánh trôi. Dư Hàng thỉnh thoảng cũng bắt gặp, tuy không đàm luận đằm thắm nhưng cái thói ngạo nghễ cũng bớt. Một hôm anh ta cũng đem văn cho Tống xem. Thấy bạn bè anh ta phê son khuyên bình, tán thưởng chi chít, Tống chỉ nhìn qua rồi dẹp sang góc bàn, không nói một lời. Dư ngờ Tống chưa đọc, lại giục. Tống nói đã đọc rồi. Dư cho là không hiểu. Tống trả lời:
- Có gì mà không hiểu, chỉ không hay thôi.
Dư vặn:
- Mới nhìn qua những nét son khuyên điểm, sao đã biết là không hay?
Tống liền bình to lên như đã đọc kỹ lưỡng, vừa bình vừa chê. Dư sợ toát mồ hôi hột, bỏ đi không nói gì. Lát sau, Tống đi, Dư lại vào, nài nẵng Vương cho xem văn. Vương không chịu, Dư cố tìm được tập văn của Vương, thấy nhiều khuyên son, cười rằng:
- Những cái nàu to như cục bánh trôi vậy.
Vương cố ghìm bực tức, chỉ lừ mắt nhìn mà thôi. Hôm sau Tống đến, Vương kể lại hết. Tống giận nói rằng:
- Tôi cứ cho rằng thằng cha này được những bài học thích đáng đã tỉnh ra, thế mà sao lại vẫn dám vậy. Thế nào tôi cũng lại cho biết tay.
Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên can Tống. Tống càng cảm phục.
Sau khi thi xong, Vương đem bài văn thi cho Tống xem. Tống hẹn sẽ xem. Ngẫu nhiên hôm ấy hai người đi chơi thăm thú các đền đài chùa miếu, thấy một ông sư mù ngồi ở hành lang, bày thuốc bán. Tống khen:
- Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi thẩm văn, không thể không xin lời chỉ giáo.
Theo lời, Vương về nhà lấy văn, giữa đường gặp Dư Hàng dẫn nhau cùng đến. Vương lựa lời nói với sư, sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh tật. Vương nói rõ ý định. Sư cười:
- Ai mà nhiều lời vậy? Ta không có mắt lấy gì để bàn luận văn chương?
Vương xin dùng tai. Sư bảo:
- Ba bài hon hai nghìn chữ, ai mà kiên nhẫn nghe hết được. Chi bằng cứ đốt đi ta sẽ ngửi bằng mũi.
Một khi đốt một bài, nhà sư lại hít hà, rồi nhấm nháp nói:
- Anh mô phỏng các vị đại gia, tuy chưa đúng được nhưng cũng gần giống. Ta đang thưởng thức bằng tì vị. Hỏi:
- Có được không?
Trả lời:
- Cũng được.
Dư Hàng không tin lắm, lấy văn của các bậc đại gia cổ, đốt đi để thử. Nhà sư lại ngửi:
- Hay thật! Văn này bụng dạ ta chịu được. Phi ông Quy, ông Hồ (4) ai mà làm được.
Dư sợ quá, lúc ấy mới đốt đến văn của mình. Sư nói:
- Mới thấy được một, chứ chưa thấy toàn thể, sao lại bỗng có văn người khác vào đây?
Dư nói đổ:
- Đó là văn của bạn, chỉ có một bài. Còn đây mới là văn của tiểu sinh.
Sư ngửi các bài tiếp, phát ho mấy tiếng, bảo:
- Thôi đừng đốt nữa! Nó cứ tắc mãi không xuống được. Nếu đốt thì chứng ra mắt.
Dư xấu hổ rút lui.
Mấy ngày sau treo bảng, Dư đỗ hương cống, còn Vương trượt. Tống và Vương đến báo với nhà sư. Sư than rằng:
- Ta tuy mù mắt nhưng tai không mù. Còn các vị khảo quan đều mù cả tai.
Lát sau Dư Hàng vẻ hãnh diện hỏi sư:
- Này hòa thượng mù, người cũng ăn bánh trôi của người ta ư? Nay thế nào?
Sư cười trả lời:
- Điều ta bàn là về văn chứ không nói với anh về mệnh. Anh hãy tìm văn của các quan chấm trường đến đây, đốt đi mỗi thứ một bài, ta có thể biết ai là thầy anh.
Dư và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Dư giao hẹn:
- Nếu đoán sai thì phạt gì? Sư giận đáp:
- Thì móc con mắt thong manh của ta đi!
Dư đốt văn, hết một bài, sư lại nói không phải. Đến bài thứ sáu, sư nghỏanh vào vách mà mửa, đánh rấm liên hồi. Mọi người cười ầm, nhà sư lau mắt, quay về phía Dư bảo:
- Đúng là thầy của anh rồi! Lúc đầu không biết ta vội hít vào, nó đâm vào mũi, chọc vào tai, không sao dung được phải tống ra khỏi hạ bộ.
Dư tức giận lắm, bỏ đi còn dọa:
- Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!
Hai ba ngày sau cũng không thấy hắn đến, xem lại thì hắn đã dọn đi rồi, lúc ấy mới biết đúng là hắn là học trò của ông quan chấm trường ấy thật.
Còng Tống an ủi Vương rằng:
- Phàm bọn đọc sách chúng ta không nên muốn hơn người mà cần nghiêm khắc với mình. Không muốn hơn người thì đức càng rộng. Biết nghiêm khắc với mình thì học mới tiến. Bận này anh không gặp may là do số chưa gặp. Nhưng bình tâm mà bàn thì văn anh cũng cũng chưa thành thục. Từ đây mà mài giũa, thiên hạ vẫn còn người không mù.
Vương cảm tạ lời dạy bảo. Nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương, Vương không về quê mà ở lại để học. Tống khuyên:
- Ở chốn thị thành, gạo châu củi quế nhưng cũng chớ ngại việc tư cấp. Sau nhà tôi có cái hầm chứa tiền từ trước bị đổ lấp, có thể sửa sang lại ở tạm.
Rồi chỉ chỗ cho. Vương cảm tạ rằng:
- Ngày xưa ông Đậu ông Phạm (5) nghèo mà chó thể liêm. Nay tôi may còn được tư cấp, sao dám tự ô danh.
Một hôm Vương đang ngủ bỗng sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng đào đất thình thịch. Vương lén dậy thì thấy người hầu và người làm bếp đang thừa cơ đào trộm, vàng đã bày trên mặt đất. Biết cơ sự đã lộ, họ đang định lấp đi. Vương đang định mắng họ thì thấy tấm kim bài, có khắc kim úy người ông cùa Vương. Nguyên là người ông ấy đã từng giữ chức Nam Bộ Lang (một chức quan như lang trung ở Nam kinh). Khi vào kinh nhậm chức ông ta đã từng ở đó, bị bệnh nặng mà mất. Vàng ấy là do ông cụ để lại. Vương mừng lắm, cân lên được hơn tám trăm lạng. Hôm sau Vương chuyện ấy nói với Tống, đưa cho xem cả tấm kiem bài và cũng muốn chia cho Tống một phần. Tống từ mãi mới thôi. Lại lấy một trăm lượng định tặng nhà sư mù thì ông đã đi đâu mất.
Suốt tháng Vương khổ công ôn luyện. Đến khi thi Tống bảo:
- Khoa này anh đỗ mới đúng là do mệnh.
Rồi vì phạm quy (6), Vương bị đánh hỏng. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã khóc lớn, không cầm được. Vương lại phải an ủi ngược lại. Tống mới than thở:
-Tôi bị tạo vật ghen ghét, khốn đốn trọn đời, nay lại lụy đến bạn tốt. Đó là số mệnh vậy, là số mệnh vậy!
Vương bùi ngùi:
- Muôn việc vốn đều có số. Như tiên sinh không có chí tiến thủ, không phải là mệnh vậy.
Tống gạt lệ giãi bày:
- Lâu nay tôi có muốn nói, chỉ sợ anh kinh ngạc; tôi không phải là người sống mà là hồn quỷ phiêu bạt. Lúc nhỏ tuổi ôm mang ý khí tài danh, không được đắc chí nơi trường ốc, tôi giả cuồng lên đô thành, gặp người tri kỷ truyền cho cho trước tác. Lại gặp nạn Giáp Thân (7), năm tháng nổi trôi. Nay may mắn được anh yêu mến, cho nên định đem hết sức mọn ra giúp bạn để tuy cái ước nguyện bình sinh của tôi chưa đạt thì mượn bạn để thực hiện như một điều khoái riêng vậy. Nay cái tai ách của nghiệp văn tự là như vậy, có ai tránh được!
Vương cũng cảm động khóc mà hỏi:
- Nay lục dụng lại như thế nào?
- Năm trước đã có mệnh của Thượng Đế ủy cho đức Tuyên Thánh (Khổng tử) và Diêm La Vương tra soát lại các hồn ma, loại trên thì giao các tào bổ dụng, số còn lại cho đầu thai kiếp khác. Tên tôi đã được chọn bổ dụng, sỡ dĩ chưa kịp đi là vì còn muốn thấy được cái khóai tranh chiếm bảng vàng. Nay xin từ biệt.
- Tiên sinh được khảo chức gì?
- Phủ Tử Chàng còn khuyết chức Tư Văn Lang, tạm lĩnh triện ở nha Tủng Đồng (8). Nơi đó đã làm cho văn vận điên đảo, vạn nhất nay được chức ấy thì sẽ gắng làm cho thánh giáo minh thịnh.
Hôm sau, Tống hớn hở đến nói:
- Được, toại ý rồi. Đức Tuyên Thánh sai làm bài “Tinh đạo luận”, người xem xong, vui hiện ra mặt, bảo tôi có thể làm tư văn. Diêm La xem sổ lý lịch đòi bo không dùng vì tội :khẩu nghiệt”. Đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, tôi mới được duyệt. Khi tôi lạy tạ. Người còn gọi lại gần án dặn rằng: “Nay ta thương tài chọn sung chức thanh Bạch, vậy nên phải rửa lòng mà nhận chức, chớ mắc phải lỗi lầm cũ”. Thế mới biết, ở cõi âm tăm tối còn trọng đức hạnh hơn cả văn học. Việc tu sửa đức hạnh ở anh ắt cũng chưa đến nơi. Vậy không nên quên làm điều thiện.
Vương nói:
- Quả vậy. Còn đức hạnh của Dư Hàng thì đến đâu?
Tống đáp:
- Điều đó tôi không biết. Âm ti thưởng phạt không có chút sai sót nhỏ nào. Còn ông sư mù ngày trước cũng là hiện thân của quỷ. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời hao phí giấy bút quá đà cho nên bị phạt mù. Ông ta muốn tự bán thuốc chữa bệnh cho người để chuộc lại lỗi lầm xưa, cho nên mới thác cớ đi các nơi.
Vương sai soạn tiệc rượu. Tống nói:
-Không cần. Cả năm tôi đã quấy nhiễu, hãy tận hưởng một giờ khắc lúc này. Xin hãy cho ăn bánh trôi là đủ.
Vương buồn quá không ăn chỉ ngồi nhìn Tống. Một lúc đã ăn hết ba bát to, Tống ôm bụng nói:
- Ăn bữa này no ba ngày, tôi xin ghi công đức của anh. Thóc lúa ăn của tôi ngày trước đều ở sau nhà, nay đã mọc nấm cả rồi. Lấy nấm ấy, cất làm thuốc có thể làm cho trẻ thông tuệ. Vương lại hỏi hậu vận. Tống đáp:
- Đã nhận quan chức hiềm không tiện hỏi.
Lại hỏi:
- Nếu đến phủ Tử Chàng cầu khấn gọi tiên sinh, có gặp được không?
Trả lời:
- Cái đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nếu anh cố giữa mình trong sạch thì sẽ có tờ từ trên ấy xuống địa ty, lúc ấy tôi sẽ cho biết.
Nói xong từ biệt rồi biến mất. Vương xem đằng sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi. Bên cạnh nhà tự nhiên mọc lên ngôi mộ mới.
Vương trở về quê hết sức giữ mình nghiêm khắc. Một đêm nằm mộng thấy Tống đi xe có lọng che đến, bảo rằng: “Trước đây, do cơn bực dọc nhỏ, anh giết lầm một con gái hầu nên bị tước sổ lộc. Nay do gắn tu tỉnh nên đã trừ được bớt tội, song mệnh còn mỏng cho nên không đủ để tiến thân làm quan”. Năm ấy Vương đỗ hương cống. Năm sau trúng tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vươns sinh hai con, một đứa hết sức đần độn, liền cho ăn nấm thì thông minh rất mực. Sau đó có việc đi Kim Lăng, trên đường đi gặp Dư Hàng. Lão ta kể hết nguồn cơn xa cách, thái độ khiêm nhường, song đầu tóc đã bạc trắng cả.

NGUYỄN VĂN HUYỀN dịch
(1) cũng tức là vùng Sơn Đông , Sơn Tây
(2) câu này lấy trong sách luận ngữ, nguyên văn là: “Khuyết đảng, đồng tử mệnh”. Khuyết đảng tức là Khuyết lý, nơi ở của Khổng tử. Khổng tử nhân thấy trẻ con không biết lễ tiết mới sai chúng đi truyền mệnh để luyện cho quen mà hiểu được một chút đạo lý. Vương và Tống kẻ hô người ứng, chọn đề bài, đọc câu “phá đề” (vào đề) như trên để ngầm chê trách Dư Hàng vừa dốt vừa vô lễ.
(3) nguyên văn trong sách luận ngữ: “Ân hữu tam nhân yên” (thời Ân có ba bậc nhân giả). Ba vị ấy là Vi Tử, Cơ Tử và Tỉ Can. Vua Trụ nhà Ân vốn là kẻ bạo ngược, vô đạo. Biết rằng không thể can ngăn nổi, Vi Tử bỏ đi để tránh tai họa. Cơ Tử cắt tóc giả người điên. Tỉ Can thề quyết chết đê can ngăn liền ba ngày, bị mổ bụng chết. KhổngTử cho rằng cách làm của ba ông không giống nhau, song là bậc nhân.
(4) Chỉ hai ông Quy Hữu Quang và Hồ Hữu Tín là những văn học gia thời Minh, nổi tiếng đương thời.
(5) Đậu tức là Đậu Nghi, người đời Tống, khi còn nghèo khó có giống Kim tinh hiện tình để đùa bỡn nhưng ông vẫn không động lòng.
Phạm tức là Phạm Trọng Yêm cũng người đời Tống. Lúc còn bần hàn đến trú nhờ ở miếu thờ để học. Một hôm phát hiện thấy có một hố giấu tiền, nhưng do là của phi nghĩa không lấy, lấp hố lại như cũ.
(6) Những quy định ngặt nghèo trong việc thi cử ngày xưa như kiêng huý nhà vua, cấm giập xoá, viết mất nét....
(7)nạn Giáp Thân: chỉ niên hiệu 17 của Sùng trinh nha Minh, năm cuộc khởi nghĩa nông dân do Lý Tự Thành lãnh đạo, đánh chiếm bắc kinh.
(8) Phủ Tử Chàng: Theo thần thoại TQ, Tử Chàng đế quân họ Trương tên A, chủ trì phủ Văn Xương, coi giữ sổ sách đỗ đạt, Tử Chàng đế quân có hai người thì hạ là Thiên Tủng (trời điếc) và Địa Á (Đất câm) Chữ Tủng đồng nghĩa đen với trẻ điếc.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
ĐÀO TRINH NHẤT dịch
Vợ Dữ Hơn Cọp
Giang Thành
Cao sinh ở Lâm Giang, tên là Phồn, thông minh, dáng dấp xinh đẹp, mười bốn tuổi đã vào học trường quận, cho nên nhà giàu quanh miền tranh nhau gả con gái cho.
Nhưng chàng kén chọn khó khăn, thường trái ý cha.
Cha là Trọng Hồng, sáu mươi tuổi, chỉ có một cậu con trai nên hết sứ chiều chuộng, không muốn làm trái ý con.
Nguyên trước ở thôn Đông có họ Phàn, làm nghề gõ đầu trẻ ở chốn thị tứ, đem cả gia quyến lên mướn phố ở gần nhà chàng.Phàn ông có con gái tên Giang Thành, cùng tuổi với chàng, lúc đó cũng cỡ tám chín tuổi; hai trẻ ngây thơ ngày ngày quấn quít chơi giỡn với nhau.
Sau Giang Thành theo Phàn ông dời đi xứ khác, trải năm sáu năm không nghe tin tức.
Một hôm chàng đi trong hẻm, thấy một cô gái tuyệt đẹp, có con nhỏ sáu bảy tuổi theo hầu. Chàng không dám ngó ngay mặt chỉ đưa mắt liếc. Nàng nheo mắt nhường như muốn nói, lại thôi. Chàng nhìn kỹ té ra Giang Thành, chàng vừa sững sốt, vừa mừng rỡ. Hai người đứng trân trân ngó nhau không ai nói gì. Giây lát ai đi đường nấy mà tình ý xem chừng bịn rịn, không muốn rời nhau.
Chàng cố ý đánh rơi chiếc khăn rồi bỏ đi. Con nhỏ theo hầu nhặt lấy trao cho nàng. Tức thời nàng móc túi lấy khăn của mình ra, đưa cho con nhỏ và nói:
- Cao tú tài không phải là người nào lạ, chớ có lấy đồ vật của cậu ấy đánh rơi, vậy mi đuổi theo mà trả khăn lại cho cậu.
Con nhỏ đuổi theo đưa khăn trả chàng.Chàng vớ được khăn nàng, trong ý rất mừng, về thưa với mẹ, xin cậy mai mối hỏi Giang Thành cho mình. Bà mẹ nói:
- Nhà nó chẳng có đến cái túp lá để che mưa nắng, chỉ nay đây mai đó trôi nổi quanh năm, sao con lại muốn phối ngẫu với nó.
Chàng thưa mẹ rằng tự ý mình muốn vậy, về sau ra sao chịu vậy, cố nhiên không dám ăn năn gì hết.
tRong ý bà mẹ do dự không quyết, bàn tính với cha chàng. Cha chàng nhất định bảo không nên. Chàng nghe chuyện sinh buồn, bỏ cả cơm cháo. Mẹ chàng lo sợ quá, liền nói với cha chàng:
- Họ Phàn tuy nghèo, nhưng cũng là nhà nho, chứ không phải hạng vô loại. Vậy để tôi đến nhà xem mặt đứa con gái, nên thì dạm, bằng không thì thôi có hại gì đâu.
Ông bằng lòng. Bà liền mượn cớ đi trả lễ ở đền Hắc Đế, tiện đường ghé qua nhà Phàn, thấy con gái mặt mày xinh đẹp, lòmg rất vui mừng, rồi đem tiền lụa đến tặng và nói thiệt ý muốn. Phàn ông trước còn khiêm nhường, sau mới nhận lễ nhận lời. Bà về thuật lại, bấy giờ chàng mới tươi cười ăn uống như cũ.
Năm sau, chọn ngày lành tháng tốt, đón Giang Thành về. Hai vợ chồng trìu mến nhau rất vui vẻ. Duy Giang Thành hay có tính giận hờn, hơi một chút là trở mặt coi chàng y như người lạ. Miệng lưỡi la lối, chàng nghe vang tai nhức óc, nhưng vì thương yêu quá đỗi cho nên chuyện chi cũng cố nhịn.
Hai ông bà nghe phong thanh, lấy làm bất mãn, gọi con đến trách mắng. Nàng biết vậy, tức lắm, càng kiếm chuyện gây gổ nhục mạ chồng nhiều hơn nữa. Hễ chồng hơi trả lời nặng nhẹ, nàng giận dữ thêm, vac gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại.
Tội nghiệp chàng đứng co ro bên ngoài, chứ không dám gõ cửa, đành ngồi xổm ở mái hiên, ôm gối mà ngủ.
Từ đó nàng xem chồng như kẻ thù. Ban đầu còn có thể quì gối xin nàng hết giận làm lành, dần dà đến quì gối cũng hết hiệu nghiệm, thành ra lang quân khổ càng thêm khổ. Ông bà can thiệp trách nàngqua loa, nàng vung tay khoa chân, bộ điệu hỗn hào không thể tả xiết, đến nỗi ông bà phát giận đuổi nàng về nhà cha mẹ.
Phàn ông vừa thẹn vừa sợ, cậy người đến năn nỉ Trọng Hồng cho Giang Thành trở lại, nhưng Trọng Hồng không cho. Hơn một năm sau, chàng đi đường chạm trán ông nhạc, ông níu áo lôi về nhà ân cần tạ lỗi và bảo con gái ăn mặc đàng hoàng ra chào. Vợ chồng gặp mặt nhau cùng tỏ vẻ đau thương. Phàn ông bèn mua rượu về đãi chàng rể, khuyên mời niềm nở. Một lúc trời tối, ông cụ giữ chàng lại ngủ dêm. Giang Thành muốn nằm giường riêng , nhưng ông xếp hai vợ chồng nằm chung.
Sáng ngày, chàng về nhà, không dám nói chuyện thật với cha mẹ, chỉ tìm cách thêu dệt và che đậy cho qua. Từ đó, cách dăm ba ngày, chàng lại ngủ đêm tại nhạc gia một lần,, mà cha mẹ chàng không biết.
Một bữa Phàn ông đến nhà Trọng Hồng xin cho giáp mặt nói chuyện. Trọng Hồng không tiếp, Phàn ông năn nỉ mãi, Trọng Hồng mới ra mặt, Phàn quì gối làm lễ tạ tội, Cao ông (tức Trọng Hồng, họ Cao) không nhận, đổ trút cho con, Phàn nói:
- Đêm qua cậu nó ngủ tại nhà tôi có nghe chối từ cự nự gì đâu?
Cao sửng sốt, hỏi nó ngủ bao giờ. Phàn kể rõ đầu đuôi, Cao thẹn thùng xin lỗi và nói:
- Chuyện đó quả tôi không hay, vợ chồng nó đã thương yêu nhau, tôi há một mình thù hiềm cản trở nhân duyên của con ư?
Phàn ông về rồi, Cao gọi con ra nhiếc mắng. Chàng chỉ cúi đầu, không nói gì cả. Giữa lúc đó Phàn dẫn con gái đến. Cao nói:
- Tôi không thể nào gánh dùm lỗi lầm cho dâu con, chi bằng ở riêng ra, ai có nhà nấy.
Tức thời cậy Phàn làm chứng giám hộ cha con mình về cuộc riêng nhà chia bếp.Phàn khuyên lơn mãi, Cao nhất định không nghe, dọn căn nhà riêng cho vợ chồng ở , lại sai một con hầu chuyên việc hầu hạ.
Trong vòng hơn một tháng vợ chồng ăn ở với nhau hơi yên, chẳng nghe điều tiếng gì cả, ông bà đã mừng thầm trong bụng.
Nhưng cách đó không bao lâu, Gianh Thành lại dần dà hung dữ, trên mặt chàng thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ là thế nhưng cũng ẩn nhẫn không hỏi đến.
Một hôm chàng bị vợ đánh dữ quá, không thể chịu nổi phải chạy tụt sang nhà cha mà trốn, run rẩy xanh xám giống như chim sẻ bị cò ó mổ vậy. Hai ông bà đang kinh ngạc, đã thấy nàng xách roi xồng xộc chạy vào đến ngay bên cạnh ông túm lấy chàng, vụt lấy vụt để. Ông bà rầy la rầm rĩ nàng cũng mặc kệ, cứ việc đánh chồng tới mấy chục roi mới hầm hầm bỏ đi.
Cao đuổi con đi và nói:
- Tao muốn tránh sự ồn ào, cho nên mới ở riêng, còn mày lấy thế làm vui thì ở đó mà hưởng, trốn đi đâu làm chi?
Chàng bị cha đuổi, bơ vơ không biết về đâu, Cao ông sợ con buồn tự tử, bèn cho căn nhà ở một mình, lại cấp dưỡng cho. Laị gọi Phàn đến, bảo dạy dỗ con gái thế nào, kẻo để lăng loàn quá đỗi. Phàn vô nhà, giảng dụ trăm phương ngàn cách nàng cũng chẳng thèm nghe, lại còn nói hỗn với cha. Phàn tức mình phủi áo ra đi, thề dứt tình cha con.
Không bao lâu, Phàn giận con quá sinh bệnh, cùng bà vợ kế tiếp nhau qua đời. Nàng bực tức, không về điếu tang đưa đám cha mẹ, tối ngày ngồi mắng chửi cách vách, cố ý lớn tiếng cho Cao ông Cao bà nghe. Cao mặt kệ không thèm đếm xỉa tới.
Chàng từ khi được ở riêng một mình thấy dường như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng chỉ khổ vì nỗi quạnh hiu buồn bực. Muốn được khuây khỏa chàng bèn chi tiền mụ Lý, để mụ dẫn gái vô nhà học tiêu khiển, gái thường lui tới ban đêm.
Ít lâu sau, Giang Thành nghe biết, tới tận nhà học mắng chửi thậm tệ. Chàng hết sức phân trần nỗi oan và trỏ lên mặt trời mà thề nàng mới chịu lui.
Từ đó ngày ngày rình mò cử động chàng. Một hôm mụ Lý từ trong nhà học đi ra, nàng bắt gặp, kêu gọi rùm lên. Mụ Lý xanh xám mặt mày, nàng thêm sinh nghi, túm lấy mụ đe dọa:
- Có thế nào thì cứ việc nói thật, họa may còn tha thứ cho, nếu giấu giếm, tao vặt không còn một sợi lông đó!
Mụ vừa run vừa nói:
- Trong vòng nửa tháng nay duy có Vân nương, là gái ở nhà chứa đến đây hai bận mà thôi. Còn vừa rồi công tử lại nói bữa trước đi chơi núi Ngọc Ti dòm thấy cặp chân của người vợ Đào gia xinh đẹp, cho nên muốn cậy tôi làm manh mối, để dụ nó tới đây. Con đó tuy lẳng lơ nhưng chưa chắc chịu làm nhu gái nhà chứa. Công tử đã bảo tôi thử dụ nó coi, việc thành hay không thật chưa chắc.
Nàng thấy mụ nói thành thật, cho nên rộng lòng khoan thứ. Mụ sửa soạn đi, nàng cố giữ lại cho đến trời tối, buộc phải làm theo mưu kế của mình:
- Đến ngay nhà học làm bộ nói nhỏ với công tử bảo tắt đèn đi, cô ả Đào gia tới rồi đó.
Mụ làm y lời. Nàng theo chân bước vô, chàng mừng quá, nắm tay mời ngồi và tỏ lòng khát khao mộng ước. Nàng làm thinh, chàng mò trong bóng tối rờ cẳng nàng và nói:
- Sở nguyện ôm ấp bao lâu, nay mới được toại, lẽ nào không cho thấy mặt?
Nói xong, chàng tự thắp đèn lên soi mặt. Trời ơi! Chính là Giang Thành!
Chàng sợ hãi thất sắc, đánh rớt cây đèn xuống đất run rẩy quì mọp, dường như gươm dao đã kề trên cổ vậy.
Nàng xách tai kéo về buồng mình, lấy kim thật nhọn đâm vào hai bắp đùi khắp, rồi bắt nằm dưới gầm giường, hễ tỉnh giấc hồi nào thì kể tội và mắng chửi hồi đó. Chàng đã sẵn sợ như hùm beo, cho nên dù khi được nàng nguôi ngoai mơn trớn, cho nằm chung trên giường nhưng trong lúc đầu ấp tay gối, chàng vẫn run sợ hãi hùng, cơ hồ không phải là con người nữa. Nàng vả vào mặt và thét đuổi đi, tỏ ý khinh khi và chán ghét, không coi chàng là hạng người nữa. Thành thử hàng ngày chàng được ở trong khoảng hương xông xạ ủ, mà như ở tù, thấy bóng người canh ngục là chết khiếp.
Giang Thành có hai chị, cùng lấy chồng nho. Người chị lớn hiền lành ít nói, tính tình thường không hợp với nàng. Còn chị thứ hai lấy họ Cát, người giảo huyệt khéo nói, tuy dung mạo kém Giang Thành nhưng ghen tuông độc ác thì ngang vai sánh gót. Chị em gặp nhau không có việc gì khác hơn là đem những chuyện bắt nạt chồng ra khoe khoang đắc ý với nhau. Vì thế hai người đi lại với nhau rất thân. Chàng đến nhà bà con họ hàng nào, nàng cũng giận dữ trách mắng, duy chỉ đến nhà họ Cát thì nàng không nói gì.
Một hôm chàng đến nhà Cát uống rượu. Lúc sau ngà ngà, Cát chế giễu chàng:
- Sao chú sợ vợ quá thế?
Chàng cười đáp:
- Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi anh ạ! Tôi sợ vợ tôi là sợ sắc đẹp. Vậy mà có cái đẹp thua xa vợ tôi, người ta cũng sợ cái ngang như tôi mới là kỳ chứ.
Cát thẹn đỏ mặt, không nói được câu gì. Con hầu nghe chuyện tọc mạch với chị hai (tức vợ Cát). Chị hai nổi giận, vác gậy chạy ra, chàng thấy bộ tịch hung dữ, toan bỏ cả giày mà chạy lấy thân. Nhưng gậy đã nện vào lưng, chàng bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, đập cả đầu, máu tuôn như xối. Chừng chị hai đi rồi, chàng mới lom khom cà nhắc về tới nhà.
Nàng trông thấy cả kinh, gạn hỏi duyên cớ. Ban đầu chàng nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị trận đòn nên không dám nói. Đôi ba phen tra vặn, mới kể rõ đầu đuôi. Nàng lấy lụa rịt bó đầu chàng xong, nổi cơn tam bành:
- Chồng của người ta, ai mượn nó đánh giùm cho ra thân thể này chứ?
Lập tức mặc áo cụt, xắn cao quần, tay cầm chày gỗ, dắt một con hầu đi theo, hầm hầm đến thẳng nhà Cát.
Chị hai tưởng như mọi bận, tươi cười ra đón. Nàng chẳng nói chẳng rằng, đánh chị túi bụi, ngã gục, rồi xé bươm cả áo xống, lại đánh thêm nữa, chị hai bị đánh tới bể môi gãy răng, vãi cả cứt đái, nàng mới chịu bỏ đi.
Nàng đi rồi, chị hai mới lồm cồm trỗi dậy, vừa thẹn vừa tức sai chồng phải đi mách với Cao ông.
Cát đến cửa, chàng ra đón, kiếm lời êm dịu an ủi. Cát nói nhỏ bên tai:
- Tôi đến đây vì thế bắt buộc, không đi không xong. Lạ gì con đàn bà ấy hung dữ thuở nay, nhờ tay dì nó trừng trị cho một bữa là đáng kiếp lắm. Còn tôi với chú thì có hiềm gì với nhau đâu.
Bất đồ Giang Thành nghe lén, tức tốc chạy ra điểm mặt anh rể và mắng như tát nước:
- Thằng đểu giả kia! Vợ bị đòn đau điếng, không nghĩ cách nào rửa hận cho nó, lại còn nói vụng nói lén với người ta thế ư? Cái giống đàn ông thế đó, không đáng đánh cho chết còn để làm gì?
Rồi nàng tru tréo kêu đầy tớ:
- Bay đâu, đem gậy ra đây cho tao mau mau!
Cát sợ hoảng hồn, vội lách ra cửa, co giò chạy mất.
Từ hôm ấy trở đi, chàng sợ chị vợ theo dõi, không dám tới lui nhất định một chỗ nào cả. Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã đến chơi, chàng mời ở lại uống rượu cho vui. Trong khi chén tạc chén thù, đem chuyện khuê phòng ra nói bỡn, có hơi tục tằn. Chẳng dè nàng núp lén nghe rõ đầu đuôi, lén bỏ bã đậu vào cháo bưng ra cho khách ăn. Một chập, Vương thượng thổ hạ tả dữ dội nằm thở như hấp hối sắp chết. Nàng sai con hầu ra hỏi:
- Còn dám nói hỗn nữa thôi.
Bấy giờ Vương mới hiểu rõ vì sao mình lại mửa thốc mửa tháo bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa cháo đậu xanh nấu sẳn cho ăn để giải độc. Vương ăn cháo ấy mới hết bệnh. Nhân chuyện này bạn bè mách bảo nhau phải kiềng mặt, về sau không dám đến nhà ăn uống gì nữa.
Vương sinh có quán rượu, trong có nhiều hồng mai đua nở, đặt tiệc mời anh em bạn đến thưởng lãm. Chàng mượn cớ họp văn xã, tâu trình với vợ, xin phép đi dự. Chiều tối đã say, Vương sinh nói:
- Vừa mới có một cô đào non ở Nam Xương trôi nổi đến đây, ta nên gọi lại chuốc rượu cho vui nhé?
Mọi người vui vẻ tán thành, duy có chàng đứng dậy xin kiếu ra về. Anh em kéo lại lại và nói:
- Bà sư tử nhà anh có tai mắt dài đến đâu chăng nữa cũng không tài nào nghe thấy được tới chốn này. Anh ở lại cho vui, chúng tôi xin thề sẽ ngậm miệng, không nói lộ ra đâu mà sợ.
Chàng lại ngồi xuống. Giây lát đào mới tha thướt bước vào, tuổi độ mười tám mười chín, hỏi tên cô khai họ Tạ, tên là Phương Lan, nói năng cực lanh lợi thanh nhã, khiến cho ai nấy cùng mê say như cuồng. Xem ra cô ta để ý chàng hơn cả, thường liếc mắt dòm sang chàng luôn, anh em biết thế liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Cô nắm lấy tay chàng viết trong lòng bàn tay một chữ “ngũ”. Lúc đó chàng thật tiến thoái lưỡng nan, muốn đi thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối rộn không sao nói xiết. Hai người ngồi dựa đầu cạnh nhau, nghiêng tai nói nhỏ, càng say chừng nào càng lả lơi chừng nấy, quên cả sư tử ở nhà.
Một chốc trống canh điểm khuya, khách trong quán rượu dần dà bỏ về gần hết, duy có một thiếu niên xinh đẹp ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu hạ. Ai nấy khen thầm là người cao nhã. Giây lát, thiếu niên uống xong đứng dậy đi, tiểu đồng ra theo rồi trở lại, nói ngay với chàng:
- Thưa ngài, chủ tôi đợi ngài ngoài kia để nói một câu chuyện.
Không ai hiểu người đó thế nào, duy có chàng mặt mày thất sắc không kịp chào anh em, vội vàng sấp ngửa ra đi, vị thiếu niên ấy chính là Gianh Thành, tiểu đồng là con hầu, hai thầy trò giả dạng đi rình chàng vậy.
Chàng theo về nhà, chịu nằm mà nhận roi vọt. Từ đó chàng bị cấm cố gắt gao, mọi việc khách điếu cùng tuyệt. Chàng buồn bực lơ là việc học, kỳ hạch năm đó thi rớt, bị giáng làm thường dân và rút mất học bổng.
Một hôm thì thầm với con hầu thế nào chẳng rõ, nàng nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu úp kín đầu con bé mà đánh lấy đánh để. Rồi lại trói chàng và con hầu chung nhau, cầm kéo cắt thịt bụng mỗi người miếng và đắp thịt của người nọ vào bụng người kia. Đoạn cởi trói ra để tự buộc lấy vết thương. Hơn tháng sau, chỗ vá thịt đó dính liền làm một.
Còn độc ác hơn nữa, nàng thường lấy cẳng chân chà đạp chiếc bánh nhão nhoét, lại ném đất cát bụi rồi thét bảo chàng phải lượm lên mà ăn. Những cử chỉ tàn nhẫn của Giang Thành đối với chồng đại khái như thế, bà mẹ thương con, ngẫu nhiên đến nhà chàng ở, trông thấy con gầy, ốm mà động lòng. Lúc trở về bà nghĩ đau đớn khóc lóc, muốn chết cho rảnh, đêm ấy, chiêm bao một cụ già hiện đến nói:
- Bà chớ nên lo phiền. Đó là nhân quả kiếp trước để lại, Giang Thành kiếp trước nguyên là Tinh Nghiệp hòa thượng có nuôi con chuột trường sinh. Còn công tử nhà bà tiền kiếp là học trò, một hôm đến chơi chùa vô ý đạp chết con chuột ấy. Vì thế kiếp này phải chịu ác báo về phía Giang Thành, chừng trả hết nợ mới yên, chứ không lấy sức người xoay đổi gì đặng. Tốt hơon là cứ thành tâm tụng niệm bài chú của quan Âm ( Nam Mộ Phật, Nam Mộ Pháp, Nam Mô Tăng v.v...) mỗi ngày một trăm lần tự nhiên sẽ có hiệu nghiệm.
Sáng hôm sau, bà thuật lại chiêm bao cho Trọng Hồng nghe, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng tuân lời thầy dạy, ngày ngày niệm chú Quan Âm. Hơn hai tháng Giang Thành vẫn ngang ngược như cũ, lại có thêm điên cuồng, hễ nghe ngoài cửa có tiếng kèn trống thanh la, nàng liền xõa tóc chạy ra đứng dớn dác, cả ngàn người cùng chỉ trỏ chê bai, nàng cũng thây kệ. Ông bà thấy con dâu khất khùng như vậy, rất hổ thẹn nhưng không làm sao ngăn cấm được, lấy làm bực tức.
Chợt thấy một lão tăng đến trước cửa thuyết pháp, người ta đứng xem vòng trong vòng ngoài. Lão tăng thổi vào mặt trống, thành ra kêu như trâu rống, nàng vội chạy đến, thấy người đứng kín mít không có khe hở mà lách vào lọt, bèn gọi con ở đem ghế ra để nàng đứng lên cao mà xem. Bao nhiêu cặp mắt cùng họp vào mình nàng, nhưng nàng thản nhiên dường như không hay biết gì cả.
Một lát, lão tăng giảng sắp xong gọi lấy một tô nước lạnh cầm đến trước mặt nàng mà tuyên đọc:





Chớ nên hờn!
Chớ nên hờn!
Kiếp trước chẳng phải giả
Kiếp này chẳng phải chân
Ôi!
Con chuột rút cổ chạy!
Kẻo bị mèo xơi ngon!


Lão tăng đọc xong, ngậm nước phun vào mặt nàng, làm cho son phấn nhễ nhại, trôi xuống áo xiêm. Ai nấy sợ hãi đoán chắc nàng nổi cơn tam bành đánh bể đầu trọc không chừng. Chẳng dè nàng lặng lẽ chùi mặt mày rồi về, lão tăng cũng bỏ đi chỗ khác.
Về nhà, nàng ngồi ngây ngất, như người mất hồn. Trọn ngày không ăn, tự giũ giường chiếu đi nằm.
Bỗng dưng nửa đêm gọi chàng thức dậy. Chàng ngỡ vợ muốn đi tiểu, vội vàng bưng chậu tiểu dâng lên. Nhưng nàng lấy tay đẩy ra, kéo cánh tay chàng lôi vào trong mền nằm chung. Chàng phụng mạng mà chân tay run cầm cập, như ông quan khi tiếp kiến chỉ của vua ban xuống vậy.
Nàng khảng khái nói:
- Trời ơi! Tôi làm cậu ra thân thể này, còn đáng làm người sao đặng.
Rồi hai tay xoa khắp mình mẩy chàng, cứ tới chỗ vết tích dao bầm roi đánh thì khóc rấm rứt, lấy móng tay nhọn tự cào vào mình, muốn cho chết ngay tức khắc. Chàng thấy tình trạng động lòng bất nhẫn, ra sức khuyên lơn yên ủi vợ, nàng nói:
- Em nghĩ ông hòa thượng lúc ban ngày, tất là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh, như thay đổi cả gan ruột. Giờ em nhớ lại những việc làm lúc trước như việc ỏ kiếp nào khác vậy, có lẽ em chẳng phải giống người chăng? Có vợ chồng mà không biết vui vẻ, có cha mẹ mà không biết phụng dưỡng thờ phụng là nghĩa thế nào? Sáng mai vơ chồng ta phải dọn đến ở chung với cha mẹ, để chăm nom hầu hạ cho dễ.
Vợ chồng nói chuyện suốt đêm, như là cách biệt mười năm giờ mới gặp gỡ vậy.
Tảng sáng nàng trỗi dậy, thu xếp xống áo mâm chén, xon ở xách thúng mủng, nàng tự đội chăn mền, giục chàng đi trước kêu cửa. Bà mẹ hoảng sợ, mở cửa hỏi chuyện chi? Chàng tự bày tỏ ý muốn của vợ. Trong khi bà cụ còn đang ngần ngại, ý không muốn chứa, nàng với con ở đã tay xách nách mang bước vào.
Bà mẹ theo gót trở vào, nàng phục dưới đất khóc lóc thảm thương chỉ xin cha mẹ tha chết cho nàng để nàng đền tội. Bà xét ra ý nàng thành thật, cũng khóc và nói:
- Con ta sao thay đổi mau lẹ thế này?
Chàng thuật rõ câu chuyện đã qua, bây giờ bà cụ mới nhớ lại giấc chiêm bao, thật quả ứng nghiệm,. vội vàng bảo tôi tớ dọn dẹp căn nhà cũ cho hai vợ chồng ở.
Từ đó nàng thờ cha mẹ chồng còn hơn người con hiếu thảo. Cử chỉ đoan trang như cô dâu mới về nhà chồng. Có ai bỡn cợt nhắc lại chuyện cũ thì nàng đỏ mặt ra dáng hổ thẹn. Tính lại cần kiệm, khéo ăn nhịn để dành, trải ba năm, cha mẹ chồng không phải bận lòng vì sinh kế trong nhà, mà của để cũng có hàng vạn rồi.
Năm ấy chàng thi đậu cử nhân. Nàng thường hỏi chồng:
- Ngày nọ em thấy mặt cô Phương Lan một lần, nàng vẫn còn thương mình à?
Chàng trả lời rằng, bây giờ sung sướng thế này là mãn nguyện rồi,chả dám mơ tưởng gì nhiều chuyện nữa.
Rồi chàng vô kinh thi hội, mấy tháng mới trở về. Lúc bước vào nhà, thấy Phương Lan đang ngồi đánh cờ với Giang Thành, lấy làm sửng sốt. Hỏi ra thì do nàng tự xuất trăm đồng chuộc Phương Lan ra khỏi hồng lâu, vì là người năm xưa được chàng thương yêu.
Hồi ta đến chơi miền Tích Thiệu, được gặp ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe chuyện nàng rất rõ ràng.

ĐÀO TRINH NHẤT dịch
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
TẢN ĐÀ dịch
Người nhỏ
Tiểu quan nhân

Trong khoản đòi Khang Hy, có kẻ làm mẹo đem theo mình một cái hộp, trong cái hộp có để một thằng nhỏ, dài chừng một thước, hễ ai cho tiền thời nó mở hộp cho thằng nhỏ chui ra, hát xong rồi lại vào. Đến đất Dịch. Quan tể ở Dịch bắt đem nộp vào dinh để coi. Hỏi kỹ về chỗ thằng người nhỏ ở đâu mà ra, trước còn không dám nói. Cứ hỏi mãi mới chịu kể là ở làng nó, nguyên là đứa trẻ đi học về, ngang đường gặp nó cho thuốc mê, bốn chân tay tự nhiên co dúm ngay lại, bèn đem đi như thế, để dùng làm trò chơi. Quan tể nổi giận, giết chết thằng làm trò, giữ đứa bé ở lại muốn chữa cho, mà chưa tìm được cách chữa.
KHÚC HÁT ẾCH
Vương Tử Tôn nói: “Trong khi ở kinh đô, từng thấy một người làm trò chơi ở chợ,, đẩy một cái hộp gỗ có ngăn, có tất cả mười hai cái lỗ, trong mỗi lổ có phục một con ếch. Lấy cái que gõ vào đầu, thời liền kêu ì ộp cả. Có ai cho tiền thời khua gõ các đầu ếch một lượt như đánh dàn nhạc, cung, bực, từ khúc, nghe rất phân minh”.
TẢN ĐÀ dịch
TRÒ CHUỘT
Lại nói: “Có một người ở trên chợ Trường An, bán trò chơi chuột. Trên lưng cõng một cái túi, trong có chứa hơn mười con chuột con, cứ gặp chỗ đông người thời để ra một cái giá gốc nhỏ như là cái lầu trong rạp hát tuồng, rồi bèn đánh nhịp trống, hát khúc tuồng cổ, tiếng hát vừa cất lên, thời có chuột ở trong cái túi ra, đeo mặt nạ, mặc đồ quần áo rất bé, từ ở vai đeo lên trên cái lầu đứng như người mà múa, trai và gái, thương cùng yêu, đúng hệt với tình tiết ở trong vở tuồng vậy”.

TẢN ĐÀ DỊCH



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Liêm sĩ của kẻ làm quan
truyện TAM TRIỀU NGUYÊN LÃO

Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia.
Lão nhân trường lạc tín kham khoa.
Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp.
Thử thị tam triều tể tướng gia
.

Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.
Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.
Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.
Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.
Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.
Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Lộc số
truyện LỘC SỐ

Do lai lộc mệnh phú sinh sơ.
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư.
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc.
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ.



Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.
Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.
Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Ðặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.
Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.
Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"
Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.
Ðầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.
Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.
Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Quan trung thừa điều tra trộm
truyện VU TRUNG THỪA

Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm.
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm.
Sưu đắc chung y tần xuất nhập.
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm.


Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Ðáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Ðêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Ðể bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Ðể rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Quan Tề điều tra cướp
truyện VU TRUNG THỪA NHỊ

Chiết ngục vô quan duyệt lịch thâm.
Chỉ tu đương cục khẳng lưu tâm.
Tống nghênh thiếu phụ giai nam tử.
Hà huống tần tham thủ nhập khâm.


Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa họ Vu, tên Thành Long.
Khi còn làm quan tể huyện Chuy Xuyên, một hôm Vu công dẫn tám thuộc hạ cưỡi ngựa sang huyện Tân Thành kế cận để thăm người bạn họ Khang đang làm quan tể tại đó. Khang công mời bạn cùng đám thuộc hạ vào khách xá tạm trú.
Một sáng, Vu công dẫn đám thuộc hạ cưỡi ngựa ra ngoài thành du ngoạn. Nhác thấy ở phía trước mặt có hai hán tử to lớn khiêng một chiếc cáng cùng bốn hán tử khác đi hộ tống ở hai bên, Vu công bèn dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa tới gần để coi. Thấy trên cáng có một nữ bệnh nhân nằm nghiêng, tóc cài trâm phượng, thân đắp chăn lớn, còn bốn kẻ hộ tống thì cầm ghì bốn góc chăn, tựa hồ như sợ gió lọt vào mình bệnh nhân, Vu công sinh nghi. Ðể ý nhìn thì thấy thỉnh thoảng bốn kẻ hộ tống lại thò tay vào chăn như để tìm kiếm vật gì rồi cứ đi được một quãng, cả bọn lại dừng chân để đổi phiên khiêng.
Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa vượt xa lên phía trước, sai hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở bên đường để thám thính. Sau đó, Vu công dẫn đám thuộc hạ phóng ngựa đi xa thêm chừng ba dặm, sai hai người nữa xuống ngựa, bí mật theo rình xem bọn hán tử khiêng cáng tới đâu. Rồi Vu công dẫn đám thuộc hạ còn lại ra về.
Lát sau, khi bọn hán tử khiêng cáng tới, hai thuộc hạ thám thính chạy ra làm quen, hỏi:"Bệnh nhân nằm trên cáng là ai thế?" Một hán tử đáp:"Thị là em gái mỗ. Thị về thăm nhà rồi đột nhiên bị bạo bệnh khiến mỗ phải nhờ nhóm bằng hữu đây khiêng trả về nhà chồng" Cả bọn lại tiếp tục khiêng cáng đi. Hai thuộc hạ có nhiệm vụ theo rình thấy cả bọn khiêng cáng tới một căn nhà ở xóm Thanh Bình, rồi thấy hai hán tử khác từ trong nhà bước ra, đón cả bọn vào nhà. Bọn thuộc hạ quay về khách xá trình Vu công mọi chuyện. Vu công hỏi:"Các ngươi có thấy ai ở trong nhà chạy ra săn sóc bệnh nhân không?" Cả bọn cùng đáp:"Bẩm đại quan, không!"
Vu công vội đi tìm Khang công. Gặp bạn, Vu công hỏi:"Ðêm qua, trong huyện của tôn huynh có vụ cướp của giết người nào không?" Khang công đáp:"Ðệ chẳng thấy ai báo cáo chi cả!" Vu công bèn trở về khách xá, mật sai thuộc hạ đi nghe ngóng tin tức ở trong huyện. Lát sau, thuộc hạ về báo:"Bẩm đại quan, trong huyện có tin đồn đêm qua có một bọn cướp xông vào nhà phú ông họ Phùng, lấy que sắt nung đỏ dí vào người Phùng ông để khảo của, làm Phùng ông bị chết bỏng. Bọn chúng đã vơ vét hết vàng bạc trong nhà tải đi" Vu công bèn sai thuộc hạ tìm tới nhà Phùng ông, gọi một thân nhân vào khách xá để hỏi chuyện. Con trai Phùng ông là Phùng Khải xin theo vào.
Thời bấy giờ, triều đình ra nghiêm lệnh xử tử các kẻ cướp của giết người nên khi bọn cướp đã nghi ngờ ai đi báo quan thì chúng sẽ tìm cách sát hại để diệt khẩu. Do đó, gia đình nạn nhân dù có biết rõ danh tánh bọn cướp cũng phải làm ngơ, chẳng dám đi cáo giác vì sợ bị bọn chúng sát hại.
Phùng Khải tới. Vu công hỏi:"Có phải đêm qua phụ thân khổ chủ bị cướp vào nhà sát hại không?" Phùng Khải chối:"Bẩm đại quan, không. Ðêm qua tự nhiên gia phụ bị bạo bệnh mà mất, chứ nhà tiểu nhân có bị cướp bóc chi đâu?" Vu công cười, nói:"Ta đã bắt được cả bọn cướp ấy giùm quan tể ở đây rồi, khổ chủ chẳng còn phải sợ bọn chúng trả thù nữa!" Lúc đó Phùng Khải mới rập đầu lạy Vu công, nói:"Bẩm đại quan, quả thực đêm qua gia phụ bị cướp xông vào nhà sát hại. Tiểu nhân cúi xin đại quan rửa hận cho!" Vu công vỗ về an ủi:"Cứ về nhà, im lặng mà chờ coi ta rửa hận cho!" Rồi tin Phùng Khải ra cửa.
Phùng Khải về rồi, Vu công tức tốc đi tìm Khang công, nói:"Ðêm qua trong huyện của tôn huynh có xảy ra một vụ cướp của giết người. Ðệ đã điều tra được manh mối và biết rõ chỗ ở của tám tên cướp. Xin tôn huynh hãy ra lệnh cho quân sĩ tới vây bắt chúng ngay kẻo chúng trốn mất!" Rồi nói rõ căn nhà ở xóm Thanh Bình cho Khang công hay.
Khang công vội làm theo lời bạn khuyên. Quân sĩ của huyện kéo ập tới căn nhà, bắt trói đủ tám tên, tịch thu tang vật, giải về huyện đường. Khang công liền ra lệnh dùng cực hình tra tấn. Cả bọn cùng nhận tội. Khang công bèn sai lính giải bọn chúng vào công đường, hỏi: "Bệnh nhân nằm trên cáng là ai?" Tên đầu sỏ đáp:"Bẩm đại quan, thị là một kỹ nữ" Hỏi:"Sao lại có kỹ nữ trong bọn chúng bay?" Ðáp:"Vì tối qua bọn tiểu nhân tới kỹ viện mua vui rồi rủ thị theo tới nhà Phùng ông. Bọn tiểu nhân cướp được vàng để trên cáng, bảo thị giả làm người bệnh, nằm ôm đống vàng để bọn tiểu nhân khiêng về sào huyệt" Hỏi:"Chúng bay chia chác với nhau như thế nào?" Ðáp:"Bọn tiểu nhân chia đều làm chín phần, mỗi người một phần" Khang công bèn cho lính đi bắt kỹ nữ. Thấy bọn cướp đã nhận tội cả, kỹ nữ cũng nhận tội ngay để khỏi bị tra tấn. Khang công bèn chiếu theo nghiêm lệnh triều đình, xử tử cả chín tên. Khang công lại cho gọi Phùng Khải tới, trả lại tất cả số vàng của Phùng ông mà quân sĩ đã tịch thu được. Sau vụ bắt cướp này, dân chúng huyện Tân Thành rất khâm phục tài điều tra của Vu công. Có vị bô lão trong huyện tới xin yết kiến, hỏi:"Tại sao đại quan lại biết rằng bọn khiêng cáng là một bọn cướp?" Vu công cười, đáp:"Vì ba lý do sau: Thứ nhất là một phụ nữ thì đâu có nặng gì mà lại có tới ba cặp hán tử thay phiên nhau khiêng? Thứ nhì là bệnh nhân nằm trên cáng là phụ nữ thì tại sao thỉnh thoảng bốn tên đi hộ tống lại cứ thò tay vào chăn để làm gì? Thứ ba là bệnh nhân bị bệnh nặng đến độ phải có hai tên khiêng và bốn tên hộ tống thì khi về tới nhà, thân nhân phải ùa ra săn sóc chứ đâu lại hững hờ như thế? Bất cứ ai tinh ý và chịu khó suy nghĩ một chút thì cũng có thể đoán ngay rằng chúng là một bọn cướp!".

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thuốc cường dương
truyện DƯỢC TĂNG

Phòng trung đan dược diệc kỳ tai.
Bộ lý bàn san chuyển khả ai.
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước.
Bất như thả tác tự nhân lai.


Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Giết sói, báo thù cha
truyện VU GIANG

Phụ cừu hà cảm phiến thời vong.
Cánh sát sơn trung bạch tị lang.
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ.
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang.


Huyện Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thần miếu
truyện ƯNG HỔ THẦN

Thần danh ưng hổ cánh hà do..
Năng sử thâu nhi phản tự đầu.
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự.
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu.


Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu cổ, tên Ðông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Ði ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Ðạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Định số
truyện KHỐ QUAN

Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì.
Quỹ di thiên hữu khố quan tri.
Liêu tây quân xướng do thùy bát.
Tích vị đương niên nhất vấn chi.


Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Ðông có quan tể họ Trương, tên Hoa Ðông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Ðế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Ðế ấn định ban cho đại quan. Ðêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Ðế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Ðáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Ðại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Ðế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Ðế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Ðại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Bùa cờ bạc
truyện ÐỔ PHÙ

Vị liu tham tâm bác cục khai.
Thử trung thắng phụ bản nan sai.
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ.
Nhất trịch hà phương bách vạn lai.



Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Ðạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Ðạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Ðổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Ðổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Ðổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Ðổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Ðổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Ðạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Ðổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Ðạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Ðổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Ðổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Ðổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Ðổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Ðổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Ðổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Ðổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Ðổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Ðổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Ðổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Ðổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Ðổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Ðổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Ðạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Ðổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Ðạo sĩ cười, nói: "Ðã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Ðổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Chồn đầu thai làm người
truyện LƯU LƯỢNG THÁI

Mạn thuyết tiền thân dữ hậu thân.
Nam sơn hữu khách cánh thông thần.
Ngọc hồ thảng bất phân minh ngữ.
Thùy thức giai nhi thị cố nhân.



Tiên sinh Hoài Lợi Nhân ở thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông, thuật truyện:
Cuối triều Minh, huyện Nam Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có văn nhân họ Lưu, tên Cảnh, làm nhà dưới chân núi Nam, cùng vợ và gia nhân cư ngụ.
Một hôm, có một lão khách tới gõ cổng, xin vào diện kiến. Gia nhân vào báo, Lưu ông bảo ra mời vào. Khách theo gia nhân vào nhà, chắp tay vái chào. Lưu ông chắp tay đáp lại. Khách tự giới thiệu:"Ngu mỗ họ Hồ, tên Lượng Thái!" Lưu ông hỏi:"Huynh ông tới tệ xá, có điều chi dạy bảo?" Khách đáp:"Ngu mỗ muốn tới chào tiên sinh để xin làm quen!" Hỏi:"Nhà huynh ông ở đâu?" Ðáp: "Cũng ở trong núi này! Ngoài gia đình tiên sinh và ngu mỗ, chẳng ai thèm vào núi này cư ngụ. Vì thế ngu mỗ muốn tới xin làm quen cho có bạn!" Lưu ông bèn mời khách ngồi đàm đạo. Thấy khách nói chuyện hoạt bát, cao nhã, Lưu ông thích lắm, sai gia nhân làm tiệc khoản đãi. Hai người yến ẩm, đàm đạo rất tương đắc. Ngà ngà say, khách đứng dậy xin cáo biệt. Lưu ông nói:"Ngày mai, nếu rảnh rỗi, xin mời huynh ông lại tới chơi!" Khách đáp: "Xin vâng!"
Hôm sau, quả nhiên khách lại tới. Lưu ông sai gia nhân làm tiệc, thịnh soạn hơn hôm trước. Trong lúc yến ẩm, Lưu ông nói:"Ðược kết giao với huynh ông, thực là một điều hân hạnh, song vẫn còn điều thắc mắc, chẳng biết huynh ông có giải cho chăng?" Khách hỏi:"Tiên sinh thắc mắc điều chi?" Lưu ông nói:"Dám hỏi huynh ông quý xá ở đâu!" Khách nói:"Ngu mỗ xin nói, song xin tiên sinh tin lời, chớ kinh hãi!" Lưu ông nói:"Xin cứ nói!" Khách nói:"Ngu mỗ tới đây, chủ ý là để xin làm quen chứ chẳng phải là để gieo họa! Chẳng giấu gì tiên sinh, tệ xá là cái hang trong núi, còn ngu mỗ là chồn già trong hang!" Nghe thấy thế, Lưu ông đã chẳng sợ hãi mà còn kính trọng khách hơn. Bèn đề nghị kết nghĩa anh em. Khách nhận lời. So tuổi, khách lớn hơn, làm anh. Từ đó, hai người giao du rất thân mật, coi nhau như ruột thịt, có điều gì cũng đem ra nói cho nhau nghe, chẳng giấu diếm.
Một hôm, Lưu ông than:"Tiểu đệ cũng đã nhiều tuổi rồi mà chưa có con nối dõi tông đường!" Khách nói: "Hiền đệ chớ lo. Ngu huynh sắp chết rồi. Ðể khi nào ngu huynh chết, ngu huynh sẽ đầu thai vào làm con cho hiền đệ!" Lưu ông kinh hãi, nói:"Sao đại ca lại nói gở thế?" Khách cười, đáp:"Già rồi thì phải chết chứ sao lại gọi là nói gở?" Lưu ông hỏi:"Nghe nói ai đã tu luyện thành tiên cũng trường sinh bất tử! Ðại ca đã tu luyện thành tiên, sao lại nói là sắp chết?" Khách lắc đầu, đáp:"Riêng điều này thì chẳng thể tiết lộ cho hiền đệ biết được, xin chớ hỏi nữa! Ngu huynh đã hết kiếp làm chồn, kiếp tới được đầu thai làm người. Song đầu thai làm con cho người khác, chẳng biết người ta có thích mình hay không, chi bằng đầu thai làm con cho hiền đệ, chắc hiền đệ sẽ chẳng ghét bỏ vì chúng ta là chỗ anh em kết nghĩa mà hiền đệ lại đang muốn có con!" Nói xong, đứng dậy xin cáo biệt.
Ðêm ấy Lưu ông nằm ngủ, mộng thấy khách tới nói:"Ðêm nay ngu huynh vào làm con cho hiền đệ đây!" Giật mình tỉnh giấc, Lưu ông thấy gia nhân chạy vào báo: "Phu nhân vừa sinh công tử" Lấy làm lạ, Lưu ông bèn đặt tên đứa bé là Lượng Thái. Từ đó, khách biệt tăm. chẳng lui tới nhà Lưu ông nữa.
Lượng Thái lớn lên, ăn nói hoạt bát, cao nhã, giống hệt khách. Học hành thông minh xuất chúng, năm mười tuổi đã nổi tiếng thần đồng. Năm Nhâm Thìn (1652), niên hiệu Thuận Trị thứ 9, thi hội, đậu tiến sĩ, được triều đình bổ làm quan, tức Lưu công. Lưu công nổi tiếng hào hiệp, hay giúp đỡ kẻ nghèo khó. Có rất nhiều kẻ chẳng kể thân sơ, tới nhờ vả, đều được giúp đỡ.
Khi về hưu, thấy dân làng tới cổng nhà, mở quán bán bánh quà, tương rượu, Lưu công cứ để mặc, chẳng ngăn cản. Ít lâu sau, bãi đất trước cổng nhà Lưu công trở thành một khu chợ mới.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Ghen với nữ thần
truyện KIM CÔ PHU

Song song tố tượng sự hoang đường.
Hồ quỷ bằng y tác tế hương.
Liệt phách chân hồn không thụ điếm.
Tiểu cô cư xứ bản vô lang.


Ðời vua Thần Tông triều Minh, huyện Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang, có thiếu nữ họ Mã, tên Thanh Mai, sanh năm bính tuất (1576).
Khi Thanh Mai tới tuổi cập kê, cha mẹ hứa gả cho nho sinh họ Hoa ở trong huyện. Sắp tới ngày cưới, Hoa sinh bị bệnh mà mất. Thanh Mai buồn lắm, quyết tâm ở vậy, chẳng chịu lấy chồng khác.
Năm bính ngọ (1606), Thanh Mai ba mươi tuổi, cũng bị bệnh mà mất. Hồn linh thiêng, thường hiện về báo mộng cho người trong họ biết nhiều việc sắp xảy ra nên họ quyên góp tiền bạc, xây cất một ngôi đền rồi đắp tượng mà thờ, gọi là đền Mai Cô.
Năm mươi năm sau.
Ở huyện Thượng Ngu, kế cận huyện Thiệu Hưng, có nho sinh họ Kim, ba mươi tuổi, có vợ họ Ngụy và hai con, một trai, một gái. Ngày 10 tháng 8 năm bính thân (1656), niên hiệu Thuận Trị thứ 13, Kim sinh lên đường tới tỉnh lỵ Triết Giang ứng thí. Dọc đường, tới huyện Thiệu Hưng, gặp lúc trời tối, sinh vào ngủ trọ trong quán Mai Hoa. Nửa đêm, nằm mộng thấy một tì nữ áo xanh mở cửa bước vào phòng, nói: "Mai Cô sai tiểu tì tới đây mời tú tài tới đền đàm đạo" Sinh bèn đi theo. Tới đền, thấy Thanh Mai đứng chờ ở hành lang, sinh vội chắp tay vái chào. Thanh Mai mỉm cười đáp lễ rồi hỏi: "Hiền lang còn nhớ thiếp không?" Sinh lắc đầu, đáp: "Thưa không" Thanh Mai nói: "Kiếp trước hiền lang họ Hoa, đã đính hôn với thiếp song vì hiền lang mất sớm nên chúng mình chưa nên duyên phu phụ. Vì cảm tấm lòng chiếu cố nên trong thâm tâm, thiếp vẫn mến mộ. Kiếp này, hiền lang họ Kim. Nếu hiền lang chẳng chê thiếp là người bỉ lậu thì thiếp xin được lấy thân mà báo đáp" Sinh kinh hãi quá, chẳng biết phải trả lời ra sao, chỉ thốt được hai tiếng: "Xin vâng" Thanh Mai nói: "Tạm thời, hiền lang cứ đi thi rồi về nhà mà chờ. Chừng nào thu xếp xong chỗ ở, thiếp sẽ xin báo để hiền lang biết" Sinh lại líu ríu vâng dạ. Thanh Mai bèn tiễn sinh ra khỏi cổng. Nằm mộng tới đây, sinh tỉnh giấc, cứ kinh hãi mãi, trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ lại được.
Ðêm ấy, có một thôn dân, cư ngụ cạnh đền, cũng nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói: "Từ nay, Kim sinh ở huyện Thượng Ngu, hiện trọ trong quán Mai Hoa, là lang quân của ta. Sáng mai, các ngươi phải tới quán, tìm gặp cho biết mặt rồi đắp một pho tượng, đặt cạnh pho tượng của ta trong đền mà thờ chung" Sáng ra, người ấy kể cho đồng hương nghe thì được biết trên mười người nữa trong làng cũng nằm mộng thấy như thế. Họ kinh hãi quá, bèn kéo nhau tới quán Mai Hoa để biết mặt Kim sinh rồi kéo nhau tới nhà trưởng tộc họ Mã trong làng, là Mã Thành, mà thuật chuyện. Họ nói: "Xin cho đắp tượng Kim sinh để thờ chung trong đền" Mã Thành phản đối, nói: "Làm như thế tức là làm điếm nhục tiết trinh của Mai Cô lúc sinh thời, mà cũng là làm điếm nhục cả dòng họ Mã chúng tôi nữa!" Người làng khuyên thế nào Mã Thành cũng chẳng nghe. Họ đành giải tán.
Tháng sau, cả nhà Mã Thành tự nhiên cùng bị bệnh. Một đêm, Mã Thành nằm mộng thấy Thanh Mai hiện về, nói:"Phải đắp tượng Kim sinh mà thờ chung với ta ngay!" Tỉnh giấc, Mã Thành kinh hãi quá, bèn mời mọi người trong họ tới nhà bàn bạc. Ai cũng khuyên nên đắp tượng Kim sinh, đặt ở bên trái tượng Thanh Mai mà thờ chung. Mã Thành đành theo lời.
Sinh lên đường tới Triết Giang ứng thí rồi trở về nhà, thuật chuyện giấc mộng cho vợ nghe. Nghe xong, Ngụy thị nổi cơn ghen, nói: "Thần gì mà lại đi cướp chồng của người khác?"
Một hôm, vào trung tuần tháng chín, sau bữa ăn trưa, tự nhiên sinh nói với vợ con: "Hôm nay Mai Cô tới rước ta đây!" Rồi đi tắm gội, mặc quần áo mới, đi giày mới, đội mũ mới, lên giường nằm mà chết. Ngụy thị đau khổ, tức giận Thanh Mai lắm.
Chôn cất cho chồng xong, Ngụy thị đi ngay sang huyện Thiệu Hưng, tới ngôi đền, lấy tay chỉ vào mặt pho tượng Thanh Mai mà thóa mạ. Rồi Ngụy thị bước lên tận bệ thờ, lấy tay tát vào mặt pho tượng bốn cái. Sau đó, Ngụy thị bỏ ra về.
Ngày nay, dân chúng huyện Thiệu Hưng không gọi ngôi đền ấy là đền Mai Cô nữa mà lại gọi là đền thờ vợ chàng Kim.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Chồn cuối triều Minh
truyện LINH QUAN

Giao thiên cự điển thục năng can.
Phiên hối tiềm tung đảm thượng hàn.
Tất cánh thử hồ thái phân hiểu.
Thừa dư bất tị tị linh quan.


Cuối triều Minh, thủ phủ Tế Nam, tỉnh Sơn Ðông có đạo quán Chiêu Thiên. Năm Canh Thìn (1640), niên hiệu Sùng Trinh thứ 13, đạo trưởng đạo quán họ Khương, rất giỏi thuật thổ nạp.
Một hôm đầu năm, có một ông lão tới đạo quán xin gặp đạo trưởng, nói:"Bỉ nhân già rồi mà con cái thì bất hiếu, chẳng cho ở chung. Vì thế muốn tới đây xin đạo trưởng cho tạm trú một thời gian" Ðạo trưởng hỏi:"Quý danh là chi?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Hồ, tên Khứ Tật" Ðạo trưởng thuận cho ở. Vì Khứ Tật cũng biết thuật thổ nạp nên hai người rất chóng thân nhau, rồi kết làm đạo hữu.
Ðầu năm Tân Tị (1641), vào dịp dân chúng sửa soạn lễ tế Trời Ðất, Khứ Tật bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, khi tế lễ xong, Khứ Tật mới trở về. Ðạo trưởng lấy làm lạ, hỏi:"Cư sĩ đi đâu lâu thế?" Khứ Tật đáp:"Vì đạo trưởng vừa là ân nhân, vừa là đạo hữu nên bỉ nhân chẳng dám giấu. Thực ra, bỉ nhân chẳng phải là người mà là chồn. Hàng năm, cứ vào dịp dân chúng làm lễ tế Trời Ðất thì Thượng Ðế lại sai linh quan xuống trần tẩy uế nơi lập đàn tràng cũng như vùng phụ cận. Giống chồn bỉ nhân bị coi là giống xú uế nên phải lẩn tránh đi xa trên trăm dặm, kẻo bị linh quan bắt được thì sẽ bị đánh cho đến chết!" Ðạo trưởng nghe nói cũng chẳng quan tâm, vẫn để cho Khứ Tật cư trú. Hai năm tiếp theo cũng thế, cứ gần tới dịp tế lễ Trời Ðất là Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi, nửa tháng sau mới về.
Ðầu năm Giáp Thân (1644), gần tới dịp tế lễ Trời Ðất, Khứ Tật lại bỏ đạo quán ra đi. Nửa tháng sau, chẳng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng ngạc nhiên lắm. Ba tháng sau, vẫn chưa thấy Khứ Tật về, đạo trưởng cho là Khứ Tật đã tìm được nơi cư trú mới nên thầm trách Khứ Tật đã dời cư mà chẳng về nói với mình một lời.
Bốn tháng sau, một hôm bỗng thấy Khứ Tật về, đạo trưởng trách:"Cư sĩ đã tìm được nơi cư trú mới rồi phải không? Sao chẳng về nói với bần đạo một lời?" Khứ Tật lắc đầu, đáp:"Thưa chẳng phải thế! Khi dời đạo quán, bỉ nhân vẫn định tâm là nửa tháng sau sẽ về xin đạo trưởng tiếp tục cho cư trú. Song chẳng may lần này, bỉ nhân gặp phải một tai nạn suýt chết nên hôm nay mới về được"
Hỏi:"Tai nạn chi mà nguy hiểm thế?"
Ðáp:"Trong kỳ tế lễ vừa qua, bỉ nhân đã toan lẩn tránh đi xa như những kỳ trước, song vì lười biếng nên chỉ tìm cách tạm lẩn quanh vùng này. Khi tới khu rừng rậm cách đây hơn mười dặm về hướng tây, thấy trên bờ một suối nước trong, nằm khuất cuối nẻo rừng, có một chum vỡ, bỉ nhân bèn chui vào chum để tạm lẩn trong nửa tháng. Nào ngờ đúng vào ngày tế lễ, linh quan sục sạo tới cuối nẻo rừng, khám phá ra việc bỉ nhân lẩn tránh trong chum, liền cầm roi xông vào đánh. Kinh hãi quá, bỉ nhân vội bỏ chạy thục mạng!"
Hỏi:"Cư sĩ chạy tới đâu?"
Ðáp: "Thưa, tới tận bờ sông Hoàng Hà!"
Hỏi:"Linh quan có đuổi theo không?"
Ðáp:"Thưa có! Linh quan đuổi theo rất gấp. Khi ngoái cổ nhìn, thấy linh quan đã tới sát sau lưng, bỉ nhân quẫn quá, đành phải chui vào một cầu tiêu bên sông. Sợ mùi xú uế, linh quan chẳng dám vào, chỉ đứng chờ ở bên ngoài, song bỉ nhân quyết tâm nằm lỳ trong cầu tiêu, chẳng chịu ra. Lát sau, vì không chịu nổi mùi xú uế, linh quan đành bỏ đi!"
Hỏi:"Linh quan đi rồi, sao cư sĩ chẳng về đây ngay?"
Ðáp:"Vì bỉ nhân bị mùi xú uế trong cầu tiêu nhiễm vào thân thể nên chẳng dám về, phải chui vào hang đá gần sông tạm trú. Suốt bốn tháng qua, ngày nào bỉ nhân cũng phải nhảy xuống sông tắm gội song chẳng sao gột sạch được mùi xú uế. Sau hơn trăm ngày, mùi xú uế mới bắt đầu phai! Chỉ một ly nữa là bỉ nhân chẳng còn được nhìn thấy đạo trưởng!"
Hỏi:"Bây giờ cư sĩ lại về đây cư trú phải không?"
Ðáp:"Thưa không! Hôm nay bỉ nhân về đây để xin cám ơn đạo trưởng đã cho cư trú trong bốn năm qua và tiện thể xin đạo trưởng cho phép được dời khỏi đạo quán!"
Hỏi:"Cư sĩ định đi đâu?"
Ðáp: "Bỉ nhân định trở về hang cũ núi xưa"
Hỏi: "Cư sĩ có cần bần đạo giúp đỡ điều gì không?"
Ðáp:"Thưa không! Bỉ nhân chỉ muốn thưa với đạo trưởng một việc quan trọng!"
Hỏi:"Việc chi mà quan trọng thế?
" Ðáp:"Việc Trung quốc ta sắp bị biến loạn!"
Hỏi:"Sao cư sĩ biết?"
Ðáp:"Cơ trời chẳng thể tiết lậu, mong đạo trưởng hiểu cho!"
Hỏi:"Thế chốn này có việc chi không?"
Gật đầu, đáp:"Thưa có! Chốn này nguy hiểm lắm! Là hung địa chứ chẳng phải là phúc địa! Ðạo trưởng nên dời ngay đi nơi khác thì hơn!" Rồi xin cáo biệt. Ðạo trưởng nghe lời, bèn bỏ đạo quán mà đi, chẳng ai biết là đi đâu.
Mấy tháng sau, quả nhiên biến cố Giáp Thân (1644) xảy ra. Trung quốc bị biến loạn. Nhà Minh mất ngôi với nhà Thanh. Trong cơn binh lửa, đạo quán Chiêu Thiên bị san thành bình địa.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Khoẻ như hổ, nhanh như vượn
truyện BẢO TRỤ

Tiệp tự viên nhu tấn tự hồng.
Tì bà thuấn tức đạo thâm cung.
Khả lân cụ thử hảo thân thủ.
Ngộ lạc Ngô Phiên nghịch để trung.


Cuối triều Minh, tổng binh của quân đội triều đình là tướng quân họ Ngô, tên Tam Quế, tên chữ Trường Bạch. Vua Trang Liệt sai Trường Bạch đem quân lên trấn giữ cửa quan Sơn Hải ở Vạn Lý Trường Thành, thuộc huyện Lâm Du, tỉnh Hà Bắc.
Năm Giáp Thân (1644), niên hiệu Sùng Trinh thứ 17, có tướng giặc họ Lý, tên Tự Thành ở tỉnh Thiểm Tây nổi lên chống lại triều đình. Tự Thành đem quân công hãm Bắc Kinh, ép vua thoái vị.
Nghe tin, Trường Bạch vội đem quân về cứu giá song khi về tới nơi thì vua đã thắt cổ tự ải. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Trường Bạch bèn sai thuộc hạ lên mở cửa quan Sơn Hải, rước quân của Ái Tân Giác La về Bắc Kinh giúp mình đánh giặc. Tự Thành thua chạy, phải tự sát.
Lợi dụng cơ hội vào được Bắc Kinh, Ái Tân Giác La liền diệt nhà Minh, lập nhà Thanh, lên ngôi hoàng đế, tức vua Thế Tổ. Ðặt niên hiệu là Thuận Trị, phong cho Trường Bạch tước Bình Tây Vương, sai trấn giữ vùng Vân Nam. Ít lâu sau, lại bãi tước của Trường Bạch. Trường Bạch bèn mưu phản, song chưa được bao lâu thì bị bệnh mà chết. Phản quân tan rã.
Sinh thời, Trường Bạch có một tùy tướng tên Bảo Trụ, khỏe như hổ, nhanh như vượn.
Một hôm, Bảo Trụ cho gọi thợ mộc tới tư thất xây cất lầu cao. Thợ vừa dựng xong sườn lầu, Bảo Trụ đã bám vào một góc, leo lên nóc lầu, chạy vùn vụt đủ bốn vòng, rồi nhún mình nhảy xuống đất, thân vẫn thẳng, chân không chùn.
Vua có một quý phi rất thiện nghề đàn hát. Quý phi có một cây đàn tì bà rất quý, phím làm bằng noãn ngọc. Vào mùa đông, khi tiết trời lạnh lẽo, quý phi đem đàn ra gảy thì tiếng đàn làm cho căn phòng ấm áp hẳn lên. Quý phi quý cây đàn ấy lắm, cất giấu thực kỹ, chẳng cho ai coi, trừ khi có chỉ dụ do chính tay vua viết.
Một hôm, vua triệu quần thần về kinh ban yến. Trường Bạch cũng được vời, dắt Bảo Trụ về theo. Tối ấy, trong tiệc, vua kể chuyện lạ về cây đàn của quý phi. Quần thần đều nôn nóng muốn được coi nên đồng thanh tâu: "Muôn tâu bệ hạ, xin bệ hạ truyền cho nội thị đi lấy cây đàn tới đây cho chúng thần được chiêm ngưỡng một lần!" Vua ngần ngại, chẳng muốn cho coi nên đáp:"Trẫm đã hứa với quý phi là chỉ viết dụ để lấy cây đàn vào ban ngày thôi. Bây giờ tối rồi, quý phi cất giấu kỹ lắm, chẳng ai tới lấy được đâu! Sáng mai lâm triều, trẫm sẽ viết dụ sai nội thị tới lấy đem vào triều cho các khanh coi!" Quần thần đều im lặng, chẳng ai dám năn nỉ chi thêm.
Lúc ấy, Bảo Trụ đang ngồi cạnh Trường Bạch, liền đứng dậy lên tiếng:"Muôn tâu bệ hạ, nếu bây giờ bệ hạ truyền mệnh cho hạ thần đi lấy cây đàn tới đây thì hạ thần nghĩ mình chẳng đến nỗi mang tội làm nhục mệnh vua!" Vua chẳng biết nói sao, bèn vẫy một tên nội thị thân tín tới gần, khẽ truyền:"Nhà ngươi hãy tới ngay phi cung, dặn quý phi bắt thị nữ phải canh phòng cẩn mật, không được để cho ai tới lấy cây đàn!" Nội thị phụng mệnh, chạy đi ngay.
Lát sau, vua mới quay qua nói với Bảo Trụ:"Nhà ngươi vừa nói có thể đi lấy được cây đàn của quý phi tới đây. Vậy bây giờ trẫm cho phép nhà ngươi đi lấy đó!" Bảo Trụ liền cúi đầu đáp:"Hạ thần xin phụng mệnh!" Rồi bỏ chạy ra ngoài, lần đường tới phi cung.
Tới nơi, thấy đèn đuốc bên trong thắp sáng chưng, cửa đóng then cài rất kỹ, Bảo Trụ chẳng sao lẻn vào được. Thấy ngoài hành lang có con vẹt đậu trên giá, Bảo Trụ chợt nghĩ ra một kế. Bèn bắt chước tiếng mèo gầm gừ rồi bắt chước tiếng vẹt khiếp hãi. Tiếng mèo gầm gừ càng gần thì tiếng vẹt khiếp hãi càng gấp. Quả nhiên trong phòng có tiếng nữ nhân truyền lệnh:"Duyên nô! Hãy ra mở cửa đem vẹt vào đây kẻo nó bị mèo vồ chết bây giờ!" Bảo Trụ vội đứng nép vào bức tường cạnh cửa.
Lát sau, cánh cửa hé mở rồi có một thị nữ cầm đèn lồng bước ra. Bảo Trụ liền nhanh chân lẻn vào. Thấy quý phi đang ngồi ôm chặt cây đàn trong lòng, Bảo Trụ liền xông tới giật lấy rồi đẩy cửa chạy ra ngoài. Quý phi hốt hoảng, hô hoán ầm ĩ:"Ðạo tặc! Ðạo tặc!" Lính tuần phòng nghe tiếng, hò nhau cầm đèn chạy tới. Thấy một hán tử từ phi cung chạy ra, kẹp cây đàn ở nách, chúng liền đuổi bắt. Thấy hán tử chạy nhanh quá, chúng bèn lấy cung tên mà bắn như mưa song hán tử chẳng bị trúng mũi nào.
Thấy ở dọc hàng rào có một dãy hòe cao, Bảo Trụ liền phóng mình nhảy lên một cây, leo lên ngọn, chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia nhanh như vượn. Xuyên hết dãy cây, lại nhảy xuống đất, chạy vụt qua mấy dãy cung thất, mấy ngôi nhà lầu, rồi về tới điện, nơi nhà vua và quần thần đang yến ẩm.
Bảo Trụ vào điện, tới trước mặt vua, quỳ xuống mà dâng cây đàn. Vua hết sức ngạc nhiên, truyền nội thị chuyển cây đàn cho quần thần coi khắp lượt rồi truyền đem trả lại quý phi.
Ai cũng khen Bảo Trụ là một viên tướng vừa khỏe lại vừa nhanh.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Gái chồn
truyện HỒ NỮ

Chung tình hà ý lai bôn nữ.
Thủ lễ thiên tri tị nhược ông.
Ám hợp tú châm công ảo hóa.
Chu toàn nan đắc loạn ly trung.

Huyện Cửu Giang tỉnh Giang Tây có thanh niên họ Y, tên Cổn, mồ côi mẹ, sống với cha là Y ông, một thày lang trong huyện.
Một đêm, Y Cổn đang nằm ngủ, bỗng giật mình tỉnh giấc. Thấy một cô gái đẩy cửa bước vào phòng, Y Cổn kinh hãi, lớn tiếng hỏi:"Nàng là ai?" Cô gái mỉm cười, đáp:"Là chồn!" Hỏi:"Họ tên nàng là gì?" Cười, đáp:"Cần gì phải biết họ tên! Cứ gọi bằng Hồ Nữ là được rồi!" Nói xong, leo lên giường, cởi bỏ áo quần, ôm chặt lấy Y Cổn mà hôn hít, ép phải giao hoan. Tuy biết là chồn song vì thấy cô gái đẹp quá, Y Cổn chẳng sao cưỡng lại được nên truy hoan cuồng loạn. Sáng ra, Hồ Nữ cáo biệt, hẹn tối tối sẽ trở lại. Quả nhiên, từ đó, tối nào Hồ Nữ cũng tới. Y Cổn giấu kín chuyện, chẳng dám thuật lại cho ai nghe.
Ít lâu sau, thấy thân xác con mình mỗi ngày một tiều tụy, Y ông lấy làm lạ, bèn tra hỏi. Y Cổn giấu bặt, nói rằng chính mình cũng chẳng biết tại sao. Y ông chẳng tin, cứ gặng hỏi mãi. Y Cổn đành thú thực. Y ông lo lắm, bèn thuê một thanh niên cường tráng trong làng, họ Cung, tên Ðạt, tới ngủ với con để cho Hồ Nữ sợ mà xa lánh. Thế nhưng, Hồ Nữ vẫn cứ tới, ép cả Y Cổn lẫn Cung Ðạt cùng giao hoan với mình. Thấy vậy, Y ông giận lắm, chẳng thuê Cung Ðạt nữa, tối nào cũng vào ngủ với con. Từ đó, Hồ Nữ lánh mặt.
Một hôm, Y ông bận việc, phải nhờ một thanh niên khác, họ Ninh, tên Hoạt, tới ngủ với con. Hồ Nữ lại tới, ép cả Y Cổn lẫn Ninh Hoạt cùng giao hoan với mình. Thấy thế, Y Cổn lấy làm lạ, hỏi:"Tại sao nàng chỉ sợ có một mình cha ta thôi? Người nào khác tới ngủ với ta, nàng cũng vẫn tới, còn cha ta vào thì nàng lại lánh mặt?" Hồ Nữ đáp:"Thực ra thì thiếp có sợ ai đâu vì người trần thế có ai làm gì được thiếp? Tuy nhiên, thiếp vẫn còn chút luân thường đạo lý, chẳng thể ép cả hai cha con cùng giao hoan với mình được!"
Sáng ra, Y Cổn thuật chuyện lại cho cha nghe. Từ đó, tối nào Y ông cũng vào ngủ với con. Cũng từ đó, Hồ Nữ biệt tăm.
Nửa năm sau, huyện Cửu Giang bị giặc nổi lên cướp phá. Thấy dân chúng trong làng rủ nhau đem thực phẩm chạy giặc, gia đình Y Cổn cũng đem thực phẩm chạy theo, rồi lạc nhau, mỗi người một ngả.
Y Cổn chạy thục mạng vào núi Côn Lôn, từ sáng tới tối mới dám chậm bước. Thấy mặt trời đã lặn mà bốn bề toàn là rừng núi hoang vu, chẳng có ai chạy cùng đường với mình, Y Cổn lo lắm. Chợt thấy thấp thoáng từ xa có bóng một cô gái chạy tới phía mình, Y Cổn mừng quá vì nghĩ rằng mình sắp có bạn để chia sẻ mối lo âu. Khi cô gái tới gần, Y Cổn mới nhận ra cô gái chính là Hồ Nữ. Tuy vẫn sợ Hồ Nữ lại ép mình giao hoan song trong hoàn cảnh ấy, gặp được người quen cũ, Y Cổn cũng mừng lắm. Bèn lên tiếng hỏi:"Nàng đi đâu mà tình cờ chúng ta lại gặp nhau ở chốn này?" Hồ Nữ đáp:"Ðâu có phải là tình cờ! Thiếp cố tình tới đây đó chứ!" Hỏi:"Nàng tới đây để làm chi?" Ðáp:"Biết chàng chạy giặc tới đây nên thiếp tới để giúp chàng dựng tạm một ngôi nhà mà ngủ qua đêm! Bây giờ tối rồi, chàng chẳng nên đi đâu nữa, cứ đứng ở đây mà chờ, để thiếp dựng nhà cho!" Nói xong, chạy ngược lên phía bắc. Tới một bãi cỏ mãng um tùm, Hồ Nữ dừng chân rồi ngồi thụp xuống.
Lát sau, Hồ Nữ đứng dậy chạy tới chỗ Y Cổn, nắm lấy tay, kéo xuôi xuống phía nam. Kéo được một quãng, Hồ Nữ lại dừng chân, nói:"Chạy tới đây đủ rồi! Ta quay trở lại thôi!" rồi lại nắm tay Y Cổn mà kéo ngược lên phía bắc.
Tới bãi cỏ mãng, Y Cổn sửng sốt vì chợt thấy một ngôi nhà mọc sừng sững giữa khu rừng cổ thụ. Nhìn kỹ, Y Cổn thấy ngôi nhà rất kỳ lạ. Ngôi nhà vuông vức, dựng trên bốn trụ sắt, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường đồng, bốn bề kín mít, chẳng cổng ra vào. Thế nhưng, trên tường lại có những hốc lõm nhỏ, có thể tra chân vào để leo lên được. Y Cổn thắc mắc, hỏi:"Lúc nãy tuy nàng có nói là sẽ dựng tạm cho ta một ngôi nhà song ta có thấy nàng dựng lúc nào đâu mà bây giờ lại có ngôi nhà kỳ lạ này?" Hồ Nữ cười, đáp:"Thắc mắc làm chi cho thêm mệt sức? Có nhà thì hãy cứ vào mà ngủ cho qua đêm nay đi đã! Sáng mai rồi sẽ biết!" Nói xong, Hồ Nữ leo tường vào trong sân rồi bảo Y Cổn bắt chước mình mà leo vào. Y Cổn bèn leo vào theo. Thấy ngôi nhà chẳng giống những ngôi nhà bình thường, Y Cổn kinh hãi lắm. Thấy thế, Hồ Nữ cười, nói:"Có thiếp ở đây, chàng đừng có sợ!" Rồi nắm lấy tay Y Cổn mà dắt vào nhà.
Ðêm ấy, Hồ Nữ ngủ chung với Y Cổn, lại ép giao hoan. Xong xuôi, Hồ Nữ giả vờ đòi từ biệt. Y Cổn kinh hãi quá, cứ năn nỉ mãi, Hồ Nữ mới chịu ở lại. Quá nửa đêm, Y Cổn đang ngủ say, Hồ Nữ lại lay dậy, nói:"Vì bị cha chàng ghét bỏ nên thiếp đã quyết tâm đoạn tuyệt với chàng. Hôm nay, chẳng hiểu vì cớ gì mà thiếp lại thấy thương hại chàng, muốn tới đây giúp chàng dựng một ngôi nhà để ngủ, chẳng còn giữ nổi cái quyết tâm ấy nữa. Sáng mai thiếp đi, sẽ tặng lại cho chàng ngôi nhà này! Trong nhà có nhiều vàng bạc, chàng có thể lấy mà ăn tiêu suốt đời! Bây giờ chàng hãy giao hoan với thiếp một lần nữa đi đã!" Nghe thấy thế, Y Cổn mừng lắm, bèn lại giao hoan với Hồ Nữ. Rồi nằm lăn ra ngủ.
Sáng sau, khi tỉnh giấc, Y Cổn chẳng thấy Hồ Nữ đâu nữa. Bèn sục sạo tìm vàng bạc trong nhà, song chẳng thấy chi. Chán nản, Y Cổn leo tường ra ngoài.
Xuống tới đất, ngửng đầu nhìn lên, Y Cổn thấy tường, nhà, đều đã biến mất, chỉ còn lại một chiếc hộp gỗ, đặt trên bốn chiếc đinh sắt nhỏ cắm dưới đất, nằm lọt trong khuôn viên một bức tường tí hon, giữa bãi cỏ mãng.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hồi sinh, khỏi bệnh tê liệt
truyện THANG CÔNG

Hồi đầu tỏa sự ký đương niên.
Thiện ác phân minh tại nhãn tiền.
Chỉ thử tính linh lưu nhất điểm.
Từ hàng na đắc bất thùy liên.


Năm Tân Sửu (1661), niên hiệu Thuận Trị thứ 18, có nho sinh họ Thang, tên Sánh, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm quan ở tỉnh Sơn Ðông.
Mười một năm sau.
Một hôm, Thang công bị bạo bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Gia nhân đi mời thầy lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc. Ba hôm sau, Thang công hết sốt song chân tay bên phải đã bị tê liệt.
Ba tháng sau. Một sáng, Thang công lại lên cơn sốt dữ dội, phải nằm liệt giường. Gia nhân vội chia nhau săn sóc, người ngồi cạnh nắn bóp, kẻ đi mời thày lang tới nhà chẩn mạch, hốt thuốc.
Thang công đang nằm miên man trên giường thì bỗng thấy một luồng nóng từ lòng bàn chân trái bốc dần lên trên. Luồng nóng tới đùi, thấy cẳng liệt, luồng nóng tới bụng, thấy đùi liệt, luồng nóng tới ngực, thấy bụng liệt. Thế rồi luồng nóng dừng lại ở ngực, chẳng bốc lên nữa. Lát sau, hình ảnh các việc làm trong quá khứ lần lượt hiện ra trong đầu. Thoạt tiên là hình ảnh các việc thiện hiện ra. Thang công cảm thấy người thoải mái dễ chịu, lòng thanh thản. Kế đó là hình ảnh các việc ác từ hồi còn nhỏ hiện ra, như trèo cây, phá tổ chim, giết chim non. Thang công cảm thấy máu nóng dồn lên tim như nước thủy triều, làm cho người khó chịu, lòng bứt rứt, hồi lâu mới nguôi. Sau cùng là hình ảnh các việc ác mới làm gần đây. Thang công cảm thấy luồng nóng lại từ ngực bốc lên, xuyên qua cổ, qua đầu, rồi cuốn mình ra đứng bơ vơ ở giữa đường. Gia nhân thấy chân tay trái của Thang công cũng đã bị tê liệt.
Tối ấy, Thang công mất. Sáng sau, gia nhân khâm liệm thi thể, quàn linh cữu giữa phòng khách.
Thang công còn đang bàng hoàng thì bỗng thấy ở cuối nẻo đường có một người khổng lồ tiến tới gần, cúi xuống bắt mình bỏ vào ống tay áo. Vào trong, thấy có nhiều người đứng chen chúc chật cứng, Thang công muốn thoát ra ngoài song chẳng biết phải làm thế nào. Chợt nhớ tới việc cầu xin nơi đức Phật, Thang công bèn nhắm mắt, chắp tay niệm Phật. Ðột nhiên, Thang công thấy mình thoát ra ngoài. Người khổng lồ thấy thế, lại cúi xuống bắt bỏ vào ống tay áo. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Người khổng lồ lại cúi xuống bắt lần nữa. Thang công lại niệm Phật rồi lại thoát ra. Thấy ba lần bắt, ba lần thoát, người khổng lồ bèn bỏ đi, chẳng bắt nữa.
Ðứng bơ vơ ở giữa đường, Thang công phân vân chẳng biết là mình phải đi đâu. Chợt thấy mình đang đứng trên con đường đông tây và nhớ tới câu tây phương cực lạc, Thang công bèn nhắm hướng tây mà đi.
Lát sau, thấy ở bên đường có một thiền sư ngồi nhắm mắt tham thiền, Thang công vội chạy tới hỏi:"Bạch hoà thượng! Xin hòa thượng cho biết đệ tử phải đi đâu?" Thiền sư mở mắt, đáp:"Thí chủ là người khoa bảng, phải tới miếu thờ thần Văn Xương với đức thánh Khổng" Lại hỏi:"Xin hòa thượng cho biết đường nào tới miếu?" Ðáp: "Ðường này, hướng tây, trăm dặm" rồi lại từ từ nhắm mắt tham thiền. Vừa lên đường, Thang công bỗng cảm thấy thân mình nhẹ nhàng, lướt nhanh như chim bay, lát sau đã tới miếu. Bước vào miếu, Thang công thấy đức thánh Khổng đang ngồi trên điện cao, quay mặt về hướng nam. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức thánh cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức thánh mở sổ ra coi rồi đáp: "Phải tới đền đức Ðế Quân" Lại hỏi:"Xin đức thánh cho biết đường nào tới đền?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, trăm dặm" Thang công lại lên đường. Lát sau, Thang công bước vào đền thì thấy bên trong nguy nga tựa như cung điện của các bậc vua chúa. Ngửng đầu nhìn lên, Thang công thấy một thần nhân ngồi trên điện cao, trông giống hình đức Ðế Quân mà thế nhân thường vẽ để thờ. Thang công bèn sụp lạy, hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đệ tử phải đi đâu?" Ðức Ðế Quân mở sổ ra coi rồi đáp: "Ðược trở về dương thế, song tứ chi đã bị tê liệt!" Hỏi: "Xin đức Ðế Quân cho biết có ai chữa được không?" Ðáp: "Chỉ có đức Bồ Tát chùa Trúc Lâm!" Lại hỏi:"Xin đức Ðế Quân cho biết đường nào tới chùa?" Ðáp:"Ðường này, hướng tây, ngàn dặm" Thang công lại lên đường. Tới khi mặt trời sắp lặn mới đến ngôi chùa ẩn hiện trong khu rừng trúc. Vào trong, Thang công thấy đức Bồ Tát ngồi trên điện cao, khuôn mặt đầy đặn, búi tóc trang nghiêm, bên phải có tiểu thần đứng hầu, bên trái có chậu dương liễu và bình nước trong. Thang công vội sụp lạy, cầu khấn:"Xin đức Bồ Tát mở lượng từ bi, cứu cho đệ tử khỏi bệnh tê liệt!" Ðức Bồ Tát nói:"Khó thay!" Thang công cứ rập đầu mà lạy. Ðức Bồ Tát còn đang trầm ngâm thì tiểu thần đứng cạnh chợt lên tiếng:"Bạch Ðức Bồ Tát, nếu Ðức Bồ Tát muốn thí đại pháp lực, cứu thí chủ này khỏi bệnh tê liệt thì xin Ðức Bồ Tát hãy bẻ liễu làm xương, nắm đất làm thịt mà đắp vào thân cho gã" Ðức Bồ Tát liền đưa tay bẻ một cành dương liễu, bốc một nắm đất, nhúng vào bình nước trong, rồi đắp vào thân Thang công. Thang công bèn phủ phục lạy tạ trước điện. Ðức Bồ Tát quay qua bảo tiểu thần:"Hãy dẫn thí chủ này về dương thế!" Tiểu thần đáp:"Xin tuân lệnh!"
Tối ấy, tiểu thần dẫn Thang công về tới nhà, dắt đến cạnh linh cữu, đẩy vào trong, rồi quay mình bỏ đi. Mở mắt nhìn, thấy mình đang nằm trong linh cữu, Thang công bèn đằng hắng ho lên ba tiếng. Nghe tiếng ho, gia nhân kinh hãi lắm song cũng bảo nhau đem đèn lên coi. Thấy Thang công mở mắt, thở phập phồng, chúng bèn xúm lại khiêng ra khỏi linh cữu, đặt lên giường. Lát sau, thấy chân tay mình tự nhiên cử động được, Thang công bèn ngồi nhỏm dậy, hỏi chúng:"Ta chết đã được bao lâu rồi?" Chúng đồng thanh đáp:"Thưa đã được bảy ngày!" Thang công bèn đứng dậy, đi tắm rửa sạch sẽ rồi ra ngồi thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho chúng nghe.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Cướp đội lốt sư
Truyện BỐ THƯƠNG

Khê hác nan doanh ngốc tử tâm.
Tá tương Phật diện khất đa kim.
Nhược phi Bồ tát từ bi lực.
Phòng hải tướng quân hà xứ tầm.


Cử nhân họ Lý ở huyện Phong Nguyên, tỉnh Sơn Ðông, thuật chuyện:
Huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi chùa bỏ hoang. Một hôm, có khách buôn chở vải từ xa tới huyện bán. Bán hết, khách buộc bọc tiền vào trước bụng rồi đi ngoạn cảnh. Tới chùa, thấy phong cảnh đẹp, khách bèn vào thăm. Nhà sư trụ trì thấy khách tới, vội chạy ra tiếp. Khách thấy nhà sư lực lưỡng như con nhà võ.
Thấy cảnh chùa tiêu sái nhưng chùa lại đổ nát, khách cảm khái, thở dài. Thấy thế, nhà sư nói:"Thí chủ sùng đạo, cúng dường chút ít, sửa sang cái cổng, cũng sáng sủa rồi!" Khách sốt sắng đáp:"Xin cúng dường ngay" Nhà sư mừng lắm, vội dắt khách vào phương trượng, pha trà mời uống. Lát sau, nhà sư nói:"Xin mời thí chủ theo bần tăng đi thăm điện gác trong chùaỢ Khách đáp:"Xin vâng" rồi đi theo nhà sư.
Nhà sư dắt khách đi thăm chùa hết một vòng rồi lại dắt về phương trượng. Bỗng nhà sư nói:"Xin thí chủ cúng dường thêm cho đủ tiền trùng tu ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân chỉ đủ tiền cúng dường để sửa sang cái cổng thôi!" Nhà sư nài ép:"Thí chủ là đại thương gia, dư tiền cúng dường để trùng tu cả ngôi chùa!" Khách đáp:"Bỉ nhân đi buôn cũng chỉ kiếm đủ tiền nuôi gia đình. Nay thành tâm muốn cúng dường chút ít để sửa sang cái cổng. Còn vốn thì phải giữ lại để đi buôn!" Ðột nhiên vẻ mặt nhà sư trở nên cực kỳ hung dữ, sát khí đằng đằng. Thấy thế, khách kinh hãi quá, vội đấu dịu, nói:"Hoà thượng đã muốn vậy thì bỉ nhân xin cúng dường cả vốn lẫn lời để trùng tu ngôi chùa!" Nói xong, cởi bọc tiền trước bụng mà nạp cho nhà sư. Rồi cúi đầu chào, nói: "Bây giờ, bỉ nhân xin phép được ra về!" Nhà sư lắc đầu, rút giải lưng ra, buộc bọc tiền vào trước bụng, rồi khoát tay, nói:"Khoan đã, chẳng được đi vội! Có phải là tự ý thí chủ muốn cúng dường đâu? Bây giờ mất cả bọc tiền, ắt phải thù oán, thế nào mà chẳng nói xấu bần tăng với thiên hạ! Vì thế, bần tăng phải xuống tay trước!" Khách tái mặt. Nhà sư chợt rút từ trong người ra một thanh đao sáng loáng. Khách van lạy, nói:"Xin hòa thượng mở lòng hiếu sinh, tha cho mạng sống" Nhà sư lạnh lùng, đáp: "Không được!" Thấy hết hy vọng sống, song còn hy vọng chết toàn thây, khách lại xin:"Thế thì xin cho tự ải!" Nhà sư gật đầu, nói:"Ðược! Song phải tự ải ngay!" Rồi lấy ra một cuộn dây thừng đưa cho khách, kề đao vào cổ, ép tới một phòng tối trong chùa, mở cửa đẩy vào, khóa cửa lại rồi nói vọng vào:"Tự xử ngay đi, đừng để bần tăng phải phạm sát giới!"
Vừa lúc ấy, có một võ quan là Phòng Hải Tướng Quân cưỡi ngựa qua chùa. Từ ngoài đường nhìn vào, qua hàng rào đổ nát, võ quan thấy một thiếu nữ áo đỏ, phấn son loè loẹt, đang mỉm cười, bước vào phương trượng. Võ quan cau mày bất bình, thầm nghĩ chắc nhà sư trụ trì thuộc loại hổ mang. Bèn phóng ngựa vào chùa, ngừng trước phương trượng, toan vào cật vấn. Ðúng lúc ấy, nhà sư cũng vừa về tới phương trượng. Thấy nhà sư, võ quan cau mày hỏi:"Con gái nào mà lại được phép vào phương trượng nhà chùa?" Thấy võ quan cực kỳ uy dũng, lại đột nhiên vào thăm chùa, nhà sư chột dạ, đáp:"Tướng quân nhìn lầm rồi! Có ai vào phương trượng nhà chùa đâu!" Võ quan càng nghi, nói:"Hãy dẫn bản chức vào phương trượng!" Nhà sư liền đưa tay ra hiệu mời vào. Võ quan vào phương trượng, đảo mắt nhìn quanh thì thấy quả thực chẳng có người nào cả. Chợt nghĩ có thể thiếu nữ đã nhanh chân ẩn núp quanh quất trong chùa, võ quan vội rút gươm, ép nhà sư phải dẫn mình đi khắp nơi để tìm kiếm. Trừ phòng tối nhốt khách, nhà sư dẫn võ quan đi khắp nơi song võ quan chẳng thấy thiếu nữ đâu. Ðảo mắt nhìn quanh, chợt thấy ở đằng xa có một căn phòng khóa trái cửa mà nhà sư chưa dẫn mình vào, võ quan liền trỏ gươm về phía căn phòng, quát:"Mở cửa phòng kia ra!" Nhà sư lắc đầu, nói:"Phòng ấy có nhiều ma quái lắm, xin tướng quân chớ vào!" Võ quan nổi giận, ép nhà sư phải dẫn mình tới rồi vung gươm chém sập cánh cửa. Thấy một xác người treo lủng lẳng trên xà nhà, võ quan vội nhảy lên chém đứt dây treo rồi đỡ xác xuống. Thấy xác còn nóng hổi, võ quan vội nới lỏng vòng dây quanh cổ, hy vọng xác còn thở được. Bất đồ, nhà sư dợm quay mình bỏ chạy. Thấy thế, võ quan vội nhảy ra túm lấy nhà sư, kéo vào phòng, cắt dây treo xác, trói chặt vào cột.
Lát sau, khách tỉnh. Võ quan tới gần hỏi chuyện. Khách cứ thực tình mà khai. Võ quan hỏi:"Thế còn thiếu nữ áo đỏ đâu?" Khách ngơ ngác, hỏi lại:"Thiếu nữ áo đỏ nào?" Võ quan bèn thuật chuyện thấy thiếu nữ áo đỏ bước vào phương trượng. Khách kinh ngạc, nói:"Thực tình, từ lúc bỉ nhân vào thăm chùa tới giờ, ngoài nhà sư trụ trì và bỉ nhân ra, chẳng có người nào khác. Chắc là đức Phật muốn cứu bỉ nhân nên mới hiện hình làm thiếu nữ áo đỏ để khiến tướng quân vào chùa mà cứu bỉ nhân đó thôi!" Võ quan đứng lặng, suy nghĩ hồi lâu rồi chợt nói:"Gã này đúng là một tên cướp đội lốt nhà sư! Phải giết gã đi để trừ hại cho dân mới được!" Nói xong, vung gươm chém đầu nhà sư lăn xuống đất. Rồi dùng gươm cắt đứt bọc tiền trước bụng nhà sư mà trả lại cho khách. Khách quỳ lạy, tạ ơn cứu mạng. Võ quan liền tra gươm vào vỏ, nhảy lên lưng ngựa, phóng đi.
Khách lên huyện đường trình bày đầu đuôi câu chuyện với quan tể. Quan liền sai lính tới chùa đem xác nhà sư đi chôn. Câu chuyện được đồn đãi nhanh chóng khắp huyện.
Khách xin quan tể cho mình được phép đứng ra trùng tu ngôi chùa. Quan chấp thuận. Khách bèn mở cuộc lạc quyên, đem cả bọc tiền của mình cộng với số tiền lạc quyên được mà trùng tu ngôi chùa. Rồi khách thỉnh một vị hoà thượng có đức hạnh tới chùa trụ trì.
Từ đó, ngày nào cũng có rất đông Phật tử tới chùa lễ Phật.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hóa chồn vì hiếu sắc
truyện KIM LĂNG ẤT

Lân phụ như hà khả khải du.
Hạt y trước thể cánh thành hồ.
Tà ma nhất động tâm tiên biến.
Mạc nhạ chân long bích thượng phù.


Thời xưa, ở Trung quốc, có người tên Trung Sơn, nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say.
Thời nay, ở phường Khương Thủy, thủ phủ Kim Lăng (tên cũ của Nam Kinh), tỉnh Giang Tô, có người họ Bành, tên Túy Toàn, có vợ họ Lang và hai con. Túy Toàn cũng nổi tiếng về biệt tài nấu rượu ngon và say nên dân phường tặng cho Túy Toàn mỹ danh là Bành Trung Sơn. Mỗi lần nấu rượu xong, Túy Toàn lại pha thuốc say vào rượu rồi mới đem bán. Bợm rượu nào dù tỉnh tới đâu, chỉ cần uống hai chén rượu của Túy Toàn là đã say mèm. Rượu bán chạy quá, Túy Toàn phải đốc thúc cả vợ con phụ nấu suốt ngày đêm mà vẫn không đủ rượu để bán. Nhờ tài nấu rượu, Túy Toàn trở thành cự phú.
Thời ấy, dân phường Khương Thủy rất lo sợ về nạn chồn biến thành thanh niên tuấn tú, tới nhà cưỡng chiếm phụ nữ. Trong phường, có hai anh em nhà giàu họ Tôn, cùng có vợ đẹp, cư ngụ chung trong một ngôi nhà. Người anh tên Mạnh, người em tên Trọng. Vợ Tôn Mạnh thường bị chồn tới cưỡng chiếm.
Một đêm, Túy Toàn thức khuya nấu rượu. Nấu xong, pha thuốc say vào chum, đậy nắp thực kỹ rồi đi ngủ. Sáng sau, vào bếp lấy rượu ra cho vợ con đem bán, Túy Toàn thấy một chồn say mèm, nằm mê man cạnh chum. Túy Toàn liền dón dén đi lấy dây trói chặt bốn chân chồn lại rồi lấy dao toan giết. Chồn chợt tỉnh, van lạy:"Xin tiên sinh tha mạng cho! Tiên sinh có việc chi sai bảo tiểu nhân cũng xin làm ngay!" Túy Toàn hỏi:"Mi có nói thực không?" Chồn đáp:"Thưa thực!" Túy Toàn liền cởi trói tha cho chồn. Ðột nhiên, chồn biến thành một thanh niên tuấn tú. Chợt nhớ tới chuyện vợ Tôn Mạnh bị chồn cưỡng chiếm, Túy Toàn hỏi:"Chồn thường lui tới nhà họ Tôn là chồn nào?"
Ðáp:"Thưa chính là tiểu nhân!" Thấy vợ Tôn Trọng còn đẹp hơn vợ Tôn Mạnh, Túy Toàn nói:"Mi phải dắt ta tới cưỡng chiếm vợ Tôn Trọng!" Ðáp: "Tiên sinh sai bảo bất cứ việc gì khác tiểu nhân cũng xin làm song riêng việc này thì tiểu nhân xin chịu!" Nói:"Mi vừa hứa buông miệng với ta để được tha mạng, bây giờ mi lại toan nuốt lời phải không?" Chồn thở dài, đáp:"Tiên sinh đã muốn thế thì hãy đi theo tiểu nhân!" Túy Toàn bèn nói với vợ con rằng mình có việc phải đi ra ngoài, rồi đi theo chồn.
Chồn dẫn Túy Toàn ra khỏi thành, đi thực xa. Tới một hang núi, chồn vào hang lấy ra một chiếc áo màu vàng đưa cho Túy Toàn, nói:"Chiếc áo này là tàng hình y! Ai mặc vào người thì mắt thế nhân chẳng thể nhìn thấy, chỉ có mắt loài chồn tiểu nhân mới nhìn thấy được thôi! Nếu tiên sinh mặc chiếc áo này mà tới nhà họ Tôn thì chẳng ai nhìn thấy được!" Nghe thấy thế, Túy Toàn cũng chỉ nửa tin nửa ngờ. Bèn hỏi:"Mi lấy chiếc áo này ở đâu ra?" Ðáp:"Chiếc áo này là di vật của tiện huynh. Từ ngày tiện huynh qua đời, tiểu nhân vẫn cất giữ làm kỷ vật. Nay đã trót hứa với tiên sinh nên phải lấy ra biếu!" Lại hỏi: "Thế mi định bao giờ mới dắt ta tới nhà họ Tôn?" Ðáp: "Tối mai, giờ dậu, tiểu nhân sẽ tới nhà tiên sinh!" Túy Toàn mừng lắm. Ðể thử xem lời chồn nói có đúng hay không, Túy Toàn bèn mặc chiếc áo vào người rồi ra về. Về nhà, thấy vợ con không nhìn thấy mình, Túy Toàn mừng lắm. Vào phòng thay áo rồi đi ra, thấy vợ con lại nhìn thấy mình, Túy Toàn mới tin lời chồn là đúng.
Tối sau, đúng hẹn, chồn tới. Túy Toàn bèn lấy chiếc áo mặc vào người rồi đi theo. Tới nhà họ Tôn, chồn dắt Túy Toàn chui qua hàng rào vào sân. Tới hành lang, cả hai cùng nhìn thấy trên tường có một đạo bùa dán cạnh một ngọn đèn leo lét. Thấy trên đạo bùa có vẽ một nét lớn, ngoằn ngoèo như rồng rắn, chồn tái mặt, nói: "Ðạo bùa này là của Âu Dương hoà thượng. Pháp thuật của hoà thượng này cao cường lắm. Anh em họ Tôn đã mời được hoà thượng này về đây thì tiểu nhân chẳng dám vào đâu!" Nói xong, ù té bỏ chạy. Thấy thế, Túy Toàn đã toan chạy theo, song vì còn tiếc rẻ cô vợ nhan sắc của Tôn Trọng nên chưa chịu chạy ngay, cứ lượn đi lượn lại trước đạo bùa để quan sát. Ðột nhiên, nét vẽ trên đạo bùa biến thành rồng, cuộn thành vòng, ngửng đầu chực bay. Lúc đó Túy Toàn mới hết hồn, co cẳng chạy. Vừa chui qua hàng rào ra tới đường, bỗng Túy Toàn thấy một nhà sư hình dung cổ quái, đứng ở giữa đường, tay trái cầm đèn, tay phải cầm bùa, miệng lẩm nhẩm đọc thần chú, hướng về phía mình mà làm phép. Kinh hãi quá, Túy Toàn cắm cổ chạy về nhà, vào phòng nằm ngủ.
Sáng sau, Lang thị thấy chồng ngủ trưa, bèn vào đánh thức. Túy Toàn chỉ ú ớ rồi lại ngủ mê man. Lang thị thầm nghĩ chắc chồng mình đêm qua thức khuya nấu rượu nên để yên cho ngủ, chẳng đánh thức nữa.
Trưa ấy, dân phường Khương Thủy nghe đồn anh em nhà họ Tôn đã thỉnh được Âu Dương hoà thượng tới nhà lập đàn trừ chồn cho phường nên rất vui mừng, rủ nhau tới nhà họ Tôn coi. Lang thị vào đánh thức chồng dậy để cùng đi coi với mình. Thấy chồng vẫn còn ngủ say nên Lang thị ra rủ hai đứa con. Tới nơi, Lang thị thấy nhà sư đã lập xong đàn tràng. Lát sau, nhà sư làm phép rồi niệm thần chú, gọi chồn tới quy phục. Ðột nhiên mọi người thấy Túy Toàn, từ ngoài cổng chạy huỳnh huỵch vào nhà, mặc chiếc áo màu vàng, sắc mặt nhợt nhạt. Tới trước đàn, đột nhiên Túy Toàn ngã quỵ xuống đất, hóa thành chồn, chiếc áo màu vàng vẫn còn khoác trên thân. Ai nấy đều kinh hãi.
Lúc thấy chồng chạy tới, Lang thị đã ngạc nhiên. Nay thấy chồng biến thành chồn, Lang thị lại càng kinh hãi. Nhà sư rút dao ra toan giết. Thấy thế, Lang thị vội quỳ xuống đất, khẩn cầu:"Xin hoà thượng mở lượng hải hà, tha chết cho chồng tiện thiếp. Tiện thiếp chắc rằng chồng tiện thiếp đã bị mắc mưu của chồn nên mới hóa thành chồn" Nhà sư gật đầu, nói:"Nếu thế thì hãy dắt về mà chăm sóc!"
Lang thị và hai con bèn dắt chồn về, chăm sóc chu đáo. Dọn cơm rượu cho ăn, dọn giường nệm cho ngủ, những mong chồn hóa trở lại thành người. Thế nhưng, ba hôm sau, chồn vẫn là chồn, chẳng thể hóa trở lại thành người được nữa.
Tối ấy, đột nhiên chồn lăn ra chết.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thi làm Thành Hoàng
truyện KHẢO THÀNH HOÀNG

Nhân sinh bách hạnh hiếu vi tiên.
Minh nghĩa khai tông đệ nhất thiên.
Khấp thế trần tình dư giả nhật.
Hoan thừa huyên thảo hỷ diên niên.



Anh rể bản nhân thuật chuyện:
Ông nội của anh rể bản nhân là Tống công, húy Ðào. Sinh thời, công là một nho sĩ, được hưởng lương một ấp. Năm ấy, công 51 tuổi, rước lão mẫu, 71 tuổi, về ở chung để tiện bề phụng dưỡng.
Một hôm, công bị bạo bệnh, lên giường nằm rồi mất. Lão mẫu thuê người khâm liệm, quàn linh cữu ở phòng khách.
Hôm ấy, công vừa lên giường nằm thì chợt thấy một lính cưỡi ngựa, tay cầm văn thư, dắt theo một ngựa trắng, vào sân nhà, buộc ngựa ở ngoài sân rồi vào phòng, nói:"Có lệnh trên sai tiểu nhân tới mời tiên sinh đi thi" Công liền dồn dập hỏi:"Lệnh của ai? Thi cái gì? Ai là giám khảo?" Lính chẳng đáp, chỉ giục:"Xin tiên sinh hãy sửa soạn mau cho!" Công đang bị bệnh nên yếu sức, song cũng cố gắng ngồi dậy mặc áo quần. Lính bèn dìu công ra sân, đỡ lên lưng ngựa trắng rồi bảo công rong ngựa theo mình. Ðường đi thực là lạ lùng, vắng vẻ.
Lát sau, tới một đô thị sầm uất, trông tựa chốn đế đô, lính dẫn công vào một dinh thự nguy nga, bảo công xuống ngựa, rồi trao cả hai ngựa cho lính canh. Lính dẫn công qua cổng, qua sân, lên thềm cao, bước vào một cung điện. Ngửng đầu nhìn lên, công thấy cung điện cực kỳ tráng lệ. Thấy ở cuối điện có mười một vị thần đang ngồi trên bục cao, công cố đoán xem các vị ấy là ai song chẳng sao đoán được trừ vị ngồi chính giữa thì công đoán chắc là Quan Ðế đời Tam Quốc vì trông giống hình Quan Ðế mà thế nhân thường vẽ để thờ. Dưới sàn thấp, mỗi bên phải trái đều có bày một ghế, một bàn, trên có để sẵn giấy bút. Ghế phải đã có một nho sĩ ngồi, còn ghế trái thì để trống. Một vị lấy tay chỉ ghế trống, bảo công tới ngồi. Công vội tuân lệnh. Vị ấy đứng dậy, xuống phát cho mỗi người một đề thi, rồi nói:"Viết bài ngay đi!" Công mở đề, chỉ thấy vẻn vẹn có tám chữ:"Nhất nhân, nhị nhân, hữu tâm, vô tâm" (Một người, hai người, cố tình, vô ý). Nho sĩ với công cùng cặm cụi viết bài. Hai người viết xong, cùng đưa bài lên nạp rồi trở về chỗ ngồi. Chư thần truyền tay nhau đọc.
Lát sau, một vị nói:"Hai bài cùng hay. Tuy nhiên, bài của Tống sinh có hai câu xuất sắc: Cố tình mà làm điều thiện, tuy thiện song chẳng nên thưởng. Vô ý mà làm điều ác, tuy ác song chẳng nên phạt" Chư thần đều gật gù, khen hay rồi xúm quanh Quan Ðế mà bàn bạc.
Hồi lâu, một vị gọi công lên gần bục, nói:"Tỉnh Hà Nam khuyết chức thành hoàng, nhà ngươi đáng được sung vào chức ấy!" Bấy giờ công mới hiểu là nho sĩ và mình cùng được gọi tới để chư thần chọn một người đi làm thành hoàng. Công vội quỳ xuống sàn, rập đầu khóc, thưa:"Ðược chư thần đoái thương, cho đi làm thành hoàng, thực chẳng dám chối từ. Song chư thần xét cho, dương thế còn mẹ già, đã bảy mươi mốt tuổi, chẳng biết cậy vào ai. Nay mong được ở nhà, phụng dưỡng mẹ cho trót, rồi sẽ xin tuân lệnh" Một vị ra lệnh cho viên chủ bạ râu dài đứng cạnh:"Hãy lấy thọ bạ ra coi xem thân mẫu của Tống sinh còn được hưởng bao nhiêu tuổi nữa?" Viên chủ bạ vào phòng trong bưng ra một cuốn sổ dày, đặt lên bàn, lật trang tìm đọc. Lát sau, thưa:"Còn được hưởng chín tuổi nữa" Chư thần đưa mắt nhìn nhau như để hỏi ý. Chợt Quan Ðế phán:"Thôi được. Bây giờ hãy tạm sung Trương sinh vào chức ấy trong chín năm. Sau đó, sẽ trao lại cho Tống sinh" Phán xong, Quan Ðế quay qua bảo công:"Ðáng lẽ nhà ngươi phải đi phó nhậm ngay song vì nhà ngươi có hiếu nên được về phụng dưỡng mẹ già thêm chín năm nữa. Hết hạn, sẽ cho gọi lại!" Công vội rập đầu lạy tạ. Quan Ðế lại sai lính gọi nho sĩ kia tới gần bục mà bảo:"Nhà ngươi chẳng còn mẹ. Vậy hãy tạm đi phó nhậm chức thành hoàng ở Hà Nam thay cho Tống sinh. Sau chín năm, sẽ được sung vào chức khác!" Nho sĩ cũng rập đầu lạy tạ.
Lính dắt hai người ra sân. Nho sĩ bước tới nắm tay công, tự giới thiệu:"Bỉ nhân họ Trương, quê ở huyện Trường Sơn!" Công cũng đáp lễ, nói:"Bỉ nhân họ Tống, quê ở huyện Chuy Xuyên!" Nho sĩ bèn làm một bài thơ tặng công. Công cũng làm một bài thơ tặng lại. Chợt thấy người lính dắt hai ngựa ra sân, đỡ công lên lưng ngựa trắng, bảo công rong ngựa theo mình. Công cúi đầu chào nho sĩ rồi rong ngựa theo lính.
Lát sau, về tới sân nhà, công xuống ngựa. Lính nói: "Thôi, tiên sinh vào nhà đi!" rồi quay ngựa ra khỏi cổng, dắt theo ngựa trắng. Công vừa bước chân vào phòng khách thì chợt bừng mắt tỉnh, thấy mình đang nằm trong linh cữu chưa đậy nắp. Công trở mình. Lão mẫu nghe có tiếng động trong linh cữu, bèn bước tới coi. Thấy công đã hồi sinh, lão mẫu mừng lắm, vội đỡ công dậy, dìu vào phòng trong. Chiều ấy, công tỉnh hẳn, nói năng được như thường. Công hỏi chuyện thì lão mẫu nói công đã mất được ba ngày. Công bèn thuật chuyện mình thấy cho lão mẫu nghe. Lão mẫu bảo công đọc bài thơ của nho sĩ tặng thì công chỉ còn nhớ được có hai câu:
Hữu hoa, hữu tửu, xuân thường tại,
Vô nguyệt, vô đăng, dạ tự minh
(Có hoa, có rượu, xuân luôn còn,
Không trăng, không đèn, đêm tự sáng)
Hôm sau, công nhờ người sang huyện Trường Sơn hỏi thăm thì được biết quả có nho sĩ họ Trương trong huyện mới mất được bốn ngày, đúng vào ngày công mất.
Chín năm sau, quả nhiên lão mẫu qua đời. Làm tang lễ cho lão mẫu xong, công tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới, đi giày mới, chít khăn đỏ, lên giường nằm mà mất.
Chiều ấy, nhạc gia của công cư ngụ ở cửa tây huyện thành bỗng thấy công chít khăn đỏ, cưỡi ngựa trắng, tới nhà mình cùng với một đoàn xa mã hộ tống. Công xuống ngựa, vào phòng khách, chẳng nói một lời, sụp lạy nhạc gia một lạy rồi trở ra, lên ngựa mà đi. Nhạc gia kinh nghi, liền cho người chạy tới nhà công coi thì được biết công mới mất được mấy giờ.
Sinh thời, công có viết một tập tiểu truyện, thuật lại thực rõ ràng từng chi tiết của câu chuyện. Anh rể bản nhân vẫn cất giữ tập truyện ấy. Tiếc rằng sau cơn binh lửa năm Giáp Thân (1644), tập truyện ấy bị thất lạc. Anh rể bản nhân chỉ còn nhớ được sơ lược có bấy nhiêu thôi.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Để của cho con
truyện LÝ BÁT CANG

A ông ngụ tạng tí hà trì.
Cánh đáo sơn cùng thủy tận thi.
Hồi thủ di lưu đương nhật ngữ.
Chấp niên khâm lẫm dĩ tiền tri
.

Triều Tống, tỉnh Sơn Ðông có bốc sư họ Lý, tên Xích Vũ, nhà rất giàu. Ngoài ba ngôi nhà lớn, Lý ông còn chôn giấu rất nhiều vàng. Nghe đồn Lý ông có tới tám chum vàng nên người làng đặt cho Lý ông lộng danh là Lý Bát Cang (Lý Tám Chum)
Lý ông không có con gái, chỉ có hai trai là Xích Thành, lên 10, và Nguyệt Sinh, lên 8, theo học cùng một thày đồ.
Tính Xích Thành hiền lành, cần kiệm song vì không thích văn chương nên sau khi biết đọc văn tự, Xích Thành xin cha mẹ cho về quê trông nom gia nhân canh tác. Năm 20 tuổi, Xích Thành được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Xích Thành họ Cốc. Cốc thị cũng hiền lành, cần kiệm như chồng nên chỉ ít năm sau, hai vợ chồng đã trở nên giàu có. Xích Thành có ba trai, ba gái.
Tính Nguyệt Sinh cũng đôn hậu nhưng ăn tiêu hoang phí. Vốn ưa thích văn chương, Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho theo học tới khi đậu đại khoa. Mười năm sau, Nguyệt Sinh thi đậu thái học sinh (tiến sĩ) song vì không thích ra làm quan nên Nguyệt Sinh xin cha mẹ cho về quê ở chung. Năm 20 tuổi, Nguyệt sinh cũng được cha mẹ cưới vợ cho rồi cho hai vợ chồng một ngôi nhà để ra ở riêng. Vợ Nguyệt Sinh họ Xa, tính rất hiền lành và hay chiều chồng, chẳng bao giờ ngăn cản chồng mình điều chi. Nguyệt Sinh chỉ có hai trai.
Mười năm sau, Lý bà mất. Thấy mình đã già, Lý ông tự biết cũng chẳng còn sống được bao lâu. Bèn đào bảy chum vàng lên rồi cho gọi hai con tới nhà, nói:"Thân mẫu các con đã qua đời mà ta thì cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa nên ta muốn chia cho mỗi đứa một phần của cải. Bây giờ ta có bảy chum vàng. Xích Thành đông con, ta cho sáu chum còn Nguyệt Sinh ít con, ta cho một chum. Tuy nhiên, sau khi ta chết thì ngôi nhà ta đang ở với mười mẫu ruộng ta đang cho người cấy sẽ thuộc về Nguyệt Sinh!" Nguyệt Sinh bất mãn nhưng vì sợ cha nên chẳng dám nói. Hai anh em nhận lãnh phần chia rồi tải về nhà.
Biết Nguyệt Sinh bất mãn, một hôm Lý ông cho gọi riêng tới nhà mà bảo:"Chẳng phải là ta thiên vị anh con, cho nó nhiều hơn con đâu. Ta còn một chum nữa, chôn riêng một chỗ, để dành cho con. Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!"
Ít lâu sau, Lý ông bị bệnh nặng. Nguyệt Sinh sợ cha chết bất thần thì mình sẽ chẳng biết được chỗ chôn vàng, nên sang nhà cha, rình lúc vắng người, lẻn vào hỏi nhỏ:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?" Lý ông đáp:"Ta chưa thể nói cho con biết được! Ở đời, mỗi người đều có một phần số riêng, sướng khổ khác nhau. Bây giờ con đang được hưởng cái phước có vợ hiền thì hãy cứ hưởng đi đã! Con thì ăn tiêu hoang phí mà vợ con thì hiền lành thái quá, chẳng biết ngăn cản con. Nếu bây giờ ta có cho con nhiều tiền bạc thì chắc chắn là con cũng sẽ tiêu hết ngay!" Nguyệt Sinh không nghe, cứ năn nỉ xin được biết chỗ chôn vàng. Lý ông liền nổi giận, quát:"Mày thì ăn tiêu hoang phí, chẳng biết giữ của, mà con vợ mày thì chiều mày thái quá, chẳng biết ngăn cản mày. Số mày còn phải nghèo túng trên hai chục năm nữa rồi mới khá được! Bây giờ mà mày có tiền rừng bạc biển thì cũng sẽ hết ngay. Chừng nào mà mày chưa phải là nghèo rớt mùng tơi thì đừng có hy vọng được tao cho thêm!" Nguyệt Sinh sợ cha mà cũng có hiếu nên chẳng dám hỏi chi nữa, chỉ mong sao cho cha chóng khỏi bệnh để mình có dịp dò hỏi được chỗ chôn vàng.
Ba tháng sau, Lý ông trở bệnh nặng rồi mất, Nguyệt Sinh vô cùng thất vọng. Chum vàng cha cho đã đem trả nợ mất gần nửa nên thầm nghĩ bây giờ lại phải chung góp với anh để làm tang lễ cho cha thì sẽ chẳng còn được là bao. May sao, Xích Thành gọi riêng em ra một nơi mà bảo cho biết là mình sẽ đứng ra lo liệu hết tang lễ cho cha. Nguyệt Sinh mừng lắm.
Sau tang lễ, Nguyệt Sinh đưa vợ con tới cư ngụ ở ngôi nhà của cha để lại, còn ngôi nhà của mình thì cho thuê. Ðã ăn tiêu hoang phí, lại có tính hiếu khách, ngày nào Nguyệt Sinh cũng sai gia nhân đi mời khách về nhà ngâm vịnh, có ngày sai vợ làm tới bốn bữa cơm thịnh soạn để đãi khách. Ðã thế, thấy bạn bè nào than túng, Nguyệt Sinh cũng vào bảo vợ xuất tiền cho vay nên bị bọn vô lại trong làng rủ nhau tới nhà bòn của. Vốn không biết cách quản lý ruộng nương, Nguyệt Sinh chẳng thâu nhập được là bao. Càng ngày Nguyệt Sinh càng nghèo.
Mười năm sau, Nguyệt Sinh rơi vào cảnh túng thiếu. May được Xích Thành tốt bụng, thường lén vợ mà chu cấp cho em nên Nguyệt Sinh cũng chưa đến nỗi nào.
Năm năm sau, Xích Thành bị bệnh rồi mất. Từ đó, Nguyệt Sinh chẳng còn biết trông cậy vào ai. Mùa xuân, Nguyệt Sinh phải đi vay thóc về cho gia đình ăn. Mùa thu, thâu hoạch được chút nào thì lại phải đem đi trả nợ hết, cả vốn lẫn lời. Ít lâu sau, lại phải bán rẻ ngôi nhà cho thuê và mười mẫu ruộng cha để lại cho. Nhiều bữa trong nhà chẳng còn gạo ăn, Nguyệt Sinh phải đôn đáo chạy đi vay mượn. Gia nhân thấy chủ nghèo quá, bèn rủ nhau trốn hết. Ba năm sau, con trai lớn của Nguyệt Sinh bị bệnh mà chết. Vì thương con quá, Xa thị cũng bị bệnh mà chết theo con. Bấy giờ, trong nhà chỉ còn Nguyệt Sinh với đứa con trai nhỏ.
Năm sau, hết tang vợ, Nguyệt Sinh đem chút tiền còn lại đi cưới một cô vợ kế, họ Từ, trước kia là vợ của một người lái dê. Nguyệt Sinh hy vọng Từ thị sẽ giúp mình làm ăn khá giả hơn. Thế nhưng, hai năm sau, Nguyệt Sinh lại càng nghèo thêm. Tính Từ thị rất thô bạo, trái hẳn tính Xa thị thủa trước. Ngày nào hàng xóm cũng thấy Từ thị thóa mạ chồng, cấm chồng không được giao du với bè bạn.
Một đêm, Nguyệt Sinh nằm mộng thấy cha về, nói:"Tình cảnh của con bây giờ có thể nói là nghèo rớt mùng tơi rồi đó! Trước kia ta có hứa cho con một chum vàng, bây giờ có thể lấy lên mà chi tiêu" Nguyệt Sinh vội hỏi:"Chum vàng thân phụ cho con, chôn ở chỗ nào?"Ðáp: "Sáng mai ta sẽ chỉ chỗ cho!" Bỗng Nguyệt Sinh tỉnh giấc. Nghĩ lại giấc mộng, Nguyệt Sinh lấy làm lạ nhưng thầm nghĩ chắc mình nghèo quá, ngày nào cũng mơ tưởng tới tiền bạc nên mới sinh ra mộng mị vớ vẩn thế thôi. Vả lại, cha mất đã lâu rồi, chẳng cho mình biết chỗ chôn vàng thì làm sao mà mình có thể tìm thấy được? Vì thế, Nguyệt Sinh cũng chẳng buồn để ý tới giấc mộng nữa.
Sáng sau, đột nhiên bức tường rào ở vườn sau nhà Nguyệt Sinh bị đổ vì đã quá cũ. Từ thị bắt chồng phải ra cuốc đất đắp lại ngay. Sợ vợ, Nguyệt Sinh vội tuân lời. Khi cuốc đất đắp tường, cuốc phải một vật cứng, Nguyệt Sinh nhặt lên coi thì thấy là một mảnh nắp chum. Bèn thử cuốc sâu thêm chút nữa thì thấy lộ ra một chum vàng. Mừng quá, Nguyệt Sinh vội chạy vào nhà tìm vợ con, bảo ra vườn sau giúp mình khuân vàng vào nhà. Từ đó, gia đình Nguyệt Sinh lại trở nên khá giả.
Một hôm, nhớ tới câu nói của cha ngày trước:"Khi nào gia đình con vắng người thì ta mới bảo cho biết!" Nguyệt Sinh chợt nghĩ ra cái nghĩa của câu nói đó "Bây giờ vợ cả và con trai lớn của mình đã chết, gia nhân đã rủ nhau trốn hết, thì gia đình mình trở nên vắng người"
Nhờ chum vàng, Nguyệt Sinh được sống trong cảnh sung túc với Từ thị và đứa con trai cho tới hết cuộc đời.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Hổ trả ơn người
truyện NHỊ BAN

Tam niên tiền sự vị toàn vong.
Báo đức hô nhi đại trục lang.
Y sĩ thảng vi Tôn tứ Mạc.
Hựu tòng nguyên quật đắc tiên phương.


Tỉnh Vân Nam, có y sư họ Ân, tên Nguyên Lễ, chuyên nghề châm cứu.
Năm ấy, vùng Vân Nam bị mất mùa, làng nào cũng bị giặc giã nổi lên cướp phá. Nguyên Lễ phải bỏ làng mà chạy, băng qua một ngọn núi để tới xin lánh nạn tại nhà một người bạn ở cách làng chừng trăm dặm.
Chạy từ sáng tới tối, khi mặt trời sắp lặn, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Nhìn quanh, thấy mình đang đứng bơ vơ giữa chốn núi rừng hoang vu, chẳng bạn đồng hành, Nguyên Lễ kinh hãi lắm, những lo bị hổ sói xông ra ăn thịt. Chợt thấy ở phía trước mặt có hai người sánh vai nhau đi, Nguyên Lễ đoán chừng họ cũng đang chạy loạn như mình nên cắm đầu chạy theo để xin nhập bọn. Khi bắt kịp, Nguyên Lễ lên tiếng:"Xin nhị vị cho bỉ nhân được nhập bọn kẻo một mình đi qua núi đêm khuya, sợ bị hổ sói xông ra ăn thịt!" Người lớn tuổi đưa mắt nhìn Nguyên Lễ từ đầu đến chân rồi cau mày hỏi: "Tên chi, làm nghề gì?" Ðáp:"Bỉ nhân họ Ân, tên Nguyên Lễ, làm nghề châm cứu!" Ðột nhiên, người ấy thay đổi hẳn thái độ, cung kính chắp tay vái chào Nguyên Lễ mà nói:"Thế ra tiên sinh là Ân đại nhân, vị danh y nổi tiếng trong vùng này đó ư? Trong vùng này, ai chẳng biết đại danh của tiên sinh! Huynh đệ tiểu nhân ngưỡng mộ đại danh của tiên sinh đã từ lâu! Nay được gặp mặt, thực là vạn hạnh!" Hỏi:"Nhị vị họ chi?" Ðáp:"Huynh đệ tiểu nhân họ Ban. Tiểu nhân tên Trảo, còn tiện đệ đây, tên Nha!" Rồi tiếp:"Phải chăng tiên sinh đang chạy loạn?" Ðáp: "Thưa phải!" Ban Trảo nói:"Huynh đệ tiểu nhân cũng mới chạy loạn tới đây được ít lâu, có cất được một gian nhà tranh ở gần đây để tạm trú. Xin mời tiên sinh quá bộ tới tệ xá nghỉ chân đêm nay. Nhân tiện cũng xin nhờ tiên sinh giúp cho một việc!" Thấy có chỗ ngủ qua đêm, Nguyên Lễ mừng lắm, vội hỏi:"Nhị vị muốn nhờ bỉ nhân giúp việc chi?" Ðáp:"Ðể lát nữa tới tệ xá, huynh đệ tiểu nhân sẽ xin thưa chuyện!" Nguyên Lễ bèn đi theo hai anh em.
Lát sau, hai anh em dắt Nguyên Lễ vào một gian nhà tranh mới cất, cạnh cửa một hang đá. Ban Trảo đi lấy củi đem ra sân đốt để soi sáng gian nhà. Dưới ánh lửa, thấy hai anh em có thân hình vạm vỡ, nét mặt dữ tợn, dáng vẻ bất hảo, Nguyên Lễ kinh hãi lắm. Song vì trời đã tối, chẳng biết đi đâu nên đành ở lại. Chợt nghe có tiếng người rên, Nguyên Lễ đảo mắt nhìn thì thấy một bà lão đang nằm rên trên một chiếc giường kê ở góc gian nhà. Ðoán chừng bà lão là mẹ của hai anh em, Nguyên Lễ hỏi Ban Nha:"Cụ nhà đau gì thế?" Ban Nha đáp:"Thưa, gia mẫu bị hai cái ung to bằng nắm tay, mọc dưới mũi và bên mép, đau nhức lắm, chẳng ăn uống chi được. Chính vì thế mà huynh đệ tiểu nhân muốn nhờ tiên sinh tới đây để chữa giúp cho gia mẫu!" Rồi đốt đuốc giơ cao, mời Nguyên Lễ tới cạnh giường coi bệnh cho mẹ. Nguyên Lễ theo Ban Nha tới giường, hỏi bà lão:"Cụ thấy đau như thế nào?" Bà lão đáp:"Thưa, cái ung nhức lắm mà há miệng ra ăn cũng thấy đau. Vì chẳng ăn ngủ chi được nên người rất mệt mỏi, xin tiên sinh làm ơn chữa cho!" Nguyên Lễ nói:"Ung ngoài da dễ chữa. Ðể bỉ nhân châm cứu cho! Khi nào ung vỡ mủ, bỉ nhân sẽ dịt thuốc!" Rồi mở bọc lấy ngải và kim, châm cứu cho bà lão trên hai chục mũi. Xong, nói:"Cụ cứ chịu khó nằm yên mà nghỉ, sáng mai ung sẽ vỡ mủ" Hai anh em mừng lắm, vội đi tìm thực phẩm để mời khách. Ban Nha tới gác bếp, lấy xuống một đùi nai tươi, đưa cho anh, nói:"Ðại ca hãy nướng đùi nai này lên mà mời tiên sinh dùng đỡ" Ban Trảo gật đầu, đem đùi nai đi nướng rồi bỏ vào mâm đá, bưng tới trước mặt Nguyên Lễ, nói:"Trời đã tối mà chợ thì xa, chẳng có thực phẩm chi khác để mời tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!" Nguyên Lễ nói:"Chạy loạn mà còn được ăn thịt nướng như thế này thì còn mong gì hơn?" Vì đang đói, Nguyên Lễ ăn hết quá nửa đùi nai. Chờ khách ăn xong, Ban Trảo mới mời khách lên giường mình nằm nghỉ. Bị nét mặt dữ tợn, dáng vẻ lỗ mãng của hai anh em ám ảnh, Nguyên Lễ cố nhắm mắt song chẳng sao ngủ được, cứ trằn trọc suốt đêm.
Tảng sáng, thấy bà lão thức giấc, Nguyên Lễ vội vùng dậy, chạy tới hỏi:"Cụ thấy đã đỡ chưa?" Bà lão đáp: "Cám ơn tiên sinh, lão thân thấy đã đỡ rồi!" Hỏi:"Cụ có ngủ được không?" Ðáp:"Thưa ngủ được!" Hỏi:"Cái ung ra sao?" Ðáp:"Thưa, cái ung ướt sũng, chắc là đã vỡ mủ!" Nguyên Lễ bèn đánh thức hai anh em dậy, đi lấy nước vào rửa ung cho bà lão. Rồi Nguyên Lễ mở bọc, lấy thuốc dịt vào ung, băng bó lại. Xong, nói:"Thế là khỏi rồi đó!"
Trời sáng rõ, Nguyên Lễ xin cáo biệt. Ban Trảo nói: "Xin tiên sinh hãy nán lại thêm ít phút để tiểu nhân nướng nốt đùi nai, biếu tiên sinh làm thực phẩm dọc đường!" Nguyên Lễ bèn ở lại chờ. Lát sau, Nguyên Lễ nhận đùi nai nướng rồi cáo biệt, tiếp tục cuộc hành trình.
Tới nhà bạn, Nguyên Lễ thuật lại nạn giặc cướp ở làng mình cho bạn nghe rồi xin được tạm trú. Người bạn vồn vã mời Nguyên Lễ ở lại chơi. Ít lâu sau, nghe tin làng mình hết giặc, Nguyên Lễ xin cáo biệt bạn, trở về nhà.
Ba năm sau, Nguyên Lễ quên hẳn chuyện gặp ba mẹ con bà lão. Một hôm có việc, Nguyên Lễ lại phải tới nhà người bạn năm xưa. Ði từ sáng tới tối, Nguyên Lễ mới đến lưng chừng núi. Chợt thấy hai sói lớn nằm chắn ngang đường, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng khựng lại, chỉ mong hai sói đi chỗ khác để cho mình có thể tiếp tục lên đường. Thế nhưng, hai sói cứ nằm lỳ bất động. Trời mỗi lúc một tối, Nguyên Lễ càng kinh hãi, chẳng biết làm thế nào. Chợt nghe có tiếng sói đua nhau chu rồi thấy một bày sói sập tới vây quanh mình, Nguyên Lễ thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì sói. Quả nhiên, bày sói xông vào đè Nguyên Lễ xuống, tranh nhau cắn xé, làm cho quần áo Nguyên Lễ rách tả tơi. Ðột nhiên, bày sói ngưng cắn xé, bỏ chạy tán loạn. Nguyên Lễ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn quanh. Chợt thấy có hai mãnh hổ đứng ngay cạnh mình, Nguyên Lễ kinh hãi quá, thầm nghĩ chắc phen này mình phải chết vì cọp. Thế nhưng Nguyên Lễ phải ngạc nhiên khi thấy cọp chẳng vồ mình. Bày sói thấy cọp thì chạy tán loạn. Hai mãnh hổ hống lên hai tiếng thực to. Cả bày sói kinh hoàng, nằm mọp xuống đất. Hai mãnh hổ chậm rãi bước tới tát chết từng con rồi lững thững bỏ đi.
May mắn thoát chết, Nguyên Lễ bò dậy, xốc lại quần áo, lếch thếch lên đường. Vì trời tối quá, chẳng thấy đường đi, Nguyên Lễ lo lắng, nảy ý tìm chỗ tạm trú qua đêm. Bỗng có một bà lão, chẳng biết từ đâu tới, lên tiếng hỏi:"Chắc Ân tiên sinh bị sói cắn đau lắm phải không?" Nguyên Lễ giật mình kinh ngạc, lên tiếng hỏi lại:"Sao lão bà lại biết tên bỉ nhân?" Bà lão đáp:"Thế ra tiên sinh quên lão thân rồi ư? Tiên sinh còn nhớ ba năm về trước, tiên sinh có châm cứu cho một bà già để trị hai cái ung dưới mũi và bên mép không?" Bấy giờ Nguyên Lễ mới chợt nhớ ra bà lão là mẹ của hai anh em họ Ban. Bà lão lại nói:"Lão thân chờ tiên sinh ở đây đã từ lâu! Những mong có dịp được gặp lại tiên sinh để trả ơn song chẳng thấy tiên sinh qua lại vùng này nữa! Bây giờ, xin mời tiên sinh đi theo lão thân!" Nguyên Lễ mừng quá, vội đi theo bà lão. Lát sau, bà lão dẫn Nguyên Lễ vào phòng khách của một ngôi nhà rộng lớn, đèn đuốc sáng chưng, rồi vào nhà trong lấy ra một bộ quần áo mới đưa cho Nguyên Lễ, chỉ căn phòng tắm mà nói:"Y phục của tiên sinh bị sói cắn rách hết rồi, xin tiên sinh hãy dùng tạm bộ này!" Nguyên Lễ nói:"Cám ơn cụ!" rồi đem bộ quần áo vào phòng tắm mà thay. Bà lão xuống bếp bưng lên một mâm cỗ thịnh soạn, mời Nguyên Lễ cùng ngồi yến ẩm, ân cần rót rượu, gắp thịt mời Nguyên Lễ, rồi cũng tự rót rượu, gắp thịt mà ăn uống mạnh dạn chứ chẳng rụt rè, nhỏ nhẹ như các bà lão khác. Nguyên Lễ quá chén, say li bì, nằm lăn ra phòng khách mà ngủ.
Sáng sau, khi ánh nắng dọi vào mắt, Nguyên Lễ mới tỉnh giấc. Mở mắt nhìn, chẳng thấy nhà cửa với bà lão đâu mà chỉ thấy vừng thái dương đang chói chang giữa bàu trời, còn mình thì đang nằm trên một tảng đá, Nguyên Lễ kinh hãi quá, đứng bật dậy.
Chợt nghe có tiếng trâu thở phì phò dưới chân núi, Nguyên Lễ nổi tính tò mò, bèn chạy xuống coi. Tới nơi, thấy chẳng phải là trâu mà là một hổ cái già đang nằm ngủ, dưới mũi và bên mép có hai vết sẹo lớn, to bằng bàn tay. Hổ chợt tỉnh giấc. Nguyên Lễ kinh hãi quá, dón dén lẻn đi, tiếp tục cuộc hành trình.
Dọc đường, Nguyên Lễ mới nghĩ ra rằng hai anh em họ Ban chính là hai mãnh hổ đã giết đàn sói còn lão mẫu của họ chính là hổ cái già nằm dưới chân núi.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Làm bạn với chồn vô hình
truyện HỒ TỨ TƯỚNG CÔNG

Tặng kim đặc trọng cố nhân tình.
Dị loại hữu bằng thắng đệ huynh.
Nhất diện hữu duyên nan tái kiến.
Thần giao diệc túc úy bình sinh.



Huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Ðông, có hai anh em nho sĩ họ Trương. Người em tên Ðạo Nhất, làm quan học sứ tỉnh Tứ Xuyên, gia tư khá giả. Người anh tên Hư Nhất, tính rất dũng cảm. Tai thì thường được nghe nhiều chuyện về chồn tinh ma quỷ, song mắt thì chưa từng được nhìn thấy bao giờ. Hư Nhất cư ngụ trong huyện thành Lai Vu, gia tư thanh bần.
Ở góc đông nam huyện thành có một căn nhà bỏ hoang. Huyện dân đồn rằng có một chồn đực có thuật tàng hình, dắt một lũ chồn tiểu yêu đến chiếm ngụ căn nhà nên chẳng ai dám bén mảng tới. Nghe tin đồn, Hư Nhất quyết tâm đến thăm, mong được gặp chồn một lần cho biết. Hư Nhất bèn bảo đứa tiểu đồng cùng mình chay tịnh một tuần.
Tuần sau, hai thày trò tắm gội sạch sẽ, mũ áo chỉnh tề, dắt nhau đến căn nhà. Tới nơi, thấy hai cánh cửa tự động mở ra, tiểu đồng kinh hãi, quay mình bỏ chạy. Hư Nhất gọi thế nào tiểu đồng cũng không dám trở lại. Hư Nhất bèn quyết tâm vào căn nhà một mình. Hư Nhất chỉnh lại mũ áo rồi bước vào nhà thì thấy đồ đạc được bày biện ngăn nắp song trong nhà vắng ngắt, chẳng một bóng người. Hư Nhất bèn chắp tay vái chào, khấn:"Ðệ thành tâm trai giới để đến đây xin gặp túc hạ. Vừa rồi đệ ở ngoài cửa, túc hạ đã chẳng cho gặp mặt, bây giờ đệ vào trong nhà, túc hạ vẫn chưa cho gặp mặt hay sao?" Chợt có tiếng đáp:"Ða tạ túc hạ đã giá lâm!" rồi có hai chiếc ghế tự động di chuyển ra giữa phòng khách, quay mặt đối nhau. Sau đó, có tiếng nói:"Mời túc hạ ngồi chơi, đệ sẽ xin hầu chuyện!" Hư Nhất bèn mạnh dạn ngồi xuống ghế. Chợt có một chiếc bàn lớn trạm trổ công phu, sơn son thiếp vàng, tự động di chuyển, len vào giữa hai chiếc ghế. Hư Nhất đưa mắt nhìn thì thấy trên bàn có hai chén trà nóng, khói bốc nghi ngút. Chợt lại có tiếng nói: "Mời túc hạ dùng trà" Hư Nhất nâng một chén lên thì thấy chén kia cũng được nâng lên rồi có tiếng miệng thổi cho trà bớt nóng song tuyệt nhiên chẳng thấy một bóng người. Hư Nhất lên tiếng hỏi:"Túc hạ có thể cho biết quý danh chăng?" Có tiếng đáp:"Ðệ họ Hồ song chẳng có tên!" Hỏi:"Thế thì thiên hạ thường xưng hô với túc hạ như thế nào?" Ðáp:"Thiên hạ thường gọi đệ là Hồ tứ tướng công vì đệ là người con thứ tư trong gia đình" Sau một tuần trà, lại có tiếng nói:"Chẳng mấy khi túc hạ giá lâm, xin túc hạ lưu lại dùng với đệ một bữa rượu lạt!" Hư Nhất nhận lời ngay, đáp:"Xin vâng"
Lát sau, Hư Nhất thấy trong phòng dường như có tiếng chân của nhiều tiểu đồng chạy ra chạy vào, rồi thấy có bình chén, bát đũa, nem chả, ba ba, khô nai, rau thơm được đem ra bày kín mặt bàn. Rồi có tiếng nghiêng bình rót rượu và tiếng mời:"Mời túc hạ nâng chén!" Hư Nhất chẳng khách sáo, nâng chén yến ẩm thì thấy rượu và thức ăn rất ngon, y như ở các tửu quán thượng đẳng vậy. Hai bên thù tạc, đàm đạo văn chương thế sự, rất mực tương đắc. Ðang yến ẩm, bỗng Hư Nhất thầm nghĩ giá bây giờ có một chén trà nóng mà uống thì thích quá. Lập tức có một chén trà nóng được đem tới đặt ngay trước mắt Hư Nhất. Thế rồi mỗi lần Hư Nhất thầm ước một vật gì thì vật ấy lập tức hiện ra ngay trước mắt. Hư Nhất rất lấy làm kinh ngạc song cũng rất lấy làm thích thú. Sau khi yến ẩm no say, Hư Nhất xin cáo biệt.
Từ đó, cứ ba ngày một lần, Hư Nhất lại tới thăm tướng công. Thỉnh thoảng, tướng công cũng tới đáp lễ Hư Nhất, song trước sau Hư Nhất cũng chỉ nghe thấy tiếng chân đi, tiếng miệng nói chứ chưa hề nhìn thấy hình dáng người bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa đến nhà tướng công dự tiệc. Trong lúc yến ẩm, Hư Nhất nói:"Ðệ có quen một bà đồng ở Nam Thành. Người ta đồn rằng bà ấy khoe là có nuôi được một chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, kiếm được rất nhiều tiền. Theo ý túc hạ, có đúng thế chăng?" Tướng công đáp:"Lời đồn của thiên hạ thì đúng nhưng lời khoe của bà đồng thì sai!" Lát sau, Hư Nhất đứng dậy, xin phép ra ngoài đi tiểu thì chợt nghe thấy tiếng thì thầm bên tai:"Lũ tiểu nhân vừa được nghe tiên sinh nói chuyện với tướng công về bà đồng ở Nam Thành. Vậy lát nữa, xin tiên sinh nói với tướng công cho lũ tiểu nhân được theo tiên sinh tới Nam Thành một chuyến để xem mặt mũi bà ấy ra sao?" Biết là tiếng nói của lũ chồn tiểu yêu, Hư Nhất đáp:"Ðược!" Khi trở lại bàn tiệc, Hư Nhất nói với tướng công:"Xin túc hạ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới Nam Thành một chuyến để xem lời khoe của bà đồng là đúng hay sai?" Tướng công cười, đáp:"Ðã biết lời khoe của bà ấy là sai rồi thì còn phải tới làm chi?" Hư Nhất năn nỉ:"Xin túc hạ cứ cho mấy tiểu đồng theo đệ tới đó một chuyến xem sao!" Tướng công cười, đáp:"Túc hạ đã muốn thế thì đệ xin vâng!"
Tiệc tan, Hư Nhất xin cáo biệt. Vừa toan ra tháo ngựa thì đã thấy ngựa đang chậm rãi bước tới trước cửa, tựa hồ như có người đang dắt tới vậy. Hư Nhất vừa leo lên lưng ngựa thì chợt nghe có tiếng tướng công sai bốn tiểu đồng đi theo mình tới Nam Thành.
Dọc đường, Hư Nhất thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo rồi có tiếng thì thầm bên tai:"Xin tiên sinh hiểu cho rằng khi nào tiên sinh đi đường mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo, tức là có lũ tiểu nhân đang theo hầu!" Hư Nhất gật đầu.
Tới nhà bà đồng, Hư Nhất gõ cổng. Bà đồng từ trong nhà bước qua sân, ra mở cổng. Thấy Hư Nhất, bà cười, hỏi:"Ngọn gió nào đưa quý nhân tới đây thế?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân tự ý tới đây để hỏi thăm bà một chuyện!" Bà hỏi:"Chuyện chi mà quan trọng thế?" Hư Nhất đáp:"Người ta đồn rằng bà khoe là có nuôi được một con chồn thày thuốc để sai đi chữa bệnh cho thiên hạ, có đúng thế chăng?" Bà chợt nghiêm nét mặt, trách: "Quý nhân là người nho nhã, sao lại ăn nói khinh bạc như thế?" Hư Nhất hỏi:"Bỉ nhân ăn nói khinh bạc như thế nào?" Bà trách:"Sao quý nhân lại gọi Chị Hoa nhà lão thân là con chồn? Chị Hoa nhà lão thân mà nghe thấy thế thì buồn lắm đó!"
Bà vừa trách xong thì bỗng có một miếng gạch ném trúng cánh tay bà. Tưởng là Hư Nhất ném mình, bà tức giận, trách:"Sao quý nhân lại ném lão thân? Lão thân có xúc phạm chi tới quý nhân đâu?" Biết là lũ chồn tiểu yêu ném bà, Hư Nhất cười, đáp:"Bỉ nhân ném bà hồi nào? Bà thong manh rồi hay sao?" Nghe thấy thế, bà kinh hãi quá, cứ đứng suy nghĩ, chẳng hiểu là ai ném mình. Bỗng lại có một viên đá ném trúng đầu bà, làm bà té xuống đất. Bà chưa kịp nghĩ xem là ai ném thì lại có bùn nhơ ném trúng mặt bà, làm cho mặt bà trông tựa mặt quỷ. Bà kinh hãi quá, gào khóc, van xin:"Xin đừng ném nữa! Nếu lão thân có làm điều chi xúc phạm thì xin hãy tha tội cho!" Thấy thế, Hư Nhất cũng thương hại, bèn lớn tiếng quát lũ chồn tiểu yêu:"Không được ném nữa!" Lập tức bùn ngưng bay tới. Bà lồm cồm bò dậy, băng qua sân, chạy vào nhà, đóng chặt cửa, đi rửa mặt rồi ngồi ở trong nhà, chẳng dám ló ra ngoài. Hư Nhất chạy theo bà, tới gõ cửa, hỏi:"Chồn thày thuốc của bà có thể ném được gạch đá, bùn đất như chồn của bỉ nhân chăng?" Từ trong nhà, bà nói vọng ra:"Người ta đồn thế chứ lão thân có khoe là mình nuôi được chồn bao giờ đâu? Xin quý nhân đừng tin ở những lời đồn đại!" Hư Nhất ngửa mặt lên trời cười rồi quát lũ chồn tiểu yêu:"Cấm không được ném nữa!" Xong, lại quay ra nói với bà:"Bỉ nhân đã cấm lũ chồn không được ném nữa rồi! Bà đừng sợ! Hãy ra đây cho bỉ nhân dặn một điều!" Nghe thấy thế, bà mới dám hé cửa ra, hỏi:"Quý nhân muốn dạy bảo điều chi?" Hư Nhất đáp: "Chỉ muốn dặn bà một điều là từ nay trở đi, bà đừng lường gạt bệnh nhân nữa!" Bà nói:"Xin vâng!" Hư Nhất bèn cáo biệt.
Từ đó, mỗi lần Hư Nhất đi đâu mà thấy một làn gió nhẹ, thổi cát bụi bám vào vạt áo thì biết ngay là có lũ chồn tiểu yêu đang theo hầu. Thế rồi, mỗi lần đi xa, muốn có người đồng hành để đề phòng thú dữ, giặc cướp hoặc để nói chuyện cho vui, Hư Nhất chỉ cần lên tiếng gọi lũ chồn là lập tức chúng đáp lời ngay.
Thấm thoắt, Hư Nhất đã giao du với tướng công được hơn một năm. Hai bên chuyện trò rất tâm đầu ý hợp, chẳng hề trái ý nhau bao giờ.
Một hôm, Hư Nhất hỏi:"Năm nay, túc hạ bao nhiêu tuổi?" Tướng công đáp:"Ðệ quên mất rồi! Song mỗi lần nhớ tới việc mình chứng kiến vụ Hoàng Sào làm phản vào cuối triều Ðường thì đệ lại thấy tựa hồ như mới ngày hôm qua!" Nghe thấy thế, Hư Nhất kinh hãi quá, chẳng dám hỏi chi thêm.
Một trưa, Hư Nhất đến nhà tướng công dự tiệc. Chợt nghe thấy tiếng gà kêu quang quác ở hàng rào, Hư Nhất lấy làm lạ, hỏi:"Sao giữa ban ngày mà lại có tiếng gà kêu như thế?" Tướng công đáp:"Chắc là lại do Tam ca nhà đệ gây ra!" Hỏi:"Sao túc hạ chẳng mời lệnh huynh vào đây yến ẩm, đàm đạo cho vui?" Ðáp:"Gia huynh chẳng thích gặp đệ. Vả lại tư tưởng của gia huynh nông cạn lắm, biết lấy chi mà đàm đạo?" Hỏi:"Lệnh huynh ưa cuộc sống như thế nào?" Ðáp:"Gia huynh chỉ ưa cuộc sống đi bắt trộm gà để nhắm rượu. Thế nhưng, nghĩ cho cùng thì đối với gia huynh, cuộc sống như thế cũng đủ rồi, cần chi phải có tư tưởng cao siêu!" Hư Nhất bèn nói lảng sang chuyện khác. Lát sau, bỗng Hư Nhất nói:"Ðã hơn một năm nay, giao tình giữa chúng ta có thể nói là rất tốt đẹp song đệ thấy đệ vẫn còn một điều ấm ức, chưa giải tỏa được!" Tướng công cười, hỏi:"Ðiều ấy là điều chi?" Ðáp:"Ðiều ấy là điều túc hạ chưa cho đệ được nhìn thấy tôn nhan!" Cười, nói:"Giao du với nhau thì chỉ cần giữ được chân tình, thiện cảm chứ cần chi phải biết mặt nhau?" Hư Nhất lặng im, chẳng nói chi thêm.
Tháng sau. Một hôm tướng công bày tiệc rượu thịnh soạn, sai lũ chồn tiểu yêu đi mời Hư Nhất đến dự. Hư Nhất vội mặc quần áo đi theo.
Tới nơi, tướng công mời Hư Nhất nhập tiệc. Giữa tiệc, đột nhiên tướng công nói: "Hôm nay đệ mời túc hạ đến đây để chúng mình yến ẩm đàm đạo với nhau lần chót!" Hư Nhất kinh ngạc, hỏi: "Sao vậy? Túc hạ sắp đi đâu?" Ðáp: "Vì quê đệ ở Thiểm Tây nên nay đệ lại muốn hồi cư về đó!" Rồi cười, nói tiếp:"Trong hơn một năm qua, túc hạ cứ ấm ức là chẳng biết mặt mũi đệ ra sao. Nay sắp chia tay, đệ muốn để túc hạ nhìn thấy đệ một lần cho biết, kẻo sau này có dịp tái kiến, túc hạ lại chẳng nhận ra!" Hư Nhất quay đầu nhìn quanh song chẳng thấy ai, nên hỏi: "Túc hạ ở đâu?" Ðáp: "Ðệ ở trong phòng ngủ. Túc hạ hãy đến mở cửa ra thì thấy!" Hư Nhất bèn đứng dậy, bước tới phòng ngủ, mở cửa nhìn vào thì thấy quả có một thiếu niên anh tuấn, mặt đẹp như ngọc, y phục mới tinh, sang trọng lịch sự, đang ngồi trên giường, nhìn mình mỉm cười. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thì thiếu niên đã biến mất. Hư Nhất bèn khép cửa phòng ngủ, trở lại bàn tiệc. Nghe có tiếng chân người bước ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại song chẳng thấy ai. Hư Nhất vừa an tọa thì nghe có tiếng cười, hỏi: "Phải chăng bữa nay đệ đã giải tỏa được điều ấm ức của túc hạ?" Hư Nhất chẳng đáp. Hai người lại tiếp tục yến ẩm, đàm đạo.
Tới khuya, thấy Hư Nhất vẫn chưa đứng dậy cáo biệt như mọi lần, tướng công biết là Hư Nhất còn lưu luyến tình bạn ở căn nhà này, nên cười, nói:"Mọi việc ở đời, kể cả hợp tan, đều đã có định số, túc hạ lưu luyến làm chi?" Hư Nhất lặng im, chẳng đáp. Tướng công bèn sai tiểu yêu đi lấy hai chén lớn, rồi tự tay rót đầy rượu, đưa một chén mời Hư Nhất, nói:"Ðây là chén rượu ly biệt" Hai bên cùng cạn chén. Thấy Hư Nhất đã say, tướng công bèn sai lũ tiểu yêu hộ tống về nhà.
Sáng sau, khi tỉnh rượu, Hư Nhất vội tắm gội sạch sẽ rồi cưỡi ngựa đến thăm tướng công. Tới nơi, Hư Nhất thấy căn nhà đã hoàn toàn vắng lặng, chẳng còn một tiếng động. Từ đó, căn nhà hết chồn.
Mười năm sau, Hư Nhất vẫn thanh bần như xưa.
Một hôm, Hư Nhất cưỡi ngựa từ Sơn Ðông xuống Tứ Xuyên thăm em. Tới nơi, thấy em mình có nhà cao cửa rộng, đồ đạc sang trọng, Hư Nhất cảm khái, thở dài. Ở chơi với em được hơn một tháng, Hư Nhất cáo biệt.
Dọc đường về, Hư Nhất buông cương cho ngựa bước tự do, còn mình thì ngồi trên lưng ngựa, suy nghĩ miên man về sự quý hiển của em, sót thương cho thân phận mình, rồi bất giác thở dài. Chợt nghe có tiếng vó ngựa ở đằng sau, Hư Nhất quay đầu nhìn lại thì thấy một thiếu niên anh tuấn, dáng vẻ phong nhã, mặc áo lông cừu, đang phóng một thanh câu đuổi theo mình. Hư Nhất bèn dừng cương, ghìm ngựa, đứng chờ. Khi thiếu niên tới gần, Hư Nhất gật đầu chào. Thiếu niên cung kính chắp tay đáp lễ. Hư Nhất hỏi: "Túc hạ đi đâu vậy?" Thiếu niên đáp: "Ðệ tới huyện thành ở gần đây!" Rồi hỏi lại: "Thế còn túc hạ đi đâu?" Hư Nhất đáp:" Ðệ từ Sơn Ðông xuống đây thăm người em ruột, bây giờ lại trở về Sơn Ðông" Thiếu niên nói: "Túc hạ xuống đây thăm lệnh đệ thì lẽ ra trông phải vui lắm mới đúng chứ sao trông lại buồn bã thế?" Hư Nhất thở dài, đáp: "Gia đệ thì quý hiển, nhà cao cửa rộng, còn đệ thì từ bao năm nay vẫn lận đận long đong. Vì nghĩ mình chẳng bằng em nên buồn!" Thiếu niên nói: "Trời sinh ra con người, cho mỗi người một phần số, túc hạ so sánh làm chi? Cứ an nhiên tự tại thì có phải là thanh thản hơn không?" Rồi nói lảng sang chuyện khác.
Rong ngựa cùng đi được hơn một dặm, tới ngã rẽ nhỏ, thiếu niên dừng cương, chắp tay nói: "Bây giờ thì đệ phải rẽ vào con đường này. Mong túc hạ tự bảo trọng!" Hư Nhất cũng chắp tay nói:"Xin cám ơn túc hạ!" Thiếu niên vừa dợm phóng thanh câu đi thì như chợt nhớ ra điều gì, lại dừng cương, nói: "Lát nữa đây, nếu túc hạ có gặp ai nhờ túc hạ đem một vật gì về Sơn Ðông trao cho một người quen của túc hạ thì xin túc hạ làm ơn nhận giùm cho!" Rồi vái chào, phóng thanh câu đi. Hư Nhất thắc mắc, toan lên tiếng hỏi thì thanh câu đã mất dạng trên con đường nhỏ. Hư Nhất bèn tiếp tục lên đường.
Ði được chừng ba dặm, quả nhiên Hư Nhất thấy một ông lão đứng ở bên đường, tay xách một giỏ trúc trông có vẻ nặng. Hư Nhất vừa rong ngựa tới thì ông lão đã vội chạy ra nắm lấy dây cương, nói:"Xin tiên sinh tha cho lão nô tội đường đột! Dám hỏi tiên sinh đang đi đâu đó?" Hư Nhất đáp:"Bỉ nhân đang trên đường về Sơn Ðông!" Ông lão nói:"Thế thì may cho lão nô quá! Bản chủ nhân cũng vừa sai lão nô đem chiếc giỏ này đi Sơn Ðông để trao cho một người quen của tiên sinh! Nay được biết tiên sinh đang trên đường về Sơn Ðông, lão nô dám mạo muội nhờ tiên sinh đem chiếc giỏ này về trao cho người ấy!" Hư Nhất đáp:"Ðược! Song phải nói rõ người ấy là ai vì bỉ nhân có nhiều người quen lắm!" Ông lão đáp:"Người ấy là Trương Hư Nhất tiên sinh!Ợ Hư Nhất kinh ngạc, nói: "Bỉ nhân chính là Trương Hư Nhất đây!" Rồi hỏi ông lão: "Quý chủ nhân là ai?" Ông lão đáp:"Bản chủ nhân là Hồ tứ tướng công!" Lúc đó Hư Nhất mới vỡ lẽ rằng thiếu niên mình vừa gặp chính là Hồ tứ tướng công và tướng công muốn tặng mình chiếc giỏ này. Ông lão trao giỏ. Hư Nhất giơ tay ra nhận. Hư Nhất toan lên tiếng hỏi thêm thì ông lão đã biến mất.
Mở giỏ ra coi, Hư Nhất thấy trong giỏ có một gói lớn, bọc bằng lụa đỏ, ngoài có dán một tấm giấy vàng, trên đề mấy chữ:"Hồ tứ tướng công kính tặng Trương Hư Nhất tiên sinh" Hư Nhất mở gói ra coi thì thấy toàn là vàng, ngọc.
Hư Nhất bèn buộc chặt chiếc giỏ trên mình ngựa rồi phóng về quê ở Lai Vu, Sơn Ðông.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Kim đan của ma chồn
truyện VƯƠNG LAN

Kim đan thiết đắc để sinh hoàn.
Nhân thuật tiên tâm kiến nhất ban.
Tụ ẩm Yên Ðôn thương tí phỉ.
Châu liên cơ thoán Thiết Vi san.



Thời xưa, ở Trung quốc, người ta tin rằng người chết thì thành ma, ma chết thì thành tiện, chồn chết thì thành ma chồn, ma chồn chết thì thành tiện chồn. Dù là người hay chồn, ma hay ma chồn, kẻ nào có kim đan mà nuốt cũng thành tiên. Tiên nào cũng có thuật trường sinh bất tử, có phép thần thông.
Huyện Lợi Tân tỉnh Sơn Ðông có nho sinh họ Vương, tên Lan, có vợ và hai con. Trong làng, Vương Lan chơi thân với một nho sinh, họ Trương, tên Hội. Trương Hội lại chơi thân với một kẻ vô lại họ Hạ, tên Tài. Hạ Tài chẳng chịu làm ăn, suốt ngày chỉ rượu chè cờ bạc, phung phí hết tài sản của cha mẹ để lại.
Vương Lan đang sống khỏe mạnh, hạnh phúc với vợ con, bỗng bị bạo bệnh mà thác. Quỷ tới bắt hồn, dắt theo để đi bắt các hồn khác. Nửa năm sau, khi đã bắt được đủ số hồn trong danh sách tào ty giao cho, quỷ mới dắt cả xuống âm phủ, trình Diêm Vương. Diêm Vương sai tào quan mở sổ kiểm lại. Kiểm xong, tào quan trình rằng quỷ đã bắt lầm một người tên Vương Lan. Diêm Vương bèn nổi cơn thịnh nộ, cho gọi quỷ lên quát mắng thậm tệ rồi bắt phải đưa Vương Lan trở về dương thế. Quỷ vội đưa Vương Lan về.
Tới nhà, thấy xác Vương Lan quàn trong linh cữu đã rữa, hồn chẳng thể nhập vào được, quỷ kinh hãi quá, thầm nghĩ nếu lại dắt Vương Lan trở xuống trình Diêm Vương thì thế nào Diêm Vương cũng sẽ trị tội mình. Quỷ bèn dụ Vương Lan:"Bây giờ xác anh đã rữa, anh chẳng thể nhập vào để trở lại làm người được nữa! Vậy để tôi đền anh bằng cách khác, anh có chịu không?" Vương Lan hỏi:"Ðền bằng cách nào?" Quỷ đáp:"Tôi sẽ giúp anh thành tiên!" Thấy Vương Lan có vẻ ngần ngừ, quỷ dụ tiếp:"Ðang làm người mà phải xuống làm ma thì mới khổ, chứ đang làm ma mà được lên làm tiên thì sướng lắm, còn sướng hơn được trở lại làm người nữa!" Vương Lan thở dài, hỏi:"Làm cách nào mà thành tiên được?" Ðáp:"Ở âm phủ, tôi biết có một ma chồn hiện đang luyện kim đan. Bây giờ, anh để tôi dẫn anh xuống nhà y, lấy cắp kim đan của y cho anh nuốt thì anh sẽ thành tiên. Anh có chịu không?" Thấy chẳng còn cách chi hơn, Vương Lan đành gật đầu.
Tối đó, nhằm tối nguyên tiêu, trăng sáng vằng vặc. Quỷ dắt Vương Lan xuống âm phủ, vào một biệt thự rộng lớn, tĩnh mịch, núp trong một bụi rậm ở cuối sân. Lát sau, Vương Lan thấy một chồn từ biệt thự bước ra sân, đến ngồi trên một chiếc ghế, chăm chú nhìn trăng. Ðột nhiên, chồn phùng mang trợn mắt thổi một kim đan từ trong miệng bay vút lên phía mặt trăng, rồi lại chu miệng hút. Chồn cứ thổi đi hút lại như thế mãi. Núp trong bụi rậm, quỷ nhẩm đếm số lần thổi. Tới lần thứ một trăm, khi chồn đang chu miệng hút thì quỷ nhảy vụt ra, phóng mình lên cao, chặn lấy kim đan, nhảy trở vào bụi, nhét vào miệng Vương Lan, giục:"Nuốt ngay đi!" Vương Lan còn đang bỡ ngỡ, nghe tiếng quỷ giục, liền nuốt. Chồn mất kim đan, nổi cơn thịnh nộ, nhảy theo quỷ, vung quyền đánh, quyết tâm đoạt lại. Vương Lan nhảy ra bênh quỷ. Thấy mình cô thế, khó thắng hai kẻ địch, vả lại thấy kim đan đã bị Vương Lan nuốt, chồn đâm chán nản, quay vào biệt thự, đóng sập cửa lại. Quỷ bèn nói với Vương Lan:"Tôi đã đền anh xong! Bây giờ anh đã thành tiên! Anh có thể biến thành người, trở về dương thế để thăm vợ con được rồi đó! Thôi, tôi đi đây!" Nói xong, quỷ bỏ đi.
Quỷ đi rồi Vương Lan mới sực nhớ là mình chưa hỏi quỷ cách biến thành người và đường về dương thế! Còn đang bực tức, bỗng Vương Lan sửng sốt khi thấy mình đã biến thành người và đang đứng trên dương thế, ngay giữa phòng khách nhà mình. Vừa lúc ấy, vợ con Vương Lan từ phòng trong bước ra. Thấy Vương Lan, ba mẹ con cùng kinh hãi, la hét thất thanh, hò nhau bỏ chạy, cho rằng hồn Vương Lan hiện về để bắt vợ con theo. Vương Lan vội lớn tiếng phân trần:"Nàng và hai con đừng sợ! Hãy đứng lại mà nghe ta nói! Bây giờ ta đã thành tiên rồi, chẳng phải là ma nữa!" Nghe thấy thế, ba mẹ con chỉ nửa tin nửa ngờ, song cũng đứng lại. Vương Lan bèn thuật cho vợ con nghe chuyện mình bị quỷ bắt lầm rồi chuyện mình được nuốt kim đan của ma chồn. Nghe xong, ba mẹ con mới hết sợ. Vương Lan bèn bảo vợ con dọn cho mình một phòng riêng. Ba mẹ con bàn tính với nhau rồi ưng thuận. Từ hôm ấy, ngày nào ba mẹ con cũng bưng cơm nước vào phòng cho Vương Lan ăn uống.
Chín hôm sau, chuyện Vương Lan tái sinh được đồn đãi khắp làng. Trương Hội nghe tin, chạy sang thăm. Vương Lan thuật chuyện cho bạn nghe rồi nói:"Hai ta cùng nghèo. Bây giờ tôi có cách làm giàu cho cả hai ta, anh có chịu không?" Trương Hội hỏi:"Làm giàu bằng cách nào?" Vương Lan đáp:"Bây giờ tôi có thuật chữa bệnh mà không cần phải dùng thuốc. Một mình tôi cũng có thể biến thành thày thuốc, đi chữa bệnh cho thiên hạ để làm giàu cho vợ con. Thế nhưng tôi lại sợ thiên hạ đồn tôi là ma rồi chẳng có ai chịu bỏ tiền ra nhờ tôi chữa bệnh. Vì thế bây giờ tôi muốn truyền thuật chữa bệnh cho anh rồi hai ta cùng lên tỉnh kiếm bệnh nhân. Nếu có ai chịu bỏ tiền ra nhờ anh chữa bệnh thì tiền kiếm được sẽ chia đôi, mỗi người một nửa, anh có chịu không?" Trương Hội gật đầu. Vương Lan bèn giục:"Thế thì anh về sửa soạn hành trang đi!" Trương Hội liền về nhà sửa soạn hành trang rồi gom góp chút tiền bạc, theo Vương Lan lên tỉnh.
Tới tỉnh, hai người vừa vào trọ trong quán Yên Ðôn thì thấy trên tường có dán cáo thị:"Bỉ nhân họ Triệu, tên Hà, cư ngụ tại cửa Nam tỉnh này, có một gái tên Ân Ân. Từ hơn một tháng nay, tiện nữ bị hôn mê bất tỉnh. Các thày thuốc trong vùng đều bó tay. Nay, nếu có ai chữa được cho tiện nữ khỏi bệnh thì bỉ nhân xin tạ ngàn vàng" Vương Lan liền ghé tai Trương Hội mà thì thầm. Trương Hội gật đầu lia lịa, miệng lẩm nhẩm học thuộc những điều Vương Lan căn dặn.
Sáng sau, Trương Hội ăn mặc chỉnh tề, tìm tới nhà Triệu ông, quả quyết rằng mình có thể chữa được bệnh cho Ân Ân. Triệu ông nghĩ chắc là Trương Hội cũng chỉ khoác lác như mấy thày thuốc trước nên cũng chẳng tin, song vẫn nói:"Nếu đúng như vậy thì xin tiên sinh hãy giúp ngay cho!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông hãy cho bỉ nhân được coi sắc diện của lệnh ái!" Triệu ông bèn dắt Trương Hội vào phòng con. Thấy Ân Ân nằm hôn mê trên giường, Trương Hội ngắm nghía hồi lâu rồi nói:"Bệnh này đã tới thời kỳ nguy kịch song vẫn còn có thể chữa được!" Triệu ông hỏi:"Bệnh này là bệnh gì?" Trương Hội đáp:"Là bệnh lạc hồn!" Hỏi:"Tiên sinh sẽ dùng thuốc gì để chữa?" Ðáp:"Bệnh này chẳng cần dùng thuốc mà chỉ cần thỉnh thần linh đi tìm hồn, dẫn về cho nhập vào xác là xong!" Triệu ông chẳng tin, chỉ lắc đầu, thở dài, song vẫn nói: "Thôi thì tiên sinh cứ thử chữa giúp xem sao!" Trương Hội nói:"Xin tôn ông cứ yên chí, thế nào bỉ nhân cũng chữa được! Chỉ xin tôn ông cho lập một bàn thờ giữa phòng khách rồi cho trải một chiếc chiếu trước bàn thờ là đủ!" Triệu ông liền sai gia nhân làm theo lời.
Trương Hội bước vào ngồi ở giữa chiếu, chắp tay lên trán khấn khứa hồi lâu rồi đứng dậy, nói:"Chỉ một giờ nữa là hồn sẽ về tới đây!" Triệu ông bèn sai tì nữ pha trà để cùng khách nhâm nhi, chờ hồn về. Chừng một giờ sau, Trương Hội thấy Vương Lan ghé tai mình thì thầm:"Hồn đã về, nhập vào xác ở trong phòng rồi đó!" Trương Hội bèn đứng dậy, lập lại lời nói của Vương Lan. Triệu ông nửa tin nửa ngờ song cũng đứng dậy, dắt Trương Hội vào phòng con. Tới cạnh giường, Trương Hội vỗ vai Ân Ân, hỏi:"Tiểu nương đã tỉnh chưa?" Ðột nhiên Ân Ân vươn vai ngáp, mở to mắt nhìn Trương Hội. Triệu ông thấy con đã tỉnh thì mừng quá, vội chạy tới hỏi: "Con có mệt không?" Ân Ân ngước mắt nhìn cha, đáp: "Con hơi mệt" Hỏi: "Con có nhớ được gì không?" Ðáp: "Thưa có!" Hỏi: "Con nhớ được những gì?" Ðáp:"Con nhớ là hôm ấy con đang dạo mát trong vườn thì bỗng thấy một kẻ lạ mặt, lưng đeo cung tên, dắt hai tiểu đồng cùng một con ngựa, mở cổng đột nhập vào vườn, giương cung bắn sẻ, song chẳng bắn trúng con nào!" Hỏi:"Thế con có nhớ tại sao con lại bị hôn mê không?" Ðáp:"Con không nhớ! Con chỉ nhớ rằng con sợ quá, quay mình bỏ chạy vào nhà thì bị y nhảy tới chặn lại, đưa cung tên cho, bắt tập bắn. Con lắc đầu từ chối rồi lại lách mình bỏ chạy. Y liền giơ tay túm lấy con, bế xốc lên lưng ngựa, phóng ra khỏi cổng. Hai tiểu đồng cũng chạy theo, song vì ngựa phi nhanh quá nên chỉ lát sau, con chẳng thấy chúng đâu nữa!" Hỏi: "Y phóng ngựa đưa con đi đâu?" Ðáp: "Y phóng ngựa đưa con tới một ngọn núi! Con gào khóc, chửi mắng y. Y cười, nói Ta chỉ muốn bắt ngươi theo ta một lát để dạy cho ngươi biết cách bắn cung thôi. Hãy im đi, đừng la lối nữa, kẻo ta ném xuống đường bây giờ!" Hỏi: "Thế con có im không?" Ðáp: "Thưa không! Con cứ tiếp tục gào khóc, chửi mắng y" Hỏi: "Thế rồi y ném con xuống đường phải không?" Ðáp: "Thưa vâng! Y ném con xuống đường rồi phóng ngựa đi mất!" Hỏi: "Thế sao con không chạy về nhà?" Ðáp:"Con muốn chạy về nhà lắm song không biết đường về! Con cứ lang thang quanh quẩn ở trong núi, bụng đói miệng khát, chẳng có gì ăn uống. Tới tối, khi gặp một hang núi, con vội chui vào thì vừa lúc con mệt lả, nằm vật xuống ngủ!" Hỏi: "Con ngủ được bao lâu?" Ðáp: "Con cũng chẳng nhớ! Con chỉ nhớ là con ngủ miên man cho tới sáng nay mới tỉnh!" Hỏi: "Tỉnh rồi thì con làm gì?" Ðáp: "Con vừa tỉnh thì chợt thấy một người lạ mặt tới nắm lấy tay con kéo dậy, lôi đi!" Hỏi: "Lôi đi đâu?" Ðáp: "Lôi lên trời! Con sợ quá, nhắm mắt lại thì cảm thấy thân mình nhẹ bỗng, rồi nghe có tiếng gió thổi vù vù bên tai. Vừa rồi, khi hết tiếng gió, con mở mắt ra thì thấy mình đang nằm trên giường này! Cha ơi! Vị khách đây là ai thế?" Triệu ông đáp: "Là Trương y sư, người vừa chữa bệnh cho con đó! Con hãy nằm nghỉ đi! Mai mốt con khoẻ hẳn, cha sẽ thuật lại mọi chuyện cho con nghe!" Rồi Triệu ông mời Trương Hội trở ra phòng khách.
Bấy giờ Triệu ông mới phục tài chữa bệnh của Trương Hội, coi Trương Hội như một vị thần y, sai gia nhân mở kho lấy vàng, đếm đủ ngàn lạng, cho vào túi lớn, trả công Trương Hội. Trương Hội nhận túi vàng rồi xin cáo biệt. Triệu ông vội giữ lại, nói:"Xin tiên sinh hãy vui lòng ngủ lại đây đêm nay để xem bệnh tình của tiện nữ biến chuyển ra sao!" Trương Hội liền bằng lòng ở lại. Triệu ông bèn sai gia nhân dọn cho Trương Hội một phòng riêng. Trương Hội đem túi vàng về phòng.
Tối ấy, Triệu ông sai gia nhân làm tiệc khoản đãi Trương Hội. Tiệc xong, Trương Hội vừa về tới phòng thì thấy Vương Lan đã ở trong phòng. Thấy Trương Hội, Vương Lan nói:"Một mình anh mà đem túi vàng này về quê thì dọc đường dễ bị cướp lắm. Ðể tôi đem về trước cho. Tôi sẽ chia đôi, trao cho vợ con anh một nửa, vợ con tôi một nửa. Rồi tôi sẽ trở lại đây báo tin anh biết!" Trương Hội gật đầu, nói:"May quá! Tôi cũng đang lo chẳng biết phải làm thế nào để đem được túi vàng này về quê cho an toàn! Nay anh tính thế thì hay quá!" Nói xong, lấy túi vàng ra trao cho Vương Lan. Vương Lan liền đỡ lấy rồi từ giã Trương Hội mà lên đường.
Lát sau, Vương Lan về tới nhà, đánh thức vợ con dậy, chia cho nửa túi vàng rồi dặn sáng sau phải đem nửa túi kia sang trao cho vợ con Trương Hội, nói là của Trương Hội gửi về. Dặn dò xong, Vương Lan lại lên đường tới nhà Triệu ông. Tới nơi, Vương Lan nói với Trương Hội: "Tôi đã chia đều vàng cho vợ con anh và vợ con tôi rồi. Bây giờ anh cứ ở lại đây mà ngủ, tôi đi đây! Sáng mai, ta sẽ gặp nhau ở quán trọ!" Trương Hội gật đầu.
Sáng sau, Trương Hội cáo biệt Triệu ông. Thấy Trương Hội không đem theo túi vàng, Triệu ông nhắc: "Tiên sinh quên túi vàng rồi!" Trương Hội đáp:"Bỉ nhân đã cho gia nhân đem về trước rồi!" Triệu ông lấy làm lạ vì nhớ rằng Trương Hội chỉ tới đây có một mình. Tuy nhiên, Triệu ông cũng chẳng hỏi chi, chỉ lấy thêm ba trăm quan ra biếu Trương Hội làm lộ phí. Trương Hội cám ơn rồi cầm tiền về quán trọ. Dọc đường, Trương Hội gặp Hạ Tài.
Thấy Trương Hội, Hạ Tài mừng quá, vội chạy tới. Trương Hội hỏi:"Mi đi đâu?" Hạ Tài đáp:"Tôi nghe đồn anh vừa được Vương Lan truyền cho thuật chữa bệnh để làm giàu nên tôi lên đây tìm anh để xin chút tiền tiêu!" Trương Hội toan lấy trăm quan ra cho thì chợt có tiếng Vương Lan thì thầm bên tai:"Chỉ cho y mười quan thôi! Rồi đuổi y đi!" Trương Hội bèn nghe lời.
Hạ Tài đem tiền về Lợi Tân rượu chè cờ bạc. Mười ngày sau hết nhẵn, lại lên tỉnh hỏi thăm chỗ ở của Trương Hội. Khi được tin Trương Hội trọ trong quán Yên Ðôn thì trời đã tối nên Hạ Tài đành phải chờ sáng sau.
Ðêm ấy, Vương Lan ghé tai Trương Hội thì thầm:"Thế nào sáng mai thằng Hạ Tài cũng mò tới đây xin tiền. Nó bê tha rượu chè cờ bạc, anh chẳng nên chơi với nó nữa. Anh nên khuyên nó phải chí thú làm ăn rồi cho nó thêm chín chục quan nữa. Nó sẽ vâng dạ anh để lấy tiền, song nó sẽ chẳng nghe lời anh đâu! Nhưng thôi, anh cứ nên làm thế cho trọn tình bằng hữu. Cho nó ít tiền thì anh còn bị họa nhỏ, chứ cho nó nhiều tiền thì anh sẽ bị họa lớn đó!" Trương Hội đáp:"Tôi hiểu rồi!"
Quả nhiên, sáng sau, Hạ Tài lại mò tới. Trương Hội nói:"Tao đã biết trước là thế nào sáng nay mi cũng tới đây xin tiền. Mi cứ bê tha, rượu chè cờ bạc như thế này thì dù có ngàn vàng mi cũng sẽ tiêu hết ngay. Nếu mi thực tâm hối cải thì tao sẽ cho mi thêm chín chục quan nữa để lấy vốn mà làm ăn!" Hạ Tài vâng dạ rối rít. Trương Hội bèn lấy chín chục quan ra cho Hạ Tài.
Hạ Tài lại đem tiền về Lợi Tân, la cà ở các tửu quán, đổ trường. Lính tuần biết Hạ Tài đã sạt nghiệp mà nay lại có tiền vung vãi thì nghi ngờ, bèn bắt giải vào trình quan tể. Quan hỏi Hạ Tài lấy tiền ở đâu ra thì Hạ Tài man khai là tiền của cha mẹ để lại. Quan chẳng tin, sai lính tra khảo. Bị đánh trọng thương, Hạ Tài đành phải khai thực là của Trương Hội cho. Quan bèn bắt Hạ Tài dẫn lính lên quán trọ Yên Ðôn để bắt Trương Hội về huyện đối chất xem lời khai của Hạ Tài có đúng hay không. Thế nhưng, vì bị trọng thương nên mới đi được nửa đường, Hạ Tài đã lăn ra chết. Lính đem xác về trình. Quan liền sai lính đem đi chôn, rồi dẹp vụ án.
Hạ Tài chết, hồn bay lên tỉnh, vào phòng trọ của Trương Hội. Gặp hồn ma của Vương Lan ở trong phòng, Hạ Tài kinh hãi quá, quay mình bỏ chạy. Vương Lan gọi giật lại, nói:"Vì anh chẳng nghe lời bạn nên mới bị uổng tử. Nay đã thành ma thì hãy ở lại đây mà chơi với bạn ít bữa vì chỉ mấy hôm nữa thôi là các anh sẽ chẳng bao giờ được gặp lại nhau nữa!" Thấy Vương Lan nói chuyện tử tế với mình, Hạ Tài bèn ở lại.
Tối ấy, Trương Hội đưa tiền nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm mình để thết đãi hồn ma hai bạn. Hạ Tài được dịp ăn uống thỏa thích, nên say sưa bí tỉ, la hét ầm ĩ. Vương Lan nói:"Anh la hét như thế thì chỉ tổ làm hại bạn anh thôi!" Hạ Tài chẳng nghe, cứ tiếp tục la hét. Vương Lan bèn bỏ đi.
Ðêm ấy, quan tuần phương ngự sử dắt lính đi tuần quanh tỉnh. Qua quán trọ Yên Ðôn, thấy có tiếng la hét, quan bèn sai lính vào bắt kẻ làm huyên náo. Lính vào hỏi chủ quán:"Tiếng la hét từ đâu vọng ra đường?" Chủ quán chỉ phòng của Trương Hội. Lính ập vào phòng thì chỉ thấy một mình Trương Hội đang ngồi độc ẩm. Lính liền bắt trói Trương Hội, đem ra trình quan. Ngự sử truyền giải Trương Hội về tỉnh đường, nhốt vào ngục.
Sáng sau, ngự sử đăng đường, cho giải Trương Hội lên, hỏi:"Sao đêm qua mi lại uống rượu say, làm huyên náo cả đường phố?" Trương Hội kinh hãi, đáp:"Bẩm đại quan, đó là hồn ma của bạn tiểu nhân chứ chẳng phải là tiểu nhân!" Hỏi:"Bạn mi tên chi?" Ðáp:"Bẩm đại quan, y tên Hạ Tài!" Hỏi:"Sao mi biết là hồn ma của y la hét?" Ðáp:"Bẩm đại quan, vì đêm qua tiểu nhân có nhờ chủ quán đi mua rượu thịt giùm tiểu nhân để thết đãi hồn ma hai người bạn là Hạ Tài và Vương Lan. Hồn Hạ Tài uống rượu say rồi la hét, hồn Vương Lan khuyên thế nào y cũng chẳng nghe!" Ngự sử nổi giận, quát:"Mi chỉ nói toàn chuyện hoang đường! Chính mi la hét chứ ma với quỷ nào!" Rồi ra lệnh cho lính đánh mười roi, nhốt vào ngục.
Tối ấy, khi ngẫm lại lời khai của Trương Hội, ngự sử lại nửa ngờ nửa tin. Nhân gần công đường có đền Linh Quan, nổi tiếng linh thiêng, ngự sử bèn viết một lá thư Gửi Thần Ðền Linh Quan. Trong thư, ngự sử thuật lại lời khai của Trương Hội rồi hỏi:"Trương Hội khai như thế có đúng không?" Sau đó, ngự sử sai lính đem lá thư tới đốt ở lò hương trong đền. Ðêm ấy, ngự sử nằm mộng thấy một người, mình mặc giáp vàng, đầu đội mũ thần, tới nói:"Bản chức là thần đền Linh Quan. Nhận được thư của đại quan nên tới đây để trả lời. Trương Hội khai như thế là đúng. Y vốn có hai người bạn là Vương Lan và Hạ Tài. Vương Lan thì bị quỷ bắt lầm rồi sau đó, nhờ có cơ duyên mà được thành tiên. Y vô can trong vụ la hét đêm qua. Ngày mai, bản chức sẽ phụng mệnh Diêm Vương, trao cho y chức Thanh Ðạo Sứ, bắt y phải lên đường phó nhậm ngay. Hạ Tài mới là kẻ có tội. Tên này khi sống là kẻ vô lại, khi chết chẳng chừa tật xấu, làm huyên náo cả đường phố ở dương gian. Theo lệnh của Diêm Vương, ngày mai y sẽ bị đày đi làm phu vác đá ở núi Thiết Vi. Còn Trương Hội vô tội, xin đại quan tha cho y!" Sáng ra, ngự sử cũng lấy làm lạ về giấc mộng. Bèn đăng đường, truyền lệnh thả cho Trương Hội ra về.
Trương Hội về quán trọ, kiểm lại tiền bạc, thấy vẫn còn đủ hai trăm quan của Triệu ông biếu. Bèn thanh toán tiền phòng, lên đường về quê. Tới nhà, đem một trăm quan sang biếu vợ con Vương Lan.
Hai gia đình Trương Hội và Vương Lan cùng dùng vàng của Triệu ông trả công để làm vốn đi buôn. Sau, trở thành hai gia đình khá giả ở trong làng.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Bảy chị em chồn
truyện TIÊU THẤT

Phấn nhị chi hương tập ỷ diên.
Ôn nhu hương diệc hữu tiền duyên.
Tiêu lang vị ẩm tâm tiên túy.
Tụ đắc lăng cân cánh diểu nhiên.


Huyện Lâm Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có nho sinh họ Từ, tên Kế Trường, có vợ họ Ðiền. Ðiền thị đẹp lắm, đã hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, lại hay chiều chồng và ưa bỡn cợt với chồng. Kế Trường đi thi hương mãi không đậu nên bỏ học, đi làm chủ bạ.
Một buổi sáng mùa hè, Kế Trường đi dự tiệc ở xa. Chiều về, dọc đường khát nước, Kế Trường đảo mắt kiếm một ngôi nhà để vào xin nước uống thì thấy hai bên đường chỉ toàn là đồng ruộng, với vài ba ngôi cổ mộ rải rác đó đây. Khi miệng đã khô, Kế Trường mới thấy một biệt thự ở đằng xa. Mừng quá, Kế Trường vội rảo bước chạy tới thì thấy một ông lão đang ngồi hóng gió ở ngoài cổng. Kế Trường chắp tay vái chào, nói:"Bỉ nhân khát quá, xin lão trượng làm ơn cho ngụm nước!" Ông lão liền đứng dậy, nói:"Xin mời lang quân hãy đi theo lão phu!"
Sau khi dẫn Kế Trường vào sảnh đường ngồi, ông lão gọi tì nữ bưng trà lạnh lên. Chờ cho Kế Trường uống hết bình trà, ông lão mới nói:"Xin lang quân cho lão phu được biết quý danh!" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân họ Từ, tên Kế Trường!" rồi ngồi nói chuyện với ông lão.
Lát sau, Kế Trường đứng dậy cám ơn, xin cáo biệt. Ông lão nói:"Trời tối rồi, khó thấy đường đi, lang quân ở lại đây mà nghỉ, sáng mai hãy về!" Ðang bị say rượu, thân thể mỏi nhừ, được mời ở lại, Kế Trường liền đáp:"Xin vâng" Ông lão bèn sai tì nữ đi dọn phòng cho khách rồi quay qua nói với Kế Trường:"Lão phu đã sai dọn phòng để lang quân đi nghỉ, song giờ này còn sớm, mời lang quân ngồi đây nói chuyện với lão phu thêm một lát nữa đã!" Kế Trường đành phải ngồi lại.
Tới nửa đêm, đột nhiên ông lão gọi gia nhân lên, sai bày tiệc rượu cho tám thực khách. Kế Trường ngạc nhiên, chẳng hiểu tại sao giữa nửa đêm còn đi bày tiệc rượu, song cũng chẳng dám hỏi tới việc riêng của chủ nhà. Bỗng ông lão hỏi Kế Trường:"Lang quân có gia thất chưa?" Kế Trường đáp:"Thưa lão trượng, đã!" Ông lão nói:"Lão phu có chuyện riêng muốn thưa cùng lang quân!" Kế Trường vội hỏi:"Thưa lão trượng, chuyện gì?" Ông lão đáp:"Xin chớ chê là lão phu đường đột! Nguyên lão phu có bảy con gái, đã gả chồng hết sáu, chỉ còn đứa út năm nay mười sáu. Nay thấy lang quân là người xứng đôi với nó nên lão phu muốn gả nó cho lang quân làm trắc thất, chẳng hay ý lang quân thế nào?" Kế Trường lúng túng, chẳng biết trả lời ra sao. Bỗng ông lão sai gia nhân sang hàng xóm mời khách sang dự tiệc rồi sai tì nữ vào nhà trong giục cô Bảy trang điểm và trình với phu nhân đưa cô Bảy ra chào khách.
Lát sau, có bốn lão khách từ ngoài cửa bước vào, rồi phu nhân từ nhà trong bước ra, theo sau là hai tì nữ dìu một nữ lang, tư dung diễm lệ, xiêm y sang trọng. Nữ lang cúi đầu chào mọi người. Ông lão bèn đứng dậy giới thiệu mọi người với Kế Trường rồi chỉ Kế Trường mà nói:"Lang quân đây họ Từ, húy Kế Trường. Lão phu vừa quyết định đêm nay làm lễ vu quy cho con gái út sánh duyên cùng lang quân đây! Nửa đêm mà còn đi làm phiền quý vị tới đây chứng giám, mong quý vị thứ lỗi cho!" Mọi người đều nói lời chúc tụng rồi cùng nhập tiệc.
Kế Trường say rượu, thân thể mỏi nhừ, đầu óc rối loạn, chỉ muốn được đi nằm, nhưng trong tình cảnh ấy, cũng phải miễn cưỡng ngồi vào bàn. Rượu được vài tuần, Kế Trường say quá, chẳng còn kham nổi nên đứng dậy xin đi nghỉ. Ông lão cố ép ngồi lại song Kế Trường cương quyết chối từ. Ông lão đành sai tì nữ dẫn khách cùng con gái vào chung phòng. Tì nữ dắt hai người vào căn phòng mới dọn, rồi khép cửa, bỏ đi.
Vào phòng, Kế Trường ngồi xuống giường, còn nữ lang thì đến ngồi trên chiếc ghế đặt ở góc phòng, cạnh ngọn đèn. Kế Trường hỏi:"Nàng họ chi?" Nữ lang đáp: "Thiếp họ Tiêu!" Hỏi:"Nàng tên chi?" Ðáp:"Thiếp không có tên!" Hỏi:"Không có tên thì lấy chi mà gọi?" Cười, đáp: "Ai cũng gọi thiếp là cô Bảy vì thiếp là con gái thứ bảy trong gia đình!" Hỏi:"Gia thế nàng ra sao?" Ðáp:"Gia thế thiếp thì nghèo hèn thô lậu, chẳng có gì đáng khoe. Tuy nhiên, nay thiếp đã được cha đem gả cho một chủ bạ thì thiếp nghĩ gia thế nhà mình cũng chẳng đến nỗi làm nhục cho gia thế nhà chồng. Do đó, thiếp thiết tưởng chàng cũng chẳng nên căn vặn nữa!" Kế Trường ngượng quá, chẳng dám hỏi chi thêm. Bỗng cô Bảy hỏi:"Bây giờ chàng định đưa thiếp về đâu đây?" Kế Trường hỏi lại:"Ta muốn xin ở rể tại đây có được không?" Nữ lang đáp: "Không được!" Hỏi:"Tại sao?" Ðáp:"Vì chàng còn chánh thất ở nhà. Ðại nương hiền lành vui vẻ, chẳng biết ghen tuông, sao chẳng dắt thiếp về chung sống?" Thấy Kế Trường ngần ngại, cô Bảy nói tiếp:"Sáng mai, một mình chàng về trước, xin đại nương cho thiếp về ở chung. Nếu đại nương ưng thuận thì xin cho thiếp một phòng riêng. Tối mai thiếp sẽ tự tới, khỏi phải đón rước!" Kế Trường gật đầu. Cô Bảy bèn tắt đèn rồi lên giường vui vầy với Kế Trường. Lát sau, Kế Trường mệt quá, nằm lăn ra ngủ.
Sáng ra, khi ánh nắng rọi vào mắt, Kế Trường tỉnh giấc thì thấy cô Bảy đã biến mất. Kế Trường vội vùng dậy coi thì thấy mình đang đứng dưới một gốc cổ thụ, trên một đống cỏ dày. Kinh hãi quá, Kế Trường vội chỉnh lại mũ áo rồi ra về.
Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe. Ðiền thị chẳng tin, rũ ra cười, nói:"Chắc là tại chàng say rượu, ngã xuống đường mà ngủ rồi nằm mơ thấy thế chứ gì?" Tuy nhiên, vì muốn bỡn cợt chồng, Ðiền thị vẫn đi dọn một phòng riêng, kê giường nệm gối chăn mới, rồi ra nói:"Thiếp đã dọn xong phòng riêng rồi! Tối nay chàng vào đó mà ngủ với cô dâu mới!" Nói xong, lại rũ ra cười, làm cho Kế Trường cũng phải cười theo.
Tối ấy, cơm nước xong, Ðiền thị muốn bỡn cợt chồng, bèn đến cạnh chồng, nắm tay lôi tới căn phòng mới dọn, rồi mở cửa phòng, lên tiếng hỏi đùa:"Tân giai nhân đã tới đó ư? Còn chờ gì mà chẳng ra dắt tân lang vào ngủ?" Nói xong, lại rũ ra cười. Chợt thấy ngọn đèn trong phòng loé sáng, Ðiền thị kinh ngạc, tắt hẳn tiếng cười. Rồi thấy có người từ trên giường tụt xuống đất, xỏ chân vào giày, chạy ra phía cửa. Ðiền thị đưa mắt nhìn thì thấy một nữ lang xinh đẹp, điểm trang sang trọng như cô dâu ngày cưới. Nữ lang chắp tay vái chào Ðiền thị. Ðiền thị gật đầu chào lại rồi hỏi:"Hiền muội tới từ hồi nào?" Nữ lang đáp:"Thiếp vừa mới tới!" Ðiền thị chỉ Kế Trường, nói:"Bây giờ hiền muội cứ giữ lang quân ở lại đây, để ngu tỉ đi lấy rượu vào cho hai người làm lễ hợp cẩn!" rồi bước ra khỏi phòng. Nhận ra nữ lang là cô Bảy đêm qua, Kế Trường mừng lắm còn cô Bảy thì chỉ che miệng mà cười. Lát sau, Ðiền thị đem rượu vào phòng rồi trở ra. Ðêm ấy, Kế Trường ngủ lại phòng cô Bảy.
Sáng sau, cô Bảy dậy sớm, tự ý lau chùi dọn dẹp nhà cửa. Khi Ðiền thị ngủ dậy, thấy nhà cửa sạch sẽ tươm tất thì thích lắm, chẳng ngớt lời khen. Từ đó, ba người chung sống hòa thuận, vui vẻ dưới một mái nhà.
Tháng sau. Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường:"Tối nay, sáu tỉ tỉ của thiếp muốn tới đây ăn uống để xem nhà cửa của chàng ra sao" Kế Trường nói:"Nhà ta nghèo lắm, lấy chi mà đãi khách?" Ðáp:"Chàng khỏi lo! Vì biết nhà chàng nghèo nên họ sẽ cho người đem thức ăn tới. Chỉ nhờ chàng nói với đại nương tối nay giúp thiếp hâm nóng lại thức ăn một chút mà thôi!" Kế Trường bèn ra nói với vợ. Ðiền thị vui vẻ nhận lời. Trưa ấy, quả nhiên có người gánh hai thúng đầy rượu thịt vào đặt ở giữa sân nhà rồi bỏ đi. Ðiền thị liền ra lấy, đem vào nhà bếp.
Tối ấy, khi thấy sáu chị tới, cô Bảy chạy ra mời vào phòng mình rồi giới thiệu từng người với Kế Trường. Kế Trường thấy cô Cả cũng chỉ chừng bốn mươi trở lại, còn cô Sáu thì chỉ chừng mười tám. Cô Sáu có vóc người thon nhỏ, mảnh mai yểu điệu, dáng vẻ vui tươi, ăn nói dí dỏm, chỉ mặc một bộ đồ trắng chứ không trang điểm gì vì mới góa chồng. Ðiền thị vào bếp hâm nóng thức ăn. Cô Bảy xuống bếp mời Ðiền thị lên dự tiệc. Ðiền thị từ chối, nói đã ăn rồi. Cô Bảy bèn bưng thức ăn lên phòng. Mọi người nhập tiệc, chuyện trò vui vẻ. Trong tiệc, Kế Trường ưa nói chuyện với cô Sáu nhất. Lát sau, mọi người cùng say sưa, cười nói ầm ĩ. Thấy tiếng ồn ào trên phòng cô Bảy, Ðiền thị bèn chạy lên dòm qua cửa sổ để xem có bao nhiêu người thì thấy chỉ có chồng mình với cô Bảy nhưng tai thì vẫn nghe thấy tiếng cười nói của nhiều người. Cả bọn ngồi dự tiệc tới gần sáng mới đứng dậy cáo biệt. Cô Bảy bèn tiễn sáu chị ra về.
Ðiền thị vào phòng cô Bảy nói chuyện với chồng. Thấy bát đĩa trên bàn nhẵn nhụi, Ðiền thị cười, hỏi:"Lũ nhỏ đói lắm phải không?" Kế Trường hỏi:"Sao nàng biết?" Ðiền thị cười, đáp:"Vì bát đĩa nào cũng sạch trơn như chó liếm!" rồi thu dọn bát đĩa, đem xuống bếp rửa.
Tiễn khách về rồi, cô Bảy trở vào phòng thì thấy bát đĩa đã được thu dọn, liền hỏi Kế Trường:"Ai dọn dẹp thế này?" Kế Trường đáp:"Chị ấy dọn, đem xuống bếp rửa rồi!" Cô Bảy vội chạy xuống bếp, giằng lấy bát đĩa trong tay Ðiền thị mà rửa, giục Ðiền thị lên nhà đi nghỉ.
Ðiền thị lên phòng cô Bảy, nói với chồng:"Chàng mời khách tới nhà dự tiệc mà lại để cho khách phải đem thức ăn tới thì thực là kỳ cục, thế nào rồi họ cũng cười cho! Hôm nào chàng gắng kiếm chút tiền để thiếp làm cho một bữa tiệc mà mời khách!" Kế Trường trầm ngâm, chẳng đáp. Lát sau, Ðiền thị nói:"Tối nay chàng cứ ở lại đây mà ngủ!" rồi về phòng mình.
Tháng sau. Một sáng, Kế Trường đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc, rồi bảo cô Bảy về nhà mời sáu chị sang dự. Ðến tối, Ðiền thị làm tiệc xong, bày hết lên bàn trong phòng cô Bảy. Lát sau, khách tới. Kế Trường bảo cô Bảy ra mời khách vào phòng nhập tiệc. Khách ngồi vào bàn, ăn uống tự nhiên, chẳng khách sáo chi, song chừa lại bốn bát thức ăn, chẳng đụng đũa tới. Kế Trường lấy làm lạ, hỏi:"Sao các tỉ tỉ chẳng dùng mấy món này?" Khách nhìn nhau mỉm cười, đáp:"Bữa trước phu nhân nói chúng tôi ăn uống thô tục, bát đĩa sạch trơn như chó liếm, nên hôm nay chúng tôi phải chừa lại bốn món, để phần nhà bếp!"
Trong tiệc, cô Sáu cứ buông lời chọc ghẹo Kế Trường làm cho Kế Trường phải đỏ mặt. Thấy thế, bọn chị em liền đặt ra một luật chơi, gọi là tửu lệnh, hẹn rằng hễ ai nói câu gì chọc ghẹo Kế Trường thì bị phạt một chén rượu. Cô nào thì cũng chỉ bị phạt một vài chén, riêng cô Sáu thì bị phạt tới mười hai chén. Vì thế, cô Sáu say lảo đảo, mặt đỏ gay, phải giả vờ đi rửa mặt rồi xuống bếp kiếm chỗ ngả lưng. Kế Trường chờ mãi chẳng thấy cô Sáu trở lại bàn tiệc, bèn thắp đèn đi tìm. Xuống bếp, thấy cô Sáu đang nằm ngủ vùi ở xó bếp, tay nắm chặt một chiếc khăn lụa mỏng, Kế Trường vội cúi xuống gỡ trộm chiếc khăn, cất vào túi áo, rồi trở lên bàn tiệc, nói cô Sáu say quá, đang nằm ngủ ở dưới bếp, xin cứ để yên cho cô ấy ngủ.
Ðêm ấy, bữa tiệc kéo dài tới gần sáng. Lúc tiệc tan, thấy năm chị lớn đã sửa soạn ra về mà chị Sáu vẫn chưa trở lên phòng tiệc, cô Bảy liền chạy xuống bếp đánh thức. Cô Sáu dụi mắt, uể oải vươn vai, song vẫn còn ngái ngủ, chưa chịu ngồi dậy. Cô Bảy phải giục mãi, cô Sáu mới chịu đứng dậy lên nhà trên, cùng năm chị ra về. Lần này, cô Bảy bảo Kế Trường đi tiễn khách. Ðược lời, Kế Trường liền đi tiễn một quãng thực xa. Khi trở về, Kế Trường cứ ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Lát sau, Kế Trường lẻn ra vườn sau, móc túi lấy chiếc khăn ra coi thì thấy chiếc khăn đã mất. Kế Trường vừa kinh hãi vừa tiếc rẻ, nghĩ rằng mình đã đánh rớt chiếc khăn ở dọc đường khi đi tiễn khách nên vội thắp đèn đi tìm, song tìm mãi chẳng thấy. Thấy Kế Trường trở về, vẻ mặt buồn rầu, cô Bảy mỉm cười, hỏi:"Ði đâu về thế?" Kế Trường đáp:"Ði đóng cổng!" Hỏi:"Ði đóng cổng thì việc gì mà phải buồn thế?" Chối:"Có buồn chi đâu?" Nói:"Chối làm chi nữa! Khăn của người ta thì người ta lấy lại rồi, tìm làm chi cho mất công vô ích!" Kế Trường kinh hãi quá, đành thú thực:"Ta mê chị Sáu lắm!" Cô Bảy nói: "Thiếp biết chứ! Nhưng chị Sáu với chàng hết duyên nợ rồi!" Hỏi:"Sao nàng biết?" Ðáp:"Vì kiếp trước chàng là nho sinh còn chị Sáu là con gái nhà nông. Chàng gặp chị Sáu thì mê song cha mẹ chàng không cho chàng cưới. Vì thế, chàng ốm tương tư, phải nằm liệt giường, nhờ người báo tin cho chị Sáu biết, xin chị Sáu tới thăm và cho chàng nắm tay một lần để lỡ chàng có thác thì cũng đã được toại nguyện. Chị Sáu ưng thuận song cứ chần chờ. Ðến tối, khi chị Sáu tới thì chàng đã thác. Vì thế, chị Sáu chỉ nợ chàng có một cái nắm tay thôi. Hôm nay chàng đã được nắm tay chị Sáu để gỡ trộm khăn rồi thì nợ đã hết. Vì thế, hai người khó lòng mà tiến xa hơn được!"
Tháng sau, Kế Trường lại đưa tiền cho vợ, nhờ làm tiệc để mời các cô chị của cô Bảy. Thế nhưng lần này, chỉ có năm cô tới còn cô Sáu không tới. Kế Trường nghi là cô Bảy ghen, không cho cô Sáu tới nên rất oán hận cô Bảy. Cô Bảy phân trần:"Thấy chị Sáu không tới, chàng nghi là thiếp ghen, không cho chị ấy tới. Thực ra thì tại chị ấy không muốn tới chứ chẳng phải là tại thiếp ghen!" Kế Trường vẫn chẳng tin. Cô Bảy bèn tìm đủ cách cho Kế Trường gặp lại cô Sáu nhưng cô Sáu nhất định chẳng chịu gặp lại Kế Trường. Lúc đó Kế Trường mới bớt nghi cô Bảy.
Tám năm sau.
Một sáng, đột nhiên cô Bảy nói với Kế Trường: "Chiều nay, thiếp xin vĩnh biệt chàng!" Kế Trường kinh hãi, hỏi:"Sao lại vĩnh biệt?" Ðáp:"Vì duyên nợ với chàng đã hết nên thiếp phải về ở với cha mẹ!" Hỏi:"Nàng chẳng thể ở lại đây được nữa hay sao?" Ðáp:"Chẳng thể được! Song trước khi vĩnh biệt, thiếp muốn giúp chàng một việc!" Hỏi:"Việc gì?" Ðáp:"Việc gặp lại chị Sáu! Trong tám năm qua lúc nào chàng cũng nhớ tới chị Sáu và oán hận thiếp! Bây giờ, thiếp muốn giúp chàng gặp lại chị Sáu để cho chàng được toại nguyện. Chị Sáu góa chồng, về ở với cha mẹ. Chàng mời chị ấy tới đây dự tiệc thì chị ấy có quyền từ chối, song chàng theo thiếp về thăm cha mẹ thiếp thì chị ấy đâu có quyền cấm cản chàng? Bây giờ chàng cứ đi theo thiếp, biết đâu chị ấy chẳng đổi ý, chịu ra gặp chàng! Xưa nay, nhân định thắng thiên cũng nhiều!" Kế Trường mừng lắm, thuận đi theo cô Bảy.
Chiều ấy, cô Bảy vào chào vĩnh biệt Ðiền thị rồi cùng Kế Trường ra cổng. Cô Bảy vừa nắm tay Kế Trường thì cả hai cùng bay bổng lên không trung. Lát sau, khi đáp xuống cổng nhà Tiêu lão, Kế Trường thấy ngôi nhà vẫn nguyên như cũ. Thấy Tiêu lão cùng phu nhân đang đứng ở cổng, Kế Trường vội chắp tay vái chào. Tiêu lão cùng phu nhân khẽ gật đầu đáp lễ rồi bảo cô Bảy dẫn Kế Trường vào phòng khách. Vào phòng, phu nhân gọi tì nữ pha trà rồi quay qua nói với Kế Trường:"Con Bảy nhà lão thân được hưởng hạnh phúc với hiền tế trong tám năm qua, lão thân rất cám ơn hiền tế. Vì lão thân già yếu, chẳng tới nhà hiền tế được lần nào, mong hiền tế hiểu cho!" Sau đó, quay qua bảo gia nhân:"Tối nay, hãy bày tiệc rượu cho năm thực khách!" Gia nhân vâng dạ.
Tối ấy, khi gia nhân bày tiệc xong, phu nhân sai tì nữ thắp đèn rồi mời Tiêu lão, Kế Trường và cô Bảy cùng ngồi vào bàn dự tiệc với mình. Cô Bảy hỏi mẹ:"Các chị con đâu? Sao chẳng thấy ai ra dự tiệc?" Phu nhân đáp: "Hôm qua chúng nó kéo nhau về đây đông đủ cả song sáng nay đứa nào cũng theo chồng về nhà rồi! Chỉ còn con Sáu ở lại đây thôi!" Rồi sai tì nữ vào nhà trong mời cô Sáu ra dự tiệc. Kế Trường hồi hộp chờ cô Sáu ra song chờ mãi chẳng thấy. Cô Bảy bèn đứng dậy, chạy vào nhà trong lôi chị ra, kéo ghế ép ngồi, rót rượu ép uống. Kế Trường đưa mắt nhìn thì thấy nét mặt cô Sáu có vẻ trầm ngâm chứ chẳng được vui tươi như trước.
Rượu được vài tuần, Tiêu lão và phu nhân cùng đứng dậy, nói lời cáo từ rồi vào nhà trong. Còn lại ba người ở bàn tiệc, cô Bảy lên tiếng:"Chị cứ khủng khỉnh làm cao để người ta nghi oan cho em mà oán hận em!" Cô Sáu mỉm cười, nói:"Em thử nghĩ coi! Gần gũi với con người khinh bạc, gỡ trộm khăn tay, để làm gì?" Nghe thấy thế, Kế Trường mới tin là mình đã nghi oan cho cô Bảy. Ðột nhiên cô Bảy đứng dậy, gỡ hai chén rượu ở tay hai người, đổi lẫn cho nhau, rồi ép hai người phải uống hết. Thấy hai người còn e dè, cô Bảy nói:"Uống hết đi chứ! Còn ngượng ngập nỗi gì?" Hai người bèn cùng nâng chén, uống cạn. Cô Bảy đứng dậy, đi vào nhà trong.
Thấy trong phòng chỉ còn có cô Sáu với mình, Kế Trường vội xô ghế đứng dậy, chạy tới nắm lấy cổ tay cô Sáu. Ðột nhiên, ở phía ngoài phòng có tiếng la hét ầm ĩ rồi có ánh đèn chiếu vào cửa phòng. Cô Sáu hoảng hốt giựt tay lại, la lên:"Chết rồi! Tai họa tới bất thần, biết làm sao bây giờ?" Kế Trường còn đang luống cuống thì cô Sáu đã biến mất. Kế Trường buồn bã, ngồi bệt xuống sàn thì bỗng thấy nhà cửa, lầu gác, đèn nến đều biến mất cả, duy chỉ còn mình đang ngồi giữa một bãi tha ma, chung quanh toàn là đồng ruộng, trên đầu là bàu trời đầy sao.
Chợt Kế Trường thấy từ xa có ánh đèn rọi tới rồi có một bọn thợ săn chừng hơn chục người, lưng đeo cung, tay cầm đao, ầm ầm chạy đến. Nhìn thấy Kế Trường, bọn thợ săn kinh hãi, hỏi:"Bằng hữu là ai? Sao đêm khuya lại tới đây mà ngồi?" Kế Trường đáp:"Bỉ nhân làm chủ bạ ở Lâm Chuy! Sáng qua tới nhà bạn dự tiệc, đến tối ra về thì bị lạc đường nên phải ngồi tạm xuống chỗ này nghỉ chân!" Bọn thợ săn hỏi:"Tụi tôi đang đuổi theo một con chồn. Nó vừa chạy qua đây, bằng hữu có thấy không?" Ðáp:"Bỉ nhân chẳng thấy chi cả!" rồi đưa mắt nhìn quanh thì nhận thấy mình đang ngồi cạnh một ngôi cổ mộ thuộc gia đình họ Vu. Bọn thợ săn ra về. Kế Trường buồn bã đứng dậy, về theo. Tới nhà, Kế Trường thuật lại câu chuyện cho vợ nghe, làm Ðiền thị cũng phải kinh ngạc. Kế Trường thầm mong cô Bảy trở lại một lần song trước sau cô Bảy vẫn tuyệt vô âm tín.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị
Thần thánh cũng ưa nịnh
truyện HẠ TUYẾT

Hợp hướng nhân gian hưởng đại danh.
Viêm thiên phong tuyết nhất thời tình.
Ngự tai hãn hoạn thành linh sảng.
Kiêu thái hà đa thế tục tình.


Ở Trung quốc thời xưa, dân chúng thường có thói xưng hô siểm nịnh. Vào đời vua Khang Hy triều Thanh, dân chúng quen gọi các cử nhân bằng Gia, các tiến sĩ bằng Lão Gia, các triều quan bằng Ðại Lão Gia.
Giữa mùa hè năm đinh hợi (1707), niên hiệu Khang Hy thứ 46, ngày 3 tháng 6, phủ Quy Ðức, tỉnh Hà Nam bị bão tuyết. Tuyết xuống dày hơn hai gang tay, lúa má ngoài đồng đều bị hủy hoại.
Ðến ngày mồng 6 tháng 7, phủ Tô Châu tỉnh Giang Tô cũng bị bão tuyết. Dân chúng kinh hãi lắm, rủ nhau tới đền thờ Ðại Vương cầu khấn. Họ khấn Ðại Vương bằng hai tiếng Lão Gia. Bỗng họ thấy Ðại Vương nhập vào một người, nói:"Thời nay, người đời quen khấn thần thánh bằng ba tiếng Ðại Lão Gia, thay vì bằng hai tiếng Lão Gia như trước. Chắc các ngươi cho rằng ta chỉ là một tiểu thần nên chẳng thèm khấn thêm tiếng Ðại ở đằng trước chứ gì?" Dân chúng kinh hãi quá, vội khấn Ðại Vương bằng ba tiếng Ðại Lão Gia. Bão tuyết liền ngưng.
Câu truyện trên đây hàm ý thần thánh cũng ưa nịnh như người đời. Nếu đúng thế thì đáng tiếc cho dân chúng phủ Quy Ðức đã chẳng biết dùng ba tiếng Ðại Lão Gia mà khấn thần thánh để cứu cho mùa màng khỏi bị thiệt hại.

<Phong Cầm: đến đây mới hết quyển I nhé ^^ >
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Đọc Và Dịch Liêu Trai Chí Dị
Đọc Liêu Trai Chí Dị

“Liêu Trai chí dị: bút ký tiểu thuyết, Thanh Bồ Tùng Linh trước, phân thập lục quyển, tứ bách tam thập nhất thiên. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, Sơn Đông Truy Xuyên nhân. Ấu hữu dật tài, lão nhi bất đạt, cố thử thư đa tá hồ quỷ chi sự dĩ hãn kỳ bất bình, diệc hữu tùng Đường nhân truyền kỳ chuyển hóa nhi xuất dã. Phả điêu trác tự cú, mô phỏng cổ nhã, cố văn nhân đa hy duyệt chi!” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ký, do Bồ Tùng Linh thời Thanh trưóc tác, chia làm 16 quyển, có 431 truyện. Tùng Linh tự Liễu Tuyền, người huyện Truy Xuyên tỉnh Sơn Đông. Lúc trẻ có tài hơn người, nhưng về già vẫn không thành đạt, nên sách ấy phần lớn là mượn chuyện hồ quỷ để phát tiết nỗi bất bình; cũng có khi là dựa theo các truyện truyền kỳ của người . thời Đường, thay đổi lại mà soạn ra. Câu chữ ít nhiều có gọt giũa, phỏng theo lối văn chương phong nhã thời cổ, nên văn nhân nhiều người thích xem).
“Liêu Trai chí dị: tiểu thuyết danh, phàm bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị cố sự, miêu tả ủy khúc, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở văn, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành, kim sảo suy hĩ” (Liêu Trai chí dị: tên tập truyện, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Lỉnh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện cũ về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mình nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi, đến nay có giảm đi).

"Liêu Trai chí dị: thư danh, bát quyển, hoặc tích vi thập lục quyển, kê tứ bách tam thập nhất thiên, Thanh Bồ Tùng Linh soạn. Ký thần tiên hồ quỷ tinh mị chi sự, miêu tả ủy khúc, văn từ diễm lệ, tự thứ tỉnh nhiên; ngẫu thuật sở ván, diệc đa giản khiết. Mỗi quyển chi mạt, thường xuyết tiểu văn. Cựu thời cực phong hành" (Liêu Trai chí dị: tên sách, gồm 8 quyển, có khi tách làm 16 quyển, tổng cộng 431 truyện, do Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn. Nội dung là ghi chép lại chuyện về thần tiên hồ quỷ yêu quái, miêu tả chi tiết, lời văn đẹp đẽ, sắp xếp phân minh; có chỗ là kể lại chuyện mắt thấy tai nghe, phần lớn cũng rõ ràng ngắn gọn. Ở cuối mỗi quyển thường thêm lời bình ngắn. Ngày trước được truyền tụng rất rộng rãi). "Liêu Trai chí dị: văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập, Thanh Bồ Tùng Linh tác. Lịch Thành Trương Hy Kiệt đích Chú Tuyết Trai sao bản Liêu Trai chí dị phân vi thập nhị quyển, hữu mục tứ bách bát thập bát thiên. Hiện tồn tối tảo khắc bản vi Thanh Càn Long tam thập nhất niên Thanh Kha Đình bản, tắc phân vi thập lục quyển, tứ bách dư thiên, đãn thiên mục tinh bất hoàn toàn. Giải phóng hậu hoàn phát hiện liễu tác giả đích bán bộ thủ cảo (định cảo bản), tằng ảnh ấn xuất bản, hựu hữu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, sở thu thiên mục hiệu vi hoàn bị. Tác giả dĩ phong phú đích tưởng tượng, tịnh tá giám đương thời lưu hành cố sự dữ tiền nhân chi tác, sáng tạo xuất bất thiểu ưu tú tác phẩm. Cấu tứ kỳ diệu, ngữ ngôn sinh động, dĩ đàm hồ thuyết quỷ đích biểu hiện hình thúc, đối đương thời hiện thực đích hắc ám hòa quan lại đích tội ác phả đa bộc lộ, vu khoa cử chế độ hòa lễ giáo đô hữu sở phê phán; tinh dĩ đồng tình bút điêu miêu hội liễu thanh niên nam nữ chân thành tương ái đích cố sự. Đãn thư trung dã tồn tại trước nhất ta nhân quả báo ứng chi thuyết hòa mê tín sắc thái” (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn, do Bồ Tùng Linh thời Thanh sáng tác. "Bản sao Liêu Trai chí dị của Chú Tuyết Trai" của Trương Hy Kiệt ở Lịch Thành chia làm 12 quyển, có mục lục gồm 488 truyện. Bản in sớm nhất hiện còn là bản của Kha Đình thời Thanh in năm Càn Long thứ 31 (1766) thì chia làm 16 quyển, hơn 400 truyện, nhưng mục lục cũng không đầy đủ. Sau ngày giải phóng (tức 1949, năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) lại phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả (bản thảo hoàn chỉnh), từng in ảnh xuất bản, lại có bản Hội hiệu hội chú hội bình thu thập mục lục đầy đủ hơn cả. Tác giả lấy trí tưởng tượng phong phú, mượn các truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước mà sáng tạo ra không ít tác phẩm ưu tú. Kết cấu hay lạ, lời lẽ sinh động, lấy hình thức biểu hiện là chuyện yêu ma hồ quỷ, vạch trần sự đen tối của hiện thực và tội ác của quan lại đương thời, đối với chế độ khoa cử và lễ giáo đều có sự phê phán; lại tỏ thái độ đồng tình khi miêu tả những chuyện cổ về tình yêu chân thành của thanh niên nam nữ. Song trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín). "Liêu Trai chí dị: Thanh đại kiệt xuất đích văn ngôn đoản thiên tiểu thuyết tập. Tác giả Bồ Tùng Linh, thư thành vu Khang Hy niên gian. Thư phân thập nhị quyển, kê tứ bách cửu thập nhất thiên, 1962 niên Trung Hoa thư cục bài ấn bản. Thư trung cố sự đại đa dĩ hồ tiên quỷ mị vi đề tài, cấp phú lãng mạn chủ nghĩa sắc thái nhi hựu câu hữu phong phú đích nội dung hòa thâm khác đích hiện thục chủ nghĩa. Nội dung bao quát đối tham quan ô lại sĩ hào thế thân dĩ cập phủ hủ đích khoa cử chế độ đích khể lộ, đối thanh niên nam nữ chân chính ái tình hôn nhân đích nhiệt tình ca tụng; thử ngoại hoàn hữu nhất ta hữu giáo đục ý nghĩa đích ngụ ngôn cố sự đẳng. Giá ta nội dung chủ yếu bộc lộ liễu phong kiến xã hội đích hắc ám hòa hủ bại, dĩ cập tác giả đối lý tuởng thế giới hòa mỹ hảo nhân vật đích truy cầu, ca tụng. Tiểu thuyết sung mãn kỳ dị khôi lệ đích ảo tưởng, tố tạo nhân vật hủ hủ nhi sinh, hô chi dục xuất, tình tiết điệt đãng đàng ná, sinh động đa biến. Ngử ngôn tinh luyện hàm súc, văn bút lưu sướng truyền thần, “Tả quỷ tả yêu cao nhân nhất đẳng, thích tham thích ngược nhập cốt tam phân", câu hữu độc đặc đích phong cách, tại ngã quốc tiểu thuyết sử thượng chiếm hữu hẩn cao đích địa vị. Đãn thư trung dã tồn tại truớc phong kiến luân lý quan niệm hòa phong kiến sắc thái" (Liêu Trai chí dị: tập truyện ngắn văn ngôn kiệt xuất thời Thanh. Tác giả là Bồ Tùng Linh, sách hoàn thành trong đời Khang Hy (1662-1722). Sách thia làm 12 quyển, gồm 491 truyện, năm 1962 Trung Hoa thư cục đã sắp xếp xuất bản. Truyện trong sách phần lớn là lấy đề tài hồ tiên ma quỷ, có nhiều màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn, lại mang nội dung phong phú và chủ nghĩa hiện thực sâu sắc. Nội dung nói chung là tố cáo bọn tham quan ô lại, cường hào ác bá và chế độ khoa cử mục nát, nhiệt tình ca ngợi tình yêu và hôn nhân chân chính của thanh niên nam nữ, ngoài ra còn có một ít truyện cổ loại ngụ ngôn có ý nghĩa giáo dục. Nội dung nói trên chủ yếu là vạch trần sự đen tối và mục ruỗng của xã hội phong kiến đồng thời nói lên sự mong mỏi, ngợi ca của tác giả về một thế giới lý tưởng và những con người tốt đẹp. Tập truyện đầy ắp những sự tưởng tượng lạ lùng đẹp đẽ, nhân vật được sáng tạo sống động chân thực, tình tiết bất ngờ biến ảo. Lời lẽ gọt giũa hàm súc, văn chương trôi chảy linh hoạt, "Tả quỷ tả ma cao bậc nhất, châm tham châm bạo thấu vào xương” đều có phong cách độc đáo đặc biệt, chiếm địa vị rất cao trong lịch sử truyện ngắn của nước ta. Nhưng trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến).

"Liêu Trai chí dị: Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh (1640-1715) trước. Đoản thiên tiểu thuyết tập, thập nhị quyển, nhất tác thập lục quyển, cộng tứ bách tam thập nhất thiên. Tối tảo hữu Chú Tuyết Trai sao bản, Càn Long tam thập nhất niên (1766 niên) Thanh Kha Đình khắc bản, nhị giả phân quyển, thiên mục lược dị. 1949 niên hậu phát hiện bán bộ thủ cảo, 1955 niên do Văn học Cổ tịch san hành xã ảnh ấn, 1978 niên Thuợng Hải Cổ tịch xuất bản xã hữu Trương Hữu Hạc tập hiệu "Hội hiệu hội chú hội bình" bản, hiệu hoàn bị. Cai thư hàm truyền kỳ, chí quái, dị sự đẳng nội dung. Nhiên đa tả hồ quỷ, yêu biến, dị quái cố sự, nghệ thuật thủy bình trăn chí văn ngôn tiểu thuyết đỉnh phong" (Liêu Trai chí dị: tên sách, Bồ Tùng Linh (1640-1715) thời Thanh sáng tác, là tập truyện ngắn, gồm 12 quyển, có khi chia làm 16 quyển, cộng 431 truyện. Cổ nhất có bản sao của Chú Tuyết Trai, năm Càn Long thứ 31 (1766) Kha Đình khắc bản, hai bản chia quyển, mục lục hơi khác nhau. Sau 1949 phát hiện được nửa bản viết tay của tác giả, năm 1955 Văn học cổ tịch san hành xã in ảnh xuất bản, năm 1978 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã có bản "Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc tập hợp so sánh các bản, đầy đủ hơn cả. Sách này mang nội dung truyền kỳ, chí quái, việc lạ, nhưng phần lớn kê chuyện cổ hồ quỷ, yêu ma, quái dị, về trình độ nghệ thuật thì đạt tới đỉnh cao của tiểu thuyết văn ngôn).

Trên đây là sáu định nghĩa về mục từ "Liêu Trai chí dị” nêu trong sáu quyển từ điển của Trung Hoa mà theo thứ tự là Từ nguyên (Chính tục biên hợp đính bản), Thương vụ ấn thu quán xuất bản, Thượng Hải, 1939; Từ hai (hợp đính bản), Trung Hoa thư cục xuất bản, Thuợng Hải, 1948; Trung văn đại từ điển. Trung Quốc văn hóa Nghiên cứu sở xuất bản, Đài Bắc, 1962 Từ hải, Tân thư xuất bản xã, Thượng Hải, 1989; Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển, Tác giả xuất bản xã, Bắc Kinh, 1991 và Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển, Quảng Tây dân tộc xuất bản xã, 1994. Dễ nhận ra rằng đặc điểm về mục đích và hoàn cảnh biên soạn riêng biệt của mỗi quyển từ điển đã dẫn tới những khác biệt giữa các định nghĩa nói trên, sự khác biệt thể hiện và phản ảnh quá trình nhận thức và tìm hiểu của người đọc Trung Hoa về Liêu Trai chí dị, song tựu trung sáu định nghĩa ấy đều đề cập tới bốn yếu tố là văn bản, nội dung, ý nghĩa và nghệ thuật của tác phẩm. Việc tìm hiểu giá trị tác phẩm khởi đi từ tổng thể các yếu tố ấy có thể góp phần làm sáng tỏ thêm giá trị và ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị, một kiệt tác hàng trăm năm qua từng làm say mê nhiều người đọc Việt Nam.

Về văn bản, Liêu Trai chí dị có một nét đặc biệt. Theo Từ hải 1989 và Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 thì Liêu Trai chí dị gồm 12 quyển, 488 hay 491 truyện. Các con số trên rõ ràng là dựa theo bản Hội hiệu hội chú hội bình, mà bản này dựa trên cơ sở nửa bản chép tay của Bồ Tùng Linh được phát hiện sau 1949. Tuy nhiên, sự ghi nhận về văn bản Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc cũng khá phức tạp. Chẳng hạn Từ nguyên năm 1939 kể là có 16 quyển, 431 truyện, Từ hải 1948 kể là có 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện, đến Trung văn đại từ điển xuất bản ở Đài Loan năm 1962 thì vẫn kể ra 8 hoặc 16 quyển, 431 truyện như Tù hải 1948. Tù hải 1989 không nêu rõ, nhưng cũng cho rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình là đầy đủ hơn cả, tức cũng tán thành con số 12 quyển, 491 truyện như Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991. Nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển 1994 lại kể ra 12 (hoặc 16) quyển, 431 truyện, nghĩa là lại quay về với các văn bản truyền thống. Nét đặc biệt này không gì khác hơn là ánh phản của quá trình phổ biến Liêu Trai chí dị ở Trung Quốc nói riêng và ở các quốc gia dùng chữ Hán trước đây nói chung. Chúng tôi không có được các bản in Liêu Trai chí dị 12 quyển để đối chiếu, nhưng Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển có kể ra một số truyện thuộc "Văn hóa Ma Trung Quốc” theo mục lục của các bản này, cụ thể như sau:

Khảo Thành hoàng, Thi biến, Đồng nhân ngữ, Giáo quỷ, Vương Lục lang, Trường Thanh tăng, Tăng nghiệt, Tú thập thiên, Vương Lan, Ung hổ thần, Hoa bì, Thiểm Hữu Mỗ Công, Miếu quỷ, Lục phán, Nhiếp Tiểu Thiến, Thủy mãng thảo, Cảnh Thập bát thuộc quyển I.

Châu nhi, Liên Hương, Trương Thành, Xảo nương, Ngô huyện nhị Thành hoàng, Lâm Tứ nương thuộc quyển II.

Giang trung quỷ quái, Lỗ Công nữ, Lý Trung Chi, Lý Bá Ngôn, Liên Toa, Nê quỷ, Liên Thành, Hoắc sinh, Dụ quỷ, Lý Tư giám thuộc quyển III.
Công Tôn Cửu Nương, Xúc chức, Thổ địa phu nhân, Tục hoàng lương, Liễu Tú tài, Phong Đô Ngự sử, Kỳ quỷ, Tửu cuồng Mục sinh, Bố khách thuộc quyển IV. Chương A Đoan, Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương, Thổ ngẫu sinh tử, Trường Trị nữ tu, Ngũ Thu Nguyệt, Liễu thị tử, Đậu thị thuộc quyển V.

Thu Dung dữ Tiếu Tạ, Ải quỷ, Khao tệ ty, Hướng Cảo, Nhiếp Chính xích quyền quý thuộc quyển VI. Mai nữ hòa Phong Vân Đình, Tư tăng bão Phật đầu, Ngưu Thành Chương, Kim Cô phu, Diêm La hoăng, Chu Thương bình oan ngục, Hoạn Nương thuộc quyển VII. Quỷ thê, Chư sinh, Tư văn lang, Trần Tích Cửu, Chu Khắc Xương thuộc quyển 8. Vu Khứ ác, ái Nô, Lưu phu nhân, Ấp nhân tao lăng trì thuộc quyển IX. Bố thương bị cứu, Tịch Phương Bình, Long Phi tướng Công, Thân thị, Nhiệm Tú thuộc quyển X. Vãn Hà dữ A Đoan, Vương Thập, Gia Bình Công tử, Chiết lâu nhân thuộc quyển XI. Lão Long thuyền hộ, Cổ bình, Nguyên Thiếu tiên sinh, Tiết Ủy nương, Điền Tử Thành, Lưu Toàn, Hoàn hầu yến tân, Cẩm Sắt, Phòng Văn Thục, Công Tôn Hạ thuộc quyển XlI.
Ngoài một số truyện có tên khác với trong các bản 16 quyển như Giang trung quỷ quái (Giang trung, quyển XIV), Lý Trung Chi (Diêm La, quyển XIV), Tửu cuồng Mục sinh (Tửu cuồng, quyển XlV), Lý Thường Cửu kiến Diêm Vương (Diêm Vương, quyển XV), Thổ ngẫu sinh tư (Thổ ngẫu, quyển XV), Thu Dung dữ Tiểu Tạ (Tiểu Tạ, quyển IX), Nhiếp Chính hách quyền quý. (Nhiếp Chính, quyển VIII), Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Mai nữ, quyển VII), Tử tăng bão Phật đầu (Tử tăng, quyển XIV), Chu Thương bình oan ngục (Oan ngục, quyển IX), Ấp nhân tao lăng trì (ấp nhân, quyển XVI), Bố thương bị cứu (Bố thương, quyển XI), Vãn Hà dữ A Đoam (Vãn Hà, quyển IV), Hoàn hầu yến tân (Hoàn hầu, quyển XII), thì theo nội dung được tóm tắt, có một số truyện không thấy có trong các bản 16 quyển như Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thô địa phu nhân (ngoài ra, bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ la tinh vào loại sớm nhất ở miền Bắc là Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô*dịch 8 truyện Hương Ngọc, Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ, Phượng Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chức Thành thì truyện Phòng Dỹ cũng không thấy có trong các bản Liêu Trai chí dị 16 quyển). Tuy nhiên, đó chính là các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di **. Nhưng đáng nói là chính Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển cũng vừa ghi nhận các truyện Ngô Huyện nhị Thành hoàng, Dụ quỷ, Thổ địa phu nhân trong Liêu Trai chí dị vừa ghi nhận các truyện Ngô lệnh, Dụ quỷ, Nữ quỷ trong Liêu Trai chí dị thập di: rõ ràng các bản Liêu Trai chí dị 12 quyển đã gộp cả Liêu Trai chí dị thập di. Tóm lại Liêu Trai chí dị 12 quyển là sự hợp nhất Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di của Bồ Tùng Linh. Có lẽ sau khi biên soạn Liêu Trai chí dị thập di, Bồ Tùng Linh đã tiến hành hợp nhất cả hai làm một với kết cấu 12 quyển có sửa chữa, bổ sung. Công việc này hoặc chưa hoàn tất, hoặc một nửa bản thảo của bản "tập đại thành” nói trên đã bị mất. Cần nói thêm rằng bản Hội hiệu hội chú hội bình cũng có những chỗ chưa hợp lý: nhan đề truyện Mai nữ đã đuợc đổi thành Mai nữ hòa Phong Vân Đình (Cô gái họ Mai và Phong Vân Đình), từ “hòa" (và) này không phải của văn pháp văn ngôn thời Bồ Tùng Linh mà là của văn chương bạch thoại... Rõ ràng vấn đề văn bản Liêu Trai chí dị chưa phải đã chấm dứt ở bản Hội hiệu hội chú hội bình, nên tình hình nói trên cũng cho phép người ta yên tâm khi đọc các văn bản truyền thống gồm Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí dị thập di.

* Tân Liêu Trai, Transcrit en quốc ngữ par Vũ Hi Tô, 1er édition, Đỗ Văn thư quán (ấn). Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie, Hà Nội, 1921-1922. Tất cả 2 quyển, quyển 1 có các truyện Tích nàng Hưong Ngọc (Hương Ngọc), Thư si, Lỗ Công nữ, Phòng Dỹ (?), quyển 2 có các truyện Phương Tiên, Lục y nữ, Chúc Thanh, Chúc Thành.
**. Ở đây chúng tôi theo văn bản trong Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty xb., Hương Cảng, 1961.

Về Liêu Trai chí di thập di, Trung Quốc Quỷ văn hóa đại từ điển định nghĩa như sau “Liêu Trai chí dị thập di. Thư danh, Thanh Bồ Tùng Linh soạn, bút ký tiểu thuyết tập, nhất quyển. Cai thư vi Liêu Trai chí dị thập di bộ phận, hữu Dân quốc so niên Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục thạch ấn bản, Bút ký tiểu thuyết đại quan bản. Nội dung đồng tiền thư, thư trung thu hữu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại đảng đa điều quỷ thoại" (Liêu Trai chí dị thập di. Tên sách, Bồ Tùng Linh thời Thanh soạn, là một tập bút ký tiểu thuyết, một quyển. Sách này là phần bổ sung của Liêu Trai chí dị, có bản thạch ấn của Thượng Hải Tiến bộ đồ thư cục và bản Bút ký tiểu thuyết đại quan đầu thời Dân quốc. Nội dung cũng như sách trước, thu thập nhiều chuyện ma nhu Dụ quỷ, Nữ quỷ, Quỷ lại). Theo bản Liêu Trai chí dị thập di, Minh Đức Đồ thư Công ty tái bản, Hương Cảng, 1961 mà chúng tôi sử dụng, quyển Thập di này có tất cả 68 truyện (xem Mục lục)

Về con số 431 truyện thì có điểm hơi lạ, vì bản Tường chú Liêu Trai chí di đồ vịnh, Quảng Trí thư cục, Hương Cảng, 1961 (ảnh ấn lại bản in thạch bản Tường chú Liêu Trai chí dị đồ vịnh năm Quang Tự thứ 12 - 1886, gọi tắt là bản Hương Cảng) và bản Túc bản Liêu Trai chí dị, Đại Trung Quốc Đồ thư Công ty, Đài Bắc, 1963 (gọi tắt là bản Đài Bắc) đều có 432 truyện (Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước ngoài, Hữu Ngọc chủ biên, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1980 cũng ghi nhận con số này). Trong hoàn cảnh tư liệu hiện nay chúng tôi chưa tìm hiểu được vấn đề nói trên, nên căn cứ vào thực tế văn bản của hai bản Hương Cảng và Đài Bắc có trong tay, tạm thời chấp nhận con số 432 truyện. Như vậy, kể cả 68 truyện trong quyển Thập di, Liêu Trai chí di có đúng 500 truyện, không kể một số truyện trong các tài liệu khác được chép phụ vào. Tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị ngoài tác dụng góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành của tác phẩm còn ít nhiều có tác dụng trực tiếp trong việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa các truyện trong tác phẩm. Nhìn từ kết cấu hình thức, các truyện trong Liêu Trai chí dị gồm hai loại: một loại có lời bình của tác giả, phần nhiều có ghi "Dị Sử thị nói" (193 truyện, trong đó phần Thập di có 7 truyện, nếu kể cả nhũng truyện có lời bình nhưng không ghi “Dị Sử thị nói" như Phục hỏa trong quyển II, Thủy tai trong quyển III, A Hà trong quyển VI, Thâu đào, Khâu kỹ trong quyển XIII thì có trên 200) và một loại chỉ có phần “chí dị”. Quan sát các bản 16 quyển, có thể thấy các truyện có lời bình "Dị Sử thị nói" tập trung trong khoảng mười hai quyển đầu (121/233 truyện), các truyện này nhìn chung khá dài, có bố cục chặt chẽ, cốt truyện rõ ràng, còn các truyện không có lời bình chủ yếu tập trung ở bốn quyển cuối (134/199 truyện) và quyển Thập di (61/68 truyện), nội dung khá đơn giản, thậm chí có khi chỉ gồm vài mươi chữ. Rõ ràng Liêu Trai chí dị còn đang trong giai đoạn bổ sung, sửa chữa, nhất là những truyện chỉ có phần "chí dị". Nói một cách hình tượng thì Liêu Trai chí dị giống một bộ tranh liên hoàn đang vẽ dở dang, có bức đã tỉa tót tô điểm tới từng chi tiết, nhung có búc chỉ mới có vài nét phác họa đầu tiên. Tình hình văn bản chưa hoàn chỉnh như vậy một mặt dễ đưa tới nhũng ngộ nhận về nội dung cụ thể của từng truyện, mặt khác cũng ít nhiều hạn chế việc tìm hiểu ý nghĩa đích thực của toàn bộ tác phẩm.

Về nội dung, các truyện có lời bình trong Liêu Trai chí dị nói chung mang màu sắc đạo đức, lên án bọn tham quan ô lại, phê phán những thói hư tật xấu, đề cao lương tri và lòng nhân nghĩa, ca ngợi tình yêu và sự thủy chung. Là một nhà nho tài hoa sinh bất phùng thời, tác giả Liêu Trai chí dị có điều kiện để sống cuộc sống và học cách nghĩ của nhân dân, nên các giá trị tinh thần mà ông đề cao không chỉ nằm trong khuôn khổ chuẩn mục đạo đức của các môn sinh sân Trình cửa Khổng. Ông hâm mộ viên Phán quan họ Lục hào sảng (Lục phán), ông ca ngợi nàng Anh Ninh như vô tâm mà lại hữu tâm (Anh Ninh), ông tán thưởng thái độ nhân sinh khoáng đạt của ông già họ Chúc coi chết như về (Chúc ông), ông khoái trá về việc bọn tham quan bị quỷ thần trừng trị (Vương giả)... Cũng dễ nhận thấy các nhân vật thần tiên hồ quỷ trong Liêu Trai chí dị đều ít nhiều mang dáng vẻ thị dân, cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhân vật hồ nữ trong Liêu Trai chí dị đều khá phóng túng trong tình dục và hôn nhân, điều này có liên quan tới bối cảnh văn hóa Trung Quốc thời Minh Thanh, khi sự phát triển của tiểu thủ Công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành các đô thị lớn với đội ngũ thị dân có lối sống phát triển theo xu thế phủ nhận các quy phạm lễ giáo phong kiến. Có thể nói trong Liêu Trai chí dị, Bồ Tùng Linh đã đứng trên lập trường đạo đức của nhân dân lao động mà chủ yếu là thị dân để khẳng định các giá trị tinh thần tốt đẹp và lên án những thế lực chống lại con người. Dĩ nhiên lập trường và tiêu chuẩn ấy có những mâu thuẫn nội tại cũng như những hạn chế lịch sử, như nhận định của Từ hải 1989 “trong sách cũng còn tồn tại một ít quan niệm nhân quả báo ứng và màu sắc mê tín” hay của Trung Quốc tiểu thuyết đại từ điển 1991 “trong sách cũng còn tồn tại quan niệm luân lý phong kiến và màu sắc phong kiến". Tuy nhiên, đúng như K. Marx từngnhận định “Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điểu kiện trục tiếp có trước mắt, đã có sẵn và do quá khứ để lại"(1), những yếu tố ấy lại mang ý nghĩa tích cực nếu đặt vào bối cảnh xã hội Trung Quốc đương thời. Dưới chế độ phong kiến chuyên chế thời trước thì khát vọng công lý của người dân thấp cổ bé miệng chủ yếu chỉ còn là giấc mộng, nên họ đành tìm tới sự công bằng ở thế giới bên kia. Quan niệm nhân quả báo ứng có nguồn gốc từ Phật giáo vì vậy cũng mau chóng được nhân dân lao động và những người đại diện của họ tiếp nhận như một võ khí tinh thần để khẳng định hệ giá trị của mình và đấu tranh với nhũng bất công xã hội. Việc chọn lựa phương tiện không tương xứng với mục đích như thế là một điều bất đắc dĩ, nhưng rõ ràng trong giới hạn những điều kiện xã hội - nghệ thuật có thật của thời đại và xã hội mình ấy, Bồ Tùng Linh đã nỗ lục để nêu ra một thực trạng tỉnh thần mà cũng là một thông điệp nhân sinh.

1 K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, sđd., tập II, tr. 386
Nhận định về truyện ngắn viết cho trẻ em của nhà văn Đan Mạch Hans Christian Andersen (1805-1875), có người đã nói đại ý là trong mỗi truyện ngắn của Andersen có hai câu chuyện, một dành cho trẻ em và một dành cho người lớn. Cũng có thể đưa ra một nhận dịnh tương tự về Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh, vì quả thật nhiều truyện trong tác phẩm - đặc biệt là những truyện có lời bình cũng hàm chứa hai câu chuyện, một là chuyện thần tiên hồ quỷ, một là chuyện người. Những truyện như Tiền lưu, Long hý thù, Điểu ngữ trong quyển X, Hồng mao chiên, Đạo hộ trong quyển XII, Tư huấn, Mạ áp trong quyển XIII... là những ví dụ khá tiêu biểu. Ý đồ bành trướng thế lực - chiếm đoạt thuộc địa của tư bản phương Tây đối với Trung Quốc lúc bấy giờ còn chưa rõ ràng, song hình ảnh tấm nệm Hồng Mao có thể mau lẹ "nở rộng ra hơn một mẫu” trong Hồng mao chiên đã thể hiện nhận thức và dự cảm về tai họa tới từ phương Tây tư bản của một bộ phận trí thức và nhân dân Trung Quốc thời Bồ Tùng Linh. Ý nghĩa hiện thực của Liêu Trai chí dị do đó nhiều khi trở nên sắc nét và có tác động mạnh mẽ lạ thường, vì yếu tố thần kỳ đã nâng cánh cho trí tưởng tượng không chỉ của tác giả mà còn cả của người đọc khi tiếp xúc với tác phẩm. Về phía Bồ Tùng Linh, danh hiệu “Dị Sử thị” cuối lời bình gần 200 truyện trong Liêu Traỉ chí dị còn ít nhiều cho thấy ông mong mượn bộ sách này trở thành một bộ “sử lạ” một bộ sách phản ảnh hiện thực thông qua thi pháp "thuật kỳ ký dị” (thuật chuyện hay, chép chuyện lạ) của dòng truyện truyền kỳ. Có thể nghĩ rằng những truyện chỉ có phần “chí dị” cũng được Bồ Tùng Linh thu thập để biên soạn theo đường hướng nói trên, điều này khiến yếu tố thần kỳ ở đây mang một nội dung chúc năng phức hợp.

Tìm hiểu nghệ thuật Liêu Trai chí dị, dễ nhận thấy sự hiện diện của yếu tố thần kỳ. Là đặc trưng cơ bản trong thi pháp của truyện truyền kỳ thời Đường, yếu tố thần kỳ đến Thái bình quảng ký thời Tống đã được xác định như nội dung nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết chí quái chí dị, rồi đến thời Minh Thanh đã phát triển thành một phương pháp sáng tác với các tác giả như Bồ Tùng Linh, Viên Mai. Sự vận dụng thi pháp “thuật kỳ ký dị" vào việc phản ảnh hiện thực xã hội trên đường huớng đề cao các giá trị tinh thần nhân dân - thị dân đã khiến dòng tiểu thuyết chí quái chí dị thời Minh Thanh dần dần mang nội dung hiện thực chủ nghĩa. Có thể nói đây là một loại "chủ nghĩa hiện thực huyền ảo" kiểu phương Đông thời cổ, ở đó thế giới thần tiên hồ quỷ trong trí tưởng tượng của con người đã trở thành một phương tiện đặc biệt để phản ảnh hiện thực xã hội và biểu đạt nguyện vọng nhân sinh. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỷ XX, phương pháp sáng tác này ở Bồ Tùng Linh lại có mối liên hệ máu thịt với văn hóa truyền thống, vì Liêu Trai chí dị sử dụng cốt truyện của nhiều truyện cổ lưu hành đương thời và các sáng tác của người trước”, trong đó chắc chắn có không ít là truyện kể dân gian. Không lạ gì mà Liêu Trai chí dị có thể làm say mê cả những người ít học. Bởi vì trong mọi xã hội và thời đại, các yếu tố văn hóa truyền thống luôn sống cuộc sống của chúng không chỉ trong nhũng văn hiến thư tịch hay các công trình khảo cứu của giới trí thức, mà chủ yếu và quan trọng nhất là trong cuộc sống thường nhật với những mối bận tâm chung nhất của đông đảo nhân dân. Đây cũng là một trong những lý do khiến tác phẩm này của Bồ Tùng Linh bắt đầu đuợc phổ biến rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Chắt lọc và kết tinh nhiều yếu tố tinh túy của văn hóa nhân dân, Liêu Trai chí dị mang trong nội dung tư tưởng và nội dung nghệ thuật của nó những sức mạnh to lón của truyền thống, điều này tạo ra một sự đồng cảm giữa tác phẩm với người đọc Việt Nam lúc bấy gìơ đang phải giã từ quá khứ để bước vào xã hội hiện đại trong một tư thế bị động, với một tâm thế bị động dường như vẫn không ngừng được duy trì cho đến tận hôm nay...

Dịch Liêu Trai Chí Dị
Chưa có bằng chứng để xác định thời điểm Liêu Trai chí dị bắt đầu được phổ biến qua Việt Nam, song căn cứ vào niên đại bản in sớm nhất còn lại đến nay của tác phẩm này (bản in Kha Đình năm Càn Long thứ 31 - 1766) thì có thể đoán định sau khi đất nước thống nhất trở lại đầu thế kỷ XIX, người Việt Nam đã biết tới Liêu Trai chí dị. Tình hình tư liệu hiện nay cũng chưa cho phép trả lời câu hỏi người Việt Nam có dịch Liêu Trai chí dị ra chữ Nôm không, song đã có tình hình một số truyện trong Liêu Trai chí dị được sao chép riêng rời như những truyện kể độc lập trong kho sách Hán Nôm Việt Nam, chẳng hạn tập Thư mục Di san Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Catalogue des livres en Hán Nôm) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Học viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tập II, tr. 99 đã kể cả truyện La Tổ trong bản La Tổ truyện ký hiệu A. 2560 vào thư mục sách Hán Nôm Việt Nam, trong khi đó là truyện La Tổ trong Liêu Trai chí dị, quyển IX: có lẽ người soạn mục từ này đã lầm tưởng địa danh "Tức Mặc” thuộc tỉnh Son Đông ở Trung Quốc trong truyện là Túc Mặc thuộc tỉnh Nam Định ở miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra người ta cũng đã thấy trường hợp một số truyện cổ tích Việt Nam lưu truyền đến nay mang dáng dấp cốt truyện, tình tiết một số truyện trong Liêu Trai chí dị như một loại phức thể “song ngữ và song văn hóa”: rõ ràng ngoài việc phổ biến bằng văn bản, tác phẩm này còn được phổ biến với phương thức truyền miệng trong dân gian. Cũng có thể tìm thấy dấu vết ảnh hưởng của Liêu Trai chí dị trong văn học Việt Nam thế kỷ XX qua những câu thơ như “Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai” của Vũ Hoàng Chương. Tất cả những điều nói trên là kết quả của quá trình tiếp nhận Liêu Trai chí dị ở Việt Nam, quá trình trong đó các bản dịch tác phẩm này ra chữ quốc ngữ latinh thế kỷ XX đóng vai trò tác nhân quan trọng.
Là khu vực sử dụng chữ quốc ngữ latinh như chữ viết chính thức đầu tiên ở Việt Nam, Nam Kỳ Lục tỉnh cũng là khu vực mà các bản dịch Liêu Trai chí dị ra chữ quốc ngữ latinh xuất hiện sớm nhất. Trước Liêu Trai chí di của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân (5 quyển, Nhà in J. Viết, Sài Gòn) năm 1916-1918(1), người đọc Lục tỉnh đã được đọc:
bản dịch nhiều truyện trong Liêu Trai chí dị ra tiếng Việt trên báo chí quốc ngữ la tinh, chẳng hạn các bản dịch của Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đoan Khai... trên Nông cổ mín đàm từ 1901(2). Hơn thế nữa, từ Chuyện giải buồn năm 1885, Huỳnh Tịnh Của đã giới thiệu bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị, nhưng hàng trăm năm nay nhiều người vẫn tuởng đó là truyện Việt Nam, chẳng hạn truyện Hắc quỷ (Nô lệ da đen) trong Liêu Trai chí dị, quyển XIV: Giao Châu Lý Tổng trấn mãi nhị hắc quỷ, kỳ hắc như tất, túc cách thô hậu, lập nhẫn vi đồ vãng lai kỳ thượng hào vô sở tổn. Tổng trấn phối dĩ xướng, sinh tử nhi bạch, liêu bộc hý chi, vị phi kỳ chủng. Hắc quy diệc tự nghi, nhân sát tử, cốt tắc tận hắc, thủy hối chi. Công mỗi lệnh lưỡng quỷ đối vũ, thần tình diệc khả quan dã. (Tổng trấn họ Lý ở Giao Châu mua được hai tên nô da đen, đen bóng như sơn, da chân chai cộm lên, cắm ngược đao đưa mũi nhọn lên cho họ đạp lên đi lại cũng không hề hấn gì. Tổng trấn cưới kỹ nữ cho làm vợ, sinh được con trai da lại trắng, bọn đầy tớ trong nhà đùa giỡn, nói là không phải con y. Tên nô da đen nghi ngờ, giết chết đứa con thì xương đều đen, mới hối hận. Tổng trấn thường sai hai người đối diện với nhau múa hát, thần thái điệu bộ cũng rất dễ nhìn).
1. Các truyện trong bản dịch Liêu Trai chí dị của Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân in năm 1916-1918: Cuốn thứ nhứt (Aout 1916): Chuyện nàng Liên Tỏa (Liên Tỏa), Chuyện nàng Thanh Phụng (Thanh Phượng), Chuyện nàng Ngũ Thu Nguyệt (Ngũ Thu Nguyệt), Chuyện Diệp Sanh (Diệp sinh), Chuyện ăn mày tiên (Cái tiên), Bói tiền (Bốc tiền), Chuyện mồ Tào Tháo (Tào Tháo trủng), Chuyện Tần Cối (Tần Cối), Chuyện nàng Lăng Giác (Lăng giác), Thay hồn đổi xác (Trường Thanh tăng), Chuyện Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm). Cuốn thứ nhì (Septembre 1916): Chuyện Trương Hồng Tiệm (tiếp theo), Chuyện nàng Hồng Ngọc (Hồng Ngọc), Chuyện nàng Hằng Nương (Hằng Nương), Tề Thiên Đại thánh (Tề Thiên Đại thánh), Chuyện nàng A Bửu (A Bảo), Chuyện ông Lục Phán quan (Lục Phán quan), Chuyện nàng Hiệp nữ (Hiệp nữ). Cuốn thứ ba (Mars 1917): Chuyện nàng Hiệp nữ (tiếp theo), Chuyện Mao Đại Phước (Mao Đại Phúc), Chuyện nàng Anh Ninh (Anh Ninh), Chuyện nàng Tiểu Mai (Tiểu Mai), Chuyện Châu nhi (Châu nhi), Quả báo (Chiết lâu nhân), Gươm bén (Khoái đao), Chuyện nàng Nhiếp Tiểu Thiến (Nhiếp Tiểu Thiến), Chuyện họ Đỗ (Đỗ thị). Cuốn thứ tư (Novembre 1917): Chuyện họ Đỗ (tiếp theo), Chuyện Trần Sanh ở đất Hà Gian (Hà Gian sinh), Con ngươi nói chuyện (Đồng nhãn ngữ) Chuyện nàng Liên Hương (Liên Hương), Chuyện hai anh em Trương Thành (Trương Thành), Chuyện nàng Trần Vân Thê (Trần Vân Thê), Chuyện người Nhạc Trọng (Nhạc Trọng), Chuyện chàng Đại Nam (Đại Nam), Chuyện người Tăng Hữu Vu (Tăng Hữu Vu). Cuốn thứ năm (Juillet 1918): Chuyện ngươi Tăng Hữu Vu (tiếp theo), Chuyện quan Ngự sử huyện Phong Đô (Phong Đô Ngự sử), Chuyện đám cưới chồn (Hồ giá nữ), Chuyện chàng rể bị ma giấu (Tân lang), Chuyện mưa tiền (Vũ tiền), Chuyện nàng Tiểu Tạ (Tiểu Tạ), Chuyện cỏ Thủy mãng (Thủy mãng thảo), Chuyện nàng Thường Nga (Thường Nga), Chuyện Bành Hải Thu (Bành Hải Thu), Chuyện nàng Trước Thanh (Trúc Thanh).
2. Một số bản dịch Liêu Trai chí dị trên Nông cổ mín đàm: Lương Dũ Thúc, Thương người khác thể thương thân, Ghét người khác thể vun phân cho người, Nông cổ mín đàm, số 5, 6, 7 tháng 8.9.1901, chính là bản dịch truyện Thụy Vân (quyển IV) Lương Dũ Thúc, Tác thiện thiên giáng chi bá tường, số 19 và 20, ngày 5 và 19.12.1901, chính là bẫn dịch truyện Thuy mãng thảo, quyển II.
Lương Hòa Quí, Lộng nguyệt thành tiên, số 25, ngày 23.1.1902, chỉnh là bản dịch trưyện Hồ Tử thư, quyển II.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Hồng Ngoc, số 51 và 53, ngày 14 và 28.8.1902, chính là bản dịch truyện Hồng Ngọc, quyển III.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện thần hoa, số 128, ngày 11.1.1904, chính là bản dịch truyện Hoa thần, Phụ lục V, quyển XVI.
Lương Dũ Thúc, Chuột hãy còn có nghĩa, người há chẳng làm nhơn, số 8, ngày 19.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa thử, quyển XlII. Lương Dũ Thúc, Nghĩa khuyển, số 9, ngày 26.9.1901, chính là bản dịch truyện Nghĩa khuyển, quyển XIV.
Khuyến Thiện đạo nhân, Hoành tài bất phú, số 49, 50 ngày 31.7 và 7.8.1902 chính là bản dịch truyện Nhiêm Tú, quyển II.
Nguyễn Đoan Khai, Phi ngưu, số 142, ngày 26.5.1904 chính là bản dịch truyện Ngưu phi, quyển XIV.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Tần Cối, số 158, ngày 22.9.1904, chính là bản dịch truyện Tần Cối, quyển XVI.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện mồ Tào Tháo, số 159, ngày 29.9.1904, chính là bản dịch truyện Tào Tháo trung, quyển XVI.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyện Uông Khả Thọ, số 162, ngày 20.10.1904, chính là bản dịch truyện Uông Khả Thụ, quyển XIII.
Nguyễn Chánh Sắc, Chuyên Ngũ Thu Nguyệt, số 163 và 164, ngày 27. 10 và 3. 11. 1904, chính là bản dịch truyện Ngũ Thu Nguyệt, quyển VIII.
Nguyễn Chánh Sắc, Thay hồn đổi xác, số 181, ngày 9. 4. 1905, chính là bản dịch truyện Trường Thanh tăng, quyển I.
Bản dịch được Huỳnh Tịnh Của giới thiệu trong Chuyện giải buồn, Sài Gòn, 1885 với nhan đề Chuyện Quân Mò Hóng:
Ông Tổng trấn đất Giao Châu mua về hai thằng mọi đen thui như lọ nồi, náng chân nó dày như mo, ngửa lưỡi gươm cho nó đi qua đi lại cũng không động phạm chi cả. Bắt đĩ gả cho nó đĩ sanh con lại ra trắng, bạn tác nó cười nói không phải con nó, nó hồ nghi bắt con mà giết, té ra xương con cũng đen như xương gà ác, mới biết mình lầm. Thường dạy hai đứa múa đánh võ, bộ tịch nó nhảy nhún cũng dễ coi. Thật ra "Giao Châu” (huyện thuộc tỉnh Sơn Đông) ở đây không phải là Giao Châu với ý nghĩa là một phần đất dai ở miền Bắc Việt Nam dưới thời Bắc thuộc, song sự trùng hợp về địa danh như vậy đã khiến nhiều người không ngờ rằng đây là chuyện Trung Quốc chứ không phải truyện Việt Nam. Đáng lưu ý là từ cuối thế kỷ XIX, với ý thức bảo vệ văn hóa dân tộc trong hoàn cảnh Hán học với tư cách là nền cổ học Việt Nam ở Nam Kỳ bị chính quyền xâm lược coi là một đối tượng phải bài trừ, một phong trào dịch thuật văn chương chữ Hán ra tiếng Việt - chữ Nôm đã được dấy lên ở Lục tỉnh(1). Việc phiên dịch Liêu Trai chí dị của một số người như Lương Dũ Thúc, Lương Hòa Quý, Nguyễn Chánh Sắc là sự nối tiếp phong trào nói trên trong hoàn cảnh mới, với đặc trưng là việc tuân thủ thi pháp văn học truyền thống như chuyển ngữ sát nguyên văn, thậm chí có khi chuyển thể ra thơ lục bát, một thể thơ dân gian truyền thống Việt Nam (khuynh hướng dịch thuật này về sau dường như cũng ít nhiều lặp lại trong bản dịch Liêu Trai của Tản Đà năm 1942). Song bên cạnh đó, việc tiếp xúc toàn diện với phương Tây tư bản cũng đưa tới cho văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nhữug nguồn lực phát triển mới, tình hình này thể hiện trên phương diện dịch thuật chủ yếu qua lối dịch “phóng tác” mà ngoài Huỳnh Tịnh Của với Chuyện Quân Mò Hóng nói trên còn có thể kể thêm Nguyễn Đoan Khai với bài Phi ngưu tức bản dịch truyện Ngưu phi (Trâu bay) trong Liêu Trai chí dị đăng trên mục Chuyện khôi hài, báo Nông cổ mín đàm số 142, ngày 26.5.1904... Cần nói thêm rằng lối dịch phóng tác ấy về sau sẽ đưa tới cho văn học chịu ảnh hưởng phương Tây ở vùng này một Hồ Biểu Chánh với nhũng Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa phóng tác Sans fámille của Hector Malot, Les Misérables của victor Hugo....(2)Hai khuynh hướng bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc và đồng hóa các giá trị văn hóa phương Tây nói trên như vậy đã bổ sung cho nhau trong việc trình hiện bước tiến của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX trên phương diện dịch thuật văn học, và trong ý nghĩa này, các bản dịch Liêu Trai chí dị đã từng bước trở thành một bộ phận không chỉ của sinh hoạt văn học mà còn cả của sinh hoạt xã hội Việt Nam. Không lạ gì mà tuy có phần muộn hơn văn giới Lục tỉnh, nhưng chẳng phải đến những năm 40 của thế kỷ XX và với những Tản Đà, Nhượng Tống... thì các dịch giả miền Bắc mới dịch Liêu Trai chí dị: mấy chữ triện “Đỗ Văn thư quán” và "Sửa lại và giữ quyền lợi: Phù Văn Librairie" trên trang bìa bản dịch Tân Liêu Trai của Vũ Hi Tô năm 1921-1922 cho thấy bản in này của Nhà sách Phù Văn là bản in lại có sửa chữa bản in của Đỗ Văn thư quán trước đó, nghĩa là trước 1921 người đọc Việt Nam đã có bản dịch một số truyện trong Liêu Trai chí dị theo phương ngữ Bắc in bằng chữ quốc ngữ latinh.
1 Xem thêm Cao Tự Thanh, Văn học Hán Nôm ở Gia Định, bài trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb Thành phố Hổ Chí Minh, 1988, tr. 114-115.
2. Xem thêm Cao Tự Thanh, Vài bản dịch Liêu Trai chí dị đầu thế kỷ XX ở Lục tỉnh, Tạp chí Hán Nôm, số 4, 1996.
Tuy nhiên hoàn cảnh thuộc địa trước 1945 rồi tình trạng chiến tranh và chia cắt đất nước từ 1945 đến 1975 ở Việt Nam đã hạn chế thành tựu phiên dịch Liêu Trai chí dị, mà điểm dễ thấy là việc tuyển dịch vẫn kéo dài đến 1990. Từ các bản dịch vào loại sớm nhất trong Chuyện giải buồn năm 1885 đến nay, những truyện đã được dịch cũng chỉ khoảng trên dưới con số 150, trong đó có khá nhiều là được dịch đi dịch lại. Dĩ nhiên, điều đó cho thấy những truyện ấy là hay, là có giá trị, song như thế không có nghĩa là nhữug truyện khác không hay, không có giá trị. Bên cạnh đó, tạm thời chưa nói tới vấn đề văn bản, thì Liêu Trai chí dị với cái “bản lai chân diện mục" của nó mới được coi là một bộ truyện "chí dị" (ghi chép chuyện lạ) của Bồ Tùng Linh. Chính tính hệ thống của bộ truyện mới làm nên giá trị của tác phẩm vẫn được coi là một trong những ánh phản nghệ thuật độc đáo của cuộc sống xã hội và văn hóa Trung Quốc thời Thanh này. Xuất phát từ quan niệm trên, có thể nghĩ rằng người đọc Việt Nam hiện đang cần có bản dịch trọn bộ Liêu Trai chí dị. Nhưng một bản dịch trọn bộ lại có những khó khăn riêng.
Trước hết, phải nhắc lại vấn đề văn bản. Ngoài chi tiết 431 hay 432 truyện đã nói trên kia, dường như chưa dịch giả Việt Nam nào phiên dịch Liêu Trai chí dị thập di, càng chưa có nhà nghiên cứu nào đặt vấn đề tìm hiểu tác phẩm về mặt văn bản học. Tình hình này thể hiện khá tập trung qua bản dịch Liêu Trai chí dị (tập 1, Nxb. Văn học, 1989), một bản dịch bộc lộ nhiều điểm yếu trí mạng của giới nghiên cứu và dịch thuật Việt Nam trong việc tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí dị lúc bấy giờ. Chẳng hạn mặc dù Lời giới thiệu có nêu ra nguyên tắc "bám sát bản Hội hiệu hội chú hội bình" của Trương Hữu Hạc (Trung Hoa thư cục, Bắc Kinh, 1962), truyện Mai nữ hòa Phong Vân Đình trong bản dịch này vẫn dịch là “Cô gái họ Mai", nghĩa là chỉ dịch hai chữ Mai nữ như trong các văn bản truyền thống (?). Hay bản dịch nói trên đã lược bỏ nhiều đoạn "Dị Sử thị nói” trong nguyên bản, trong khi như đã trình bày trên kia, những đoạn "Dị Sử thị" nói ấy chính thể hiện mục đích sáng tác của Bồ Tùng Linh và vì thế cũng bộc lộ ý nghĩa đích thực của tác phẩm. Cần nói thêm rằng lối dịch tùy tiện bớt xén nguyên văn này đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong hoạt động dịch thuật hiện nay, một cung cách góp phần làm cho việc tiếp xúc văn học với thế giới của chúng ta tuy rầm rộ trên bề mặt nhưng chưa đạt được bề sâu văn hóa cần thiết và do đó cũng hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn cho cả hoạt động dịch thuật lẫn sinh hoạt học thuật ở Việt Nam. Cho nên trong bản dịch này chúng tôi giới thiệu toàn văn các truyện trong Liêu Trai chí dị và Liêu Trai chí di thập di, với mong mỏi được góp phần cung cấp cho người đọc một ý niệm về cái "bản lai chân diện mục" của tác phẩm. Phần Liêu Trai chí dị trong bản dịch này chủ yếu theo bản Hương Cảng, có đối chiếu với bản Đài Bắc để điều chỉnh một số chi tiết cho hợp lý. Phần Thập di thì văn bản chúng tôi sử dụng bị thiếu một truyện trong truyện Quy trấp tứ tắc (Hai mươi bốn truyện ma), nhưng trong điều kiện tư liệu hiện tại chúng tôi chưa thể bổ sung, đây là một thiếu sót mà chúng tôi muốn cáo lỗi trước với người đọc.
Thứ hai, và quan trọng nhất, là việc phiên dịch Liêu Trai chí dị thật rất không dễ dàng. Lời Tựa bản dịch Liêu Trai chí dị của nhóm Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Viên Kiều và Ngô Tường Vân năm 1916-1918 từng viết “Vả lại người mà đặt bộ truyện này đây là có ý nhàm chán việc đời, nên không muốn nói việc người, cứ nói những chuyện hồ chuyện quỷ, mới nghe qua dường như vô lý, chừng xét lại gẫm cũng hữu tình, tuy là lời nói minh minh, mà kỳ trung cũng có ý thâm minh huyền diệu, rất tiếc vì văn chương từ điệu, dịch ra nôm khó nỗi cho trọn hay"(1). Mãi đến khi tiếng Việt văn học hiện đại đã thuần thục hơn rất nhiều, ngày 15. 5. 1958 tạp chí Bách hhoa số 33 ở Sài Gòn cũng vẫn phải than thở về nhũng khó khăn trong việc phiên dịch Liêu Trai chí dị:
" ...Nhắc đến cổ giai phẩm Trung Hoa, dù có thiên về mấy bộ Tam quốc, Tây sương, mà xưa nay ai đã đành quên Tình sử? Mà đã nhớ Tình sử thì ai nỡ nào quên được Liêu Trai? Cho nên khi bạn Hư Chu, quá bận rộn vì đang mùa thi cử, phải tạm biệt Bách khoa, thì chúng tôi bèn nhờ một bạn khác đã từng để hai mươi năm học hỏi Hán, Pháp, Anh văn và Thế giới ngữ, vừa làm quen với các bạn qua bản dịch Cuộc thách đố: bạn Kiều Yêu.
Bạn Kiều Yêu đã nhận lời, và đã... khổ sở.
Bởi lẽ trong các tiểu thuyết danh tiếng của Trung Hoa, có lẽ Liêu Trai là khó hiểu hơn hết, lại bởi thêm ngoài cái giá trị văn chương, còn thêm cái giá trị cách mạng; và bởi lẽ bạn Kiều Yêu đã thất vọng với một Tản Đà già dặn, với một Quán Chi khiêm tốn, với một Nhượng Tống tài hoa, lúc ba bậc đàn anh này dịch Liêu Trai chí dị. Văn của Bồ Tùng Linh gãy gọn quá, mà đặc tính này đã xui nên bao sự hiểu lầm cho người đọc ngoại quốc, trong đó có ba nhà văn mà chúng tôi vừa kể.
Cho nên mấy truyện dịch đầu của bạn Kiều Yêu đành phải hơi nhiều lời, quá tân thời, quá rành rọt...”2
1. Liêu Trai chí dị, Traduit en Quốc ngữ par Nguyễn Chánh Sắc (Tân
Châu), Rédateur au “Lục tỉnh tân văn”, publié par Phạm Xuân Lẫm,
cuốn thứ nhứt, Tour droit réservés, Sài Gòn. Imprimerie J. Viết, Aout
1916.
2. Một số bản dịeh Liêu Trai chí dị của Kiều Yêu trên Bách khoa thời
gian 1958-1960: Bạch Thu Luyện (Bạch Thu Luyện) số 33, 15.5.1958.
Cát Cân (Cát Cân) số 34, 01.6.1958
Thụy Vân (Thụy Vân) số 35, 15.6.1958
Cô gái đánh sợi (Tích nữ) số 36, 01.7.1958
Vãn Hà (Vãn Hà) số 37, 15.7.1958
Phấn Điệp (Phấn Điệp) số 38, 01.8.1958
Cô bảy họ Tiêu (Tiêu Thất) số 39, 15. 8. 1958
Vương Quế Am (Vương Quế Am) số 40, 01.9.1958
Cái tiên (Cái tiên) số 41, 15.9.1958
Sen lồng bóng nguyệt (Hàn nguyệt phù cừ) số 42, 01.10.1958
Cẩm Sắt (Cẩm Sắt) số 43, 15.lO.1958
Người làm trò rắn (Xà nhân) số 44, 01.11.1958
Ký Sanh con trai Vương Quế Am (Vương Quế Am - Ký Sinh phụ) số 45, 15.11.1958
Xảo kế (Cục trá III) số 46, 01.12.1958
Ái Nô (Ái Nô) số 47, 15.12.1958
Phòng Văn Thục (Phòng Văn Thục) số 49, 15.01.1959
Trương Hồng Tiệm (Trương Hồng Tiệm) số 50, 01.02.1959
Lã Vô Bệnh (Lữ Vô Bệnh) số 52, 0l.03.1959
Hai anh em họ Thương (Nhị Thương) số 54, 01.04.1959
Thần ếch (Thanh oa thần) số 67, 15.10.1959
Hằng Nương (Hằng Nương) số 69, 15.11.1959
Lục áp Quan (Lục áp Quan) số 71, 15.12.1959
Tương Quần (Tương Quần) số 74, 01.02.1960
Cô Tiêm (A Tiêm) số 77, 15.3.1960
Ngựa trong tranh (Hoa mã) số 81, 15.5.1960
Phải thừa nhận rằng ở Việt Nam hơn một thế kỷ qua có tình trạng chung là trình độ sử dụng tiếng Việt tăng lên thì trình độ hiểu biết chữ Hán giảm xuống, tuy nhiên vấn đề ở đây không chỉ gói gọn trong phạm vi ngôn ngữ. Chúng tôi không dám quá phận mà phê phán nhũng người đi trước, nhưng quả thật lối dịch bỏ qua các yếu tố hình thức - nghệ thuật của nguyên tác trong các bản dịch Liêu Trai chí dị xuất bản khoảng hai mươi năm gần đây cho thấy chúng ta vẫn chưa xác lập được những chuẩn mực đúng đắn cần thiết trong việc dịch thuật văn học nói chung và dịch thuật văn học chữ Hán trong đó có Liêu Trai chí dị nói riêng. Là một tập hợp các tác phẩm tiểu thuyết - truyện ngắn tự sự, Liêu Trai chí dị nói chung ít dùng điển cố song cũng chứa đựng nhiều yếu tố thi pháp văn học Trung Hoa cổ điển như lối dùng chữ súc tích, đặt câu ngắn gọn, hành văn đăng đối, kết cấu chặt chẽ. Trong một số trường hợp, tác giả còn đưa vào tác phẩm nhũng bài văn biền ngẫu khá dài, chẳng hạn bài sớ của nhân vật Long đồ học sĩ họ Bao trong truyện Tục hoàng lương (quyển V), đoạn “Dị Sử thị nói” cuối truyện Đổ phù (quyển VI), bài "Tục Diệu âm kinh” chép phụ cuối truyện Mã Giới Phủ (quyển X), lời án từ của nhân vật Ngô Nam Đại trong truyện Yên Chi (quyển XIV), hay bài hịch đánh Phong thị (thần gió) trong truyện Hoa thần (quyển XVI)... Xuất phát từ quan niệm những chi tiết hình thức - yếu tố nghệ thuật ấy là một bộ phận hửu cơ góp phần thể hỉện nội dung và làm nên giá trị của tác phẩm, chúng tôi đã cố gảng truyền đạt chúng trong bản dịch Liêu Trai chí dị này. Các chú thích từ ngữ, điển cố cần thiết trong bản dịch được trình bày thật ngắn gọn và chủ yếu chỉ chú thích trong lần xuất hiện đầu tiên. Mặc dù khởi sự phiên dịch Liêu Trai chí dị từ mười năm nay và đã học được nhiều điều từ bản dịch của những người đi trước, cho đến nay chúng tôi vẫn chưa hài lòng về bản dịch này trên nhiều phương diện. Song được sự tán trợ và khuyến khích của Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn, chúng tôi cũng mạnh dạn đưa in bản dịch này, với mong mỏi nó có thể ít nhiều góp phần khắc phục những thiếu sót và bất cập của chúng ta trong việc đọc và dịch Liêu Trai chí dị. Tuy nhiên tới lượt nó sự khắc phục ấy cũng có những thiếu sót và bất cập, nên chúng tôi hy vọng nhận được sự chỉ giáo của người đọc gần xa.

Tháng 2.2005

Người dịch

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển I -- 1 --
Thi Thành Hoàng
(Khảo Thành Hoàng)

Ông nội người anh rể của ta họ Tống húy Đạo, là Lẫm sinh* trong huyện. Một hôm ông bệnh nằm trong nhà, thấy có viên lại cầm công văn dắt một con ngựa bờm trắng tới nói “Mời ông đi thi". Ông nói “Quan chấm thi chưa tới, làm sao mà thi?”. Viên lại không đáp, chỉ giục đi mau. Ông ra sức cưỡi ngựa chạy nhanh theo, đường đi rất lạ, tới một nơi thành quách như kinh đô của bậc vương giả.

*Lẫm sinh: học trò trường phủ học ở Trung Quốc thời Thanh, được hưởng học bổng và miễn một số nghĩa vụ thuế má dao dịch.

Lát sau vào một Công thự, cung thất tráng lệ, ở trên có mười người ngồi, đều không biết là ai, chỉ nhận ra là có Quan Đế*. Dưới thềm bày hai cái bàn hai cái ghế, đã có một vị Tú tài ngồi trước, ông cũng tới ngồi cạnh. Bàn nào cũng có sẵn giấy bút, ngay sau đó đề thi đưa xuống, nhìn vào thấy có tám chữ “Nhất nhân nhị nhân, hữu tâm vô tâm" (Một người với hai người, hữu ý hay vô ý). Hai người làm bài xong trình lên, bài của ông có câu “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng, vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt" (Có ý làm điều thiện, dù thiện cũng không thưởng, vô ý làm điều ác, dù ác cũng không phạt).

* Quan Đế. tức Quan Vũ, còn gọi là Quan Công, tự Vân Trường, em kết nghĩa và là tướng của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, nổi tiếng nghĩa khí, được nhân dân Trung Quốc thờ là thần, thời Tống phong tặng là Quan Thánh Đế quân.

Các thần chuyền tay nhau xem, khen ngợi không thôi, gọi ông lên dụ rằng “ở Hà Nam khuyết một chỗ Thành hoàng, ông xứng đáng giữ chức ấy". Ông mới hiểu ra, lạy phục xuống khóc nói “Được ban mệnh lệnh, đâu dám chối từ! Nhưng còn có mẹ già bảy mươi tuổi không người phụng dưỡng, xin chờ khi đã trọn tuổi trời sẽ vâng mệnh giữ chức". Ở trên có một vị dáng mạo như bậc đế vương lập tức ra lệnh “Tra sổ xem mẹ ông ta thọ được bao nhiêu”. Có một viên lại râu dài giở sổ ra xem lại một lượt bẩm rằng "Còn thọ chín năm nữa". Mọi người đang ngần ngừ, Quan Đế nói “Không sao, cứ sai Trương sinh thay, đủ hạn chín năm sẽ giao cho ông ta giữ chức cũng được”, rồi nói với ông rằng "Lẽ ra phải đi nhận chức ngay, nhưng nay nghĩ tới lòng hiếu thảo nên cho hoãn chín năm, đến hạn sẽ lại triệu”.

Lại khuyến dụ vị Tú tài kia mấy câu, hai người cùng lạy lui ra. Vị Tú tài nắm tay ông đưa ra tới ngoài thành, tự nói là họ Trương ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông), có thơ đưa tiễn nhưng ông quên cả, chỉ nhớ được hai câu “Hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, Vô nguyệt vô đăng dạ tự minh” (Có hoa có rượu xuân thường cạnh, Không nến không trăng tối tự soi).

Ông đã lên ngựa, bèn chia tay rồi đi, về tới làng mới giật mình tỉnh dậy. Lúc ấy ông đã chết ba ngày rồi, mẹ ông nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ bèn tới đỡ ra, nửa ngày sau mới nói được. Hỏi thăm thì hôm ấy ở Trường Sơn quả có Trương sinh chết.

Chín năm sau quả nhiên mẹ ông mất, ông lo liệu tang ma xong, tắm gội vào phòng nằm rồi tắt hơi. Cha vợ ông ở cửa tây trong thành, chợt thấy ông tới, nghi vệ lộng lẫy, tùy tùng rất đông, vào nhà lên thềm lạy một lạy rồi đi. Người nhà thảy đều ngờ sợ, không biết ông đã làm thần, vội tới làng để hỏi mới hay ông đã chết rồi. Ông có tự viết lại tiểu truyện của mình, tiếc là sau loạn đã mất, trên đây chỉ là tóm tắt lại mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 2 --
Người Trong Con Ngươi Trò Chuyện
(Đồng Nhân Ngữ)

Người học trò ở Trường An là Phương Đống, cũng có tài danh nhưng tính khinh bạc không giữ lễ nghi, cứ ra đồng gặp con gái đi chơi là lập tức theo tán tỉnh.

Một hôm trước tiết Thanh minh đi chơi ngoài thành thấy một chiếc xe nhỏ mui gấm rèm thêu, có vài người tỳ nữ cưỡi ngựa thong thả theo sau, trong đó có một nàng cưỡi con ngựa tốt, dung mạo rất đẹp. Bèn tới gần nhìn, thấy rèm xe đang vén lên, bên trong có một nữ lang trạc mười sáu tuổi, trang sức lộng lẫy, bình sinh chưa thấy ai đẹp như vậy nên mắt hoa đầu váng cứ đuổi theo nhìn, khi thì chạy lên trước, lúc thì tụt lại sau, theo suốt mấy dặm.

Chợt nữ lang gọi người tỳ nữ tới cạnh xe nói “Buông rèm xuống cho ta! Gã tiểu tử ngông cuồng kia ở đâu dám lại đây nhìn ngó?” Người tỳ nữ buông rèm xe xong ngoái nhìn sinh giận dữ nói “Đây là vợ mới cưới của Thất lang ở thành Phù Dung về nhà thăm cha mẹ, không phải như các cô gái nhà quê, phải dạy cho học trò hỗn láo nhà ngươi mới được". Dứt lời cầm một cục đất dính ở bánh xe ném vào mặt sinh, sinh tối cả mắt lại. Đến khi gỡ được bùn đất ra nhìn thì đoàn xe ngựa đã đi xa, sợ hãi trở về.

Thấy con mắt xốn xang rất khó chịu, nhờ người khác vạch mi mắt ra xem thì trong con ngươi có một cái màng, qua một đêm càng cộm thêm, nước mắt chảy giàn giụa không ngừng. Cái màng ấy ngày càng to, qua vài ngày dày như đồng tiền, mắt trái cũng bị sưng như vậy, thuốc thang gì cũng không khỏi, buồn rầu muốn chết, tự lấy làm hối hận.

Nghe nói kinh Phật có thể giải ách bèn tìm một quyển, nhờ người đọc cho để học thuộc lòng mà tụng. Buổi đầu còn thấy lo lắng phiền não, sau dần thấy tinh thần thư thái, ban tối rảnh rỗi thì ngồi xếp bằng lần tràng hạt mà niệm, được một năm thì thấy hoàn toàn yên ổn.

Chợt nghe trong con mắt bên trái có một giọng nói nhỏ như tiếng nhặng vo ve rằng "Tối tăm như ban đêm thế này, ai mà chịu nổi" Trong con mắt bên phải cũng có một giọng đáp "Hay chúng ta cùng ra ngoài chơi một lúc đi, cho đỡ buồn bực". Kế sinh dần dần thấy trong mũi có cái gì cọ quậy rất ngứa ngáy, như có con vật bò ra, một lúc lâu thì trở lại, lại theo lỗ mũi mà vào. Vào tới trong lại nói “Lâu quá không ra vườn chơi, giò lan Trân châu đã chết khô rồi".

Sinh vốn rất thích lan, trong vườn trồng rất nhiều, hàng ngày vẫn ra tưới bón, nhưng từ khi bị lòa thì lâu không hỏi tới. Lúc bấy giờ chợt nghe thấy thế, bèn căn vặn vợ "Sao lại để lan chết khô như vậy?". Vợ hỏi sao biết, sinh kể lạ nguyên do, vợ ra vườn nhìn xem thì giò lan quả đã khô quắt rất lấy làm lạ lùng. Bèn lặng lẽ núp lại trong phòng, thấy có hai người bé tí nhỏ hơn hạt đậu từ trong lỗ mũi sinh bò ra thoắt cái đã ra khỏi cửa, nhìn theo thì đã mất dạng. Loáng sau lại sóng đôi bay về, đáp xuống mặt sinh, lại như con ong về tổ chui trở vào, cứ như thế suốt hai ba hôm.

Chợt sinh nghe người bên mắt trái nói "Đường hầm quanh co khuất khúc, ra vào qua lại bất tiện quá, chẳng bằng mở lấy một cái cửa". Người bên mắt phải nói "Vách bên ta rất dày, không dễ đâu”. Người bên mắt trái nói "Để ta phá thử xem, nếu được sẽ cùng ngươi dùng chung”. Kế thấy trong con mắt trái như có cái gì xé toạc ra, giây lát mở mắt ra nhìn, thì lại thấy mọi vật như thường.

Sinh mừng rỡ nói với vợ, vợ tới xem thì thấy cái màng trong mắt trái đã vỡ ra một lỗ, tròng đen di động như hạt tiêu. Qua một đêm thì lớp màng mất sạch, nhìn kỹ vào thì thấy mắt có hai con ngươi nhưng mắt phải vẫn bị sưng phồng lên như cũ, mới biết hai người trong mắt đã sang ở chung một chỗ. Sinh tuy chỉ có một mắt, nhung sáng chẳng kém người còn đủ hai mắt, nhìn gì cũng thấy. Từ đó ngày càng tự kiểm thúc, người làng khen là có nết tốt.

Dị Sử thị nói:Làng ta có người học trò cùng hai người bạn đi trên đường, thấy xa xa có một thiếu phụ bèn thúc lừa chạy vượt lên ngâm đùa rằng “Có người đẹp chừ”* rồi nhìn hai người bạn nói “Đuổi theo mau” định trêu ghẹo đùa bỡn. Giây lát đuổi kịp thì là vợ con trai, mất cả khí thế, ngậm tăm không nói gì. Hai người bạn lại làm ra vẻ không biết, cứ bô bô bình luận này nọ. Người học trò sượng ngắt, ấp a ấp úng nói "Đây là con dâu lớn của ta", họ mới nhịn cười mà thôi đi. Kẻ tính hạnh khinh bạc thành ra tự làm nhục mình, thật đáng cười vậy. Đến như mù mắt hết thấy đường, thì đó là quỷ thần báo oán đấy. Thành chủ thành Phù Dung không rõ là thần nào, hay là Bồ Tát hiện thân chăng? Nhưng lang quân bé tí phá vách mở cửa, thì quỉ thần tuy ghét kẻ xấu nết cũng đâu không cho người ta tự sửa mình.

* “Có người đep chừ”: nguyên văn là “Hữu mỹ nhân hề”, chữ trong bài phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như hát khi khêu gợi Trác Văn Quân “Hữu mỹ nhân hề, kiến chi bất vương (vong), Nhất nhật bất kiến hề, tư chi như cuồng...” (Có người đẹp chừ, gặp rồi không quên, Một ngày không gặp chừ, nhớ như điên cuồng), ở đây người học trò đọc để trêu gái.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 3 --
Bức Tường Vẽ Tranh
(Họa Bích)

Mạnh Long Đàm người Giang Tây cùng Hiếu liêm họ Chu lên trọ ở kinh đô, tình cờ tới chơi chùa nọ. Thấy điện Phật, hành lang, thiền phòng đều không có gì to lớn rộng rãi, chỉ có một nhà sư già trú ngụ.

Sư thấy có khách tới, xốc áo ra đón, dẫn đi xem khắp nơi. Trong điện có tượng thần sư Chí Công, hai vách vẽ tranh rất tinh xảo, nhân vật đều như thật, tường bên đông vẽ bức tranh Thiên nữ rắc hoa, trong có một người tóc xõa cầm hoa mỉm cười, môi son như động, sóng mắt như đưa.

Chu chăm chú nhìn một lúc lâu, bất giác thần trí tiêu tan, chợt thấy thân thể phơi phới như đằng vân giá vụ, đã lên tới trên vách. Thấy điện gác chập chồng không phải như ở cõi trần, có một vị sư già đang ngồi trên tòa giảng kinh, những người khoác áo hở vai đứng nghe rất đông,

Chu cũng trà trộn vào đứng trong đó. Giây lát thấy như có người ngầm kéo áo mình, quay nhìn thì thấy thiên nữ xõa tóc cười tủm tỉm quay đi bèn lập tức đi theo qua hành lang quanh co thì tới một gian phòng nhỏ, ngần ngừ không dám bước tới. Cô gái qnay đầu giơ cành hoa trong tay vẫy vẫy ra hiệu gọi, bèn bước theo vào, thấy trong phòng không có một ai. Chu sấn tới ôm, nàng cũng không chống cự gì lắm bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi nàng đóng cửa đi, dặn Chu đừng ho hắng, đến đêm lại trở lạì, như thế hai ngày.

Chị em bạn biết, cùng nhau kéo tới tìm được sinh, đùa nói với cô gái rằng “Tiểu lang trong bụng đã lớn, mà còn để tóc bồng bồng học làm gái chưa chồng à?". Rồi cùng đưa trâm cài tóc và hoa tai bảo búi tóc cao lên, cô gái thẹn thùng không nói năng gì. Một nàng nói “Chị em ơi, đừng ở đây lâu, e người ta không vui”, mọi người cười rộ kéo đi.

Sinh thấy cô gái tóc mây búi cao, trâm phụng rủ thấp, so ra còn đẹp hơn nhiều so với lúc còn xõa tóc. Nhìn quanh không có ai bèn cùng nhau lên giường, mùi lan xạ thơm ngát ngây ngất lòng người. Còn đang vui vầy chợt nghe tiếng ủng da cồm cộp, khóa sắt loảng xoảng, lại có tiếng tranh cãi huyên náo.

Cô gái hoảng sợ vùng dậy cùng Chu ra nhìn trộm thì thấy một sứ giả giáp vàng mặt đen như sơn, tay khóa tay chùy, các thiên nữ đứng chung quanh. Sứ giả hỏi “Đã đủ cả chưa?”, họ trả lời đã đủ cả. Sứ giả nói “Nếu có giấu diếm người dưới trần thì phải khai ngay ra, đừng để phải chịu tội”, mọi người lại đồng thanh nói không có. Sứ giả quay người ngạc nhiên nhìn quanh như tìm kẻ trốn lánh, cô gái cả sợ mặt xám như tro, hớt hải nói với Chu “Trốn xuống gầm giường mau” rồi mở cánh cửa nhỏ bên vách trốn đi.

Chu nằm im không dám thở mạnh, kế nghe tiếng ủng da bước vào trong phòng rồi trở ra, không bao lâu tiếng ồn ào xa dần, trong lòng hơi yên nhưng ngoài cửa vẫn có người qua lại bàn bạc. Chu thấp thỏm hồi lâu, thấy ù tai hoa mắt không sao chịu nổi nữa, chỉ im lặng nghe ngóng chờ cô gái quay lại, cũng không nhớ được rằng mình vốn từ đâu tới đây.

Lúc ấy Mạnh Long Đàm ở trong điện, chớp mắt không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi sư, sư cười nói “Đi nghe giảng kinh rồi". Hỏi ở đâu, sư đáp không xa, kế lấy ngón tay búng lên tường gọi "Chu đàn việt, sao đi chơi lâu không về thế?” liền thấy trong búc tranh trên vách có hình Chu đang nghiêng tai nhón chân như nghe ngóng.

Sư lại gọi nói “Ông bạn đi cùng đợi lâu rồi!", Chu bèn lãng đãng trên vách bước xuống, lòng lạnh người ngây, mắt hoa chân nhũn. Mạnh cả sợ, từ từ hỏi han thì là Chu đang nằm duới gầm giường nghe tiếng gõ cửa như sấm bèn ra khỏi phòng nghe trộm. Cùng nhìn tới cô gái cầm hoa thì thấy tóc đã búi cao chứ không buông xuống như truóc. Chu hốt hoảng vái lạy sư già hỏi duyên cớ, sư cười nói “Ảo giác từ lòng người sinh ra, lão tăng làm sao giải thích được?”. Chu lo lắng không nói ra, Mạnh sợ sệt không kìm được, lập tức đứng lên lần theo bậc thềm ra về.

Dị Sử thị nói:Ảo giác từ lòng người sinh ra, lời ấy giống như của kẻ có đạo. Người có lòng dâm tà sẽ sinh ra cảnh bậy bạ, người có lòng bậy bạ sẽ sinh ra cảnh đáng sợ. Bồ Tát điểm hóa kẻ mê muội, làm ra ngàn muôn ảo giác, đều do lòng người động mà nhìn thấy thôi. Sư già thiết tha điểm hóa, tiếc là không thấy hai người kia nghe xong chợt giác ngộ, xõa tóc vào núi vậy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 4 --
Trồng Lê
(Chủng Lê)

Có người nhà quê bán lê ở chợ, ngon ngọt thơm tho, bán giá rất đắt. Có một đạo sĩ khăn rách áo cũ đứng xin trước xe, người nhà quê đuổi không chịu đi, tức giận chửi mắng. Đạo sĩ nói “Một xe lê hàng vài trăm quả, lão nạp chỉ xin một quả, đối với cư sĩ có mất mát bao nhiêu, sao lại tức giận?".

Người chung quanh khuyên nên lựa một quả nhỏ cho để đạo sĩ đi, nhưng người nhà quê nhất quyết không chịu. Có người làm công trong phố thấy cãi vã bực mình bèn trả tiền mua một quả đưa cho đạo sĩ, đạo sĩ cảm tạ rồi nói vớì mọi người rằng "Người tu hành không được keo bẩn, ta có trái lê ngon, xin đưa ra mời khách”.

Có người nói “Ông dã có được, sao không ăn?”, đạo sĩ đáp "Ta chỉ cần cái hạt làm giống thôi". Rồi bóp vỡ quả lê, lấy hạt ra cầm trong tay, rút cái xẻng nhỏ trên vai đào đất sâu xuống mấy tấc, thả cái hạt lê vào rồi lấp lại, xin người trong chợ cho nước sôi tưới. Có kẻ hiếu sự chạy vào quán cơm cạnh đường xin được nước sôi, đạo sĩ bèn cầm lấy rót lên cái hố. Mọi con mắt đổ dồn vào, đều thấy cái mầm nhú lên, giây lát lớn thành cây lê, cành lá thưa thớt, chợt nảy hoa, chợt thành quả, to lớn thơm tho, kĩu kịt đầy cây.

Đạo sĩ bèn đứng ở trước cây hái chia cho mọi người đứng xem, trong giây lát hết sạch, rồi lấy cái xẻng chặt, cây lê kêu răng rắc hồi lâu đổ xuống, đạo sĩ bèn vác lên lấy cành lá che đầu, ung dung bỏ đi.

Lúc đạo sĩ bắt đầu làm phép, người nhà quê kia cũng đứng lẫn trong đám đông xem, vươn cổ nhướng mắt quên cả xe lê. Khi đạo sĩ bỏ đi mới nhìn lại xe thì lê đã hết sạch, mới biết vừa rồi ông ta phân phát đều là lê của mình. Lại nhìn kỹ thì thấy trong xe mất một cái cuốc, dấu gãy còn mới tinh, trong lòng tức giận. Vội vàng đuổi theo, qua khỏi góc tường thì thấy cái cuốc gãy vứt lại trên mặt đất, mới biết đó là đạo sĩ lấy làm thân cây lê. Đạo sĩ thì chẳng biết ở đâu, cả chợ cứ tủm tỉm cười.

Dị Sử thị nói:Người nhà quê khư khư tiếc của, sự ngây ngốc có thể thấy rõ, đến nỗi bị người trong chợ cười, có lạ gì. Từng thấy trong làng có người vốn nổi tiếng giàu có, mà bạn thân tới xin gạo thì tiếc của, kể lể rằng “Đây là mấy ngày ăn đấy" Có người giúp đỡ được một kẻ hoạn nạn, nuôi được một bữa cơm, thì tức tối kể lể rằng “Ăn bằng năm bằng mười người thường”, thậm chí đối với cả cha con anh em cũng so kè từng ly từng tí. Thế mà tới lúc máu đỏ đen nổi lên thì dốc rương cờ bạc không nuối tiếc, kẻ cướp kề dao vào cổ thì vét tiền chuộc mạng không nề hà. Như hạng người ấy mới là nói không hết, chứ người nhà quê ngu ngốc kia đâu đã đủ để lạ lùng?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 5 --
Đạo Sĩ Núi Lao
(Lao Sơn Đạo Sĩ)

Huyện ta có Vương sinh, bày hàng thứ bảy, là con nhà thế gia cũ. Lúc trẻ mộ đạo, nghe nói núi Lao (ở huyện Túc Mặc tỉnh Sơn Đông) có nhiều thần tiên, bèn khăn gói tới tìm, lên tới một ngọn núi, thấy có đạo quán rất tịch mịch u nhã. Thấy có một đạo sĩ ngồi trên nệm cỏ tròn, tóc trắng xõa tới vai nhưng dung mạo tráng kiện. Lạy chào bắt chuyện, thấy rất tinh thông đạo lý huyền diệu, xin nhận làm thầy.

Đạo sĩ nói "Sợ sức vóc mảnh dẻ không chịu nổi cực khổ”, thưa rằng "Chịu được". Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về, Vương đều vái chào làm lễ ra mắt rồi ở lại trong đạo quán. Mờ sáng đạo sĩ gọi Vương đi, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, Vương kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.

Một chiều hái củi về, thấy hai người đang cùng thầy uống rượu, trời đã tối vẫn không có đèn đuốc gì, thầy bèn cắt giấy thành hình tấm gương dán lên vách, trong chốc lát như vầng trăng sáng vằng vặc trên vách, chiếu rõ từng sợi tóc, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Một người khách nói "Đêm đẹp vui vẻ không nên riêng hưởng", bèn cầm bầu rượu trên bàn chia cho bọn học trò, lại nói cứ uống thật say. Vương tự nhủ “Có bảy tám người, một bầu rượu làm sao mà đủ?”.

Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói "Đã được ơn ban cho trăng sáng, nhưng vắng vẻ quá, sao không gọi Thường Nga tới?". Đạo sĩ bèn lấy đũa ném vào vầng trăng, thì thấy một mỹ nhân từ trong vầng ánh sáng bước ra, lúc đầu cao chưa đầy một thước, tới đất thì cao bằng người thường, lưng thon cổ đẹp, phấp phới múa khúc Nghê thường, múa xong hát rằng:

Tiên tiên ơi, về đi thôi
Chốn Quảng Hàn đây ta lẻ loi


Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mát lại trở thành chiếc đũa. Ba người cười rộ, lại một vị khách nói "Đêm nay vui quá nhưng tửu lượng có hạn, xin tiễn bọn ta ở cung trăng được không?". Ba người dời bàn rượu dần dần vào vầng trăng, mọi người nhìn thấy ba người ngồi trong vầng trăng uống rượu, râu tóc đều rõ mồn một như nhìn vào trong gương.

Lát sau vần trăng tối dần, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn, mà khách đã đi mất rồi. Thức ăn trên bàn hãy còn mà vầng trăng trên vách chỉ còn là một mảnh giấy tròn như tấm gương mà thôi. Đạo sĩ hỏi mọi người "Đã uống đủ chưa?” thưa "Đã đủ rồi". "Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai", mọi người vâng dạ lui ra. Vương thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.

Lại đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa bèn cáo từ nói "Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo.

Thế nhưng đã hai ba tháng, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cục thế này bao giờ". Đạo sĩ cười nói “Ta đã nói rằng ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa ngươi về". Vương nói "Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua một thuật nhỏ để không phụ công tới đây”. Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì, Vương nói “Thường thấy thầy đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, nếu học được phép ấy cũng là đủ rồi”.

Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn “Vào đi!” Vương thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói “Thử vào xem!". Vương lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói "Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ", Vương lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói “Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu”, rồi cấp cho lộ phí về nhà.

Vương về tới nhà khoe là đã học qua phép tiên, tường vách cứng rắn cũng không ngăn cản được. Vợ không tin, Vương bèn làm như trước, đứng cách tường mấy thước rồi lao nhanh vào, đầu va phải tường ngã quay ra. Vợ tới đỡ dậy nhìn, thì trên trán nổi cục u to bằng quả trứng. Vợ cười nhạo, Vương thẹn thùng tức tối, chỉ còn cách chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.

Dị Sử thị nói:Nghe chuyện này không ai không cười lớn, nhưng không biết rằng những kẻ như Vương sinh trên đời lại có rất nhiều. Nay có kẻ ngu xuẩn ưa chất ngọt có độc mà sợ thuốc đắng châm đau, lại có kẻ hút mủ liếm trĩ* dâng cái thuật khoe oai sính bạo để đón ý, khinh suất nói đem thuật này có thể hoành hành không ai cản trở nổi. Buổi đầu làm thử thì chưa từng không có chút ít kết quả, bèn cho rằng thiên hạ to lớn cũng có thể theo đó mà làm, nếu không húc đầu vào tường cứng mà ngã quay ra thì không chịu thôi đâu.
* Hút mủ liếm trĩ: nguyên văn là "thỉ ung tuấn trĩ", chữ trong Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu, chỉ hành động nịnh hót hèn hạ để tiến thân của kẻ vô sỉ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 6 --
Nhà Sư ở Trường Thanh
(Trường Thanh Tăng)

Có nhà sư ở Trường Thanh (tỉnh Sơn Đông) đạo hạnh cao khiết, tuổi đã hơn tám mươi vẫn còn khỏe mạnh. Một hôm chợt ngã chúi xuống, các sư trong chùa chạy tới đỡ dậy thì đã viên tịch rồi. Nhưng nhà sư không biết mình đã chết, hồn cứ bay đi, tới địa giới tỉnh Hà Nam.

Ở Hà Nam có con nhà thân hào dẫn hơn mười người cưỡi ngựa thả ưng săn thỏ, ngựa lồng lên rơi xuống đất chết, hồn nhà sư vừa tới đó bèn nhập luôn vào, dần dần tỉnh lại. Đám đầy tớ xúm lại hỏi han thì cứ giương mắt nói "Sao ta lại tới đây?". Mọi người bèn đỡ về nhà, vào cửa thì đám thê thiếp môi son má phấn xúm lại thăm hỏi, phát hoảng nói "Ta là sư mà, sao lại tới đây?”. Mọi người cho là còn choáng váng, ghé vào tai nhắc cho mà sư cũng chẳng hiểu nổi, bèn nhắm mắt không nói gì nữa. Cơm đưa tới nếu gạo xấu thì ăn, rượu thịt thì chối từ, đêm ngủ một mình, không cho thê thiếp hầu hạ.

Sau vài hôm chợt muốn dạo chơi, mọi người đều mừng rỡ. Ra tới bên ngoài, vừa dừng bước thì đám tôi tớ xúm tới, sổ sách tiền gạo tranh nhau đưa trình, nhao nhao xin lệnh. Công tử lấy cớ có bệnh còn mệt, nhất nhất chối từ, chỉ hỏi “Có biết huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông ở đâu không?”, mọi người cùng thưa có biết. Công tử bèn nói "Ta thấy buồn bực không vui, muốn tới đó chơi, mau sắp sửa hành trang”. Mọi người nói vừa khỏi bệnh chưa nên đi xa, công tử không nghe.

Hôm sau lên đường, tới huyện Trường Thanh thấy phong cảnh vẫn như cũ, không phải hỏi đường một ai, đi thẳng tới chùa. Các sư đệ tử thấy khách sang tới, đón tiếp rất cung kính. Công tử hỏi “Sư già ở đâu?”, họ đáp “Thầy bọn ta vừa mất”. Hỏi mộ ở đâu, các sư bèn đưa tới, thì thấy ba thước mộ lẻ loi, cỏ hoang còn chưa phủ kín, các sư đều không biết khách có ý gì. Đến khi lên ngựa ra về, dặn rằng “Thầy của các ngươi là sư giữ gìn đạo hạnh, những vật còn để lại nên giữ cho kỹ, đừng để hư hỏng chút gì". Các sư vâng dạ, công tử bèn lên đường.

Về tới nhà ngơ ngác thẫn thờ, chẳng nhìn ngó gì tới việc gia đình. Được vài tháng ra cửa trốn đi một mình, về thẳng chùa cũ nói với đệ tử rằng “Ta là thầy các ngươi đây”. Mọi người ngờ là nói đùa, nhìn nhau mà cười. Sư bèn kể lại chuyện nhập hồn vào xác lạ, lại nhắc lại việc làm lúc bình sinh, thảy thảy đều đúng, mọi người mới tin bèn đưa vào ở chỗ cũ, hầu hạ như ngày trước.

Sau gia đình công tử mấy lần đem xe kiệu tới năn nỉ xin trở về nhưng sư không ngó ngàng gì tới. Hơn một năm sau phu nhân sai đầy tớ tới thăm, đem rất nhiều quà cáp nhưng sư trả lại hết vàng lụa, chỉ nhận một chiếc áo vải mà thôi. Bạn ta có người tới đó kính cẩn xin gặp, thấy sư im lặng dốc lòng tu hành, tuổi chỉ trạc ba mươi mà học đạo hơn tám mươi năm rồi.

Dị Sử thị nói:Người chết thì hồn tan, mà hồn sư đi ngàn dặm chưa tan, là nhờ tính đã định vậy. Ta không lạ về việc sư sống lại mà lạ về chỗ bước vào nơi hương thơm sắc đẹp lại có thể dứt lòng trốn đi. Chứ nếu ánh mắt một phen lay động mà trong lòng sinh hương sắc thì có kẻ muốn chết còn không được kia, huống hồ là sư ư?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 7 --
Hồ Gả Con Gái
(Hồ Giá Nữ)

Thượng thư bộ Lại họ Ân* người Lịch Thành (tỉnh Sơn Đông) lúc trẻ nhà nghèo, có can đảm. Trong làng có phủ đệ của nhà thế gia cũ, rộng vài mươi mẫu, lầu gác san sát nhưng thường thấy sự quái dị, vì vậy bỏ trống không ai ở. Lâu ngày cỏ hoa mọc đầy, ban ngày cũng không người nào dám vào. Có lần ông cùng các bạn bè học trò uống rưọu, có người nói đùa “Có ai dám vào đó ngủ lại một đêm, thì cả bọn góp tiền đãi một bữa rượu”. Ông nhảy phắt dậy nói “Chuyện đó có khó gì?”, bèn ôm một cái chiếu đi, mọi người đưa tới tận cổng, đùa nói “Bọn ta chờ ở đây, nếu thấy có gì lạ, cứ kêu to lên”. Ông cười nói “Nếu có ma quỷ hồ tinh, sẽ bắt về làm chứng”.

*Thượng thư bộ Lại họ Ân: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Sĩ Chiêm, tự Đường Xuyên, đỗ Cử nhân năm Canh tý (1540), đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1547) niên hiệu Gia Tĩnh thời Minh, làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại.

Bèn bước vào trong, thấy gai góc khuất lối, cỏ dại um tùm. Lúc ấy là đầu tháng, trăng non mờ mờ có thể nhìn thấy cổng nẻo, bèn lần theo vách đi một lúc mới tới lầu phía sau, lên hiên ngắm trăng thấy quang quẻ sạch sẽ đáng yêu liền dừng lại, trông về vầng trăng phía tây chỉ thấy như núi ngậm một sợi dây sáng mà thôi. Ngồi một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, cười thầm lời đồn đãi hão huyền rồi trải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá nằm ngắm sao Ngưu lang Chúc nữ, một lúc thì thiu thiu ngủ.

Chợt duới lầu có tiếng giày lẹp kẹp đi lên, ông bèn giả ngủ hé mắt nhìn, thấy là một tỳ nữ cầm chiếc đèn lồng hình hoa sen, chợt trông thấy ông giật mình lui lại nói với người đi sau “Có người lạ ở đây”. Người đi sau hỏi "Ai vậy?”, trả lời “Không biết nữa". Giây lát có một ông già lên tới, tới sát ghé mắt nhìn ông rồi nói "Đây là quan Thượng thư họ Ân, nhưng đã ngủ say, cứ làm việc của ta đi, tướng công là ngươi không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quát nạt đâu”.

Bèn kéo nhau lên cả trên lầu, mở hết cửa nẻo ra. Một lúc sau người qua lại càng đông, trên lầu đèn đuốc sáng như ban ngày, ông bèn khe khẽ trở mình, cất tiếng ho hắng. Ông già thấy ông tỉnh dậy bèn bước ra quỳ gối xuống nói "Tiểu nhân có đứa con gái gả chồng đem nay làm lễ rước dâu, không ngờ làm kinh động quý nhân mong ông bỏ qua”. Ông đứng dậy đỡ ông già lên nói “Không biết đêm nay gia đình có việc vui mừng, thật thẹn không có lễ vật để tặng". Ông già nói "Được quý nhân quang lâm, trấn áp sự hung hiểm là may lắm rồi. Xin ông cảm phiền ngồi chơi thì càng quý hóa lắm". Ông vui vẻ nhận lời, bước vào trong lầu nhìn, thấy bày biện đẹp đẽ, lại có người đàn bà tới vái lạy, tuổi khoảng hơn bốn mươi, ông già nói “Đây là vợ quê của ta", ông bèn đáp lễ.

Chợt nghe tiếng đàn sáo inh tai, có người chạy mau từ dưới lên nói “Tới rồi”. Ông già vội ra đón, ông cũng đứng chờ. Phút chốc có ngửơi cầm chiếc đèn lồng bằng sa đưa chàng rể vào, thấy tuổi khoảng mười bảy mười tám, dáng vẻ tuấn tú, ông già bảo làm lễ chào khách quý trước. Thiếu niên nhìn ông, ông như người giữ việc tiếp khách, bèn nhận nửa lễ chủ nhân, kế cha vợ chàng rể làm lễ với nhau, rồi ngồi vào bàn. Giây lát đám phụ nữ kéo lên đông đúc, rượu thịt bày ra la liệt, chén ngọc bình vàng sáng rực bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già gọi tỳ nữ mời tiểu thư ra, hồi lâu không thấy tới. Ông già đứng dậy vén màn hối thúc, giây lát một đám bà vú tỳ nữ đưa cô dâu ra, tiếng vòng ngọc lanh canh, mùi lan xạ thơm phức. Ông già bảo lạy người trên, nàng lạy xong đứng dậy tới ngồi cạnh mẹ, ông liếc nhìn thấy trâm phuợng dát ngọc biếc, vòng tai khảm minh châu, dung mạo đẹp tuyệt trần. Kế đó rót rượu vào chén vàng lớn chứa được vài đấu, ông nghĩ vật này có thể lấy để làm chứng với bạn bè bèn lén bỏ vào tay áo rồi giả say nằm phục lên bàn ngủ vùi. Mọi người đều nói "Tướng Công say rồi".

Không bao lâu nghe chàng rể xin rước dâu về, tiếng đàn sáo lại trỗi vang, nhộn nhịp xuống lầu ra đi. Kế chủ nhân dọn dẹp mâm chén thấy thiếu một cái chén uống rượu, tìm mãi không được, có người nói trộm là ông khách đang ngủ lấy, ông già vội bảo im, sợ ông nghe được. Lát sau trong ngoài yên ắng, ông mới trở dậy, thấy tối om không có đèn đuốc gì, chỉ còn mùi hương hơi rượu vẫn sực nức cả bốn bên.

Nhìn ra phía đông thấy trời đã rạng bèn thong thả bước ra, mò trong tay áo thì cái chén vàng vẫn còn, ra tới cổng thì các bạn bè học trò đã chờ sẵn, ngờ là ông đang đêm trở ra rồi gần sáng mới vào. Ông bèn đưa cái chén ra cho họ xem, mọi người kinh ngạc hỏi thăm, ông bèn kể lại mọi việc. Bạn bè đều nghĩ rằng học trò nghèo không thể có được vật này mới tin lời.

Về sau ông đỗ Tiến sĩ, làm quan ở huyện Phì Khâu (tỉnh Sơn Đông). Có nhà thế gia họ Chu mời ông ăn tiệc, sai lấy chén lớn uống rượu, lâu không thấy đem ra. Có đứa hầu nhỏ nói thầm với chủ nhân, chủ nhân có dáng tức giận. Giây lát mang chén vàng ra rót rượu mời khách uống, ông nhìn thì kiểu chén nét chạm giống hệt với cái thén của hồ, lấy làm ngờ vục bèn hỏi ở đâu chế tạo, chủ nhân đáp “Bộ chén này có cả thảy tám cái, đời cha ta làm quan khanh trong kinh tìm thợ giỏi chế ra, là vật gia bảo truyền đời, cất kỹ đã lâu. Nay được phủ quân hạ cố mới cho lấy trong hòm ra, thì chỉ còn có bảy cái. Ngờ là người nhà ăn trộm, nhưng dấu niêm phong mười năm vẫn còn nguyên, thật là không sao hiểu nổi”. Ông cười nói “Chén vàng mọc cánh bay rồi, nhưng vật báu truyền đời không nên để mất, ta có một cái cũng hơi giống, xin đưa lại tặng".

Xong tiệc về dinh, lấy cái chén ruợn sai người đưa tới, chủ nhân xem kỹ rất hoảng sợ, đích thân qua cám ơn ông, hỏi từ đâu mà có. Ông bèn kể rõ đầu đuôi, mới biết vật trong vòng ngàn dặm thì hồ vẫn có thể lấy được, chỉ không dám giữ luôn mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 8 --
Kiều Na
(Kiều Na)

Khổng sinh Tuyết Lạp là dòng dõi Khổng phu tử, học vấn uẩn súc, giỏi làm thơ. Có người bạn học cũ làm Huyện lệnh Thiên Thai (tỉnh Chiết Giang) gủi thư mời, sinh tới thì người bạn vừa qua đời, bơ vơ không có tiền về, phải ngụ ở chùa Bồ Đà, chép thuê cho sư trong chùa.

Cách chùa hơn trăm bước về phía tây có tòa nhà của Đơn tiên sinh, vốn là con quan, vì chuyện kiện tụng nên sa sút, gia đình lại ít người bèn dời vào ở trong làng, tòa nhà thành ra bỏ hoang.

Một hôm tuyết lớn, trên đường vắng tanh, sinh ngẫu nhiên đi ngang, có một thiếu niên từ trong đi ra, phong tư anh tuấn, thấy sinh thì rảo bước tới chào hỏi rất lễ phép, mời vào nhà chơi. Sinh vui vẻ theo vào, thấy phòng ốc không rộng rãi lắm nhung chỗ nào cũng buông màn gấm, trên tường treo đầy thư họa của cổ nhân, trước bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề Loan hoàn tỏa ký, sinh mở xem một lượt, đều là những chuyện mình chưa bao giờ nghe thấy. Sinh cho rằng thỉếu niên ở tòa nhà của họ Đơn thì ắt là chủ nhà, nên không hỏi thăm gia thế. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của sinh, tỏ ý thương xót, khuyên sinh mở trường dạy học. Sinh than rằng "Ở nơi đất khách quê người, có ai chịu dương danh mách mối?". Thiếu niên nói "Nếu không chê, thì chính ta xin thụ giáo đây!". Sinh mừng rỡ nhưng không dám nhận là thầy, chỉ xin làm bạn, nhân hỏi "Tại sao lâu nay nhà này đóng kín cửa thế?” Đáp “Đây là Đơn phủ, vì công tử vào ở trong làng, nên nơi này bỏ hoang đã lâu. Ta họ Hoàng Phủ, quê quán vốn ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), vì nhà cửa bị hỏa hoạn nên tạm ở nhờ", sinh mới rõ thiếu niên không phải là Đơn.

Đêm ấy hai người chuyện trò rất vui vẻ, ngủ chung một giường. Tảng sáng có đứa tiểu đồng vào đốt lò, thiếu niên dậy trước vào nhà trong. Sinh vẫn còn khoác chăn ngồi trên giường thì tiểu đồng vào nói “Thái Công tới". Sinh ngạc nhiên vội đứng dậy, thấy một ông già bước vào, râu tóc bạc phơ, cảm tạ nói "Tiên sinh không bỏ thằng con khờ dại của lão mới chịu dạy bảo cho nó, nhưng nó mới tập viết tập đọc, xin đừng lấy cớ là bạn mà coi nó ngang hàng”. Kế sai mang ra biếu một bộ áo gấm và mũ lông điêu cùng giày tất mỗi thứ một món, chờ sinh rửa mặt chải đầu xong thì gọi dọn rượu. Các thứ vật dùng trong nhà không biết tên gì, chỉ thấy sáng ngời lóa mắt. Uống vài chén, ông già đứng lên từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, mấy bài toàn là lối cổ văn, không hề giống lối khoa cử. Sinh hỏi, thiếu niên cười đáp "Ta không cần làm quan".

Tối đến lại bày tiệc rượu, nói "Đêm nay uống thật say rồi thôi, từ ngày mai trở đi không được uống nữa". Rồi gọi tiểu đồng nói “Ngươi xem Thái Công đã đi nằm chưa, nếu rồi thì lén gọi Hương Nô ra đây". Tiểu đồng vào, lát sau ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà ra trước, kế có một tỳ nữ mặc áo đỏ bước vào, dung mạo xinh đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương phi, nàng cầm phím ngà gảy đàn, trầm bổng bi ai, tíét tấu khác hẳn nhạc thường. Lại sai mang chén lớn ra uống rượu, đến canh ba mới thôi. Hôm sau cũng dậy sớm đọc sách, thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ, sau hai ba tháng đã làm văn rất hay, bèn hẹn với sinh cứ năm ngày cùng nhau uống rượu một lần, lần nào cũng gọi Hương Nô tới góp vui.

Một đêm sinh say rượu nóng mặt cứ nhìn Hương Nô chằm chằm, thiếu niên hiểu ý nói “Đứa tỳ nữ này là gia phụ nuôi dạy từ lâu, ông trơ trọi không có gia đình, ta đã sớm hôm nghĩ tới lâu rồi, đang tính cho ông một mối rất xứng đáng". Sinh nói "Nếu có lòng tốt, phải tìm cho ta một người như Hương Nô mới được". Thiếu niên cười đáp “Ông thật là người thấy ít nên lạ nhiểu, như nó mà anh cho là đẹp thì sở nguyện của anh cũng dễ thỏa mãn thôi”.

Được nửa năm sinh muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng tới cổng thì hai cánh khóa chặt, hỏi thì thiếu niên đáp "Gia phụ sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách thôi!”, sinh từ đó cũng ở yên.

Gặp hôm nóng bức dời ra học ngoài vườn, bụng sinh chợt nổi lên cái ung như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên rỉ, thiếu niên sớm tối săn sóc bỏ cả ăn ngủ. Vài hôm sau đau hơn, càng không ăn uống gì được, Thái Công cũng tới thăm, đứng nhìn thở dài. Thiếu niên nói “Đêm trước con nghĩ chứng bệnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, đã cho người đến nhà bà ngoại gọi về, sao lâu quá chưa thấy tới”. Bỗng tiểu đồng vào thưa “Cô Na đã tới, cả dì với Cô Tùng cũng cùng tới” , hai cha con vội ra đón. Lát sau thiếu niên đưa em gái lại, khoảng mười ba mười bốn tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng vẻ yểu điệu, sinh vừa nhìn thấy chợt quên cả đau đớn, tinh thần khỏe khoắn hẳn lên. Công tử nói “Đây là bạn thân của ta, tình như ruột thịt, nhờ em chữa bệnh giùm".

Cô gái bèn giấu vẻ thẹn thùng, vén tay áo dài tới trước giường thăm bệnh, trong lúc cầm tay bắt mạch, sinh ngửi thấy mùi hương thơm ngát. Cô gái cười nói "Tâm mạch động thì phải có bệnh này, nhưng tuy là chứng nguy hiểm vẫn có thể chữa được. Có điều cái ung đã lớn, phải rạch da khoét thịt mới xong”.

Rồi tháo chiếc xuyến vàng trên cánh tay đặt lên chỗ đau từ từ ấn xuống, cái ung chợt nổi cao lên khoảng một tấc so với da thịt bên ngoài nhưng toàn bộ vùng bầm tím bên dưới đều gom cả vào bên trong chiếc xuyến chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Kế vén áo lấy ra một thanh bội đao mỏng như tờ giấy, đè xuyến cầm đao nhè nhẹ cắt chung quanh, máu bầm phun ra ướt đẫm giường chiếu.

Sinh thích vì được kề cận ngươi đẹp nên chẳng những không thấy đau đớn mà còn sợ việc mổ xẻ mau xong, không được ở cạnh nàng lâu. Phút chốc nàng đã cắt hết thịt thối, lục cục lòn hòn như những u bướu trên thân cây, lại gọi đem nước để rửa chỗ mới cắt, kế nhả ra một hoàn thuốc màu đỏ to bằng viên đạn lớn đạt lên thoa khắp xung quanh. Mới một vòng đầu chàng thấy nóng rần, vòng thứ hai thì thấy xót ngứa, vòng thú ba thì khắp thân thể mát mẻ. Cô gái thu viên hồng hoàn lại ngậm vào miệng, nói “Khỏi rồi đấy!”, rồi rảo bước đi ra. Sinh nhảy phắt dậy, chạy theo cảm tạ.

Bệnh tật lâu ngày dường như hết sạch, nhưng từ đó trở đi cứ mơ tưởng dáng vẻ của nàng không khuây, bỏ bê sách vở, chỉ ngồi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Công tử thấy thế nói “Đệ đã tìm chọn được một mối tốt đẹp cho huynh rồi!”. Sinh hỏi là ai, Công tử đáp "Cũng là họ hàng với đệ”. Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói “Thôỉ đừng!”, rồi quay vào tường ngâm hai câu thơ cổ “Đã qua bể thẳm khôn còn nước, Ngoài chốn non Vu chẳng có mây*” Công tử hiểu ý, nói “Cha ta vẫn mến tài ông, thường muốn kết hôn nhân, nhưng ta chỉ có một đứa em gái còn quá nhỏ. Có con gái dì ta tên A Tùng, đã mười bảy tuổi không đến nỗi xấu xí. Nếu không tin, thì hàng ngày Cô Tùng vẫn dạo chơi ngoài vườn, ông núp trong hiên nhìn xem.

* Đã qua... có mây: nguyên văn là “Tằng kinh thương hải nan vi thủy, Trừ khước Vu Sơn bất thị vân", câu trong năm bài Khiển bi hoài của Nguyên Chẩn thời Đường khóc vợ chết.

Sinh theo lời, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nhân ra vườn, mày vẽ cong vút, chân mang giày phượng, xinh đẹp tương tự Kiều Na. Sinh cả mừng nhờ Công tử làm mối giùm.

Hôm sau công tử ở nhà trong đi ra, chúc mừng rằng "Việc xong rồi”. Rồi dọn một chỗ ở riêng cho sinh làm đám cưới. Đêm ấy nhạc trỗi vang nhà, sinh như thấy người tiên trong trăng, đến khi cùng chăn gối lại ngờ cung điện Quảng Hàn chưa chắc đã ở trên trời cao. Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hiệp.

Một đêm công tử nói với sinh "Cái ơn dạy bảo không lúc nào quên, nhưng gần đây Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi nhà rất gấp nên định bỏ nơi này về Thiểm Tây, khó lại hội họp cùng nhau, trong lòng lấy làm vương vấn”. Sinh xin đi cùng nhưng công tử khuyên nên về quê Sinh lấy làm khó khăn, công tử nói “Đừng lo, ta có thể tiễn ông về ngay lập tức”. Không bao lâu ông già dẫn Tùng nương tới, lấy một trăm lượng vàng tặng sinh, công tử nắm tay hai vợ chồng, dặn nhắm mát đừng nhìn, rồi lướt đi trên không, chỉ nghe gió vi vút bên tai, hồi lâu công tử nói “Tới rồi!”. Sinh mở mắt quả thấy quê mình, mới rõ công tử không phải là người. Mừng rỡ về gõ cửa, mẹ không ngờ con về, lại thấy con có vợ đẹp vui vẻ chuyện trò, đến khi nhìn lại thì công tử đă biến mất.

Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền sắc đẹp đồn dậy xa gần. Sau sinh thi đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Tư lý coi việc hình ở Diên An, đem cả nhà đi phó nhiệm, duy mẹ ngại đường xa không đi. Tùng nương sinh một con trai, đặt tên là Tiểu Hoạn. Sinh vì trái ý quan trên nên bị bãi chức, nhưng vì còn có việc trở ngại nên chưa về quê đuợc.

Một hôm ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một thiếu niên đẹp trai cưỡi ngựa thanh câu cứ ngoảnh nhìn mình, nhìn kỹ thì là Hoàng Phủ Công tử. Hai người cùng dừng ngựa buông cương, mừng mừng tủi tủi. Công tử mời sinh đi tới một thôn cây cối um tùm không thấy ánh mặt trời, vào nhà thì son son thếp vàng rực rỡ, rõ ràng là nhà thế tộc. Hỏi thăm cô em thì đã lấy chồng, bà nhạc đã mất vô cùng đau xót. Sinh nghỉ qua đêm rồi từ biệt ra về, dắt vợ cùng tới. Kiều Na cũng tới, bế con sinh đùa giỡn, nói "Bà chị làm rối loạn dòng giống nhà ta rồi". Sinh tạ ơn cứu mạng ngày trước nàng cười nói "Nay anh rể quý hiển, vết thương đã liền miệng, còn chưa quên nỗi đau à?” Chồng nàng là Ngô lang cũng tới chào sinh, ở qua đêm rồi đi.

Một hôm Công tử có vẻ lo lắng nói với sinh "Trời giáng tai họa, có cứu nhau được không?” sinh không biết chuyện gì nhưng cũng hăng hái nhận lời. Công tử bèn rảo bước ra gọi cả gia đình vào sảnh đường xếp hàng quỳ lạy. Sinh cả sợ vội hỏi, Công tử nói “Ta không phải là người mà là hồ. Hôm nay có tai nạn bị sét đánh, nếu ông chịu lấy thân ra cứu nạn thì cả nhà có thể được toàn sinh, nếu không thì xin ông bế con đi ngay cho khỏi bị vạ lây?”. Sinh thề cùng sống chết, Công tử bèn bảo sinh cầm gươm đứng trấn ngoài cửa, dặn “Sấm sét đánh ầm ầm cũng đừng động đậy”.

Sinh theo lời, quả thấy mây mù kéo tới che khuất ánh ngày, trời đất tối đen, ngoảnh nhìn chỗ ở cũ không thấy phòng ốc nhà cửa gì cả, chỉ thấy gò cao chót vót, hang sâu thăm thẳm. Đang lúc kinh ngạc thì một tiếng sét nổ ầm ầm chấn động núi non, mưa to gió lớn bật gốc cả những cây lâu năm, sinh hoa mắt choáng tai nhưng vẫn đứng sừng sững không hề nhúc nhích. Bỗng trong đám gió âm mây tối có một con quỷ mỏ sắc móng dài quắp một người trong hang ra bay thẳng lên mây, sinh thoáng thấy áo giày giống hệt Kiều Na vội nhảy lên vung kỉếm chém theo, người kia theo tay rơi xuống. Chợt núi lở sét ran, sinh ngã xuống bất tỉnh.

Lát sau trời tạnh, Kiều Na tỉnh dậy thấy sinh chết bên cạnh, oà khóc nói "Khổng lang vì ta mà chết, ta làm sao sống được?”. Tùng nương cũng vừa bước ra, cùng nhau vực sinh vào nhà. Kiều Na bảo Tùng nương ôm đầu sinh, bảo anh lấy trâm cạy răng rồi vạch miệng ra, dùng lưởi đẩy viên hồng hoàn vào, lại kề môi mà phà hơi vào. Viên hồng hoàn theo hơì vào cổ kêu ùng ục, lát sau sinh tỉnh dậy, thấy người nhà xúm cả chung quanh, giật mình thấy như vừa tỉnh mộng. Rồi đó cả nhà sum họp, qua cơn lo sợ lại càng vui vẻ.

Sinh nghĩ nơi mồ mả âm u không thể ở lâu, bàn cùng về quê mình. Mọi người đều tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Sinh muốn nàng và Ngô lang cùng về nhưng nàng lo cha mẹ chồng không chịu xa con trai nhỏ nên bàn bạc cả ngày chưa quyết. Chợt một đưa tớ nhỏ nhà họ Ngô mồ hôi ròng ròng, hơi thở hơn hển chạy tới, mọi người hoảng sợ hỏi han thì ra cũng ngày hôm ấy cả nhà Ngô lang bị tai nạn sét đánh chết hết. Kiều Na giẫm chân đau xót khóc lóc, mọi người cùng nhau khuyên giải, việc cùng về quê sinh mới quyết.

Sinh vào thành sắp xếp vài hôm rồi gấp rút sửa soạn hành lý lên đường. Về tới nhà cắt khu vườn trống cho công tử ở, nhà thường khóa trái, sinh hay Tùng nương tới mới mở. Sinh cùng anh em công tử chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà. Tiểu Hoạn lớn lên diện mạo xinh xắn, hơi có vẻ hồ, ra phố chơi người ta đều biết là con của hồ.

Dị Sử thị nói:Ta không khen Khổng sinh về việc được vợ đẹp mà khen ở việc được bạn hiền thôi. Nhìn mặt có thể quên đói, nghe giọng có thể mỉm cười, được người bạn tốt như thế thì một lần trò chuyện yến ẩm có thể trao cả hồn phách cho, còn hơn cả điên đảo áo xiêm vậy.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 9 --
Yêu Thuật
(Yêu Thuật)

Ông Vu lúc trẻ hào hiệp, thích quyền thuật, sức có thể cầm hai thùng nước giơ cao lên múa may như gió lốc. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) lên thi điện ở kinh đô, ngươi đầy tớ mắc bệnh không dậy nổi, Vu lo lắm.

Gặp lúc ở chợ có người thầy bói giỏi, có thể biết chuyện sống chết của người ta, Vu bèn tới xem cho người đầy tớ. Vừa tới nơi chưa kịp nói gì thì người thầy bói nói ngay "Ông định hỏi về bệnh của người đầy tớ phải không?”, ông hoảng sợ vâng dạ. Người thầy bói nói "Người bệnh thì không sao chứ ông thì nguy đấy”.

Ông bèn xem cho mình, người thầy bói gieo quẻ xong, ngạc nhiên nói “Sau ba ngày nữa ông sẽ chết”. Ông kinh ngạc hồi lâu, người thầy bói ung dung nói “Bỉ nhân có thuật mọn, nếu ông đưa ta mười lượng vàng, ta sẽ khẩn cầu giúp cho". Ông nghĩ thầm sống chết có số, phép thuật nào cứu được nên không đáp, đứng dậy định về. Ngườì thầy bói nói “Tiếc chút ít tiền như vậy thì đừng hối hận, đừng hối hận”. Những người yêu mến ông đều lo lắng thay, khuyên cứ dốc túi cầu xin nhưng ông không nghe.

Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà trọ im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì làm mình chết đuợc đã toan đi ngủ. Chợt nghe chỗ song cửa sổ có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người nhỏ bé vác giáo chui qua kẽ hở mà vào, rơi xuống đất thì cao vọt lên như người thật. Ông nắm kiếm bặt dậy xông vào chém, người ấy theo gió dạt ra chưa trúng kiếm nhưng chợt nhỏ lại như cũ, lui lại chỗ kẽ hở cửa sổ định chạy. Ông chém vội nhát nữa, ngườỉ ấy theo kiếm ngã lăn ra, cầm đèn tới xem thì ra là một hình nhân bằng giấy bị chém đứt ngang lưng.

Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật chui qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông chờ nó vừa rơi tới đất là xông vào chém ngay, nó bị đứt làm hai đoạn mà vẫn còn động đậy. Ông sợ nó lại vùng dậy bèn chém liên tiếp, nhát nào cũng trúng nghe bồm bộp, nhìn kỹ lại thì là một pho tuợng bằng đất, nát vụn cả ra.

Rồi đó ông kéo ghế tới ngồi trước cửa sổ chăm chú nhìn vào khe hở, hồi lâu nghe bên ngoài có tiếng thở mạnh như bò rồi có một vật lay mạnh song cửa, vách phòng rung lên muốn đổ xuống. Ông sợ bị tường sập đè lên, nghĩ chẳng bằng cứ ra đánh nhau, bèn đạp cửa sấn ra. Thấy một con quỷ to lớn cao ngang mái nhà, trong ánh trăng mờ mờ thấy mặt đen như than, mắt sáng rực lóe ánh vàng, trên người không áo, duới chân không giày, tay cầm cung lưng đeo tên. Còn đang hoảng sợ thì quỷ đã phát tên, ông vung kiếm gạt mũi tên rơi xuống đất, định sấn vào chém thì nó bắn tiếp phát nữa, ông vội nhảy qua tránh, mũi tên găm vào vách tường nghe phằm phặp, quỷ tức quá rút đao vung múa như gió chém mạnh tới. Ông sấn mau vào, thanh đao chém trúng tảng đá trong sân, tảng đá đứt đôi. Ông từ dưới khuỷu tay nó phóng kiếm đâm trúng ngực nghe leng keng, quỷ càng tức giận gào thét như sấm, xoay người chém nhát nữa. Ông lại cúi xuống lòn vào, thanh đao chém xuống đứt ống quần ông. Ông đã vào sát dưới ngực nó, hết sức chém mạnh, cũng nghe keng một tiếng, quỷ lăn ra nằm cứng đờ. Ông chém túi bụi vào nó, nghe tiếng vang như mõ, cầm đèn ra xem thì là một pho tượng gỗ to lớn như người thật, cung tên còn buộc ở lưng, mặt mũi chạm khắc rất hung dữ, những chỗ trúng kiếm đều có vết máu.

Ông bèn đốt đuốc chờ đến sáng, mới sực nghĩ ra rằng đám quỷ này đều do người thầy bói sai tới giết người để chứng tỏ thuật bói toán của y thần kỳ. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ người thầy bói. Người thầy bói thấy ông từ xa liền biến mất không thấy đâu nữa. Có người nói “Đó là thuật tàng hình, máu chó có thể phá được”. Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Người thầy bói lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào chỗ y đứng, thì thấy y đầu tóc mắt mũi dính máu chó bê bết, hai mắt rừng rực đứng như con quỷ, bèn bắt trói giải lên quan giết đi.

Dị Sử thị nói:Thường nói xem bói vì có điều nghi ngờ, song những kẻ hiểu đạo ấy mà không lầm về sự sống chết lại không có mấy người, nên xem bói mà lầm không bằng không xem bói. Vả lại cho dù nói rõ được ngày chết của ta thì có làm được gì? Huống hồ lại có kẻ mượn mạng sống của người để chứng tỏ thuật bói toán của mình là thần kỳ, thật chẳng rất đáng sợ sao?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 10 --
Diệp Sinh
(Diệp Sinh)

Diệp sinh người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.

Đến kỳ khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, kế sinh đỗ đầu, ông rất mong mỏỉ vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gỏ bàn đánh nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh, khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ, thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.

Ông nghe tin mời tới an ủi, sinh rơi lụy không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng "Ta nay mai sẽ về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi sáng thì buổi chiều ta khởi hành".

Thư đưa tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ ra đón hỏi han. Sinh nói "Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu, lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu”.

Ông bèn gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đỗ á khôi.

Một hôm ông nói với sinh "Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhung quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?”. Sinh nói "Điều đó là có số mẹnh. Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?".

Ông thấy sinh xa nhà đã lâu, sợ lỡ kỳ sát hạch hàng năm, khuyên nên về thăm. Sinh rầu rĩ không vui, ông không nỡ ép bèn dặn công tử khi đến kinh thì nộp tiền mua chức cho sỉnh. Công tử lại đỗ kỳ thi hội, được bổ chức Chủ chính trong bộ, đưa sinh vào Giám, sớm tối có nhau.
Qua năm sau sinh thi hương ở kinh đỗ Cử nhân, gặp lúc công tử được bổ chức Điển vụ ở Hà Nam, nhân nói với sinh “Chuyến này đi không xa quý hương, nay tiên sinh đắc chí mây xanh, áo gấm về làng cũng hay”. Sinh cũng mừng liền chọn ngày tốt lên đường, tới địa giới Hoài Dương thì công tử sai người ngựa đưa sinh về.

Tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, sinh bùi ngùi lững thững đi vào sân. Vợ cầm cái nia đi ra, thấy sinh thì vứt xuống hoảng sợ bỏ chạy. Sinh buồn rầu nói “Ta nay đã nên danh phận, mới ba bốn năm không gặp, sao lại như không quen nhau thế?”. Vợ đứng xa nói "Chàng chết đã lâu, sao còn nói là nên danh phận? Sở dĩ còn quàn linh cữu trong nhà là vì nhà nghèo con nhỏ mà thôi. Nay con cũng đã khôn lớn, đang tìm đất chôn cất, chàng đừng hiện hồn để dọa người còn sống". Sinh nghe nói ngậm ngùi, lững thững đi vào trong phòng, nhìn thấy linh cữu mình liền ngã xuống đất biến mất. Vợ kinh hãi nhìn lại chỉ thấy áo mũ không như cái xác ve lột, vô cùng thương xót ôm lấy khóc lóc.

Con trai sinh đi học về, thấy ngựa xe trước cổng bèn hỏi han rồi hoảng sợ chạy vào báo cho mẹ, mẹ gạt nước mắt kể lại, lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi. Người theo hầu về báo, công tử nghe tin nước mắt ròng ròng, lập tức sai thắng xe ngựa tới nhà sinh khóc lóc rồi bỏ tiền ra làm ma chay, chôn cất sinh theo lễ Hiếu liêm. Lại tặng tiền bạc cho con sinh rất hậu, đón thầy về dạy cho và nói với quan Học sứ, qua năm sau con sinh được vào học trường huyện.

Dị Sử thị nói:

Hồn theo tri kỷ nên quên cái chết ư? Người khác nghe thì ngờ chứ ta thì tin lắm. Thiến Nương cùng lòng, hồn từng lìa khỏi gối 1, bạn bè ngàn dặm, dường còn nhận trong mơ 2, huống hồ tơ tằm vết nhặng, văn nhân quen bày tỏ tâm can 3, nước chảy non cao 4, học giả vẫn coi như tính mạng sao! Than ôi, gặp gỡ khó hẹn ngày, tao phùng không xứng ý nên hành tung trôi nổi để trước bóng ôm sầu, ngạo khí lăng tằng mà gãi đầu xót phận, than mặt mày tê gió bụi, bị ma quỷ tới cợt đùa 5. Ngoài bảng Tôn Sơn 6, thơ phú theo Công danh lạt lẽo, trong phường thi rớt, tóc râu cùng năm tháng phôi pha. Khóc ròng suốt trong kim cổ, chỉ có Biện Hòa 7, ngựa hay không được đoái hoài, nào ai Bá Nhạc 8. Ôm danh thiếp ba năm nhạt chữ 9, nhìn thân mình bốn bể không nhà. Người sống trên đời chỉ nên nhắm mắt đưa chân, mặc cho con tạo xoay vần mà thôi. Chứ trên đời những người tài giỏi mà lận đận như Diệp sinh chắc cũng không ít, mà lại muốn có Lệnh Uy trở lại 10 để họ theo mà sống chết chăng? Ôi!

1. Thiến Nương... khỏi gối: Ly hồn ký chép Trương Dật có con gái tên Thiến Nương rất xinh đẹp, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ, sau có người khác tới hỏi cưới, Dật ưng thuận. Cô gái nghe tin rất uất ức, Trụ cũng căm hờn bỏ đi, nửa đêm thấy một người lên thuyền theo, nhìn ra thì là cô gái, bèn đưa nhau trốn đi. Năm năm sau sinh được hai con trai, cô gái nhớ cha muốn về thăm, Trụ về trước xin lỗi Dật thì Thiến Nương đã bệnh nằm liệt giường năm năm rồi. Đến khi cô gái vào nhà thì cô gái trong phòng mừng rỡ chạy ra, hai người liền nhập vào làm một.
2. Bạn bè... trong mơ. Hàn phi tử chép thời Chiến quốc Trương Mẫn và Cao Huệ chơi thân với nhau, Mẫn nhớ Huệ nhưng đường xa không đi thăm được bèn tìm tới Huệ trong giấc mộng nhưng nửa đường lạc lối phải quay về, như thế ba lần.
3. Tơ tằm: tơ tằm lấy từ câu trong Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp "Chương cú tại thiên như kiển chi trừu tự” (Câu chữ trong bài như rút tơ tằm trong kén), chỉ việc dụng công làm văn. Vết nhặng nguyên văn là “nhăng tích", chưa rõ điển tích song có lẽ cũng chỉ việc làm văn nói chung. Văn nhân... tâm can lấy tích Lý Hạ thời Đường ra khỏi nhà thì dắt đứn tiểu đồng mang cái túi gấm cũ theo, nghĩ được câu thơ nào hay là viết bỏ vào túi, chiều tối trở về ngồi nghĩ cho thành bài, bà mẹ nói "Con thì phải tỏ bày cho hết gan ruột mới chịu thôi".
4. Nước chảy non cao: nguyên văn là "lưu thủy cao sơn". Lữ thị Xuân thu chép Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe, lúc Bá Nha nghĩ tới núi cao, Tử Kỳ nói "Hay làm sao, vòi vọi như núi Thái", lúc Bá Nha nghĩ tới nước trôi, Tử Kỳ nói “Hay làm sao, cuồn cuộn như nước chảy”. Sau người ta dùng tích này chỉ kẻ tri âm tri kỷ.
5. Ma quỷ tới cợt đùa: Thế thuyết chép La Hữu thời Tấn nhà nghèo theo Hoàn Ôn, Ôn chu cấp cho nhưng không dùng. Sau trong phủ Hoàn Ôn có người được cử làm Quận thú, Ôn mở tiệc đưa tiễn, Hữu tới sau cùng. Ôn hỏi sao tới chậm, Hữu đáp “Được lệnh ông gọi đã ra đi từ sáng sớm, nhưng dọc đường gặp một con quỷ chế nhạo, nói Ta chỉ thấy ngươi tiễn người khác đi làm quan chứ chẳng thấy người khác tiễn ngươi đi làm quan, vì vậy nên tới muộn". Đây chỉ việc trắc trở công danh.
6. Ngoài bảng Tôn Sơn: Thi thoại chép Tôn Sơn thời Đường đi thi đỗ cuối bảng, có người cùng dự thi vờ tới hỏi thăm, Sơn đáp "Cuối bảng là Tôn Sơn, Người khác thì ngoài bảng". Đây chỉ việc thi rớt.
7. Khóc ròng... Biện Hòa: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu ý nói có tài mà không được ai biết tới.
8. Ngựa hay... Bá Nhạc: Chiến quốc sách chép Bá Nhạc giỏi xem tướng ngựa, một hôm vào chợ bán ngựa chơi, có người bán ngựa hay tới nói “Ta đứng bán ở đây đã ba ngày mà không ai hỏi tới. Nhờ ông đi một vòng rồi tới nhìn ngựa của ta, nhìn xong quay đi nhưng lại ngoái đầu nhìn lại, ta xin dâng số tiền lời của một ngày". Nhạc theo lời, chỉ trong một buổi sáng người ấy đã bán đuợc giá gấp mười. Đây ý nói có tài mà không được ai giúp đỡ tiến cử.
9. Ôm danh thiếp... nhạt chữ: Hậu Hán thư, Trương Hành truyện chép Trương Hành tới đất Lạc chơi, mang theo một tấm danh thiếp nhưng không có ai để yết kiến mà đưa nên lâu ngày chữ trên tấm danh thiếp phai hết.
10. Lệnh Uy trỡ lại: Hậu Sưu thần ký chép Đinh Lệnh Uy là ngừời Liêu Đông vào núi Linh Hư học đạo, sau hóa thành con chim hạc bay về quê đậu trên cây hoa biểu nói “Hữu điểu hữu điểu Đinh Lệnh Uy, Khứ gia thiên niên kim thủy quy. Thành quách như cố nhân dân phi, Hà bất học tiên gia luy luy" (Có chim có chim Đinh Lệnh Uy, Học đạo ngàn năm nay mới về, Thành quách như xưa người đã khác, Sao chẳng theo tiên hóa hạc đi).
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 11 --
Vị Tiên Họ Thành
(Thành Tiên)

Chu sinh người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) cùng Thành sinh học chung từ nhỏ nên kết thành bạn thân. Thành nhà nghèo, quanh năm phải nhờ vả Chu, so về tuổi thì Chu lớn hơn nên Thành gọi vợ Chu là chị dâu, giỗ tết qua lại như một nhà.

Vợ Chu sinh được một trai thì bị bạo bệnh chết, Chu cưới vợ kế họ Vương, Thành vì nàng nhỏ tuổi nên chưa từng xin gặp mặt. Một hôm em trai Vương thị tới thăm chị, Chu bày tiệc mời ở nhà trong. Gặp lúc Thành tới chơi, người nhà vào báo, Chu sai mời vào. Thành không vào mà từ tạ ra về, Chu bèn dời tiệc ra nhà ngoài rồi đuổi theo gọi Thành quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo tin đầy tớ giữ trại cho nhà Chu bị quan huyện phạt đánh rất đau.

Nguyên là đầy tớ chăn trâu nhà quan Lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu nên đôi bên cãi nhau, tên chăn trâu chạy về báo với chủ bắt đầy tớ của Chu giải lên quan phạt đánh thật nặng. Chu hỏi rõ đầu đuôi rồi nổi giận nói "Thằng đầy tớ chăn lợn họ Hoàng kia sao dám làm thế. Cha nó còn phải hầu hạ ông nội ta, vừa đắc chí đã không coi ai ra gì à?”. Rồi giận sôi lên đứng phắt dậy định qua tìm Hoàng, Thành ấn ngồi xuống nói "Thời buổi ngang ngược này vốn không phân đen trắng, huống chi quan lại ngày nay quá nửa là lũ cướp, chỉ là không cầm giáo đeo cung thôi".

Chu không nghe, Thành năn nỉ mấy lần rơi cả nước mắt mới chịu thôi nhưng vẫn không nguôi giận. Trằn trọc suốt đêm, sáng ra nói với gia nhân "Họ Hoàng khinh ta thì ta tức, nhưng cứ để đó. Còn quan huyện là quan của tnều đình chứ không phải là quan của bọn quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng phải hỏi cả đôi bên chứ sao lại như con chó suỵt đâu chạy đó được? Ta cũng kiện đầy tớ nhà kia xem y phân xử thế nào”.

Đám gia nhân đều vun vào, Chu bèn quyết ý cầm đơn kiện tới gặp quan huyện. Quan huyện xé đơn ném xuống đất, Chu tức giận chửi mắng, quan vừa thẹn vừa tức bèn bắt giam Chu. Gần trưa Thành qua thăm mới biết Chu đã lên huyện thưa kiện, vội đuổi theo cản lại thì Chu đã bị giam vào ngục, giẫm chân không biết làm sao.

Lúc bấy giờ vừa bắt được ba tên giặc biển, quan huyện và Hoàng đút tiền dặn chúng khai Chu là đồng đảng rồi vịn vào đó mà lột mũ áo nhà nho, tra tấn tàn nhẫn. Thành vào ngục thăm nhìn nhau cay đắng, bàn việc lên kinh kêu oan. Chu nói “Nay vướng vào trọng án như chim trong lồng, tuy có chú em yếu ớt cũng chỉ làm được việc đưa cơm tù mà thôi".

Thành sốt sắng nhận đi, nói “Đây là phận sự của ta, lúc có nạn không giúp nhau thì còn bạn bè làm gì". Rồi lập tức lên đường, em Chu định đưa tiền lộ phí thì đã đi lâu rồi. Thành tới kinh đô, chưa biết tới cửa nào kêu thì nghe đồn vua sắp đi săn bèn tính toán núp trong khu chợ gỗ, kế xa giá đi qua liền ra sụp lạy kêu khóc. Sớ được chuẩn xét giao cho dịch trạm chuyển về bộ viện thẩm tra tâu lại.

Lúc ấy vụ án đã qua hơn mười tháng, Chu đã bị khép bừa vào tội hình. Hình viện nhận được ngự phê hoảng sợ, cho thẩm xét lại bản cung khai và lời nghị án. Hoàng cũng sợ, mưu giết Chu bèn hối lộ cho người coi ngục để tuyệt đường cơm nước. Em Chu mang thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt, Thành lại tới Hình viện tố cáo sự khuất khúc, Chu được gia ơn đem ra hỏi cung thì đã đói lả không dậy nổi. Quan Hình viện tức giận cho đánh chết người coi ngục, Hoàng khiếp đảm phải bỏ ra mấy ngàn lượng vàng chạy chọt nên được mập mờ xóa tội, quan huyện thì vì làm trái pháp luật bị đi đày. Chu được thả về, càng phục Thành là can đảm.

Thành sau vụ kiện tụng thì tình đời nguội lạnh bèn rủ Chu cùng đi ở ẩn, nhưng Chu còn đắm đuối vợ trẻ nên nghe nói thì cười là viễn vông, Thành tuy không đáp song đã quyết ý. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy tới, Chu sai qua nhà thăm dò thì người nhà nghĩ rằng đang ở nhà Chu, cả hai nơi đều không thấy mới nghi ngờ. Chu biết là có chuyện lạ, sai người đi dò hỏi khắp các chùa quán hang động, thỉnh thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con Thành.

Tám chín năm sau Thành chợt tìm về, đội khăn vàng mặc áo lông, rõ ràng là đạo sĩ. Chu cả mừng nắm tay hỏi "Anh đi đâu làm ta tìm khắp nơi?", Thành cười đáp “Mây ngàn hạc nội không ở nơi nào nhất định, nhưng sau khi chia tay may vẫn mạnh khỏe”.

Chu sai bày tiệc, nói qua nỗi niềm xa cách, muốn Thành hoàn tục nhưng Thành chỉ cười không nói. Chu bảo "Ngu thay! Sao có thể bỏ vợ con như đôi giày rách được?”. Thành cười nói "Không phải thế, người định bỏ ta chứ ta đâu bỏ được ai?". Hỏi nơi ở, Thành đáp là trên cung Thuợng Thanh núi Lao Sơn. Kế nằm gác chân ngủ, Chu mơ thấy Thành trần truồng đè lên người mình nặng muốn tức thở, kinh ngạc hỏi làm gì nhưng Thành không đáp.

Giật mình tỉnh dậy gọi không thấy Thành lên tiếng, nhỏm dậy mò thì đã đi đâu mất. Lát sau định thần mới biết đang trên giường của Thành, hoảng sợ nói "Tối qua không say mà sao lẫn lộn đến thế này?". Bèn gọi người nhà, người nhà thắp đèn lên thì thấy rõ ràng là Thành. Chu vốn nhiều râu bèn lấy tay sờ thì thấy cằm lơ thơ chỉ có vài sợi, liền cầm gương soi rồi ngạc nhiên nói "Thành sinh ở đây thì ta đi đâu?". Kế sực hiểu ra, biết Thành dùng ảo thuật gọi mình đi ở ẩn, muốn vào phòng vợ nhưng em trai thấy mặt mũi khác hẳn nên ngăn lại không cho. Chu cũng không có cách nào làm rõ liền sai sắp ngựa và đầy tớ đi tìm Thành.

Mấy ngày thì tới núi Lao, ngựa chạy nhanh nên đầy tớ theo không kịp, Chu dừng lại dưới gốc cây chờ. Thấy khách mặc áo lông qua lại rất đông, trong có một đạo nhân đưa mắt nhìn, Chu nhân hỏi Thành thì đạo sĩ cười đáp “Cũng có nghe tên, hình như ở cung Thuợng Thanh”, nói xong bỏ đi. Chu nhìn theo thấy ông ta đi xa khoảng hơn một tầm tên lại dừng lại chuyện trò với một người, cũng chỉ vài câu rồi đi. Người kia dần dần tới gần thì ra là một người bạn học, thấy Chu kinh ngạc hỏi “Bao nhiêu năm không gặp, nghe người ta nói ông lên non học đạo mà nay còn dạo chơi ở nhân gian sao?". Chu kể lại chuyện lạ, người kia giật mình nói “Thế thì ta vừa gặp Thành sinh mà tưởng là ông. Mới đi chưa bao lâu, chắc cũng không xa đâu”.

Chu rất lạ lùng, nói “Quái thật, sao mặt mũi của mình mà nhìn thấy lại không nhận ra được thế?". Người đầy tớ cũng vừa tới, vội đuổi theo nhưng không thấy bóng dáng Thành đâu, nhìn lên chỉ thấy mịt mù xa tắp, không biết nên đi hay về. Kế tự nghĩ không biết về đâu bèn quyết ý đuổi theo tới cùng, nhưng đường cheo leo hiểm trở không đi ngựa được bèn đưa ngựa cho đầy tớ dắt về, lần mò đi tiếp. Thấy xa xa có đứa tiểu đồng ngồi một mình vội rảo bước tới gần hỏi đường, nói rõ duyên cớ. Tiểu đồng tự xưng là đệ tử của Thành rổi mang giúp khăn gói dẫn Chu cùng đi, dãi gió dầm sương lặn lội rất xa, ba ngày mới tới lại không phải nơi thế gian vẫn gọi là cung Thượng Thanh.

Bấy giờ là giữa tháng mười mà hoa rừng nở đầy lối đi, không giống như đầu mùa đông. Tiểu đồng vào báo tin khách tới, Thành lập tức ra đón, Chu mới nhận ra hình dáng của mình. Thành cầm tay dắt vào bày tiệc trò chuyện, Chu thấy có nhiều chim chóc màu sắc lạ lùng dạn dĩ, tiếng như đàn sáo cứ tới đậu ngay chỗ ngồi mà hót, rất lấy làm lạ nhưng lòng trần còn tha thiết không có ý ở lại. Dưới đất trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo cùng ngồi, đến quá canh hai thì muôn mối lo nghĩ đều lặng xuống, chợt như chớp mắt bỗng thấy mình và Thành lại đổi thân hình cho nhau, ngờ vực đưa tay sờ cằm thì thấy rậm râu như cũ.

Sáng ra Chu muốn về ngay, Thành cố giữ lại, qua ba ngày thì nói "Xin cứ nghỉ một lúc, sáng sớm sẽ đưa ông về”. Vừa thiu thiu thì nghe Thành gọi "Hành trang đã sẵn rồi?”, bèn trở dậy theo đi, thấy đường khác hẳn lối cũ.

Không bao lâu thì thấy làng quê hiện ra trước mắt, Thành ngồi đợi bên đường bảo cứ tự về. Chu lôi kéo không được đành lủi thủi đi, về tới cổng nhà gõ không thấy thưa, đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, nhảy một cái đã qua khỏi, vượt mấy lớp tường thấp thì tới phòng ngủ. Thấy bên trong đèn đuốc sáng trưng, vợ còn chưa ngủ mà đang rì rầm trò chuyện với người khác. Chu nhấm nước bọt chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn vào thì ra vợ đang uống rượu với một tên đầy tớ, bộ dạng rất lả lơi. Chu giận sôi lên toan xông vào bắt nhưng sợ có một mình không thắng nổi bèn lặng lẽ lui lại mở cửa chạy ra nói với Thành nhờ giúp sức. Thành hăng hái đi theo thẳng tới phòng ngủ, Chu vác đá đập cửa, bên trong hoảng sợ nháo nhác. Chu càng đập gấp nhưng cửa đóng rất chặt, Thành rút gươm đưa một nhát, cánh cửa toác ra. Chu sấn vào, tên đầy tớ lao ra cửa chạy, bị Thành đứng ngoài vung gươm chém đứt cánh tay tới tận vai. Chu bắt vợ tra vấn mới biết lúc mình bị giam thì nàng đã tư thông với tên đầy tớ, bèn mượn gươm chặt đầu vợ, khoét ruột treo lên cành cây trước sân rồi theo Thành trở ra.

Đang tìm đường về núi chợt giật mình tỉnh dậy thì thấy vẫn còn nằm trên giường, hoang sợ nói “Mộng mị bậy bạ làm rợn cả người”. Thành cười nói “Mơ thì ông cho là thật, thật thì lại cho là mơ”. Chu ngạc nhiên hỏi, Thành đưa gươm ra cho xem thì vết máu vẫn còn, Chu sợ phát khiếp nhưng thầm ngờ là Thành dùng ảo thuật lừa dối. Thành biết ý bèn sắp sửa hành trang đưa Chu về. Phút chốc tới đầu làng, Thành nói "Đêm ấy chảng phải là ta chống kiếm đợi ở đây sao! Ta đã chán cuộc đời nhơ đục, xin lại đợi ông ở đây. Nếu quá trưa mà ông không ra, ta sẽ đi”.

Chu tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điểu như không có người ở, bèn vòng qua nhà em. Em Chu thấy anh thì sa nước mắt kể “Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị rồi khoét ruột bỏ đi, vô cùng thê thảm, đến nay quan lùng bắt chưa được". Chu như chợt tỉnh mộng bèn kể lại tình thật, dặn đừng truy cứu nữa, em Chu sững sờ hồi lâu. Chu hỏi thăm con trai mình, em gọi bà vú bế tới, Chu nói “Đứa nhỏ còn bọc tã lót này quan hệ tới việc nối dõi tông đường, em nên cố chăm sóc chứ anh nay muốn từ giã cõi trần rồi”.

Rồi đứng lên đi ra, em trai nước mắt giàn giụa đuổi theo giữ lại, Chu chỉ cười đi thẳng không ngoái lại. Ra tới ngoài làng gặp Thành liền cùng đi, đi xa mới quay lại dặn “Ở đời thì việc nhẫn nhục là vui nhất”. Em còn muốn nói thì Thành khoát tay một cái, lập tức không thấy đâu nữa, bèn ngẩn ra hồi lâu rồi khóc lóc trở về.

Em Chu là người chất phác vụng về, không biết coi sóc người nhà làm ăn nên qua vài năm nhà càng nghèo, con Chu dần lớn lên không thể đón thầy nên phải tự mình dạy cháu học.

Một hôm sáng sớm tới phòng sách, thấy trên bàn có một phong thư dán kín, ngoài đề gởi em trai. Cầm xem thì đúng là nét chữ của anh, mở ra thì trong không chẳng có gì, chỉ thấy một cái móng tay dài khoảng hai đốt tay, lấy làm kỳ quái. Bèn đặt cái móng lên nghiên mục rồi bước ra hỏi người nhà thư từ đâu tới nhưng không ai biết, quay vào nhìn thì cái nghiên đá đã biến thành vàng lóng lánh, vô cùng ngạc nhiên, đem thử lên đồng sắt đều như thế.

Từ đó giàu to, đem ngàn vàng cho con Thành, vì thế người ta đồn rằng hai nhà này có thuật điểm kim.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 12 --
Vương Thành
(Vương Thành)

Vương Thành là con nhà thế tộc cũ ở Bình Nguyên (phủ thành Tế Nam tỉnh Sơn Đông), tính rất lười biếng nên sinh sống ngày càng chật vật, chỉ còn mấy gian nhà nát, vợ chồng ngủ trong ổ xơ gai, oán trách nhau thậm tệ.

Gặp lúc giữa mùa hè nóng nực, trong làng có cái vườn của họ Chu, tường vách đổ nát chỉ còn một ngôi đình, người làng nhiều kẻ tới ngủ nhờ, Vương cũng trong số đó. Sáng ra mọi người đã đi cả, mặt trời lên cao ba con sào Vương mới dậy, dùng dằng định về thì nhặt được chiếc thoa vàng trong đám cỏ, trên có khắc hàng chữ nhỏ "Phủ Nghi tân chế tạo".

Ông nội Vương là Nghi tân Hành phủ*, vật cũ trong nhà phần nhiều đều có dấu hiệu ấy, vì vậy Vương cầm chiếc thoa ngần ngừ. Chợt có một bà già tới tìm chiếc thoa, Vương tuy rất nghèo nhung không tham vặt bèn đưa ra trả lại.

* Nghi tân Hành phủ: Hành phủ tức Hành Cung vương Chu Hựu Huy, con thứ sáu vua Hiến tông nhà Minh, được phong tước vương năm Thành Hóa thứ 13 (1477), đến năm Hoằng Trị thứ 13 (1500) đời vua Hiếu tông được ra làm phiên vương ở Thanh Châu. Nghi tân là từ gọi chung con rể, cháu rể các thân vương thời Minh.

Bà già mừng rỡ cảm tạ, nói "Chiếc thoa không đáng bao nhiêu nhưng đây là kỷ vật của ông nhà ta để lại”, Vương hỏi “Cụ nhà là ai?”, bà già đáp là Nghi tân Vương Giản Chi trước kia. Vương giật mình nói “Đó là ông nội ta, sao bà gặp gỡ được?”. Bà già cũng giật mình nói "Ngươi là cháu nội Vương Giản Chi sao? Ta là hồ tiên, một trăm năm trước có gần gũi với ông nội ngươi, sau khi ông mất thì lão thân ở ẩn, qua ngang đây đánh rơi chiếc thoa lại vào tay ngươi, không phải là số trời sao?”.

Vương cũng từng nghe nói ông nội có vợ hồ nên tin lời, nhân mời tới nhà chơi, bà già bèn đi theo. Vương gọi vợ ra chào, bà già thấy áo rách đầu bù, mặt mày xanh xao hốc hác bèn than rằng "Ôi, con cháu Vương Giản Chi lại nghèo khổ đến thế này ư!”. Lại nhìn gian bếp hư nát không nổi lửa mà nói “Gia cảnh thế này lấy gì để sống?". Vợ Vương bèn kể hết nỗi khổ, nghẹn ngào rơi lệ, bà già đưa chiếc thoa cho nàng bảo đem cầm lấy tiền đong gạo, ba ngày nữa sẽ tới thăm. Vương cố giữ lại, bà nói "Ngươi chỉ có một vợ mà nuôi không nổi, ta ở lại đây thì chỉ ngồi ngắm xà nhà chứ có ích gì?" rồi đi thẳng.

Vương kể lại đầu đuôi, vợ sợ lắm nhưng Vương ca tụng ơn nghĩa của bà già, dặn phải thờ bà như mẹ, vợ vâng dạ. Ba ngày sau quả nhiên bà già tới, đưa mấy đồng vàng bảo đong gạo và bột mì mỗi thứ một thạch, tối đến cùng vợ Vương nằm chung trên một cái giường nhỏ. Vợ Vương lúc đầu sợ sệt nhưng xét tình ý thấy bà rất trìu mến nên cũng không ngờ vực gì nữa. Hôm sau bà nói với Vương "Cháu đừng lười, nên tìm một nghề mọn mà làm chứ ngồi ăn không làm sao lâu dài được?”. Vương thưa là không có vốn, bà nói “Lúc ông nội ngươi còn sống thì vàng lụa cứ mặc ý mà lấy, nhưng vì ta không phải là người trần, không cần tới các thứ ấy nên không lấy nhiều, chỉ để dành bốn mươi lượng vàng làm tiền phấn sáp. Đến nay vẫn còn, cất lâu cũng chẳng làm gì, ngươi cứ đem đi mua hết vải cát rồi mang gấp vào kinh, có thể lãi chút ít”.

Vương vâng lời, mua hơn năm mươi tấm mang về, bà già bảo thu xếp hành trang, tính độ đường khoảng sáu bảy ngày là tới Yên Kinh, dặn rằng “Phải siêng đừng lười, phải gấp đừng hoãn, chậm mất một ngày, ăn năn đã muộn”. Vương kính cẩn vâng dạ, xếp hàng vào bọc lên đường.

Dọc đường gặp mưa, áo giày ướt sũng, Vương bình sinh chưa trải sương gió nên mệt quá bèn nghỉ tạm lại quán trọ, không ngờ mưa cứ tầm tã đến tối, nước trên máng xối rót xuống như dây thừng. Qua đêm đường càng lầy lội, thấy người đi đường bùn ngập lút cổ chân, trong lòng rất nản. Chờ đến trưa đường mới hơi mới hơi khô ráo, nhưng mây đen lại kéo tới, lại đổ mưa lớn, phải ngủ qua đêm nữa mới đi được.

Gần tới kinh nghe đồn vải cát đang có giá, trong lòng mừng thầm nhưng vào tới kinh thành ghé lại quán trọ thì chủ trọ rất tiếc vì Vương tới chậm. Trước đó đường giao thông với phía Nam mới mở, vải cát tới rất ít, các nhà giàu sang trong kinh lại thường mua nhiều nên giá đắt gấp ba, nhưng trước đó một ngày thì những người buôn vải cát đổ tới đông nghẹt nên giá sụt hẳn, những người tới sau đều thất vọng.

Chủ trọ nói rõ cho Vương biết, Vương ưu uất không vui. Qua một ngày vải cát tới càng nhiều, giá càng sụt, Vương thấy không có lãi nên không chịu bán. Nấn ná hơn mười ngày, tiền ăn ở tính ra đã tốn khá nhiều, càng thêm lo buồn. Chủ trọ khuyên nên bán rẻ để tính cách khác, Vương nghe theo bán tháo hết, lỗ vơn mười lượng. Sáng dậy sớm định ra về, mở túi ra xem thì tiền đã mất sạch, phát hoảng nói với chủ trọ, chủ trọ cũng không biết làm sao.

Có người khuyên lên kêu với quan bắt chủ trọ bồi thường, Vương than “Đó là số phận của ta chứ chủ trọ có lỗi gì?”. Chủ trọ nghe thế rất cám ơn Vương, tặng năm lượng vàng rồi an ủi khuyên về. Vương nghĩ không còn mặt mũi nào gặp lại bà nội, loanh quanh ra vào không biết tính sao.
Chợt thấy có bọn chọi chim thuần, mỗi lần chọi đặt cuộc tới mấy ngàn, mua một con chim thuần có khi hơn trăm quan tiền. Vương chợt động tâm, tính lại tiền túi thì chỉ đủ buôn chim thuần, bèn bàn với chủ trọ. Chủ trọ hết súc vun vào, lại hứa cho ăn ở không phải trả tiền. Vương mừng bèn đi, mua một gánh chim thuần trở lại kinh thành, chủ trọ cũng mừng, chúc cho bán đắt hàng.

Đến đêm mưa to đến sáng sớm, khi trời sáng nước trên đường chảy như sông mà mưa vẫn chưa ngớt, Vương ngồi chờ tạnh mà mưa liên tiếp mấy ngày không ngớt. Dậy nhìn thì thấy chim thuần trong lồng chết dần. Vương sợ lắm mà không biết làm sao. Đến hôm sau thuần chết càng nhiều, chỉ còn vài con bèn dồn chung vào một lồng, qua đêm lại ra xem thì chỉ còn một con sống. Bèn vào nói với chủ trọ, bất giác sa lệ, chủ trọ cũng ái ngại. Vương tự liệu hết tiền không về được chỉ muốn tìm đường chết, chủ trọ khuyên giải an ủi, kế cùng ra xem con thuần, ngắm kỹ rồi nói "Hình như là một con chim hay, những con kia biết đâu không phải do bị nó chọi chết? ông đang rảnh rỗi cứ tập luyện cho nó, nếu quả là chim hay thì mang đi đánh cuộc cũng mưu sinh được", Vương theo lời.

Khi con chim đã thuần, chủ trọ bảo đem ra phố đánh cuộc lấy rượu thịt. Con thuần rất khỏe, chọi lần nào cũng thắng, chủ trọ mừng rỡ đưa tiền cho Vương bảo đánh cuộc với đám con em nhà giàu, ba lần chọi ba lần thắng. Khoảng nửa năm thì tích cóp được hai mươi lượng vàng, trong lòng cũng được an ủi, coi con thuần như tính mạng của mình.

Trước đó có thân vương nọ thích chọi chim thuần, hàng năm cứ đến tiết Thuợng nguyên lại cho những người chơi chim thuần trong dân gian đem tới vương phủ để chọi. Chủ trọ nói với Vương "Nay thì có thể trở thành đại phú ngay, có điều không biết vận số của ông ra sao”. Bèn nói rõ sự tình rồi dắt Vương đi, dặn “Nếu thua thì đành im lặng đi ra thôi, còn vạn nhất con thuần này thắng ắt vương sẽ hỏi mua, ông đừng nhận lời, nếu vương ép thì cứ nhìn vào ta, lúc nào ta gật đầu hãy bán”, Vương vâng dạ.

Tới vương phủ thì những người chọi chim đã chen vai dưới thềm, giây lát vương ngự ra điện, tả hữu truyền ai có chim thuần muốn chọi thì lên. Lập tức có một người xách lồng lên điện, vương sai thả thuần ra, khách cũng thả. Mớỉ bay nhảy mổ đá qua loa, thuần của khách đã thua chạy, vương cả cười, trong giây lát đã có mấy người thua. Chủ trọ nói “Đến lúc rồi!", rồi cùng nhau lên điện. Vương nhìn con thuần của Thành, nói “Tròng mắt có vằn máu giận dữ, con thuần này khỏe lắm, không thể coi thường”, rồi sai đem con Thiết chủy ra chọi. Mới bay nhảy đấu đá vài hiệp thì lông con thuần của vương đã rụng tơi tả, vương sai chọn con hay hơn đem ra, hai lần thay đều thua. Vương vội sai lấy con Ngọc thuần trong cung, giây lát đem ra, thấy lông trắng như cò, thần thái mạnh mẽ khác thường, Vương Thành nao núng quỳ xuống xin thôi, nói “Thuần của đại vương là chim thần, sợ giết mất chim ta thì ta mất nghiệp!”.

Vương cười nói "Cứ cho chọi đi, nếu chết ta sẽ đền bù thật hậu!". Thành bèn thả thuần ra, con Ngọc thuần xông thẳng vào. Lúc con Ngọc thuần đang sấn vào thì con thuần của Thành nằm phục xuống như con gà dữ để đợi, con Ngọc thuần mổ mạnh một cái thì nó vùng bay lên như con hạc đánh lại, tiến lui lên xuống cầm cự một lúc thì con Ngọc thuần đuối dần mà con thuần của Vương càng hăng máu đánh ráo riết, không bao lâu bộ lông tuyết của Ngọc thuần rụng tơi tả, cụp cánh chạy trốn.

Cả ngàn người đúng xem ai cũng khen ngợi. Vương bảo bắt con thuần của Thành, đích thân xem xét từ đầu mỏ đến móng chân một lượt rồi hỏi “Con thuần này ngươi có bán không?”. Thành đáp "Tỉểu nhân không có tài sản gì, phải nhờ vào nó mà sống nên không dám bán". Vương nói "Ta sẽ trả giá cao cho ngươi có một gia tư bậc trung, có bằng lòng không?” Thành cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi nói “Thật vốn không muốn bán, nhưng đại vương đã thích, vả lại nếu cho tiểu nhân được có ăn có mặc thì còn muốn gì hơn".

Vương hỏi giá, Thành xin ngàn lượng vàng, vương cười nói “Gã ngốc này, nó có phải châu ngọc gì mà giá ngàn vàng”. Thành nói "Đại vương không cho nó là quý báu nhưng đối với thần thì ngọc bích liên thành cũng không hơn được”, Vương hỏi vì sao, Thành đáp “Tiểu nhân đem nó ra chợ, mỗi ngày được vài đồng đổi lấy đấu gạo, một nhà mười miệng ăn không phải lo đói rét, còn của báu nào bằng". Vương nói "Ta không để ngươi thiệt, thôi trả ngươi hai trăm” Thành lắc đầu. Vương lại trả thêm một trăm, Thành nhìn chủ trọ không thấy tỏ vẻ gì bèn nói "Thừa mệnh đại vương, xin bớt một trăm. Vương nói "Thế thì thôi vậy, ai mà đem chín trăm luợng vàng mua một con chim thuần?".

Thành cho thuần vào lồng định đi thì vương gọi "Anh chọi chim lại đây, anh chọi chim lại đây” Ta trả sáu trăm, chịu thì bán, không chịu thì thôi vậy”. Thành lại nhìn chủ trọ nhưng chủ trọ vẫn điềm nhiên. Thành trong bụng đã thỏa mãn, chỉ sợ bỏ qua cơ hội bèn nói “Với cái giá ấy thì thật không được vừa ý, nhung đã bàn việc mua bán mà không thành e lại mắc tội lớn, bất đắc dĩ xin vâng lệnh đại vương. Vương mừng rỡ sai cân vàng đưa ngay. Thành nhận vàng, lạy tạ đi ra. Chủ trọ bực tức nói “Ta dặn thế nào mà ông hấp tấp như thế? Nếu kèo nài thêm một chút thì có tám trăm rồi!”.

Thành về nhà trọ đặt vàng lên bàn mời chủ trọ tự lấy. Chủ trọ không chịu, Thành ép mãi mới đem bàn tính ra tính toán nhận tiền ăn ở. Thành sắp xếp hành lý trở về, tới nhà kể lại những việc đã qua, lấy vàng ra chúc mừng nhau. Bà già bảo mua ba trăm mẫu ruộng tốt, xây nhà cửa sắm đồ đạc, nghiễm nhiên là nhà thế gia.

Bà già dậy sớm đôn đốc Thành coi việc cày bừa, vợ coi việc canh cửi, hơi lơ là thì quát mắng nhưng vợ chồng vẫn lễ phép không dám tỏ lời hờn oán. Qua ba năm nhà càng giàu lên, bà già từ biệt định đi, vợ chồng cùng cố giữ, chảy cả nước mắt bà mới ở lại. Sáng ngày vào hầu thì đã biến mất.

Dị Sử thị nói:Người ta giàu có đều nhờ chăm chỉ, đây lại riêng nhờ lười biếng, cũng là việc rất chướng tai. Nhưng không biết rằng kẻ kia nghèo thấu xương mà lòng chí thành không thay đổi nên trời ban đầu thì bỏ mà về sau lại thương đấy, chứ trong bọn lười biếng há có được kẻ giàu sang sao!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 13 --
Thanh Phượng
(Thanh Phượng)

Họ Cảnh ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) là nhà đại gia cũ, nhà cửa rộng rãi. Về sau sa sút, lầu viện san sát bỏ hoang đến quá nửa, vì vậy sinh ra nhiều điều quái dị. Cửa vào sảnh đường cứ tự mở tự đóng, người nhà lắm khi nửa đêm lại hoảng sợ kêu la. Cảnh lo lắng dời qua ở nơi khác, chỉ để lại một người đầy tớ già coi giữ, vì thế nhà cửa càng thêm hoang tàn, có người còn nghe thấy cả tiếng nói cười đàn hát ở trong.
Cảnh có người cháu ruột tên Khứ Bệnh, tính ngông nghênh không chịu bị câu thúc, dặn người đầy tớ già hễ nghe thấy chuyện gì thì báo cho mình biết ngay. Một đêm ông ta thấy trên lầu có ánh đèn lúc sáng lúc tắt vội tới báo, sinh nghe thế muốn vào xem chuyện lạ, ai cản cũng không được.
Sinh vốn biết rõ cửa ngõ trong nhà bèn rẽ cỏ lần đường, vòng vèo đi vào. Lên tới trên lầu vẫn chẳng thấy gì lạ, băng qua lầu đi vào tiếp thì nghe có tiếng nói xì xào nói chuyện. Lén nhìn vào thấy hai ngọn đuốc lớn thắp song song sáng trưng như ban ngày, có một ông già mặc áo nhà nho ngồi trên ghế chủ nhân, một bà già ngồi đối diện, đều khoảng hơn bốn mươi tuổi. Ghế dưới là một thiếu niên khoảng hai mươi tuổi, bên phải là một cô gái tuổi mới cập kê, trên bàn đầy rượu thịt, đang vui vẻ chuyện trò.
Sinh đột ngột bước vào, cười kêu lên rằng “Có một người khách không mời mà tới này!". Cả bọn hoảng hốt chạy trốn, riêng ông già bước ra quát hỏi là ai mà dám xông vào khuê phòng nhà người ta?. Sinh đáp "Đây là khuê phòng nhà ta, ông đã chiếm cứ còn đem rượu ngon uống riêng với nhau, không mời qua chủ nhà một câu thì cũng quá keo kiệt đấy”.
Ông già ngắm kỹ sinh một lượt rồi nói “Không phải chủ nhân mà”. Sinh nói "Ta là học trò ngông tên Cảnh Khứ Bệnh, cháu ruột chủ nhân đây”. Ông già vội kính cẩn đáp “Lâu nay vẫn nguỡng mộ danh tiếng Thái Sơn Bắc đẩu!”. Bèn chắp tay mời sinh vào, gọi người nhà bày mâm mới, sinh ngản lại, ông già bèn rót rưựu mời khách. Sinh nói “Chúng ta là người quen, đâu cần tránh mặt khách, xin mời cả nhà ra cùng uống với nhau”.
Ông già gọi "Hiếu Nhi", giây lát thiếu niên bước vào, ông già nói “Đây là thằng con ta", thiếu niên vái chào rồi ngồi xuống. Hỏi thăm về gia thế, ông già tự xưng họ Hồ tên Nghĩa Quân. Sinh vốn tính hào phóng, chuyện trò rất say sưa, Hiếu Nhi cũng là người không câu nệ, nói chuyện một hồi đã thấy ưa thích nhau. Sinh hai mươi mốt tuổi, hơn Hiếu Nhi hai tuổi, nên gọi y là em.
Ông già nói "Nghe nói ông tổ ông ngày xưa có soạn Ngoại truyện về họ Đồ Sơn, ông có biết không?”. Đáp “Có biết". Ông già nói “Bọn ta là dòng dõi họ Đồ Sơn đây. Từ đời Đường trở về sau, gia phả còn nhớ được, nhưng từ đời Ngũ đại về trước thì không được truyền lại. Xin Công tử chỉ giáo cho”. Sinh kể qua công trạng của cô gái họ Đồ Sơn giúp vua Vũ thuở xưa, thêm thắt nhiều lời, tường thuật trôi chảy.
Ông già cả mừng nói với con trai "Hôm nay may mắn được nghe nhũng điều chưa từng nghe bao giờ. Công tử đây cũng chẳng phải người lạ, con vào mời mẹ và Thanh Phượng ra cùng nghe, cũng là để biết công đức tổ tiên". Hiếu Nhi vào trong một lúc thì bà già và cô gái bước ra. Sinh nhìn kỹ thấy cô gái vóc dáng mảnh mai yêu kiều, đôi mắt sóng thu lóng lánh, trên đời không ai đẹp bằng. Ông già chỉ bà già nói "Đây là vợ ta”, lại chỉ cô gái nói “Đây là Thanh Phượng, cháu gọi ta bằng chú, cũng hơi sáng dạ, nghe qua chuyện gì đều nhớ không quên, nên gọi ra cho nghe cùng".
Sinh nói chuyện xong bèn uống ruợu, nhìn cô gái đăm đăm không rời mắt. Cô gái biết ý cúi đầu, Sinh ngầm đạp lên giày nàng, nàng vội rút chân về nhưng không hề có nét giận dữ. Bấy giờ sinh thần hồn bay bổng, không tự chủ được nữa, vỗ bàn nói “Được người vợ thế này, có đổi cho làm vua cũng không thèm!”. Bà già thấy sinh đã hơi say lại thêm ngông, bèn cùng cô gái đứng dậy bước vào trong. Sinh mất hứng bèn chào ông già ra về, nhung vẫn vấn vương không sao quên được Thanh Phượng, đến đêm lại tới thì còn ngửi thấy mùi hương thơm phức mà đợi suốt đêm vẫn yên ắng.
Về bàn với vợ dời nhà qua ở đó, mong có ngày gặp lại nhưng vợ không nghe. Sinh bèn dọn qua một mình, ở dưới lầu đọc sách. Đêm đang ngồi ở bàn thì một con ma xỏa tóc bước vào, mặt đen như sơn trợn mắt nhìn, sinh cười nhúng ngón tay vào nghiên mực tự bôi lên mặt trố mắt nhìn lại, con ma xấu hổ bỏ đi.
Đêm hôm sau, lúc khuya vừa tắt đèn định đi nằm thì nghe sau lầu có tiếng mở then rồi có tiếng kẹt cửa, sinh vội trở dậy xem thì thấy cánh cửa hé mở. Lát sau nghe có tiếng giày bước khe khẽ, có ánh đèn trong phòng chiếu ra, nhìn qua thì là Thanh Phượng. Bất chợt thấy sinh, nàng hoảng hốt quay vào đóng ngay cửa sổ lại. Sinh quỳ mọp xuống năn nỉ “Tiểu sinh không nề nguy hiểm thật chỉ vì nàng. May gặp lúc không có ai, xin được cầm tay cười một tiếng thì có chết cũng không hối hận”. Cô gái từ trong nói ra "Thâm tình khăng khít sao thiếp không biết, nhung chú giáo huấn rất nghiêm nên không dám vâng mệnh". Sinh cố van nài, nói "Cũng chẳng dám mong được thân cận, chỉ xin cho thấy nhan sắc một lần cũng đủ”. Cô gái như xiêu lòng bèn mở cửa bước ra nắm cánh tay sinh kéo dậy. Sinh mừng quýnh, đưa nhau xuống dưới lầu, ôm ghì lấy đỡ ngồi lên gối. Nàng nói “Cũng may có chút túc duyên nhưng qua đêm nay thì dù có nhớ nhau cũng vô ích".
Sinh hỏi vì sao, nàng đáp “Chú thiếp sợ chàng ngông nên giả làm quỷ dữ để dọa mà chàng không sợ, hôm nay tính dọn đi nơi khác. Cả nhà đã mang đồ dùng tới nơi ở mới, chỉ còn thiếp ở lại coi giữ, sáng mai sẽ đi", dứt lời muốn đi, nói sợ chú về. Sinh cố giữ lại, muốn cùng giao hoan. Đang níu kéo nài nỉ thì ông già sấn vào, Cô gái vừa thẹn vừa sợ không biết làm sao, chỉ cúi đầu đứng tựa thành giường mân mê dải áo không nói gì.
Ông già giận dữ nói "Con tiện tỳ làm nhơ nhuốc danh giá nhà ta! Không đi ngay thì roi quất vào lưng bây giờ!". Cô gái cúi đầu bước mau đi, ông già cũng bỏ ra. Sinh theo sau nghe tiếng chửi mắng không ngớt rồi có tiếng Thanh Phượng khóc rưng rức, lòng đau như cắt liền nói lớn “Tội lỗi là do tiểu sinh, chứ Thanh Phượng dính líu gì vào đó? Cứ tha cho Phượng, bao nhiêu gươm đao rìu búa tiểu sinh xin chịu cả”. Một lúc lâu thấy yên ắng, sinh bèn đi ngủ.
Từ đó trong nhà không còn nghe thấy tăm hơi gì nữa. Chú sinh được tin lấy làm lạ, vui lòng bán rẻ khu nhà cho, sinh mừng rỡ đem cả gia quyến dọn sang, rất vừa ý nhà mới nhưng vẫn chưa lúc nào quên được Thanh Phuợng. Gặp tiết Thanh minh sinh đi tảo mộ trở về, thấy hai con chồn con bị chó đuổi riết, một con nhảy vào bụi rậm trốn mất còn một con thì cuống quýt trên đường, nhìn thấy sinh thì sán lại kêu thương, cụp tai cúi đầu như cầu cứu. Sinh thương xót mở vạt áo ra bọc vào đem về, tới nhà đóng cửa đặt lên giường thì ra là Thanh Phượng.
Sinh mừng rỡ thăm hỏi, nàng đáp "Vừa rồi đang cùng đứa tỳ nữ đùa giỡn thì gặp phải nạn lớn, nếu không có chàng chắc đã chôn thây trong bụng chó rồi. Mong chàng không vì khác loài mà ghét bỏ". Sinh nói "Ngày đêm tưởng nhớ canh cánh bên lòng, gặp được nàng như được của báu, sao lại nói là ghét bỏ". Cô gái nói "Đây cũng là số trời. Nếu không gặp chuyện nguy nan thì làm sao được theo nhau? Nhưng cũng may là đứa tỳ nữ ắt cho là thiếp đã chết, có thể cùng kết nghĩa lâu dài được".
Sinh mừng, dọn một phòng riêng cho nàng ở. Được hơn hai năm, một đêm sinh đang đọc sách chợt Hiếu Nhi bước vào Sinh ngừng đọc ngạc nhiên hỏi từ đâu tới. Hiếu Nhi quỳ rạp xuống đất buồn thảm nói "Cha ta gặp nạn bất ngờ, ngoài ông không ai cứu nổi, định tự tới cầu khẩn nhưng sợ ông không chịu nên cho ta đi thay". Sinh hỏi là việc gì, Hiếu Nhi đáp "Công tử có quen Tam lang họ Mạc không?”. Sinh nói "Đó là bạn đồng niên với ta”. Hiếu Nhi nói “Ngày mai y sẽ đi qua đây, nếu có mang một con chồn săn được thì mong ông giữ lại cho". Sinh đáp "Chuyện nhục nhã dưới lầu trước đây vẫn canh cánh không quên, việc khác thật không dám nghe tới. Nếu muốn ta đem sức hèn ra giúp thì phi Thanh Phượng tới không xong". Hiếu Nhi rơi lệ nói “Em Phượng* chết ngoài đồng ba năm nay rồi”. Sinh rũ áo nói “Nếu thế càng hận sâu hơn thôi”, rồi cầm sách cao giọng ngâm nga, không nhìn tới nữa.

* Em Phượng: cả hai bản Hương Cảng và Đài Bắc đều khàc là "Phượng muội”, tục lệ Trung Hoa, anh em cô cậu, chú bác ai sanh trước làm anh chị.

Hiếu Nhi đứng dậy khóc lạc cả giọng, ôm mặt đi mất. Sinh tới chỗ Thanh Phượng ở kể cho nàng nghe, nàng thất sắc hỏi "Thế có cứu không?", sinh đáp “Cứu thì cứu rồi, nhưng vừa rồi không nhận lời là để trả đũa chuyện ngang nguợc ngày trước đã”. Cô gái mới mừng nói "Thiếp mồ côi từ nhỏ, nhờ chú nuôi nấng mới trưởng thành. Ngày ấy tuy ông đắc tội với chàng nhưng cũng là phép nhà phải thế”. Sinh nói "Phải rồi, nhưng cũng làm người ta không khỏi ấm úc, nếu nàng chết thật thì nhất định không cứu đâu”. Nàng cười nói đáp "Nhẫn tâm thật”.

Hôm sau quả nhiên Tam lang họ Mạc tới, yên ngựa khảm vàng, túi cung da cọp, tôi tớ theo hầu rất oai vệ. Sinh ra cửa đón thấy săn được rất nhiều cầm thú, trong có một con chồn đen, máu ướt đẫm cả lông. Sờ xem thấy da thịt còn ấm bèn nói thác là áo cừu bị rách, hỏi xin để vá. Mạc khẳng khái cởi dây tặng cho, sinh lập tức trao cho Thanh Phượng rồi ra uống rượu với khách.

Khách về rồi cô gái ôm con chồn vào lòng, ba ngày thì sống lại, xoay trở rồi biến thành ông già. Ngước mắt nhìn thấy Phượng, ngỡ không còn ở giữa cõi trần, Cô gái kể lại mọi chuyện, ông bèn sụp lạy sinh, thẹn thùng tạ lỗi trước rồi vui vẻ nhìn cô gái nói "Ta vẫn nói là ngươi không chết, nay quả thế thật". Cô gái nói với sinh "Chàng như có lòng nghĩ tới thiếp, thì xinh cho mượn chỗ ngôi lầu để thiếp được báo đáp chút riêng về ơn nuôi nấng". Sinh ưng thuận, ông già bẽn lẽn từ biệt ra đi, đến tối quả đưa cả nhà lại.
Từ đó như cha con một nhà, không còn nghi ngờ oán ghét nhau nữa. Sinh ở chỗ phòng sách, Hiếu Nhi thỉnh thoảng tới chuyện trò. Con trai mà vợ lớn của sinh sinh ra dần lớn lên bèn nhờ Hiếu Nhi dạy dỗ, vì ôn tồn khéo dạy học, có phong độ người thầy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 14 --
Bộ Da Vẽ
(Họa Bì)

Vương sinh nguời Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) sáng sớm ra đường gặp một nữ lang ôm bọc quần áo đi mau một mình, có vẻ rất mệt nhọc, vội vượt lên nhìn thì thấy tuổi khoảng đôi tám, dung mạo tuyệt đẹp. Trong lòng ưa thích bèn hỏi "Sao còn sớm mà đã đi lẻ loi một mình thế?”, nàng đáp “Khách qua đường hiểu sao được nỗi lo buổn của kẻ khác, hỏi làm gì cho mệt?”. Sinh hỏi "Nàng có điều gì lo buồn vậy? Nếu giúp được thì ta không từ chối mà". Cô gái buồn bã đáp "Cha mẹ tham tiền bán thiếp cho nhà quan, vợ lớn cả ghen sớm hôm đánh đập chửi mắng làm nhục, không chịu nổi nên phải trốn đi". Sinh hỏi định đi đâu, nàng đáp "Người đi trốn thì làm sao có nơi mà định trước được?". Sinh nói “Tệ xá không xa, mời nàng ghé qua", cô gái mừng rỡ đi theo.

Sinh mang hộ bọc quần áo, đưa nàng cùng về. Cô gái thấy nhà không có ai bèn hỏi sao không có người nhà, sinh đáp đây chỉ là phòng sách thôi, nàng nói "Nơi này tốt lắm. Chàng như thương xót mà cứu giúp thiếp thì xin giữ kín đừng nói với ai". Sinh ưng thuận, kế cùng nàng chung chạ, giấu diếm trong phòng kín qua mấy ngày cũng không ai hay. Sinh nói hé với vợ là Trần thị, vợ ngờ là nàng hầu vợ lẽ của nhà đại gia, khuyên để cô ta đi nhưng sinh không nghe. Ngẫu nhiên đi ngang chợ, gặp một đạo sĩ nhìn sinh kinh ngạc hỏi gặp gì lạ rồi, sinh đáp không có gì cả. Đạo sĩ nói “Người ông đầy tà khí, sao lại nói là không?”, sinh lại cố chối. Đạo sĩ bèn bỏ đi, nói "Mê muội thay, trên đời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà chưa tỉnh ngộ!".

Sinh thấy lời nói lạ lùng cũng hơi ngờ cô gái, nhưng lại nghĩ rõ ràng là một mỹ nữ sao đến nỗi là yêu quái được nên cho rằng đạo sĩ mượn tiếng trừ tà để kiếm ăn. Lát sau về tới nhà học, thấy bên trong đóng chặt không vào được lấy làm ngờ vực, bèn trèo qua chỗ tường lở vào thì cửa phòng cũng đóng. Sinh rón rén tới trước cửa sổ nhìn vào, thấy một con quỷ hung ác mặt xanh lè, răng chơm chởm như lưỡi cưa đang trải một tấm da nguời ra giường, lấy bút màu tô lên. Tô xong ném bút nhấc tấm da như tấm áo khoác lên người, liền biến thành cô gái. Sinh thấy thế cả sợ, bò xuống lẻn ra, vội vàng đi tìm đạo sĩ thì không biết đã đi đâu, tìm kiếm khắp nơi mới gặp ngoài đồng, quỳ xuống xin cứu mạng.

Đạo sĩ nói "Xin sẽ đuổi đi giúp ông. Con quỷ ấy cũng khốn khổ mới tìm được người thay, ta cũng không nỡ hại mạng nó”. Liền lấy chiếc phất trần đưa sinh, dặn treo ở cửa phòng ngủ rồi từ biệt, hẹn gặp lại ở miếu Thanh Đế. Sinh về không dám tới nhà học bèn vào phòng vợ ngủ, treo phất trần lên cửa. Khoảng canh một nghe ngoài cửa có tiếng lạch cạch, không dám nhìn bèn bảo vợ ra nhìn xem. Chỉ thấy cô gái tới, thấy chiếc phất trần thì không dám bước tới nữa, đúng nghiến răng hồi lâu rồi bỏ đi. Giây lát lại quay lại mắng "Đạo sĩ chỉ dọa ta! Chẳng lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra à?" Rồi chụp chiếc phất trần bẻ nát, phá cửa sấn vào, lên thẳng giường sinh nằm xé bụng móc lấy quả tim bỏ đi.
Vợ sinh la lên, tỳ nữ vào soi đèn thì sinh đã chết, khoang bụng máu me bê bết, Trần thị sợ khóc không thành tiếng. Hôm sau sai em chồng là Nhị Lang chạy tới kể với đạo sĩ, đạo sĩ tức giận nói “Ta đã thương tình mà con quỷ này lại dám làm thế”. Lập tức theo em sinh tới thì cô gái đã biến mất, bèn ngẩng đầu nhìn quanh rồi nói “May là nó trốn chưa xa”. Lại hỏi dãy nhà phía nam là nhà ai, Nhị Lang đáp “Đó là nhà tiểu sinh”. Đạo sĩ nói “Nó đang ở nhà ông", Nhị Lang ngạc nhiên nói là chưa hề có. Đạo sĩ hỏi "Vậy có ai không quen tới chưa?”. Nhị Lang đáp "Ta tới miếu Thanh Đế nên không biết, để về hỏi lại”.

Rồi đi một lúc thì quay lại nói "Quả là có. Sáng nay có một bà già tới xin làm thuê, vợ ta giữ lại, hiện còn ở đó". Đạo sĩ nói “Chính nó đấy”, liền cùng đi qua, cầm kiếm gỗ đứng giữa sân gọi "Yêu nghiệt ra đền phất trần cho ta!". Bà già trong nhà hốt hoảng tái mặt, ra cửa toan chạy. Đạo sĩ đuổi theo chém ngã lăn ra, tấm da người tuột xuống, bà ta hóa thành con quỷ nằm kêu rống như heo. Đạo sĩ lấy kiếm gỗ chặt đầu, thân nó biến thành đám khói dày xoáy tròn trên mặt đất. Đạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút đặt vào giữa đám khói, nghe kêu vu vu như huýt sáo, trong chớp mắt đám khói mất hết, đạo sĩ nút hồ lô lại bỏ vào túi. Cùng nhìn lại tấm da người thấy đủ cả mày mắt tay chân, đạo sĩ cuốn lại, tiếng kêu như cuốn trục tranh, cũng bỏ vào túi rồi từ biệt toan đi.

Trần thị đón lại lạy lục trước cổng, khóc lóc xin cứu chồng sống lại, đạo sĩ từ tạ là không làm được. Trần thị càng đau xót, quỳ rạp không đứng dậy, đạo sĩ ngẫm nghĩ rồi nói “Phép thuật của ta kém cỏi, thật không làm người chết sống lại được. Ta chỉ cho một người may ra có thể làm được, tới cầu chắc có kết quả”. Hỏi là ai, đạo sĩ đáp “Trong chợ có một người điên hay nằm trên đống phân, thử tới khẩn cầu xem. Nếu y buông tuồng làm nhục phu nhân, xin phu nhân cũng đừng tức giận".
Nhị Lang cũng biết người ấy bèn từ biệt đạo sĩ, cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày đang ngu ngơ ca hát trên đường, nước mũi lòng thòng, vô cùng bẩn thỉu. Trần thị lê gối tới trước mặt, y cười nói “Người đẹp yêu ta à?", Trần thị kể mọi chuyện xong y lại cười lớn nói "Ai cũng là chồng được mà, cứu sống lại làm gì?”. Trần thị cố kêu van, y nói “Lạ thật, ai đâu chết mà nhờ ta cứu sống, ta là Diêm Vương à?", rồi tức giận lấy gậy đánh Trần thị.

Trần thị cắn răng chịu đau, người trong chợ dần xúm lại xem đông nghẹt. Người ăn mày khạc một vốc đờm vào tay rồi dí vào miệng Trần thị nói “Ăn đi!". Trần thị đỏ bừng mặt tỏ vẻ ngần ngại, nhưng nhớ lại lời đạo sĩ dặn bèn nhắm mắt nuốt vào, tới cổ họng thấy vướng như nắm bông, nghèn nghẹn trôi xuống rồi dùng lại ở ức. Người ăn mày cười lớn nói "Người đẹp yêu ta thật!" rồi đứng lên đi thẳng không ngoái lại. Trần thị theo sau thấy y vào trong miếu, bước mau theo để khẩn cầu thì không biết đã đi đâu mất, tìm khắp trước sau không thấy tăm hơi đành vừa thẹn vừa giận trở về.

Đã xót chồng không may chết thảm, lại hối mình chịu nhục nuốt đờm, ôm mặt kêu khóc chỉ muốn chết ngay. Kế chùi máu liệm xác chồng, người nhà cứ đứng xa nhìn không ai dám tới gần, Trần thị ôm thây nhặt ruột, vừa xếp vừa khóc. Khóc đến lúc thất thanh chợt cái vật vướng trong ức trào ra, chưa kịp quay đi nó đã rơi vào trong khoang bụng xác chết. Hoảng sợ nhìn lại thì là một quả tim người đang đập thon thót, hơi nóng bốc nghi ngút như khói, lấy làm lạ vội lấy hai tay khép bụng chồng lại, cố sức giữ chặt, hơi nới tay thì hơi nóng từ khe hở bốc ra, bèn xé lụa buộc mau lại. Sờ vào xác chồng thấy dần dần ấm lại bèn lấy chăn đắp lên, nửa đêm mở ra xem thì thấy mũi có hơi thở.

Đến sáng thì sinh sống lại, nói vừa giật mình như nằm mơ tỉnh dậy, chỉ thấy bụng nhoi nhói đau. Nhìn lại chỗ bị xé rách thấy đóng vẩy to như đồng tiền, sau dần lành lại.

Dị Sử thị nói:Người đời ngu thay! Rõ ràng là yêu quái mà cho là người đẹp. Người ngu mê muội thay! Rõ ràng là lời ngay mà cho là nói bậy. Nhưng mê đắm sắc đẹp mà muốn chiếm lấy, thì vợ cũng phải chịu cái nhục nuốt đờm của người khác. Đạo trời tuần hoàn, nhưng người ngu vẫn mê muội không tỉnh ngộ, đáng thương lắm thay.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 15 --
Đứa Con Người lái Buôn
(Cổ Nhi)

Ông Mỗ người đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) đi buôn xa nhà, vợ ở nhà một mình, đêm mơ thấy ngủ với người lạ, tỉnh dậy sờ thì là một người đàn ông bé nhỏ. Thấy cung cách khác người thường biết là hồ, lát sau y xuống giường đi ra, cửa chưa mở đã biến mất. Đến tối phải bảo bà già nấu bếp vào ngủ chung, có đứa con trai mười tuổi vẫn ngủ riêng cũng gọi vào. Đến khuya bà già và đứa nhỏ đã ngủ thì hồ lại tới, người đàn bà ú ớ như nói mê, bú già hay được la lên, hồ mới đi. Từ đó người đàn bà cứ ngẩn ngơ, đến tối không dám tắt đèn, dặn con đừng ngủ say.

Đến khuya, đứa nhỏ và bà già dựa vào tường ngủ gật một lúc, tỉnh dậy thì người đàn bà biến mất, ngỡ là đi tiểu nhưng chờ lâu không thấy vào mới sinh nghi. Bà già sợ không dám đi tìm, đứa nhỏ cầm đèn đi soi khắp nơi, tới phòng khác thì thấy mẹ trần truồng nằm trong, tới gần đỡ lên cũng không biết xấu hổ.

Từ đó người đàn bà hóa điên, ban ngày ca khóc chửi mắng đủ kiểu, đêm đến không muốn ở chung với ai mà ngủ riêng một phòng, bảo đứa nhỏ và bà già qua ngủ chỗ khác. Đứa nhỏ mỗi khi nghe thấy tiếng mẹ cười nói thì dậy châm lửa soi, mẹ tức giận mắng cũng mặc kệ, mọi người đều khen là gan dạ. Nhưng nó lại nghịch ngợm quá quắt, hàng ngày cứ bắt chước thợ nề lấy gạch đá xếp lên cửa sổ, cản lại thì nó không nghe, vứt gạch đá đi thì nó lăn ra đất kêu khóc nên không ai dám chọc ghẹo.

Qua mấy hôm, hai cửa sổ đều bị lấp kín không còn chút ánh sáng nào lọt vào được, kế nó lại lấy bùn trét kín khe vách bị hở, suốt ngày quần quật không biết mệt. Trét xong lại vớ dao làm bếp mài xoèn xoẹt, ai cũng ghét là buớng bỉnh, không buồn đếm xỉa. Đến nửa đêm đứa nhỏ giấu dao vào bụng, chụp vỏ quả bầu lên ngọn đèn, đợi mẹ nói mê liền vùng dậy mở ra, đứng chặn ngoài cửa phòng kêu ầm lên. Chờ hồi lâu không thấy gì lạ, nó bèn bước ra xa cửa phòng giả nói to là mót tiểu. Chợt có con vật như con mèo từ khe cửa vọt ra, nó chém vội chỉ đứt được khúc đuôi dài khoảng hai tấc, máu chảy ròng ròng. Lúc nó vừa dậy khêu đèn thì mẹ đã mắng chửi, đứa nhỏ cũng làm như không nghe, chém không trúng hồ bực bội đi ngủ lại, tự nghĩ tuy không chém chết được nhưng may ra thì hồ không tới nữa.

Đến sáng ra nhìn thấy vết máu qua tường mà đi, lần theo thấy vào vườn nhà họ Hà, đến đêm quả không thấy gì nữa. Đứa nhỏ mừng thầm nhưng mẹ lại ngủ mê mệt như chết. Không bao lâu người lái buôn về, tới cạnh giường thăm hỏi nhưng vợ chửi mắng coi như kẻ thù. Đứa nhỏ kể chuyện lại, người cha sợ hãi mời thầy cắt thuốc chữa, vợ hắt thuốc chửi rủa, phải ngầm đổ thuốc vào cháo cho uống, mấy ngày mới hơi đỡ, cha con đều mừng.

Một đêm tỉnh giấc thấy người đàn bà đã biến mất, hai cha con qua phòng khác tìm thì bắt gặp. Từ đó lại điên không muốn ngủ cùng phòng vói chồng, cứ gần tối lại chạy qua phòng khác, kéo lại thì càng chửi mắng thậm tệ. Chồng không còn cách nào phải đóng chặt cửa tất cả các phòng khác, nhưug người đàn bà tới thì cửa cứ tự mở. Chồng lo lắng, cầu cúng đủ cách vẫn không hiệu nghiệm. Đứa nhỏ chiều tới lén tới núp trong bụi cỏ rậm ở vườn nhà họ Hà để dò xét chỗ hồ ở.

Trăng vừa lên chợt nghe tiếng người nói, lén vạch cỏ nhìn ra thấy hai người uống rượu, có một người đầy tớ râu dài bưng bầu rượu, mặc áo màu xanh sẫm, tiếng nói rất nhỏ, không nghe được gì. Lát sau nghe một người nói "Ngày mai cứ đem một vò rượu trắng tới đây", giây lát cùng ra đi, chỉ còn người râu dài ở lại, cởi áo nằm trên tảng đá trong đình, nhìn kỹ thấy tay chân đều như người, chỉ có cái đuôi thò ra phía sau. Đứa nhỏ muốn về nhưng sợ hồ biết bèn núp suốt đêm, trời chưa sáng lại nghe thấy hai người lục tục trở lại, thì thào đi vào bụi tre rậm.

Đứa nhỏ trở về, cha hỏi đi đâu nó đáp là ngủ ở nhà bác. Gặp hôm theo cha vào chợ, thấy hàng mũ có treo cái đuôi chồn liền xin cha mua. Cha không nghe, nó cứ kéo áo vòi vĩnh, cha không nỡ phật ý bèn mua cho. Cha buôn bán trong cửa hàng, đứa con nô đùa bên cạnh, nhân lúc cha quay đi bèn lấy cắp tiền đi mua rượu trắng, gửi lại ở quán. Có người cậu ở trong thành vốn làm nghề săn bắn, đứa nhỏ chạy tới nhà cậu thì cậu đi vắng, mợ hỏi thăm mẹ, nó đáp “Mấy hôm nay khỏe hơn, nhưng vì chuột cắn phá quần áo làm mẹ giận kêu khóc không thôi nên sai cháu xin ít thuốc chuột”. Mợ mở hòm lấy ra khoảng một đồng cân gói lại đưa cho, đứa nhỏ cho là ít. Mợ ra nấu mì cho cháu ăn, nó nhân lúc trong phòng không có ai liền mở gói thuốc trộm lấy một vốc giấu vào bọc, kế ra nói với mợ đừng nhóm bếp nữa vì cha đang chờ ở chợ, nó không kịp ăn, rồi đi luôn. Nó lén bỏ thuốc độc vào rượu rồi chơi rong trong chợ, gần tối mới về. Cha hỏi đi đâu, nó nói thác là ở nhà cậu, từ đó hàng ngày đứa nhỏ cứ đi chơi trong chợ.

Một hôm thấy người râu dài cũng chen trong đám đông, đúa nhỏ nhìn kỹ liền theo sát bên, lân la bắt chuyện hỏi thăm quê quán, y đáp ở thôn Bắc rồì cũng hỏi lại, đứa nhỏ bịa đặt đáp là trong hang núi. Người râu dài tỏ vẻ lạ lùng, nó cười nói “Nhà ta đời đời ở hang núi, ông thì không sao?". Người kia càng kinh ngạc hỏi tên họ, đứa nhỏ đáp “Ta là con họ Hồ, hình như đã gặp ông ở đâu rồi, thấy ông đi theo hai chàng trẻ tuổi, ông quên rồi à?”

Người kia nhìn kỹ nó nửa tin nửa ngờ, nó bèn khẽ vạch quần, hơi thò cái đuôi giả ra, nói “Bọn ta trà trộn giữa loài người, chỉ cái này là vẫn còn, thật đáng bực”. Người kia hỏi ra chợ làm gì, nó đáp “Cha ta sai đi mua rượu”, y cũng nói là đi mua rượu. Đứa nhỏ hỏi mua chưa, y đáp “Bọn ta phần lớn đều nghèo nên hay đánh cắp hơn”. Đứa nhỏ nói “Việc ấy cũng khổ, luôn luôn phải lo sợ", người kia nói "Chủ nhân ra lệnh, không thể không làm”. Đứa nhỏ hỏi chủ là ai, y đáp “Là hai anh em mà hôm trước ngươi gặp đấy. Một người dan díu với vợ họ Vương ngoài cửa Bắc, một người ngủ ở nhà ông Mỗ ở thôn Đông, gặp thằng con ông ta dữ quá nên bị chém đứt đuôi mười ngày mới lành, nay lại tới đó rồi”.
Nói xong định từ biệt, nói “Đừng làm hỏng việc của ta”. Đứa nhỏ nói “Đánh cắp khó hơn mua nhiều, ta đã mua trước còn gởi trong quán, xin tặng cho ông. Trong túi ta còn tiền, không lo gì cả”. Người kia thẹn vì không có gì báo đáp, đứa nhỏ nói “Chúng ta vốn cùng loài, tiếc gì bấy nhiêu đó, lúc nào rảnh con phải uống với ông một bữa thật say kia". Liền cùng tới quán lấy rượu đưa cho y rồi về.

Đến đêm thấy mẹ quả ngủ yên không chạy đi nữa, nó biết có chuyện lạ bèn nói với cha cùng tới xem thì thấy có hai con chồn chết trong đình, một con chết trong đám cỏ, máu còn ròng ròng trên miệng, bình rượu cũng có đó, cầm lên lắc thử vẫn chưa hết. Cha kinh ngạc hỏi sao không nói trước, nó đáp “Giống này rất khôn lanh, hơi lộ ra là nó biết ngay”. Cha mừng nói “Con ta quả là Trần Bình đánh hồ* đấy”. Hai cha con bèn mang xác chồn về, thấy một con bị cụt đuôi, vết dao còn rõ. Từ đó mới yên nhưng người đàn bà ngày càng gầy rạc, tỉnh táo dần nhưng ho càng nặng, cứ khạc ra hàng đấu đờm, kế chết. Vợ họ Vương ngoài cửa Bắc trước vẫn bị hồ ám, lúc ấy tới hỏi thì hồ đã dứt mà bệnh cũng khỏi. Cha vì vậy cho rằng đứa nhỏ là đứa trẻ lạ liền cho học cưỡi ngựa bắn cung, sau làm quan tới chức Tổng nhung.

*Trần Bình đánh hồ: Trần Bình là người thời Hán Sở tranh hùng, theo giúp Hán Cao tổ Lưu Bang đánh dẹp, từng sáu lần bày kế lạ giúp Lưu Bang, sau làm tới chức Tả Thừa tướng, được phong là Khúc Nghịch hầu. Đây người cha có ý khen con mưu trí như Trần Bình.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 16 --
Đổng Sinh (Đổng Sinh)

Đổng sinh tự Hà Tư người phía tây phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), chiều tối ngày mùa đông trải chăn đốt lò sưởi xong, định che đèn đọc sách thì có người mời đi uống rượu. Bèn đóng cửa đi tới chỗ bạn thấy trong tiệc có một thầy lang giỏi xem mạch Thái tố, bắt mạch cho tất cả khách khứa, cuối cùng nhìn Vương sinh Cửu Tư và Đổng nói "Ta đã xem cho nhiều người mà không thấy ai có mạch lạ như hai ông. Mạch sang mà có điềm hèn, mạch thọ mà có điềm yểu, thật không phải là điều ta biết được, mà riêng ông Đổng lại càng lạ lắm". Mọi người cùng ngạc nhiên hỏi, ông ta đáp “Thuật của ta chỉ tới đây là hết rồi, không dám đoán mò. Chỉ xin hai ông cẩn thận mà thôi".

Hai người vừa nghe thì sợ lắm, kế lại cho là lời nói mơ hồ nên cũng không để ý nữa. Nửa đêm Đổng về, thấy cửa phòng sách khép hờ rất ngờ vực, nhưng đang lúc say lại nghĩ chắc là lúc đi vội vàng nên quên khóa cửa. Vào phòng chưa thắp đèn, thò tay vào trong chăn sờ trước xem ấm không. Vừa thò tay vào thì thấy mềm mềm như có ai nằm, giật mình rút tay lại rồi vội thắp đèn lên, thì ra là một cô gái tuyệt đẹp, mặt tươi răng trắng không khác thần tiên. Mừng quýnh lấy tay đùa mò xuống phần dưới thì vớ phải một nắm lông đuôi, hoảng sợ toan thạy. Cô gái tỉnh giấc, vươn tay níu cánh tay sinh hỏi “Chàng đi đâu?”.
Đổng càng khiếp sợ run lẩy bẩy, xin người tiên thương mà tha cho. Cô gái cười nói “Thấy cái gì mà cho ta là tiên?”. Đổng đáp “Ta chẳng sợ phần đầu mà sợ phần đuôi".
Cô gái lại cười nói "Đuôi ở đâu ra, chàng lầm rồi". Rồi cầm tay Đổng kéo vào cho sờ lại, thấy da đùi mềm mại như mỡ, xương cụt nhẵn thín. Cô gái cười nói “Thế nào? Rượu say mê mẩn, không rờ thấy cái gì ở đâu mà lại vu cho người ta như thế”. Đổng vốn thích nàng đẹp, đến lúc ấy lại càng mê mẩn, lại tự trách mình lầm. Nhưng vẫn nghi ngờ không rõ vì sao nàng tới đây, cô gái nói “Chàng không nhớ cô nhỏ tóc vàng nhà hàng xóm phía đông sao? Co ngón tay tính lại thì từ lúc nhà đi đến nay đã mười năm rồi, lúc ấy thiếp chưa cài trâm mà chàng cũng còn để tóc trái đào kia”. Đổng sực nhớ ra, hỏi “Nàng là A Tỏa nhà họ Chu phải không?” nàng đáp phải. Đổng nói “Nàng nói ra ta mới mường tượng nhớ lại, mười năm không gặp đã thành người xinh đẹp thế này rồi. Nhưng sao lại tới ngay đây được thế?” Cô gái đáp "Thiếp lấy phải thằng chồng ngu, được bốn năm năm cha mẹ chồng theo nhau qua đời, lại chẳng may chồng cũng mới mất, chỉ còn một mình không nơi nương tựa. Nhớ lại người quen biết thuở nhỏ chỉ có chàng nên cố tìm tới. Vào tới cổng thì trời tối, gặp lúc có người mời chàng đi uống rượu nên núp đợi chàng về. Đợi lâu lạnh cóng nên muợn cái chăn đắp cho ấm lên thôi, xin đừng ngờ vực".

Đổng mừng rỡ cởi áo lên giường cùng ngủ, lấy làm đắc ý lắm, được hơn tháng dần gầy rộc đi, người nhà lấy làm lạ hỏi thì cứ nói là không biết. Lâu sau mặt mũi càng hốc hác, mới sợ hãi tìm tới thầy lang chẩn mạch giỏi trước đây nhờ bắt mạch. Thầy lang nói "Đây là yêu mạch, cái điềm chết yểu ngày trước nay đã nghiệm rồi, không sao chữa được đâu”. Đổng òa khóc không chịu về, thầy lang bất đắc dĩ phải châm cho ở tay, đốt ngải cứu cho ở rốn rồi đưa thuốc cho, dặn "Nếu có gặp ai thì phải cố gắng dứt đi". Đổng cũng tự biết đã nguy, khi về tới nhà cô gái lại cười cợt đòi làm chuyện nọ kia, bèn xẵng giọng nói “Đừng lằng nhằng nữa, ta mà làm việc thì chết luôn đấy”, rồi bỏ đi không ngoái lại. Cô gái cả thẹn cũng tức tối nói “Ngươi còn muốn sống à?".

Đêm đến Đổng uống thuốc rồi ngủ riêng, vừa chợp mắt đã mơ thấy cùng nàng ân ái, tỉnh dậy thì đã di tinh rồi. Càng thêm sợ sệt bèn dời vào ngủ nhà trong, bảo vợ con thắp đèn canh gác, nhưng vẫn mơ thấy như cũ, lén nhìn tới cô gái thì đã đi đâu mất. Được vài hôm, Đổng thổ ra hơn một đấu huyết mà chết.

Vương Cửu Tư đang trong phòng sách thì thấy một cô gái tới, thích vì nàng đẹp nên ăn nằm với nhau. Hỏi từ đâu tới, nàng đáp "Thiếp là láng giềng của Hà Tư, trước đây ông ta với thiếp rất thân mật, không ngờ bị hồ mê hoặc mà chết rồi. Yêu khí của bọn ấy rất đáng sợ, những người đọc sách nên cẩn thận đề phòng”. Vương càng mến phục, bèn ăn ở với nhau rất vui vẻ.

Được vài hôm thì mắc bệnh hôn mê, chợt nằm mơ thấy Đổng về nói "Kẻ đang ăn ở với ông là hồ đấy, đã giết ta rồi lại còn muốn giết hại cả bạn ta nữa. Ta đã kiện nó ở dưới âm ty để rửa hận, trong bảy đêm tới ông nhớ thắp hương ngoài cửa phòng, đừng có quên”. Vương tỉnh dậy lấy làm lạ, nói với cô gái "Ta bệnh nặng quá, sợ sắp chết rồi, có người khuyên nên kiêng chuyện trong phòng”. Cô gái nói “Số được thọ thì gần vợ cũng sống, số không thọ thì không gần vợ cũng chết", rồi xán vào cười cợt khêu gợi, Vương không kìm được lại cùng nàng giao hoan, kế lại hối hận nhưng không sao dứt tình được. Đến tối thấp hương cắm trên cửa phòng, cô gái tới nhổ ra vứt đi, đêm Vương lại nằm mơ thấy Đổng về trách sao không nghe lời dặn.

Đêm sau Vương lén dặn người nhà chờ lúc nàng ngủ rồi hãy lén thắp hương, cô gái đang trên giường chợt hoảng sợ nói “Lại thắp hương à? " Vương nói không biết, nàng vội trở dậy rút hương bẻ rồi dụi đi, kế trở vào hỏi "Ai bảo chàng làm như thế?” Vương đáp “Có khi là vợ ta thấy ta đau ốm nên nghe lời thầy bói làm thế để trừ tà thôi", cô gái thẫn thờ không vui. Người nhà lén nhìn thấy hương tắt lại thắp nén khác, cô gái chợt than "Phúc trạch của ông dày thật. Ta đã lỡ hại Hà Tư rồi tới tư thông với ông, thật là có lỗi. Ta sắp phải cùng ông ta đối chất dưới âm ty, nếu không quên tình ân ái xin đừng làm hỏng cái xác của ta”. Nói xong thong thả bước xuống giường, ngã lăn ra đất mà chết, thắp đèn soi thì là một con chồn. Vương còn sợ nó sống lại liền gọi người nhà lột da treo lên.

Vương bệnh nặng thêm, thấy hồ tớí nói “Ta đã tới kiện ở pháp tòa, pháp tòa cho rằng ông Đổng thấy sắc động tâm thì chết là đáng tội, nhưng buộc tội ta mê hoặc người nên thu mất viên kim đan rồi cho sống lại, vậy xác của ta đâu?”. Vương đáp "Người nhà không biết đã đem lột da mất rồi". Hồ ảm đạm nói “Ta giết người nhiều rồi, nay chết cũng đã muộn, nhưng sao chàng lại nhẫn tâm thế", rồi căm hờn bỏ đi. Vương ốm tưởng nguy, nửa năm mới khỏi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 17 --
Phán Quan Họ Lục
(Lục Phán)

Chu Nhĩ Đán người Lăng Dương (tỉnh An Huy) tự Tiểu Minh, tính hào phóng nhưng tối dạ nên tuy chăm học vẫn không thành danh. Một hôm văn xã hội họp uống rượu, có người đùa nói "Ông có tiếng là hào, nếu đang đêm dám tới đền Diêm Vuơng cõng vị Phán quan ở hành lang bên trái về đây thì mọi người xin mời một bữa rượu”.

Nguyên ở Lăng Dương có đền thờ Diêm Vương, tượng thần đều chạm bằng gỗ, phục sức như sống, hành lang phía đông có tượng Phán quan đứng, mặt xanh râu đỏ trông rất dữ tợn. Có khi đang đêm nghe hai bên hành lang có tiếng tra khảo, ai vào cũng rợn tóc gáy nên mọi người lấy đó thách Chu. Chu cười đứng dậy đi thẳng, không bao lâu ngoài cửa có tiếng gọi lớn "Ta mời tôn sư rậm râu tới đây rồi!".

Mọi người đứng cả dậy thì thấy Chu cõng tượng Phán quan vào đặt lên bàn, bưng chén mời rượu ba lần. Mọi người nhìn thấy co rúm cả lại trên ghế, lại xin cõng đi. Chu lại rót rượu xuống đất khấn "Đệ tử ngông cuồng thô suất, xin đại tôn sư bỏ qua đừng trách. Nhà tranh không xa đây mấy, lúc nào gặp hứng xin cứ tới lấy rượu uống, mong đừng khách sáo”, rồi cõng pho tượng đi. Hôm sau, mọi người quả mời Chu uống rượu, đến tối Chu ngà ngà về nhà chưa hết hứng lại khêu đèn uống một mình.

Chợt có người vén rèm bước vào, nhìn ra thì là Phán quan. Chu đứng dậy nói "Ôi, chắc ta sắp chết rồi, tối hôm qua ta trót xúc phạm nên hôm nay tới để trừng trị phải không?". Phán quan vuốt chòm râu rậm cười khẽ, nói “Không phải thế, hôm qua đội ơn ông hẹn mời, đêm nay may được thong thả xin theo lời hẹn của bậc đạt giả". Chu mừng rỡ kéo áo mời ngồi, tự đi rửa chén khơi lò Phán quan nói "Trời ấm uống rượu lạnh cũng được", Chu theo lời đem vò rượu đặt lên bàn rồi chạy xuống sai người nhà sửa soạn thức ăn. Vợ nghe thế cả sợ bảo đừng ra, Chu không nghe, đứng đợi thức ăn làm xong rồi bưng ra, nâng chén mời xong mới hỏi tên họ.

Phán quan nói "Ta họ Lục, không có tên tự gì cả”, bàn tới chuyện văn chuơng điển tích thấy ứng đáp trôi chảy. Chu hỏi có biết văn chương kinh nghĩa không, ông ta đáp "Cũng có thể phân biệt được hay dở. Việc học hành ở âm ty đại khái cũng giống trên trần thế”. Lục uống rất hào, mỗi lần nâng chén là uống liên tiếp hàng chục chén, Chu vì đã uống suốt ngày nên bất giác gục xuống bàn ngủ khò, lúc tỉnh dậy thì ngọn đèn còn leo lét mà ông khách ma đã đi.

Từ đó cứ hai ba hôm Lục lại tới chơi, ngày càng thân thiết, có khi nằm gác chân lên nhau mà ngủ. Chu đem văn bài cho Lục xem, Lục lấy son sổ hết, chê là không hay. Một đêm Chu say đi ngủ trước, Lục còn ngồi uống một mình, Chu đang ngủ say chợt thấy tạng phủ hơi đau, mở mắt nhìn thì thấy Lục ngồi trước giường mổ bụng mình lôi ruột gan lên sắp lại, ngạc nhiên hỏi "Vốn không có thù oán, sao lại giết nhau?” Lục cười đáp "Đừng sợ, ta thay cho ông quả tim thông tuệ mà thôi", rồi ung dung nhét ruột Chu vào khoang bụng, kéo hai mép lại, sau cùng lấy vải bó chân buộc ngang lưng Chu, xong rồi Chu nhìn tới giường không thấy dây vết máu nào, chỉ hơi ngứa ở bụng. Thấy có một khối thịt trên bàn, hỏi thì Lục đáp "Đó là quả tim của ông. Xem văn ông thấy không được hay, biết rằng tim ông có một khiếu không thông, vừa rồi ta chọn được một quả tim tốt trong ngàn muôn quả dưới âm ty để thay cho ông, còn quả này để bù vào đó", rồi đứng dậy khép cửa đi.

Trời sáng Chu cởi áo xem thì vết rạch đã liền da, chỉ còn như vết chỉ đỏ, từ đó học hành tấn tới, sách vở đọc qua là nhớ không quên. Vài hôm sau đưa văn cho Lục xem, Lục nói “Được rồi, nhưng ông phúc mỏng không hiển đạt lớn được, chỉ đỗ thi hương thôi". Chu hỏi bao giờ đỗ, Lục đáp "Năm nay ắt đỗ đầu" Không bao lâu Chu thi khảo khóa đứng đầu, kế thi huơng cũng lại đỗ đầu. Các bạn học vốn coi thường Chu, đến lúc đọc bài thi của Chu đều nhìn nhau kinh ngạc, hỏi kỹ mới rõ chuyện lạ, bèn nhờ Chu nói trước để xin làm quen với Lục.

Lục nhận lời, mọi người chuẩn bị tiệc rượu thịnh soạn để đợi, hết canh một thì Lục tới, hàm râu đỏ lay động, mắt sáng quắc như chớp. Mọi người khiếp đảm, răng đánh vào nhau lập cập, dần dần rút lui hết. Chu bèn dẫn Lục về nhà cùng uống rượu, khi đã ngà ngà say Chu nói "Được nhờ ơn lớn rửa ruột thay tim, nay lại có việc muốn làm phiền, không biết được không". Lục xin cho biết, Chu nói "Đổi được tim ruột thì trộm nghĩ mặt mũi cũng thay được. Vợ ta thì phần thân thể không đến nỗi xấu, duy mặt mũi thì không được đẹp lắm, nếu muốn phiền đến lưỡi dao của ông thì thế nào?". Lục cười đáp "Được thôi, nhưng để ta tính".

Qua mấy hôm, nửa đêm Lục tới gọi cửa, Chu vội trở dậy mời vào, thắp đèn lên thấy có bọc một vật trong vạt áo. Hỏi thì Lục đáp "Hôm trước ông dặn kể cũng khó tìm, nhưng vừa may được cái đầu mỹ nhân, xin đem tới để phụng mệnh”. Chu mở ra xem, thấy máu trên cổ còn ướt. Lục giục vào ngay đừng để gà chó kinh động. Chu lo ban đêm vợ đóng cửa phòng nhưng Lục vào đẩy một cái thì cánh cửa mở ra ngay. Chu dẫn vào giường, thấy vợ đang nằm nghiêng mà ngủ, Lục đưa cái đầu cho Chu cầm rồi rút trong giày ra một lưỡi dao sáng loáng như thanh chủy thủ đặt lên cổ vợ Chu dùng sức ấn xuống như bổ dưa, cái đầu theo luỡi dao rơi xuống cạnh gối. Lục vội đỡ cái bọc từ tay Chu, lấy cái đầu mỹ nhân ra gắn lên cổ, ướm cho thật ngay rồi xoa miết cho liền vết, kế đặt gối đỡ vào dưới vai vợ Chu, bảo Chu đem đầu vợ chôn ở nơi sạch sẽ rồi đi. Vợ Chu tỉnh dậy thấy cổ hơi ngứa, sờ thấy vết máu khô sợ quá sai đứa tỳ nữ múc nước rửa mặt, đứa tỳ nữ thấy mặt vợ Chu máu me bê bết cũng phát hoảng, rửa xong nước trong chậu đỏ lòm, ngẩng đầu lên thấy mặt mày khác hẳn lại càng khiếp sợ. Vợ Chu soi gương cũng ngơ ngác không hiểu vì sao, Chu vào kể lại mọi chuyện, nhân nhìn kỹ thì thấy lông mày dài tới gần chân tóc, nụ cười tươi tắn như người trong tranh. Nhìn tới cổ thấy còn một ngấn đỏ vòng quanh, hai phần trên dưới màu da khác hẳn nhau.

Nguyên là quan Thị ngự họ Ngô có người con gái rất xinh đẹp, có hai người hỏi xong chưa kịp cưới đều chết nên mười chín tuổi vẫn chưa có chồng. Nhân tiết Thuợng nguyên nàng đi chơi điện Thập Vương, người đi chơi chen chúc, trong có một tên vô lại thấy nàng xinh đẹp bèn ngầm hỏi nhà cửa. Kế nhân đêm tối bắc thang leo vào, đào ngạch vào phòng ngủ, giết một tỳ nữ nằm dưới giường rồi ép cô gái giao hoan. Cô gái cố sức chống cụ la lớn, y tức giận giết luôn. Ngô phu nhân thoáng nghe tiếng, bảo tỳ nữ tới xem, thấy xác chết sợ mất vía. Cả nhà đều trở dậy, đem xác nàng đặt trên sảnh, để cái đầu bên cạnh khóc lóc ầm ĩ suốt đêm. Đến sáng mở chăn ra thì thân vẫn còn mà đầu thì biến mất, bọn tỳ nử bị đánh đòn suốt lượt vì tội canh giữ bất cẩn để chó ăn mất cái đầu.

Thị ngự trình lên quận, quan ra nghiêm hạn tìm bắt hung thủ, qua ba tháng vẫn không tìm ra được. Dần dần có người đem việc đổi đầu kỳ lạ ở nhà họ Chu kể cho ông Ngô nghe, Ngô ngờ vực sai người vú già tới thăm dò, bà ta vào nhà Chu nhìn thấy phu nhân hoảng sợ chạy về báo với. Ông Ngô thấy xác con gái vẫn còn, kinh nghi không hiểu vì sao, nghĩ là Chu dùng tà thuật giết chết con gái bèn tới cật vấn. Chu nói “Vợ ta nằm mơ thấy đổi đầu, thật cũng không hiểu vì sao, nếu nói là ta giết tiểu thư thì oan lắm". Ngô không tin bèn kiện lên quan, quan bắt người nhà Chu tra vấn thì họ đều khai như lời Chu nói, quận thú không sao xét xử được.

Chu trở về hỏi kế Lục, Lục nói "Không khó gì, để bảo con gái y tự nói ra". Ban đêm Ngô mơ thấy con gái về nói “Con bị tên Dương Đại Niên ở Tô Khê giết chứ không can gì tới Hiếu liêm họ Chu, vì ông ta thấy vợ không đẹp nên Phán quan họ Lục lấy đầu con thay vào, thế thì tuy thân con chết mà đầu vẫn sống, xin đừng thù oán họ”. Ngô tỉnh dậy kể cho phu nhân, phu nhân cũng mơ thấy như thế bèn lên thưa với quan. Hỏi ra quả có tên Dương Đại Niên bèn bắt lên tra khảo, y liền nhận tội. Ngô bèn tới nhà Chu xin gặp phu nhân, từ đó coi Chu như con rể rồi đem đầu vợ Chu về chôn với xác con gái.

Chu ba lần vào kinh thi hội nhưng đều phạm trường quy bị đánh rớt, từ đó công danh nguội lạnh, suốt ba mươi năm. Một đêm Lục nói “Ông không còn thọ lâu nữa đâu”, Chu hỏi đến lúc nào, Lục đáp trong năm ngày nữa. Chu hỏi có thể cứu nhau được không, Lục đáp "Đó là mệnh trời, ai mà thiên vị riêng tư được. Vả lại lấy con mắt đạt nhân mà xem thì sống chết cũng như nhau, cần gì phải sống thì vui mà chết thì buồn".

Chu cho là đúng, liền cho chuẩn bị quần áo quan quách rồi ăn mặc chỉnh tề mà chết. Hôm sau phu nhân đang khóc ở bên quan tài bỗng Chu từ ngoài đi nhanh vào, phu nhân hoảng sợ, Chu nói "Ta đúng là ma nhưng cũng không khác gì lúc sống, nghĩ tới nàng mẹ góa con côi nên quyến luyến thôi". Phu nhân đau lòng chảy nước mắt ròng ròng, Chu cố gắng an ủi. Phu nhân nói "Xưa có việc hoàn hồn sống lại, chàng đã linh thiêng sao không làm thế”. Chu nói “Số trời không thể trái được”. Phu nhân lại hỏi làm việc gì dưới âm ty, Chu đáp "Phán quan họ Lục tiến cử ta giữ chức đôn đốc việc án, được trao quan tước cũng chẳng có gì khổ". Phu nhân còn muốn hỏi chuyện thì Chu nói "Ông Lục cùng về với ta, nàng dọn cho mâm rượu”, rồi rảo bước đi ra. Phu nhân theo lời dọn rượu, chỉ nghe nhà ngoài có tiếng cười nói uống rượu, ăn to nói lớn hệt như lúc sống, nửa đêm ra nhìn thì đã đi mất.

Từ đó cứ vài ba ngày Chu lại về một lần, có khi ở lại gần gũi với vợ, chỉ vẽ cho các việc trong nhà. Con trai là Vĩ lúc ấy mới năm tuổi, Chu về là bế ẵm, năm bảy tám tuổi đêm đêm vẫn được cha dạy học cho. Đứa con cũng thông minh, chín tuổi đã biết làm văn, mười lăm tuổi được vào học trường huyện nhưng vẫn không biết mình mồ côi cha. Nhưng từ đó Chu về cũng thưa dần, có khi cả tháng mới về. Một đêm về nói với phu nhân “Từ nay thì cùng nàng vĩnh biệt". Phu nhân hỏi đi đâu, Chu đáp “Ta được Thuợng đế cho làm Thái Hoa khanh, sắp phải đi xa, việc bận đường xa nên không thể về được nữa". Hai mẹ con ôm Chu khóc lóc, Chu nói "Đừng thế! Con trai đã khôn lớn, gia sản cũng đủ sống, mà có ai sau trăm tuổi không phải loan phượng chia lìa”, kế nhìn con nói “Con sống đừng làm hư sự nghiệp của cha, mười năm nữa sẽ có lần gặp nhau”, rồi ra cửa đi thẳng, từ đó không về nữa.

Về sau Vĩ hai mươi lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới chức Hành nhân, phụng mệnh ra tế Tây Nhạc, đường đi ngang qua Hoa âm bỗng có toán xe kiệu cờ lọng rong ruổi xông vào giữa đoàn nghi trượng. Kinh ngạc nhìn kỹ thì người trong xe là cha, bèn xuống ngựa khóc lạy bên đường. Cha dừng xe nói "Con làm quan có tiếng tốt, ta nhắm mắt được rồi!". Vĩ quỳ rạp không đứng lên, Chu giục xe đi như bay không ngoảnh lại, được mấy bước quay nhìn rồi cởi thanh bội đao sai người cầm lại cho con, từ xa nói "Đeo vào thì sẽ được quý hiển”. Vĩ muốn chạy theo thì thấy xe kiệu người ngựa lướt đi như gió, trong chớp mắt đã mất hút, đau xót hồi lâu. Rút thanh đao ra xem thấy chế tác rất tinh xảo, khắc một hàng chữ "Hành sự cần quả quyết, suy xét cần thận trọng, kiến thức cần đầy đủ, đức hạnh cần trọn vẹn*”.

* Hành sự... tron vẹn: nguyên văn là "Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu, trí dục phương nhi hạnh dục viên", vốn là lời của Tôn Tư Mạo thời Đường nói với Lư Chiếu Lân.

Vĩ sau làm quan tới chức Tư mã, sinh năm con trai là Trầm, Tiềm, Vẫn, Hồn, Thâm. Một đêm mơ thấy cha về nói "Thanh bội đao nên cho thằng Hồn”. Vĩ theo lời. Hồn sau làm quan tới chức Tổng đốc, có tiếng về chính tích tốt.

Dị Sử thị nói:Cắt ngắn cổ hạc, nối dài chân le là lời gian dối, nhưng Dời đổi hoa lá, nối thêm gốc rễ thì thật kỳ lạ, huống hồ là việc đem rìu búa mổ gan ruột, lấy dao cưa cắt đầu cổ sao? Như ông Lục có thể nói là người diện mạo xấu xí mà lòng dạ đẹp đẽ vậy Từ cuối thời Minh đến nay năm tháng chưa xa, ông Lục ở Lăng Dương còn không? Không biết có còn linh thiêng không? Ta muốn cầm roi theo hầu, vì rất hâm mộ ông ta.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển II -- 18 --
Anh Ninh
(Anh Ninh)

Vương Tử Phục người đất La Điếm huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông) mồ côi cha sớm, rất thông minh, mười bốn tuổi được vào học trường huyện. Mẹ rất thương yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Đã dạm hỏi Tiêu thị nhưng chưa cưới thì nàng chết sớm nên chưa thành gia thất. Gặp tiết Thượng nguyên có con trai ông cậu là Ngô sinh tới rủ đi chơi, vừa ra tới đầu làng thì đầy tớ nhà cậu tới gọi Ngô về, sinh thấy con gái đi chơi rất đông cũng cao hứng đi chơi một mình. Có một cô gái dắt tỳ nữ theo, cầm một cành hoa mai, dung mạo tuyệt thế, tươi cười rạng rỡ, sinh nhìn chằm chằm quên cả việc giữ ý. Cô gái đi vượt lên mấy bước, ngoảnh lại nói với tỳ nữ “Anh chàng này mắt nhìn chòng chọc cứ như giặc” rồi vứt cành hoa xuống đất, cười nói đi mất.

Sinh nhặt cành hoa buồn bã, thần hồn ngơ ngẩn thẫn thờ quay về. Tới nhà cất cành hoa dưới gối, gối lên mà ngủ, không nói năng cũng không ăn uống. Mẹ lo lắng khấn vái cầu cúng nhưng bệnh sinh càng nặng, chỉ còn da bọc xương. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang phát tán nhưng sinh cứ thất thần như người mê. Mẹ dỗ dành hỏi vì sao thì lặng im không đáp, gặp lúc Ngô sinh tới bà bèn nhờ kín đáo hỏi giùm. Ngô tới trước giường, sinh nhìn thấy thì rơi nước mắt, Ngô ngồi lên giường an ủi, lân la hỏi han. Sinh bèn kể thật rồi nhờ lo giùm, Ngô cười nói "Ông thật ngây quá, chuyện đó thì có gì là khó toại nguyện chứ, để ta hỏi giúp cho. Đi bộ trên đồng ắt không phải là con nhà thế gia, nếu chưa hứa gả cho ai thì thế nào cũng xong, còn nếu không cứ bỏ nhiều tiền ra thì muốn sao cũng được. Chỉ cốt là ông khỏi bệnh, ta sẽ lo cả cho".
Sinh nghe thế bất giác tươi cười, Ngô ra nói với mẹ sinh tìm hỏi làng xóm của cô gái, nhưng hỏi han khẳp nơi vẫn không thấy tung tích. Mẹ lo lắm không biết tính sao, nhưng sau khi Ngô về thì sinh có vẻ tươi tỉnh, ăn uống khá hơn. Vài hôm sau Ngô lại tới, sinh hỏi đã lo giúp tới đâu, Ngô đáp bừa “Đã tìm ra rồi, tưởng ai hóa ra là con cô ta, tức là hàng em con dì của anh, hiện vẫn còn chờ người mai mối. Tuy là có họ hàng kết thông gia không tiện, nhưng cứ nói thật ra thì thế nào cũng xong". Sinh mừng rỡ tươi rói cả mặt mày, hỏi Ngô nàng ở đâu, Ngô bịa rằng "ở trong núi phía tây nam, cách đây hơn ba mươi dặm". Sinh lại dặn dò năm lần bảy lượt, Ngô sốt sắng nhận lời rồi về.

Sinh từ đó ăn uống nhiều hơn, ngày càng khỏe lại, mò lấy cành hoa dưới gối ra xem thì hoa khô nhưng vẫn chưa rụng, cứ mân mê ngắm nghía như nhìn người đẹp. Lấy làm lạ vì Ngô không tới, viết thư mời thì Ngô tìm cớ lần lữa không qua. Sinh bực dọc không vui, mẹ lo con lại ngã bệnh vội bàn chuyện cưới vợ cho, nhưng cứ nói động tới là sinh lại lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày đợi Ngô. Lâu ngày Ngô vẫn bặt tăm, sinh càng bực tức, chợt nghĩ ba mươi dặm đường không phải là xa, cần gì nhờ vả người khác? Bèn giấu cành mai vào tay áo, giận dữ ra đi, người nhà không ai hay biết. Lủi thủi đi một mình không biết đâu mà hỏi đường, chỉ nhắm hướng núi Nam đi tới.

Khoảng hơn ba mươi dặm thì thấy núi mọc ngổn ngang xanh biếc mát lạnh, vắng vẻ không một bóng người, chỉ có đường núi cheo leo. Nhìn xuống khe núi xa xa, trong chỗ cây hoa um tùm thấp thoáng như có một thôn nhỏ. Xuống núi vào thôn thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh nhưng dáng cách rất thanh nhã. Có một gian nhà quay về hướng bắc, trước cổng tơ liễu buông mành, trong tường đào hạnh tươi tốt chen lẫn với tre trúc, chim rừng kêu ríu rít.

Sinh cho là nơi vườn cảnh nên không dám đường đột bước vào, quay nhìn thấy trước cổng có tảng đá lớn trơn bóng sạch sẽ bèn ngồi xuống nghỉ. Giây lát nghe trong tường có tiếng con gái gọi "Tiểu Vinh” thanh âm nhẹ nhàng êm ái, đang lắng nghe thì có một nữ lang từ phía đông đi tới, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên tóc, vừa ngẩng đầu thấy sinh liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào. Nhìn kỹ lại thì đúng là người đã gặp dọc đường hôm tiết Thượng nguyên, mừng rơn chỉ nghĩ không biết lấy cớ gì bước tới, muốn gọi cô em con dì nhưng trước nay chưa từng qua lại nên sợ lầm.

Trong cửa lại không có ai để hỏi, đành quanh quẩn đứng ngồi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng quên cả đói khát. Lâu lâu lại thấy cô gái hé nửa mặt ra nhìn như lấy làm lạ sao không đi. Bỗng có một bà già chống gậy đi ra nhìn sinh hỏi “Chàng trai ở đâu, nghe như tới từ giờ Thìn đến giờ chưa đi là cần gì vậy, không đói bụng sao?". Sinh vội đứng dậy vái chào, đáp "Định tìm thăm người họ hàng". Bà già nghễnh ngãng nghe không rõ, sinh nói to lần nữa, bà bèn hỏi "Vậy quý thân thích họ gì?", sinh không đáp được. Bà già cười nói "Lạ thật, tên họ cũng không biết thì biết họ hàng nào mà hỏi? Ta thấy chàng cũng chỉ là con mọt sách thôi. Thôi vào trong này ăn ít cơm hẩm, nhà có chiếc giường con cũng ngả lưng đuợc, đợi sáng maì về hỏi lại tên họ rồi trở lại tìm cũng chưa muộn".

Sinh đang lúc bụng đói muốn ăn, lại thấy sẽ được làm quen với người đẹp thì mừng quá bèn theo bà già vào. Thấy trong cổng lối đi lát đá trắng, hai bên lối đi hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thềm, quanh co đi về phía tây lại mở một cánh cửa nữa, luống đậu giàn hoa đầy trong sân. Bà già kính cẩn dẫn khách vào nhà, tường quét vôi sáng như gương, hoa hải đường ngoài song thò cả vào phòng, đệm chiếu bàn ghế đều bóng loáng sạch sẽ. Vừa ngồi xuống đã thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng có người nhìn trộm, bà già gọi “Tiểu Vinh làm cơm mau”, bên ngoài có tiếng tỳ nữ dạ lớn.

Ngồi yên xong bèn nói rõ tên họ dòng dõi, bà già hỏi "Ông ngoại chàng họ Ngô phải không?", sinh đáp phải. Bà già ngạc nhiên nói "Thế thì chàng là cháu ta, mẹ chàng là em gái ta. Mấy năm nay ta vì nhà nghèo lại không có con trai nên bỏ bẵng việc thăm hỏi, cháu đã khôn lớn thế này mà vẫn không biết”. Sinh đáp “Lần này cháu tới đây là để thăm dì, mà lúc vội vàng quên mất cả họ”. Bà già nói “Lão thân người nhà họ Tần, không sinh nở lần nào, chỉ có một con gái cũng là vợ lẽ sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng, cũng không phải dần độn nhưng ít được dạy dỗ nên cứ cười đùa chẳng biết buồn lo gì, lát nữa sẽ gọi ra chào".

Giây lát tỳ nữ dọn cơm lên, thức ăn đầy đĩa. Bà già ngồi tiếp sinh, ăn xong tỳ nữ lại ra dọn, bà già nói "Gọi cô Ninh ra đây!” Tỳ nữ dạ đi vào hồi lâu nghe ngoài cửa như có tiếng cười, bà già gọi "Anh Ninh, anh con dì ngươi đây này!". Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng, tỳ nữ đẩy cô gái vào, nàng còn che miệng cười không nín được. Bà già trừng mắt nói "Đang có khách mà cứ khúc kha khúc khích là lối gì thế?”, nàng nín cười đứng yên.

Sinh vái chào, bà già nói "Đây là Vương lang con dì của ngươi. Người nhà mà không biết nhau, có buồn cười không". Sinh hỏi "Em đây bao nhiêu tuổi?". Bà già chưa hiểu, sinh bèn nhắc lại cô gái lại rũ ra cười không ngẩng lên được nữa. Bà già nói với sinh “Ta vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà cứ ngu dại như trẻ con". Sinh nói "Kém cháu một tuổi". Bà già hỏi “Cháu mười bảy tuổi, là sinh năm Canh ngọ tuổi ngựa à?". Sinh gật đầu, bà lại hỏi vợ là ai, sinh đáp chưa có. Bà già nói “Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Anh Ninh cũng chưa thành gia thất, kể sánh với nhau thật xứng đôi, tiếc là có chút họ hàng với nhau”.

Sinh không đáp, mắt nhìn dán vào Anh Ninh không chớp, đứa tỳ nữ quay qua cô gái nói nhỏ "Con mắt nhìn chòng chọc như giặc vẫn chưa đổi". Cô gái lại cười lớn, quay qua nói với nó "Ra xem bích đào nở chưa đi!", rồi vụt đứng ngay dậy, lấy tay áo che miệng rón rén bước nhanh ra, khỏi cửa thì cười phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi tỳ nữ mang chăn đệm xếp đặt chỗ nghỉ cho sinh, nói "Cháu tới đây không phải dễ, cứ ở chơi năm ba hôm, thong thả ta sẽ tiễn về. Nếu thấy vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con cũng đủ tiêu khiển, cũng có sách để đọc".

Hôm sau sinh ra sau nhà quả có mảnh vườn rộng nửa mẫu, cỏ mịn như trải thảm, hoa dương đầy lối đi, có ba gian nhà tranh cây hoa phủ kín bốn bề. Sinh đang lách trong đám cây hoa chợt nghe trên cây có tiếng khúc khích, ngẩng lên nhìn thì ra Anh Ninh đang ở trên cây, thấy sinh tới cười rộ muốn ngã. Sinh kêu "Đừng thế, ngã đấy”, cô gái vừa tụt xuống vừa cười không nhịn được, gần tới đất thì tuột tay ngã xuống mới thôi cười. Sinh đỡ dậy, lén nắm vào cổ tay, nàng lại bật tiếng cười, dựa vào thân cây không bước đi được, hồi lâu mới thôi.

Sinh chờ nàng dứt tiếng cười bèn rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy nói “Khô rồi còn giữ làm gì?” Sinh nói "Đây là cành hoa em bỏ lại hôm tiết Thuợng nguyên, nên mới giữ," Nàng hỏi giữ làm gì, sinh đáp "Để tỏ rằng yêu nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thuợng nguyên được gặp gỡ, cứ tơ tưởng đến thành bệnh, cứ nghĩ là đã chết rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt, xin hãy rủ lòng thương xót". Cô gái đáp “Việc đó rất nhỏ, chỗ họ hàng thì có tiếc gì. Đợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn sẽ gọi lão bộc bẻ một ôm lớn mang theo tiễn anh". Sinh nói "Em ngây đấy à?", nàng hỏi "Thế nào là ngây?", sinh đáp “Ta chẳng phải yêu hoa mà là yêu người cầm hoa thôi” Nàng nói "Họ hàng thân thiết thì thương yêu nhau cần gì phải nói”. Sinh nói “Ta nói yêu chẳng phải là tình họ hàng mà là tình vợ chồng kia!". Cô gái nói "Có gì khác nhau nào?", sinh đáp “Đêm thì cùng chung chăn chung gối”. Cô gái cúi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói "Em không quen ngủ với người lạ”.

Đang còn trò chuyện thì đứa tỳ nữ đã khẽ khàng đi tới, sinh hoảng sợ lẩn đi. Lát sau cùng hội họp chỗ bà già, bà hỏi đi đâu, cô gái đáp nói chuyện với nhau trong vườn. Bà già nói “Cơm chín lâu rồi, có chuyện gì hay mà nói lâu thế ", nàng đáp "Anh muốn ngủ chung với con”. Sinh nghe chưa hết câu đã phát hoảng vội trợn mắt nhìn, nàng mỉm cười im bặt, may mà bà già không nghe rõ, còn khẽ khàng hỏi lại thì sinh vội nói lảng qua chuyện khác, nhân đó khẽ trách nàng. Cô gái hỏi "Thế chuyện ấy không nên nói ra à?”, sinh đáp “Đó là chuyện phải giấu người khác". Nàng nói “Giấu người khác chứ sao lại giấu mẹ già, vả lại ngủ chung là chuyện thường có gì phải sợ”. Sinh bực vì ngu ngơ nhưng không biết làm sao cho nàng hiểu được.

Ăn vừa xong thì người nhà dắt hai con lừa tới tìm sinh. Trước là mẹ sinh đợi lâu không thấy con về sinh nghi, tìm kiếm khắp làng không thấy dấu vết bèn tìm tới Ngô. Ngô nhớ lại lời mình nói trước đây liền bảo tới núi phía tây nam tìm, qua mấy thôn mới tới. Sinh ra cửa thì vừa gặp bèn trở vào nói với bà già, lại xin đưa cô gái cùng về. Bà già mừng rỡ nói "Ta vẫn có ý ấy từ lâu, nhưng vì già yếu không đi xa nổi, được cháu dẫn em nó về nhận dì thì hay lắm”. Bèn gọi Anh Ninh, Ninh cười ra gặp, bà già nóỉ "Có gì vui mà cười mãi thế? Nếu không cười thì cũng ra dáng con người rồi đấy”, nhân trừng mắt nhìn rồi nói "Anh cả muốn ngươi đi cùng, vào sắp sửa hành trang đi!".

Lại dọn cơm rượu thết đãi người gia nhân rồi đưa ra cổng, nói "Nhà dì có nhiều ruộng vườn, đủ sức nuôi người ăn không, tới đó thì đừng về, học lấy chút lễ nghĩa cho biết cách thờ phụng cha mẹ chồng, rồi sẽ nhờ dì tìm cho một tấm chồng tốt". Hai người bèn lên đường, tới dưới núi quay nhìn còn thấy rõ bóng dáng bà già dựa cửa nhìn theo. Tới nhà, mẹ sinh thấy có cô gái xinh đẹp ngạc nhiên hỏi là ai, sinh đáp là con bà dì. Mẹ nói "Lời Ngô lang nói với con trước đây là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, làm sao có cháu gọi bằng dì được?”.

Hỏi cô gái, nàng đáp “Cháu không phải là do mẹ đẻ ra. Cha vốn họ Tần, mất lúc cháu còn trong tã nên cháu không nhớ gì”. Mẹ nói “Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao còn sống được?". Nhân hỏi kỹ mặt mũi nốt ruồi, nhất nhất đều đúng, lại ngờ vực nói "Đúng rồi, nhưng chị ấy đã chết từ lâu, làm sao còn sống kia chứ?” Đang lúc suy nghĩ ngờ vực thì Ngô sinh tới, cô gái lánh vào nhà trong. Ngô hỏi biết chuyện ngẩn ra hồi lâu rồi chợt hỏi “Cô gái này tên Anh Ninh phải không?” sinh đáp phải. Ngô than thở là chuyện kỳ lạ, hỏi vì sao biết, Ngô đáp “Sau khi cô Tần mất thì dượng ở góa, bị hồ ám mang bệnh mà chết. Hồ sinh một gái tên là Anh Ninh, vẫn quấn tã đặt trên giường, người nhà đều nhìn thấy. Dượng mất rồi, thỉnh thoảng hồ vẫn tới, sau xin bùa của Thiên sư dán trên vách mới ôm con gái bỏ đi có lẽ là đây chăng?”.

Người này người nọ bàn tán xôn xao, chỉ nghe trong phòng có tiếng khúc khích, đều là tiếng Anh Ninh cười. Mẹ sinh nói “Con bé này cũng ngớ ngẩn quá”. Ngô xin cho gặp mặt, mẹ vào phòng thì nàng còn rũ ra cười không ngoảnh lại, mẹ giục bảo ra nàng mới cố nín cười, lại quay mặt vào vách một lúc mới ra được. Vừa vái chào xong đã xoay mình trở vào rồi cười phá lên, đàn bà con gái trong phòng đều vui thích.

Ngô xin đi dò xét sự lạ, nếu tiện thì làm mối luôn, nhưng tìm tới đó thì không thấy xóm làng nhà cửa gì cả, chỉ có hoa rừng rơi tả tơi mà thôi. Ngô ngờ ngợ nhớ lại nơi chôn bà cô cũng gần đó nhưng mộ cũ đã mất dấu không nhận ra được đành than thở quay về. Mẹ sinh ngờ bà là ma, vào kể lại lời Ngô cho nghe nhưng cô gái không hề tỏ vẻ sợ sệt lại thương cho nàng không có nhà cửa cũng không hề tỏ vẻ đau xót, cứ ngơ ngẩn cười khúc khích mà thôi, mọi người đều không hiểu ý tứ ra sao. Mẹ bảo cùng ngủ với con gái út, sáng sớm nàng đã tới vấn an. Việc nữ công thì nàng vô cùng khéo léo nhưng hay cười, có cấm cũng không nhịn được, có điều cười rất tươi, dù cười như phát điên cũng không mất vẻ xinh đẹp, ai thấy cũng vui thích, đàn bà con gái láng giềng cứ giành nhau mời đón.

Mẹ chọn ngày tốt cho làm lễ hợp cẩn nhưng vẫn sợ là ma, rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhìn thì thấy cũng có bóng không khác gì người thường. Đến ngày cưới bảo nàng trang sức đẹp đẽ làm lễ, nàng cười quá không thể vái lạy đành thôi. Sinh thấy nàng ngu ngơ sợ lại nói lộ chuyện kín trong phòng ra nhưng cô gái hết sức kín đáo, một câu cũng không nói.

Mỗi khi mẹ có điều lo lắng tức giận, nàng tới cười một tiếng là lập tức nguôi hết, tôi tớ có lỗi sợ bị đòn cứ xin nàng tới nói chuyện với mẹ rồi vào ra mắt là được tha. Nhưng nàng có tật mê hoa, tìm kiếm trong khắp thân thích láng giềng, lén bán cả đồ trang sức để mua giống hoa đẹp, vài tháng thì bờ tường bậc thềm chuồng lợn nhà xí chỗ nào cũng đầy những hoa.

Sân sau có một giàn mộc hương sát nhà láng giềng phía tây, cô gái vẫn vin cây trèo lên hái hoa cài đầu, mẹ bắt gặp là mắng nhưng nàng vẫn không chừa. Một hôm con trai nhà ấy trông thấy nàng, say mê nhìn sững. Cô gái không tránh mặt lại cười, y cho rằng nàng đã ưng thuận, lòng càng khao khát. Nàng chỉ vào chân tường cười rồi leo xuống. Y nghĩ rằng nàng chỉ nơi hò hẹn mừng lắm, đến tối mò ra, quả nhiên nàng đã ở đó, liền sấn tới hành dâm thì chỗ kín như bị dùi đâm, đau buốt tận tim gào lớn ngã lăn ra. Nhìn kỹ lại thì không phải cô gái mà là một cây khô nằm dưới tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc cây đọng nước.

Cha y nghe tiếng vội chạy ra hỏi, y thì rên rĩ không nói, khi vợ tới mới thú thật. Đốt đuốc soi vào hốc cây thấy có một con bò cạp to bằng con cua con. Cha y chẻ cây ra bắt con bò cạp giết đi rồi vực con trai về, nửa đêm thì chết. Nhà ấy kiện sinh, tố cáo Anh Ninh là yêu quái. Quan huyện vốn nguỡng mộ tài học của sinh, lại biết sinh là kẻ sĩ đức hạnh nên cho rằng nhà láng giềng kiện bậy toan phạt đánh đòn, sinh xin cho mới được tha về.

Mẹ sinh nói với cô gái “Cứ ngây dại thế mãi, ta lã biết trước là vui quá hóa lo mà. May là quan huyện thần minh nên mới không liên lụy, chứ gặp phải hạng quan hồ đồ ắt đã đòi đàn bà con gái lên công đường đối chất, thì con trai ta còn mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?". Cô gái nghiêm trang thề không cười nữa, mẹ nói "Người ta ai mà không cười nhưng phải có lúc", nhưng từ đó nàng quả không cười nữa, dù cố chọc ghẹo cũng không cười, có điều không lúc nào có vẻ mặt nhăn nhó.

Một đêm nàng nhìn sinh ứa nước mắt, sinh lấy làm lạ thì nàng nghẹn ngào nói “Trước đây theo chàng chưa lâu, nói ra e sẽ hoảng sợ. Nay thấy mẹ và chàng đều yêu thương không có ý khác nên xin thưa thật, may ra không sao chăng? thiếp vốn do hồ sinh ra, lúc mẹ thiếp ra đi đem gởi cho bà mẹ ma, nương tựa nhau hơn mười năm mới có ngày nay. Thiếp lại không có anh em, chỉ trông cậy vào chàng. Mẹ già cô quạnh nơi góc núi, không ai thương xót hợp táng cho, dưới chín suối vẫn còn sầu tủi. Nếu chàng không tiếc công tiếc của giúp cho người nằm dưới đất tiêu tan được mối oán hận ấy thì ngõ hầu những kẻ sinh con gái sẽ không nỡ dìm nước vứt bỏ nữa".

Sinh ưng thuận nhưng lo phần mộ bị lẫn trong cỏ rậm, cô gái chỉ nói đừng lo. Bèn định ngày rồi vợ chồng chở quan tài tới, cô gái chỉ mộ phần giữa đám gai góc khói mây, quả đào được thi thể bà già, da thịt vẫn còn. Nàng vỗ về khóc lóc thảm thiết, đưa về tìm mộ ông Tần hợp táng. Đêm ấy sinh mơ thấy bà già về tạ ơn, tỉnh dậy thuật lại. Cô gái nói "Đêm qua thiếp có gặp, nhưng mẹ dặn đừng làm chàng kinh động thôi”. Sinh ân hận không giữ bà lại, nàng nói "Bà là ma, nơi đây người sống nhiều, khí dương thịnh, làm sao ở được". Sinh hỏi Tiểu Vinh, nàng đáp "Nó là hồ, rất lanh lợi, mẹ hồ lưu lại để trông nom thiếp, vẫn đút bánh trái cho thiếp ăn nên nhớ ơn nó không lúc nào quên. Đêm qua hỏi mẹ, thì nói đã gả chồng cho nó rồi". Từ đó cứ gặp tiết Hàn thực hàng năm vợ chồng lại đi thăm mộ ông bà Tần, khấn vái quét dọn không hề sơ sót. Được hơn năm cô gái sinh được một trai, lúc còn bế ẵm đã không sợ người lạ, thấy người là cười cũng rất giống phong thái của mẹ.

Dị Sử thị nói:Xem dáng cười ngặt nghẽo giống như vô tâm, nhưng chơi ác dưới tường thì rõ ra là rất biết việc đời vậy. Đến như thuơng xót bà mẹ ma thì không cười mà khóc, nàng Anh Ninh của ta là người tự che giấu bằng tiếng cười đấy. Nghe nói trong núi có một thứ cỏ gọi là cỏ cười, ngửi thì cười không dừng lại được, trong nhà mà trồng thứ cỏ ấy thì các loại cỏ Hợp hoan, Vong ưu đều không ra gì. Còn như hoa biết nói* thì chỉ là có dáng vẻ bề ngoài thôi.

* Hoa biết nói: Thiên Bao thông sự chép hồ Thái Dịch trong cung có hàng ngàn khóm hoa sen trắng nở, Đường Minh hoàng cùng Dương Quý phi ra ngắm, nói với tả hữu rằng "Hoa sen trong hồ như ganh đua với đóa hoa biết nói này". Đây ý nói loại người đẹp như Dương Quý phi chỉ có sắc đẹp chứ không có tâm tình như Anh Ninh.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 19 --
Nhiếp Tiểu Thiến
(Nhiếp Tiểu Thiến)

Ninh Thái Thần người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tính hào sảng, ngay thẳng tự trọng, thường nói với người ta rằng bình sinh không biết tới người đàn bà thứ hai. Gặp lúc có việc tới huyện Kim Hoa (tỉnh Chiết Giang), tới cổng bắc huyện thành vào nghỉ trong một ngôi chùa. Thấy trong chùa điện tháp nguy nga tráng lệ nhưng cỏ tranh cao lút đầu như không có người qua lại, thiền phòng hai bên đông tây cửa chỉ khép hờ, duy gian nhà nhỏ phía nam thì then khóa như còn mới. Nhìn qua góc đông điện có rặng tre to hàng chét tay, bên dưới có cái ao lớn, sen dại đã nở hoa, có ý thích cảnh u nhã.

Gặp lúc quan Học sứ về khảo khóa, giá thuê nhà trong thành đắt đỏ nên Ninh quyết ở lại, nhân tản bộ đợi sư về. Trời sẩm tối có người sĩ nhân tới mở cửa gian nhà phía nam. Ninh bước tới chào hỏi rồi ngỏ ý. Sĩ nhân nói “Nhà này không có chủ, ta cũng chỉ ở ngụ, nếu không chê là hoang vắng, sớm tối chỉ giáo cho thì may lắm!” Ninh mừng rỡ bèn rải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc, trời trong như nước, hai người nằm gác vế dưới hiên chuyện trò, hỏi han tên họ. Sĩ nhân tự nói họ Yến tên Xích Hà, Ninh tưởng là Chư sinh* chờ khảo khóa nhưng nghe giọng nói không phải là người đất Chiết, hỏi thì đáp là người đất Tần (tỉnh Thiểm Tây), ăn nói rất chất phác thật thà. Kế chuyện vãn đã cạn, hai người chia tay đi nghỉ.

*Chư sinh : sinh viên nhà Thái học.

Ninh lạ nhà nằm mãi không ngủ được, chợt nghe gian phía bắc có tiếng rì rầm như người nói chuyện bèn trở dậy tới núp dưới song cửa sổ bằng đá dưới vách tường phía bắc nhìn qua. Thấy sau tường có một khu nhà nhỏ, có người đàn bà khoảng hơn bốn mươi tuổi và một bà vú già mặc chiếc áo hồng bạc màu, trên tóc cài cái lược to, lưng gù già sọm đang trò chuyện dưới trăng. Người đàn bà nói “Tiểu Thiến sao mãi không tới?", bà vú già nói "Thế nào nó cũng tới mà”. Người đàn bà hỏi “Nó có oán thán gì với bà không?", bà vú già đáp "Ta không nghe thấy, nhưng nó có vẻ buồn rầu”. Người đàn bà nói "Con nhãi ấy thì không cần phải tử tế đâu”. Chưa dứt lời thì một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi tới, nhìn phảng phất có vẻ xinh đẹp.

Bà vú cười nói “Đừng nói chuyện người vắng mặt, hai người bọn ta chỉ trò chuyện thôi, mà con tiểu yêu lẻn tới không một tiếng động. May là bọn ta không nói gì xấu” Lại nói "Tiểu nương tử thật là xinh đẹp như trong tranh, giả như già này là đàn ông cũng bị bắt mất hồn rồi”. Cô gái nói “Bà mà không khen ta thì còn ai khen chứ”. Kế không rõ họ nói với nhau những gì, Ninh cho rằng đó là gia đình nhà láng gìềng nên bỏ vào ngủ không buồn nghe nữa, hồi lâu tiếng trò chuyện mới tắt. Ninh vừa thiu thiu sắp ngủ chợt thấy như có người tới chỗ mình nằm, vội trở dậy nhìn thì ra là cô gái bên gian nhà phía bắc. Ninh ngạc nhiên hỏi, cô gái cười đáp “Đêm trăng không ngủ được, xin tới vui vầy" Ninh nghiêm sắc mặt nói “Nàng phải đề phòng điều dị nghị còn ta thì sợ tiếng chê cười, lỡ chân một bước thì hết cả liêm sỉ”. Cô gái nói "Đêm hôm đâu có ai bỉết", Ninh xì khinh bỉ nhưng cô gái cứ lần lữa như còn muốn nói gì nữa, Ninh quát “Đi mau đi, nếu không ta kêu to cho người bên kia biết đấy” Cô gái sợ lui ra ngoài cửa nhưng lại trở vào đặt một nén vàng lên nệm, Ninh cầm lấy ném ra thềm nói "Của phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ta” Cô gái thẹn thùng quay ra nhặt vàng nói một mình “Người này sắt đá thật”.

Sáng hôm sau có người học trò ở huyện Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ tới ở trọ chờ khảo khóa, đến đêm đột nhiên chết, lòng bàn chân có một lỗ nhỏ như dùi đâm rỉ máu ra, không ai biết vì sao. Qua đêm sau thì người đầy tớ chết, cũng có dấu vết như vậy.

Chiều tối Yến sinh về, Ninh hỏi về chuyện ấy, Yến cho là yêu tinh nhưng Ninh vốn chính trực cũng không sợ sệt. Nửa đêm cô gái lại tới, nói với Ninh rằng "Thiếp từng gặp qua nhiều người mà chưa thấy ai cứng rắn như chàng. Chàng quả là bậc thánh hiền, thiếp không dám lừa dối. Thiếp họ Nhiếp tên Tiểu Thiến, chết yểu năm mười tám tuổỉ, chôn ở cạnh chùa, bị yêu tinh bắt làm những việc hèn hạ, mặt dày ôi gặp người, thật lòng rất không thích. Nay trong chùa không còn ai có thể giết được, sợ sẽ sai quỷ Dạ Xoa tới hại chàng". Ninh hoảng sợ xin chỉ cách thoát thân, cô gái nói “Chàng cứ ở chung một phòng với Yến sinh thì thoát”. Ninh hỏi sao không dụ dỗ Yến sinh, nàng đáp "ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới gần".

Lại hỏi làm cách nào để dụ dỗ người ta, nàng đáp "Ai ôm ấp ta, ta sẽ lén đâm dùi vào chân cho lập tức mê man rồi hút lấy máu dâng yêu tinh uống. Có khi đưa vàng cho họ, thật ra không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát, lưu lại để moi lấy tim gan. Hai cách ấy cùng làm được cả thì tốt nhất”. Ninh cảm tạ, hỏi phải phòng bị vào lúc nào, nàng đáp là đêm mai. Khi từ biệt, nàng khóc nói “Thiếp rơi xuống bể khổ, muốn tìm bờ lên mà không được. Chàng nghĩa khí xông mây, ắt có thể cứu thiếp, nếu có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp thì còn hơn cả ơn tái tạo". Ninh quả quyết nhận lời, nhân hỏi mộ ở đâu, nàng đáp "Cứ ra chỗ cây bạch dương, trên ngọn có tổ quạ là đúng” dứt lời bước ra cửa biến mất.

Hôm sau Ninh sợ Yến đi vắng, sáng sớm đã mời qua chơi, gần trưa thì sữa soạn cơm rượu mời mọc, để ý quan sát Yến, kế hẹn tối ngủ chung phòng. Yến lấy cớ thích yên tĩnh để từ chối, Ninh không nghe, ép phải mang giường chiếu qua. Yến bất đắc dĩ theo lời, dặn rằng “Ta biết túc hạ là bậc trượng phu nên rất kính mộ phong độ. Nhưng có chút niềm riêng khó thưa ngay được, vậy xin đừng nhìn vào cái tráp của ta, nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi”. Ninh kính cẩn vâng lời, kế đều đi nghỉ.

Yến để cái tráp trên cửa sổ, vừa ngả lưng một lát đã ngáy vang như sấm, Ninh thì không ngủ được. Khoảng gần hết canh một thì có bóng người thấp thoáng ngoài cửa sổ, giây lát tới gần cửa sổ nhìn vào, mắt sáng rừng rực. Ninh khiếp sợ đang định gọi Yến, chợt có một vật sáng loáng như giải lụa xé cái tráp bắn ra tiện đứt chấn song cửa sổ bằng đá, lóe sáng một cái rồi quay ngay vào tráp như ánh chớp tắt ngấm. Yến biết trở dậy, Ninh giả ngủ nhìn ra thấy Yến bưng cái tráp lấy vật ấy ra vừa săm soi dưới ánh trăng vừa hít ngửi, ánh sáng lóng lánh, dài khoảng hai tấc, mỏng như lá hành, kế bọc lại mấy lớp cho vào cái tráp thủng, lẩm bẩm "Không biết con quỷ già nào mà lớn mật làm hỏng cái tráp của ta” rồi lại đi nằm.

Ninh lấy làm lạ trở dậy hỏi, kể những điều mình thấy. Yến đáp “Đã là bạn tri giao, sao còn dám giấu diếm, ta là kiếm khách đây. Nếu không vướng cái chấn song đá thì yêu tinh phải chết ngay lập tức, nhưng như thế cũng bị thương rồi”. Ninh hỏi vật cất đi là cái gì Yến đáp "Đó là thanh kiếm, vừa ngửi thấy có yêu khí". Ninh muốn xem thử, Yến rút ra một thanh đoản kiếm lấp lánh, Ninh vì vậy càng thêm kính phục.

Hôm sau Ninh xem ngoài cửa sổ thấy có vết máu, ra phía bắc chùa thấy một nấm mộ hoang, bên cạnh quả có cây bạch dương trên ngọn có tổ quạ. Khi việc đã xong Ninh thu xếp hành trang trở về, Yến sinh bày tiệc tiễn rất ân cần, tặng Ninh một cái bao da rách, dặn "Đây là cái bao kiếm, giữ kỹ thì lũ yêu tinh phải tránh xa” Ninh muốn theo học đạo, Yến nói "Người tín nghĩa cương trực như ông có thể học được, nhưng ông là người trong trường phú quý chứ không phải là người trong mạch đạo". Ninh nói thác là có em gái chôn ở đó đào mộ cô gái lấy hài cốt gói lại thuê thuyền đem về quê.

Phòng sách của Ninh nhìn ra cánh đồng, nhân chôn cất nàng ngay phía ngoài, cúng tế khấn rằng "Thương nàng hồn ma lẻ loi nên chôn cạnh nhà, khi ca khi khóc đều nghe cho khỏi bị lũ quỷ mạnh làm nhục. Có bát nước mưa mời uống, chưa được ngọt trong cũng mong đừng trách". Khấn xong quay về nghe phía sau có người gọi "Xin đợi cùng về", ngoái nhìn thì là Tiểu Thiến. Nàng vui vẻ cảm tạ, nói “Chàng là bậc tín nghĩa, thiếp có chết mười lần cũng không đủ đền đáp. Xin theo về ra mắt cha mẹ chồng, dù làm đứa ở con đòi cũng cam lòng".

Ninh nhìn kỹ thấy nàng da ửng màu ráng hồng, chân thon như búp măng, nhìn ban ngày càng xinh đẹp bèn dẫn về phòng sách, dặn ngồi đợi rồi vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc nhiên, lúc ấy vợ Ninh ốm đã lâu bèn bảo đừng nói ra vì sợ nàng kinh hãi. Vừa nói xong thì cô gái nhẹ nhàng bước vào sụp lạy, Ninh nói "Đây là Tiểu Thiến". Bà mẹ hoảng sợ nhìn nàng lo ngại, Tiểu Thiến nói "Con lênh đênh một mình, xa cha mẹ anh em, nay đội ơn công tử che chở tái tạo, nguyện sửa túi nâng khăn để báo cao nghĩa". Bà mẹ thấy nàng xinh xắn đáng yêu mới dám trò chuyện, nói "Nương tử ra ơn chiếu cố cho con ta, già này rất mừng. Nhưng bình sinh chỉ có đứa con trai này để nối dõi tông đường, không dám cho nó lấy vợ ma". Cô gái nói "Con thật không dám hai lòng. Người đã chết không đủ để mẹ tin cậy thì xin thờ chàng làm anh, nương tựa nơi mẹ để sớm hôm hầu hạ có được không?".

Mẹ thương nàng thành tâm bèn bằng lòng, nàng muốn vào lạy chào chị dâu nhung mẹ lấy cớ con dâu đang ốm từ chối. Nàng liền xuống bếp thay mẹ lo cơm nước, lên xuống ra vào như người trong nhà. Tối đến bà mẹ e sợ, từ chối về phòng ngủ, không đặt giường cho nàng. Cô gái biết ý bà liền trở ra, ngang qua phòng sách định vào nhưng cứ ngập ngừng ngoài cửa như có điều sợ sệt. Ninh gọi vào, nàng nói “Trong phòng có kiếm khí ghê người, nãy giờ qua lại không dám vào gặp chàng là vì thế". Ninh biết là vì cái bao da, liền đem qua phòng khác treo, cô gái mới vào, tới ngồi cạnh đèn một lúc không nói gì. Hồi lâu mới hỏi "Tối đến chàng có đọc sách không? Lúc nhỏ thiếp có học kinh Lăng nghiêm, nay đã quên quá nửa. Xin cho mượn một quyển, tối rảnh nhờ chỉ cho", Ninh nhận lời.

Nàng lại ngồi im lặng, gần hết canh hai vẫn không đi, Ninh giục thì buồn rầu nói "Hồn côi ở xứ lạ sợ nấm mồ hoang lắm". Ninh nói “Trong phòng sách không có giường nằm, vả lại anh trai em gái cũng nên tránh hiềm nghi". Cô gái đứng dậy, mặt ủ mày chau như muốn khóc, ngần ngừ bước ra cửa, xuống tới thềm thì biến mất. Ninh thầm thương xót, muốn lưu nàng lại ngủ giường khác nhưng lại sợ mẹ mắng. Từ đó cô gái sớm chiều tới hầu mẹ, bưng chậu múc nước rồi ra làm việc nhà, không việc nào không theo ý mẹ, chập tối cáo lui qua phòng sách thắp đèn tụng kinh, đến khi Ninh sắp đi ngủ mới buồn rầu trở ra.

Trước là vợ Ninh ốm nặng bỏ hết việc nhà, bà mẹ vất vả không sao chịu nổi, từ khi cô gái tới mới được thong thả nên trong lòng biết ơn nàng. Lâu dần thì yêu quý như con ruột, quên luôn việc nàng là ma, chiều tối không nỡ bắt nàng phải ra khỏi nhà nên giữ lại ngủ cùng. Cô gái lúc mới tới không ăn uống gì, nửa năm mới dần dần hớp qua canh cháo, mẹ con Ninh đều rất thương yêu, kiêng nói tới chuyện ma quỷ nên mọi người cũng không ai biết. Không bao lâu vợ Ninh chết, bà mẹ ngầm có ý cưới Tiểu Thiến cho con trai nhưng lại sợ mang hại. Nàng biết ý, nhân lúc rảnh rỗi nói với bà “Con ở đây đã hơn một năm, chắc mẹ đã hiểu lòng con không muốn hại người nên một lòng theo công tử không có ý khác. Chỉ vì thấy công tử quang minh lỗi lạc, trời người đều phục nên thật lòng muốn nương tựa giúp đỡ để vài ba năm nữa nhờ cậy được chút sắc phong cho vẻ vang dưới suối vàng". Bà mẹ cũng biết nàng không độc ác nhưng còn lo không có cháu nối dõi, cô gái nói "Con cái là do trời cho, tên chàng đã được ghi trong sổ phúc, có ba con trai, không vì lấy vợ ma mà bị cắt giảm".

Mẹ tin lời bàn với con trai, Ninh mừng lắm bày tiệc báo cho thân thích bè bạn. Có người xin nhìn mặt cô dâu mới, cô gái thản nhiên trang điểm lộng lẫy bước ra, cả tiệc đều tròn mắt nhìn, không nghĩ là ma mà ngờ là tiên. Vì vậy họ hàng nội ngoại đều mang lễ vật tới đến mừng, tranh nhau làm quen. Cô gái giỏi vẽ hoa lan hoa mai, cứ vẽ ra đưa tặng để đáp lễ, người được tặng đều trân trọng cất kỹ, lấy làm vinh dự.

Một hôm cô gái cúi đầu đứng bên song cửa sổ có vẻ lo lắng buồn bã, kế chợt hỏi cái bao da để đâu Ninh đáp “nàng sợ hãi nên ta gói cất ở chỗ khác". Nàng nói "Thiếp nhận được sinh khí người sống đã lâu nên không còn sợ nữa, chàng nên đem ra treo ở đầu giường". Ninh hỏi làm thế là có ý gì nàng đáp "Ba hôm nay trong lòng thiếp cứ hồi hộp không yên, có lẽ bọn yêu tinh ở Kim Hoa hận thiếp bỏ trốn đi xa, e sớm chiều sẽ tìm tới đây". Ninh đem cái bao da ra, cô gái lật đi lật lại nhìn kỹ rồi nói "Cái này là bậc kiếm tiên dùng để bắt ma quỷ, rách nát đến thế này không biết đã giết bao nhiêu rồi. Hôm nay thiếp nhìn thấy còn rợn cả người", rồi đem treo lên.

Hôm sau nàng lại bảo Ninh đem treo trên cửa, đến tối ra ngồi bên đèn, dặn Ninh đừng ngủ. Chợt có một vật như con chim bay rơi xuống, nàng hoảng sợ nép vào sau tấm rèm, Ninh nhìn ra thấy hình dáng nó như quỷ Dạ Xoa, mắt lóe như chớp, miệng đỏ như máu, tay quờ quạng như sắp chộp bắt ai tiến thẳng tới trước cửa, dừng lại hồi lâu rồi tới gần cái bao da, quờ móng giật lấy như muốn xé rách. Cái bao chợt kêu soạt một tiếng, thấp thoáng như có nửa mình quỷ bên trong nhô ra nắm Dạ Xoa kéo vào, tiếng động tắt ngay mà cái bao cũng co lại như cũ. Ninh hoảng sợ, cô gái cũng bước ra mừng rỡ nói “Hết lo rồi!". Cùng nhìn vào bao, chỉ thấy có vài đấu nước trong mà thôi.

Vài năm sau quả nhiên Ninh thi đỗ Tiến sĩ, sinh được một con trai. Sau khi Ninh lấy vợ lẽ, mỗi vợ lại sinh một trai nữa, ba con sau đều làm quan, rất có danh tiếng.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 20 --
Cỏ Thủy Mãng
(Thủy Mãng Thảo)

Thủy mãng là loài cỏ độc, mọc như dây leo, hoa tím như đậu ván, ai lầm ăn vào là chết ngay, hóa thành ma thủy mãng. Tục truyền ma ấy không được luân hồi, phải có người khác trúng độc chết thay vào mới được thác sinh, vì vậy suốt một dải sông Đào Hoa ở đất Sở Trung (vùng Hồ Nam) có rất nhiểu ma ấy.

Người Sở nếu sinh cùng năm thì gọi là đồng niên, đưa thiếp ra mắt gọi nhau là canh huynh canh đệ, hàng con cháu thì gọi bề trên là canh bá, quen lệ thành như thế. Có Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, trên đường khát nước, chợt thấy bên đường có bà già bày quán thí nước liền rảo bước tới. Bà già đón vào rót nước mời mọc ân cần, sinh thấy có mùi lạ không giống mùi trà bèn đặt xuống không uống mà đứng dậy đi ra. Bà già vội giữ khách lại rồi gọi “Tam Nương, pha một chén trà ngon đem ra đây”. Giây lát có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, ngón tay đeo nhẫn, cổ tay đeo xuyến sáng loáng. Sinh đỡ lấy chén trà, tâm thần ngây ngất, ngửi thấy thơm phức liền uống cạn, lại xin chén nữa. Thừa lúc bà già đi ra bèn đùa nắm tay cô gái, tháo một chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, sinh càng mê mệt bèn hỏi qua nhà cửa. Cô gái nói “Tối chàng tới thì thiếp còn ở đây".

Sinh xin một nắm trà, lại cất luôn chiếc nhẫn ra đi. Tới nhà bạn đồng niên thì thấy bụng đau quặn, ngờ là vì nước trà bèn kể cho bạn nghe. Bạn hoảng sợ nói “Chết rồi, đó là ma thủy mãng. Cha ta ngày xưa cũng chết vì nó, không thể cứu được, làm sao bây giờ”. Sinh cả sợ dưa gói trà cho bạn xem thì đúng là cỏ thủy mãng. Lại đưa chiếc nhẫn ra, tả lại hình dáng cô gái, người bạn ngẫm nghĩ rồi nói "Đó ắt là Khấu Tam Nương". Sinh thấy đúng tên liền hỏi vì sao biết, bạn đáp "Cô ta là con gái họ Khấu ở thôn Nam, nổi tiếng xinh đẹp, mấy năm trước ăn lầm cỏ thủy mãng mà chết, ắt đã làm ma. Có người nói ai bị ma ấy hại, nếu biết được tên họ mà tới nhà xin được cái quần cũ nó mặc đem về nấu nước uống thì có thể khỏi".
Bạn vội tới nhà họ

Khấu kể rõ tình thật, lạy lục năn nỉ. Khấu nghĩ Chúc sinh chết thì con gái mình sẽ được đầu thai nên không cho, người bạn tức giận về kể lại. Sinh cũng nghiến răng căm hờn nói "Ta chết rồi quyết không cho con gái y đi đầu thai". Người bạn cáng sinh về, gần tới cổng nhà thì chết, mẹ sinh khóc lóc chôn cất con trai. Sinh để lại một con trai vừa đầy năm, vợ không thủ tiết được, nửa năm sau bỏ đi lấy chồng khác. Mẹ sinh giữ cháu nội lại nuôi nấng, vất vả không sao chịu nổi, sớm tối đau xót khóc lóc.

Một hôm bà đang bế cháu khóc lóc trong phòng chợt sinh sừng sững bước vào. Mẹ cả sợ gạt nước mắt hỏi, sinh nói "Con ở dưới đất nghe mẹ khóc rất đau xót nên trở về để sớm hôm hầu hạ mẹ thôi. Con tuy chết nhưng đã lấy vợ, nay cũng về cùng để giúp đỡ mẹ, mẹ đừng buồn nữa". Mẹ hỏi vợ là ai, sinh nói "Họ Khấu để mặc cho con chết, con rất căm hận, sau khi chết muốn tìm Tam Nương nhưng không biết nàng ở đâu. Mới rồi gặp canh bá Mỗ chỉ cho, con tới thì Tam Nương đã đầu thai vào nhà quan Thị lang họ Nhiệm. Con đuổỉ theo bắt nàng trở lại, nay đã làm vợ con, cũng tâm đầu ý hợp không có gì khổ". Giây lát có một cô gái ăn mặc lộng lẫy bước vào quỳ xương lạy mẹ, sinh nói “Đây là Khấu Tam Nương". Tuy hai vợ chồng không phải là người sống nhưng mẹ nhìn thấy cũng được an ủi, sinh bèn sai Tam Nương làm việc nhà. Tam Nương không quen làm lụng nhưng rất ngoan ngoãn với mẹ chồng, từ đó vào ở luôn phòng sinh cũ không đi. Cô gái xin mẹ báo tin cho nhà mình biết, sinh không muốn nhưng mẹ chiều ý con dâu nên báo cho họ Khấu.

Ông bà Khấu nghe tin cả sợ, thắng xe kiệu tới ngay, vào thấy đúng là Tam Nương, nhìn nhau khóc lạc cả giọng, cô gái khuyên mãi mới nín. Bà Khấu thấy nhà sinh nghèo quá có ý thương xót con gái, nàng nói “Con đã là ma thì sợ gì nghèo. Huống hồ mẹ con Chúc lang đối xử với con rất có tình nghĩa, con đã yên phận rồi". Bà Khấu nhân hỏi bà già bán trà là ai, nàng đáp "Bà ta họ Nghê, tự thẹn già nua không dụ dỗ được khách đi đường nên nhờ con giúp cho thôi, nay đã thác sinh vào một nhà bán rượu trong thành". Kế quay lại nhìn sinh nói "Chàng đã làm rể mà không lạy cha mẹ vợ thì thiếp còn lòng dạ nào?", Sinh liền lạy chào. Cô gái bèn vào bếp giúp mẹ chồng nấu cơm đãi thông gia. Họ Khấu thấy thế thương xót, khi trở về liền sai hai tỳ nữ tới hầu hạ, gởi thêm trăm cân vàng, vài mươi tấm lụa, thỉnh thoảng lại tặng biếu rượu thịt, mẹ Chúc sinh trở nên dư dật. Họ Khấu cũng thỉnh thoảng gọi nàng về thăm nhà, nhưng cứ ở vài ngày thì nàng nói "ở nhà không có ai, nên để con về sớm", nếu cố giữ lại thì nàng lãng đãng tự về. Ông Khấu xây cất nhà cửu cho Chúc sinh rất tươm tất, nhưng rốt lại sinh vẫn không hề tới nhà cha mẹ vợ.

Một hôm trong làng có người trúng độc cỏ thủy mãng chết nhưng lại sống lại, người ta đồn là chuyện lạ. Sinh nói "Đó là ta cứu sống đấy, y bị con ma Lý Cửu làm hại, ta đã đuổi nó đi giúp". Mẹ hỏi "Sao con không tìm người khác thay thế cho mình?", sinh đáp "Con rất căm thù bọn ấy đang định diệt trừ cho bằng hết, đâu lại làm như chúng. Vả lại con được thờ mẹ là vui lắm rồi, không muốn đầu thai nữa".

Từ đó về sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn giữa sân khấn vái sinh, đều thấy hiệu nghiệm. Trải hơn mười năm, bà mẹ qua đời, vợ chồng cũng để tang nhưng không ra tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy làm lễ chôn cất mà thôi. Chôn cất mẹ xong, lại ở hơn hai năm rồi cưới vợ cho con, nàng dâu là cháu nội Thị lang họ Nhiệm. Trước là người thiếp của ông Nhiệm sinh được đứa con gái vài tháng thì chết, sau nghe chuyện lạ của vợ Chúc bèn sai thắng kiệu tới nhà nhận sinh làm con rể. Đến lúc ấy lại gả cháu nội cho con sinh, hai nhà qua lại nhau không dứt.

Một hôm sinh nói với con "Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong làm Tứ độc Mục Long quân, nay ta đi đây” Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa tháng xe mui vàng, chân ngựa đều mọc vảy, hai vợ chồng ăn mặc đẹp đẽ bước ra cùng lên xe. Vợ chồng con trai khóc lạy đưa tiễn, trong chớp mắt đều biến mất. Hôm ấy nhà họ Khấu thấy con gái về từ giã cha mẹ, cũng nói như lời sinh. Bà Khấu khóc giữ lại nàng nói "Chúc lang đi trước rồi", rồi bước ra cửa biến mất. Con trai sinh tên Ngạc, tự Ly Trần, tới xin ông Khấu cho lấy hài cốt Tam Nương về hợp táng với sinh.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 21 --
Người Học Trò Phượng Dương
(Phượng Dương Sĩ Nhân)

Có một người học trò ở huyện Phượng Dương (tỉnh An Huy) đi du học xa, hẹn vợ nửa năm sẽ về nhưng hơn mười tháng vẫn tuyệt vô âm tín, vợ ở nhà mỏi mòn trông đợi. Một đêm vừa mới đi nằm, thấy bóng trăng lay động trên tấm rèm che cửa sổ, càng thêm nhớ nhung. Còn đang trằn trọc thì có một cô gái đẹp cài trâm ngọc quàng khăn hồng vén rèm bước vào cười hỏi "Bà chị muốn gặp lang quân không?” người vợ vội trở dậy vâng dạ.

Người đẹp rủ cùng đi, nàng ngại đường xa hiểm trở, người đẹp khuyên đừng lo rồi nắm tay đạp lên ánh trăng ra đi. Được khoảng một tầm tên, nàng thấy người đẹp đi rất mau mà mình đi chậm liền gọi bảo đợi một lát để về mang giày. Người đẹp kéo nàng ngồi xuống bên đường, cởi giày của mình đưa cho, nàng mừng rỡ mang vào, may là vừa khít, liền đứng dậy đi theo, thấy bước đi mau như bay. Giây lát thấy người học trò cưỡi ngựa trắng đi tới, nhìn thấy vợ ngạc nhiên vội xuống ngựa hỏi đi đâu, nàng đáp "Định đi thăm chàng". Người học trò quay nhìn người đẹp rồi hỏi là ai, nàng chưa kịp trả lời thì người đẹp che miệng cười nói “Thôi đừng hỏi nữa, nương tử bôn ba tới đây không phải dễ, chàng thì rong ruổi đến nửa đêm, chắc người ngựa cũng đều mệt rồi. Nhà thiếp cách đây không xa, xin mời vào tạm nghỉ ngơi, sáng mai đi cũng không muộn". Hai người nhìn ra thấy gần đó quả có làng xóm bèn cùng đi.

Vào một ngôi nhà, người đẹp gọi tỳ nữ dậy lo cơm nước mời khách, nói "Đêm nay trăng sáng không cần thắp đèn, ngồi lên sập đá trong tiểu đình cũng được". Người học trò buộc ngựa vào cây ngô đồng rồi ngồi xuống, người đẹp nói “Giày to không vừa chân, trên đường chắc chị mệt lắm. Nhưng lúc về đã có con ngựa đỡ chân, cho em xin lại”. Người vợ cảm ơn, cởi giày trả lại.

Lát sau, rượu bánh bày ra, người đẹp nâng chén nói "Loan phượng xa nhau lâu ngày, đêm nay được sum họp, có chén rượu đục xin kính mừng!” người học trò cũng nâng chén đáp lễ, chủ khách cười nói vui vẻ, giày dép lẫn lộn dưới sập. Người học trò cứ đăm đăm nhìn người đẹp, mấy lần buông lời đùa cợt, vợ chồng bao ngày mới gặp nhau mà không trò chuyện một lời. Người đẹp cũng liếc mắt đưa tình, thả lời nũng nịu, người vợ cứ ngồi im giả như ngu đần. Hồi lâu rượu càng ngấm, hai người trò chuyện lại càng buông thả. Người đẹp lấy chén lớn mời khách, người học trò từ chối là đã say nhưng nàng cứ ra sức nài ép. Người học trò cười nói “Nàng hát cho nghe một khúc, ta sẽ uống ngay”. Người đẹp không từ chối, lấy phím ngà gảy đàn cầm hát rằng:

Hoàng hôn ngả bóng màu son nhạt
Gió lạnh ngoài song buốt thấu rèm
Lắng tiếng mưa rơi trên lá chuối, biết nơi nào run rẩy cùng ai
Đợi chờ mỏi mắt, chẳng thấy người về, nước mắt chảy dài
Nghĩ lại nhớ chàng, nghĩ lại hận chàng
Cầm chiếc giày thêu thử gieo quẻ bói


Hát xong cười nói "Đây là khúc hát ở đầu đường xó chợ, không đáng làm bẩn tai chàng, nhưng vì thiên hạ đang ưa chuộng nên thiếp cũng học đòi bắt chước thôi". Giọng nói uốn éo, bộ dạng lả lơi khiến người học trò điên đảo tâm thần, như không kìm lòng được nữa. Lát sau người đẹp giả về ngủ đi ra, người học trò cũng đứng dậy đi theo, hồi lâu không trở vào, đứa tỳ nữ mỏi mệt nằm gục xuống ngủ ở hành lang. Người vợ ngồi trơ trọi một mình, trong lòng vừa buồn vừa giận không sao chịu nổi, nghĩ muốn bỏ ra về nhưng đêm tối mù mịt, lại không nhớ đường đi, băn khoăn không sao kìm lòng được bèn đứng lên ra xem. Vừa tới cạnh cửa sổ đã nghe loáng thoáng tiếng mây mưa bên trong, lại lắng nghe thì ra những gì chồng vẫn thường làm khi âu yếm với mình trong phòng đều giở ra hết. Người vợ lúc ấy tim đập mạnh, tay run bắn, chết điếng cả người, nghĩ không bằng cứ ra cửa nhảy xuống ngòi rãnh mà chết đi.

Vừa căm hờn đi ra thì thấy em trai là Tam Lang cưỡi ngựa tới, xuống ngựa hỏi han. Nàng kể lại mọi việc, Tam Lang cả giận lập tức cùng chị quay lại, vào thẳng trong nhà thì cửa phòng đã cài then nhưng vẫn nghe thấy tiếng thì thào trên giường. Tam Lang nhấc một hòn đá to bằng cái đấu ném mạnh vào cửa sổ làm gãy luôn mấy cái chấn song, nghe bên trong có tiếng kêu lớn "Lang quân vỡ sọ rồi, làm sao?” Nàng nghe thấy kinh hoàng khóc lớn, nói với em “Ta đâu có bảo ngươi giết y, làm thế nào bây giờ”. Tam Lang trợn mắt nói "Chị vừa khóc lóc kéo ta vào, bây giờ hả giận rồi thì lại vì chồng mà oán anh em. Ta không quen chịu sai phái như bọn tôi tớ đâu, rồi quay người bỏ ra. Nàng níu áo nói "Ngươi chẳng đưa ta về lại còn đi đâu?", Tam Lang xô chị ngã lăn xuống đất rồi bỏ đi, nàng giật mình tỉnh dậy mới biết là vừa nằm mơ.

Hôm sau quả nhiên người học trò về, cũng cưỡi con ngựa trắng, vợ kinh ngạc nhưng chưa nói gì. Người học trò kể lại giấc mơ đêm qua, những điều gặp gỡ nhất nhất đều như vợ đã nghe đã thấy, hai người đều lấy làm quái lạ. Kế Tam Lang nghe tin anh rể đi xa về cũng tới thăm hỏi, xong nói với người học trò “Đêm qua nằm mơ thấy anh về, nay quả đúng, thật lạ quá” Người học trò cười nói “May mà ta không bị đá ném chết” Tam Lang ngạc nhiên hỏi sao nói thế, người học trò kể lại giấc mơ, Tam Lang vô cùng kinh ngạc. Thì ra đêm qua Tam Lang cũng nằm mơ thấy gặp chị khóc lóc kể lể nên nổi giận ném đá. Ba giấc mộng khớp nhau, chỉ không biết người đẹp là ai mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 22 --
Châu Nhi
(Châu Nhi)

Người dân ở Thường Châu (huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô) là Lý Hóa, nhà giàu có, nhiều ruộng đất. Hơn năm mươi tuổi mà không có con trai, chỉ có một con gái tên Tiểu Huệ, mặt mũi xinh đẹp, vợ chồng rất yêu dấu. Năm cô gái mười bốn tuổi thì mắc bạo bệnh chết yểu, nhà cửa vắng vẻ, Lý không còn sinh thú mới cưới tỳ thiếp. Hơn một năm người thiếp sinh được một con trai, Lý yêu quý như châu ngọc, đặt tên là Châu nhi. Đứa nhỏ dần dần lớn lên, khôi ngô khả ái nhưng tính rất ngây ngốc, năm sáu tuổi vẫn chưa phân biệt được ngô với đậu, ăn nói thì ngơ ngẩn, Lý cũng ưa nên không ghét bỏ.

Gặp lúc có nhà sư lòa tới khuyến hóa ở chợ, biết rõ cả việc trong khuê phòng nhà người ta, mọi người đều tôn kính như thần. Sư lại nói có thể cứu sống hại chết, ban phúc giáng họa, muốn vài trăm ngàn đồng tiền cứ tìm tên mà đòi, không ai dám chậm trễ. Tới Lý khuyến hóa xin một trăm quan tiền, Lý lấy làm khó, đưa ra mười quan nhưng sư không nhận. Dần dần đưa lên thêm tới ba mươi quan, sư tức giận nói “phải đủ một trăm quan, thiếu một đồng cũng không được". Lý cũng tức giận, thu tiền lại đuổi ra, sư tức tối đứng lên nói "Đừng có hối hận, đừng có hối hận".

Không bao lâu Châu nhi chợt phát bệnh đau tim, lăn lộn cào cấu trên giường, mặt xám như tro. Lý sợ liền đem tám mươi quan tới chỗ nhà sư xin cứu cho, sư cười nói "Có được bấy nhiêu tiền quả không dễ, nhưng nhà sư trong núi thì làm được gì?". Lý về thì Châu nhi đã chết, vô cùng đau đớn bèn đưa đơn kiện lên huyện. Quan huyện cho bắt nhà sư hỏi cung, sư cũng nói đó là việc ngẫu nhiên để phân trần, quan sai đánh đòn thấy bồm bộp như đánh vào cái túi da, liền sai lục soát trong người sư, tìm được hai hình người bằng gỗ, một chiếc quan tài nhỏ, năm lá phướn con. Quan tức giận, lấy tay làm ra vẻ bắt quyết cho nhìn, sư sợ hãi bèn xin cung khai. Quan không thèm nghe, sai đánh chết luôn, Lý bèn lạy tạ ra về.
Lúc ấy trời đã sập tối,

Lý và vợ đang ngồi trên giường, chợt có đứa nhỏ chập chờn bước vào phòng, nói "Sao cha đi mau thế, con cố đuổi mà không kịp", nhìn tới vóc dáng dung mạo thì khoảng bảy tám tuổi. Lý kinh ngạc đang định gạn hỏi thì thấy nó như ẩn như hiện, chập chờn tựa làn mây mù. Lúc chập chờn nó đã lên tới giường, Lý xô xuống, nó rơi xuống đất không có tiếng động, nói "Sao cha lại làm thế?", trong chớp mắt lại đã lên giường trở lại. Lý hoảng sợ dắt vợ bỏ chạy, đứa nhỏ kêu cha gọi mẹ không ngớt. Lý chạy vào phòng vợ, đóng mau cửa lại, quay lại thì đứa nhỏ đã đứng ngay dưới chân, Lý sợ quá hỏi nó định làm gì, đứa nhỏ đáp "Con là người Tô Châu (tỉnh Giang Tô), họ Thiềm, năm lên sáu tuổi đã mồ côi cha mẹ, anh trai chị dâu không chịu nuôi nấng nên tới ở nhà ngoại. Ngẫu nhiên chơi đùa ngoài cổng bị gã yêu tăng kia dụ dỗ giết chết dưới gốc dâu, sai khiến như ma trành, ngậm oan dưới suối vàng không được chuyển sinh. May nhờ cha trả thù cho, xin theo làm con".
Lý nói "Người với ma khác loài, làm sao nương tựa nhau được?". Đứa nhỏ nói "Chỉ xin xếp cho một gian phòng nhỏ, trong bày giường chiếu cho con nằm, mỗi ngày cho một chén cháo loãng, ngoài ra không cần gì khác". Lý theo lời đứa nhỏ mừng rỡ, từ đó một mình ở trong phòng riêng, ra vào ăn nói không khác gì người sống. Nghe người thiếp của Lý khóc lóc, nó hỏi Châu nhi chết đã mấy ngày rồi, người thiếp đáp bảy ngày. Đứa nhỏ nói “Trời đang rất lạnh, chắc xác chưa rã, xin đào mồ lên xem thử, nếu như vẫn còn nguyên vẹn thì con có thể sống lại".
Lý mừng rỡ dắt nó cùng đi, đào mồ Châu nhi lên xem thấy xác vẫn như cũ, đang còn đau xót, ngoảng lại nhìn thì đứa nhỏ đã biến mất, lấy làm lạ bèn cáng cái xác về. Vừa đặt lên giường thì mí mắt đã động đậy, giây lát đòi uống nước, uống xong ra mồ hôi đầm đìa, kế đứng lên. Mọi người mừng Châu nhi đã sống lại, lại còn thêm khôn ngoan thông minh khác hẳn ngày trước. Đến đêm lại lên giường nằm cứng đờ không có chút hơi thở nào, mọi người cùng vào xoay trở vẫn nhắm mắt nằm yên như chết, mọi người đều cả sợ cho rằng lại chết rồi.
Trời vừa sáng nó mới như tỉnh mộng, mọi người xúm lại hỏi han, đứa nhỏ đáp "Trước đây lúc còn theo gã yêu tăng, còn có hai đứa nhỏ khác, một đứa tên Ca Tử, vừa rồi đuổi theo cha không kịp vì nán lại phía sau chia tay Ca Tử đó thôi. Nay Ca Tử ở dưới âm ty làm con nuôi của Khương Viên ngoại, cũng được thong thả. Đêm qua nó tới chơi đùa với con, kế lấy ngựa đưa con về” Vợ Lý nhân hỏi có thấy Châu nhi dưới âm ty không, đứa nhỏ đáp "Châu nhi đã đi đầu thai rồi, nó với cha không có duyên phận cha con, chẳng qua chỉ là Nghiêm Tử Phương ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới đòi món nợ mấy trăm ngàn đồng tiền trước đây mà thôi”. Trước là Lý buôn bán ở Kim Lăng, còn thiếu tiền hàng của Nghiêm chưa trả, kế Nghiêm chết, chuyện ấy không ai hay biết. Lý nghe thấy cả sợ.

Vợ Lý bèn hỏi đứa nhỏ rằng con gặp chị Huệ không, nó đáp "Không biết, lần sau con xuống đó sẽ hỏi thăm". Ba bốn hôm sau, nó nói với mẹ rằng "Chị Huệ dưới âm ty sung sướng lắm, làm vợ của con trai út Sở Giang vương, vàng ngọc đeo đầy người, ra cửa thì có hàng ngàn người tiền hô hậu ủng". Vợ Lý hỏi "Sao nó không về thăm nhà một chuyến?” đứa nhỏ nói "Kẻ đã chết thì không dính líu gì với người thân nữa, nếu có ai kể rõ chuyện kiếp trước mới nhớ lại thôi. Hôm rồi con theo Khương Viên ngoại nên được gặp chị, chị gọi con lên ngồi trên giường san hô, con nói cha mẹ đều rất nhớ nhung mà chị cứ như đang ngủ mơ. Con nói lúc chị còn sống thích thêu quả cầu kết hoa bằng lụa, lúc cắt vải bị đứt tay làm dính máu vào đó, nay mẹ còn treo ở đầu giường, thương nhớ không nguôi, chị quên rồi sao? Chị mới buồn rầu, nói sẽ thưa với lang quân xin về thăm mẹ. Vợ Lý hỏi lúc nào, nó đáp là không biết.

Một hôm nói với mẹ rằng “Chị sắp về tới, có rất nhiều tùy tùng đi theo, phải chuẩn bị nhiều rượu thịt". Giây lát nó chạy vào phòng mẹ nói “Chị tới rồi!” rồi đẩy ghế ra sảnh đường nói "Chị hãy ngồi xuống nghỉ mệt, đừng khóc lóc", mọi người không ai nhìn thấy gì cả. Đứa nhỏ bảo mọi người ra đốt giấy tiền vàng bạc ngoài cổng rồi trở vào nói “Con đã cho những người tùy tùng tạm lui về rồi. Chị nói rằng trước đây cái chăn gấm xanh chị vẫn đắp bị lửa đèn bắn vào làm thủng một lỗ to bằng hạt đậu, nay có còn không?” mẹ đáp “Vẫn còn". Rồi lập tức mở rương lấy ra, đứa nhỏ nói "Chị bảo con đem trải trong phòng cũ, chị hơi mệt phải nghỉ một lúc, ngày mai sẽ lại nói chuyện với mẹ".

Có cô gái họ Triệu bên láng giềng vốn chơi thân với Huệ, đêm ấy chợt mơ thấy Huệ đội khăn mặc áo màu tía tới thăm, chuyện trò cười nói thân thiết như lúc còn sống, kế nói "Ta nay khác loài, giáp mặt cha mẹ mà chẳng khác nào xa cách nhau muôn núi ngàn sông, định mượn xác muội tử về trò chuyện với người nhà, xin đừng hoảng sợ". Đến sáng nàng đang trò chuyện với mẹ chợt ngã lăn ra đất mê man, lát sau mới tỉnh, nói "Tiểu Huệ xa cách thím mấy năm rồi, không ngờ tóc thím đã bắt đầu bạc”. Bà Triệu hoảng sợ nói "Con điên rồi à?", nàng lạy chào rồi đi ra. Bà Triệu biết là có chuyện lạ bèn đi theo, thấy nàng tới thẳng nhà Lý, vào ôm vợ Lý khóc sướt mướt, vợ Lý hoảng sợ không biết chuyện gì. Nàng nói “Hôm qua con về mệt quá chưa nói được câu nào. Con bất hiếu nửa đường chết đi bỏ cha mẹ lại, lại làm cha mẹ phải nhớ nhung, biết lấy gì để chuộc tội?". Mẹ sực hiểu ra bèn khóc hỏi "Nghe nói nay con rất quý hiển, mẹ rất được an ủi, nhưng con gởi thân ở nhà bậc vương hầu, làm sao tới được đây?". Cô gái nói “Chồng con rất thương yêu con, cha mẹ chồng cũng rất thương mến, nên không bị ghét bỏ gì".

Lúc Huệ còn sống hay lấy tay chống cằm, cô gái nói xong cũng làm giống hệt. Giây lát Châu nhi chạy vào nói “Người đón chị tới rồi", cô gái bèn đứng lên khóc lóc từ biệt, nói “Con đi đây". Nói xong ngã lăn ra đất hồi lâu mới tỉnh.

Sau đó vài tháng, Lý mắc bệnh nặng, thuốc men gì cũng vô hiệu. Đứa nhỏ nói "Sợ trong sớm tối sẽ khó cứu, có hai con quỷ ngồi ở đầu giường cha, một đứa cầm gậy, một đứa cầm dây dài bốn năm thước, con đã đêm ngày năn nỉ mà chúng không đi". Mẹ khóc chuẩn bị đồ liệm, đến tối thì đứa nhỏ bước vào nói "Đàn bà con gái tránh ra hết, anh rể tới thăm cha đấy". Giây lát lại vỗ tay cười lớn mẹ hỏi vì sao, nó đáp “Con cười hai con quỷ nghe nói anh rể tới đều rúc vào gầm giường như con rùa rụt đầu”. Lát sau lại thấy nó nhìn lên trời nói chuyện, hỏi thăm anh rể khỏe không, kế vỗ tay nói "Hai thằng quỷ kia, ta năn nỉ không chịu đi bây giờ thật hả dạ". Rồi đi ra cổng, kế quay vào nói "Anh rể đi rồi, hai con quỷ bị bắt buộc sau yên ngựa, chắc cha không sao đâu. Anh rể nói trở về sẽ thưa với Đại vương xin cho cha mẹ sống lâu trăm tuổi", cả nhà đều mừng rỡ.

Đến đêm thì Lý đỡ bệnh, qua vài ngày thì khỏi hẳn. Bèn rước thầy về dạy học cho, đứa nhỏ rất thông minh, mười tám tuổi được vào học trường huyện, vẫn thường nói chuyện dưới âm ty. Thấy trong làng có ai bị bệnh thì chỉ rõ nơi ma quỷ trốn núp, lấy lửa thiêu đất, ai cũng khỏi bệnh. Về sau nó bị bệnh nặng, người sưng phù lên, da chỗ xanh chỗ tím, tự nói là quỷ thần phạt ta về tội tiết lộ chuyện âm ty, từ đó trở đi không nói gì nữa.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 23 --
Quan Nhân Nhỏ Bé
(Tiểu Quan Nhân)

Có quan Thái sử* Mỗ, ta quên mất tên họ, một hôm nghỉ trưa trong phòng chợt thấy có một đội nghi trượng bé tí trong góc phòng kéo ra, ngựa như con ếch, người như con kiến xếp thành vài mươi đội đưa một viên quan đội mũ sa mặc áo thêu ngồi kiệu, rầm rộ kéo ra ngoài cửa đi mất.
Thái sử lấy làm lạ, ngờ là mình ngái ngủ hoa mắt nhìn lầm, chợt có một người tí hon quay vào phòng, vác một cái bao lông chiên to bằng nắm tay đi tới dưới giường, nói rằng chủ nhân có món quà mọn kính biếu Thái sử. Nói xong đứng sững ra đó không đưa quà, lát sau lại cười nói "Vật mọn nhỏ tí, nghĩ chắc Thái sử cũng không dùng được vào việc gì, chẳng bằng ban cho tiểu nhân cho xong".
Thái sử gật đầu, y vui vẻ vác cái bao đi, về sau không lần nào thấy như thế nữa. Tiếc là Thái sử trong lòng đang sợ sệt, chưa kịp hỏi người ấy rằng họ từ đâu tới.

* Thái sử: từ gọi chung quan chức trong Hàn lâm viện.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 24 --
Cô Tư Họ Hồ
(Hồ Tứ Thư)

Thượng sinh người Thái Sơn (tỉnh Son Đông), ở một mình nơi nhà học. Gặp đêm mùa thu, sông Ngân vằng vặc, trăng sáng giữa trời, sinh bồi hồi dưới bóng hoa, nghĩ ngợi vẩn vơ. Chợt có cô gái trèo tường vào, cười nói “Tú tài nghĩ gì lung thế?”. Sinh tới gần nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, mừng quýnh ôm lấy dìu vào, thả sức ân ái. Nàng tự xưng họ Hồ tên Tam Thư, hỏi nhà ở đâu chỉ cười không nói. Sinh cũng không căn vặn, chỉ hẹn gắn bó với nhau dài lâu mà thôi, từ đó đêm nào nàng cũng tới.

Một đêm nàng cùng sinh ngồi kề gối dưới đèn trước màn, sinh âu yếm nhìn không chớp. Cô gái cười hỏi "Sao cứ nhìn thiếp chằm chằm thế”, sinh nói “Nàng như hồng dược bích đào, dù nhìn suốt đêm cũng không chán”. Cô gái nói “Thiếp xấu xí mà chàng còn để vào mắt xanh, nếu gặp em Tư nhà thiếp thì không biết chàng điên đảo tới đâu”. Sinh càng động lòng, hận là chưa được một lần thấy mặt, bèn quỳ xuống nài nỉ.
Đêm sau quả nhiên nàng dắt Tứ Thư cùng tới, thấy tuổi mới cập kê, như cánh sen đượm sương, đóa hạnh khói tỏa, nụ cười chúm chím vô cùng quyến rũ. Sinh mừng quýnh mời ngồi, khi Tam Thư cùng sinh cười nói chuyện trò thì Tứ Thư chỉ cúi đầu mân mê giải thắt lưng thêu mà thôi. Giây lát Tam Thư đứng lên cáo biệt, cô em định theo về thì sinh kéo lại không chịu buông, nhìn qua Tam Thư nói “Ái khanh, phiền nàng nói giùm một tiếng". Tam Thư cười nói "Chàng cuồng yêu quýnh lên rồi, em hãy ở lại một lúc".

Tứ Thư không nói gì, người chị bèn ra về. Hai người cùng nhau ân ái rất vui sướng, kế gối đầu lên tay nhau kể hết mọi chuyện về mình không hề giấu diếm. Tứ Thư tự nói là hồ nhưng sinh say mê sắc đẹp nên cũng không lấy làm lạ. Tứ Thư nhân nói “Chị thiếp tàn độc, nghiệp căn là phải giết ba người, ai bị thị ấy dụ dỗ đều phải chết. Thiếp may được chàng đoái thương nên không nỡ nhìn chàng bị hại, hãy sớm dứt tình với chị ấy đi” Sinh sợ hãi xin chỉ cách, Tứ Thư nói "Thiếp tuy là hồ nhưng học được chính pháp của tiên, vẽ một lá bùa dán lên cửa phòng thì có thể cự tuyệt chị ấy", rồi vẽ ra luôn. Sáng sớm Tam Thư tới nhìn thấy lá bùa liền lui lại nói "Con nhãi phụ ơn, hết lòng với tân lang mà không nhớ tới bà mối. Hai người các ngươi có duyên phận với nhau, ta cũng không thù oán gì, nhưng cần gì phải làm như thế!", rồi bỏ đi.

Vài hôm sau Tứ Thư có việc, hẹn đi vắng một đêm. Hôm ấy sinh ngẫu nhiên ra ngoài đi dạo, dưới chân núi vốn có đám cây kiều mộc, chợt thấy một thiếu phụ từ trong đám cây xanh tốt bước ra, cũng khá xinh đẹp, tới cạnh sinh nói "Tú tài cần gì phải quyến luyến chị em họ Hồ, họ thì không có một đồng để tặng", rồi lập tức đưa cho sinh một quan, nói “Chàng cứ đem về trước mua rượu ngon, thiếp sẽ đem một ít thức ăn tới cùng chàng vui chơi”.

Sinh đem tiền về, làm như lời dặn, giây lát quả nhiên thiếu phụ tới, đặt lên bàn một con gà quay, một vai lợn muối, rút dao thái nhỏ ra rồi cùng ăn uống đùa giỡn rất vui vẻ. Kế tắt đèn lên giường ôm ấp mơn trớn vô cùng buông thả. Sáng ra vừa dậy, đang ngồi ở đầu giường mang giày chợt nghe có tiếng chân, đang còn lắng nghe thì đã vào tới bên màn, té ra là chị em họ Hồ. Thiếu phụ nhìn thấy hai người hoảng sợ chạy trốn, bỏ lại đôi giày cạnh giường. Hai nàng đuổi theo mắng "Con chồn dâm đãng dám ngủ với người ta à?", đuổi theo hồi lâu mới quay lại. Tứ Thư giận sinh, nói "Chàng không khá được! Đã chung chạ với con chồn dâm đãng thì không thể gần gũi nữa!" rồi tức tối bỏ đi. Sinh hoảng sợ xin lỗi, năn nỉ khẩn khoản rất thảm thiết, Tam Thư đứng bên cũng lựa lời khuyên giải Tứ Thư mới nguôi giận, từ đó lại thương yêu nhau như trước.

Một hôm có người ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây) cưỡi lừa tới cổng, nói "Ta tìm yêu quái không phải một sớm một chiều, hôm nay mới gặp” Cha sinh thấy lời nói lạ lùng liền hỏi duyên do, người ấy đáp “Tiểu nhân ngày ngày lênh đênh nơi khói sóng, rong chơi khắp bốn phương, một năm hơn mười tháng thì vắng nhà đến tám chín nên em trai bị bọn yêu quái giết hại. Khi trở về rất đau xót căm hờn, đã thề phải tìm diệt chúng bằng hết, nhưng lặn lội mấy ngàn dặm mà chưa thấy dấu vết. Hiện chúng đang ở nhà ông, nếu không diệt đi thì sẽ bị hại như em ta”
Lúc ấy cha mẹ đã hơi biết chuyện sinh lén lút dan díu với cô gái nên nghe khách nói thế rất sợ, bèn mời vào nhà xin làm phép diệt trừ yêu quái. Khách lấy ra hai cái bình đặt xuống đất, niệm chú hồi lâu thì có bốn làn khói đen bay tới chia nhau chui vào bình. Khách mừng nói “Cả nhà nó đều vào đây cả rồi” rồi lấy bong bóng lợn bịt miệng bình, buộc lại thật chặt. Cha sinh cũng mừng, cố mời khách ở lại ăn cơm. Sinh trong lòng thương xót, lại gần bình nghe trộm thì nghe Tứ Thư trong bình nói “Nỡ ngồi nhìn không cứu, sao chàng bạc tình thế”. Sinh càng mủi lòng vội mở miệng bình nhưng dây buộc chặt không sao cởi được. Tứ Thư lại nói “Đừng làm thế, chỉ cần hất đổ lá cờ trên đàn cúng, lấy kim châm thủng một lỗ trên lớp bong bóng là thiếp ra được". Sinh làm theo lời, quả nhiên thấy một sợi khói trắng chui qua lỗ kim bay lên trời đi luôn. Khách ra thấy lá cờ đổ xuống đất, cả sợ nói "Nó trốn mất rồi, đây ắt là do công tử làm thôi” Kế lắc bình, ghé tai nghe rồi nói “May là chỉ có một con trốn thoát, con ấy không đáng tội chết, có thể tha được", rồi mang bình đi.

Về sau sinh đang coi gặt lúa ngoài đồng, nhìn ra xa thấy Tứ Thư ngồi dưới gốc cây bèn tới gần cầm tay ân cần thăm hỏi. Nàng đáp "Xa nhau chốc đã mười năm. Nay tu luyện đã thành, chỉ vì chưa quên lòng chàng nên lại tới thăm một lần” Sinh muốn nàng cùng về, nàng nói “Thiếp nay không phải như xưa, không thể vương vào tình ái cõi trần được nữa, sau này sẽ còn gặp nhau” nói xong biến mất.

Lại hơn hai mươi năm, sinh đang ở nhà một mình thì Tứ Thư từ ngoài bước vào, sinh mừng rỡ cùng trò chuyện. Nàng nói “Thiếp nay đã được ghi tên vào sổ tiên, lẽ ra không nên trở lại cõi trần, nhưng cảm lòng chàng nên tới kính báo cho chàng biết thọ kỳ đã hết, hãy sớm thu xếp việc nhà. Cũng đừng lo buồn, thiếp sẽ độ trì cho làm quỷ tiên, cũng không khổ đâu” rồi từ biệt mà đi. Đến ngày, sinh quả nhiên qua đời. Thượng sinh là người thân thích của bạn ta là Lý Văn Ngọc, ta cũng từng gặp.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 25 --
Ông Già Họ Chúc
(Chúc Ông)

Thôn Chúc ở huyện Tế Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông họ Chúc hơn năm mươi tuổi bệnh chết. Người nhà về phòng lo may tang phục, bỗng nghe tiếng ông kêu rất gấp, vội chạy tới trước linh sàng thì thấy ông đã sống lại. Mọi người mừng rỡ xúm lại hỏi han, ông chỉ nói với vợ "Ta vừa đi, đã định không trở lại, nhưng đi được mấy dặm nghĩ bỏ một mình thân già bà lại cho lũ con, ấm lạnh đều phải cậy vào người khác cũng không còn sinh thú, chẳng bằng cùng đi với ta nên quay lại đưa bà đi”.
Có người cho là ông mới sống lại nói mê sảng nên không tin, ông lại nhắc lại. Bà vợ nói “Như thế cũng hay, nhưng đang sống làm sao chết ngay được?". Ông vẫy lại nói "Chuyện đó không khó, bà cứ thu xếp những việc lặt vặt trong nhà mau đi". Bà vợ cười không chịu đi, ông lại giục, bà bèn ra ngoài cửa một lúc rồi quay vào nói “Đã thu xếp xong cả rồi” ông bảo đi thay quần áo tử tế bà không đi, ông càng hối thúc, bà không nỡ trái ý bèn vào thay quần áo trở ra, con gái con dâu đều bịt miệng cười. Ông dời đầu qua một bên gối, vỗ tay lên bảo nằm xuống bên cạnh. Bà vợ nói "Con cái đứng cả đây mà nằm sóng đôi nhau thì ra cái gì!” Ông đập tay xuống giường nói “Vợ chồng cùng chết với nhau thì có gì đáng cười?".

Đám con cái thấy cha nổi giận cũng khuyên mẹ tạm chiều. Bà theo lời, cũng ghé đầu xuống gối nằm cứng đờ, người nhà đều phì cười. Lát sau thấy bà tắt dần nụ cười, hai mắt nhắm lại, hồi lâu im lặng như đã ngủ hẳn, mọi người mới tới gần xem thì da thịt đã lạnh mà tắt hơi rồi, xem tới ông cũng thế. Năm Khang Hy thứ 21 (1683) người em dâu ông họ Chúc tới làm thuê ở nhà quan Thứ sử họ Tất* kể lại rất rõ ràng.

* Thứ sử họ Tất: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tế Hữu, tự Tải Tích, người Truy Xuyên Sơn Đông, làm quan tới chức Thượng thư bộ Hộ nhà Minh.

Dị Sử thị nói:Ông già này là kẻ có nết lạ chăng? Suối vàng xa xăm mà đi lại đều do mình, lạ thật! Vả lại muốn người vợ già cùng đi thì về gọi, sao mà ung dung thế! Người lúc sắp chết vốn không nỡ chia tay mà ông thì nói thầm với vợ trên giường, nếu nhiều người làm được như vậy thì không phải lo lắng nhiều về hậu sự vậy!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 26 --
Hiệp Nữ (Hiệp Nữ)

Cố sinh người Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), tài giỏi mà nghèo khó, lại có mẹ già nên không nỡ đi xa, ngày ngày viết liễn vẽ tranh nuôi thân, hai mươi lăm tuổi vẫn lẻ loi chưa có vợ. Trước cửa vẫn có một tòa nhà bỏ không, chợt một bà già và một nữ lang tới thuê ở, sinh thấy nhà không có đàn ông nên không hỏi là ai. Một hôm sinh về nhà, thấy cô gái từ phòng mẹ bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, dáng dấp xinh đẹp, thế gian ít có. Nàng thấy sinh cũng không tránh né gì lắm, nhưng ý tứ có vẻ lạnh lùng. Sinh vào hỏi, mẹ nói "Ấy là cô gái ở trước mặt nhà ta qua mượn kéo và thước may, vừa rồi nói chuyện nhà nàng cũng có một bà mẹ già. Ta xem mẹ con họ không phải hạng nhà nghèo, hỏi sao không lấy chồng thì nàng nói vì còn có mẹ già. Ngày mai ta qua làm quen với mẹ nàng, nhân dò ý thử, nếu họ không đòi hỏi nhiều thì con nuôi giùm mẹ nàng luôn".

Hôm sau bà qua thăm, thì mẹ cô gái là một bà già nghễnh ngãng, nhìn trong nhà thấy không có gạo để qua đêm, hỏi làm nghề gì thì ra chỉ sống nhờ mười ngón tay của con gái. Dần dà đem ý ở chung để hỏi thì bà già có vẻ bằng lòng, nhưng bàn với cô gái thì nàng im lặng như không muốn. Mẹ sinh bèn về kể rõ rồi ngờ vực nói “Hay nàng chê nhà mẹ con ta nghèo chăng? Người đâu không nói cũng không cười, xinh đẹp như đào ly mà lạnh lùng như sương tuyết, thật kỳ lạ”. Mẹ con bàn tán than thở với nhau rồi bỏ qua.

Một hôm sinh ngồi trong phòng sách thì có thiếu niên tới nhờ vẽ tranh, dáng mạo rất đẹp trai, ý tứ có vẻ không đúng đắn, sinh hỏi từ đâu tới thì đáp là ở làng bên cạnh. Từ đó cứ hai ba ngày lại tới chơi một lần, dần dần quen thuộc đùa giỡn, sinh ôm ấp mơn trớn cũng không chống cự gì lắm, bèn tư thông với nhau, nhân đó lui tới ngày càng thân mật. Gặp lúc cô gái qua, thiếu niên đưa mắt nhìn theo hỏi là ai, sinh đáp là con gái nhà láng giềng. Thiếu niên nói "Xinh đẹp như thế mà thần thái sao dễ sợ quá". Lát sau sinh vào nhà trong, mẹ nói "Mới rồi nàng qua vay gạo, nói bếp không nổi lửa trọn ngày rồi. Nàng chí hiếu mà nghèo khổ đáng thương, ta nên giúp đỡ chút ít". Sinh vâng lời mang một đấu gạo qua nói rõ ý mẹ, cô gái nhận nhưng cũng không cảm ơn.

Hàng ngày nàng qua nhà sinh, thấy mẹ sinh may áo khâu giày là may vá hộ, ra vào làm giúp việc nhà như là vợ. Sinh càng biết ơn, có thức ăn ngon là chia phần đưa qua biếu mẹ nàng, nàng cũng không hề cảm tạ. Gặp lúc mẹ sinh bị mụn nhọt ở chỗ kín, sớm tối rên la, cô gái cứ tới cạnh giường thăm hỏi, rửa ráy thoa thuốc cho, mỗi ngày ba bốn lần, mẹ sinh áy náy không yên lòng nhưng nàng không nề bẩn thỉu hôi hám. Mẹ sinh nói "Ôi, làm sao ta có được đứa con dâu như cháu để nuôi dưỡng thân già này đến chết”, nói xong khóc tấm tức. Cô gái an ủi nói "Lang quân đại hiếu, còn sung sướng hơn cảnh con côi mẹ góa nhà cháu gấp ngàn lần!". Mẹ sinh nói "Những việc lặt vặt bên giường thế này thì có phải đứa con trai hiếu thảo làm nổi đâu. Vả lại ta đã già, sớm tối sương nắng chưa biết thế nào nên rất lo vì chưa có cháu nối dõi". Đang nói thì sinh bước vào, mẹ khóc nói "Mẹ làm phiền nương tử đây nhiều lắm, con đừng quên đền ơn". Sinh vái lạy tạ ơn, cô gái nói "Chàng kính mến mẹ ta mà ta không cảm tạ, sao chàng lại tạ ơn ta?” Từ đó sinh càng kính yêu nhưng thái độ của nàng vẫn cứng cỏi, không có chỗ nào có thể suồng sã được.

Một hôm nàng ra tới cửa, sinh nhìn theo đăm đăm, nàng bỗng quay lại nhìn sinh mỉm cười. Sinh mừng quá lòng mong mỏi, liền đuổi theo vào tới nhà nàng, chọc ghẹo nàng cũng không chống cự, lại vui vẻ cùng sinh giao hoan. Kế dặn sinh rằng “Chuyện này chỉ một lần thôi, không có tới hai đâu”. Sinh im lặng ra về, hôm sau lại hẹn hò, cô gái nghiêm sắc mặt không đếm xỉa tới mà bỏ đi thẳng. Hàng ngày nàng qua lại sinh cũng thường gặp, nhưng nàng vẫn giữ vẻ nghiêm nghị từ sắc mặt tới lời nói, hơi tỏ ý đùa cợt thì nàng lập tức trở nên lạnh lùng. Chợt gặp nhau ở chỗ vắng, nàng hỏi thiếu niên thường ngày tới chơi là ai, sinh kể rõ, nàng nói "Y mấy lần tỏ vẻ vô lễ với thiếp rồi, nhưng vì chàng thân mật với y nên thiếp bỏ qua, xin nhắn với y rằng nếu còn như vậy là không muốn sống nữa đấy!".

Thiếu niên tới, sinh kể lại rồi nói “Anh nên cẩn thận, nàng ta thì không thể phạm vào đâu. Thiếu niên nói "Đã không thể phạm thì sao anh lại phạm?". Sinh ra sức biện bạch là không có, thiếu niên nói "Nếu không có thì sao những lời đùa cợt của ta lại tới tai anh được?”. Sinh không đáp được thiếu niên nói “Ta cũng phiền anh nhắn với cô ta là đừng làm ra vẻ, nếu không ta sẽ rêu rao khắp nơi đấy”. Sinh giận dữ ra mặt, thiếu niên mới đi. Một đêm sinh đang ngồi một mình chợt cô gái tới cười nói "Ta với chàng tình duyên chưa dứt, há không phải số trời sao?". Sinh mừng quýnh ôm lấy nàng, chợt nghe có tiếng giày lẹp kẹp, hai người hoảng sợ vùng dậy thì thiếu niên đã đẩy cửa bước vào. Sinh sửng sốt hỏi "Anh định làm gì?", thiếu niên cười nói "Ta tới xem con người trinh tiết thôi!", rồi quay qua cô gái nói "Hôm nay không mắng người à?” Cô gái đỏ mặt dựng ngược lông mày im lặng không nói gì, chỉ phanh áo ngoài để lộ ra một cái túi da, theo tay tuốt ra thì là một thanh chủy thủ sáng loáng dài ngót một thước. Thiếu niên trông thấy sợ hãi bỏ chạy, đuổi theo ra cửa nhìn quanh thì đã biến mất. Cô gái phóng ngọn chủy thủ lên không nghe vút một tiếng, lóe sáng như chiếc cầu vồng bay đi, chớp mắt có vật rơi huỵch xuống đất, sinh vội cầm đèn ra soi thì là một con chồn trắng, đầu một nơi mình một nẻo. Cô gái nói “Đó là thằng nhãi đẹp trai của chàng đấy. Ta vẫn muốn tha, nhưng tự nó không muốn sống nữa thì làm sao được”, rồi thu đao cất lại vào túi. Sinh kéo trở vào, nàng nói "Mới rồi bị con vật này làm mất hứng, xin hẹn đêm mai", rồi ra cửa đi thẳng.

Đêm sau nàng quả tự tới cùng sinh ân ái, hỏi về thuật lạ thì nàng nói "Đó không phải là điều chàng biết được, nên giữ cho kín, tiết lộ ra e không phải là chuyện hay cho chàng đâu. Sinh bàn chuyện cưới hỏi, nàng nói "Đầu gối tay ấp rồi, nấu cơm gánh nước rồi, không phải vợ chồng thì là gì? Đã là vợ chồng mà còn nói chuyện cưới hỏi sao?". Sinh nói "Hay là nàng chê ta nghèo?", nàng đáp "Chàng nghèo thì thiếp giàu sao? Cuộc gặp gỡ đêm nay chính vì thương chàng nghèo đó thôi". Lúc chia tay lại dặn "Việc chung lén này không nên làm mãi. Thấy nên thì thiếp tự tới, không thì đừng ép nhau vô ích". Sau đó gặp nhau sinh cứ lần khân muốn nói chuyện riêng nhưng cô gái đều tránh đi, có điều việc cơm nước vá may nàng đều lo toan như là vợ sinh thật vậy.

Mấy tháng sau mẹ nàng mất, sinh hết sức lo việc mai táng. Cô gái từ đó còn có một mình, sinh nghĩ vắng vẻ có thể gạ gẫm bèn trèo tường vào đứng ngoài cửa sổ gọi mấy lần không thấy đáp, nhìn tới cửa thì nhà vắng người mà then vẫn cài. Sinh ngờ nàng hẹn hò với ai khác nên tối lại tới nhưng nàng cũng đi vắng, bèn tháo miếng bội ngọc đặt ở cửa sổ rồi đi. Qua hôm sau gặp nhau ở phòng mẹ, kế sinh đi ra, nàng theo sau nói "Chàng ngờ thiếp ư? Người ta ai cũng có tâm sự riêng không thể nói ra, nay muốn chàng hết ngờ thì làm sao cho được. Nhưng hiện có chuyện gấp nhờ chàng lo giùm". Sinh hỏi chuyện gì, nàng đáp "Thiếp có thai tám tháng rồi, e sớm tối là sinh nở. Thân phận thiếp chưa rõ ràng nên chỉ có thể sinh con chứ không thể nuôi con cho chàng. Vậy chàng nói kín với mẹ để tìm vú nuôi, cứ nói là con nuôi chứ đừng nói là con của thiếp".

Sinh theo lời kể với mẹ, mẹ cười nói "Lạ thật, cô gái này hỏi cưới thì không chịu mà lại tình nguyện hiến thân cho con ta!", rồi vui mừng sửa soạn để chờ. Lại hơn tháng sau, cô gái mấy hôm lỉền không ra ngoài, mẹ sinh ngờ vực tới nhà dò xét, thấy vắng vẻ yên ắng, gõ cửa hồi lâu mới thấy nàng đầu tóc rối bù mặt mũi lem luốc từ trong đi ra mở cửa cho bà vào rồi đóng lại ngay. Vào trong phòng thì đứa nhỏ mới sinh đã nằm trên giường. Bà giật mình hỏi sinh nở bao lâu rồi, nàng đáp đã ba hôm, mở tã ra xem thì ra là con trai, mặt vuông trán rộng. Bà mừng nói "Con đã sinh cho già cháu nội rồi, nhưng lênh đênh một mình định nương dựa vào đâu”. Nàng nói “Nỗi riêng trong lòng không dám tỏ bày với mẹ, hãy đợi đến tối mà bế cháu về”. Bà về kể chuyện cho sinh nghe, mẹ con cùng lấy làm lạ, đến đêm qua bế đứa nhỏ về.

Mấy hôm sau, lúc gần nửa đêm, cô gái chợt gõ cửa bước vào, tay xách cái túi da cười nói "Việc lớn xong rồi, từ nay xin vĩnh biệt". Sinh vội hỏi duyên cớ, nàng đáp "Cái ơn chàng nuôi mẹ không lúc nào quên. Trước đây nói một lần chứ không có hai vì nghĩ chuyện báo đền không phải ở chỗ cùng chăn gối. Thấy chàng nghèo không cưới vợ được nên muốn giúp chàng kéo dài dòng dõi, vốn nghĩ chỉ một lần là có kết quả, không ngờ lại thấy tháng nên phải phá giới mà ăn nằm lần thứ hai. Nay ơn chàng đã trả, chí thiếp đã toại, không ân hận gì nữa". Hỏi vật gì trong túi nàng nói "Cái đầu của kẻ thù”. Sinh mở xem thấy râu tóc bờm xờm, máu me bê bết sợ quá lại hỏi đầu đuôi, cô gái nói “Trước kia không nói với chàng vì việc lớn mà không kín đáo e bị tiết lộ. Nay việc đã xong, nói ra cũng không sao. Thiếp là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), cha làm quan Tư mã bị kẻ thù hãm hại, tịch thu hết sản nghiệp. Thiếp dẫn mẹ già đi trốn, mai danh ẩn tích đã ba năm rồi. Sở dĩ không trả thù ngay chỉ vì mẹ còn sống, khi mẹ qua đời lại vướng hòn máu của chàng trong bụng nên đến nay mới ra tay được. Đêm trước thiếp đi vắng không có chuyện gì khác, chỉ vì đường lối cửa ngõ chưa thuộc nên e bị lầm lẫn” Nói xong đi ra cửa, lại dặn “Nên chăm sóc con cho khéo, chàng phúc mỏng không thọ nhưng đứa nhỏ này có thể làm rạng rỡ cửa nhà. Đêm khuya không thể quấy rầy mẹ, thôi ta đi đây".

Sinh đang buồn rầu định hỏi đi đâu thì cô gái như ánh chớp lướt đi, trong nháy mắt không thấy đâu nữa. Sinh thở than thương tiếc đứng ngẩn ra như mất hồn. Hôm sau kể chuyện cho mẹ nghe, chỉ còn cùng nhau thở than khen lạ mà thôi. Ba năm sau quả nhiên sinh chết, đứa con năm mười tám tuổi thi đỗ Tiến sĩ, phụng dưỡng bà nội đến già.

Dị Sử thị nói:Người ta ắt trong phòng có kẻ nữ hiệp thì về sau mới có thể nuôi được con hay, nếu không thì chỉ là người này thích heo nọc già còn người kia thích heo đực con của người này mà thôi*.

*Người này thích... mà thôi: nguyên văn 1à "Nhĩ ái kỳ ngải gia, bỉ ái nhĩ lũ trư hĩ", ý nói một người muốn có chồng còn một người muốn có con trai nối dõi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 27 --
Bạn Rượu
(Tửu Hữu)

Xa sinh nhà không khá giả mấy nhưng thích uống rượu, đêm đến mà không uống thật say thì không ngủ được, nên vò rượu ở đầu giường ít khi rỗng không. Một đêm chợt tỉnh, trở mình thấy như có người cùng nằm ngủ chung, nghĩ là cái màn rơi xuống. Đưa tay sờ, thấy rõ ràng có con vật giống con mèo mà lớn hơn, thắp đèn nhìn thì là con chồn uống rượu say nằm phục xuống đó, nhìn tới vò rượu thì đã cạn sạch. Sinh cười nói "Đây là bạn rượu của ta, không nỡ làm nó sợ!”. Bèn đắp thêm chăn cho nó, lại nằm xuống bên cạnh nhưng vẫn để đèn chờ xem động tĩnh. Đến nửa đêm con chồn duỗi ra như tỉnh dậy, sinh cười nói "Ngủ ngon chứ hả?” Giở chăn ra nhìn, thì một nho sĩ tuấn tú đứng lên vái lạy trước giường, tạ ơn không giết.

Sinh nói "Ta có tật thích rượu, người ta cho là ngu si, ông là người tri kỷ của ta, nếu không ngờ vực hãy làm bạn rượu với nhau. Kế lại lên giường cùng ngủ, sinh nói "Ông cứ tới đây thường, đừng nghi ngại gì", hồ hứa sẽ tới. Khi sinh tỉnh dậy thì hồ đã đi, bèn mua một vò rượu lớn để đợi. Đến tối quả nhiên hồ tới, cùng ngồi xếp bằng uống rượu với nhau rất vui vẻ. Hồ tửu lượng rất cao, lại khéo đùa giỡn, nên hai người đều hận là gặp nhau quá muộn. Hồ nói "Mấy lần uống rượn nhờ, không biết lấy gì báo đáp?". Sinh đáp "Vui vẻ với nhau là chính, một đấu rượu có đáng cái gì". Hồ nói "Nhưng ông là học trò nghèo, kiếm tiền mua rượu rất không dễ, phải tính cách giúp ông mới được"

Đêm hôm sau tới nói "Từ đây đi về phía đông nam bảy dặm, cạnh đường có tiền rơi nên tới sớm mà nhặt”. Mờ sáng sinh ra đi, quả nhặt được hai đồng tiền vàng, bèn mua thức ăn ngon thêm vào bữa rượu đêm. Hồ lại nói "Phía sau nhà có tiền thôn nên đào lên". Sinh theo lời, quả đào được hơn trăm quan tiền, mừng nói "Trong túi đã có tiền, không phải buồn nỗi thiếu rượu nữa rồi". Hồ nói “Không phải vậy, nước trong vũng làm sao có thể vốc uống mãi được? Phải cùng nhau tính cách thôi”.

Ngày khác, hồ nói với sinh “Hạt hướng dương ngoài chợ rất rẻ, đó là món hàng quý có thể tích trữ”. Sinh nghe theo, gom mua tới hơn bốn mươi thạch, ai thấy cũng cười. Nhưng ít lâu sau trời đại hạn, lúa đậu đều khô cháy, chỉ có hướng dương là trồng được, sinh đem bán hướng dương cho người ta làm hạt giống, lãi gấp chục lần vốn mua. Từ đó giàu lên, mua hai trăm mẫu ruộng tốt, chỉ hỏi hồ mà trồng trọt, trồng lúa nếp thì trúng lúa nếp, trồng lúa tẻ thì trúng lúa tẻ, mọi việc gieo cấy sớm hay muộn đều theo lời hồ. Hồ ngày càng thân với sinh, gọi vợ sinh là chị, coi con sinh như con. Sau sinh chết, hồ thôi không tới nữa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 28 --
Liên Hương
(Liên Hương)

Tang sinh tên Hiểu tự Tử Minh là người huyện Nghi Châu (tỉnh Sơn Đông), mồ côi từ nhỏ, dạy học ở phố Hồng Hoa. Sinh là người lặng lẽ yên phận, mỗi ngày hai lần qua nhà láng giềng ăn cơm, ngoài ra chỉ ngồi lì ở nhà mà thôi. Người bạn nhà láng giềng tình cờ ghé chơi, đùa nói "Ông ở một mình mà không sợ hồ quỷ à?". Tang cười đáp "Trượng phu sợ gì hồ quỷ. Con đực tới thì ta có gươm sắc, con cái tới thì sẽ mở cửa mời vào".

Bạn về bàn với người quen, cho một kỹ nữ bắc thang trèo qua tường gõ cửa. Sinh nhìn ra hỏi là ai, người kỹ nữ tự xưng là ma. Sinh sợ quá run cầm cập, người kỹ nữ quanh quẩn một lúc rồi bỏ đi. Sáng sớm người bạn nhà láng giềng tới, sinh kể lại rồi nói muốn về quê, bạn vỗ tay cười hỏi "Sao không mở cửa mời vào?". Sinh sực hiểu là giả nên lại ở yên như cũ.

Được nửa năm có cô gái đang đêm tới gõ cửa, sinh cho là bạn lại trêu ghẹo liền mở cửa mời vào, thì là một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành, kinh ngạc hỏi từ đâu tới. Cô gái đáp “Thiếp là Liên Hương, kỹ nữ bên xóm tây". Nguyên trên phố vốn có nhiều thanh lâu nên sinh tin là thật, bèn tắt đèn lên giường, yêu đương cực kỳ âu yếm. Từ đó cứ năm ba ngày nàng lại tới một lần.

Một đêm sinh đang ngồi một mình nghĩ ngợi thì có một thiếu nữ lãng đãng bước vào Sinh cho là Liên Hương nên bước ra chào hỏi, nhưng nhìn mặt thì không phải, thấy khoảng mười lăm mười sáu tuổi, tay áo tha thướt, mái tóc buông rủ, dáng vẻ phong nhã xinh đẹp, bước chân nửa như muốn tới nửa như muốn lui, sinh hết sức kinh ngạc, ngờ là hồ. Nàng nói "Thiếp là con nhà lương dân, họ Lý, hâm mộ chàng cao nhã, mong được đoái tuởng". Sinh mừng rỡ cầm tay nàng, thấy lạnh như băng liền hỏi sao lạnh thế, nàng đáp "Tấm thân yếu đuối đơn hàn lại dầm sương đêm làm sao không lạnh". Kế cởi bỏ quần áo thì rõ ràng còn là xử nữ. Nàng nói "Thiếp vì tình duyên mà tấm thân nhỏ nhoi này một sớm không giữ được nữa, nếu chàng không chê là xấu xí hèn hạ thì xin được thường hầu hạ chăn gối. Trong nhà chàng không có ai khác chứ?”. Sinh đáp "Không có ai khác, chỉ có một kỹ nữ ở cạnh đây nhưng cũng không tới thường” Cô gái nói “Thế thì phải tránh mặt, thiếp không thể ví như hạng kỹ nữ. Xin chàng giữ kín đừng tiết lộ, cứ cô ta tới thì thiếp đi, cô ta đi thì thiếp tới là được".

Khi gà gáy nàng muốn ra đi, tặng sinh một chiếc giày thêu, nói "Đây là vật thiếp mang dưới chân, mân mê cũng đủ bớt nhớ nhung, nhưng có người khác thì cẩn thận đừng lấy ra". Sinh cầm xem thấy cong cong nhỏ tí, trong lòng rất thích. Qua đêm sau nhân lúc vắng người lấy ra ngắm nghía vuốt ve, chợt cô gái lãng đãng bước vào, lại cùng nhau ân ái. Từ đó cứ lúc nào sinh đem chiếc giày ra là cô gái theo lòng mong mỏi tới lập tức. Sinh lấy làm lạ gạn hỏi thì nàng cười đáp "Ngẫu nhiên đúng lúc thôi”.

Một đêm Liên Hương tới, sửng sốt nói “Thần sắc chàng sao tiều tụy thế?”, sinh đáp là không biết. Liên Hương bèn từ biệt, hẹn mười ngày nữa sẽ tới. Sau khi Liên đi đêm nào Lý cũng tới, thường hỏi "Tình nương của chàng sao lâu quá không thấy tới?” sinh bèn nói lại lời hẹn. Lý cười hỏi "Chàng thấy thiếp với Liên Hương ai đẹp hơn?”. Sinh đáp "Có thể nói cả hai đều rất đẹp, nhưng nàng Liên Hương thì da thịt ấm áp hơn". Lý biến sắc nói "Chàng nói hai người cùng đẹp chỉ là chiều lòng thiếp thôi. Chắc cô ta là người tiên trên Nguyệt điện, thiếp không bằng được”. Vì thế không vui, nhân tính lại đã hết kỳ hạn mười ngày bèn dặn sinh giữ kín để nàng nhìn lén xem sao.

Đêm sau quả Liên Hương tới, nói cười rất vui vẻ, đến lúc đi ngủ hoảng sợ nói "Chết rồi, mười ngày không gặp nhau sao chàng thêm suy yếu thế này, có gặp gỡ ai phải không?” Sinh hỏi sao biết, nàng đáp “Thiếp theo thần khí của chàng mà nghiệm thôi. Mạch yếu ớt như tơ rối, đúng là bệnh ma làm". Đêm sau Lý tới, sinh hỏi thấy Liên Hương ra sao, nàng đáp “Đẹp lắm. Thiếp vốn ngờ trên đời không có ai đẹp tới mức ấy, đúng là hồ. Khi cô ta đi ra, thiếp theo sau tới tận hang ở Nam Sơn”. Sinh nghi là Lý ghen nên chỉ ậm ừ, cách một đêm nữa đùa nói với Liên Hương "Ta vốn không tin đâu, nhưng có kẻ nói nàng là hồ đấy". Liên Hương hỏi ai nói thế, sinh cười đáp "Ta nói đùa thôi". Liên Hương nói “Hồ thì khác người chỗ nào?” sinh nói "Người mà bị hồ mê hoặc bệnh nặng quá thì chết, nên rất đáng sợ”. Liên nói “Không phải thế, như tuổi chàng thì ba ngày sau khi ăn nằm với đàn bà tinh khí sẽ phục hồi, cho dù với hồ cũng có gì hại. Còn nếu đêm nào cũng truy hoan thì người còn hại hơn hồ nhiều. Chẳng lẽ những con ma ho lao, cái xác mòn mỏi trong thiên hạ đều ngu xuẩn chết vì hồ cả à? Tuy nhiên ắt có kẻ bình phẩm về ta rồi đây". Sinh cố phân trần là không có ai cả nhưng Liên càng ra sức gạn hỏi, sinh bất đắc dĩ phải nói thật. Liên nói "Thiếp vẫn lấy làm lạ là sao chàng suy yếu, mà sao lại mau lẹ đến thế? Hay cô ta không phải là người chăng?”. Chàng cũng đừng nói gì, tối mai thiếp sẽ làm đúng như cô ta lén nhìn thiếp hôm trước vậy"

Đêm ấy Lý tới, vừa nói vài câu chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng ho hắng, vội vàng bỏ đi. Liên vào nói "Thôi chàng nguy rồi. Cô ta đúng là ma, nếu chàng còn mê sắc đẹp không dứt tình ngay đi thì đường xuống âm ty gần lắm". Sinh nghĩ nàng ghen nên im lặng không đáp. Liên lại nói "Thiếp biết ngay rằng chàng không thể dứt tình, nhưng không nỡ ngồi nhìn chàng chết, ngày mai sẽ đem thuốc tới đây để trừ âm độc cho chàng. Cũng may là gốc bệnh còn cạn, trong mười ngày sẽ khỏi, xin nằm chung giường để săn sóc đến tới khi khỏi hẳn".

Đêm sau quả nàng đem thuốc tới sắc cho sinh uống, phút chốc đi ngoài hai ba lần, thấy ruột gan mát mẻ, tinh thần sảng khoái, trong lòng rất biết ơn nàng nhưng rốt lại vẫn không tin mình bị ma làm. Liên cứ đêm đêm ngủ chung để chăm sóc, sinh muốn giao hoan thì nàng không chịu. Mấy hôm sau sinh khỏe lại rồi, nàng từ giã dặn đi dặn lại là phải dứt tình với Lý, sinh giả vâng dạ. Kế đóng cửa khêu đèn, lại đem chiếc giày ra vuốt ve mơ tưởng. Lý chợt tới, vì xa cách mấy ngày nên có nét hờn giận. Sinh nói “Cô ta suốt mấy đêm liền lo thuốc men cho ta, xin đừng giận dỗi, thương yêu là ở ta thôi", Lý mới hơi nguôi. Khi cùng nằm chung, sinh nói nhỏ "Ta rất yêu nàng, nhưng có kẻ nói nàng là ma đấy". Lý đớ lưỡi hồi lâu rồi mắng "Chắc là con chồn dâm dục nói bậy với chàng rồi. Nếu chàng không dứt tình với nó thì thiếp không tới nữa đâu, rồi khóc hu hu, sinh khuyên giải đủ cách mới nín.

Đêm sau Liên Hương tới, biết Lý lại ghé liền nổi giận nói "Chàng nhất định chết phải không?”. Sinh cười đáp "Sao nàng ghen với cô ta quá thế?” Liên càng tức giận, nói "Chàng gieo mầm chết, thiếp đã trừ cho, không ghen mà được à?". Sinh đặt chuyện để đùa, nói "Cô ta nói hôm trước ta bị bệnh là do hồ gây ra đấy". Liên bèn than "Nếu như lời chàng nói thì chàng say đắm không tỉnh, vạn nhất có bề gì thì dẫu thiếp có trăm miệng cũng làm sao phân trần cho được? Vậy xin giã biệt từ đây sau trăm ngày sẽ xem chàng nằm liệt giường". Sinh cố giữ lại không được, nàng phẩy tay đi thẳng.

Từ đó đến đêm là Lý tới khoảng hơn hai tháng thì sinh thấy mỏi mệt quá, lúc đầu còn tự an ủi nhưng ngày càng kiệt sức, chỉ uống được một chén nước cháo. Muốn về quê dưỡng bệnh mà còn bịn rịn với Lý không nỡ đi ngay, cứ thế thêm vài ngày thì bệnh nặng không sao dậy nổi. Người bạn láng giềng thấy sinh yếu quá, ngày ngày sai học trò trong trường lo lắng cơm nước cho. Sinh lúc ấy mới nghi ngờ Lý, nhân nói với Lý rằng "Ta hối hận không nghe lời Liên Hương nên mới tới nông nỗi này". Nói xong thì ngất đi, giây lát mới tỉnh, giương mắt nhìn quanh thì Lý đã bỏ đi rồi, từ đó bặt tăm luôn. Sinh nằm một mình trong căn nhà vắng, mong đợi Liên Hương như nhà nông chờ ngày lúa chín vậy.

Một hôm đang tơ tưởng chợt có người vén rèm bước vào, thì ra là Liên Hương. Nàng tới cạnh giường, nhếch mép cười nói "Anh nhà quê, ta nói có sai đâu?". Sinh nghẹn ngào hồi lâu, tự nói đã biết tội, chỉ xin cứu cho. Liên nói "Bệnh chàng đã vào sâu trong tim phổi, thật không có cách gì cứu được, ta ghé qua để cùng chàng vĩnh biệt cho rõ là không phải ghen tuông thôi". Sinh vô cùng đau xót, nói “Dưới gối có một vật, phiền nàng xé nát giùm". Liên tìm được chiếc giày, đem ra trước đèn xoay trở ngắm nghía. Lý chợt bước vào, vừa thấy Liên Hương vội quay ra định chạy. Liên đứng chặn ngang cửa, Lý cùng đường không biết chạy đâu. Sinh trách mắng kể tội, Lý không sao đáp được. Liên cười nói "Thiếp nay mới được giáp mặt chị để đối chất. Hôm trước chị nói lang quân mắc bệnh chưa chắc không phải là thiếp gây ra, bây giờ thì sao?". Lý cúi đầu tạ tội, Liên nói “Trông xinh đẹp như thế mà đem tình yêu kết oán cừu sao?". Lý nằm phục xuống đất khóc nức nở, xin thương tình cứu giúp.

Liên đỡ dậy hỏi lai lịch, nàng nói "Thiếp là con Lý Thông phán, tuổi nhỏ chết non, chôn ngoài tường này. Tằm xuân đã chết mà mối tơ chưa dứt, gắn bó với chàng là điều thiếp mong mỏi, chứ thật lòng đâu muốn làm cho chàng chết". Liên hỏi "Nghe nói ma hay làm cho người chết để có thể gặp nhau thường phải không?” Lý đáp "Không phải thế. Hai con ma gặp nhau thì không có gì chút sung sướng, nếu sung sướng thì há dưới suối vàng lại thiếu kẻ trai tráng sao!". Liên nói "Ngốc thật, cứ đêm đêm hành dâm thì với người cũng không chịu nổi, huống chi là với ma". Lý hỏi hồ cũng hiếu dâm làm chết người chứ đâu riêng gì ma, Liên đáp "Đó là bọn hút tinh khí tu luyện nhưng thiếp không phải loại ấy. Cho nên ở đời có loại hồ không hại người, nhưng quyết không có loại ma nào không hại người, vì âm khí nặng nề vậy".

Sinh nghe nói chuyện mới biết hai người đúng là hồ và ma, nhưng vì gần gũi đã quen nên cũng không sợ hãi, song nghĩ mình hơi thở chỉ còn như sợi tơ bất giác đau lòng khóc lớn. Liên nhìn lại hỏi định xử sự với lang quân thế nào, Lý ấp úng từ tạ. Liên cười nói "Chỉ e lang quân khỏe rồi nương tử lại ghen với ta?". Lý khép nép nói "Nếu chị có tài thần y giúp thiếp khỏi mang tội với lang quân thì thiếp phải úp mặt xuống đất chứ đâu còn dám nhìn thiên hạ nữa!". Liên mở túi lấy thuốc ra nói "Thiếp đã biết trước là sẽ có hôm nay nên sau khi từ giã liền đi hái thuốc khắp các núi, suốt ba tháng mới đủ dược vị, dù bệnh nặng gần chết uống vào cũng khỏi. Nhưng vì đâu mà mắc bệnh thì phải lấy đó dẫn thuốc, nên không thể không nhờ nàng ra sức".

Lý hỏi cần giúp gì, Liên đáp "Chỉ cần một ít nước bọt từ môi son thôi. Ta sẽ đặt hoàn thuốc lên miệng chàng, phiền nàng kề môi nhổ nước bọt đưa thuốc xuống". Lý đỏ bừng cả mặt, cúi đầu quay qua ngó chiếc giày Liên hỏi "Em chỉ có chiếc giày là đắc ý thôi sao?". Lý càng thẹn, nhìn quanh như không còn mặt mũi nào, Liên nói "Đó là ngón thường ngày đã quen nay sao lại tiếc?", kế lấy thuốc đặt lên môi sinh rồi quay qua giục Lý. Lý bất đắc dĩ phải làm, Liên bảo nhổ thêm lần nữa, Lý lại làm theo, ba bốn lần thì hoàn thuốc trôi xuống cổ họng sinh. Giây lát trong bụng sinh có tiếng ùng ục như sấm, Liên cho uống một hoàn nữa, tự mình kề môi tiếp hơi cho sinh nuốt. Sinh thấy đan điền nóng ran, tinh thần phấn chấn, Liên nói "Khỏi rồi".

Lý nghe gà gáy vội vàng từ giã.
Liên vì sinh vừa khỏi bệnh còn cần chăm sóc, qua láng giềng ăn cơm thì không tiện bèn đóng cổng lại khóa ngoài, giả làm ra vẻ như sinh về quê để tuyệt hết bạn bè, ngày đêm ở cạnh chăm sóc cho sinh. Lý thì đến đêm là tới, lo cơm nước rất ân cần, thờ Liên như chị, Liên cũng rất thương yêu. Được ba tháng thì sinh khỏe mạnh như cũ, Lý bèn vài đêm mới tới. Ngẫu nhiên ghé qua thì chỉ nhìn qua sinh rồi đi ngay, lúc ngồi với nhau cũng thường rầu rầu không vui. Liên thường giữ lại ngủ chung nhưng nhất định không chịu, sinh đuổi theo bế về, thấy thân thể nhẹ bổng như hình nộm. Lý không trốn được bèn để nguyên áo nằm yên, co ro còn không đầy hai thước, Liên càng thêm thương xót, lén bảo sinh ôm ấp vuốt ve nhưng lay gọi mấy cũng không tỉnh. Sinh thiếp đi, khi tỉnh dậy sờ xem thì nàng đã biến mất.

Hơn mười ngày sau Lý không tới nữa, sinh nhớ nhung tha thiết cứ đem chiếc giày ra mân mê. Liên than "Người yểu điệu như thế thiếp nhìn thấy cũng thương, huống gì là đàn ông". Sinh nói "Trước đây cứ mân mê chiếc giày là lập tức nàng tới, ta vẫn ngờ vực nhưng không ngờ nàng là ma. Nay thấy vật nhớ người, thật rất thương xót" rồi sa nước mắt.

Nguyên là nhà giàu họ Chương có con gái tên Yến Nhi, mười lăm tuổi thì bị bệnh tắc mồ hôi chết, qua đêm lại sống lại, trở dậy nhìn ngó rồi định chạy, Chương đóng chặt cửu không cho chạy ra. Cô gái nói "Ta là hồn con gái Lý Thông phán, cảm tình Tang quân thương yêu, giày ta còn để ở nhà chàng. Thật ra ta là ma thôi, ngăn cấm ta làm gì” Chương nghe lời nói có duyên do liền hỏi vì sao tới đây cô gái cúi xuống ngẩng lên cũng mịt mờ không tự hiểu. Có người nói Tang sinh bị ốm đã về quê rồi, nàng cố cãi là bịa đặt, người nhà nghe thế rất nghi ngờ. Người bạn láng giềng của sinh nghe chuyện bèn trèo tường vào nhìn, thấy sinh đang ngồi trò chuyện với một mỹ nhân liền xô cửa xông vào, đang lúc ầm ĩ thì mỹ nhân đã biến mất. Bạn hoảng sợ gạn hỏi, sinh cười nói "Lúc trước ta đã nói với ông rồi, con cái tới thì sẽ mời vào mà".

Bạn kể lại lời Yến Nhi, sinh muốn ra ngoài tới nhà họ Chương dò la nhưng khổ nỗi không có cớ. Bà Chương nghe tin quả sinh chưa về quê càng lấy làm lạ bèn sai mụ ở tới đòi chiếc giày, sinh liền đưa ra. Yến Nhi được giày rất mừng nhưng mang thử thì nhỏ hơn chân một tấc, cả sợ cầm gương soi bỗng sực hiểu ra là mình mượn xác để sống lại, nhân kể rõ lại mọi việc, bà Chương lúc ấy mới tin. Cô gái soi gương khóc lớn, nói "Mặt mũi ngày trước thấy rất tự tin mà mỗi khi gặp chị Liên còn xấu hổ, giờ đây thành ra thế này thì cứ làm ma còn hơn?". Rồi cầm chiếc giày kêu khóc không ai khuyên dỗ được, kế trùm chăn nằm yên, mang cơm tới cũng không ăn, toàn thân sưng phù. Bảy ngày liền không ăn uống mà không chết, dần dần hết phù, thấy đói quá không chịu nổi bèn ăn uống trở lại. Vài hôm sau toàn thân ngứa ngáy, da cũ lột hết, sáng ra mang giày thấy rơi ra mới so lại thì giày lớn quá, lại thử chiếc giày cũ thấy vừa khít. Mừng quá soi gương thì mặt mũi mày mắt giống hệt lúc trước, càng mừng rỡ liền rửa mặt chải đầu tới gặp mẹ, ai thấy cũng ngạc nhiên.

Liên Hương nghe chuyện lạ bèn khuyên sinh nhờ người mai mối dạm hỏi, nhưng sinh vì giàu nghèo xa cách nên chưa dám làm ngay. Vừa gặp dịp sinh nhật bà mẹ Yến Nhi, sinh theo bọn con cháu dâu rể tới chúc thọ. Bà thấy có tên sinh bèn bảo Yến Nhi đứng sau rèm nhận mặt. Sinh vào sau cùng, nàng sấn ra kéo áo đòi theo về nhà, mẹ quát mắng mới xấu hổ trở vào. Sinh nhìn kỹ rõ ràng là Lý, bất giác động lòng rơi lệ lạy phục xuống đất không đứng dậy, bà không cho là khinh mạn, bước ra đỡ lên. Sinh về năn nỉ ông cậu làm mối, bà Chương bàn cho sinh ở rể. Sinh về kể lại cho Liên Hương và bàn chuyện sính lễ. Liên buồn bã hồi lâu rồi từ biệt đi. Sinh hoảng sợ khóc lóc, Liên nói "Chàng làm đám cưới ở nhà người ta, thiếp đi theo thì còn mặt mũi nào nữa?". Sinh bàn trước hết đưa Liên về quê rồi sau sẽ cưới Yến Nhi, Liên nghe theo. Sinh đem tình thật thưa với Chương, Chương nghe nói sinh đã có vợ nổi giận chửi mắng, Yến Nhi hết sức phân trần Chương mới nghe theo.

Đến ngày sinh đi đón dâu, khi đi trong nhà chỉ xếp đặt qua loa nhưng lúc về thì từ cổng tới thềm đều trải nệm, trăm ngàn ngọn đèn lồng sáng rực bày ra như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng tân hôn, bỏ khăn che mặt ra, hai người thấy nhau vui mừng chuyện trò như ngày trước. Liên Hương mời rượu hợp cẩn rồi gạn hỏi chuyện lạ hoàn hồn. Yến Nhi nói "Hôm ấy uất ức buồn bã, nghĩ mình là ma rất thẹn thùng nên sau khi từ biệt phẫn uất không trở về mồ, theo gió phiêu bạt, thấy người sống nào cũng thèm, ban ngày thì nương tựa cỏ cây, ban đêm thì theo chân vất vưởng. Ngẫu nhiên tới nhà họ Chương, thấy có xác thiếu nữ nằm trên giường liền nhập luôn vào, cũng không biết là được sống lại ngay".

Liên nghe thế im lặng như có điều suy nghĩ. Hai tháng sau Liên sinh một con trai, sinh xong phát bệnh nặng, ngày càng trầm trọng, cầm tay Yến nói "Dám xin lấy đứa nhỏ làm phiền, con ta cũng như con nàng vậy". Yến sa nước mắt ân cần an ủi, bàn rước thầy thuốc nhưng Liên cứ chối từ. Bệnh Liên càng nặng, hơi thở thoi thóp, sinh và Yến Nhi đều khóc. Chợt Liên giương mắt nói "Đừng như thế, chàng vui được sống, riêng thiếp vui được chết, nếu có duyên thì mười năm sau lại gặp thôi", dứt lời thì tắt hơi. Mở chăn ra liệm thấy xác dã biến thành chồn, sinh không nỡ coi là khác loài, chôn cất rất hậu.

Đứa con tên Hồ Nhi, Yến săn sóc như con mình sinh ra, mỗi năm đến tiết Thanh minh đều bế ra mộ Liên khóc lóc. Mấy năm sau sinh đỗ thi hương, nhà cũng dần khá giả, chỉ ngặt nỗi Yến không sinh nở, mà Hồ Nhi thông minh nhưng yếu ớt nhiều bệnh nên Yến thường nghĩ tới việc mua hầu thiếp cho sinh. Một hôm chợt tỳ nữ thưa ngoài cổng có một bà già dắt con gái muốn bán. Yến gọi vào, vừa nhìn đã cả kinh nói "Chị Liên lại ra đời sao?". Sinh nhìn thấy thấy quả rất giống cũng kinh ngạc, hỏi nàng ta bao nhiêu tuổi, bà già đáp là mười bốn. Hỏi muốn bán giá bao nhiêu, bà nói "Già chỉ có mình nó là con, nếu nó được chỗ yên thân, ta cũng có cơm ăn, sau này nắm xương già không bị ném ra ngoài ngòi rạch là đủ”. Sinh trả nhiều tiền, giữ bà ở lại. Yến cầm tay cô gái dắt vào phòng kín cười hỏi "Ngươi biết ta không?”, nàng đáp không biết. Hỏi tên họ, nàng nói "Thiếp họ Vi, cha làm nghề bán tương ở thành Từ Châu, qua đời đã ba năm". Yến bấm đốt tay nghĩ lại thì Liên đã chết đúng mười bốn năm, lại nhìn kỹ mặt mũi dáng điệu nàng thấy đều giống hệt Liên bèn đập vào trán nàng gọi "Chị Liên, chị Liên, đã hẹn mười năm gặp lại, xin đừng dối ta!".

Cô gái chợt như tỉnh mộng, bật kêu lên "ôi!" rồi nhìn Yến Nhi chằm chằm. Sinh cười nói "Đây cũng giống chim én quen nhà về chốn cũ vậy". Cô gái sa nước mắt nói "Phải rồi. Nghe mẹ nói lại là lúc thiếp vừa sinh ra đã biết nói, nhà cho là điềm bất tường bèn lấy máu chó cho uống nên quên mất tiền duyên, nay thật đúng như vừa tỉnh mộng. Nương tử là dì Lý tủi phận làm ma đó chăng?", rồi cùng nói chuyện tiền sinh, nửa mừng nửa tủi. Một hôm vào ngày Hàn thục, Yến nói “Hàng năm đến hôm nay là ngày thiếp với lang quân khóc chị". Rồi cùng nhau tới mộ Liên, thấy cỏ hoang rậm rạp, cây cối đã vừa ôm, cô gái cũng than thở, nói với sinh rằng "Thiếp cùng chị Liên hai đời tình nghĩa, không nỡ xa nhau, nên chôn chung một huyệt".

Sinh theo lời, bốc mộ Lý lấy cốt đem về hợp táng với di cốt Liên. Bạn bè nghe chuyện lạ mặc quần áo đẹp tới dự lễ hợp táng, không hẹn mà có tới vài trăm người.

Năm Canh tuất ta đi chơi miền nam tới Nghi Châu gặp mưa dầm nghỉ lại nhà trọ, có Lưu Tử Kính là anh em cô cậu đưa cho xem tập Tang sinh truyện do bạn đồng xã là Vương Tử Chương soạn khoảng hơn vạn chữ, ta được đọc hết, đây chỉ tóm tắt ghi lại thôi.

Dị Sử thị nói:Than ôi, người chết thì cầu đưọc sống, kẻ sống lại cầu được chết, cái khó có được trên đời há không phải là thân xác con người sao? Sao có được tấm thân trọn vẹn lại bỏ mặc, đến nỗi thản nhiên mà sống chẳng bằng hồ, lặng lẽ mà chết chẳng bằng ma!
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 29 --
A Bảo
(A Bảo)

Tôn Tử Sở người Việt Tây là danh sĩ, sinh ra có ngón tay thừa, tính viễn vông thật thà, ai lừa cũng tin là thật, ai mời dự tiệc mà có ca kỹ thì nhìn thấy từ xa đã bỏ chạy. Có người biết thế dụ tới, cho kỹ nữ ôm ấp thì mặt đỏ tới cổ, mồ hôi ròng ròng. Họ vì vậy buồn cười, nhại lại dáng vẻ ngây ngốc của sinh đặt lời chế nhạo, gọi là “Tôn ngây".

Nhà buôn lớn trong huyện là ông Mỗ, giàu ngang bậc vương hầu, thông gia họ hàng đều là nhà quý hiển, có con gái tên A Bảo rất xinh đẹp đến tuổi gả chồng. Các nhà đại gia tranh nhau đưa sính lễ tới dạm hỏi nhưng ông đều không vừa ý. Tôn bấy giờ góa vợ, có người đùa khuyên nên cậy mối đến hỏi. Sinh hoàn toàn không xét mình, quả nhiên theo lời. Ông vốn nghe tiếng sinh nhưng chê nghèo, bà mối ra thì gặp A Bảo hỏi, bà ta kể lại. Cô gái đùa nói “Y chặt bỏ ngón tay thừa đi thì ta sẽ về theo". Bà mối kể lại, sinh nói “Không khó". Bà ta về rồi, sinh lấy búa chặt ngón tay thừa, đau thấu cả ruột, máu chảy lênh láng suýt chết, qua mấy ngày mới dậy được, qua nhà bà mối cho xem. Bà ta hoảng sợ chạy qua nói với cô gái. Nàng cũng lấy làm lạ, nhưng đùa nói ráng xin bỏ cái ngây đi. Sinh nghe thế cãi ầm lên, nói mình không ngây, nhưng không sao làm rõ cho được. Bèn đổi sang nghĩ rằng A Bảo chưa chắc đã đẹp như tiên, sao tự đánh giá mình quá cao như thế, từ đó lòng mong ước cũng nguội lạnh.

Gặp tiết Thanh minh, theo tục lệ thì hôm ấy phụ nữ ra ngoài đi chơi, đám thiếu niên khinh bạc cũng họp bọn đi theo mặc tình bình phẩm. Có đám bạn học lôi kéo sinh đi, có kẻ đùa nói “Lại không muốn xem mặt người mình thích sao?” Sinh cũng biết là nói đùa, nhưng vì đã bị cô gái coi thường nên cũng muốn biết mặt một lần, bèn vui vẻ theo họ đi tìm. Thấy xa xa có một cô gái nghỉ dưới gốc cây, đám trai trẻ suồng sã vây quanh như bức tường, mọi người nói “Đó ắt là A Bảo” Rảo bước tới xem thì quả là Bảo, nhìn kỹ thấy xinh đẹp có một không hai. Một lát người xem càng đông, cô gái đứng dậy vội vàng bỏ đi. Mọi người đều say mê khen tóc khen chân, nhao nhao như điên, chỉ riêng sinh im lặng. Đến lúc cả bọn đã tan đi, ngoái nhìn thấy sinh vẫn đúng ngây ra ở chỗ cũ, gọi thì không đáp. Mọi người kéo đi nói "Hồn theo A Bảo rồi à?”, cũng không đáp. Họ biết tính sinh vốn lẩn thẩn nên cũng không lấy làm lạ, người xô kẻ kéo dẫn về.

Đến nhà sinh lên ngay giường nằm, cả ngày không dậy, thiêm thiếp như say rượu, gọi cũng không tỉnh. Người nhà ngờ là hồn đi lạc, ra gọi hồn ngoài đồng trống song vô hiệu, đập mạnh hỏi thì ú ớ nói "Ta ở nhà cô Bảo", hỏi kỹ thì lại im lặng không đáp, người nhà phát hoảng không hiểu thế nào. Vốn khi sinh thấy cô gái bỏ đi thì lòng không nỡ dứt, thấy mình đi theo, dần dần sát tới vạt áo dây lưng cũng không ai la mắng, bèn theo nàng về nhà, ngồi nằm đều dựa kề một bên, đêm về lại ôm ấp vuốt ve, rất lấy làm thích, nhưng thấy trong bụng đói quá, muốn trở về nhà mà quên mất cả đường. Cô gái cứ nằm mơ thấy giao hoan với một người, hỏi tên thì đáp "Ta là Tôn Tử Sở”, lấy làm lạ nhưng không thể nói ra với ai. Sinh nằm ba ngày, hơi thở chỉ còn thoi thóp, người nhà hoảng sợ nhờ người tới lấy lời mềm mỏng nói với cha cô gái xin tới nhà để gọi hồn sinh. Ông Mỗ cười nói "Trước nay không từng qua lại, làm sao mất hồn ở nhà ta được?", năn nỉ mãi ông mới chịu.

Thầy đồng cầm áo mặc và chiếu nằm của sinh qua, cô gái gặp hỏi biết chuyện, hoảng sợ không cho đi tìm chỗ khác mà dẫn thẳng vào phòng mình, cho mặc ý kêu gọi rồi ra. Thầy đồng vừa về tới cổng thì ở sinh trên giường đă rên lên. Khi tỉnh dậy thì đồ vật hộp phấn trong phòng cô gái màu gì tên gì đều kể ra vanh vách. Cô gái nghe chuyện lại càng hoảng sợ, thầm cảm thâm tình của sinh. Sinh khi đi lại được rồi thì đứng ngồi đều trầm tư như đãng trí, cứ dò tin tức A Bảo, chỉ mong gặp lại.

Đến ngày Phật đản nghe tin nàng sẽ dâng hương ở chùa Thủy Nguyệt, sinh dậy thật sớm ra đợi bên đường, mỏi mòn trông ngóng, đến giữa trưa cô gái mới tới. Nàng ngồi trong nhìn ra thấy sinh, lấy bàn tay búp măng vén rèm nhìn đăm đăm, sinh càng xao xuyến bèn đi theo. Nàng bỗng sai tỳ nữ tới hỏi tên họ, sinh nói rõ cả, lòng càng say mê. Xe đi rồi mới quay về, tới nhà lại mắc bệnh trở lại, nằm thiêm thiếp không ăn không uống, trong giấc mơ cứ gọi tên A Bảo, thường giận vì hồn mình không thiêng nữa.

Trong nhà vốn có nuôi một con vẹt, bỗng lăn ra chết, đứa nhỏ cầm chơi trên giường. Sinh nghĩ nếu mình được làm con vẹt thì có thể vỗ cánh bay đến phòng cô gái ngay. Lòng đang mơ tưởng thì thấy mình đã là con vẹt, liền bay thẳng tới phòng A Bảo. Cô gái mừng rỡ bắt lấy, buộc cánh lại lấy hạt vừng cho ăn. Vẹt kêu to "Đừng buộc, ta là Tôn Tử Sở đây!". Cô gái kinh hãi, mở dây cũng không bay, bèn khấn “Tình sâu đã khắc trong lòng, nhưng nay người và chim khác loài, làm sao tròn được nhân duyên?” Chim nói "Được gần vóc thơm là đủ mãn nguyện rồi". Người khác cho mồi thì không ăn, cô gái cho mới ăn, nàng ngồi thì đậu trên gối, nàng nằm thì đậu cạnh giường. Như thế ba ngày, cô gái rất thương, lén sai người qua thăm dò thì sinh đã nằm cứng đờ tắt thở đã ba ngày, chỉ trên ngực còn hơi ấm thôi. Nàng lại khấn rằng "Nếu chàng trở lại làm người thì xin theo đến chết". Chim nói "Lừa ta đấy!", cô gái bèn thề thốt, chim nghiêng đầu nhìn như suy nghĩ. Lát sau nàng bó chân, cởi giày để dưới giường. Vẹt sà xuống ngậm giày bay đi, nàng vội gọi lại thì đã bay xa rồi. Nàng sai bà đầy tớ qua thăm dò thì sinh đã tỉnh. Người nhà thấy con vẹt ngậm chiếc giày thêu bay về rơi xuống đất chết, đều đang lạ lùng. Sinh vừa tỉnh là hỏi ngay tới chiếc giày, mọi người đều không biết vì sao. Vừa lúc bà đầy tớ tới, vào thăm sinh, hỏi chiếc giày đâu, sinh nói "Đó là vật làm tin của A Bảo, nhờ về nhắn hộ rằng tiểu sinh không dám quên lời vàng đá".

Bà già về thưa lại, cô gái càng lấy làm lạ bèn bảo tỳ nữ kể lại sự tình cho mẹ. Mẹ hỏi lại thấy đúng bèn nói “Y tài danh cũng không tệ, có điều nghèo quá. Kén chọn mấy năm lại được rể như thế, e các nhà quý hiển cười cho” Cô gái lấy cớ chiếc giày thề không lấy người khác. Ông bà chiều lòng, cho người báo với sinh, sinh mừng khỏi bệnh ngay. Ông bàn cho sinh ở rể, nàng nói "Con rể không thể ở lâu tại nhà cha vợ, huống chàng lại nghèo, càng ở lâu càng bị coi thường. Con đã theo chàng thì ở nhà tranh nhà lá cũng cam lòng, ăn rau lê rau hoắc cũng không oán trách". Sinh bèn làm lễ cưới, vui mừng như qua kiếp khác được gặp lại nhau.

Từ đó nhà sinh nhờ có của hồi môn của nàng cũng hơi dư dật, mua thêm ruộng đất. Nhưng sinh mê sách, không biết sai bảo người nhà làm lụng, được cô gái khéo buôn bán nên cũng không phiền sinh phải lo tới việc nhà. Được ba năm nhà giàu thêm, bỗng sinh mắc bệnh tiêu khát mà chết. Cô gái khóc lóc rất đau thương, bỏ ăn bỏ ngủ, không sao khuyên giải được. Nhân lúc đêm khuya nàng thắt cổ tự tử, đứa tỳ nử biết được vội cứu nên tỉnh lại, nhưng vẫn không chịu ăn uống. Ba hôm sau mời họ hàng tới để liệm sinh, nghe trong quan tài có tiếng rên, mở ra thì sinh đã sống lại. Sinh kể khi ra mắt Diêm Vương, vì bình sinh thành thật chất phác nên được cho làm Bộ tào. Chợt có người bẩm vợ Bộ tào họ Tôn sắp tới, Diêm Vương tra sổ rồi nói người ấy chưa đáng chết, người kia lại bẩm đã bỏ ăn ba ngày rồi, Diêm Vương ngoảnh lại nói cảm vì vợ ngươi tiết nghĩa nên cho sống lại rồi sai lính thắng ngựa đưa về. Từ đó bình phục dần.

Gặp năm có kỳ thi hương, trước khi vào trường bọn thiếu niên đùa cợt, cùng nghĩ ra bảy đề bài hiểm hóc, kéo sinh ra chỗ vắng nói riêng là nhờ quen biết với nhà đại gia nọ, xin đưa kín cho nhau. Sinh tuởng thật, đêm ngày mài miệt làm thành bảy bài, mọi người cười thầm. Năm ấy quan Chủ khảo nghĩ rằng ra đề quen thuộc thì thường có cái tệ sao chép văn cũ, bèn cố sức thay đổi cho khác hẳn. Giấy đầu bài phát ra đều đúng bảy đề nọ, nhờ vậy sinh đỗ Thủ khoa. Năm sau đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Hàn lâm. Vua nghe chuyện lạ triệu vào hỏi, sinh khải tấu, vua rất khen ngợi, lập tức triệu A Bảo vào bệ kiến, tặng thưởng rất nhiều.

Dị Sử thị nói:Tính ngây thì chí ngưng, nên kẻ mê sách thì văn ắt hay, kẻ mê nghề thì tài ắt khéo. Những người lận đận không thành công trên đời đều tự cho rằng mình không ngây, nhưng những kẻ ham sắc đẹp mất nghiệp, mê cờ bạc khuynh gia thì là ngây việc người chăng? Từ đó đủ biết kẻ trí tuệ khôn lanh mà phạm lỗi mới đúng là ngây thật, chứ Tôn Tử Sở kia thì có gì ngây đâu!



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 30 --
Nhiệm Tú
(Nhiệm Tú)

Nhiệm Kiến Chi ngươi đất Ngư Đài (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn áo lông chiên, mang hết tiền bạc tới Thiểm Tây. Trên đường gặp một người tự xưng là Thân Trúc Đình quê ở Túc Thiên (tỉnh Giang Tô), trò chuyện rất hợp ý bèn kết làm anh em, cùng đi với nhau. Tới đất Thiểm Nhiệm mắc bệnh không dậy nổi, Thân chăm sóc rất chu đáo, nhưng hơn mười hôm thì bệnh càng nặng, bèn nói với Thân “Nhà ta vốn không giàu có, tám miệng ăn đều trông vào một người dãi nắng dầm sương. Nay ta bất hạnh chết ở quê người, chỉ có ông là anh em, chứ ngoài hai ngàn dặm có ai đâu. Trong túi ta còn hơn hai trăm lượng vàng, ông lấy một nửa mua quan tài khâm liệm cho ta và làm tiền đi đường, còn một nửa để lại cho vợ con ta, chở giúp quan tài về quê cho. Nếu nắm xương tàn về được tới quê nhà, thì tất cả nhũng hành lý khác không nói tới nữa". Rồi gượng ngồi dậy viết thư đưa Thân, đến đêm thì chết.

Thân lấy năm sáu lượng bạc mua chiếc quan tài xấu, tẫn liệm xong chủ trọ cứ hối thúc đưa đi. Thân nói thác là để tìm nơi chùa quán xin quàn tạm rồi trốn luôn không quay lại. Hơn năm sau gia đình Nhiệm mới được tin đích xác. Con trai Nhiệm tên Tú, năm ấy mười bảy tuổi, đang còn đi học nhưng vì cha mất phải thôi, muốn đi tìm quan tài cha. Mẹ thương con còn nhỏ, Tú khóc lóc muốn chết đi, mẹ bèn cầm bán đồ dùng lấy tiền, sai lão bộc đi cùng Tú, nửa năm mới về tới. Sau khi chôn cất xong, nhà nghèo không còn chút gì, may là Tú thông minh, hết tang xong được vào học trường huyện Ngư Đài.

Nhưng Tú tính lêu lổng thích cờ bạc, mẹ răn dạy rất nghiêm mà chứng nào tật ấy. Một hôm quan Học sứ về khảo hạch, Tú bị xếp hạng chót, mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn. Tú sợ hãi thẹn thùng, vào thề trước mặt mẹ, từ đó đóng cửa học tập hơn một năm, liền được xếp hạng ưu, cấp cho tiền gạo. Mẹ bảo Tú mở trường dạy học, nhưng rốt lại người ta vẫn dè bỉu vì việc Tú lêu lổng trước kia. Có người chú họ là Trương Mỗ buôn bán ở kinh tới rủ cùng đi, xin đưa Tú theo làm bạn, bao nhiêu phí tổn xin chịu hết, Tú mừng rỡ đi theo.

Tới Lâm Thanh (thuộc tỉnh Sơn Đông) ghé thuyền ngoài cửa quan. Lúc ấy thuyền buôn muối khắp nơi về tụ họp ở đó, cột buồm san sát như rừng. Tú đi nằm mà nghe tiếng nước vỗ, tiếng người nói cứ ì oạp râm ran, không sao ngủ được. Đến khuya chợt nghe thuyền bên cạnh có tiếng gieo xúc xắc rào rào, đâm ra ngứa nghề. Lắng nghe khách khứa trong thuyền đều đã ngủ say, lục túi lấy ra một ngàn đồng tiền định qua thuyền kia chơi một phen. Nhưng rón rén đứng lên mở túi cầm tới tiền rồi lại ngần ngừ, nhớ lời mẹ răn dạy lại thắt túi lại.

Vào giường nằm ngủ mà trong dạ bồn chồn không sao ngủ được, lại ngồi dậy cởi túi ra, cứ thế mấy lần, chợt thấy hăng lên không sao nhịn được nữa bèn cầm tiền qua thẳng thuyền kia. Vào tới khoang thì thấy hai người đang đánh bạc với nhau, tiền bạc đầy cả chiếu, bèn đặt tiền lên ghế ngồi vào cùng chơi. Hai người kia vui mừng, liền cùng gieo xúc xắc. Tú thắng lớn, một người khách hết sạch cả tiền bèn lấy đỉnh vàng lớn cầm cho chủ thuyền lấy hơn mười quan chơi tiếp. Đang lúc say máu sát phạt lại có một người bước vào thuyền, đứng nhìn hồi lâu rồi dốc túi ra trăm lượng vàng cầm cho chủ thuyền lấy tiền, ngồi vào cùng chơi.

Nửa đêm Trương tỉnh dậy, không thấy Tú trên thuyền, nghe tiếng gieo xúc xắc thì biết ngay, bèn qua thuyền bên cạnh, định gây sự để cản cháu. Tới nơi thì thấy dưới chân cháu tiền bạc chất đống như núi bèn không nói gì nữa, chỉ mang vài ngàn đồng quay về, gọi mọi người thức dậy qua vác tiền, chỉ để lại hơn mười ngàn trên chiếu bạc. Không bao lâu cả ba người khách đều thua, tiền bạc trong cả thuyền đều hết sạch. Khách muốn chơi bằng vàng, nhưng Tú thấy đã thắng nhiều rồi, bèn lấy cớ phải chơi bằng tiền để từ chối. Trương đứng bên cạnh lại cứ giục về.

Ba người khách cay cú, chủ thuyền tham món tiền xâu bèn qua thuyền khác vay giùm hơn một trăm ngàn đồng tiền. Khách có tiền đánh càng lớn, không bao lâu lại mất sạch về tay Tú. Trời đã sáng, chèo qua cửa quan rồi bèn cùng nhau vác tiền về thuyền, ba người khách cũng ra đi. Chủ thuyền nhìn lại số vàng hơn hai trăm lượng họ cầm thì đều là tro tàn, cả kinh tìm qua thuyền Tú kể lại, ý muốn Tú bồi thường, đến khi hỏi họ tên quê quán, biết là con trai Nhiệm Kiến Chi thì rụt cổ toát mồ hôi trở về.

Tú hỏi người chung quanh mới biết chủ thuyền chính là Thân Trúc Đình. Lúc Tú tới Thiểm Tây đã biết rõ tên họ y, đến đây vì ma quỷ đã rửa hờn nên cũng không hỏi tới oán cũ nữa. Bèn lấy số tiền ấy chung vốn cùng Trương lên kinh buôn bán, tròn năm thì thu lãi gấp mười. Bèn theo lệ nộp tiền mua chức Giám sinh, lại càng buôn may bán đắt, trong vòng mười năm trở nên giàu có đứng đầu một vùng.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 31 --
Trương Thành
(Trương Thành)

Họ Trương ở đất Dự (tỉnh Hà Nam), tổ tiên là người đất Tề (tỉnh Sơn Đông). Lúc quân Tĩnh Nạn* nổi lên, đất Tề đại loạn, vợ bị bắt đi. Trương vì vẫn lui tới đất Dự bèn ở luôn lại đó lấy vợ người đất Dự, sinh con trai là Nột. Không bao lâu vợ chết, lại lấy vợ kế, sinh con trai là Thành. Vợ kế họ Ngưu tính hung dữ, rất ghét Nột, nuôi như đầy tớ, cho ăn toàn rau, bắt đi đốn củi, mỗi ngày đòi phải đủ một gánh, không đủ thì đánh đập mắng nhiếc không sao chịu nổi. Chỉ cất giấu những thức ngon cho Thành ăn, sai tới trường học chữ.

*Quân Tĩnh Nạn: năm Kiến Văn thứ 2 (1400), Minh Huệ đế thấy các phiên vương phạm pháp định diệt trừ, Yên vương Chu Đệ là con thứ tư của Minh Thái tổ nhân đó nổi dậy kéo về vây kinh đô, tự xưng là quân dẹp nạn (Tĩnh Nạn binh), đánh đuổi Huệ đế tự lập làm vua, tức Minh Thành tổ.

Thành dần lớn lên, tính hiếu hữu, không nỡ thấy anh vất vả, lén khuyên can mẹ nhưng mẹ không nghe. Một hôm Nột vào núi đốn củi, chưa xong thì gặp mưa to gió lớn phải núp vào dưới vách núi. Mưa tạnh thì trời đã tối, đói quá bèn gánh củi về. Mẹ xem củi thấy ít, tức giận không cho ăn, bụng đói như thiêu vào phòng nằm vật ra. Thành đi học về thấy anh thẫn thờ hỏi ốm à, Nột đáp "Đói thôi". Thành hỏi nguyên do, Nột nói rõ sự tình. Thành buồn rầu bước ra, lát sau mang bánh vào cho anh. Anh hỏi bánh ở đâu ra, Thành nói “Em lấy trộm bột nhờ chị hàng xóm làm bánh giùm, cứ ăn đi đừng nói gì nữa". Nột ăn xong dặn em rằng “Từ sau đừng làm thế nữa, lộ ra thì liên lụy đến em. Vả lại ngày nhịn ăn một bữa thì có đói cũng không chết mà”. Thành nói “Anh vốn yếu sức thì làm sao đốn củi nhiều được?”.

Hôm sau ăn xong lén vào núi tới chỗ anh đốn củi. Anh nhìn thấy giật mình hỏi định làm gì, Thành đáp định hái củi giúp anh. Anh hỏi ai bảo làm thế, Thành đáp “Em tự tới thôi”. Anh nói “Không kể là em không biết đốn củi, dẫu biết đi nữa thì cũng không nên!”, rồi giục về ngay. Thành không nghe, cứ tay bẻ chân đạp hái củi giúp anh, lại nói ngày mai phải đem búa theo. Anh lại gần ngăn cản thì thấy ngón tay bị toạc, giày bị rách, buồn rầu nói "Em không về cho mau thì anh lấy búa tự chặt cổ mà chết đấy”. Thành bèn về, anh đưa tới nửa đường mới quay lại đốn củi tiếp. Khi về ghé vào trường dặn thầy học rằng "Em ta còn nhỏ, thầy nên răn cấm chứ cọp beo trong núi dữ lắm”. Thầy nói trước giờ Ngọ không biết Thành đi đâu, đã phạt đòn rồi. Nột về nói với Thành "Không nghe lời anh nên bị phạt đòn đấy”. Thành cười nói không sao.

Hôm sau lại xách búa vào núi, anh hoảng sợ nói “Anh đã bảo em đừng tới, sao lại còn làm thế”. Thành không đáp, cứ hăm hở chặt củi, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt vẫn không nghỉ, khoảng đủ một ôm thì im lặng ra về. Thầy lại trách phạt, Thành bèn nói thật. Thầy khen là hiền, cũng không ngăn cấm nữa. Anh nhiều lần bảo thôi nhưng rốt lại Thành vẫn không nghe. Một hôm hai anh em cùng vài người đốn củi trong núi thì chợt có con cọp tới, mọỉ người sợ hãi nằm mọp xuống, cọp vồ Thành mang đi. Cọp mang người nên đi chậm, bị Nột đuổi kịp, hết sức chém một búa trúng đùi. Cọp đau quá vùng chạy không đuổi tìm được nữa, Nột đau xót kêu khóc quay về. Mọi người an ủi, Nột càng khóc lóc thảm thiết, nói “Em ta chẳng phải như em người khác, huống chi nó vì ta mà chết, ta làm sao sống được?". Bèn lấy búa tự chặt vào cổ, mọi người vội can thì đã đứt sâu vào thịt một tấc, máu phụt ra lênh láng, hoa mắt ngất đi. Mọi người sợ hãi xé áo buộc vết thương cho rồi xúm lại dìu về. Mẹ khóc chửi “Ngươi giết con ta, lại muốn chặt cổ để thoát tội à?" Nột rên rỉ nói "Xin mẹ đừng lo phiền, em chết thì ta quyết không sống đâu”.

Đặt lên giường, vết thương đau đớn không ngủ được, ngày đêm cứ ngồi dựa vào tường mà khóc. Cha sợ Nột cũng chết, lúc lúc tới cạnh giường đút cho ăn uống qua loa, Ngưu thị lại chửi rủa. Nột bèn không chịu ăn nữa, ba ngày thì chết. Trong làng có thầy đồng xuống âm ty về, Nột gặp giữa đường bèn kể lể nỗi khổ trước đây, nhân hỏi chỗ em ở. Thầy đồng nói không biết, rồi quay lại dẫn Nột đi. Tới một nơi đô hội, thấy một người mặc áo đen trong thành ra, thầy đồng giữ lại hỏi thăm giùm, người áo đen xem kỹ lại tập trát trong túi thấy có hơn một trăm đàn ông đàn bà nhưng không có ai họ Trương. Thầy đồng ngờ rằng ở tập trát khác, người áo đen nói “Con đường này thuộc về ta, làm sao có chuyện bắt lầm?” Nột không tin, ép thầy đồng đưa vào thành. Trong thành ma cũ ma mới đi lại đông đúc, cũng có người quen cũ nhưng tới hỏi đều không ai biết.

Chợt mọi người cùng nhao nhao nói Bồ Tát tới, ngẩng nhìn thấy trong mây có một người to lớn, ánh hào quang rực rỡ khắp trên dưới, chợt cảm thấy trời đất quang đãng. Thầy đồng chúc mừng nói “Đại Lang có phúc thật! Bồ Tát mấy ngàn năm mới xuống âm ty một lần để rửa sạch khổ não, đúng hôm nay lại được gặp”, rồi kéo Nột quỳ xuống. Bọn quỷ cũng nhao nhao quỳ xuống chắp tay cùng tụng niệm, tiếng “Từ bi cứu khổ” vang rền. Bồ Tát lấy cành dương nhúng nước cam lộ rẩy khắp nơi, li ti như bụi sương. Giây lát hơi mù tan đi, hào quang thu lại thì không thấy Bồ Tát ở đó nữa. Nột thấy trên cổ thấm ướt cam lộ, chỗ búa chặt không còn đau nữa. Thầy đồng lại theo đường cũ đưa Nột về, khi nhìn thấy cổng làng mới từ biệt mà đi.

Nột chết đã hai ngày chợt sống lại, kể lại nhũng việc đã gặp, nói Thành chưa chết, mẹ cho là bịa đặt lại mắng chửi. Nột oan ức không biết làm sao giãi bày, sờ tới vết thương thì đã lành, cố gượng đứng dậy chào cha, nói “Con sẽ băng mây vượt biển tìm em, nếu không thấy thì đừng mong con quay về, xin cha cứ coi như con đã chết”. Cha đưa ra chỗ vắng cùng nhau khóc lóc, không dám giữ lại. Nột bèn ra đi, cứ theo đường lớn hỏi thăm tin tức em. Giữa đường tiền ăn hết sạch, phải ăn mày mà đi. Hơn một năm tới Kim Lăng, áo quần rách rưới lần mò trên đường, chợt thấy hơn mười kỵ mã đi qua liền tránh sang vệ đường. Trong bọn có một người như quan lớn, tuổi khoảng bốn mươi, lính mạnh ngựa khỏe xúm xít trước sau. Có một thiếu niên cưỡi con ngựa nhỏ, mấy lần nhìn Nột. Nột thấy là công tử con quan chưa dám ngẩng nhìn, thiếu niên dừng roi ghìm ngựa, chợt xuống ngựa gọi to "Có phải anh ta không?”. Nột ngước nhìn kỹ thì ra là Thành, nắm tay đau xót khóc lạc cả tiếng. Thành cũng khóc nói "Sao anh phải lưu lạc đến thế này?”. Nột kể sự tình, Thành càng đau xót. Bọn kỵ mã đều xuống hỏi duyên do rồi bẩm lại với quan lớn. Quan sai bớt ra một con ngựa chở Nột, cùng nhau về nhà mới hỏi chuyện tường tận.

Trước là cọp tha Thành đi đặt ở vệ đường lúc nào không biết, nằm giữa đường suốt một đêm. Gặp lúc Trương Thiên hộ từ kinh đô tới đi ngang qua, thấy Thành mặt mày nho nhã, thương xót vực lên vỗ về. Thành dần sống lại, nói nhà cửa quê quán thì đã quá xa, nên chở Thành cùng về bó thuốc cho, vài ngày thì khỏi. Thiên hộ không có con trai nên nhận Thành làm con, đại khái hôm đó là gặp lúc Thành theo ông dạo chơi. Thành kể lại với anh xong thì Thiên hộ vào, Nột lạy tạ không thôi. Thành vào trong lấy áo lụa ra biếu anh rồi bày rượu trò chuyện.

Thiên hộ hỏi quý gia ở đất Dự có đông người không, Nột nói “Không có mấy người. Cha ta lúc nhỏ là người đất Tề, tới ngụ ở đất Dự” Thiên hộ “Ta cũng người Tề, quý quán thuộc hạt nào?”. Nột đáp “Từng nghe cha ta nói thuộc huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông)” Thiên hộ giật mình hỏi "Cùng quê với ta rồi, thế tại sao lại tới ở đất Dự?”. Nột nói "Mẹ già bị quân bắt đi, cha ta gặp binh lửa mất sạch cả gia sản, vì trước từng buôn bán ở miền Tây, qua lại đã quen nên ở luôn lại đó. Thiên hộ lại giật mình hỏi lệnh tôn tên gì, Nột đáp rõ. Thiên hộ tròn mắt nhìn rồi cúi đầu như ngờ vực, bước mau vào nhà trong.

Không bao lâu Thái phu nhân ra, mọi người lạy chào xong, bà hỏi Nột “Ngươi là cháu nội Trương Bính Chi phải không?”. Nột thưa “Phải”. Thái phu nhân khóc lớn nói với Thiên hộ "Đây là em ngươi đấy!”, anh em Nột không hiểu ra sao. Thái phu nhân nói "Ta lấy cha các ngươi ba năm, lưu lạc sang Bắc, thuộc về quan Chỉ huy Mỗ, được nửa năm sinh anh ngươi. Lại nửa năm thì Chỉ huy chết, anh ngươi nhờ phụ ấm thăng lên chức quan này, nay giải chức rồi vẫn canh cánh nhớ quê hương, đã lấy lại họ cũ, nhiều lần cho người tới đất Tề hỏi thăm mà không có tin tức gì, có biết đâu là cha ngươi đã dời sang miền Tây!”. Rồi nói với Thiên hộ “Ngươi nuôi em làm con thì giảm phúc mà chết thôi". Thiên hộ nói "Trước có hỏi Thành, Thành thưa từng nói là người Tề, chắc là còn nhỏ dại nên không biết”. Bèn theo tuổi xếp đặt lại, Thiên hộ bốn mươi mốt tuổi làm anh lớn, Thành mười sáu tuổi là út, Nột hai mươi thì là anh lớn mà thành anh hai. Thiên hộ được hai em mừng lắm, ăn ngủ đều có nhau, biết hết nguyên do chia lìa lưu lạc, tính chuyện trở về. Thái phu nhân sợ bà vợ kế không dung, Thiên hộ nói “Dung được thì ở chung, nếu không thì ở riêng, chứ trong thiên hạ có nước nào mà lại không có tình cha con”.

Rồi đó bán nhà đất sắm hành lý lập tức lên đường. Tới đầu làng Nột và Thành chạy về trước báo tin cho cha. Cha từ lúc Nột bỏ đi, vợ cũng chết, chỉ còn một ông già góa vợ một mình một bóng. Chợt thấy Nột vào, mừng đến thảng thốt, đang còn giật mình lại nhìn thấy Thành, mừng quá không nói nên lời, nước mắt giàn giụa. Hai người nói mẹ con Thiên hộ tới, ông nín khóc ngạc nhiên không biết là vui hay buồn, đứng ngẩn người ra.

Không bao lâu Thiên hộ vào, lạy chào xong Thái phu nhân nắm lấy tay ông nhìn nhau cùng khóc. Kế thấy tôi tớ trai gái đứng đầy trong ngoài, người ngồi kẻ đứng, không còn biết làm gì nữa. Thành không thấy mẹ liền hỏi mới biết mẹ đã chết, gào khóc muốn đứt hơi, một lúc mới tỉnh lại. Thiên hộ lấy tiền ra xây dựng lầu gác, đón thầy về dạy hai em học, ngựa hí ran trong tàu, người ồn ào trong nhà, nghiễm nhiên là một đại gia.

Dị Sử thị nói:Ta nghe hết chuyện này, mấy lần sa lệ. Thấy đứa trẻ hơn mười tuổi đốn củi giúp anh, cảm khái nói “Lại thấy lại Vương Giám* chăng?", đó là một lần. Tới đoạn cọp tha Thành đi không kìm được bật kêu ầm lên “Đạo trời mịt mờ như thế sao!”, đó là một lần. Tới đoạn anh em bất ngờ gặp nhau thì mừng mà cũng sa lệ. Tới đoạn thêm được một người anh, lại thêm một nỗi đau lòng, thì sa lệ vì Thiên hộ. Tới đoạn một nhà sum họp, kinh ngạc bất ngờ, mừng rỡ bất ngờ, bỗng dưng sa lệ vì người cha. Không biết đời sau có ai mau nước mắt như ta hay không!

*Vương Giám: Hậu Hán thư, Vương Tường truyện chép Vương Tường chí hiếu nhưng mẹ kế rất độc ác luôn hành hạ. Em cùng cha khác mẹ của Tường là Giám rất thương anh, lúc nhỏ thấy anh bị đánh đập thì ôm mẹ kêu khóc, khi lớn có lần biết mẹ toan cho anh uống rượu độc thì giành lấy chén rượu toan uống. Mẹ mấy lần toan đầu độc Tường, Giám biết cứ ăn uống chung với anh, mẹ sợ con chết đành thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 32 --
Xảo Nương
(Xảo Nương)

Quảng Đông có nhà thế gia họ Phó hơn sáu mươi tuổi sinh được một trai tên Liêm, rất thông minh nhưng bị trời hoạn, mười bảy tuổi mà dương vật chỉ mới bằng con tằm. Xa gần biết chuyện, không nhà nào chịu gả con gái cho, tự nghĩ dòng dõi đã tuyệt, ngày đêm lo lắng nhưng không biết làm sao. Liêm theo thầy đọc sách, thầy ngẫu nhiên đi vắng, gặp lúc ngoài cửa có gánh xiếc khỉ, Liêm ra xem bỏ cả học. Đến chừng đoán thầy sắp về, sợ hãi bèn bỏ trốn.

Rời nhà được mấy dặm thấy một nữ lang áo trắng dắt đứa tỳ nữ nhỏ đi phía trước, một lần nàng quay lại, thấy xinh đẹp không ai sánh được. Nàng đi chậm lại, Liêm đi vượt lên thì nàng quay qua nói với đứa tỳ nữ "Thử hỏi xem lang quân có tới Quỳnh Châu (huyện thuộc Quang Đông) không". Đứa tỳ nữ gọi lại hỏi, Liêm hỏi có việc gì. Cô gái đáp “Nếu đi Quỳnh Châu thì có lá thư phiền chàng tiện đường đưa giúp về nhà. Mẹ già ta ở nhà cũng là người hiếu khách". Liêm lúc ra đi vốn cũng chưa định đi đâu, nghĩ ra biển cũng hay, bèn nhận lời. Cô gái rút thư đưa tỳ nữ trao cho sinh. Hỏi họ tên quê quán thì nàng đáp là họ Hoa, ở làng gái Tần cách phía bắc thành ba bốn dặm.

Sinh đáp thuyền đi, tới phía bắc huyện thành Quỳnh Châu thì trời đã tối, hỏi thăm thôn gái Tần lại không ai biết. Đi về hướng bắc bốn năm dặm thì trăng sao hiện sáng, cỏ dại mút mắt, đồng không chẳng có quán trọ, rất là mệt mỏi. Nhìn thấy một ngôi mộ bên đường, muốn nghỉ lại nhưng sợ thú dữ bèn leo lên cây ngồi. Nghe tiếng thông reo xào xạc, côn trùng tỉ tê, trong lòng thảng thốt, hối hận vô cùng. Chợt nghe có tiếng người phía dưới, cúi nhìn thì rõ ràng là một nơi đình viện, có một cô gái xinh đẹp ngồi trên phiến đá, hai tỳ nữ xõa tóc cầm đèn lồng đứng hai bên. Người đẹp quay qua bên trái nói “Đêm nay trăng sáng sao thưa, gói trà cô Hoa vừa tặng có thể đem pha một ấm uống ngắm cảnh đêm thanh”. Sinh nghĩ là ma quỷ, rùng mình sởn ốc khống dám thở mạnh. Chợt đứa tỳ nữ ngẩng nhìn nói "Trên cây có người” Cô gái giật mình đứng vụt dậy nói “Đứa lớn mật nào dám tới đây nhìn trộm thế!". Sinh cả sợ, không còn chỗ trốn đành tụt xuống, phục xuống đất xin tha. Cô gái tới gần nhìn qua chợt đổi giận làm vui, kéo dậy cùng ngồi. Sinh liếc nhìn, thấy nàng khoảng mười bảy mười tám, vẻ người xinh đẹp có một, nghe giọng nói cũng không phải người ở đây. Nàng hỏi chàng đi đâu, sinh đáp có người nhờ đưa giúp lá thư. Nàng nói "Đồng hoang nhiều người xấu, nằm sương rất đáng lo, nếu không hiềm nhà tranh, mời vào nghỉ tạm", rồi đưa sinh vào nhà.

Chỉ có một chiếc giường, nàng sai con hầu sắp hai tấm chăn lên. Sinh thẹn mình xấu xa xin nằm dưới đất, nàng cười đáp “Khách quý đến nhà, con gái đâu dám nằm cao". Sinh bất đắc dĩ phải nằm chung giường, nhưng trong lòng sợ sệt không dám trở mình. Giây lát cô gái luồn tay qua chăn xoa nhẹ vào đùi sinh, sinh giả như ngủ say không biết. Lát sau nàng lại mở chăn ra chui qua lay, sinh vẫn nằm yên không động. Nàng bèn sờ xuống chỗ kín rồi dừng tay buồn bã, lạng lẽ giở chăn trở dậy, kế nghe tiếng khóc thút thít. Sinh xấu hổ không sao chịu nổi, chỉ giận trời bắt mình phải khuyết tật mà thôi. Cô gái gọi tỳ nữ thắp đèn, tỳ nữ thấy ngấn lệ kinh ngạc hỏi buồn khổ chuyện gì, nàng lắc đầu đáp “Ta tự xót phận mình thôi!”

Đứa tỳ nữ đứng trước giường nhìn chằm chằm, nàng nói "Gọi y dậy bảo đi đi!". Sinh nghe thế càng thêm xấu hổ, lại lo đêm hôm tối tăm không biết đi đâu. Đang nghĩ ngợi thì một người đàn bà đẩy cửa bước vào, đứa tỳ nữ nói “Cô Hoa đã về”. Sinh hé mắt nhìn trộm thấy bà ta tuổi khoảng năm mươi nhưng còn phong vận. Bà thấy cô gái chưa ngủ liền hỏi duyên cớ, nàng chưa đáp, lại thấy trên giường có người nằm, bèn hỏi ai nằm cùng giường. Đứa tỳ nữ đáp thay là lúc tối có một chàng trai tới xin ngủ nhờ, bà ta cười nói “Không biết là Xảo Nương vui đuốc hoa” Chợt thấy cô gái nước mắt chưa khô, bà giật mình nói “Đêm hợp cẩn mà buồn khóc thì không hợp, không lẽ lang quân thô bạo sao?”. Cô gái không đáp, càng thêm buồn bã.

Người đàn bà định kéo áo ra nhìn sinh, vừa kéo thì lá thư rơi ra giường, bà ta cầm lấy nhìn rồi hoảng sợ nói "Có lẽ là chữ con gái ta” kế mở đọc rồi thở dài. Cô gái hỏi, bà ta đáp “Đây là thư của con Ba báo tin chàng Ngô chồng nó đã chết, nay nó trơ trọi không nơi nương tựa, biết làm thế nào". Cô gái nói “Y có nói là đưa thư giúp ai đó, may mà ta chưa đuổi đi". Bà già gọi sinh dậy, hỏi rõ nguyên ủy lá thư, sinh kể rõ, bà nói "Làm phiền lặn lội xa xôi, biết lấy gì báo đáp”. Lại ngắm kỹ sinh rồi cười hỏi sao lại làm trái ý Xảo Nương, sinh đáp không biết mình có tội gì. Bà lại hỏi cô gái, nàng than "Chỉ thương cho mình lúc sống lấy phải thằng chồng liệt dương, khi chết lại ngủ với đứa bị thiến, vì thế mà buồn thôi”.

Bà già nhìn sinh nói “Chú nhỏ thông minh lanh lợi này là trống mà hóa ra lại là mái sao? Đây là khách của ta, không nên làm lụy người ta lâu”. Liền dẫn sinh qua phòng phía đông, sờ xuống đũng quần khám rồi cười nói “Chẳng trách Xảo Nương lại khóc lóc. Nhưng may vẫn có cuống rễ, còn chữa được". Bèn khêu đèn tìm khắp rương hòm lấy ra một viên thuốc màu đen trao cho sinh bảo nuốt ngay, lại dặn nhỏ rằng đừng cử động, rồi đi ra. Sinh nằm một mình nghĩ ngợi không biết thuốc chữa bệnh gì. Khoảng canh năm tỉnh dậy, thấy dưới rốn có một luồng hơi nóng xông thẳng vào chỗ kín, lại lủng lẳng như có vật gì treo giữa hai đùi, tự sờ xem thì mình đã là đàn ông hẳn hoi, trong lòng mừng quýnh như vị quan chợt được ban cửu tích*.

*Cửu tích: chín loại vật dụng và nghi thức như xe ngựa, y phục, nhạc khí, cửu được sơn son, ra đường có quân hổ bôn hộ vệ... theo nghi lễ vương giả , ý nói được phong tước vương.

Khi ngoài song cửa sổ đã sáng thì người đàn bà bước vào đem bánh hấp cho sinh, dặn cố ngồi yên rồi khóa cửa ra ngoài nói với Xảo Nương "Y vất vả mang thư tới, hãy giữ lại gọi Tam Nương về cho nó kết nghĩa chị em, nên phải đóng cửa cho người ta khỏi buồn chán” kế ra cửa đi. Sinh quanh quẩn trong phòng buồn quá, cứ tới khe cửa nhìn ra như con chim ngóng ra ngoài lồng, nhìn thấy Xảo Nương cũng muốn gọi để nói rõ sự tình, nhưng thẹn vì khó nói lại thôi. Chờ đến khuya người đàn bà mới dẫn con gái về, mở cửa nói "Để lang quân buồn chết mất rồi. Tam Nương vào cám ơn đi". Cô gái gặp trên đường trước kia rụt rè bước vào khép nép nhìn sinh, người đàn bà bảo gọi nhau bằng anh em. Xảo Nương cười nói "Gọi là chị em gái cũng được”. Rồi cùng ra phòng khách ngồi quây quần uống rượu.

Uống được một lúc, Xảo Nương hỏi đùa người hoạn thấy sắc có động lòng không, sinh đáp “Người què không quên giày, người lòa không quên ngó” mọi người cười rộ. Xảo Nương vì Tam Nương đi đường mệt nhọc ép phải đi nghỉ. Người đàn bà quay nhìn Tam Nương bảo nằm chung với sinh. Tam Nương đỏ bừng mặt không chịu. Người đàn bà nói “Đây là trượng phu đội khăn mặc yếm thôi, sợ gì chứ?”. Rồi giục hai người đi ngủ, ngầm dặn sinh rằng "Trong thì làm rể nhưng ngoài làm con ta là được". Sinh mừng rỡ, nắm tay nàng dắt lên giường, dao sắc mới mài đem thử lần đầu, khoái trá thế nào có thể biết rõ. Kế hỏi Xảo Nương là ai, cô gái đáp “Là ma đấy. Tài sắc vô song nhưng số mệnh lận đận, lấy tiểu lang nhà họ Mao bị liệt dương, mười tám tuổi đầu vẫn chẳng ra con người nên ấm ức không vui, ôm hận mà chết”. Sinh thất kinh, ngờ Tam Nương cũng là ma. Nàng nói “Nói thật với chàng, thiếp không phải là ma mà là hồ. Xảo Nương sống lẻ loi một mình mà mẹ con thiếp không có nhà nên tới ở nhờ". Sinh rất kinh ngạc, nàng nói “Đừng sợ, tuy là ma là hồ, nhưng không gây họa cho nhau đâu”.

Từ đó hàng ngày thường cùng nhau chuyện trò yến ẩm, sinh tuy biết Xảo Nương không phải là người nhưng lòng vẫn yêu mến nhan sắc, chỉ hận không có dịp tự hiến thân. Sinh học hành uẩn súc, giỏi đùa cợt pha trò, nên Xảo Nương rất thương mến. Một hôm mẹ con họ Hoa đi vắng, lại đóng cửa nhốt sinh trong phòng. Sinh buồn bực đi loanh quanh rồi đứng cách vách gọi Xảo Nương. Xảo Nương sai tỳ nữ lấy chìa khóa thử mấy lần thì cửa mở, sinh ghé tai xin gặp riêng. Xảo Nương bảo tỳ nữ đi ra, sinh liền kéo nàng lên giường nằm sát vào. Nàng đùa đưa tay sờ xuống phía dưới rốn nói “Tiếc thay, chỗ này lại thiếu mất rồi” Chưa dứt lời thì tay vớ phải một nắm, giật mình nói “Sao trước vắng vẻ mà chợt đã bấy nhiêu thế?” Sinh cười đáp “Trước thấy người xấu hổ nên rụt lại, nay bị phỉ báng không chịu nổi nên làm con ếch tức giận phình ra đấy thôi” rồi cùng nhau giao hoan.

Xong xuôi nàng căm tức nói "Nay mới biết vì sao đóng cửa. Trước đây mẹ con họ lênh đênh không nhà, đã nhường nhà cho ở, Tam Nương theo học thêu thùa thiếp cũng không từng giấu diếm gì, mà lại ganh ghét như thế“ Sinh kể thật mọi chuyện để khuyên giải nhưng Xảo Nương vẫn hậm hực. Sinh nói “Phải giữ kín đấy, Hoa Cô dặn ta kỹ lắm". Chưa dứt lời thì Hoa Cô đã đẩy cửa bước vào, hai người vội vàng nhỏm dậy. Hoa Cô trừng mắt hỏi ai mở cửa, Xảo Nương cười nhận là mình. Hoa Cô càng tức giận, quát mắng không thôi. Xảo Nương nhếch mép cười nói "Bà già này thật là buồn cười, là trượng phu đội khăn mặc yếm mà thế à?” Tam Nương thấy mẹ và Xảo Nương cứ khích bác nhau, lấy làm áy náy bèn đứng ra can ngăn, đôi bên mới đổi giận làm lành. Xảo Nương lời lẽ dẫu gay gắt nhưng từ đó đã nhún mình chiều chuộng Tam Nương, chỉ vì Hoa Cô ngày đêm ráo riết canh giữ nên đôi lòng không sao bày tỏ, chỉ biết liếc mắt gởi tình mà thôi.

Một hôm Hoa Cô nói với sinh “Cả hai chị em nó đều đã hầu hạ chàng, nhưng sống ở đây không phải là hay, chàng nên về trình với cha mẹ để sớm tính chuyện trăm năm", rồi sắm sửa hành trang giục sinh lên đường. Hai cô gái nhìn nhau buồn rầu, mà Xảo Nương càng như không chịu nổi, nước mắt chảy ròng ròng không dứt. Hoa Cô ngăn họ lại rồi đưa sinh ra, tới ngoài cổng thì nhà cửa đã biến mất cả, chỉ thấy một ngôi mộ hoang. Hoa Cô đưa sinh lên thuyền, nói “Chàng đi rồi lão thân cũng sẽ dắt hai con gái tới ngụ ở quý huyện, nếu không quên duyên cũ thì xin ở trong khu vườn hoang nhà họ Lý đợi làm lễ nghênh hôn” sinh bèn trở về.

Lúc ấy ông Phó tìm kiếm con trai không được đang nóng ruột lo lắng, thấy con về vô cùng mừng rỡ. Sinh kể lại vắn tắt đầu đuôi, nói cả việc họ Hoa hẹn ước. Cha nói “Lời yêu quái làm sao tin được. Ngươi sở dĩ sống sót về được là nhờ bị tật nguyền, không thì chết rồi”. Sinh đáp "Họ tuy khác loài nhưng tình nghĩa cũng như người, lại thông minh xinh đẹp, có cưới cũng không sợ họ hàng làng xóm chê cười". Cha không đáp chỉ cười nhạt, sinh bèn lui ra. Nhưng ngứa nghề không chịu ở yên, bèn tư thông với đứa tỳ nữ, dần dần giữa ban ngày cũng công nhiên hành dâm, cố ý cho cha mẹ biết. Một hôm bị đứa tỳ nữ nhỏ nhìn trộm thấy chạy vào báo với mẹ, mẹ không tin tới xem mới giật mình, gọi đứa tỳ nữ hỏi kỹ mới biết rõ. Bà mừng quá gặp ai cũng rêu rao để tỏ ra là con mình không có tật, định hỏi cưới con nhà thế gia. Sinh thưa riêng với mẹ là không phải nhà họ Hoa thì không cưới, mẹ nói “Trên đời thiếu gì gái đẹp, cần gì phải cưới yêu ma". Sinh nói "Con mà không gặp Hoa Cô thì đâu biết được mùi đời, phụ bạc họ không hay đâu”.

Ông Phó nghe lời, cho một người tớ trai và một vú già tới dò xem. Họ ra khỏi cửa Đông bốn năm dặm tìm được khu vườn hoang của nhà họ Lý, thấy trong đám tre trúc bên chỗ tường thấp đổ nát có làn khói bốc lên. Bà vú trèo qua tường đi thẳng tới cửa thì thấy mẹ con đang quét tước dọn dẹp như có ý chờ ai. Bà vú vái chào thưa lời chủ dặn, nhìn thấy Tam Nương thì giật mình nói "Đây là bà chủ nhỏ của nhà ta sao? Ta nhìn thấy còn thương, không trách công tử cứ đêm ngày nhớ nhung” Hỏi tới cô chị, Hoa Cô thở dài than "Đó là con gái nuôi của ta, ba hôm trước đây bị bạo bệnh chết rồi” Nhân đem rượu thịt ra thết đãi. Bà vú và người tớ trai về kể rõ dung mạo cử chỉ của Tam Nương, ông bà Phó đều vui mừng. Sau cùng mới báo tin Xảo Nương mất, sinh đau xót rơm rớm nước mắt. Đêm rước dâu sinh gặp Hoa Cô đích thân hỏi lại, Hoa Cô cười đáp “Đã đầu thai ở đất Bắc rồi”, sinh than thở hồi lâu. Cưới Tam Nương rồi mà vẫn không sao quên được Xảo Nương, cứ nghe có ai ở Quỳnh Châu tới đều cho gọi tới hỏi chuyện.

Có người nói dưới mộ nàng họ Tần đêm đêm có tiếng ma khóc, sinh lấy làm lạ vào nói với Tam Nương. Tam Nương trầm ngâm hồi lâu rồi sa nước mắt nói "Em phụ chị rồi!". Sinh gạn hỏi, nàng cười đáp “Lúc mẹ con thiếp đi thật không có nói cho chị ấy biết, tiếng kêu khóc đó chắc là của chị ấy thôi. Trước đã định nói thật với chàng, nhưng lại sợ phơi bày lỗi của mẹ” Sinh nghe thế buồn xong lại vui, lập tức sai sắp sửa xe kiệu ngày đêm đi gấp tới mộ nàng, gõ vào bia mộ gọi to "Xảo Nương! Xảo Nương! Ta ở đây!". Giây lát thấy cô gái bế một đứa nhỏ từ mộ bước ra, mắt nhìn ai oán không thôi, sinh cũng rơi lệ. Sờ vào bọc hỏi con ai, Xảo Nương đáp “Đây là cái mầm oan nghiệt của chàng để lại đấy, được ba ngày rồi”. Sinh nói “Lầm nghe lời Hoa Cô khiến mẹ con phải ôm mối lo dưới đất, tội thật không tha được”.

Rồi cùng lên xe vượt biển về, bế con vào thưa với mẹ. Mẹ nhìn đứa nhỏ thấy khôi ngô khỏe mạnh không giống ma quỷ càng vui mừng. Hai nàng sống hòa thuận, thờ cha mẹ chồng rất có hiếu. Về sau ông Phó bị bệnh, mời thầy thuốc tới, Xảo Nương nói "Bệnh không làm gì được nữa, vì hồn đã lìa khỏi xác”, rồi đôn đốc lo đồ táng liệm, vừa xong thì ông mất. Đứa nhỏ lớn lên rất giống cha mà còn thông minh hơn, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện. Ông Cao Bưu hiệu Tử Hà tới đất Quảng nghe chuyện này, nhưng tên làng xóm thì quên mất và không rõ chung cục ra sao.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 33 --
Trị Hồ
(Phục Hồ)

Thái sử Mỗ bị hồ quấy phá bệnh nặng, cầu đảo hết cách vẫn không khỏi phải xin nghỉ quan về làng, nghĩ rằng có thể trốn được. Song trên đường về vẫn bị hồ theo, sợ hãi lắm mà không biết làm sao. Một hôm tới ngoài huyện Trác Môn (tỉnh Hà Bắc), nghe nói có người thầy thuốc tự xưng có thể trị được hồ. Thái sử bèn tìm tới xin thuốc, thì ra là loại thuốc dùng vào việc trong phòng. Bèn lập tức uống vào, tối đến ngủ với hồ, mạnh mẽ lợi hại vô cùng. Hồ run sợ nài nỉ xin thôi, nhưng ông không nghe, càng làm bạo hơn, hồ vùng vẫy lăn lộn mãi vẫn không giật ra được. Lát sau im bặt, nhìn lại thì đã hiện nguyên hình là hồ mà chết rồi.

Mỗ ở hương ta vốn có sở trường của Lao ái*, thường nói bình sinh chưa được lần nào thật thỏa mãn. Một đêm ngủ lại ở một quán trọ lẻ loi, chung quanh không có hàng xóm, chợt có người con gái tìm tới, cửa chưa mở đã lọt vào trong phòng. Y biết là hồ, nhưng cũng vui vẻ cùng giao hoan, vừa cởi quần áo ra đã chọc thẳng vào. Hồ đau quá kêu thét lên, giật ra như chim ưng thoát xiềng nhảy ra cửa sổ bỏ chạy. Y còn đuổi tới cửa sổ nhìn theo, lấy giọng đùa cợt gọi rất ai oán, nghĩ rằng hồ sẽ quay lại, nhưng đã chạy biệt tăm. Đó thật là bậc tướng mạnh trị hồ, nếu treo bảng nhận trị hồ thì có thể sống bằng nghề ấy vậy.

*Lao ái: người nước Tần cuối thời Chiến quốc, nổi tiếng vô hạnh, chuyên quyến rũ đàn bà con gái, sau được Tướng quốc Lữ Bất Vi tiến cử làm nhân tình cho mẹ Tần vương Chính (tức Tần Thủy Hoàng). Tương truyền ái có vật kín rất dị thường, từng có lần đùa giỡn lấy làm trục bánh xe, quay tít bánh xe mà không hề đau đớn!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 34 - 39 --
Ba Vị Tiên
(Tam Tiên)

Có người học trò lên Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) thi, đi ngang huyện Túc Thiên (tỉnh Giang Tô) gặp ba vị Tú tài. Cùng nhau trò chuyện, thấy đều khoáng đạt hơn đời, rất thích bèn mua rượu mời họ cùng uống. Trong lúc thù tạc, ba người đều xưng tên họ, một là Giới Thu Hành, một là Thường Phong Lâm, một là Ma Tây Trì. Mê mải chuyện trò với nhau, trời tối lúc nào không hay, Giới nói “Chưa làm phận sự chủ nhà lại được cho uống rượu, theo lẽ rất là không phải. Nhà cỏ cách đây không xa, xin mời tới đó nghỉ lại". Thường và Ma cũng đứng dậy kéo áo mời mọc, người học trò bèn gọi đầy tớ cùng đi theo.
Tới chỗ núi phía bắc làng, chợt thấy đình viện, ngoài cổng có dòng nước chảy quanh. Vào bên trong thì thấy nhà cửa rất sạch sẽ, chủ nhân gọi trẻ thắp đèn, lại sai đưa người đầy tớ đi nghỉ. Ma nói "Trước vẫn lấy văn chương họp bạn, nay đã gần đến ngày thi, không nên bỏ phí đêm đẹp. Xin nghĩ ra bốn đề bài, mỗi người rút thăm lấy một, làm văn xong hãy uống rượu. Mọi người theo lời, mỗi người nghĩ ra một đề bài, viết đặt lên bàn, ai rút được đề nào thì tới bàn riêng suy nghĩ mà làm. Chưa hết canh hai tất cả đều làm xong, đưa cho nhau lần lượt xem. Người học trò đọc văn của ba người rất khâm phục, bèn chép lại cất đi. Chủ nhân đưa rượu ngon ra mời khách, rót chén lớn uống liên tiếp, không biết say là gì. Khách từ tạ không uống nữa, chủ nhân cũng chiều lòng, đưa vào một phòng riêng. Người học trò say quá, cứ mặc áo mang giày nằm xuống ngủ thẳng.
Đến khi tỉnh dậy thì mặt trời đã mọc cao, nhìn bốn bên chẳng thấy có nhà cửa phòng ốc gì, chỉ có hai chủ tớ nằm trong hốc núi. Người học trò hoảng sợ vội gọi đầy tớ dậy. Nhìn ra thấy bên cạnh có một cái động, trong có dòng nước cuồn cuộn chảy ra, ngờ rằng mình nằm mơ, nhưng tìm lại trong bọc thì ba bài văn chép lại vẫn còn. Xuống tới dưới núi hỏi dân ở đó, mới biết đó là động Tam tiên, trong động có ba con vật là cua, rắn và ễnh ương rất linh thiêng, hay ra ngoài chơi, thỉnh thoảng họ vẫn trông thấy. Khi người học trò vào thi, đề bài ra đều trùng với ba bài mà tiên đã làm, nhờ vậy được đỗ đầu.


035. Khúc Hát ếch (Oa Khúc)
Vương Tử Tốn nói lúc ở kinh đô, từng thấy một người diễn trò ở chợ, mang một cái hộp đóng theo cách thức riêng, có mười hai cái lỗ, dưới mỗi lỗ có một con ếch nằm, lấy cái thước nhỏ gõ lên đầu thì kêu lên ồm ộp. Có ai cho tiền thì gõ loạn lên đầu bầy ếch như đánh thanh la, khúc điệu cung bậc nghe rất rõ ràng.


036. Màn Kịch Chuột (Thử Hý)
Lại nói có một người ở chợ huyện Trường An (tỉnh Thiểm Tây) diễn trò bằng chuột, trên lưng đeo một cái túi trong chứa hơn chục con. Mỗi khi tới nơi đông người thì lấy ra một cái giá nhỏ bằng gỗ đặt lên vai, giống như sàn diễn kịch. Rồi vỗ cái trống gỗ, hát vở tạp kịch xưa, khi tiếng hát trỗi lên thì chuột ở trong cái túi bò ra, mang mặt nạ, mặc quần áo, từ lưng y leo lên sàn diễn, đứng hai chân múa may, con làm đào con làm kép, khi vui vẻ lúc buồn rầu đều ăn khớp với thứ tự lớp lang trong vở kịch.

037. Con Cọp ở Triệu Thành (Triệu Thành Hổ)
Có bà già ở huyện Triệu Thành (tỉnh Sơn Tây) hơn bảy mươi tuổi chỉ có một người con trai. Một hôm y vào núi bị cọp vồ chết, bà già đau đớn chết đi sống lại, kêu khóc tới kiện với quan huyện. Quan huyện cười nói “Cọp thì làm sao lấy phép quan mà trị tội đưục?” Bà glà càng kêu khóc thảm thiết, không làm sao cho bà ta im đi được. Quan huyện tức giận quát tháo cũng không sợ hãi, lại thương xót bà ta già cả, bèn hứa sẽ bắt cọp trị tội. Nhưng bà già vẫn không ra về, đòi phải nhìn thấy trát quan ra lệnh bắt cọp mới chịu đi. Quan không biết làm sao, bèn hỏi các nha dịch ai đi được. Có một người lính lệ tên Lý Năng đang say ngồi ở đó, tự nói mình đi được, quan bèn viết trát giao cho y, bà già mới chịu ra về.
Người lính lệ tỉnh rượu hối hận, lại cho rằng quan huyện chỉ giả làm ra như thế để bà già không kêu khóc quấy rầy nữa, nên cũng không hề để ý, đem tờ trát tới xin hủy bỏ. Quan giận nói "Ngươi nói là đi được, tại sao lại hối?". Người lính lệ bí quá, xin hạ trát bắt các thợ săn trong huyện cùng đi, quan ưng thuận. Người lính lệ tập họp các thợ săn ngày đêm rình trong núi, mong bắt được một con cọp để không bị trách phạt. Nhưng hon một tháng chẳng được gì, bị phạt đánh mấy trăm trượng, khổ quá không biết kêu nài với ai, bèn tới Nhạc miếu ngoài phía đông huyện thành quỳ xuống cầu khẩn, khóc tắt cả tiếng. Không bao lâu, chợt có một con cọp từ ngoài đi tới, người lính lệ cả kinh, sợ bị nó vồ. Nhưng cọp vào tới nơi không ngó ngàng gì tới ai, chỉ ngồi xuống ngay giữa cổng miếu. Người lính lệ khấn rằng "Nếu người giết con trai bà già kia thì cúi đầu cho ta trói", rồi rút dây ra buộc vào cổ nó.
Cọp cụp tai chịu trói, người lính lệ bèn dắt nó về huyện đường. Quan huyện hỏi nó rằng “Có phải là ngươi giết con bà già không?” cọp gật đầu. Quan huyện nói “Giết người thì phải đền mạng, đó là pháp luật đã định từ xưa. Vả lại bà già chỉ có một đứa con trai, mà ngươi giết đi, bà ta già rồi, làm thế nào sinh sống? Nếu ngươi có thể làm con bà ta, thì ta tha cho", cọp lại gật đầu. Quan bèn sai cởi dây cho nó đi, bà già vẫn còn oán giận quan huyện không giết cọp để đền mạng cho con trai mình. Sáng ngày mở cửa chợt thấy có một con hươu chết nằm ở sân, bà già đem bán thịt lấy tiền sống qua ngày. Từ đó thường thường như thế, có lần cọp còn mang vàng lụa tới vứt trong sân. Bà già nhờ vậy cũng được dư dả, thấy được chăm sóc còn hơn cả lúc con trai còn sống cũng thương cọp. Có lúc nó tới nằm dưới thềm cả ngày không đi, nhưng người nhà và súc vật đều yên ổn, không bị sợ hãi náo động. Vài năm sau bà chết, con cọp tới kêu gào trong phòng khách. Những tiền bạc bà già gìn giữ tích góp được có thừa để làm đám ma, họ hàng lấy đó chôn cất cho bà. Mộ vừa đắp xong thì cọp ào ào phóng tới, khách khứa chạy sạch. Cọp đứng gào rít trước phần mộ, tiếng vang như sấm, hồi lâu mới đi. Dân ở đó lập đền thờ Nghĩa hổ ở phía đông huyện thành, đến nay vẫn còn.


038. Người Lùn (Tiểu Nhân)
Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722), có người làm trò mang một cái hộp gỗ nhỏ, bên trong chứa người lùn chỉ cao khoảng một thước. Có ai cho tiền thì mở nắp hộp gọi người lùn ra ca hát. Khi tới huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông), quan huyện gọi vào công thự xét hỏi lai lịch người lùn. Ban đầu người lùn không dám nói, quan hỏi mãi mới nói ra làng xóm họ hàng. Thì ra là một đứa trẻ đi học, từ trường về bị người làm trò dụ dỗ làm cho mê man, lại đổ thuốc cho uống, tay chân chợt co rút lại, bị y bắt mang đi làm trò. Quan huyện nổi giận giết người làm trò, giữ đứa trẻ lại trong huyện, muốn chữa bệnh cho nhưng vẫn chưa tìm được cách nào.

039. Lương Ngạn (Lương Ngạn)
Lương Ngạn người Từ Châu, bị bệnh nghẹt mũi cứ khụt khịt đã lâu không khỏi. Một hôm đi ngủ, vừa nằm xuống thì chợt thấy lỗ mũi bên trái ngứa ngáy vô cùng, bèn ngồi dậy khịt mạnh. Có một con vật văng ra rơi xuống đất, hình dạng như con chó, to bằng đầu ngón tay. Lại khịt thì văng ra một con nữa, khịt tất cả bốn lần văng ra bốn con, ngọ nguậy như sâu, bò lại ngủi hít lẫn nhau. Chợt bốn con quay ra cắn xé nhau, con mạnh ăn con yếu, cứ ăn xong lại dài ra thêm một chút. Trong nháy mắt chỉ còn có một con to bằng con chuột, thè lưỡi bò quanh, có vẻ còn thèm ăn nữa. Lương rất kinh ngạc, giơ chân giẫm, con vật theo ống quần bò lên, dần dần tới đùi. Lương phất tay áo phủi xuống nhưng nó bám rất chặt không chịu rơi, giây lát chui vào trong áo, bò lên hông. Lương hoảng sợ vội cởi áo ném xuống đất, đưa tay mò bắt thì con vật đã dính chặt vào lưng, lay không động, giật thì đau, kết thành một cục thịt lồi lên, nhắm mắt ngậm miệng, như một con chuột đang nằm vậy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển III--40 --
Hồng Ngọc
(Hồng Ngọc)

Ông Phùng người huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) có một con trai tên Tương Như, cha con cùng là Chư sinh. Ông Phùng tuổi gần sáu mươi, tính cứng cỏi mà vẫn nghèo. Trong khoảng vài năm, vợ và con dâu nối nhau chết, việc cơm nước giặt giũ đều phải tự làm lấy.

Một đêm Tương Như ngồi dưới trăng, chợt thấy người con gái láng giềng phía đông leo lên tường nhìn trộm. Sinh thấy nàng đẹp, tới gần thấy hơi cười bèn vẫy, nàng không tới cũng không đi, nài mãi mới trèo thang qua, liền ngủ với nhau. Hỏi tên họ, nàng nói “Thiếp là con gái nhà láng giềng, tên Hồng Ngọc” Sinh rất yêu thương, hẹn cùng kết duyên mãi mãi. Nàng ưng thuận, từ dó đêm dêm thường tới. Được nửa năm, một đêm ông Phùng tỉnh giấc nghe trong phòng con có tiếng cười nói, nhìn vào thấy cô gái nổỉ giận gọi sinh ra mắng “Quân súc sinh làm gì thế? Nghèo túng thế này đã không chịu khổ lại còn học thói đàng điếm à? Người ta biết thì ngươi mất hết danh dự, người ta không biết thì ngươi cũng giảm thọ” Sinh quỳ xuống nhận lỗi, khóc nói đã hối hận. Ông Phùng mắng cô gái “Con gái không giữ lễ giáo, đã làm nhuốc mình lại làm nhơ cả người khác. Nếu việc lộ ra thì không chỉ một nhà này chịu nhục thôi đâu”, mắng xong căm tức quay vào phòng.

Cô gái chảy nước mắt nói "Lời cha quở trách thật là thẹn nhục, duyên phận hai ta thế là hết rồi". Sinh nói "Cha còn thì không được tự chuyên, nếu nàng có tình thì nên ngậm tủi thương nhau”. Cô gái quyết ý đoạn tuyệt, sinh rơi nước mắt, nàng khuyên giải, nói "Thiếp với chàng không có lời mai mối, không có lệnh cha mẹ, trèo tường theo nhau thì làm sao sống với nhau tới lúc bạc đầu được? Vùng này có một đám tốt, có thể hỏi cưới". Sinh nói nhà nghèo, cô gái nói “Tối mai cứ đợi nhau, thiếp sẽ tính cho”. Đêm sau quả nhiên nàng tới, đưa ra bốn mươi lượng bạc tặng sinh, nói "Cách đây sáu mươi dặm có con gái họ Vệ ở Ngô thôn đã mười tám tuổi, còn kén chọn nên chưa lấy ai, chàng đưa nhiều tiền thì xong", rồi từ biệt ra đi.

Sinh tìm dịp thưa với cha muốn đi xem mặt, nhưng giấu chuyện cô gái tặng tiền, không dám nói cho cha biết. Ông Phùng nghĩ nhà nghèo nên bảo thôi, sinh lại nói khéo là cứ đi thử xem, không được thì thôi, ông bèn ưng thuận. Sinh bèn thuê đầy tớ và ngựa tới nhà họ Vệ. Vệ vốn là người làm ruộng, sinh gọi ra nói chuyện. Vệ biết sinh là nhà dòng dõi, lại thấy dáng người khôi ngô, trong lòng đã ưng nhưng còn lo không được nhiều tiền. Sinh thấy nói năng ngập ngừng biết ý, bèn dốc túi bày tiền ra bàn. Vệ mừng rỡ, nhờ người học trò láng giềng làm chứng, viết giấy đỏ giao ước.

Sinh vào chào bà già, thấy nhà cửa chật hẹp, cô gái đứng núp sau mẹ. Sinh liếc thấy nàng tuy áo vải thoa gai nhưng thần thái xinh đẹp, trong bụng mừng thầm. Vệ thuê nhà tiếp đãi con rể, nói "Công tử không cần đón dâu, đợi may ít quần áo sẽ đưa qua nhà". Sinh hẹn ngày rồi về, nói dối với cha rằng "Họ Vệ mến nhà ta dòng dõi thanh bạch nên không đòi tiền", ông Phùng cũng mừng. Đến ngày hẹn, Vệ quả đưa con gái tới. Cô gái tính cần kiệm lại hiền thục, vợ chồng rất êm ấm. Hơn hai năm nàng sinh một trai, đặt tên là Phúc Nhi.

Nhân tiết Thanh minh nàng bế con đi tảo mộ, gặp họ Tống là thân hào trong huyện. Tống làm quan tới chúc Ngự sử, phạm tội ăn hối lộ bị cách chức về nhưng vẫn cậy oai lộng hành. Hôm ấy Tống cũng đi tảo mộ về, thấy cô gái đẹp, hỏi người trong thôn biết là vợ sinh, nghĩ Phùng là học trò nghèo, lấy nhiều tiền dụ dỗ có thể xiêu lòng, liền sai người nhà bắn tin. Sinh vừa nghe thấy tức giận ra mặt, kế lại nghĩ thế không địch nổi bèn nén giận tươi cười rồi về nói với cha. Ông Phùng cả giận chạy ra gặp tên người nhà của Tống chỉ trời vạch đất chửi mắng thậm tệ. Tên người nhà trốn về, Tống cũng tức giận, sai mấy người xông vào nhà sinh đánh nhau, hai cha con sinh chửi ầm lên. Cô gái nghe thấy, bỏ con xuống giường, xõa tóc chạy ra kêu cứu, bọn kia liền bắt lấy khiêng lên rầm rộ bỏ đi. Cha con bị thương nằm rên rỉ dưới đất, đứa nhỏ thì khóc oa oa trong phòng. Láng giềng cùng thương xót vực cha con lên giường, qua hôm sau sinh chống gậy đứng lên được, ông Phùng thì tức giận bỏ ăn, thổ huyết mà chết.

Sinh khóc lớn, bế con đi kiện lên tới tỉnh, kiện tụng khắp nơi rốt lại vẫn không được xét. Sau nghe nói vợ không chịu khuất mà chết lại càng đau xót, căm giận đầy bụng không làm sao phát tiết. Thường nghĩ muốn đón đường đâm chết Tống, nhưng lo đầy tớ y đông, con lại không gửi ai được, ngày đêm đau xót nghĩ ngợi không hề chợp mắt. Chợt một người đàn ông tới nhà thăm hỏi, râu quăn cằm bạnh, chưa từng gặp qua. Sinh mời ngồi, vừa định hỏi họ tên quê quán, khách đã nói ngay "Ông có cái thù giết cha, mối hận cướp vợ mà không báo à?". Sinh ngờ là người của Tống sai tới dò xét nên chỉ giả vâng dạ. Khách nổỉ giận trợn mắt muốn rách khóe, bước ngay ra, nói "Ta cho rằng ông là người, nay mới biết là đồ hèn không đáng đếm xỉa”. Sinh thấy lạ liền quỳ xuống kéo lại nói "Thật là sợ người nhà họ Tống tới dò la, nay xin bày tỏ gan ruột. Ta ôm lòng báo thù lâu rồi, nhưng thương đứa nhỏ trong bọc này, sợ bị tuyệt tự. Ông là bậc nghĩa sĩ, có thể vì ta mà làm Chữ Cữu* không?”.

*Chử Cửu: Sử ký, Triệu thế gia chép Triệu Sóc nước Tấn thời Xuân thu lấy vợ là chị Tấn Thành công. Gian thần là Đồ Ngạn Giả hại chết Triệu Sóc, lúc ấy vợ Sóc đang mang thai, Giả chờ nếu sinh con trai sẽ giết. Sau phu nhân sinh con trai, môn khách của Sóc là Trình Anh và Công Tôn Chử Cữu bày mưu đưa được ra khỏi cung nhưng bị Ngạn Giả nghi ngờ, dò xét truy tìm rất gấp. Lúc ấy Trình Anh cũng vừa sinh con trai bèn tráo vào thay con Sóc rồi cho Chử Cữu đi tố giác. Ngạn Giả đem quân bắt được Anh, thấy con trai Anh quấn tã lót sang trọng bèn giết chết. Chử Cữu xin Ngạn Giả cho mang "con Anh" đi ở ẩn sau nuôi con Sóc lớn lên, trả thù được cho họ Triệu.

Khách nói "Đó là việc của đàn bà con gái, ta không làm được. Việc ông muốn nhờ người xin tự làm lấy, còn việc ông muốn tự làm thì ta xin làm thay cho". Sinh nghe nói dập đầu lạy, khách bỏ ra không thèm nhìn. Sinh đuổi theo hỏi họ tên, khách đáp "Việc không xong không nhận oán, việc xong không nhận ơn", rồi đi. Sinh sợ tai vạ tới, bế con bỏ trốn.

Đến đêm, cả nhà họ Tống đang ngủ, có người vượt qua mấy lần tường vào giết ba cha con Ngự sử và một tỳ nữ, một con dâu. Nhà họ Tống làm báo quan, quan cả sợ. Nhà họ Tống cứ vu cho Tương Như nên quan sai lính bắt sinh, vì sinh trốn không biết đi đâu nên càng tin là thật. Đầy tớ nhà họ Tống cùng lính quan đi lùng khắp nơi, đêm đến núi Nam nghe tiếng trẻ khóc, tìm tới nơi gặp sinh bèn trói giải về. Đứa nhỏ càng khóc dữ, chúng liền giật lấy vứt đi, sinh căm hòn muốn chết.

Khi gặp quan huyện, quan hỏi vì sau giết người, sinh nói "Thật oan quá! Họ chết ban đêm mà ta ra đi từ ban ngày, vả lại bế đứa nhỏ khóc oa oa thì làm sao vượt tường giết người?". Quan huyện hỏi “Không giết người tại sao bỏ trốn?", sinh nghẹn lời không đáp được, quan liền sai giam vào ngục. Sinh khóc nói “Ta chết cũng không tiếc, nhưng đứa nhỏ mồ côi kia có tội gì?” Quan huyện nói "Ngươi giết con người ta đã nhiều, thì con ngươi bị giết còn oán gì?". Sinh bị lột áo mũ nhà nho, lại nhiều lần bị tra tấn tàn khốc nhưng rốt lại không hề nhận tội.

Đêm ấy quan huyện nằm ngủ nghe có vật gì dập vào giường rung lên thành tiếng, cả sợ kêu lớn. Cả nhà giật mình thức dậy, xúm lại đốt đuốc soi, thấy một lưỡi đoản đao sáng loáng cắm vào giường sâu hơn một tấc, chặt cứng không rút ra được. Quan huyện nhìn thấy khiếp vía, cầm giáo đi lùng khắp nơi không thấy gì, trong lòng lo thầm. Lại vì họ Tống đã chết không đáng sợ nữa, bèn trình lên quan tỉnh giải oan cho sinh rồi tha về.

Sinh về nhà, trong hủ không một đấu gạo, một mình với bốn bức vách, may được láng giềng thương xót cho ăn uống, sống đỡ qua ngày. Nghĩ tới mối thù lớn đã trả thì tươi cười vui vẻ nhưng nhớ lại tai họa thảm khốc suýt chết toàn gia thì buồn bã sa lệ, lại nghĩ mình nửa đời nghèo thấu xương, không người nối dõi, thì khi vắng người bật tiếng khóc thất thanh không sao kìm được. Cứ thế nửa năm, việc bắt bớ lơi lỏng dần, bèn xin quan huyện cho mang hài cốt Vệ thị về. Chôn cất xong trở về, đau đớn chỉ muốn chết, trằn trọc trên giường nghĩ không còn cách gì để sống.

Bỗng có người gõ cửa, sinh lắng tai nghe thấy ngoài cửa có tiếng một người đang nựng nịu trẻ con. Sinh vội dậy ra nhìn thì như là một cô gái, cửa vừa mở đã hỏi “Nỗi oan lớn đã rửa, may không sao chứ?” giọng rất quen nhưng lúc vội vàng không sao nhớ ra được. Đánh lửa soi thì ra là Hồng Ngọc, dắt một đứa nhỏ cười đùa dưới chân. Sinh không kịp hỏi han, ôm nàng khóc nức nở, cô gái cũng buồn bã. Kế đẩy đứa nhỏ nói "Con quên cha rồi sao?” Đứa nhỏ nắm áo cô gái nhìn sinh chằm chằm, sinh nhìn kỹ thì là Phúc Nhi, cả kinh khóc hỏi "Sao con về đây được?". Cô gái nói "Nói thật với chàng, trước kia thiếp nói là con gái láng giềng là nói dối. Thiếp thật là hồ, nhân đi đêm thấy con khóc trong hang liền bế về nuôi ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây). Nghe nạn lớn đã yên nên đem con về cùng chàng đoàn tụ”, sinh lau nước mắt lạy tạ. Đứa nhỏ nép vào lòng cô gái như nương tựa mẹ ruột, không nhận ra cha nữa.

Trời chưa sáng, cô gái đã trở dậy, hỏi thì nàng đáp "Nô tỳ muốn đi," Sinh cởi trần quỳ ở đầu giường khóc không ngẩng lên được. Cô gái cười nói “Thiếp lừa chàng thôi. Nay nhà đang gầy dựng, không thức khuya dậy sớm không được". Rồi nhổ cỏ dọn dẹp, làm lụng như đàn ông. Sinh lo nhà nghèo không đủ ăn, nàng nói "Xin chàng cứ buông rèm học hành, đừng hỏi chuyện thiếu đủ, may cũng không chết đói đâu”. Rồi bỏ tiền ra sắm khung dệt, thuê vài mươi mẫu ruộng mướn người cày cấy, vác bừa làm ruộng, kéo tranh lợp nhà, hàng ngày làm lụng.

Làng xóm nghe sinh có vợ hiền càng vui lòng giúp đỡ, khoảng nửa năm trong nhà ăn uống sung túc như nhà giàu. Sinh nói “Sau lúc tro tàn, nhờ nàng một tay gầy dựng lại, nhưng còn một việc chưa xong, biết làm sao?". Nàng hỏi việc gì, sinh đáp "Kỳ thi sắp tới mà khăn áo chưa lấy lại được". Cô gái cười nói "Trước đây thiếp đã đem bốn lượng vàng gửi Học quan, ghi lại tên chàng vào sổ rồi, đợi tới chàng nhắc thì trễ lắm", sinh càng cho là thần. Khoa ấy sinh đỗ Cử nhân, năm ấy ba mươi sáu tuổi, ruộng tốt liền bờ, nhà cửa cao rộng. Cô gái mảnh khảnh như gió thổi là bay mà làm lụng còn hơn con nhà nông, mùa đông rét buốt vẫn làm việc mà bàn tay vẫn mềm mại, tự nói ba mươi tám tuổi nhưng nhìn chỉ như hơn hai mươi.

Dị Sử thị nói:Con giỏi mà cha có đức nên được báo đáp hào hiệp, mà chẳng riêng gì người hào hiệp, tự mình cũng giống kẻ hào hiệp nên tao ngộ cũng lạ lùng. Nhưng quan huyện mù mờ khiến người ta căm hờn, luỡi đao sắc cắm vào giường, còn tiếc gì mà không phóng qua cách đó nửa thước? Nếu Tô Tử Mỹ* đọc truyện này ắt sẽ hào hùng nói "Tiếc là đánh mà không trúng".

*TÔ Tử Mỹ... không trúng: Thế thuyết bổ chép Tô Vũ Khâm người thời Tống, tự Tử Mỹ, tính hay rượu, tới ở nhà cậu, cứ tối đến là xin một đấu rượu. Cậu sai gia nhân rình xem, thấy Tử Mỷ đọc truyện Trương Lương trong Hán thư, tới doạn Trương Lương cùng người khách ám sát Tần Thủy Hoàng thì vỗ tay nói "Tiếc là đánh mà không trúng", rồi uống cạn một chén lớn. Gia nhân về kể lại, cậu nói “Nếu thế thì uống một đấu rượu cũng không phải là nhiều”.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 41 --
Lâm Tứ Nương
(Lâm Tứ Nương)

Ông Trần Bảo Thược làm quan ở đạo Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) đêm ngồi một mình, có cô gái vén rèm bước vào. Nhìn ra thì không quen mà rất đẹp, tay áo dài như lối trong cung cười nói "Đêm thanh ngồi một mình không buồn à?". Ông giật mình hỏi là ai, nàng đáp "Nhà thiếp không xa, chỉ bên xóm tây". Ông đoán là ma nhưng lòng yêu thích bèn kéo áo mời ngồi, thấy trò chuyện rất phong nhã. Ông thích lắm ôm lấy, cũng không kháng cự gì lắm, chỉ ngoảnh lại hỏi "Ở đây không có ai khác sao?”. Ông vội khép cửa đáp không. Giục cởi áo xiêm, nàng có vẻ thẹn thùng sợ sệt, ông phải ân cần cởi giúp cho. Nàng nói “Thiếp nay hai mươi tuổi, vẫn còn là xử nữ, mạnh bạo quá thì không chịu nổi". Giao hoan xong thấy máu đỏ vấy ra chiếu, kế dựa gối cùng trò chuyện, tự nói là Lâm Tứ Nương. Ông hỏi kỹ, nàng nói “Một tấm kiên trinh đã để cho chàng khinh bạc mà mất hết, nếu yêu thương thiếp thì chỉ cần tính chuyện lâu dài với nhau là được, hỏi lằng nhằng làm gì?”

Không bao lâu gà gáy, nàng trở dậy ra đi. Từ đó đêm nào cũng tới, thường đóng cửa uống rượu, nói tới âm luật thì nàng hiểu hết cung bậc. Ông đoán chắc hát rất hay, nàng nói “Lúc còn nhỏ vốn được học". Ông xin hát cho nghe một khúc, nàng nói "Đã lâu không đụng tới âm nhạc, cung bậc quên mất quá nửa, sợ người hiểu biết cười cho". Ông cố nài ép, nàng bèn cúi đầu gõ nhịp, hát khúc châu Y châu Lương, giọng rất thê thiết, hát xong rơi nước mắt. Ông cũng chua xót, ôm nàng an ủi "Nàng đừng vì cái âm nhạc mất nước ấy mà buồn khiến người ta mất vui". Cô gái nói "âm thanh là để tỏ ý, người buồn không thể bắt vui, cũng như người vui không bắt buồn được". Hai người thân thiết còn hơn cả vợ chồng, lâu ngày người nhà nghe trộm, nghe thấy tiếng hát đều rơi nước mắt. Phu nhân nhìn trộm dung mạo, nghi là trên đời không có người đẹp đến như thế, không phải ma ắt là hồ, sợ sẽ gieo tai họa bèn khuyên ông dứt tình.

Ông không nghe, chỉ hỏi kỹ gốc tích cô gái. Nàng buồn rầu nói “Thiếp là Cung nhân trong Hành phủ, gặp tai biến mà chết mười bảy năm rồi. Nghĩ chàng cao nghĩa nên gửi thân kết tình, thật không dám làm hại chàng. Nếu nghi ngờ thì xin giã biệt từ đây”. Ông nói "Ta không hiềm nghi gì, nhưng đã yêu thương nhau như vậy thì phải biết rõ sự thật thôi". Bèn hỏi việc trong cung thuở trước, cô gái kể rành rọt nghe rất thú vị, kể tới lúc suy vi thì nức nở nói không nên lời. Cô gái ít ngủ, hàng đêm cứ trở dậy tụng kinh Chuẩn đề, Kim cang. ông hỏi "Ở chín suối cũng có thể tự sám hối sao?” nàng đáp “Cũng như nhau cả, thiếp nghĩ trọn đời luân lạc nên muốn kiếp sau được giải thoát thôi".

Lại cùng ông phẩm bình thi từ, chỗ nào dở là chê, gặp câu hay thì cất tiếng ngâm nga, ý khí phong lưu khiến người nghe quên mỏi mệt. Ông hỏi có hay thơ không thì đáp "Lúc sống ngẫu nhiên cũng có làm” ông đòi viết tặng cho mình, nàng cười nói “Lời thơ của đàn bà con trẻ đâu đủ đến tai bậc cao nhân?". Được ba năm, một đêm chợt nàng buồn rầu từ biệt. Ông giật mình hỏi, nàng cười đáp "Diêm Vương nói thiếp kiếp trước không có tội mà vẫn không quên tụng kinh nên cho thác sinh làm con vua, đêm nay là vĩnh biệt, không còn gặp lại nhau nữa đâu”.

Nói xong buồn rầu, ông cũng rơi lệ. Bèn bày rượu cùng uống với nhau cho thật say, cô gái ngậm ngùi cất tiếng hát, âm điệu đau xót, mỗi tiếng mỗi tiếng đều thay đổi cung bậc, tới chỗ thương tâm thì nức nở, dừng lại mấy lần mới hát trọn khúc. Rượu cũng không sao uống say, đứng lên bồi hồi định từ biệt. Ông cố giữ lại, nàng ngồi thêm một lúc, chợt nghe tiếng gà gáy bèn nói “Không thể ở lại lâu nữa rồi. Chàng vẫn trách thiếp không chịu dâng lời thơ dở, nay sắp vĩnh biệt, xin viết qua một bài". Rồi đòi giấy bút, viết xong nói “Lòng đau ý loạn, không thể cân nhắc câu chữ, tiếng dở luật sai xin cẩn thận đừng đưa người khác xem” rồi lấy tay áo che mặt bước ra. Ông tiễn ra tới ngoài cổng, nàng tan đi như làn khói mất dạng. Ông đau xót hồi lâu, nhìn tới bài thơ thấy chữ viết ngay ngắn đẹp đẽ, trân trọng cất đi. Thơ rằng:

Tĩnh tọa thâm cung thập thất niên,
Thùy tương cố quốc vấn thanh thiên.
Nhàn khan điện vũ phong kiều mộc,
Khấp vọng quân vương hóa đỗ quyên.
Hải quốc ba đào tà tịch chiếu,
Hán gia tiêu cổ tĩnh phong yên.
Hồng nhan lực nhược nan vi lệ.
Huệ chất tâm bi chỉ vấn thiên.
Nhật tụng Bồ đề thiên vạn cú,
Nhàn khan bối diệp lưỡng tam thiên.
Cao xướng Lê viên ca đại khốc,
Thỉnh quân độc thính diệc tàm nhiên.

(Mười bảy năm trời xót nỗi niềm
Lòng đau nước cũ trách trời nghiêng
Rảnh nhìn điện gác buồn cây cỏ
Khóc nhớ quân vương xót đỗ quyên
Sóng vỗ bể xa vầng nhật xế
Nhạc lừng cung Hán khói mây yên
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Chất huệ lòng đau chỉ hỏi thiền
Ngày đọc Bồ đề ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Cất khúc Lê viên thay tiếng khóc
Xin ông giữ kín chút niềm riêng)

Lời thơ trùng lắp sai luật, ngờ là người chép lại bị lầm. Xét bộ Trì bắc ngẫu đàm của tiên sinh Vương Ngư Dương cũng chép truyện này nhưng bài thơ thì là Đường luật, Lư Nhã Vũ tiên sinh ở Đức Châu có đưa vào tập Sơn Tả thi sao, nên chép thêm vào đây để so sánh.

Trần Bảo Thược tự Lục Nhai người đất Mân, làm Quan sát Thanh Châu. Một hôm ngồi trong thư trai, chợt có a hoàn khoảng mười bốn mười lăm tuổi dung mạo rất đẹp vén rèm bước vào nói "Lâm Tứ Nương yết kiến". Trần kinh ngạc, không biết nguyên do, đang ngần ngừ thì Tứ Nương đã tới trước mặt nói câu vạn phúc, búi tóc mặc áo đỏ thêu nửa tay áo, mang hài mỏ phượng, lưng đeo song kiếm. Trần ngờ là bậc hiệp khách tiên cô, bất đắc dĩ vái chào mời ngồi. Tứ Nương nói "Thiếp là cung tần cũ trong phủ Hành, quê ở Kim Lăng. Xưa Hành vương đem ngàn vàng cưới thiếp về cho ở trong hậu cung, sủng ái khác hẳn mọi ngưòi, không may chết sớm, chôn ở trong cung. Không đầy vài năm nước mất, vương lên bắc. Hồn thiếp còn lưu luyến mộ cũ, nay cung điện hoang vu, muốn mượn đình quán của ông để tiếp khách, vốn không có ích gì cho ông, nhưng cũng không có gì hại cho ông", Trần dạ dạ.

Từ đó mỗi ngày tới một lần, mỗi khi bày tiệc, lúc đầu không thấy tân khách, nhưng nghe thấy tiếng cười nói thù tạc. Lâu ngày bày tiệc mời Trần và mấy người Công xa đồng hương với Trần. Mười mấy người trên tiệc chuốc rượu mừng, không khác gì người thường, nhưng cũng không biết là từ đâu tới. Rượu say, Tứ Nương kể lại chuyện cũ trong cung, bi thương khôn xiết, gõ nhịp mà hát, âm thanh rất ai oán, cả tiệc nước mắt đẫm áo mà tan. Như thế hơn năm, một hôm nàng buồn bã như sắp chia tay, nói với Trần "Thiếp trần duyên đã hết, phải tới núi Chung Nam, vì ông hậu tình, nên tới chia tay một lần", từ đó không tới nữa. Có một quyển thơ, Tư khấu Lý Ngũ Huyền người Trường Sơn có bản sao, lại có Hội nguyên Trần Chu Lượng ghi được một bài. Thơ rằng:

Tĩnh tọa thâm cung ức vãng niên,
Lâu đài tiêu cô biến phong yên.
Hồng nhan lực bạc nan vi lệ.
Hắc hải tâm bi chỉ hoc thiền.
Tế độc Liên hoa thiên bách kệ,
Nhàn khan bối diêp lưỡng tam thiên.
Lê viên cao xướng thăng bình khúc,
Quân thí thinh (thính) chi diệc võng nhiên.

(Ngồi lặng cung sâu xót nỗi niềm
Lâu đài ngày cũ khói mây nghiêng
Má hồng sức yếu khôn làm quỷ
Biển tối lòng đau chỉ học thiền
Khẽ đọc Liên hoa ngàn vạn chữ
Nhàn xem Bối diệp mấy mươi thiên
Lê viên cao khúc thanh bình trước
Ông nếu nghe xong cũng sẽ quên)


Phụ: Bài Ký Về Lâm Tú Nương Của Lâm Tây Trọng (Vân Minh).
(Lâm Tây Trọng Vân Minh Lâm Tứ Nương Ký)



Ông Ngô Bảo Thược ở Tấn Giang (tỉnh Phúc Kiến) tự Lục Nhai, năm Khang Hy thứ 2 (1663) làm quan Thiêm sự ở đạo Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, đêm cứ nghe có tiếng gõ cửa, lên tiếng hỏi thì không ai đáp. Tên đầy tớ tức tối không chịu nổi cầm giáo rình đâm. Đêm ấy chỉ nghe tiếng chửi mắng, xô cửa giữa xông ra thì là một con quỷ mặt xanh nanh dài cởi trần đứng sừng sững, đầu cao tới tận chái nhà, y hoảng sợ vứt giáo ngã lăn ra đất. Trần vội bước ra quát "Đây là công thự của triều đình, ngươi là yêu quái ở đâu dám tới quấy nhiễu?". Quỷ cười nói "Nghe quý nô bộc định giết nên tới chịu chết". Trần tức giận định gọi quân bắt giết, vừa nghĩ thì quỷ đã cười nói "Gọi quân bắt ta, sao mưu kế kém cỏi thế?”.

Trần càng tức giận, sáng ra điều hai ngàn quân tới giữ cổng. Đến đêm quỷ từ trong góc tường nhô ra, cao chừng ba thước, đầu to như cái bánh xe, miệng há to như cái thúng, hai mắt lóe sáng, bò rạp dưới đất, hơi lạnh toát ra gai người. Quân sĩ quát tháo bắn túi bụi, đạn lửa đều không cháy, tên bắn trúng thì không mũi nào cắm vào nó. Quỷ giật cung bắn trả, tên bay như mưa nhưng đều lướt qua đầu chứ không làm ai bị thương, quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Trần lại mời thầy pháp về làm phép xua đuổi, đêm đến thầy pháp ngủ lại trong dinh. Lúc ấy là tháng chạp rất lạnh, Trần vừa đi nghỉ thì quỷ tới thẳng chỗ thầy pháp ngủ lột sạch chăn nệm quần áo thầy pháp sợ hãi kêu cứu, Trần bất đắc dĩ phải tới năn nỉ. Quỷ cười nói "Nghe nói thầy pháp cao tay lắm, nghĩ là có phép thuật mà tài nghề chỉ có bấy nhiêu thôi sao?” rồi ném trả quần áo. Hôm sau thầy pháp xấu hổ từ biệt ra đi.

Từ đó trong dinh cứ bị ném đá liệng ngói sớm tối không yên, có khi thấy tường sụp cột đổ mọi người vội tránh xa thì lại không có chuyện gì, Trần lo lắm. Sau ta có người bạn đồng niên là Lưu Vọng Linh lên kinh, đi ngang Thanh Châu hỏi biết chuyện bèn nói với Trần "Ông tự chuốc lấy tai họa đó thôi. Lý trong thiên hạ có dương ắt có âm, nếu không hấp tấp trừ yểm thì cũng không đến nỗi bị phá phách như vậy", chưa dứt lời thì quỷ đã hiện ra lạy tạ. Lưu thấy hung ác đáng sợ bèn khuyên nên thay đổi dung mạo, quỷ lập tức bước vào phòng kín, giây lát trở ra thì là một giaì nhân tuyệt sắc, tóc mây búi cao, y phục đẹp đẽ tha thướt đi tới. Quần áo của nàng đều bằng thứ lụa long sa trơn láng mềm mại, cũng không thấy đường may, hương thơm sực nức không sao tả xiết. Nàng tự xưng là Lâm Tứ Nương, có một tớ trai tên Quán Đạo, một tỳ nữ tên Đông Cô, đều có bóng không có hình, chỉ Tứ Nương là không khác gì người sống.

Trần hàng ngày cùng nàng uống rượu làm vui, thân cận rất mực, chỉ không có chuyện kia nọ mà thôi. Phàm các công văn trong dinh phần lớn đều do nàng thảo ra, những án ngục khó xét lâu năm thì nàng dò xét rõ cả đầu đuôi, Trần ra xét một lần là ai cũng phục. Trần đi khảo thí thì nàng phẩm bình văn chương, xếp hạng trên dưới đều xứng đáng nên rất nổi tiếng.

Trước kia Trần chờ bổ nhiệm ở Yên Kinh có vay một người nhà buôn hai ngàn quan tiền, lúc ấy người nhà buôn bất ngờ tới đòi không sao trả được, xin trả một nửa nhưng y không chịu. Tứ Nương ra trách, nói "Trần công há phải là kẻ quịt nợ sao, chỉ vì nhất thời nên không đủ sức trả hết thôi. Người cứ nằng nặc đòi bằng được để đẩy ông vào chỗ mất danh dự thì có gì hay cho ngươi? Ta là ma đây, nếu không nghe lời thì ta sẽ gieo tai họa cho ngươi đấy”.Người nhà buôn vốn không tin chuyện ma quỷ nên cười nói “Nàng là người đẹp mà lấy chuyện ma quỷ dọa ta, nếu quả là ma thì phải biết nhà cửa nghề nghiệp của ta ở kinh” Tứ Nương nói “Nhà cửa nghề nghiệp của ngươi khó gì mà không biết. Ngươi gần đây có làm một việc nhơ nhuốc ở nơi nọ, ta nói ra chỉ sợ ngươi phải chết thôi". Người nhà buôn hoảng sợ cáo từ ra về, Trần ngầm hỏi việc y làm nhưng rốt lại Tứ Nương vẫn không chịu nói ra, giấu điều xấu cho người như thế đấy.

Tính nàng ưa ngâm vịnh, thơ phú làm ra phần lớn có âm điệu thê lương cảm khái, người ta không nỡ đọc. Phàm những người ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) tới thăm Trần thì nàng ắt cùng họ uống rượu vui đùa, khi chia tay là tặng thơ, trong có ẩn ngữ, về sau phần lớn đều nghiệm. Có một người học trò thích nàng xinh đẹp nên động tà niệm, Tứ Nương tức giận nói “Thằng mán rừng này thật vô lễ", rồi ra lệnh "Phạt gậy!". Người học trò chợt ngã lăn xuống đất kêu gào xin tha, hai mông đít đầy vết gậy đánh. Mọi người xin tha cho y, Tứ Nương bèn gọi tỳ nữ Đông Cô lấy thuốc cho y uống, lập tức không còn đau đớn gì nữa, rồi lại cùng nhau uống rượu vui vẻ như lúc đầu.

Trần hỏi đầu đuôi việc thành ma, Tứ Nương đáp "Ta là người huyện Bồ Điền (tỉnh Phúc Kiến) trong niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh (1628 -1643). Trước cha ta làm quan giữ kho ở phủ Giang Ninh (tỉnh Nam Kinh), ăn cắp của kho bị hạ ngục. Ta cùng người anh con cậu hết sức chạy vạy, suốt nửa năm đi đâu cũng có nhau nhưng không hề có chuyện tư tình. Đến khi cha ta được tha lại nghi ngờ, ta bèn thắt cổ tự tử để chứng tỏ là không có chuyện gì, hồn phách cứng cỏi nên không tan. Vì có tình đồng hương với ông nên tới đây, cũng không phải là ngẫu nhiên đâu. Tính lại nàng ở dinh thự được mười tám tháng thì cáo từ, sau khi chia tay Trần nhớ tiếc mãi. Năm Khang Hy thứ 6 (1667) Trần được bổ làm Truyền dịch đạo ở Giang Nam, kể cho nghe chuyện này, dặn ta ghi lại.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 42 --
Con Gái Ông Lỗ
(Lỗ Công Nữ)

Trương Ư Đán người huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông) tính ngang tàng không chịu bị trói buộc, tới học ở chùa Tiêu. Lúc ấy quan Tri huyện là ông Lỗ người Tam Hàn (vùng đất phía nam Triều Tiên) có cô con gái thích đi săn, sinh tình cờ gặp nàng ngoài đồng, thấy phong tư lộng lẫy, mặc áo lông điêu gấm, cưỡi con ngựa câu nhỏ, xinh đẹp như tranh vẽ, trở về nhớ nhung, băn khoăn tơ tưởng. Sau nghe tin nàng mắc bạo bệnh mà chết, vô cùng đau xót.

Lỗ vì nhà ở xa nên gởi quan tài nàng trong chùa, tức nơi sinh ở. Sinh kính cẩn như đối với thần minh, sáng ra thì thắp hương, đến bữa thì cúng vái, cứ rưới rượu khấn rằng "Thấy mặt một lần mộng hồn vương vấn, không ngờ người ngọc chợt qua đời, nay thì tuy gần gũi trong gang tấc mà xa xôi như núi sông, thật hận làm sao. Nhưng nàng còn sống thì còn có điều trói buộc chứ chết rồi không còn gì ngăn cấm, dưới chín suối có thiêng thì xin nhẹ nhàng về đây cho vơi niềm mong nhớ!” sớm tối cứ thế khấn khứa suốt nửa năm.

Một đêm khêu đèn đọc sách, chợt ngẩng đầu thì thấy cô gái đang đứng trước đèn tươi cười. Sinh giật mình đứng lên hỏi, nàng đáp "Cảm vì tình của chàng, không cầm lòng được nên không sợ mang tiếng tư tình". Sinh cả mừng kéo nàng ngồi xuống rồi cùng nhau ân ái, từ đó đêm nào nàng cũng tới. Cô gái nói với sinh “Lúc thiếp còn sống thích cung ngựa, lấy việc bắn hươu giết nai làm vui, tội nghiệt rất sâu, chết không có nơi về, nếu chàng thật lòng thương yêu xin phiền tụng kinh Kim cương cho đủ số một tạng* thì đời đời kiếp kiếp không dám quên ơn". Sinh kính cẩn nghe lời, cứ sáng ra là lập tức tới trước quan tài lần tràng hạt đọc kinh.

*Đủ số một tạng: tức đủ 81 lần. 81 1à con số thiêng của nhà Phật.

Gặp lúc cuối năm, muốn cô gái cùng về nhà với mình, cô gái lo chân yếu không thể lặn lội. Sinh xin cõng đi, nàng cười nghe theo, thấy như cõng trẻ con không có chút gì nặng nhọc mỏi mệt. Từ đó lấy thế làm thường, đi khảo thí cũng đưa nàng theo, nhưng chỉ ban đêm mới đi. Sinh sắp đi thi hương, cô gái nói “Chàng phúc mỏng, vất vả làm gì”, sinh nghe lời bèn thôi.

Được bốn năm năm, Lỗ bãi chức nghèo quá không thể đưa quan tài con gái cùng về quê, định chôn ở đó nhưng ngặt không có đất. Sinh bèn tự trần rằng "Ta có khoảnh đất xấu gần chùa, xin cứ chôn cất tiểu thư ở đó". Lỗ mừng lắm, sinh lại hết sức giúp đỡ việc chôn cất, Lỗ rất biết ơn nhưng không hiểu vì sao. Lỗ đi rồi, hai người lại khắng khít như trước.

Một đêm nàng nép vào lòng sinh nước mắt lã chã nói "Gắn bó được năm năm, nay phải chia tay rồi. Thiếp chịu ơn của chàng mấy kiếp cũng không báo đáp được," Sinh ngạc nhiên hỏi, nàng đáp “Đội ơn tới tận suối vàng, kinh sấm đã tròn một tạng, nay được đi đầu thai vào nhà quan Hộ bộ họ Lư ở Hà Bắc. Nếu chàng không quên tình hôm nay thì đúng ngày Trung thu mười lăm năm sau xin tới gặp nhau”. Sinh rơi nước mắt nói "Ta đã hơn ba mươi tuổi rồi, thêm mười lăm năm nữa thì sắp vào quan tài, gặp nhau có làm được gì?". Cô gái cũng khóc nói "Thiếp xin làm nô tỳ để đền ơn", lát sau lại nói "Chàng đưa thiếp đi giùm sáu bảy dặm với, từ đây ra đó đường nhiều gai góc, thiếp sợ rách hết quần áo". Rồi ôm cổ sinh, sinh cõng nàng ra tới đường cái, thấy ven đường có một dãy xe ngựa, trên ngựa hoặc một hoặc hai người, trên xe hoặc ba bốn người hoặc mười mấy người không như nhau.

Có một chiếc xe buông màn thêu treo rèm ngọc, chỉ có một bà già ngồi trên, thấy cô gái tới bèn gọi "Tới rồi đấy à?". Cô gái đáp "Tới rồi đây”, rồi ngoảnh nhìn sinh nói “Tới đây thì thiếp xin đi, đừng quên lời thiếp dặn", sinh vâng dạ. Cô gái bước tới cạnh xe, bà già đưa tay kéo lên, rồi đó lăn bánh lên đường, xe ngựa rầm rập phóng đi.

Sinh buồn bã trở về, ghi lại ngày hẹn lên vách, nhưng lại nghĩ tới công hiệu của kinh Phật, lại càng chuyên cần tụng niệm. Nằm mơ thấy thần nói “Lòng thành của ngươi rất đáng khen, nhưng cũng phải tới Nam Hải* nữa”. Sinh hỏi "Nam Hải cách đây xa không?” thần đáp “Chỉ trong gang tấc”. Sinh tỉnh dậy hiểu ý, bèn tụng kinh Quan âm, tu hành càng nghiêm cẩn.

*Nam Hải: đây chỉ nơi ở của Quan Thế âm Bồ tát.

Ba năm sau con thứ là Minh, con trưởng là Chính nối nhau thi đỗ. Sinh quý hiển nhưng vẫn giữ thiện hạnh, đêm mơ thấy một người áo xanh mời đi, tới một nơi cung điện, trong điện có một người ngồi, hình dáng như Quan âm Bồ tát đứng lên đón, nói "Ông làm điều lành đáng khen, tiếc không được sống lâu, may ta đã xin được Thượng đế cho thêm tuổi thọ rồi". Sinh lạy rạp dập đầu, Bồ tát gọi đứng lên, cho ngồi uống trà, thấy mùi vị thơm ngát như hoa lan. Lại sai đồng tử dẫn đi, bảo xuống ao tắm, nước ao trong suốt có thể đếm được cá đang bơi, bước xuống thấy ấm áp, vốc lên thấy có mùi hương sen. Lát sau dần ra tới chỗ sâu, hụt thân chìm nghỉm, giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ lùng.

Từ đó thân thể càng khỏe mạnh, mắt càng sáng, vuốt râu thì những sợi râu trắng đều lả tả rơi xuống, lâu sau thì râu đen cũng rụng xuống, những nếp nhăn trên mặt cũng giãn ra. Vài tháng sau thì cằm không còn sợi râu nào mà mặt như trẻ con giống lúc mười lăm mười sáu tuổi. Lại thích những trò nghịch ngợm phá phách, có khi làm điều bậy bạ, hai con trai phải xin lỗi che chở cho. Không bao lâu, phu nhân già mắc bệnh chết, hai con trai muốn hỏi cưới vợ kế con nhà thế tộc cho cha, sinh nói "Chờ ta tới Hà Bắc trở về rồi sẽ cưới vợ".

Bấm đốt ngón tay tính đã tới ngày hẹn, bèn sai đầy tớ thắng ngựa tới Hà Bắc, hỏi thăm quả có nhà quan Hộ bộ họ Lư. Trước là ông Lư sinh được một con gái, sinh ra đã biết nói, lớn lên càng thông minh xinh đẹp, cha mẹ rất yêu dấu. Các nhà giàu sang tới dạm hỏi thì nàng cứ chối từ không chịu, cha mẹ lấy làm lạ hỏi, nàng kể lại lời hẹn kiếp trước. Cha mẹ cùng tính lại tuổi tác sinh, cười lớn nói “Con nhãi ngây ngốc, Trương lang tính ra đã gần năm mươi tuổi, nếu việc người thay đổi thì xương đã mục nát, mà nếu còn sống cũng thì đã đầu hói răng rụng rồi". Cô gái không nghe, mẹ thấy nàng quyết ý bèn bàn với ông Lư sai người giữ cửa không được đưa tin sinh tới, chờ qua kỳ hẹn để nàng không mong đợi nữa.

Không bao lâu sinh tới, người giữ cửa từ chối không cho vào, sinh quay lại nhà trọ buồn bã không biết làm sao. Lúc nhàn rỗi đi dạo ngoài đồng, nhân ngầm tìm cách nghe ngóng tin tức trong nhà họ Lư. Cô gái cho rằng sinh phụ ước, khóc lóc bỏ ăn, mẹ nói "Y không tới, chắc đã chết rồi, nếu không thì cái lỗi phụ ước không phải là do con” nàng không nói gì, chỉ nằm cả ngày. Lư lo sợ, cũng nghĩ muốn gặp sinh một lần xem sao bèn lấy cớ ra ngoài dạo chơi, gặp sinh ngoài đồng, nhìn thấy là một thiếu niên lấy làm kinh ngạc. Bèn trải chiếu xuống đất cùng ngồi trò chuyện, thấy rất hợp ý, mừng rỡ mời về nhà.

Sinh đang định hỏi chuyện, Lư lập tức đứng lên dặn khách ngồi đợi một lúc rồi vội vào nói với con gái. Cô gái vui mừng gượng dậy, ra núp nhìn mặt sinh thấy không giống, rơi lệ quay vào, oán trách cha lừa dối mình. Lư ra sức phân trần đó đúng là sinh, cô gái không nói gì, chỉ rơi lệ không thôi. Lư trở ra, trong lòng chán nản, trò chuyện với khách rất lạt lẽo. Sinh hỏi "Quý nhân có phải là quan Hộ bộ không?", Lư ngạo mạn gật đầu, ngoảnh nhìn chỗ khác như không muốn tiếp khách. Sinh thấy ngạo mạn vô lễ bèn cáo từ ra về, cô gái khóc lóc mấy ngày rồi chết. Sinh đêm nằm mơ thấy nàng tới nói "Người tới đó đúng là chàng ư? Tuổi tác cùng dung mạo quá cách biệt, lại nhìn qua rèm nên không thấy rõ mặt, thiếp vì phẫn uất mà chết, xin chàng tới miếu Thổ địa gọi hồn gấp thì thiếp còn có thể sống lại, nếu chậm thì không kịp đâu.

Sinh tỉnh dậy vội tới cổng nhà họ Lư nghe ngóng, quả nhiên cô gái đã chết hai ngày rồi. Sinh vô cùng đau xót, vào tận nhà trong điếu tang, kế kể lại giấc mơ cho Lư nghe, Lư theo lời lập đàn gọi hồn về rồi mở vải liệm ra vỗ về xác cô gái, kêu gọi khấn khứa. Giây lát nghe trong cổ họng nàng có tiếng thở khò khè, chợt thấy môi son hé mở, nhưng toàn thân vẫn lạnh như băng. Vội bế ra đặt lên giường, giây lát thì nàng rên rỉ, Lư mừng rỡ mời khách ra ngoài, mở tiệc khoản dãi. Hỏi tới gia thế biết sinh là nhà quý hiển, càng thêm mừng rỡ bèn chọn ngày tốt gả con gái cho sinh.

Sinh ở đó nửa tháng rồi đưa cô gái về, Lư cũng tiễn về tới tận nhà, ở lại nửa năm mới đi. Vợ chồng ăn ở với nhau rõ ra là một cặp vợ chồng trẻ, nhiều người không biết cứ lầm tưởng vợ chồng con trai là vợ chồng sinh. Qua năm sau ông Lư chết, con trai còn quá nhỏ nên bị bọn cường hào lấn hiếp, gia sản dần khánh kiệt, sinh bèn đón về nuôi, sau con trai Lư làm nhà ở đó luôn.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 43 - 45 --
Đạo Sĩ
(Đạo Sĩ)

Hàn sinh là con nhà thế gia, tính hiếu khách, có họ Từ cùng thôn thường tới uống rượu. Một lần đang họp mặt thì ngoài cổng có đạo sĩ tới ăn xin, người nhà cho tiền gạo đều không lấy cũng không đi, chúng tức giận bỏ vào không nhìn tới nữa. Hàn nghe tiếng cãi cọ hồi lâu bèn hỏi người nhà, họ thưa lại, chưa dứt lờí đạo sĩ đã vào tới. Hàn mời ngồi, đạo sĩ nhìn chủ khách giơ tay một cái rồi ngồi ngay xuống. Hỏi qua mới biết là ngụ trong ngôi miếu nát ở xóm Đông. Hàn nói “Không biết dấu hạc về quán Đông lúc nào khiến ta thiếu lễ địa chủ”. Đạo sĩ đáp “Kẻ quê kệch mới tới, không quen biết ai, nghe nói cư sĩ rộng rãi nên rất muốn xin uống rượu” Hàn sai rót rượu, đạo sĩ uống rất hào, Từ thấy quần áo rách rưới dơ dáy có vẻ nghèo khổ nên không trọng lắm, Hàn cũng coi là loại khách thoáng qua. Đạo sĩ uống cạn hơn hai chục chén rồi chào ra về.
Từ đó cứ mở tiệc mời khách là đạo sĩ tới, gặp lúc ăn thì ăn, gặp lúc uống thì uống, Hàn cũng hơi bực mình. Có lần đang uống rượu, Từ chế nhạo nói "Đạo trưởng hàng ngày làm khách, sao không làm chủ một phen?". Đạo sĩ cười đáp “Đạo sĩ với cư sĩ như nhau, chỉ có hai vai mang một cái mồm thôi", Từ thẹn không sao trả lời được. Đạo sĩ nói "Tuy nhiên bần đạo có lòng thành đã lâu, cũng phải hết sức làm chén nước để mời", kế uống xong dặn "Trưa mai xin mời quá bộ”.

Hôm sau hai người rủ nhau cùng đi, vẫn ngờ là đạo sĩ không đặt tiệc, nhưng ông ta đã đón trên đường. Vào cổng thấy nhà cửa đều mới làm, gác rộng liền mây, vô cùng lạ lùng, nói "Lâu không tới đây, xây mới lúc nào vậy?”. Đạo sĩ đáp "Cũng vừa làm xong". Vào tới nhà trong thấy đồ vật bày biện đều sang trọng đẹp đẽ, các nhà thế gia cũng không có, hai người bất giác nảy lòng kính trọng. Mời ngồi xong, những kẻ rót rượu bưng mâm đều là bọn đồng tử đẹp trai khoảng mười sáu tuổi, áo gấm hài đỏ, còn rượu và thức ăn thơm ngon thì ê hề. Ăn xong lại bưng lên thức tráng miệng, có nhiều loại trái cây quý không biết tên, đựng trong khay pha lê ngọc thạch lóng lánh, rượu thì rót vào chén pha lê chu vi cả thước.

Đạo sĩ nói "Gọi chị em họ Thạch lên đây", tiểu đồng đi giây lát thì có hai mỹ nhân bước vào. Một nàng mảnh khảnh mà cao như cành liễu, một nàng thấp, tuổi cũng trẻ hơn, cả hai đều xinh đẹp. Đạo sĩ sai hát mời rượu, nàng trẻ tuổi gõ phách mà hát, nàng kia thổi sáo họa lại, âm thanh vi vu trong trẻo. Dứt khúc, đạo sĩ đưa chén ra bảo rót rượu, rồi bảo uống cạn. Lại hỏi người đẹp “Lâu quá không múa, nay múa được không?”, lập tức có bọn tớ trai đem nệm ra trải dưới tiệc. Hai nàng đối nhau múa, áo dài phất tung, hương thơm bay ngát, múa xong dựa người vào tấm bình phong vẽ. Hai người thần hồn bay mất, bất giác uống tới say mèm.

Đạo sĩ cũng không nhìn ngó gì tới khách nữa, cứ nâng chén uống cạn, kế đứng lên nói "Xin phiền cứ tự rót rượu, ta đi nghỉ một lúc sẽ trở lại" rồi bước đi. Vách phía nam có đặt một cái giường khảm xà cừ, hai cô gái đem nệm gấm trải ra rồi đỡ đạo sĩ lên nằm. Đạo sĩ bèn kéo nàng cao lên cùng nằm, sai nàng trẻ đứng ở dưới xoa lưng. Hai người thấy thế bực lắm, Từ bèn gọi lớn "Đạo sĩ không được vô lễ", rồi sấn tới phá đám, đạo sĩ vội trở dậy chạy trốn. Từ thấy nàng trẻ tuổi vẫn đứng trước giường, nhân đang say bèn kéo lên chiếc giường ở vách phía bắc, công nhiên ôm ấp. Ngoái lại thấy người đẹp trên giường vẫn nằm yên bèn nói với Hàn "Sao ông đứng xa thế”. Hàn liền leo lên giường định giao hoan, nhưng người đẹp ngủ say, lay không nhúc nhích bèn ôm nàng cùng ngủ. Trời sáng tỉnh rượu thúc giấc, thấy trong lòng có một vật lạnh buốt, nhìn lại thì ra mình ôm một hòn đá dài nằm dưới bậc thềm. Vội nhìn lại Từ thấy vẫn chua tỉnh, gối đầu vào một viên đá ngủ say trong nhà xí cũ. Tới đá cho tỉnh dậy, cùng lạ lùng kinh sợ, nhìn quanh thì chỉ có một sân cỏ hoang, hai gian nhà nát mà thôi.






44. Họ Hồ



(Hồ Thị)
Vùng Trục Lệ (tỉnh Hà Bắc) có nhà giàu muốn đón thầy dạy học, chợt có vị Tú tài tới cửa tự giới thiệu. Chủ nhân mời vào, thấy ngôn ngữ hào sảng, quý mến như bạn lâu ngày. Tú tài tự nói mình họ Hồ*, chủ nhân bèn nộp tiền dạy học, giữ lại ở đó. Hồ dạy học rất chăm chỉ, kiến thức khác hẳn bọn học trò tầm thường, nhưng thường ra ngoài chơi đến khuya mới về, cổng nẻo vẫn đóng chặt, không thấy gõ cửa mà đã vào tới trong phòng rồi. Chủ nhân ngờ là hồ nhưng xét tình ý thấy không có vẻ độc ác nên vẫn đối xử lễ phép, không vì quái dị mà coi thường.




*Họ Hồ: chữ "Hồ" đây viết 1à nhục + nguyệt đồng âm chứ không phải là chữ "hồ" (con chồn).




Hồ biết chủ nhân có con gái, muốn kết thông gia, mấy lần nói xa nói gần nhưng chủ nhân cứ làm như không hiểu. Hồ bèn lấy cớ có việc đi vắng, hôm sau có khách tới, buộc con lừa đen ở cổng. Chủ nhân ra mời vào, thấy tuổi khoảng năm mươi, áo quần tươm tất sạch sẽ, lời lẽ ý khí phong nhã, ngồi vào trò chuyện mới biết là người mai mối của Hồ. Chủ nhân im lặng hồi lâu rồi nói "Ta với Hồ tiên sinh quen nhau không có gì trái ý, cần gì phải làm thông gia, vả lại con gái ta đã hứa gả cho người khác rồi, phiền ông tạ lỗi giùm với tiên sinh”. Khách nói "Ta biết chắc lệnh ái còn chưa hứa gả cho ai, sao ông cự tuyệt nhau quá thế?”. Nói đi nói lại mấy lần chủ nhân vẫn không chịu, khách có vẻ thẹn thùng, nói "Họ Hồ cũng là thế tộc, có chỗ nào không bằng ông?", chủ nhân nói thẳng rằng "Thật không có ý gì khác, chỉ vì khác loài mà thôi”.




Khách nghe thấy nổi giận, chủ nhân cũng nổi giận, lớn tiếng sỉ vả nhau. Khách đứng bật dậy đánh chủ nhân, chủ nhân sai người nhà vác gậy đánh đuổi, khách bỏ chạy bỏ cả con lừa lại. Nhìn kỹ lại thì thấy con lừa lông đen tuyền, xua tai vẫy đuôi đúng là con lừa, nhưng kéo đi thì không động đậy, đánh đuổi thì theo tay khuỵu xuống kêu rền rĩ, té ra là một con sâu. Chủ nhân thấy khách căm tức, biết ắt sẽ báo thù nên chuẩn bị đề phòng. Hôm sau quả có quân hồ kéo tới rất đông, người đi ngựa, người đi bộ, hoặc mang giáo hoặc mang cung, người kêu ngựa hí ầm ĩ, chủ nhân không dám ra.




Bọn hồ kêu lớn "Đốt nhà y đi", chủ nhân càng sợ. Có người khỏe mạnh dắt gia nhân xông ra ném đá bắn tên, hai bên đánh nhau, bên nào cũng có người bị thương, bọn hồ dần dần yếu thế, nhao nhao bỏ chạy, vút cả gươm giáo xuống đất, thấy sáng loáng như tuyết, tới gần nhặt lên thì toàn là lá lúa mì. Mọi người cười nói “Tài nghề bọn chúng chỉ có bấy nhiêu thôi” nhưng sợ hồ sẽ lại kéo tới nên càng phòng bị nghiêm ngặt. Sáng hôm sau mọi người đang họp lại bàn tán chợt có một người to lớn từ trên trời rơi xuống, mình cao hơn một trượng, vai rộng mấy thước, vung đại đao to bằng cánh cửa đuổi người mà chém. Mọi người bắn tên đạn túi bụi, người ấy ngã lăn ra đất, nhìn lại thì là hình nộm bằng cỏ mà thôi, cùng lấy làm lạ. Ba ngày liền hồ không tới nữa, mọi người hơi lơ là. Vừa lúc chủ nhân vào nhà xí, chợt bọn hồ ào ào kéo tới bắn loạn xạ, bị trúng tên vào mông, cả sợ kêu cứu, mọi người đổ ra đánh dữ dội, bọn hồ mới lui. Nhổ tên ra xem thì đều là cọng cỏ bồng.




Cứ thế hơn tháng, bọn hồ lúc tới lúc không, tuy không bị thiệt hại gì nhiều, nhưng ngày nào cũng phải nơm nớp đề phòng, chủ nhân vô cùng lo lắng. Một hôm Hồ sinh dẫn quân tới, chủ nhân đích thân ra, Hồ thấy mặt bèn lẩn vào đám đông, chủ nhân gọi lớn, bất đắc dĩ Hồ phải ra. Chủ nhân nói "Ta tự thấy mình không hề thất lễ với tiên sinh, sao tiên sinh lại dấy động binh đao?". Bọn hồ muốn bắn, Hồ ngăn lại, chủ nhân tới gần nắm tay mời vào phòng dạy học cũ, bày rượu khoản đãi rồi ung dung nói "Tiên sinh là người đạt lý, chắc sẽ tha thứ cho. Ta tuy thân thiết với tiên sinh nhưng không muốn làm thông gia, chỉ vì xe ngựa nhà cửa của tiên sinh phần lớn đều khác với loài người, con gái ta theo về thì tiên sinh cũng biết là không thể được. Vả lại lời ngạn có câu: "Trái dưa mọc ra thì ai hái cũng chỉ để ăn, vậy tiên sinh cưới làm gì?". Hồ cả thẹn, chủ nhân nói "Không sao, con trai ta còn đây, nếu không chê là ngu hèn, thì thằng nhỏ theo học ông đã mười lăm tuổi, xin cho nó làm rể, không biết ông có đứa con gái nào không?” Hồ mừng rỡ nói “Ta có đứa em gái kém công tử một tuổi, nếu không chê là thô lậu, xin được hầu hạ khăn lược cho công tử, có được không?". Chủ nhân đứng lên vái lạy, Hồ cũng vái trả, rồi đó thù tạc rất vui vẻ, quên hết thù hiềm cũ. Chủ nhân sai mang rượu thịt ra khao thưởng tất cả bọn hồ đi theo, trên dưới đều hoan hỉ. Lại hỏi tới nơi ở để sai người tới nộp sính lễ nhưng Hồ từ tạ, trời tối lại đốt đuốc uống rượu đến lúc say mới về, từ đó chủ nhân lại được yên ổn.




Hơn năm sau Hồ không tới, có người ngờ là hẹn dối nhưng chủ nhân vẫn kiên tâm chờ. Lại sau nửa năm Hồ chợt tới, hỏi thăm sức khỏe chủ nhân xong, nói "Em gái ta đã truởng thành, xin chọn ngày lành tháng tốt cho nó được về thờ cha mẹ chồng". Chủ nhân mừng rỡ, lập tức đính ước. Kế Hồ ra về, đến ngày hẹn quả nhiên có xe kiệu đưa cô dâu tới, của hồi môn rất nhiều, bày đầy cả phòng. Cô dâu ra mắt cha mẹ chồng, vô cùng lễ phép, chủ nhân cả mừng. Hồ sinh cùng một người em trai đưa cô dâu tới, trò chuyện đều phong nhã, tửu lượng lại cao, uống rượu đến sáng mới về. Cô dâu mới lại có thể biết trước năm nào được mùa năm nào mất mùa, nên việc trồng trọt mưu sinh trong nhà cứ theo đó mà quyết. Anh em Hồ sinh cùng bà mẹ thường tới thăm nàng, mọi người đều biết mặt.




045. Bậc Vương Công



(Vương Giả)




Tuần phủ Hồ Nam là ông Mỗ sai quan Châu tá áp tải sáu mươi vạn tiền lương về kinh. Giữa đường gặp mưa, trời tối lỡ đường không có chỗ ngủ, thấy xa xa có một ngôi chùa cổ bèn tới đó nghỉ lại. Sáng ra nhìn tới số tiền thì đã mất hết. Mọi người kinh hãi nhưng không thể quy tội cho ai, bèn về bẩm với Tuần phủ. Tuần phủ cho là bịa đặt định đem trị tội, đến khi tra hỏi các sai dịch đi cùng thì không ai nói gì khác, liền bắt phải trở lại chỗ mất tiền điều tra manh mối.




Tới trước miếu thấy một người mù tướng mạo kỳ dị treo tấm bảng đề “Biết việc trong lòng", nhân nhờ bói cho. Người mù nói "Đây là vì việc mất vàng", viên Châu tá nói "Phải" rồi kể lể nỗi khổ. Người mù đòi một cỗ kiệu, nói "Cứ đi theo ta sẽ biết", mọi người theo lời, các sai dịch cũng đi theo. Người mù nói “Đi về phía đông", mọi người đi về phía đông, nói “Đi về phía bắc", mọi người đi về phía bắc. Được năm ngày thì vào trong núi sâu, chợt thấy thành quách, người đi lại nhộn nhịp. Vào thành đi một lúc, người mù nói “Dừng lại" rồi xuống kiệu, chỉ về hướng nam nói "Cứ tới cái cổng cao quay về phía tây thì vào mà hỏi” rồi chắp tay bỏ đi.




Viên Châu tá theo lời, quả tới cái cổng cao liền vào. Có một người ra, ăn mặc theo kiểu thời Hán, không xưng tên họ. Viên Châu tá kể nguyên do mình tới, người ấy nói "Xin ở lại vài hôm, sẽ đưa ông tới ra mắt người có trách nhiệm” Rồi đưa viên Châu tá đi, cho ở một nơi riêng, lo đủ cơm nước. Nhân lúc rảnh rỗi, viên Châu tá đi dạo ra sau nhà thấy có cái đình trong khu vườn, tùng già rợp bóng, cỏ mượt như nhung. Qua mấy đoạn hành lang lại tới một cái đình cao, theo bậc thềm bước lên, thấy trên vách treo mấy tấm da người còn đủ cả tai mắt mũi mồm, mùi tanh nồng nặc, bất giác sởn hết gai ốc, vội vàng quay về phòng. Tự nghĩ chắc phải gởi thây nơi đất lạ, không mong gì sống được. Nhưng nghĩ bề nào cũng chết, hãy cứ chờ xem.




Hôm sau người kia tới gọi đi, nói "Hôm nay có thể gặp được", viên Châu tá dạ dạ. Người kia cưỡi ngựa phóng như bay, viên Châu tá hộc tốc chạy theo. Lát sau tới một quân dinh oai vệ như dinh Tổng đốc, sai dịch dàn hàng hai bên, không khí nghiêm trang. Người kia xuống ngựa dẫn viên Châu tá vào, qua một lớp cửa nữa, thấy một vị vương giả áo gấm mũ ngọc ngồi quay về hướng nam. Viên Châu tá bước lên lạy chào, vị vương giả hỏi "Ngươi là quan giải lương ở Hồ Nam phải không?”, viên Châu tá thưa phải. Vị vương giả nói "Tiền còn đủ ở đây, chẳng đáng bao nhiêu, quan Tuần phủ của ngươi khẳng khái dâng nộp chắc cũng được mà".




Viên Châu tá khóc nói "Kỳ hạn đã mãn, trở về sẽ bị trị tội, biết lấy gì bẩm lại với quan trên?” Vị vương giả đáp "Chuyện đó không khó", rồi đưa cho một cái tráp to, nói "Đem cái này về đưa lên, chắc chắn vô sự". Kế hạ lệnh lực sĩ đưa ra, viên Châu tá sợ sệt không dám nói gì, nhận tráp mà về. Đường ra núi sông khác hẳn đường vào, ra khỏi núi người đưa đường quay về. Vài ngày về tới Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam) bẩm lại với Tuần phủ. Tuần phủ càng cho là bịa đặt, nổi giận không thèm nghe nữa, sai ngay tả hữu mang dây ra trói. Viên Châu tá cởi khăn lấy cái tráp đưa lên. Tuần phủ mở ra, vừa nhìn thấy đã tái mặt bảo thôi trói, nói "Tiền bạc là việc nhỏ, cho ngươi lui". Kế vội phát văn thư sai các thuộc quan tìm cách bù vào, vài hôm sau thì ốm rồi chết.




Trước đó Tuần phủ cùng người thiếp yêu nằm ngủ, khi tỉnh dậy thì tóc người thiếp bị cắt hết, cả nha môn hoảng sợ không biết vì sao, thì ra tóc ấy được đựng trong cái tráp. Ngoài ra còn có lá thư viết "Ngươi từ khi làm quan Tuần phủ, chúc vị cao sang, hối lộ tham ô tiền không kể xiết. Khoản tiền sáu mươi vạn kia đã xét thu vào kho, hãy mở túi tham mà nộp cho đủ. Viên quan áp tải không có tội, không được xử bậy. Trước đây cắt tóc người thiếp để cảnh cáo qua loa, nếu không tuân lệnh thì sớm tối sẽ lấy đầu ngươi. Món tóc gởi kèm là để làm tin đấy". Sau khi Tuần phủ chết, người nhà mới truyền lá thư ra. Về sau các thuộc viên sai người tìm tới chốn nọ thì chỉ thấy núi cao vực sâu, không có đường đi nào.




Dị Sử thị nói:Câu chuyện rất giống với chuyện các hiệp khách đời cổ lấy vàng chia cấp cho người nghèo, thật cũng lạ lùng khoái ý. Nhưng người tránh loạn vào Đào Nguyên thì không đi ăn cướp, mà nếu các bậc kiếm khách tụ họp thì làm sao có được thành quách nha thự như vậy được? Than ôi, đó là vị thần nào chăng? Nhưng nếu có một chỗ như vậy thật, thì chỉ sợ người trong thiên hạ tới tố cáo không lúc nào ngớt thôi.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 46 - 47 -
Trần Vân Thê
(Trần Vân Thê)

Chân Dục Sinh người Di Lăng đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc) là con một Cử nhân, học giỏi đẹp trai, hai mươi tuổi đã nổi tiếng. Lúc còn nhỏ có thầy tướng đoán "Về sau sẽ lấy vợ là đạo cô”, cha mẹ đều cười nhưng bàn tới việc hôn nhân của sinh thì khổ nỗi cứ kén chọn mãi không xong.
Tang phu nhân mẹ sinh quê ở huyện Hoàng Cương (tỉnh Hồ Bắc), sinh có việc về quê ngoại nghe người ta nói “Bốn nàng Vân ở Hoàng Cương, xinh đẹp không ai sánh bằng". Nguyên ở huyện có am thờ Lữ tổ bốn đạo cô trong am đều xinh đẹp nên có lời đồn như thế. Am cách nhà họ Tang hơn mười dặm nên sinh lén tới gọi cổng, quả có bốn đạo cô vui vẻ ra đón tiếp, phong thái đều tao nhã, có một nàng trẻ nhất xinh đẹp vô song, sinh thích lắm cứ nhìn chằm chằm. Nàng lấy tay che mặt nhìn qua chỗ khác. Các đạo cô lo lấy ấm pha trà, sinh thừa dịp hỏi thăm tên họ, nàng đáp “Họ Trần tên Vân Thê". Sinh nói đùa "Lạ thật, tiểu sinh lại đúng họ Phan*". Trần đỏ mặt cúi đầu không nói, đứng dậy bước ra.

*Họ Trần... họ Phan: Cổ kim nữ sử chép thời Tống ở đạo quán Nữ Trinh có đạo cô Trần Diệu Thường rất xinh đẹp, hay thơ giỏi đàn, tư thông với bạn của quan huyện Lâm Giang Trương Vu Hồ là Phan Pháp Thành. Phan kể lại với Trương, Trương ra lệnh cho hai người lấy nhau. Đây Chân Dục Sinh có ý nói đùa Vân Thê là Trần Diệu Thường còn mình là Phan Pháp Thành.

Giây lát trà quả bưng lên, các đạo cô xưng tên: một nàng tên Bạch Vân Thâm, tuổi khoảng ba mươi, một nàng tên Thịnh Vân Miên khoảng đôi mươi trở lại, một nàng tên Lương Vân Đống khoảng hăm bốn hăm lăm là đàn em, duy Vân Thê không vào Sinh mất vui bèn hỏi, Bạch đáp "Con nhãi ấy sợ người lạ". Sinh đứng lên cáo từ, Bạch hết sức giữ lại không được, nói "Nếu muốn gặp Vân Thê, xin mời mai tới”

Sinh về nhớ nhung tha thiết, hôm sau lại tới am. Các đạo cô đều có mặt, chỉ vắng Vân Thê. Sinh chưa tiện hỏi thì các đạo cô dọn cơm mời khách, sinh cố từ chối nhưng không được. Bạch xắn bánh trao đũa mời mọc rất ân cần. Sinh hỏi Vân Thê đâu, họ đáp sẽ tự tới. Hồi lâu mặt trời xế bóng, sinh muốn về, Bạch nắm tay giữ lại nói “Xin cố ở lại, ta sẽ bắt con nhãi ra chào", sinh bèn ở lại. Giây lát họ thắp đèn bày rượu, Vân Miên cũng ra ngoài. Rượu được vài tuần, sinh cáo đã say, Bạch nói “Cứ cạn ba chén nữa thì Vân Thê sẽ ra", sinh bèn uống đủ ba chén. Lương cũng nài nỉ mời ba chén, sinh uống cạn rồi úp chén cáo là đã say. Bạch nhìn Lương nói “Chúng ta đáng khinh không thể mời rượu được, cô đi dắt con nhãi Trần tới đây, cứ nói chàng Phan đợi Diệu Thường lâu rồi". Lương ra, giây lát quay lại nói Vân Thê không tới. Sinh muốn về nhưng đã khuya liền giả say nằm vật ra. Hai người cởi quần áo sinh rồi thay phiên đòi hỏi suốt đêm không sao chịu nổi, trời sáng sinh không cáo biệt về luôn, mấy ngày sau không dám quay lại.

Nhưng vẫn không sao quên được Vân Thê nên cứ lâu lâu lại tới gần am nghe ngóng. Một hôm trời đã tối, thấy Bạch cùng một thiếu niên đi ra, sinh mừng vì không sợ Lương lắm liền tới gõ cổng. Vân Miên ra mở, hỏi thăm thì Lương cũng đi vắng. Nhân hỏi Vân Thê, Thịnh dẫn tới một gian phòng gọi "Vân Thê, có khách tới!". Chỉ thấy cửa phòng đóng sầm lại, Thịnh cười nói "Đóng cửa rồi!". Sinh đứng ngoài cửa sổ như định nói gì, Thịnh liền bỏ đi. Vân Thê nói vọng ra "Họ đều lấy thiếp làm mồi nhử chàng, nếu chàng tới mãi sẽ mất mạng đấy. Thiếp không thể giữ trọn thanh quy nhưng cũng không dám coi thường liêm sỉ, muốn đưọc người như chàng Phan để thờ mà thôi". Sinh thề chung sống suốt đời, Vân Thê nói "Công sư phụ thiếp nuôi dạy cũng không ít, nếu quả thương yêu nhau thì phải đem hai mươi lượng vàng chuộc thiếp, thiếp xin chờ ba năm. Còn như muốn làm trò trên bộc trong dâu thì không thể được". Sinh nhận lời đang muốn nói rõ về mình thì Thịnh đã trở lại, đành theo ra rồi chào về. Trong lòng vẫn buồn rầu, muốn nán lại gặp nbau lần nữa thì gặp lúc người nhà tới báo cha bệnh, bèn vội vã về quê.

Không bao lâu ông Cử nhân mất, phu nhân thì dạy con rất nghiêm, sinh không dám tỏ bày tâm sự, chỉ dè sẻn để dành dụm tiền bạc. Có ai mối lái đánh tiếng thì cứ lấy cớ đang có tang từ chối. Mẹ không nghe, sinh lựa lời nói "Trước đây ở Hoàng Cương bà ngoại đã định hỏi con gái họ Trần cho con, thật đúng sở nguyện. Nay nhà có việc, tin tức cách trở, đã lâu chưa đi thăm bà, nay mai con sẽ đi một phen, nếu đám đó không xong sẽ xin vâng lời mẹ". Phu nhân bằng lòng, sinh vội thu xếp tiền để dành được đem theo.

Tới Hoàng Cương qua am thì viện quán vắng vẻ khác hẳn ngày trước, vào trong chỉ có một ni cô già đang nấu cơm, nhân hỏi tin tức. Ni cô nói "Năm rồi đạo sĩ già chết, bốn nàng Vân mỗi người một ngả”. Hỏi họ đi đâu, bà đáp Vân Thâm, Vân Đống trốn theo bọn trai trẻ đàng điếm, nghe nói Vân Thê tới ngụ ở bắc huyện, còn Vân Miên thì không nghe tin". Sinh nghe thế buồn rầu than thở, sai đánh xe lên bắc, gặp đạo quán là hỏi thăm mà không thấy tung tích gì. Đành rầu rĩ trở về nói dối với mẹ rằng “Cậu nói ông Trần đi Nhạc Châu (huyện thuộc Hồ Nam), đợi khi nào ông về sẽ sai người báo tin".

Nửa năm sau phu nhân về thăm nhà, đem chuyện hỏi mẹ thì bà không biết gì. Phu nhân giận con nói dối, nhưng bà mẹ ngờ là hai cậu cháu bàn tính riêng với nhau mà chưa nói cho mình biết, may là cậu đi vắng nên sinh không bị lộ chuyện nói dối. Phu nhân lên dâng hương trên núi Liên Phong, tối nghỉ trọ ở dưới núi, đã đi nằm thì chủ nhân gõ cửa dẫn một đạo cô vào trọ chung. Nàng tự xưng tên Trần Vân Thê, nghe nói phu nhân ở Di Lăng liền qua ngồi cùng giường kể chuyện mình trắc trở, lời lẽ buồn rầu, sau cùng nói "Có người anh họ là Phan sinh cũng ở Di Lăng, phiền phu nhân sai con cháu nhắn giúp một câu là ta đang ở tạm chỗ sư thúc Vương Đạo Thành tại quán Thê Hạc, sớm tối nguy nan khổ sở, một ngày như một năm, xin tới thăm cho sớm, chứ e sau này chưa biết ra sao". Phu nhân hỏi tên Phan sinh thì nàng lại không biết, chỉ nói "Anh ấy đã đi học ở trường huyện, các vị Tú tài chắc ai cũng biết". Trời chưa sáng nàng đã từ biệt ra đi, còn ân cần dặn đi dặn lại.

Phu nhân về nhà kể lại với sinh, sinh quỳ xuống nói “Thưa thật với mẹ, chàng Phan sinh ấy chính là con". Phu nhân hỏi rõ duyên cớ, giận nói "Thằng con xấu xa vào chùa quán chơi bời, nếu lấy đạo cô làm vợ thì còn mặt mũi nào nhìn họ hàng bè bạn nữa!”, sinh cúi đầu không dám nói gì. Gặp khi sinh lên quận thi, lén thuê thuyền tới thăm Vương Đạo Thành. Tới nơi thì Vân Thê đã ra đi nửa tháng không về, sinh về nhà buồn rầu phát bệnh. Kế bà Tang mất, phu nhân về chịu tang. Chôn cất xong trở về lạc đường tới nhà họ Kinh, hỏi ra thì là em họ mình. Phu nhân nhân tiện ghé vào chơi, thấy có một thiếu nữ trong phòng, tuổi khoảng mười tám mười chín, dung nhan tuyệt thế, bà chưa từng thấy ai đẹp bằng. Phu nhân thường muốn tìm một nàng dâu thật đẹp cho thằng con không oán hờn, thấy nàng thì động lòng bèn hỏi lai lịch. Bà em nói "Đây là Vương thị, cháu gọi ông Kinh bằng cậu, cha mẹ đều đã mất, tạm ở nhờ nhà ta” phu nhân hỏi chồng là ai, bà em đáp chưa có. Phu nhân cầm tay nàng trò chuyện thấy dịu dàng nết na thích lắm, vì thế nghỉ lại qua đêm, ngỏ ý riêng với bà em. Bà em nói “Xứng đôi lắm nhưng nó làm cao, nếu không thì đâu lại đến nay còn chưa lấy chồng, xin để ta bàn lại". Phu nhân gọi cô gái tới ngủ chung giường, nàng nói cười rất vui vẻ, xin nhận phu nhân làm mẹ. Phu nhân mừng, rủ cùng về Kinh Châu. Nàng càng vui mừng, hôm sau cùng lên thuyền về.

Về tới nhà thì sinh còn ốm chưa dậy. Mẹ muốn con đỡ bệnh liền sai tỳ nữ vào nói thầm với sinh "Phu nhân đưa người đẹp về cho công tử đấy". Sinh chưa tin, núp dưới cưa sổ nhìn ra, thấy cô gái còn đẹp hơn cả Vân Thê, nhân nghĩ “Cái hẹn ba năm đã hết, nàng ra đi không về thì hoa thơm chắc đã có chủ, được người đẹp này thì trong lòng cũng được an ủi". Rồi đó vui vẻ trở lại, bệnh cũng dần khỏi. Phu nhân gọi hai người tới chào nhau, sinh ra. Phu nhân nói với cô gái “Có hiểu ý ta đưa con cùng về không?” nàng mỉm cười đáp "Con đã biết rồi, có điều ý con lúc đầu nhận về cùng thì mẹ chưa biết. Lúc con còn nhỏ đã đính ước với Phan sinh ở Di Lăng, nhưng tin tức vắng bặt, chắc chàng đã có vợ khác rồi. Nếu thế con sẽ làm con dâu của mẹ, nếu không thế thì con sẽ làm con gái của mẹ suốt đời, sẽ có ngày báo đáp ơn sâu. Phu nhân nói “Nếu con đã có lời đính ước ta cũng không ép. Nhưng trước đây ta ở núi Ngũ Tổ có gặp một đạo cô hỏi thăm họ Phan, nay con cũng nói tới họ Phan, song các nhà thế tộc đất Di Lăng vốn không có họ ấy” Cô gái giật mình nói “Người nghỉ lại dưới núi Liên Phong là mẹ sao? Người hỏi thăm họ Phan chính là con đây". Phu nhân chợt hiểu ra, cười nói "Nếu đúng thế thì Phan sinh ở đây". Cô gái hỏi ở đâu phu nhân sai tỳ nữ dẫn tới chào sinh. Sinh giật mình hỏi "Nàng là Vân Thê phải không?". Cô gái hỏi sao biết, sinh kể lại sự tình, lúc ấy nàng mới biết sinh tự xưng là Phan lang để đùa, thẹn thùng bàn chuyện chung thân rồi vội vàng quay ra thưa với mẹ. Mẹ hỏi "Thế sao con lại lấy họ Vương” nàng đáp "Con vốn họ Vương, vì đạo sư yêu quý coi như con gái nên lấy họ Trần thôi". Phu nhân cũng mừng, chọn ngày làm lễ thành hôn.

Nguyên trước đây cô gái và Vân Miên đều tới nương tựa Vương Đạo Thành. Đạo Thành ăn ở hẹp hòi, Vân Miên bỏ đi Hán Khẩu, còn nàng vốn yếu ớt ngây thơ không thể làm lụng vất vả, lại xấu hổ không dám đi hành nghề đạo sĩ nên Đạo Thành cũng không thích lắm. Gặp lúc ông cậu họ Kinh đỉ qua Hoàng Cương, nàng gặp mặt rơi nước mắt, ông bèn đưa về nhà, cho bỏ trang phục đạo cô, định gả cho nhà sĩ tộc nên giấu biệt việc nàng từng làm đạo cô. Nhưng có ai làm lễ vấn danh thì nàng không chịu, cậu mợ không biết nàng muốn gì nên rất bực mình. Hôm ấy nàng theo phu nhân đi, được chỗ gửi gắm tử tế, họ như cất được gánh nặng. Sau lễ hợp cẩn, hai người cùng kể lại chuyện mình, mừng quá phát khóc. Cô gái hiếu thảo kính cẩn, phu nhân rất thương yêu, nhưng nàng chỉ gảy đàn đánh cờ chứ không biết coi sóc gia nhân làm ăn nên bà rất lo lắng.

Hơn tháng sau phu nhân sai vợ chồng tới thăm họ Kinh, ở lại vài hôm rồi về. Thuyền đang trên sông chợt có một thuyền khác đi tới, trong có một dạo cô tới gần thì là Vân Miên. Vân Miên chỉ thân với cô gái nên nàng vui mừng gọi qua thuyền mình, nhìn nhau cùng chua xót. Hỏi định đi đâu, Thịnh đáp "Lâu ngày nhớ nhau, tới quán Thê Hạc tìm thì nghe tin nàng đã về nương tựa ông cậu họ Kinh nên định tới Hoàng Cương thăm thôi. Không ngờ nàng đã được đoàn tụ với người trong mộng rồi. Nay nhìn nàng như tiên, chỉ còn kẻ phiêu bạt này không biết đến lúc nào mới hết kiếp” rồi than thở mãi. Cô gái bày kế, bảo đổi bỏ trang phục đạo cô giả làm chị mình về ở với phu nhân rồi sẽ thong thả chọn nơi xứng đáng.

Thịnh nghe theo, về tới nhà cô gái vào thưa trước với phu nhân rồi Thịnh mới vào, cử chỉ như con nhà đại gia, trò chuyện thì rõ ra là người am hiểu việc đời. Phu nhân góa bụa đang buồn vì vắng vẻ cô đơn, gặp Thịnh vui lắm, chỉ sợ nàng đi. Thịnh dậy sớm giúp đỡ bà làm việc nhà, không coi mình là khách. Mẹ càng mừng, thầm muốn cưới thêm chị để át cái tiếng đạo cô của em nhưng chưa dám nói ra. Một hôm bà quên một việc, vội hỏi lại thì Thịnh đã làm giúp xong từ lâu, bèn nói với cô gái "Người đẹp như tranh mà không làm nổi việc nhà thì có làm gì. Con dâu mà được như chị thì ta không lo gì nữa".

Không ngờ cô gái đã tính từ lâu nhưng sợ mẹ giận, nghe nói thế liền cười thưa "Mẹ đã yêu quý chị ấy thì con dâu muốn bắt chước Nữ Anh Nga Hoàng*, ý mẹ thế nào?” Mẹ không đáp nhưng cũng tươi cười cô gái lui về nói với sinh "Mẹ già gật đầu rồi". Rồi dọn dẹp một gian phòng khác, nói với Thịnh rằng “Lúc trước cùng ngủ chung trong đạo quán, chị nói chỉ cần được một người biết thương yêu thì hai ta cùng thờ, chị còn nhớ không?”. Thịnh bất giác quắc mắt nói "Cái ta nói là "thương yêu” ấy không phải gì khác đâu, nếu ngày ngày làm lụng mà không ai biết cho nỗi ngọt bùi cay đắng. Vài hôm ở đây có chút khó nhọc, được mẹ già thương yêu thì lòng đã khác trước rồi. Nếu không ra lệnh đuổi khách thì xin được sống mãi với mẹ già là đủ thỏa nguyện, chứ không mong làm theo đúng lời nói trước đây".

*Nga Hoàng Nữ Anh: hai con gái vua Nghiêu, chị em cùng 1àm vợ vua Thuấn, đây ý nói hai người Vân Miên Vân Thịnh cùng lấy Chân Dục Sinh.

Cô gái thưa lại với mẹ, mẹ sai chị em thắp hương thề không oán hối rồi bảo sinh làm lễ thành thân với Vân Miên. Lúc sắp đi ngủ, nàng nói với sinh "Thiếp là cô gái còn trinh già hăm ba tuổi đấy”. Sinh chưa tin, đến lúc thấy trên nệm có vết hồng mới lấy làm lạ. Thịnh nói “Thiếp sở dĩ vui được chổng tốt không phải vì không chịu được cảnh vắng vẻ, mà thật là vì tấm thân khuê các mà tươi cười thù ứng như ca kỹ thanh lâu thì không kham nổi thôi. Nên mượn dịp này vào ở nhà chàng, sẽ vì chàng phụng duỡng mẹ già, coi sóc việc nhà, chứ việc vui thú phòng the xin chàng cứ tìm người khác". Ba ngày sau Miên ôm chăn chiếu qua ngủ với mẹ, đuổi không chịu đi. Vân Thê bèn vào phòng mẹ giành chỗ trước, Vân Miên bất đắc phải về với sinh. Từ đó cứ hai ba ngày đổi phiên một lần, dần dần thành lệ.

Phu nhân vốn đánh cờ giỏi nhưng từ khi góa bụa không rảnh mà chơi, từ khi có Thịnh coi sóc việc nhà đâu đấy nên cả ngày rảnh rỗi, cứ đánh cờ với Vân Thê. Tối đến thì thắp đèn pha trà nghe hai con dâu đàn hát, nửa đêm mới ngủ. Thường nói với người ta rằng “Lúc ông ấy còn sống cũng chưa từng được vui thế này". Thịnh coi việc xuất nhập, thường ghi sổ trình mẹ, mẹ ngờ vực nói "Các con vẫn nói là mồ côi từ nhỏ, vậy ai dạy cho biết chữ đánh đàn chơi cờ?". Cô gái cười kể thật, mẹ cũng cười nói “Ta lúc đầu không muốn con trai cưới một đạo cô làm vợ, nay lại cưới tới hai đạo cô. Sực nhớ lại quẻ bói lúc nó còn là trẻ con, mới biết số trời đã định thì khó mà tránh được".

Sinh đi thi mấy lần không đỗ, phu nhân nói "Nhà ta tuy không giàu, nhưng ba trăm mẫu ruộng xấu may được Vân Miên coi sóc nên ngày càng no ấm, con cứ ở dưới gối cùng hai nàng dâu vui thú với già này, chứ ta không mong con cầu công danh phú quý", sinh vâng lời. Sau Vân Miên sinh một trai một gái, Vân Thê sinh một gái ba trai, mẹ hơn tám mươi mới mất, các cháu nội đều được vào học trường huyện, cháu lớn do Vân Miên sinh thi đỗ Cử nhân.

47. Chúc Thành
(Chúc Thành)
Trong hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam) thường có việc thủy thần mượn thuyền, thuyền mà trống thì dây buộc chợt tự tháo ra, lững lờ trôi đi. Chỉ nghe trên không trung có tiếng đàn sáo trỗi lên, những người chèo thuyền quỳ mọp trong một góc không dám ngẩng nhìn, để mặc thuyền tự trôi, xong lại dạt vào chỗ cũ.

Có Liễu sinh thi rớt về say nằm trên thuyền, chợt có tiếng nhạc nổi lên, những người chèo thuyền lay gọi vẫn không tỉnh, vội ra cả đầu thuyền chui xuống dưới sạp. Chợt có người đẩy sinh, sinh say quá, theo tay lăn xuống dưới sàn, vẫn ngủ như cũ, họ bèn để cho nằm đó. Giây lát đàn trống om sòm, sinh hơi tỉnh, ngửi thấy mùi lan xạ thơm phức, hé mắt ra nhìn thấy trên thuyền đều là mỹ nhân, biết là có việc lạ bèn giả như vẫn còn ngủ. Kế nghe truyền gọi Chúc Thành, lập tức có người thị tỳ tới, đứng cạnh đầu sinh, thấy quần xanh dệt sa tía, hài nhỏ như ngón tay, trong lòng rất thích, ngầm cắn vào gấu quần. Lát sau thị tỳ bước đi bị giằng ngã xuống, người ngồi trên hỏi, bèn thưa lý do. Người ngồi trên tức giận sai đem sinh ra giết, lập tức có võ sĩ bước vào trói sinh lôi dậy. Sinh thấy một người ngồi ngoảnh mặt về phía nam, áo mão như bậc vương giả, lúc đi ra bèn nói “Nghe nói Long quân hồ Động Đình họ Liễu, thần cũng họ Liễu, ngày xưa người thi rớt, nay thần cũng thi rớt, người được gặp tiên nữ mà thành tiên, thần say đùa cô hầu mà bị giết, sao mà may rủi khác nhau tới như thế?”.

Vương nghe thấy gọi quay lại hỏi "Ngươi là học trò thi rớt à?”, sinh vâng dạ. Bèn đưa giấy bút, bảo sinh làm bài phú Tóc chải gió đầu gội mưa*. Sinh vốn là danh sĩ đất Tương Dương (tỉnh Hồ Bắc) nhưng lập tứ rất chậm, cầm bút hồi lâu chưa viết. Vương nói mỉa “Danh sĩ gì hạng ngươi?”, sinh gác bút thưa "Người xưa viết bài phú Tam đô** mười năm mới xong, xem đó đủ biết làm văn quý hay chứ không quý mau”, Vương cười ngồi chờ. Từ giờ Thìn đến giờ Ngọ sinh mới làm xong, Vương xem vui vẻ nói "Đúng là bậc danh sĩ”, bèn thưởng rượu.

*Tóc chải gió đầu gội mưa nguyên văn 1à "Phong hoàn vụ mấn" (Tóc chải gió đầu gội mù), chúng tôi tạm đính là "vũ” (mưa) cho thống nhất với câu trong Phụ lục kèm theo.
** Bài phú Tam đô: tức bài Tam đô phú của Tả Tư thời Tấn, tương truyền viết mười năm mới xong, khi truyền tới kinh đô người ta đua nhau sao chép, giá giấy vì vậy tăng vọt. Đây ý nói văn chương hay.

Trong phút chốc, những thức ăn ngon bày lên la liệt. Đang lúc chuyện trò, một viên lại ôm sổ vào thưa “Danh sách những người chết đuối đã soạn xong”. Vương hỏi “Cả thảy là bao nhiêu người?", thưa "Một trăm hai mươi tám người”. Hỏi “Công sai là ai?", thưa "Hai viên úy ở Trạch Nam". Sinh đứng dậy bái từ, Vương tặng mười cân vàng, lại cho một viên ngọc pha lê chặn giấy, nói "Trong hồ sắp có kiếp nạn nhỏ, cầm cái này có thể thoát chết”. Chợt thấy người ngựa mang cờ quạt chia đứng trên mặt nước, Vương xuống thuyền lên kiệu, chớp mắt đã không thấy đâu nữa.

Yên ắng hồi lâu, những người chèo thuyền mới từ dưới sạp chui lên, chèo thuyền lên phía bắc, bị gió ngược không đi được. Chợt thấy dưới nước nổi lên một con mèo bằng sắt, bọn chèo thuyền hoảng sợ nói “Mao tướng quân* xuất hiện rồi", khách buôn trên các thuyền đều nằm rạp cả xuống. Phút chốc trên hồ lại nhô lên một cây gỗ dựng thẳng, lắc lư lay động, mọi người càng sợ, nói "Nam tướng quân* cũng xuất hiện rồi". Liền đó sóng lớn nổi lên ầm ầm che khuất cả mặt trời, nhìn ra thuyền bốn phía trên hồ đều nhất loạt chìm hết. Sinh giơ viên ngọc chặn giấy ngồi im trong thuyền, sóng lớn muôn trượng đổ tới gần đều chợt tan hết, nhờ vậy được sống sót.

*Miêu tướng quân, Nam tướng quân: tên thủy quái ở hồ Động Đình theo truyền thuyết.

Sinh về tới nhà, mỗi lần kể chuyện lạ cho mọi người nghe đều nói "Cô gái hầu trong thuyền tuy không nhìn rõ được dung mạo, song chỉ đôi hài cũng đã không tìm được ở cõi trần". Sau có việc tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có bà già họ Thôi gả con gái, sính lễ ngàn vàng cũng không chịu, chỉ cầm một viên ngọc pha lê chặn giấy nói “Ai có một cái như thế này ghép thành đôi sẽ gả cho". Sinh lấy làm lạ, mang cái chặn giấy tới, bà già hớn hở đón tiếp, gọi cô gái ra chào, thấy trạc mười lăm mười sáu tuổi trở lại, phong vận yêu kiều không ai sánh được, lạy một lạy rồi quay người trở vào sau màn.

Sinh vừa thấy mặt nàng, tâm thần rúng động nói "Tiểu sinh cũng có giữ một viên ngọc chặn giấy, không rõ có sánh được với viên của lão bà không?”, kế cùng đem ra so, thì dài ngắn kiểu dáng giống hệt nhau không sai một mảy. Bà già mừng rỡ, hỏi nơi sinh ngụ, bảo sinh lập tức trở về mang xe kiệu lại đón, để viên ngọc lại làm tin. Sinh không chịu, bà già cười nói "Quan nhân đừng cẩn thận quá như thế, chẳng lẽ lão thân lại mang một viên ngọc chặn giấy trốn đi sao?”. Sinh bất đắc dĩ phải để lại, trở về thuê xe kiệu quay lại ngay, thì bà già đã đi mất. Hoảng hốt hỏi khắp cả nhữug nhà lân cận, thì không ai biết cả.

Mãi tới xề chiều mới buồn bã hối tiếc, thẫn thờ ra về. Giữa đường gặp một chiếc xe vượt lên, chợt có người vén rèm hỏi "Liễu lang sao chậm thế?", nhìn ra thì là bà già họ Thôi. Sinh mừng hỏi “Lão bà đi đâu?", bà già cười nói "Chắc đã ngờ rằng lão thân lừa dối trốn đi rồi phải không? Sau khi chia tay, nhân cũng có xe, chợt nghĩ quan nhân đang ở trọ, khó lòng xếp đặt đầy đủ, nên đã đưa con gái lên thuyền rồi”. Sinh gọi dừng lại, bà già không chịu, sinh hoảng hốt không dám tin, vội chạy tới thuyền, quả thấy cô gái và một tỳ nữ.

Cô gái thấy sinh vào, cười nói ra đón tiếp, sinh thấy quần xanh hài đỏ giống hệt như thị tỳ trên thuyền ngày nào, lấy làm lạ lùng, bồi hồi nhìn chằm chằm. Cô gái cười nói “Mắt cứ trừng trừng, chẳng lẽ chưa nhìn thấy nhau lần nào sao?”. Sinh lại bò xuống nhìn, thì vết răng cắn vào gấu quần vẫn còn đó, cả kinh nói "Nàng là Chức Thành sao?", cô gái che miệng khẽ cười. Sinh vái dài nói "Nàng đúng là người thần rồi, xin nói rõ mọi chuyện ra cho ta khỏi lo sợ". Cô gái nói “Nói thật với chàng, người chàng gặp trên thuyền lúc trước là Long quân hồ Động Đình. Thấy chàng tài cao đem lòng ngưỡng mộ, đã muốn đem thiếp tặng cho chàng, nhung vì thiếp được vương phi yêu mến nên còn phải về bàn lại với phi. Thiếp tới đây là theo lệnh của vương phi đấy”. Sinh mừug rỡ, rửa tay thắp hương, hướng về phía Hồ Nam vái tạ rồi đưa nàng về. Sau sinh tới Vũ Xương, cô gái xin đi cùng, nhân tiện quy ninh*.

*Quy ninh: ngày xưa con gái lấy chồng, lâu lâu về thăm cha mẹ ruột gọi là “quy ninh" (về thăm để cha mẹ yên lòng). Chức Thành không phải là con của vợ chồng Long quân Động Đình, nhưng đối với Liễu sinh thì họ là bên nhà gái, nên Chức Thành về thăm họ cũng như là quy ninh.

Khi tới Động Đình, nàng rút chiếc thoa ném xuống nước, chợt có một chiếc thuyền nhỏ dưới nước nhô lên, nàng nhún chân nhảy qua như chim bay lượn đáp xuống, trong chớp mắt đã biến mất. Sinh đang ngồi trên đầu thuyền nhìn chăm chăm vào chỗ chiếc thuyền nhỏ biến mất thì có một chiếc lâu thuyền từ xa lướt tới, gần tới thì cửa sổ mở ra, chợt như có một con chim ngũ sắc bay qua, nhìn lại thì Chức Thành đã đứng trước mặt. Một người trong cửa sổ lâu thuyền đưa qua vàng lụa bảo vật rất nhiều, đều là của vương phi ban cho. Từ đó thành lệ, cứ mỗi năm về thăm viếng đôi lần, nhà sinh vì vậy giàu có, có nhiều bảo vật đưa ra cho xem thì ngay các nhà thế gia cũng không biết là gì.

Phụ: Truyện Long Nữ Của Lý Thành Uy Thời Đường (Đường Lý Thành Uy Long Nữ Truyện)


Liễu Nghị thi rớt, trên đường về đi ngang bờ hồ, thấy một thiếu phụ chăn dê bên đường. Nghị hỏi, thiếu phụ đáp "Thiếp là con gái của Long quân hồ Động Đình, được gả cho con trai thứ của Long quân hồ Kinh Dương, nhưng bị chồng ghét bỏ, lại phạm tội với cha mẹ chồng, nên bị đày ải tới nỗi này. Nghe nói chàng về đất Ngô, xin chuyển giùm một lá thư. Phía nam hồ Động Đình có một cây quít lớn, vỗ vào thân cây ba cái sẽ có người trả lời".

Nghị tới Động Đình, vỗ vào cây quít ba cái, lập tức có người võ sĩ từ dưới sóng nhảy lên vái lạy hỏi "Quý khách có việc gì tới đây?" Nghị nói "Xin yết kiến đại vương". Người võ sĩ rẽ nước dẫn đường, dần vào tới thủy cung, nói “Đây là điện Linh Hư”, kế thấy một người mặc áo tía cầm ngọc xanh bèn nói "Đây là Long quân". Nghị thưa “Gặp ái nữ của đại vương chăn dê ngoài đồng, tóc chải gió đầu gội mưa, thật không nỡ nhìn”, rồi lấy thư dâng lên. Long quân hồ Động Đình xem xong ôm mặt khóc, sai đưa thư vào trong cung, tả hữu đều sa nước mắt.

Long quân nói với tả hữu rằng "Không được để cho Long quân sông Tiền Đường biết". Nghị hỏi “Long quân sông Tiền Đường là ai?”, Long quân nói “Là em ruột của quả nhân”. Chợt nghe thấy tiếng cười nói râm ran, trong có một người đeo đầy châu ngọc khua vang, quần áo lụa là tha thướt bước tới, nhìn ra thì là người thiếu phụ nhờ Nghị đưa thư. Long quân cười nói “Đứa tù nhân ở sông Kinh về đây rồi”, bèn cho Nghị nghỉ lại ở điện Ngưng Quang. Hôm sau mở tiệc lớn ở điện Ngưng Bích, hội cả bạn bè thân thích, tấu nhạc rộn rã. Bắt đầu thì còi trống thanh la, gươm giáo cờ xí, hàng vạn người đàn ông múa bên phải, trong có một người bước ra nói "Đây là bài nhạc Tiền Đường phá trận". Kế đó tơ trúc đàn sáo, cờ lọng gấm vóc, hàng ngàn người con gái múa bên trái, trong có một người bước ra nói "Đây là khúc nhạc Công chúa về cung”. Nghị bèn cùng về hồ Động Đình, không rõ tung tích ra sao.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
-- 48 - 49 -
Trúc Thanh
(Trúc Thanh)

Ngư Dung người Hồ Nam, người kể chuyện quên mất quận huyện. Nhà nghèo đi thi bị trượt trở về, dọc đường hết sạch tiền nhưng xấu hổ không dám ăn xin, đói quá vào tạm nghỉ trong miếu Ngô Vương*, bi phẫn khấn vái trước án thờ rồi ra nằm ở hành lang. Chợt có một người dẫn đi yết kiến Ngô Vương, quỳ xuống tâu "Đội Hắc y còn thiếu một lính, xin lấy người này sung vào," Ngô Vương ưng thuận, Ngư liền được trao cho chiếc áo đen, vừa mặc vào thì biến thành quạ vỗ cánh bay ra. Thấy các bạn quạ họp thành bầy bèn bay theo chia nhau đậu trên cột buồm. Khách trên thuyền tranh nhau ném thịt cho ăn, đàn quạ lượn lờ trên không đón lấy. Sinh cũng bắt chước, giây lát no bụng, bay đậu lên cành cây, cũng rất mãn nguyện. Qua hai ba ngày, Ngô Vương thương còn lẻ loi ghép cho một con mái tên Trúc Thanh, rất thương yêu nhau.

*Ngô Vương: Tức Cam Ninh, đại tướng Đông Ngô thời Tam quốc, trong trận Hào Đình bị tướng Tây Thục là Sa Ma Kha bắn trúng gáy đeo cả tên mà chạy rồi chết dưới một gốc cây to ven sông, có đàn quạ mấy trăm con sà xuống che kín xác. Duẫn lang ngẫu bút của Mục Trọng thời Tống chép Cam Ninh được dân trấn Phú Trì ở Sở Giang lập miếu thờ, linh hiển phi thường, đến thời Tống được phong tước vương, cạnh miếu luôn có vài trăm con quạ tụ họp, người ta gọi là “Quạ thần của Ngô Vương" (Ngô Vương thần nha).

Ngư mỗi khi đi kiếm mồi không hề đề phòng, Thanh nhiều lần khuyên nhưng Ngư không nghe. Một hôm bị người lính đi thuyền qua bắn trúng bụng, may được Trúc Thanh quắp mang đi mới không bị bắt. Bầy quạ nổi giận vỗ cánh quạt nước, sóng nổi cuồn cuộn lật úp hết thuyền bè. Trúc Thanh tha mồi mớm cho Ngư nhưng Ngư bị thương nặng quá, một ngày thì chết, chợt như tỉnh mộng thì ra đang nằm trong miếu. Nguyên là trước đó dân chung quanh thấy Ngư chết, không biết là ai, sờ vào người thấy còn ấm nên cứ lâu lâu lại tới xem. Đến lúc ấy họ hỏi biết duyên do, liền góp tiền giúp cho về quê.

Ba năm sau Ngư lại qua chốn cũ liền vào bái yết miếu Ngô Vương, bày thức ăn gọi bầy quạ xuống ăn, khấn “Trúc Thanh như có ở đây, xin ở lại gặp", nhưng bầy quạ ăn xong đều bay đi hết. Sau Ngư đỗ Cử nhân về qua lại vào bái yết miếu Ngô Vương, dâng cỗ cúng tế. Kế bày cỗ lớn mời hết các bạn quạ, lại khấn như trước. Đêm ấy ghé vào nghỉ ở Hồ Thôn, đốt đèn ngồi chơi chợt thấy trước bàn như có con chim đáp xuống, thì ra là một mỹ nhân khoảng hai mươi tuổi. Nàng tươi cười hỏi “Từ khi chia tay chàng vẫn khỏe chứ?”. Ngư kinh ngạc hỏi, nàng đáp "Chàng không nhận ra Trúc Thanh à?". Ngư mừng rỡ hỏi từ đâu tới, nàng đáp "Thiếp nay là thần nữ Hán Giang, ít có dịp về cố hương. Trước đây bạn quạ hai lần kể lại tình chàng nên tới gặp nhau một lần". Ngư càng bồi hồi cảm động, hai người như vợ chồng xa cách lâu ngày, rất mực nồng nàn.

Sinh định đưa nàng về nam, nàng lại muốn sinh theo về tây, không quyết được bề nào. Sinh thức giấc thì nàng đã dậy rồi, mở mắt thấy mình đang trong một ngôi nhà lớn, đèn đuốc sáng choang chứ không phải trong thuyền nữa. Sinh kinh ngạc trở dậy hỏi đây là nơi nào, nàng cười đáp "Đây là Hán Dương (huyện thuộc Hồ Bắc). Nhà thiếp tức là nhà chàng, cần gì phải về nam?”. Trời dần sáng, đám tỳ nữ vú già nhao nhao kéo tới, rượu thịt đã bày, kê giường rộng, đặt ghế thấp, vợ chồng cùng nhau ăn uống. Ngư hỏi đầy tớ của mình đang ở đâu, nàng đáp “Ở trên thuyền”. Ngư lo nhà thuyền không thể chờ lâu, nàng nói “Không sao, thiếp sẽ báo giúp cho". Từ đó ngày đêm vui thú, Ngư vui quên cả chuyện về.

Nhà thuyền thức dậy chợt thấy đang ở Hán Dương sợ lắm. Người hầu của Ngư đi tìm chủ khắp nơi không thấy, nhà thuyền muốn đi thì chèo lái bị cột chặt không cởi ra được, đành cùng ở lại giữ thuyền. Được hơn hai tháng, sinh chợt nhớ quê, nói với cô gái "Ta ở đây tuyệt đường thân thích, vả lại ta với nàng tiếng là vợ chồng mà chưa một lần biết tới nhà cửa họ hàng thì làm sao được?". Nàng đáp "Chưa nói tới chuyện thiếp không đi được, nếu đi được thì ở nhà chàng đã có vợ, vậy sẽ xử với thiếp ra sao? Chi bằng cứ để thiếp ở đây làm một phòng khác của chàng là được rồi".

Sinh buồn nỗi đường xa không thể tới thường, cô gái đưa chiếc áo đen ra, nói "áo cũ của chàng còn đây, lúc nào nhớ thiếp cứ mặc vào thì có thể tới ngay, tới rồi thiếp sẽ cởi ra cho". Rồi sai bày tiệc lớn đưa tiễn, sinh say rồi ngủ, khi tỉnh dậy thì thấy mình trong thuyền, nhìn ra thì vẫn là cảnh vật chỗ ghé thuyền ở hồ Động Đình cũ. Nhà thuyền và đầy tớ đều có đó, nhìn nhau kinh sợ xúm lại hỏi đi đâu. Sinh làm ra vẻ bàng hoàng sợ hãi, thấy bên gối có cái bọc, mở ra xem thì là áo mới, giày thêu của cô gái tặng, chiếc áo đen cũng xếp để trong đó. Lại có cái túi thêu buộc dây thắt ngang, mở ra thì thấy đầy tiền bạc. Rồi đó đi thẳng về nam, khi cập bến Ngư trả công hậu cho nhà thuyền rồi về.
Về nhà được mấy tháng sinh nhớ Hán Thủy, liền ngầm lấy chiếc áo đen ra mặc, hai tay mọc ra đôi cánh bay vút lên không, qua hai giờ đã tới Hán Thủy. Bay vòng nhìn xuống thấy giữa đảo nhỏ có một dãy lầu gác bèn đáp xuống. Đã có một tỳ nữ nhìn thấy từ xa gọi lớn "Quan nhân tới”. Không bao lâu Trúc Thanh ra, sai mọi người cởi áo cho, sinh thấy lông cánh đều trút xuống hết. Nàng cầm tay sinh đi vào nhà, nói "Chàng tới vừa hay, chỉ nay mai là thiếp sinh nở”. Sinh đùa hỏi “Sinh con hay đẻ trứng?” nàng đáp "Thiếp nay là thần, xương cốt đều thay đổi, chắc phải khác trước chứ".

Vài hôm sau quả nàng lâm bồn, bọc thai to dày nhìn như quả trứng lớn, xé vỏ ra thì là con trai. Sinh mừng rỡ đặt tên là Hán Sản. Sau ba ngày các thần nữ ở Hán Thủy đều tới, đem đủ quần áo đồ chơi quý lạ chúc mừng, người nào cũng xinh đẹp, tuổi đều không quá ba mươi. Họ vào phòng tới bên giường lấy ngón tay cái ấn lên mũi đứa nhỏ, gọi là “Tăng thọ". Họ về rồi, sinh hỏi là ai, cô gái đáp “Đều là bạn thiếp, nàng mặc áo trắng đi cuối cùng chính là người cởi ngọc ở Hán Cao* đấy".

* Người cởi ngọc ở Hán Cao: Liệt tiên truyện chép Trịnh Giao Phủ đi chơi Hán Giang, tới dưới đài Hán Cao gặp hai cô gái đeo hai viên ngọc to bằng quả trứng gà, Giao Phủ tới chuyện trò rồi xin ngọc, hai nàng bèn cởi ra cho. Giao Phủ chào đi, lại muốn được cả hai nàng, ngoảnh nhìn thì không thấy đâu nữa mà ngọc cũng biến mất.

Được vài tháng, nàng cho thuyền đưa sinh về, thuyền không cần dùng cánh buồm mái chèo mà cứ tự lướt đi. Tới bờ đã có người dắt ngựa chờ bên đường, sinh liền cưỡi về, từ đó qua lại không dứt. Được vài năm, Hán Sản càng khôi ngô, sinh yêu quý lắm. Vợ sinh họ Hòa khổ vì không sinh nở đưọc, cứ đòi gặp Hán Sản một lần. Sinh nói với cô gái, nàng liền sắp sửa hành trang cho con theo cha về, hẹn ba tháng phải quay lại. Về tới nhà, Hòa thị yêu quý Hán Sản còn quá con đẻ, giữ lại hơn mười tháng không nỡ cho về. Một hôm đứa nhỏ phát bệnh mà chết, Hòa thị đau xót muốn chết. Sinh bèn đi Hán Thủy báo cho cô gái, vào cửa thì thấy Hán Sản cởi truồng nằm trên giường, mừng quá vội hỏi. Cô gái đáp "Chàng lỡ hẹn lâu quá, thiếp nhớ con nên gọi nó về”. Sinh nhân giải thích vì Hòa thị quá mến con, nàng nói "Chờ thiếp sinh lần nữa sẽ cho Hán Sản về hẳn bên đó”.

Hơn năm sau nàng đẻ sinh đôi, một trai một gái. Trai đặt tên là Hán Sinh, gái đặt tên là Ngọc Bội, sinh bèn đưa Hán Sản về. Nhưng mỗi năm ba bốn lần đi lại không tiện, nên sinh dời nhà tới ở Hán Dương. Năm Hán Sản mười hai tuổi vào học ở trường quận. Cô gái cho là ở trần gian không có người đẹp, gọi con tới Hán Thủy cưới vợ cho rồi bảo về. Vợ tên Hỗ Nương, cũng là con gái thần nữ. Sau Hòa thị mất, Hán Sinh và em gái đều tới chịu tang. Chôn cất xong, Hán Sản ở lại còn sinh dắt Hán Sinh và Ngọc Bội đi, từ đó không trở về nữa.

49. Nhạc Trọng
(Nhạc Trọng)

Nhạc Trọng người Tây An (tỉnh thành Thiểm Tây), cha chết lúc mẹ còn mang thai, sau mới sinh Trọng. Mẹ chuộng đạo Phật, không ăn mặn uống rượu. Trọng lớn lên thích uống rượu, ưa ăn nhậu, trong lòng thầm cho là mẹ không phải, cứ đem các thức béo ngon dâng mẹ, nhưng mẹ đều nhổ ra. Sau mẹ bệnh sắp chết lại thèm ăn thịt, Trọng trong lúc gấp gáp không biết tìm đâu ra bèn cắt thịt ở đùi trái nấu nướng dâng lên. Mẹ khỏi bệnh, hối hận vì phá giới, bỏ ăn mà chết. Trọng càng thêm đau xót, lấy đao sắc cắt luôn thịt đùi phải nhìn thấy cả xương, người nhà xúm lại cứu, bó thuốc cho, dần dần lành lại.

Trọng thương mẹ chịu khổ giữ tiết, lại xót mẹ ngu muội theo đạo, bèn đốt tượng Phật mẹ thờ, lập bàn thờ thờ mẹ, lúc uống rượu say cứ nhìn lên khóc lóc. Năm Trọng hai mươi tuổi mới lấy vợ mà vẫn còn là đồng nam, cưới được ba ngày thì nói với người ta rằng "Việc trai gái trong phòng là nhơ nhớp nhất trên đời, ta thật không ưa" rồi bỏ vợ. Cha vợ là Cố Văn Uyên nhờ họ hàng xin Trọng cho con gái về lại, nhưng tới xin ba bốn lần mà Trọng vẫn nhất quyết không chịu, lần lữa tới nửa năm, Cố bèn gả con gái cho người khác.

Trọng ở vậy mười năm, hành vi càng thêm phóng túng, uống rượu với cả tôi tớ con hát, làng xóm có ai xin xỏ nhờ vả gì cũng không từ chối. Có người nói gả con gái mà không có nồi niêu, Trọng lập tức vào bếp bưng ra cho, từ đó cứ nấu nướng nhờ bên nhà láng giềng. Bọn vô lại biết tính Trọng, đứa thì sớm tối tới lừa dối bòn rút, đứa thì lấy việc đánh bạc hết tiền mà than thở trước mặt Trọng, kể lể chuyện nợ thúc thuế đòi, sắp phải bán vợ đợ con. Trọng nghe thấy là dốc cả tiền để dành đóng thuế ra đưa, đến khi người thu thuế tới tận nhà đòi mới lo cầm bán đồ đạc mà đóng, vì thế nhà ngày càng sa sút.
Trước kia khi Trọng giàu có thì bọn em cháu họ hàng tranh nhau phụng sự, trong nhà có vật gì cứ mặc ý cho lấy đi, cũng không tính đếm gì. Đến khi Trọng sa sút thì không mấy người tới thăm hỏi, nhưng may Trọng là người khoáng đạt nên không để bụng. Gặp ngày giỗ mẹ, Trọng mắc bệnh không ra mộ được, định sai bọn em cháu trong họ ra tế thay, đầy tớ đi nói khắp các nhà mà ai cũng tìm cớ từ chối. Trọng bèn làm lễ tế trong phòng, nhìn bàn thờ mẹ gào khóc, lo buồn về việc không có con nối dõi nên bệnh càng nặng. Trong lúc mê man thấy có người xoa bóp vỗ về hé mắt nhìn thì ra là mẹ. Giật mình hỏi sao mẹ tới đây, mẹ đáp "Vì trong nhà không có ai ra mộ cúng tế nên về đây hưởng đồ cúng, mới biết con bệnh". Trọng lại hỏi trước nay ở đâu, mẹ đáp là ở Nam Hải. Mẹ xoa bóp xong Trọng thấy tay chân mát rượi, mở mắt nhìn quanh thì không thấy ai nhưng bệnh đã đỡ nhiều.
Đến khi khỏi hẳn muốn tới Nam Hải bái yết Quan âm Bồ tát, ngặt không có ai đi cùng. Gặp lúc thôn bên cạnh có bọn người kết làm hội dâng hương đi Nam Hải lễ Phật, Trọng bán mười mẫu ruộng tới xin vào hội, nhưng họ cho rằng Trọng không ăn chay giữ giới nên không chịu, năn nỉ mãi họ mới ưng thuận. Dọc đường đi Trọng cứ ăn thịt uống rượu, nhai hành nhã tỏi nồng nặc cả phòng, mọi người càng ghét, nhân lúc Trọng ngủ say lẳng lặng bỏ đi. Từ đó Trọng đi một mình, tới địa giới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) gặp người bạn mời đi uống rượu, trong tiệc có một danh kỹ tên Quỳnh Hoa thấy nói đi Nam Hải lễ Phật xin đi cùng cho có bạn. Trọng mừng rỡ, liền chờ nàng sắp sửa hành trang rồi cùng nhau lên đường, ăn ngủ gì cũng có nhau nhưng không hề có chuyện nọ kia.
Khi tới Nam Hải thì hội dâng hương vừa lập xong đàn tế, thấy Trọng dắt ca kỹ tới càng nhạo báng chê bai, khinh bỉ không thèm hành lễ chung. Trọng và Quỳnh Hoa biết ý, chờ họ lễ bái xong mới vào làm lễ. Mọi người lạy lục xong, hận không thấy gì lạ, có kẻ oà khóc, còn hai người vừa lạy phục xuống chợt thấy khắp mặt biển đều có hoa sen, trên hoa đều có người đeo tràng hạt. Quỳnh Hoa nhìn thấy cho là Bồ tát, Trọng nhìn thì ra những người đứng trên hoa đều là mẹ mình, vội chạy tới gọi mẹ, nhảy luôn xuống nước lội ra. Mọi người thấy hàng vạn đóa hoa sen đều biến thành cầu vồng rực rỡ như tấm màn gấm che khuất cả mặt biển. Giây lát mây tan sóng lặng, tất cả đều biến mất mà Trọng vẫn còn đứng trên bờ biển, cũng không hiểu vì sao mình lên được tới bờ, mà quần áo giày tất vẫn khô ráo. Trọng nhìn ra biển gào khóc, cả vùng đảo đều nghe thấy. Quỳnh Hoa kéo áo khuyên giải Trọng mới buồn bã rời chùa, gọi thuyền trở về bắc.
Dọc đường có nhà giàu mời Quỳnh Hoa đi, Trọng nghỉ ở quán trọ một mình, thấy có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi xin ăn trong quán, mặt mũi không giống như bọn trẻ ăn mày. Hỏi han thì ra nó bị mẹ kế đuổi đi, Trọng rất thương xót. Đứa nhỏ cứ quanh quẩn bên Trọng xin cứu vớt, Trọng dắt nó cùng về. Hỏi họ tên, nó nói “Cháu họ Ung tên Tân, mẹ họ Cố, thường nghe mẹ nói về với họ Ung sáu tháng thì sinh ra cháu, chứ đúng ra phải là họ Nhạc". Trọng cả kinh nhưng nghĩ lại bình sinh chỉ lấy vợ có một lần, không thể nào có con được, nhân hỏi "Họ Nhạc ấy người ở đâu?". Đứa nhỏ đáp "Cháu không biết, nhưng lúc mẹ cháu chết có để lại một phong thư, dặn không được đánh mất", Trọng vội đòi xem phong thư. Tân mở cái bị lấy ra đưa cho, Trọng xem thì là tờ ly hôn với Cố thị năm xưa, hoảng sợ nói "Đúng là con ta rồi". Xét tới năm tháng thấy đều ăn khớp, trong lòng được an ủi rất nhiều, có điều gia cảnh ngày càng tiêu điều. Qua hai năm thì ruộng vườn đã bán gần hết, cũng không thể nuôi nổi tôi tớ nữa.
Một hôm hai cha con đang tự nấu cơm, chợt có một người đẹp bước vào, nhìn lên thì ra là Quỳnh Hoa. Trọng giật mình hỏi từ đâu tới, nàng cười nói "Số phận là phải làm vợ chồng hờ với nhau, sao chàng còn hỏi? Trước đây không theo chàng ngay là vì bà chủ còn sống, nay bà ta đã chết, thiếp nghĩ không theo làm vợ người thì không có nơi nương tựa, theo làm vợ người thì không giữ được trong sạch, tính lại muốn trọn vẹn đôi bề thì không gì bằng theo chàng, nên mới không ngại ngàn dặm mà lặn lội tới đây”, rồi thay áo nấu cơm giúp con, Trọng mừng lắm. Đến đêm cha con ngủ chung với nhau như cũ, dọn một gian phòng sạch sẽ cho Quỳnh Hoa ở.
Quỳnh Hoa cũng khéo chăm sóc đứa nhỏ, láng giềng biết chuyện đều mở tiệc mừng Trọng, hai vợ chồng cũng vui vẻ nhận lời. Có khách tới chơi thì Quỳnh Hoa lo liệu cơm rượu rất đầy đủ, Trọng cũng không hỏi nàng lấy tiền đâu ra. Quỳnh Hoa dần dần đem vàng ngọc ra chuộc lại ruộng vườn cũ, tôi tớ trâu ngựa trong nhà cũng càng ngày nhiều thêm. Trọng thường nói với Quỳnh Hoa rằng "Lúc ta say rượu thì nàng nên lánh mặt, đừng để ta nhìn thấy", Quỳnh Hoa cười ưng thuận. Một hôm Trọng say quá, gọi Quỳnh Hoa rất gấp, Quỳnh Hoa ăn mặc lộng lẫy bước ra, Trọng nhìn sững hồi lâu, chợt cả mừng nhảy nhót như cuồng, nói "Ta ngộ ra rồi". Rồi chợt tỉnh rượu, thấy chung quanh sáng rỡ, nhà cửa đều trở thành lầu quỳnh gác ngọc, hồi lâu mới hết, từ đó không uống rượu ngoài quán nữa mà chỉ đối ẩm với Quỳnh Hoa, Quỳnh Hoa ăn chay chỉ uống trà ngồi tiếp.
Một hôm Trọng ngà ngà say, bảo Quỳnh Hoa bóp đùi cho mình. Nàng thấy vết sẹo trên hai đùi Trọng đã biến thành hai nụ sen thấp thoáng dưới da thì lấy làm lạ. Trọng cười nói "Lúc nào nàng thấy hai nụ hoa này nở ra, thì hai mươi năm làm vợ chồng hờ đã hết đấy”. Quỳnh Hoa cũng tin lời. Kế cưới vợ cho Tân, Quỳnh Hoa dần dần giao hết việc nhà cho con dâu, cùng Trọng ở riêng một nơi. Vợ chồng con trai cứ ba ngày tới thăm một lần, nếu không có chuyện gì khó khăn thì nàng không nói tới việc nhà, chỉ có hai người tỳ nữ hầu hạ, một người hâm rượu, một người pha trà mà thôi.
Một hôm Quỳnh Hoa tới chỗ con ở, con dâu thưa bẩm đủ chuyện, rất lâu mới về, Tân cũng theo tới thăm cha. Vào cửa thấy Trọng để chân trần ngồi trên giường, nghe tiếng động hé mắt cười khẽ nói "Mẹ con tới rất hay" rồi lập tức nhắm mắt lại. Quỳnh Hoa hoảng sợ nói “Chàng định làm gì thế?”, nhìn tới đùi Trọng thì thấy hai đóa hoa sen nở lớn, tới gần gọi thử thì Trọng đã tắt hơi rồi. Quỳnh Hoa vội lấy tay bóp hai đóa hoa lại khấn rằng "Thiếp ngàn dặm tới theo chàng, không phải là chuyện dễ dàng, lại vì chàng nuôi con dạy dâu, cũng có chút ơn nghĩa, chỉ còn hai ba năm nữa sao không chịu khó chờ nhau một chút”. Khoảng nấu xong nồi cơm chợt Trọng mở mắt ra cười nói “Nàng có việc của nàng, sao cứ lôi kéo người ta làm bạn, thôi ta cũng tạm ở lại chờ vậy". Quỳnh Hoa buông tay ra thì hai đóa hoa sen đã khép lại, từ đó Trọng ăn ở như lúc trước.
Sau hơn ba năm, Quỳnh Hoa tuổi gần bốn mươi mà dáng vẻ vẫn xinh đẹp như người hơn hai mươi, chợt nói với Trọng "Phàm người ta chết rồi thì bị kẻ khác đỡ đầu nâng chân, thật rất không sạch sẽ". Liền sai thợ đóng hai chiếc quan tài, Tân hoảng sợ hỏi, nàng đáp "Không phải là chuyện con biết được". Quan tài đóng xong, nàng tắm gội trang điểm rồi nói với vợ chồng Tân "Ta sắp chết đây". Tân khóc nói "Mấy năm nay nhờ mẹ lo toan mới không đói rét, mẹ còn chưa được yên vui ngày nào, sao lại bỏ con mà đi?”. Quỳnh Hoa nói "Cha trồng phúc thì con hưởng, tôi tớ trâu ngựa ruộng vườn nợ nần đều là trả lại cho cha con, chứ ta có công lao gì đâu. Ta vốn là Thiên nữ rắc hoa, ngẫu nhiên động lòng trần tục nên bị đày xuống trần gian hơn ba mươi năm, nay đã hết hạn rồi". Rồi bước vào quan tài nằm xuống, Tân tới gọi thì hai mắt đã nhắm lại.
Tân khóc lóc chạy tới báo với cha thì Trọng đã đội mũ mặc áo nằm cứng đờ không biết từ lúc nào. Tân gào khóc muốn đứt hơi, liệm xác cha cho vào quan tài quàn trong sảnh đường mấy ngày chưa chôn, có ý chờ cho sống lại. Có ánh sáng từ đùi Tân phóng ra soi rõ cả bốn vách, trong quan tài Quỳnh Hoa thì có mùi hương thơm ngát tỏa ra, láng giềng đều ngửi thấy, đậy nắp quan tài thì ánh sáng hương thơm mới hơi giảm.
Chôn cất xong, bọn em cháu trong họ tham lam của cải, cùng nhau tính kế đuổi Tân đi bèn kiện lên quan, quan không biết làm sao liền phán cắt một nửa ruộng vườn trâu ngựa giao cho chúng. Tân không chịu, đâm đơn lên phủ kiện, lâu ngày xử mãi không xong. Lúc đầu ông Cố gả con gái cho họ Ung, được hơn một năm thì Ung tới ngụ ở đất Mân, không có tin tức gì. Cố già không có con trai, nhớ con gái bèn tới nhà rể thăm thì con gái đã chết mà cháu ngoại đã bị đuổi đi. Cố uất ức kiện lên quan, Ung sợ đưa nhiều tiền xin thôi kiện nhưng Cố không chịu, nhất quyết đòi tìm bằng được cháu ngoại.
Ung tìm kiếm khắp nơi, nửa năm vẫn không thấy, hai vợ chồng đều bị quan trách phạt đánh đòn. Cố đang đi đường chợt thấy có một cỗ kiệu kết hoa đi qua vội tránh qua vệ đường, thấy trong kiệu có một mỹ nhân gọi Cố nói "Có phải ông Cố đấy không?". Cố gật đầu, nàng nói “Cháu ngoại ông là con ta, hiện đang ở nhà họ Nhạc, đừng kiện tụng gì nữa, cháu ngoại ông đang gặp nạn, nên tới đó ngay". Cố muốn hỏi thêm thì cỗ kiệu đã đi xa, bèn nhận tiền của Ung rồi lên đường tới Tây An. Tới nơi thì hai bên đang kiện tụng cãi cọ ầm ĩ, Cố liền vào thưa với quan về ngày tháng con gái mình bị Trọng bỏ, ngày tháng lấy Ung, ngày tháng sinh Tân rất rõ ràng. Bọn họ Nhạc đều bị đánh đòn, vụ án bèn kết thúc. Cố về kể lại ngày gặp mỹ nhân trên kiệu thì đúng là ngày Quỳnh Hoa chết, lúc bấy giờ còn chưa có việc kiện tụng. Tân dời gia đình Cố tới ở cùng, xây nhà cửa tặng tỳ thiếp, năm Cố hơn sáu mươi tuổi thì sinh được một con trai, Tân cũng thường chăm sóc chu cấp cho.

Dị Sử thị nói:Ăn chay giữ giới thì giống như Phật, phóng khoáng chân thành thì đúng là Phật. Nhạc Trọng với người đẹp thì nhìn thẳng mà lấy làm bạn dâng hương, không coi là bạn chăn gối. Ăn ở với nhau hai mươi năm*, như có tình mà cũng như vô tình, đó đúng là chân diện mục của Bồ tát, người trần làm sao hiểu được!

*Hai mươi năm: cả hai bản Hương Cảng và Đài Bắc đều in là "tam thập niên" (ba mươi năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, đây tạm đính lại như trên.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 50 -
Hương Ngọc
(Hương Ngọc)

Cung Hạ Thanh núi Lao có cây nại đông cao hai trượng, to mấy mươi chét tay và cây mẫu đơn cao hơn trượng, khi trổ hoa thì rực rỡ như gấm. Hoàng sinh người Mục Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nhà ở đó đọc sách. Một hôm ngồi trong cửa sổ nhìn ra thấy một cô gái áo trắng thấp thoáng trong đám hoa, nghi là trong đạo quán sao lại có con gái, bước mau ra thì đã trốn mất. Từ đó thường thấy nàng, bèn núp trong bụi cây rậm để đợi. Chẳng bao lâu cô gái lại cùng một người mặc xiêm hồng tới, từ xa thấy cả hai tuyệt đẹp, tới gần thì nàng mặc xiêm hồng hoảng sợ lui lại nói "Ở đây có người”. Sinh đứng bật dậy, hai nàng sợ hãi bỏ chạy, áo xiêm phấp phới, thoang thoảng mùi thơm. Đuổi theo qua bức tường thấp thì đã biến mất. Sinh vô cùng hâm mộ, nhân đề bài thơ lên thân cây rằng:

Vô hạn tương tư khổ,
Hàm tình đối đoản song.
Khủng quy Sa Trá Lợi,
Hà xứ mịch Vô Song

(Tương tư xiết kể bao đau khổ
ôm mối tình riêng ngóng trước song
E phải về tay Sa Trá Lợi*
Nơi nào lại gặp được Vô Song)

*Sa Trá Lợi, Cổ áp Nha: xem hai truyện Phụ lục. Hai câu thơ trên nguyên văn là "Giai nhân dĩ thuộc Sa Trá Lợi, Nghĩa sĩ kim vô Cổ Áp Nha", chưa rõ tác giả.

Về phòng học ngồi mơ tưởng, chợt cô gái bước vào. Sinh giật mình mừng rỡ đón chào, nàng cười nói "Chàng hùng hổ như ăn cướp làm người ta hoảng sợ, không ngờ cũng là người tao nhã, có gần cũng không sao". Sinh hỏi qua thân thế, nàng đáp "Thiếp tiểu tự là Hương Ngọc, người chốn bình khang, bị đạo sĩ nhốt trong núi, thật không phải ý nguyện”. Sinh hỏi “Đạo sĩ tên gì? Ta sẽ rửa hờn cho nàng". Cô gái nói "Không cần, y cũng chưa dám ép buộc gì, cứ mượn nơi này cùng khách phong lưu làm chỗ gặp gỡ kín đáo cũng hay”. Sinh hỏi "Nàng mặc áo hồng là ai?”, nàng đáp “Đó là Giáng Tuyết, chị kết nghĩa của thiếp”, rồi cùng nhau đi ngủ. Tỉnh giấc thì trời đã rạng, cô gái vội trở dậy nói "Ham vui quên cả trời đã sáng". Mặc áo đi giày xong, lại nói “Thiếp xin khẩu chiếm họa lại bài thơ, chàng chớ cười”. Thơ rằng:

Lương dạ canh vị tận
Triều đôn dĩ thượng song.
Nguyện như lương thượng yến,
Thê xứ tự thành song

(Đêm vui vẫn biết canh thường ngắn
Vầng nhật đà lên rọi trước song.
Những ước trên rường làm cặp én
Khi bay lúc đậu cũng song song)

Sinh nắm cổ tay nàng nói "Nàng đã đẹp lại thông minh, khiến người ta yêu quên chết. Một ngày xa nhau như xa cách ngàn dặm, lúc nào nàng rảnh thì tới, đừng đợi đến đêm". Cô gái nhận lời, từ đó sớm tối thường tới, sinh thường bảo mời Giáng Tuyết mà không thấy tới nên lấy làm hận. Nàng nói "Chị Giáng tính rất lạnh lùng, không như thiếp si tình, cứ để thiếp từ từ khuyên nhủ, không cần nóng nảy”. Một đêm nàng buồn rầu bước vào nói "Chàng không giữ được đất Lũng mà còn mong lấy Thục ư? Từ nay thì vĩnh biệt nhau rồi". Sinh hỏi đi đâu, nàng lấy tay áo lau nước mắt nói “Đây là định số, khó nói với chàng được. Câu thơ ngày trước nay thành lời sấm rồi. "Người đẹp đã về Sa Trá Lợi, Nghĩa sĩ nay không Cổ áp Nha” có thể nói là vịnh cảnh ngộ của thiếp đấy". Sinh gạn hỏi thì nàng không đáp, chỉ nức nở khóc, suốt đêm không ngủ, sáng ra đi ngay.

Sinh lấy làm lạ, hôm sau có họ Lam ở Túc Mặc vào cung quán vãn cảnh, thấy cây bạch mẫu đơn thích lắm bèn đào lên mang về. Sinh mới hiểu ra Hương Ngọc là tinh hoa, buồn rầu không thôi. Qua vài hôm nghe nói cây hoa họ Lam đem về nhà trồng ngày càng khô héo, sinh rất hận, làm năm mươi bài thơ khóc hoa, ngày ngày tới chỗ cây bạch mẫu đơn cũ, nước mắt ròng ròng nhỏ xuống cái hố. Một hôm sinh ra đó, từ xa thấy cô gái mặc xiêm hồng đứng khóc cạnh hố, thong thả tới gần nàng cũng không tránh mặt, nhân kéo vạt áo nàng sa nước mắt, kế mời vào nhà.

Nàng cũng theo vào, than rằng "Chị em với nhau từ thuở nhỏ, một sớm chia lìa, thấy chàng thương cảm thiếp cũng mủi lòng, nước mắt rơi xuống suối vàng may ra cảm thấu lòng thành mà tái sinh. Nhưng người chết thần khí đã tan, trong giây lát làm sao có thể cùng nhau cười nói được". Sinh nói "Tiểu sinh phận bạc làm hại người tình, quả không có phúc được cả hai người đẹp. Trước từng nhiều lần nhờ Hương Ngọc bày tỏ lòng thành, sao không chịu tới?". Nàng nói "Thiếp cho rằng bọn học trò trẻ tuổi mười người thì tám chín là kẻ bạc hãnh, không biết chàng là kẻ chí tình. Nhưng thiếp cùng chàng giao hảo vì tình nghĩa chứ không vì chăn gối, nếu đêm ngày ôm ấp thì thiếp không làm được”. Nói xong cáo biệt, sinh nói "Hương Ngọc mất đi làm ta bỏ cả ăn ngủ, muốn cậy nàng ở lại một lúc cho khuây nỗi nhớ, sao lại dứt khoát về như vậy?”. Cô gái bèn ở lại, hết đêm ra về, mấy ngày liền không tới. Một hôm mưa lạnh rả rích ngoài song, sinh nhớ thương Hương Ngọc, trằn trọc trên giường, lệ ướt đẫm gối, xốc áo trở dậy khêu đèn cầm bút theo vần trước viết một bài thơ:

Sơn viện hoàng hôn vũ
Thùy liêm tọa tiểu song
Tương tư nhân bất kiến
Trung dạ lệ song song

(Mưa đêm viện núi nghe lòng lạnh
Buông tấm rèm thưa đứng cạnh song
Tương tư chẳng thấy người thương nhớ
Nửa đêm lệ nhớ nhỏ song song)

Viết xong đọc lên, chợt có tiếng người ngoài cửa sổ nói "Có xướng không thể không có họa”, nghe thì là tiếng Giáng Tuyết. Sinh mở cửa mời vào, nàng xem thơ xong lập tức viết ngay phía sau một bài:

Liên khuyết nhân hà xứ?
Cô đăng chiếu vãn song.
Không sơn nhân nhất cá,
Đối ảnh tự thành song.

(Người xưa chung gối nay đâu tá?
Đèn lạnh cô đơn chiếu cạnh song
Núi thẳm một thân ngùi chuyện cũ
Một mình một bóng cũng song song)

Sinh đọc xong sa nước mắt, nhân trách nàng ít tới. Nàng nói "Thiếp không thể nồng nàn như Hương Ngọc được, chỉ có thể an ủi cho chàng ít nhiều khuây cảnh tịch mịch thôi". Sinh muốn ngủ chung, nàng nói "Gặp nhau là vui, cần gì phải thế". Từ đó lúc nào sinh thấy cô quạnh thì nàng lại tới. Tới thì yến ẩm xướng họa, có khi không ngủ lại, tan tiệc là về, sinh cũng chiều ý, nói với nàng “Hương Ngọc là vợ yêu của ta, Giáng Tuyết là bạn tốt của ta", thường hỏi “Nàng là cây thứ mấy trong viện xin nói cho biết, ta sẽ mang trồng trong nhà, khỏi bị bọn ác cướp đi mất như Hương Ngọc, để hận lại suốt đời”. Nàng đáp “Chốn cũ khó dời, nói cho chàng biết cũng vô ích. Vợ còn chẳng theo nhau trọn đời được, huống là bạn ư”. Sinh không nghe, kéo tay cùng ra, tới mỗi cây mẫu đơn lại hỏi "Có phải là nàng không?", cô gái không nói chỉ che miệng cười.

Gặp lúc sinh về quê ăn tết, qua tháng hai chợt mơ thấy Giáng Tuyết tới buồn rầu nói "Thiếp gặp nạn lớn, chàng tới mau thì may ra còn gặp được nhau, chậm là không kịp đâu”. Sinh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội sai người nhà thắng ngựa lên núi ngay, tới nơi thấy đạo sĩ sắp làm nhà, có một cây nại đông vướng chỗ, đám thợ sắp đốn đi. Sinh biết đó là ứng với giấc mơ vội vàng cản lại. Đến đêm Giáng Tuyết tới tạ ơn, sinh cười nói "Trước không nói thật nên gặp nạn này. Từ nay đã biết rõ nàng rồi, nếu không tới ta sẽ lấy ngải cứu đốt cho xem". Nàng đáp "Thiếp vốn biết chàng như thế nên trước kia mới không dám nói". Ngồi một lát, sinh nói "Nay ngồi với bạn tốt lại thêm nhớ vợ đẹp. Lâu không viếng Hương Ngọc, nàng có thể đi với ta không?". Hai người bèn tới hố đất mà khóc, gần hết canh một Giáng Tuyết lau nước mắt khuyên giải sinh rồi ra về.

Vài ngày sau, Sinh đang ngồi một mình buồn bã, Giáng Tuyết tươi cười bước vào nói "Có tin mừng báo cho chàng hay. Thần hoa cảm lòng chí tình của chàng, cho Hương Ngọc tái sinh ở cung này”. Sinh mừng hỏi đến lúc nào, nàng đáp “Không rõ nhưng chắc không bao lâu nữa". Trời sáng trở dậy, sinh nói "Ta vì nàng mà tới đây, đừng để người ta chịu hiu quạnh mãi đấy", nàng cười gật đầu. Hai đêm nàng không tới sinh bèn tới ôm lấy cây, vuốt ve rung lắc gọi tên Giáng Tuyết mấy lần mà không nghe đáp lại. Liền về ngồi dưới đèn vê mồi ngải định tới đốt cây. Cô gái vội chạy vào, giật mồi ngải ném đi, nói "Chàng hay đùa ác khiến người ta bị đau, phải đoạn tuyệt với chàng thôi". Sinh cười ôm lấy nàng, vừa ngồi chưa yên thì Hương Ngọc lững thững bước vào.

Sinh trông thấy vùng sa nước mắt, vội đứng lên đỡ nàng. Hương Ngọc giơ một tay kéo Giáng Tuyết, nhìn nhau sụt sùi, kế cùng ngồi xuống than thở chuyện xa cách. Sinh cầm tay Hương Ngọc thấy trống không như tự nắm tay mình, kinh ngạc cho là khác với ngày trước. Hương Ngọc ứa nước mắt nói "Thiếp trước là thần hoa nên thể chất ngưng tụ, nay là ma hoa nên thể chất hư tán, nay tuy gặp nhau nhưng chàng đừng coi là thật, chỉ là như gặp nhau trong mộng thôi". Giáng Tuyết nói "Em tới hay lắm, chị bị chồng em quấy rối muốn chết", rồi lập tức cáo biệt. Hương Ngọc vẫn âu yếm như xưa, song lúc tựa kề nhau, phảng phất như một mình tựa bóng. Sinh buồn bực không vui, Hương Ngọc cũng áy náy tủi hận, nói "Chàng lấy bột bạch liễm trộn với ít lưu hoàng pha nước mỗi ngày tưới cho thiếp một chén, ngày này sang năm xin đền ơn chàng", rồi cũng từ biệt đi.

Hôm sau sinh ra chỗ cũ thì có mầm cây mẫu đơn mới nảy bèn làm theo lời, hàng ngày chăm bón, lại rào chung quanh để giữ gìn, Hương Ngọc tới rất cảm kích. Sinh bàn dời cây mang về nhà, nàng không chịu, nói "Thiếp vốn thể chất yếu đuối, không chịu nổi việc đào lên trồng xuống. Vả lại mọi vật sinh ra đều có nơi nhất định, thiếp từ trước vốn không định sinh ở nhà chàng, làm trái đi sẽ giảm thọ, chỉ cần yêu thương nhau thì ắt có ngày sum họp thôi".
Sinh hận Giáng Tuyết không tới, Hương Ngọc nói “Nếu muốn ép chị ấy tới thì thiếp có thể làm được”. Bèn cùng sinh thắp đèn ra dưới gốc cây, lấy một cọng cỏ đo vào xiêm mình làm cữ rồi đo gốc cây từ dưới lên trên bốn thước sáu tấc thì đánh dấu vào, bảo sinh lấy hai móng tay gãi. Giây lát Giáng Tuyết từ sau thân cây đi ra, mắng “Con nhãi tới giúp Kiệt làm điều bạo ngược à", rồi dắt tay nhau cùng về.

Hương Ngọc nói "Chị đừng trách, phiền chị tạm làm bạn với chàng, một năm sau em không dám quấy quả nữa", từ đó Giáng Tuyết lại tới thường. Sinh thấy mầm cây ngày càng tươi tốt, cuối xuân đã cao gần hai thước, trước khi về nhà đưa tiền tặng đạo sĩ nhờ tưới bón giúp. Tháng tư năm sau trở lại cung quán thấy có một nụ hoa chưa nở, đang còn tần ngần thì hoa bỗng lay động như muốn gãy, giây lát thì nở, đóa to như cái mâm, có một người đẹp nghiễm nhiên ngồi trong nhụy hoa, chỉ cao ba bốn đốt tay, trong chớp mắt nhẹ nhàng bước xuống, chính là Hương Ngọc. Nàng cười nói "Thiếp chịu gió mưa để đợi chàng, sao chàng tới muộn thế?”. Rồi cùng vào nhà thì Giáng Tuyết đã tới, cười nói "Ngày ngày làm vợ thay người, bây giờ may mắn lại được lui về làm bạn" . Rồi cùng nhau chuyện trò xướng họa, nửa đêm Giáng Tuyết ra về, hai người cùng đi nằm, lại mặn nồng như trước.

Sau vợ Sinh chết, Sinh vào trong núi ở luôn không về nhà nữa, lúc ấy cây mẫu đơn đã to bằng cánh tay. Sinh thường chỉ cây nói "Sau này ta sẽ gửi hồn ở đó, mọc bên trái nàng". Hai cô gái cười nói "Chàng đừng quên đấy". Hơn mười năm sau sinh chợt mắc bệnh, con trai tới thăm, nhìn cha đau xót, sinh cười nói "Đây là ngày ta sinh chứ không phải ngày ta chết, đau xót làm gì?". Rồi nói với đạo sĩ "Sau này dưới gốc mẫu đơn có một mầm đỏ chợt nảy ra, một lúc trổ năm lá chính là ta đấy", rồi không nói gì nữa. Con trai sinh chở về, tới nhà thì Sinh chết. Năm sau quả có cái mầm lớn chợt nảy ra, trổ đủ năm lá, đạo sĩ lấy làm lạ càng năng vun tưới. Ba năm sau thì cao mấy thước, to một ôm nhưng không trổ hoa. Đạo sĩ già mất đi, các đệ tử không biết, thấy cây không trổ hoa nên đốn bỏ. Cây bạch mẫu đơn cũng héo đi rồi chết, không bao lâu cây nại đông cũng chết.

Dị Sử thị nói:Tình đã kết thì có thể thông với quỷ thần, hoa thì có ma theo mà người thì lấy hồn gởi, chẳng phải là kết tình rất sâu sao? Một người mất thì hai kẻ chết, tuy không phải kiên trinh song cũng là chết vì tình vậy. Người ta không thể trinh tiết cũng là chưa hết lòng với tình mà thôi. Trọng Ni đọc thơ Đường đệ mà nói “Chưa nghĩ tới", đáng tin làm sao!

Phụ: Truyện Liễu Thị Của Hứa Nghiêu Thời Đường (Đường Hứa Nghiêu Liễu Thị Truyện)

Hàn Hoằng lúc trẻ nổi tiếng tài giỏi nhưng nhà nghèo, láng giềng có ca kỹ của Lý Tương là nàng họ Liễu, mỗi khi Liễu tới chơi là mời Hàn qua cùng uống rượu. Một hôm Lý nói với Hàn “Tú tài là bậc danh sĩ thời nay, Liễu thị là bậc quốc sắc thời nay, đem quốc sắc đánh đổi với danh sĩ, chẳng cũng hay sao!". Hàn bèn tới ở với Liễu, năm sau thi đỗ, vài năm sau Tiết độ sứ Hoài Thanh Hầu Hy Dật tiến cử làm Tùng sự, Hàn chưa đưa Liễu theo, Liễu bèn xuống tóc làm ni cô vào ở chùa.
Sau Hàn theo Hầu Hy Dật vào kinh tìm không được, té ra nàng đã bị tướng Phiên Sa Tra Lợi có công với triều đình bắt đi. Hàn không làm gì được, kế được bổ làm quan ở Trung thư sảnh. Trên đường gặp chiếc xe bèn đi theo, người trong xe hỏi "Có phải Hàn Viên ngoại không? Thiếp là Liễu thị, sáng mai còn theo đường này về, xin chàng tới từ biệt nhau một lần". Hàn theo lời tới vĩnh quyết. Hôm ấy quân Lâm Tri mừng công, mở tiệc mời Hàn, Hàn buồn bã không vui. Mọi người trong tiệc hỏi han, Hàn kể lại việc Liễu thị, có Ngu hầu tướng Hứa Tuấn đứng lên nói “Xin Viên ngoại viết cho vài chữ, ta sẽ đưa nàng về ngay".

Hàn viết thư đưa Hứa, Hứa bèn cưỡi một con ngựa dắt theo một con khác phi mau tới quân dinh của Sa Tra Lợi. Gặp lúc Sa Tra Lợi đi vắng, liền vào nói “Tướng quân ngã ngựa không cứu được, sai đưa Liễu phu nhân tới”. Liễu ngạc nhiên bước ra, Hứa đưa thư Hàn cho xem rồi đỡ lên ngựa phóng mau trở về, đưa tới chỗ Hàn nói "May mà không nhục mệnh".

Phụ: Truyện Vô Song Của Tiết Điều (Tiết Điều Vô Song Truyện)

Vương Tiên Khách là cháu gọi Thượng thư Lưu Chấn bằng cậu, lúc nhỏ cùng con gái Chấn là Vô Song chơi đùa rất thân thiết. Lưu thị bị bệnh, gọi Chấn tới gởi gắm Tiên Khách mà không dặn gả Vô Song cho người khác. Tiên Khách về chôn cất mẹ xong, sắp xếp hành lý lên kinh, sai bà vú già tới cầu hôn nhưng Chấn không bằng lòng.

Một hôm Chấn vào chầu, chợt phóng ngựa về nhà nói "Quân Kinh Nguyên làm phản, Thiên tử ra Bắc Môn, các quan theo tới hành tại, ta nghĩ tới vợ con nên về qua một lúc". Rồi vội gọi Tiên Khách tới nói "Cháu giúp ta lo toan việc nhà, ta sẽ gả Vô Song cho". Rồi đem vàng bạc gấm vóc ra, bảo Tiên Khách áp tải ra cổng Khai Viễn, nói "Ta và mợ cháu cùng Vô Song ra cổng Khải Hạ". Tiên Khách theo lời, chờ mãi không thấy bèn vòng qua cổng Khải Hạ thì cổng đã đóng. Tiên Khách hỏi người giữ cổng thành "Hôm nay có ai ra không?", người ấy đáp "Sau giờ Ngọ có một người dắt vợ con cùng năm ba người định ra cổng này, người ta đều biết đó là Thượng thư bộ Hộ họ Lưu, quan giữ cổng không dám cho ra, gần tối thì quân kỵ đuổi theo phóng tới, xua cả qua Bắc Môn rồi".

Tiên Khách bèn về Tương Dương, ba năm sau vào kinh hỏi thăm tin tức gặp người đầy tớ cũ của cậu là Tái Hồng mới biết Vô Song đã bị đưa vào Dịch đình, chỉ còn có tỳ nữ cũ của nàng là Thái Tần ở nhà Kim ngô tướng quân Vương Toại Trung. Tiên Khách tới ra mắt Toại Trung xin đưa nhiều tiền để chuộc Thái Tần, Toại Trung ưng thuận. Tiên Khách bèn thuê nhà ở với Tái Hồng, kế được Toại Trung tiến cử làm Huyện lệnh Phú Bình coi trạm Trường Lạc. Chợt có tin quan Trung sứ áp giải ba mươi người trong Dịch đình tới Viên Lăng, phải chuẩn bị dọn dẹp đón tiếp, bèn nói với Hồng "Ta nghe nói trong Dịch đình phần nhiều là con cái các quan, sợ có Vô Song trong số này, người hãy đi thăm dò giúp ta”, Tái Hồng vâng dạ ra đi.

Đến đêm vào trạm dò xét, chợt nghe trong rèm có người nói "Tái Hồng, Vương lang khỏe không?", Hồng đáp "Lang quân đang ở đây, ngờ có nương tử trong trạm nên sai Tái Hồng tới hỏi thăm". Cô gái nói "Sáng mai ngươi ra dưới căn gác phía đông bắc lấy thư ta gởi chàng”. Hồng được thư đem về đưa Tiên Khách, thư rằng "Thường nghe sứ giả nói Cổ áp Nha ở Phú Bình là người có lòng trong thiên hạ, chàng có thể nhờ ông ấy không?". Tiên Khách bèn tìm tới Cổ áp Nha kể thật việc mình, Cổ sinh nói "Chuyện này rất không dễ, không thể một sớm một chiều mà xong được", sau nửa năm gởi thư xin cho Thái Tần tới.

Một đêm Vương nghe tiếng gõ cửa rất gấp, mở ra thì Cổ sinh đeo một cái giỏ lớn bước vào, nói "Vô Song trong này, nay đã chết nhưng mai sẽ sống lại”. Tiên Khách bế nàng vào giường chăm sóc, đến sáng mới hơi ấm lại mở mắt nhìn thấy Tiên Khách thì kêu lớn một tiếng rồi ngất đi, đến đêm mới tỉnh. Cổ sinh bèn tuốt đao chém đứt đầu Tái Hồng, nói "Hôm nay thì ngươi đã báo ơn lang quân đủ rồi. Vốn nghe nói đạo sĩ ở Mao Sơn có thuốc lạ, ai uống vào sẽ chết ngay, ba ngày thì sống lại, ta xin được một viên bèn sai Thái Tần giả làm Trung sứ tới nói Vô Song là con kẻ phản nghịch nên ban cho thuốc ấy bắt tự tử. Kế đem trăm lượng vàng chuộc xác, dọc đường đi qua các trạm dịch đều hối lộ rất hậu, ắt không bị tiết lộ đâu. Lão phu vì chàng, cũng sẽ tự tử". Nói xong vung đao lên, Tiên Khách vội sấn tới cản lại thì đầu Cổ đã rơi xuống đất.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 51 - 52 -
Đại Nam
(Đại Nam)

Hề Thành Liệt là sĩ nhân ở Thành Đô (tỉnh thành Tứ Xuyên), có một vợ một thiếp, người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Vợ chết sớm, Hề lấy vợ kế họ Thân nhưng không tử tế được với nhau, ngược đãi Hà làm khổ lây cả Hề, cả ngày cãi vã ầm ĩ không sao sống nổi, Hề tức giận bỏ đi. Sau khi chồng đi, Hà sinh được một trai đặt tên là Đại Nam. Lâu ngày Hề không trở về, Thân gạt Hà ra không cho ăn cơm chung, cứ tính ngày đong gạo cấp cho.

Đại Nam lớn dần, Hà không dám xin cấp nhiều hơn, phải dệt vải để kiếm thêm. Đại Nam thấy trẻ con ở trường ngâm nga đọc sách thích lắm nói với mẹ muốn đi học, mẹ thấy còn nhỏ quá nên tạm đưa tới trường cho học thử để làm khó. Nhưng Đại Nam thông minh, học mau gấp đôi các trẻ khác. Thầy lấy làm lạ, tình nguyện dạy không lấy tiền, Hà bèn cho con theo học, thù tạ chút ít cho thầy. Được hai ba năm Đại Nam đã đọc thông kinh sử, một hôm về nói với mẹ "Trong trường có năm sáu đứa đều xin tiền cha mua quà bánh, sao con không có cha?". Mẹ nói "Lúc nào con lớn mẹ sẽ cho biết”. Đại Nam hỏi “Con mới bảy tám tuổi, lúc nào mới là lớn”, mẹ đáp “Con tới trường đi ngang miếu Quan Đế thì nên vào lạy, người sẽ phù hộ cho mau lớn".

Đại Nam tin lời, ngày hai buổi đi qua đều vào miếu lạy. Mẹ biết, hỏi con cầu xin chuyện gì thì đáp "Chỉ xin người sang năm cho con lớn như mười lăm mười sáu tuổi”. Mẹ cười, nhưng Đại Nam sức học và vóc dáng đều tăng nhanh, đến năm mười tuổi đã như mười ba mười bốn, làm văn thì thầy học cũng không thể thêm bớt sửa đổi. Một hôm nói với mẹ “Trước mẹ nói lúc nào con lớn mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, nay đã đến lúc rồi!". Mẹ nói "Chưa đâu, chưa đâu!". Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Đại Nam nghe kể vô cùng thương cảm, muốn đi tìm cha. Mẹ nói "Con còn nhỏ lắm, mà cha con sống chết ra sao chưa rõ, làm sao tìm được?".

Đại Nam không đáp đi ra, đến trưa không về, mẹ tới trường hỏi thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh, thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không thấy tung tích. Đại Nam ra cửa, không biết nên đi đâu, cứ theo đường mà đi. Gặp một người đang đi Quỳ Châu (huyện thuộc Tứ Xuyên), tự nói là họ Tiền, bèn xin đi theo. Tiền thấy đi chậm chán quá, thuê cho con lừa đỡ chân, tiền lưng cạn hết. Tới Quỳ Châu cùng ăn cơm, Tiền ngầm bỏ thuốc mê vào, Đại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở tới một chùa lớn nói là con mình, đi đường bị ốm hết cả tiền ăn, muốn bán cho sư. Các sư thấy mặt mũi khôi ngô tranh nhau mua, Tiền được vàng ra đi.
Các sư đổ nước cho, Đại Nam dần tỉnh lại, sư ông mới biết bèn tới xem, thấy tướng mạo lấy làm lạ, hỏi biết được ngọn ngành càng thương, trách phạt các sư rồi cho Đại Nam tiền bảo đi. Có Tú tài họ Tưởng ở huyện Lô Châu (tỉnh Tứ Xuyên) thi trượt trở về trên đường gặp hỏi biết chuyện khen là hiếu, bèn dắt cùng đi. Tới Lô Châu ở lại nhà Tưởng hơn một tháng, tìm hỏi khắp nơi. Có người nói trong các thương nhân đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) có người họ Hề, bèn chào Tưởng để đi Mân. Tưởng tặng tiền áo giày, làng xóm cũng góp tiền giúp đỡ.
Trên đường có hai khách buôn vải đi Phúc Thanh (tỉnh thành Phúc Kiến) rủ đi cùng. Đi được vài ngày, họ nhìn thấy tiền trong túi Đại Nam bèn đưa tới chỗ vắng trói tay chân cướp sạch rồi bỏ đi. Gặp lúc có ông Trần người huyện Vĩnh Phúc (tỉnh Tứ Xuyên) đi ngang đó cởi trói cho chở về nhà. Nhà Trần giàu có, khách buôn các trấn trong vùng phần lớn đều xuất thân từ nhà ông. Ông dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi giùm tin Hề, giữ Đại Nam lại cho học với các con mình. Đại Nam bèn ở lại không đi đâu nữa, nên quê càng xa, tin nhà càng vắng.
Hà Chiêu Dung sống cô đơn ba bốn năm, Thân thị chu cấp ít đi, ép phải tái giá nhưng Hà tự làm lụng mà sống, không chịu đổi lòng. Thân bán bừa cho một khách buôn ở Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), người ấy bắt cóc Hà mang đi. Đến đêm Hà lấy dao tự cứa cổ, người khách buôn không dám ép, chờ vết thương lành bán lại cho một khách buôn ở Diêm Đình. Tới Diêm Đình, Hà tự rạch bụng thấy cả ruột gan, người khách buôn sợ bó thuốc cho, khi lành rồi Hà chỉ xin cho làm ni cô. Người khách buôn nói "Ta có người bạn buôn không có ngọc hành thường nluốn tìm một người để may vá, ở với y cũng như làm ni cô, mà cũng có thể bù lại cho ta ít tiền", Hà nghe theo. Người khách buôn cho kiệu đưa đi, tới cửa chủ nhân bước ra thì là Hề sinh. Nguyên Hề đã bỏ nghiệp nho đi buôn, người khách buôn thấy không có vợ nên đem Hà tặng cho. Hai người gặp nhau kinh ngạc đau xót, cùng kể nỗi khổ, Hề mới biết là có con trai đi tìm cha chưa về. Hề bèn nhờ các quán trọ dò hỏi tin tức Đại Nam, còn Chiêu Dung từ chỗ là thiếp trở thành chính thất.
Nhưng nàng trải nhiều tai nạn nên đau yếu lắm bệnh không làm được việc nhà, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ. Hề nhớ lại tai họa trước đây nên không nghe, Hà nói "Nếu thiếp là kẻ tranh giành nơi giường chiếu thì mấy năm nay đã theo người sinh con rồi, làm sao còn đoàn tụ với chàng như hôm nay! Vả lại việc người ta đối xử với mình nay còn thầm đau trong lòng, lẽ nào mình lại đối xử như thế với người khác". Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một người thiếp già hơn ba mươi tuổi. Qua nửa năm, khách quả mua được người về, vào tới cửa thì ra là Thân thị, ai cũng lạ lùng kinh sợ. Trước đó Thân thị ở một mình thêm được hơn năm thì anh là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị họ hàng nhà chồng cản trở không cho bán, liền bán các vật dùng được mấy trăm lượng vàng về nhà anh ở. Có người khách buôn ở huyện Bảo Ninh (tỉnh Tứ Xuyên) nghe nói có nhiều của hồi môn bèn đút lót nhiều tiền cho Bao để lừa cưới. Nhưng người khách buôn già nua không còn sức làm đàn ông, Thân oán anh không chịu ở yên, hết thắt cổ lại nhảy xuống giếng, phiền nhiễu không chịu nổi. Người khách buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai nghe cũng chê đã quá ba mươi rồi.
Người khách buôn đi Quỳ Châu đưa Thân cùng đi, người bạn buôn với Hề gặp bèn mua về. Thân gặp mặt Hề thì vừa thẹn thùng sợ sệt không nói một câu. Hề hỏi người bạn buôn biết rõ đầu đuôi bèn nói "Nếu gặp được người đàn ông mạnh khỏe thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây, cũng là số trời. Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cưới vợ, nên cứ vào lạy Chiêu Dung cho đúng lễ vợ cả vợ bé đã”. Thân lấy làm nhục, Hề nói "Trước kia ngươi làm vợ cả thì sao?". Hà khuyên thôi nhưng Hề không chịu, cầm gậy đe dọa cưỡng ép, Thân bất đắc dĩ phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều bỏ qua hết, cũng không nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Hề cứ chuyện trò yến ẩm với Chiêu Dung là gọi Thân thị tới hầu hạ bên cạnh, Hà muốn sai tỳ nữ thay nhưng không nghe. Gặp lúc ông Trần Tự Tông tới làm Huyện lệnh Diêm Đình, Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội bắt vợ cả làm vợ lẽ, Trần thét đuổi ra.
Hề mừng ca ngợi ông với Hà. Một đêm đã khuya, đứa hầu nhỏ gõ cửa vào bẩm quan huyện tới. Hề hoảng sợ vội tìm áo mũ thì quan đã tới cửa phòng, lại càng sợ không biết làm gì. Hà nhìn kỹ, vội bước ra nói "Con ta đây mà" rồi bật khóc, Trần bèn lạy phục xuống đất khóc nức nở, té ra Đại Nam lấy họ ông Trần nay đã làm quan. Lúc trước từ kinh tới đi vòng qua quê cũ mới biết hai mẹ đều đã cải giá, trong lòng đau xót. Họ hàng biết Đại Nam đã làm quan liền trả lại ruộng vườn nhà cửa, Đại Nam cho đầy tớ ở lại sửa sang xây cất đợi ngày cha về. Kế được bổ nhiệm ở Diêm Đình, lại muốn bỏ quan tìm cha, ông Trần hết sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ, thầy bói nói "Nhỏ làm lớn, dưới thành trên, tìm trống được mái, tìm một được hai, làm quan rất tốt". Trần bèn đi nhậm chức, vì không tìm được cha nên làm quan không uống rượu ăn mặn.

Hôm ấy nhận được đơn kiện của người làng thấy nói đến họ Hề có ý ngờ, ngầm sai tớ gái dò hỏi thì quả là cha. Bèn nhân lúc đêm tối vi hành, gặp mẹ càng tin thầy bói tài giỏi. Lúc ra về dặn đừng tiết lộ, đưa ra hai trăm lượng vàng, bảo cha sửa soạn về quê. Cha về tới nơi thì nhà của mới mẻ, nuôi thêm người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia. Thân thị thấy Đại Nam sang giàu càng hổ thẹn, anh là Bao biết được, kiện lên quan giành lại ngôi vợ cả cho em. Quan xét được sự thật, giận nói "Đã tham của khuyên em tái giá, bỏ Hề lấy chồng hai lần rồi, lại còn mặt mũi tranh giành cả lẻ như xưa à?", rồi sai đánh Bao thật đau. Từ đó danh phận rõ ràng, Thân coi Hà như em, Hà cũng coi Thân như chị, thức ăn cái mặc đều chia cho. Thân lúc đầu vẫn sợ Hà trả thù, đến lúc ấy càng thẹn thùng hối hận. Hề cũng bỏ qua lỗi trước, cho người nhà gọi Thân là Thái mẫu, chỉ không được phong tặng thôi.

Dị Sử thị nói:Làm cho chúng sinh điên đảo không biết đâu mà bàn, đó là sự khéo léo của tạo hóa vậy. Hề sinh không thể sống được với vợ và thiếp thì chỉ là một người tầm thường thôi, nếu không có mẹ hiền con thảo thì làm sao có được sự hội ngộ kỳ lạ, ngồi không mà hưởng phúc đến trọn đời như vậy.



052. Thạch Thanh Hư



(Thạch Thanh Hư)




Hình Vân Phi người phủ Thuận Thiên thích đá, thấy đá đẹp là mua ngay không tiếc tiền. Tình cờ đánh cá ở sông thấy có vật vướng vào lưới, lặn xuống gở thì được tảng đá bề ngang khoảng một thước, bốn mặt lóng lánh lởm chởm như núi non rất đẹp, mừng như được ngọc báu, lấy gỗ đàn hương tía chạm thành cái đế bày trên bàn. Mỗi khi trời sắp mưa thì các lỗ sinh mây, nhìn xa như bông bay phơ phất.
Có nhà thế hào Mỗ tới xin xem, nhìn thấy cướp luôn, đưa cho tên đầy tớ khỏe mạnh vác rồi quất ngựa đi mất. Hình không làm gì được, chỉ biết giẫm chân căm tức mà thôi. Tên đầy tớ vác đá tới bờ sông nghỉ vai ở trên cầu, chợt tuột tay, đá rớt xuống sông. Nhà thế hào giận đánh đầy tớ rồi bỏ tiền thuê người giỏi lặn tìm đủ cách mò lên mà vẫn không thấy, bèn treo tiền thưởng cho ai mò được rồi đi.
Từ đó người mò đá hàng ngày kéo tới đầy sông mà không ai lấy được. Sau Hình tới chỗ đá rơi, nhìn sông than thở thì thấy nước trong suốt, đá vẫn ở dưới đó. Hình cả mừng cởi áo lặn xuống ôm lên, cái đế gỗ đàn vẫn còn. Về nhà không bày ở phòng khách nữa, dọn sạch phòng ngủ đặt ở đó.
Một hôm có ông già gõ cửa xin xem, Hình nói thác rằng mất đã lâu. Ông già cười nói "Không phải ở phòng khách sao?”. Hình bèn mời vào phòng khách để chứng tỏ là không có, vào tới thì thấy tảng đá bày trên ghế, kinh ngạc đớ lưỡi. Ông già xoa tảng đá nói "Đây là vật cũ của nhà ta bị mất đã lâu, vẫn còn ở đây à? Nay đã thấy xin cho lại". Hình cuống quá bèn cãi nói của mình, ông già cười hỏi "Đã là của nhà ông thì lấy gì làm bằng?” Hình không sao trả lời. Ông già nói “Ta thì biết rõ lắm, trước sau có tất cả chín mươi hai lỗ, trong lỗ lớn có năm chữ Thanh Hư thiên thạch cung (Đá trời cung Thanh Hư )”. Hình nhìn kỹ quả trong lỗ có hàng chữ nhỏ như hạt gạo, cố nhìn mới đọc được, lại đếm số lỗ thì đúng như ông già nói. Hình không đáp được, chỉ giữ không chịu đưa ông già cười nói "Vật của nhà ai mà ông đòi làm chủ?" rồi chào ra.
Hình đưa ra tới cổng, quay vào thì đá đã đâu mất. Cả kinh nghi là ông già lấy, vội đuổi theo thì thấy ông thong thả đi cũng chưa xa, Hình chạy theo níu áo van xin. Ông già nói “Lạ chưa, tảng đá to cả thước, ai mà giấu được trong tay áo?". Hình biết là thần, cố kéo về nhà, quỳ xuống năn nỉ. Ông già bèn hỏi "Đá đó thật là của ông hay của ta?”. Hình đáp "Quả là của ông, chỉ xin ông dứt tình mà cho thôi”. Ông già nói "Nếu thế thì đá vẫn ở đấy", Hình vào phòng ngủ thì đá vẫn ở chỗ cũ.
Ông già nói “Vật quý trên đời nên để cho người biết quý. Tảng đá này có thể tự chọn chủ, ta cũng mừng. Nhưng nó vội xuất hiện, ra đời sớm thì ma kiếp chưa trừ, ta thật muốn mang đi, ba năm nữa mới đem tặng ông. Nếu muốn giữ nó ngay thì phải giảm thọ ba năm nó mới làm bạn với ông mãi được, ông có chịu không?”. Hình đáp chịu, ông già bèn lấy hai ngón tay miết lên một cái lỗ, cái lỗ mềm như bùn, theo ngón tay vít kín lại, lần lượt vít ba lỗ. Ông già nói "Số lỗ trên đá là số tuổi thọ của ông", rồi chào đi. Hình cố giữ lại nhưng ông nhất định chối từ, Hình hỏi họ tên cũng không nói, ra đi ngay.
Hơn năm sau, Hình có việc đi vắng, đêm có kẻ trộm vào phòng, không lấy vật gì mà chỉ trộm tảng đá mang đi. Hình về buồn bã tưởng chết, dò hỏi thuê tìm nhưng không thấy manh mối. Vài năm sau tình cờ vào chùa Báo Quốc, thấy có người bán đá, tới gần xem thì là vật cũ bèn nhận của mình. Người bán đá không chịu, nhân vác đá lên quan. Quan hỏi ”Lấy gì làm bằng?”, người bán đá nói đúng số lỗ. Hình hỏi còn gì khác không thì không nói được. Hình bèn nói năm chữ trong lỗ và ba vết ngón tay, việc liền rõ ràng. Quan định phạt đòn người bán đá, người ấy khai mua ở chợ mất hai mươi lượng vàng, quan bèn tha. Hình mang được đá về, lấy gấm bọc lại cất vào rương, thỉnh thoảng lấy ra ngắm thì đốt trầm trước rồi mới đem ra.
Có quan Thượng thư nọ đem một trăm lượng vàng tới mua nhưng Hình thì vạn lượng vàng cũng không bán. Thượng thư tức giận ngầm lấy việc khác hãm hại, Hình bị bắt, vợ con cầm ruộng bán vườn chạy vạy, Thượng thư sai người bắn tin cho con Hình là muốn lấy đá. Con thưa lại, Hình nói thà chết chứ không chịu mất đá. Vợ bàn riêng với con đem đá dâng Thượng thư, Hình ra khỏi ngục mới biết, chửi vợ đánh con, nhiều lần thắt cổ tự tử nhưng người nhà đều biết cứu thoát. Một đêm mơ thấy một người đàn ông tới, tự xưng là Thạch Thanh Hư, nói với Hình rằng "Đừng buồn, chỉ tạm xa ông hơn một năm thôi. Mờ sáng ngày hai mươi tháng tám sang năm cứ đem hai quan tiền tới cửa Hải Đại chuộc về".
Hình mừng rỡ ghi lại ngày tháng cẩn thận, mà tảng đá trong nhà Thượng thư cũng không sinh mây nữa, dần dần cũng không quý trọng lắm. Năm sau Thượng thư có tội bị cách chức, kế chết. Đúng ngày hẹn Hình tới cửa Hải Đại thì gia nhân Thượng thư ăn cắp đá ra đang tìm người để bán, Hình bèn bỏ ra hai quan mua về.
Về sau Hình sống đến tám mươi chín tuổi, tự sắm sửa quan quách, dặn con hễ mình chết thì chôn đá theo. Kế chết, con theo lời chôn đá vào trong mộ. Khoảng nửa năm kẻ trộm đào mộ lấy đá đi, con Hình biết nhưng không có cách nào đòi được. Qua hai ba hôm dắt dầy tớ đi trên đường chợt thấy hai người mồ hôi nhễ nhại chạy theo, ngẩng lên không cầu khẩn "Hình tiên sinh tha cho bọn ta đi, hai đứa lấy đá chẳng qua bán được bốn lượng bạc thôi”, liền bắt trói đưa lên quan, quan hỏi liền nhận tội ngay. Hỏi đá thì họ khai là bán cho họ Cung, bèn lấy lên. Quan nhìn thấy rất thích, muốn chiếm lấy bèn sai cất vào kho. Viên lại vừa bưng đi thì đá chợt rơi xuống đất vỡ làm mấy mươi mảnh, ai cũng hoảng sợ. Quan cho cùm kẹp hai tên trộm thật đau rồi tha ra. Con Hình nhặt các mảnh đá đem chôn vào mộ cha như cũ.




Dị Sử thị nói: Vật kỳ lạ chỉ mang họa tới, thế mà muốn đổi mạng sống lấy vật, cũng thật là si mê quá đáng. Nhưng rốt lại đá lại cùng người có thủy có chung, ai nói rằng đá vô tình? Người xưa nói "Kẻ sĩ chết cho người biết mình", thì không phải là sai. Đá còn như thế, huống chi là người sao!




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 53 -
Tăng Hữu Vu
(Tăng Hữu Vu)

Ông họ Tăng là người đất Côn Dương (huyện Diệp tỉnh Hà Nam) là con nhà thế gia cũ. Lúc ông chết còn chưa chôn, hai mắt ứa lệ giàn giụa, nhưng có sáu người con mà không ai hiểu vì sao. Người con thứ tên Đễ, tự Hữu Vu là danh sĩ trong huyện cho là điều không lành, nói với anh em đều nên cẩn thận giữ gìn đừng để người quá cố đau lòng, nhưng một nửa số anh em khinh bỉ chế nhạo là ngu xuẩn vu vơ. Trước kia ông Tăng lấy vợ sinh được người con trưởng là Thành, được bảy tám tuổi thì hai mẹ con bị giặc cướp bắt đi. Lấy vợ kế sinh được ba con trai là Hiếu, Trung, Tín, người thiếp sinh được ba con trai là Đễ, Nhân, Nghĩa. Hiếu vì bọn Đễ là con dòng thứ nên khinh bỉ không coi là ngang hàng, kéo bè kéo cánh với Trung và Tín. Như đang uống rượu với khách mà bọn Đễ đi ngang thềm thì tỏ ra ngạo mạn vô lễ, Nhân và Nghĩa đều tức giận, bàn với Hữu Vu định trả đũa. Hữu Vu tìm đủ cách can ngăn khuyên giải chứ không nghe theo, mà Nhân và Nghĩa vì còn quá nhỏ nên nghe anh nói thế cũng thôi.

Hiếu có con gái gả cho họ Chu người cùng huyện bị bệnh chết, bèn dắt các em đến đánh đập người mẹ chồng. Chu báo lên huyện, quan huyện tức giận bắt giam bọn Hiếu định trị tội thật nặng. Hữu Vu sợ hãi lên ra mắt quan huyện nài nỉ. Quan huyện vốn ngưỡng mộ phẩm hạnh Hữu Vu, nhờ vậy bọn anh em không phải chịu khổ nhiều. Hữu Vu lại tự mang roi tới nhà Chu xin nhận lỗi, Chu cũng kính trọng Hữu Vu nên thôi không kiện nữa. Bọn Hiếu được trở về nhưng rốt vẫn không hề biết ơn Vu. Không bao lâu, mẹ Hữu Vu là Trương phu nhân chết, bọn Hiếu đều không để tang mà vẫn yến ẩm như cũ, Nhân và Nghĩa càng căm tức. Hữu Vu nói "Đó là họ vô lễ chứ chúng ta đâu có mất gì?". Đến khi chôn cất thì bọn Hiếu ra giữ cửa mộ không cho hợp táng với ông Tăng, Hữu Vu bèn chôn mẹ ở đường vào mộ cha.

Không bao lâu vợ Hiếu chết, Hữu Vu gọi Nhân và Nghĩa tới giúp việc tang, hai người đều nói “Họ không để tang vợ lẽ của cha, thì làm gì có chuyện chúng ta để tang chị dâu?", khuyên mấy lần vẫn thản nhiên bỏ đi. Hữu Vu bèn tới, khóc lóc rất đau thương. Nghe Nhân và Nghĩa ở nhà bên đàn hát uống rượu, Hiếu tức giận họp các em qua đánh. Hữu Vu vác gậy xông vào trước, Nhân biết được bỏ chạy, Nghĩa đang trèo qua tường thì Hữu Vu đuổi tới đánh ngã xuống đất. Bọn Hiếu xúm lại đánh túi bụi không ngừng tay. Hữu Vu lấy thân mình che chở cho Nghĩa, Hiếu tức giận chửi Hữu Vu. Hữu Vu nói "Đánh nó vì tội vô lễ chứ tội ấy không đáng chết, em không tha thằng em vô lễ nhưng cũng không thể thấy anh nóng giận mà không can, xin được chịu tội thay nó” Hiếu bèn quay gậy đánh Hữu Vu, Trung và Tín cũng giúp Hiếu đánh anh, gầm thét ầm ĩ, người làng xúm lại khuyên giải mới thôi. Hữu Vu bèn vác gậy tới nhà anh xin chịu tội, Hiếu đuổi đi không cho để tang. Nhưng Nghĩa bị đánh trọng thương không ăn uống gì được, Nhân bèn lên quan kiện thay, tố cáo bọn Hiếu không để tang thứ mẫu. Quan bèn ra lệnh bắt bọn Hiếu, sai Hữu Vu khai báo. Hữu Vu vì mặt mũi bị thương không tới công đường được, chỉ làm tờ bẩm năn nỉ bỏ qua chuyện này. Quan huyện bèn không xét tới nữa, Nghĩa cũng dần dần bình phục, từ đó càng thù hận bọn Hiếu.

Nhân và Nghĩa đều còn nhỏ yếu ớt, cứ mỗi khi bị đánh đập thì nói với Hữu Vu "Người ta đều có anh em, chỉ có chúng ta là không", Hữu Vu nói "Ta mà nói câu ấy ra thì hai em sẽ đi đâu mà sống?", nhân đó hết sức khuyên giải, nhưng rốt lại hai người vẫn không nghe. Hữu Vu bèn đóng cửa nhà, dắt vợ con tới ngụ ở làng khác cách đó hơn năm mươi dặm, không ai biết tin tức. Hữu Vu lúc còn ở nhà tuy không bênh vực gì hai em nhưng bọn Hiếu cũng hơi kiêng dè, lúc đi rồi thì bọn Hiếu không sợ hãi gì nữa, cứ tới nhà Nhân và Nghĩa chửi mắng, xúc phạm cả tới mẹ ruột họ. Nhân và Nghĩa tự lượng không đủ sức đánh lại, chỉ đóng chặt cửa nghĩ cách tìm lúc bọn Hiếu sơ hở mà đâm chết, đi đâu cũng giắt dao trong người.

Một hôm chợt người anh lớn bị cướp bắt đi là Thành dắt mẹ trở về, các anh em vì chia gia tài đã lâu, họp lại bàn bạc ba ngày mà không biết đối xử với Thành thế nào, bèn tới báo với Hữu Vu, Hữu Vu mừng rỡ về ngay, đưa ruộng vườn nhà cửa cho Thành ở. Bọn Hiếu tức giận, cho rằng Hữu Vu làm ơn để lấy lòng Thành, tới tận nhà sỉ vả làm nhục. Nhưng Thành ở lâu ngày với bọn cướp cũng quen thói dữ tợn, nghe thế cả giận nói “Ta về tới đây đã không người nào đưa cho một gian nhà để ở, may có chú ba nghĩ tình anh em thì các người lại bắt lỗi này nọ, muốn đuổi ta đi phải không?". Rồi vác đá ném Hiếu, Hiếu ngã lăn ra, Nhân và Nghĩa đều vác gậy xông ra bắt Trung và Tín đánh túi bụi. Thành không chờ bọn Hiếu thưa kiện mà đi kiện trước, quan huyện lại sai người tới hỏi ý Hữn Vu. Hữu Vu bất đắc dĩ phải lên gặp quan, cúi đầu không nói gì chỉ chảy nước mắt, quan hỏi mãi mới thưa chỉ xin cứ theo phép công mà xét.

Quan bèn truyền bọn Hiếu phải đưa lại ruộng vườn nhà cửa cho Thành, sai chia làm bảy phần cho đều, từ đó Nhân và Nghĩa càng thêm kính trọng yêu mến Thành. Nhân cùng trò chuyện kể lại việc chôn mẹ, hai người rơi nước mắt, Thành căm giận nói "Bất nhân như thế thì thật là cầm thú”. Bèn định bốc mộ mẹ ba anh em Hữu Vu lên để cải táng, Nhân và Nghĩa tới báo, Hữu Vu vội về can ngăn nhưng Thành không nghe, chọn ngày lập đàn chay cạnh mộ, cầm đao phạt đứt một cái cây nói với các em rằng "Đứa nào không chịu mặc áo tang đi theo, thì sẽ như cái cây này đấy”. Mọi người đều líu ríu vâng dạ, cả nhà đều ra khóc than, chôn cất đủ lễ, từ đó anh em yên ổn với nhau. Nhưng Thành tính nóng nảy cứng rắn, thường đánh đập các em, nhất là bọn Hiếu, duy chỉ trọng có Hữu Vu, đang lúc giận sôi lên mà Hữu Vu tới nói một câu là nguôi ngay. Những việc Hiếu làm Thành đều không ưa, vì vậy ngày nào Hiếu cũng tới nhà Hữu Vu chửi lén Thành, nhưng Hữu Vu khéo léo can ngăn, không nghe lời Hiếu. Hữu Vu thấy phiền nhiễu không chịu nổi bèn dời tới ngụ ở đất Tam Bạc, thuê nhà để ở, càng xa quê hơn trước, từ đó tin tức đi lại thưa dần. Được hai năm, các em đều sợ Thành, lâu ngày quen dần không còn tranh giành cãi cọ với nhau nữa.

Nhưng Hiếu bốn mươi sáu tuổi, sinh được năm con trai, trưởng là Kế Nghiệp, thứ ba là Kế Đức là con vợ lớn, con thứ là Kế Công, thứ tư là Kế Tích là con vợ thứ, lại có Kế Tổ là con người thiếp, lúc ấy đều đã trưởng thành, cũng học thói cha ngày xưa kéo bè kéo cánh hàng ngày tranh giành cãi cọ nhau, Hiếu không sao ngăn cấm được. Duy có Tổ là không có anh em ruột nào, lạỉ nhỏ tuổi nhất, các anh đều có người để chửi mắng. Nhà cha vợ Tổ vốn ở gần Tam Bạc, gặp hôm Tổ tới thăm bèn lén vòng qua thăm chú, vào tới nhà chú thấy hai anh một em đang đọc sách râm ran, thích lắm bèn ở lại lâu ngày không nói tới việc về. Chú giục về, Tổ nài nỉ xin cho ở lại, chú nói “Cha mẹ cháu đều không biết chuyện này, chứ chú đâu tiếc gì miếng cơm hớp nước với cháu?". Tổ bèn về, mấy tháng sau vợ chồng đi mừng thọ mẹ vợ bèn nói với cha "Con đi lần này không về nữa đâu”. Cha hỏi han, Tổ bèn ngỏ ý riêng, cha sợ Hữu Vu nhớ oán hờn cũ khó nỗi ở lâu. Tổ nói "Cha lo xa quá, chứ chú hai là bậc thánh hiền đấy”. rồi dắt vợ lên đường tới Tam Bạc. Hữu Vu chia nhà cho ở, coi như con ruột, sai học với con lớn là Kế Thiện. Tổ học rất giỏi, từ đó ngụ luôn ở Tam Bạc.

Anh em trong nhà Tổ ngày càng bất hòa, một hôm Nghiệp vì cãi cọ chuyện nhỏ chửi mắng thứ mẫu, Công tức giận đâm chết Nghiệp. Quan bắt Công trừng phạt nặng nề, được vài hôm Công chết trong ngục. Vợ Nghiệp là Phùng thị hàng ngày cứ chửi mắng thay việc khóc chồng, vợ Công là Lưu thị nghe thấy tức giận nói "Chồng ngươi chết còn chồng ta thì sống à?", rồi xách dao vào chém chết Phùng thị, kế nhảy xuống giếng tự tử. Cha Phùng thị là Đại Lập xót con gái chết thảm bèn dắt con cháu trong nhà giấu binh khí dưới áo tới bắt vợ Hiếu về, lột truồng đánh đập làm nhục. Thành tức giận nói “Nhà ta đang chết như rạ mà họ Phùng sao dám làm thế?” rồi gầm thét xông ra, anh em con cháu họ Tăng cũng đổ ra. Bọn nhà họ Phùng chạy tán loạn, Thành túm được Đại Lập, cắt luôn hai vành tai. Con Phùng tới cứu bị Kế Tích cầm gậy sắt đánh gãy hai chân, bọn nhà họ Phùng đều bị thương, kêu gào chạy tứ tán. Chỉ có con Phùng còn nằm bên đường, mọi người không biết tính sao, Thành bèn xốc nách đưa tới bỏ gần thôn Phùng rồi về, gọi Kế Tích bảo lên quan tự thú.

Lúc ấy đơn kiện của họ Phùng cũng vừa gởi tới, anh em con cháu nhà họ Tăng đều bị bắt. Chỉ có Trung chạy thoát, tới Tam Bạc chần chừ mãi ngoài cổng vì sợ anh nhớ thù xưa. Gặp lúc Hữu Vu dắt con lớn và cháu đi thi về, nhìn thấy ngạc nhiên nói "Sao em lại tới đây?". Trung quỳ mọp ven đường, Hữu Vu càng hoảng sợ nắm tay dắt vào nhà, hỏi biết sự tình kinh sợ nói "Làm thế nào bây giờ, cả nhà đều phạm tội. Ta đã biết có họa này từ lâu, nếu không thì đâu trốn lánh thế này. Anh xa nhà đã lâu, không có giao thiệp gì với quan huyện, nay cho dù có khúm núm tới đó cũng chỉ chuốc lấy cái nhục mà thôi. Có điều cha con họ Phùng tuy bị thương nặng nhưng không chết, nếu ba người chúng ta có ai may mắn thi đỗ thì tai họa này có thể gỡ ra một chút". Rồi giữ Trung lại, ngày ăn cùng mâm, đêm nằm cùng chiếu, Trung rất cảm động. Ở đó hơn mười ngày lại thấy chú cháu Hữu Vu thân thiết như cha con, anh em đều như một mẹ, buồn rầu sa nước mắt nói "Nay em mới biết ngày trước mình làm quấy". Hữu Vu thấy Trung tỉnh ngộ hối hận cũng vui mừng, đối xử rất chu đáo. Chợt có tin báo cha con Hữu Vu đều thi đỗ Cử nhân, Tổ cũng đỗ Tú tài, cả mừng không dự ăn yến mừng các vị tân khoa, trở về cúng mộ cha mẹ trước.

Cuối thời Minh khoa bảng rất được coi trọng, bọn nhà họ Phùng vì thế đều nín hơi. Hữu Vu lại nhờ bạn bè đưa vàng lụa tới cho họ lo thuốc men, việc kiện tụng bèn dứt. Cả nhà họ Tăng đều khóc, xin Hữu Vu quay về làng ở. Hữu Vu bèn cùng anh em đốt hương lập lời thề, ai nấy đều theo đó sửa mình rồi dời nhà về. Tổ theo chú không muốn về nhà, Hiếu bèn nói với Hữu Vu rằng “Ta thiếu đức, lẽ ra không được có đứa con làm rạng rỡ dòng họ như thế, em lại khéo dạy bảo, xin cứ cho theo ý nó gởi lại nhờ em, sau này có khá hơn thì cho nó về". Hữu Vu theo lời, ba năm sau quả nhiên Tổ thi đỗ Cử nhân, Hữu Vu bảo dời về ở với cha mẹ, vợ chồng đều khóc ròng ra đi. Được vài tháng, Tổ có đứa con mới ba tuổi cứ trốn tới nhà Hữu Vu không chịu về, đuổi bắt đưa về thì chạy trốn. Hiếu bèn dời nhà tới ở cạnh Hữu Vu, Tổ thì mở cửa bên vách thông qua nhà chú, qua lại thăm hỏi hai nhà như nhau. Từ đó Thành cũng dần già yếu, việc trong dòng họ giao cho Hữn Vu quyết, vì vậy môn hộ đều yêu thương nhau, nổi tiếng là hiếu hữu.

Dị Sử thị nói: Trên đời chỉ có cầm thú là biết có mẹ mà không biết có cha, sao những nhà đọc sách cũng theo vết ấy? Phàm việc xử sự trong gia đình cũng dần dần thành nếp cho con cháu, ăn sâu vào xương tủy, nên người xưa nói "Cha giết người trả thù thì con ắt làm ăn cướp", thói xấu lưu truyền nghĩ cũng đúng thôi. Hiếu tuy bất nhân, đã bị báo ứng thê thảm nhưng rốt lại có thể tự biết mình thiếu đức, gởi con cho em, nên mới có đứa con nóng lòng lo sợ tai họa như thế, nếu nói là chuyện quả báo thì sai lắm.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 54 - 55 -
Công Tử ở Gia Bình
(Gia Bình Công Tử)

Công tử Mỗ ở đất Gia Bình phong tư tuấn tú, năm mười bảy mười tám tuổi lên quận thi khoa Đồng tử, tình cờ đi ngang kỹ viện nhà họ Hứa. Ngoài cổng có một cô gái đẹp, công tử nhìn chằm chằm, nàng mỉm cười gật đầu, công tử vui vẻ tới gần trò chuyện. Cô gái hỏi chỗ trọ ở đâu, công tử nói rõ, nàng lại hỏi có ai ở cùng không, công tử đáp không. Nàng liền nói “Tối nay thiếp sẽ tới thăm, đừng để ai biết”. Công tử gật đầu rồi về, bảo gia nhân đi hết qua nơi khác. Tối quả cô gái tới, tự nói tiểu tự là Ôn Cơ, lại nói "Thiếp hâm mộ công tử phong lưu nên trốn bà chủ tới đây, phận hèn rất muốn được hầu hạ công tử trọn đời". Công tử cũng mừng rỡ, hẹn sẽ đem món tiền lớn chuộc nàng ra khỏi kỹ viện, từ đó cứ hai ba hôm nàng lại tới một lần.

Một đêm nàng đội mưa tới, vào cửa rồi cởi chiếc áo ngoài bị ướt mắc lên giá, lại cởi chiếc hài nhỏ ở chân xin công tử gột giùm bùn đất cho. Công tử nhìn chiếc hài thấy là loại gấm mới năm màu, dính bùn bê bết cả, lấy làm tiếc. Cô gái nói "Không phải thiếp dám lấy việc hèn hạ bắt công tử phục dịch, chỉ là muốn công tử biết mối tình si của thiếp thôi”. Nghe ngoài song tiếng mưa vẫn rả rích không ngớt, bèn ngâm "Thê phong lãnh vũ mãn giang thành” (Gió buồn mưa lạnh ngập giang thành), rồi xin công tử nối vần. Công tử từ chối nói không làm được, nàng nói “Công tử là một người như thế, mà không biết chuyện phong nhã, làm thiếp mất cả hứng". Nhân khuyên công tử cố gắng học tập, công tử vâng dạ.

Sau nàng thường lui tới nên đám gia nhân đều biết, công tử có người anh rể họ Tống cũng là con nhà thế gia nghe biết chuyện, lén xin công tử cho gặp Ôn Cơ một lần. Công tử nói lại nhưng nàng nhất định không chịu. Tống bèn tới rình trong phòng gia nhân, chờ nàng tới núp ngoài cửa sổ nhìn trộm, thấy say mê đến phát điên bèn xô cửa sấn vào, cô gái đứng dậy leo qua tường đi mất. Tống càng hâm mộ, bèn sắm sửa lễ vật tới gặp bà chủ nêu đích danh Ôn Cơ xin gặp, thì đúng là ở đó có Ôn Cơ song đã chết lâu rồi. Tống kinh ngạc về nói với công tử, công tử mới biết nàng là ma nhưng trong lòng vẫn yêu mến. Đêm nàng tới, công tử kể lại lời Tống, cô gái nói “Đúng thế, nhưng chàng muốn có vợ xinh đẹp, thiếp cũng muốn có chồng tuấn tú, ai cũng thỏa nguyện thì bàn làm gì chuyện người hay ma", công tử cho là đúng.

Thi xong trở về, cô gái cũng về theo, người khác không ai nhìn thấy nàng mà chỉ công tử nhìn thấy. Về tới nhà, công tử để nàng ở trong phòng khách rồi cũng ngủ một mình ở đó, cha mẹ đều ngờ vực. Khi cô gái về thăm nhà công tử mới nói riêng với mẹ. Cha mẹ cả sợ, bắt công tử tuyệt tình với nàng, công tử không nghe, hai ông bà lo lắng, tìm đủ cách trừ ếm mà không được. Một hôm, công tử có tờ thiếp răn bảo gia nhân đặt ở bàn, trong đó nhiều chữ viết sai như "tiêu” viết thành "thúc", “khương”, viết thành "giang", "khả hận" viết thành "khả lãng". Cô gái đọc thấy, viết thêm vào phía dưới rằng "Hà sự khả lãng, Hoa thúc sinh giang, Hữu tế như thử, Bất như vi xướng" (Việc gì "đáng sóng", "Hoa thúc sinh giang", Có chồng như thế, Làm đĩ còn hơn)*, rồi giã từ công tử, nói "Thiếp lúc đầu cho rằng công tử là văn nhân nhà thế gia nên mặt dày tự theo về, không ngờ chỉ có cái mẽ ngoài, chỉ biết xét người theo dung mạo thế này liệu tránh khỏi thiên hạ chê cười không?” nói xong biến mất. Công tử tuy xấu hổ căm hờn nhưng cũng không hiểu nàng viết gì, cứ đem tờ thiếp ra răn bảo gia nhân, người nghe được kể cho nhau nghe để cười.

*Việc gì... còn hơn: “khả lãng” tức "khả hận” (đáng giận), “hoa thúc" tức "hoa tiêu” (tiêu xanh), “sinh giang" tức "sinh khương” (gừng sống), vì công tử dốt nên viết sai, thành ra tối nghĩa, Ôn Cơ nhại lại để mỉa.

Dị Sử thị nói:Ôn Cơ là một cô gái khá, mà đường đường một vị công tử thế kia sao lại bề trong chỉ có bấy nhiêu thôi? Đến như hối hận “làm đĩ còn hơn" thì thê thiếp của công tử phải thẹn thùng sa nước mắt vậy. Nghĩ lại hàng trăm cách đuổi vẫn không đi, nhưng thấy tấm thiếp liền biến mất, thì câu "hoa thúc sinh giang” có khác gì việc đọc câu thơ “Đầu lâu Tử Chương" của Tử Mỹ* đâu!

* Việc đọc câu thơ... Tử Mỹ: tháng 4 năm Thượng Nguyên thứ 2 (76a) Thứ sử Tử Châu Đoàn Tử Chương làm phản đánh úp Tiết độ sứ Đông Xuyên Lý Trị ở Cẩm Châu, tự xưng là Lương vương, đặt niên hiệu là Hoàng Long, đổi Cẩm Châu làm phủ Hoàng Long, đặt bách quan. Tháng 5 Thành Đô doãn Thôi Quang Viễn đem tướng 1à Hoa Kính Định đánh Cẩm Châu, chém được Tử Chương. Đỗ Phủ nhân viết bài Hoa liễu ca, trong có câu "Tử Chương xúc lâu huyết mô hồ" (Đầu lâu Tử Chương máu bê bết). Cổ kim thi thoại chép về sau có người bị sốt rét, Đỗ Phủ bảo "Đọc thơ của ta thì khỏi", nhân dạy người ấy đọc câu thơ nói trên, quả nhiên người ấy khỏi bệnh. Đây ý nói thơ văn hay dở có ảnh hưởng tới người khác.

55. Miêu Sinh
(Miêu Sinh)


Cung sinh người Dận Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lên Tây An (tỉnh Thiểm Tây) dự thi, nghỉ lại ở quán gọi rượu uống một mình. Chợt có một người đàn ông to lớn bước vào, ngồi xuống cùng trò chuyện, sinh nâng chén mời. Khách cũng không từ chối, tự nói tên là Miêu sinh, lời lẽ rất thô hào, sinh cho là không biết văn chương, đối xử rất ngạo mạn, uống hết rượu không gọi thêm nữa. Miêu nói "Bọn học trò uống rượu làm người ta phát chán" rồi đứng lên bước ra quầy bỏ tiền mua rượu, xách một vò lớn bước vào. Sinh chối từ không uống nữa, Miêu nắm tay mời mọc, tay sinh đau buốt như sắp gãy, bất đắc dĩ phải cạn thêm vài chén. Miêu lấy tô đựng canh múc rượu uống, cười nói "Ta không biết mời khách, uống nữa hay thôi thì tùy ông".

Sinh mang hành lý ra đi, được vài dặm thì con ngưa bị bệnh khuỵu xuống lăn ra đường, sinh ngồi đợi ven đường, hành lý nặng nề không biết làm sao. Kế Miêu tới hỏi biết chuyện, bèn đưa hành lý cho đầy tớ, vác con ngựa lên vai đi hơn hai mươi dặm mới tới quán trọ, bỏ ngựa vào chuồng, hồi lâu chủ tớ sinh mới tới. Sinh kinh ngạc cho là thần nhân, đối xử rất ân cần lễ phép, gọi lấy cơm rượu cùng ăn uống. Miêu nói “Ta ăn khỏe lắm, ông không cho ăn no nổi đâu, nhưng uống rượu thì được". Uống cạn một vò rồi đứng lên giã từ, nói "Ông chữa bệnh cho ngựa cũng phải mất ngày giờ, ta không chờ được, bây giờ xin đi".

Sau đó thi xong, sinh cùng ba bốn người bạn lên chơi Hoa Sơn, trải chiếu ra đất bày tiệc. Vừa ngồi vào uống rượu cười nói thì Miêu chợt tới, tay trái xách vò rượu lớn, tay phải cầm cái đùi heo, ném xuống chiếu nói “Nghe tin các vị lên chơi, xin tới hầu hạ", mọi người đứng lên chào hỏi, kế cùng ngồi xuống uống rượu rất vui vẻ. Mọi người định làm thơ liên cú, Miêu giành nói “Uống rượu rất vui, cần gì phải nghĩ ngợi cho buồn rầu?”. Mọi người không nghe, bày lệ ai không làm được thơ thì bị phạt uống rượu. Miêu nói "Ai làm thơ không hay thì phải xử theo quân pháp". Mọi người cười nói "Tội ấy thì không đến nỗi bị trị như thế”. Miêu nói "Nếu không bị giết thì ta tuy là kẻ vũ phu cũng làm được".

Người ngồi đầu tiệc là Cấn sinh đọc "Tuyệt hiến bàng lâm nhãn giới không" (Lên ngắm non cao mắt trống không). Miêu ứng khẩu đọc tiếp ngay rằng “Thóa hồ kích khuyết kiếm quang hồng" (Gõ hồ hát lớn ánh gươm hồng). Mọi người trầm ngâm hồi lâu, Miêu bèn nghiêng vò tự rót rượu uống, hồi lâu cả bọn mới đọc nối theo thành bài, ý thơ quê mùa bỉ lậu. Miêu gọi nói “Thế là được rồi, đừng dọa ta nữa", mọi người không nghe. Miêu không nhịn được nữa vùng dậy quát lên như tiếng rồng ngâm vang dội cả hang núi, lại ngẩng đầu múa điệu sư tử, mọi người tứ thơ đều rối loạn mới thôi không làm nữa. Kế lại rót rượu uống tiếp, đến lúc ngà ngà khách lại đọc những bài làm trong trường thi để tâng bốc nhau. Miêu không muốn nghe, lôi sinh ra ngoài vật tay, đã mấy phen phân thắng phụ mà đám kia còn ngâm đọc tán tụng không thôi. Miêu lớn tiếng nói "Ta đã nghe cả rồi, loại văn chương ấy chỉ đáng đem về đọc cho vợ nghe trong phòng, chứ trước chỗ đông người mà cứ lải nhải thì đáng chán lắm".

Mọi người hổ thẹn, lại thêm ghét Miêu thô mãng, càng cao giọng ngâm nga. Miêu càng tức giận, nằm phục xuống đất gầm lớn, lập tức biến thành con cọp xông vào vồ chết cả bọn rồi gầm thét bỏ đi, những người còn sống chỉ có sinh và Cấn. Khoa ấy Cấn đỗ Cử nhân, ba năm sau lại qua Hoa âm (tỉnh Sơn Đông), chợt gặp Kê sinh, cũng là kẻ bị cọp giết trên núi, cả sợ định bỏ chạy. Kê nắm dây cương ngựa, Cấn không chạy được bèn xuống ngựa hỏi định làm gì. Kê đáp "Ta nay làm ma trành của Miêu sinh, theo hầu hạ rất khổ, phải giết một người học trò để thay. Ba ngày nữa sẽ có một người mặc áo đội mũ nhà nho bị cọp vồ dưới núi Thương Long, là người thay ta đấy. Hôm ấy ông nên mời các bậc văn sĩ tới đó để mưu việc giùm bạn cũ”. Cấn không dám nói gì, kính cẩn gật đầu rồi chia tay.

Tới nơi ngụ suy nghĩ suốt đêm không biết làm sao để giúp bèn quyết ý nuốt lời, mặc kệ con ma. Chợt có người anh bên ngoại là Tưởng sinh tới, Cấn thuật lại chuyện lạ. Tưởng là kẻ danh sĩ, trong huyện có Vưu sinh đi khảo thí được điểm cao hơn mình nên ngấm ngầm ghen ghét. Hôm ấy nghe Cấn nói, ngầm có ý hại Vưu bèn gởi thư mời Vưu hôm ấy lên núi chơi, tự mình mặc áo trắng tới đó. Vưu không hiểu ý, hôm ấy lên tới giữa núi thấy rượu thịt đã bày đủ, trò chuyện rất thân mật lễ phép. Gặp lúc quan Thái thú lên núi, Thái thú vốn là thông gia với Tưởng, nghe nói Tưởng ở dưới sai người xuống mời lên. Tưởng không dám mặc áo trắng lên gặp, bèn đổi áo mão với Vưu, vừa mặc áo nhà nho vào xong thì cọp phóng ra vồ Tưởng mang đi mất.

Dị Sử thị nói:Kẻ đắc ý hào hứng cho tay vào tay áo bắt người khác phải nghe, người nghe thì mỏi mệt buồn ngủ muốn bỏ đi, mà người đọc cứ khoa chân múa tay không tự biết. Những người biết cũng nên kéo tay giẫm chân, sợ rằng trên tiệc có người không nhịn được như Miêu sinh vậy. Còn kẻ ghen ghét đổi áo mà chết, thì biết Miêu sinh cũng là kẻ vô tâm thôi, nhưng gầm thét nổi giận thì Miêu mà không phải là Miêu vậy.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 56 - 62
Em Lấy Chồng Thay Chị
(Tỷ Muội Dịch Giá)

Tướng quốc họ Mao*ở huyện Dịch (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ nhà nghèo, cha phải đi chăn trâu cho người ta. Lúc ấy nhà thế tộc họ Trương trong huyện có khu mộ ở sườn núi phía đông, có người đi qua nghe trong phần mộ có tiếng quát tháo "Các ngươi phải đi ngay, không được ở lâu trong ngôi đất của quý nhân". Trương nghe kể cũng chưa tin lắm, kế chợt nằm mơ thấy thần nói “Khu mộ của gia đình ngươi vốn là ngôi đất quý của ông Mao, sao lại mượn lâu thế?". Từ đó trong nhà liên tiếp gặp mấy chuyện rủi ro, có người môn khách khuyên nên dời mộ qua nơi khác thì hay, Trương nghe theo bèn cải táng.

*Tướng quốc họ Mao: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Tự, tự Duy Chi, thi đỗ Giải nguyên năm Bính ngọ niên hiệu Thành Hóa thời Minh (1486), thi đỗ Tiến sĩ năm Đinh mùi (1487), làm quan tới chức Cẩn Thân điện Đại học sĩ, chết được truy tặng hàm Thái bảo.

Một hôm cha Tướng quốc đi chăn trâu, ra tới khu mộ cũ nhà họ Trương thì trời chợt mưa lớn, bèn núp dưới huyệt mộ cũ. Kế mưa càng lớn như trút, nước tràn xuống huyệt, đất lở sụp xuống nên chết đuối dưới đó. Lúc ấy Tướng quốc còn là trẻ con, bà mẹ bèn tới nhà Trương xin cho vài thước đất chôn cha đứa nhỏ. Trương hỏi biết họ tên lấy làm lạ, tới xem nơi cha ông chết thì thấy đất nổi lên như cái gò, càng thêm hoảng sợ bèn cho chôn luôn ở đó, lại bảo dắt đứa nhỏ tới. Chôn cất xong bà mẹ dắt con tới nhà Trương tạ ơn, Trương vừa nhìn thấy đã mừng rỡ, giữ lại ở nhà mình dạy cho học, coi như con cháu, lại xin gả con gái lớn cho. Bà mẹ sợ hãi không dám đáp, vợ Trương nói "Nếu đã nói ra thì không giữa chừng thay đổi đâu” bà mẹ bèn ưng thuận.

Nhưng con gái lớn Trương rất coi thường nhà họ Mao, oán hận hổ thẹn hiện ra nét mặt, nếu có ai nhắc tới chuyện đó thì bịt tai không thèm nghe, thường nói với người ta rằng "Ta thà chết chứ không lấy thằng chăn trâu”. Đến hôm làm lễ rước dâu, chàng rể đã vào ăn tiệc, kiệu hoa chờ ngoài cửa mà cô gái cứ lấy tay áo che mặt quay vào vách khóc lóc, giục trang điểm thì không chịu, khuyên giải mấy cũng không nghe. Kế chàng rể xin về, đàn sáo đã trỗi mà cô gái mắt còn ngấn lệ, tóc còn rối tung. Cha nàng bèn ngăn con rể lại, tự vào trong khuyên cô gái, nàng cứ khóc lóc như không nghe thấy, cha nổi giận lôi kéo càng khóc lớn, cha không biết làm sao.

Lại có người nhà vào thưa là chàng rể muốn lên đường, cha vội chạy ra nói "Áo quần còn chưa sắp xếp xong, xin con chờ thêm một lúc", rồi lại lập tức chạy vào xem con gái ra sao, chạy ra chạy vào không nghỉ chân. Dằng dai thêm một lúc, việc càng gấp rút, cô gái rốt lại vẫn không chịu đổi ý, cha không biết làm sao, định tự tử. Cô con gái thứ hai đứng bên cạnh, cho là chị làm thế rất không phải, ra sức khuyên lơn. Chị giận nói “Con nhãi cũng học đòi múa mép, sao ngươi không lấy người ta đi?," Cô em nói “Cha vốn chưa từng hứa gả em cho chàng Mao, chứ nếu cha hứa gả em cho chàng thì không cần chị phải khuyên dỗ đâu!”

Cha thấy lời nàng khẳng khái hào sảng bèn cùng mẹ nàng bàn riêng, định lấy em thay chị. Mẹ lập tức gọi nàng hỏi “Con nhãi ngỗ nghịch kia không vâng lời cha mẹ, cha mẹ mượn lấy con thay nó, con có chịu không?". Cô gái khẳng khái thưa "Cha mẹ dạy con đi lấy chồng, giả như chồng là ăn mày cũng không dám từ chối, vả lại chắc gì chàng họ Mao đã phải đói rét mà chết đâu?". Cha mẹ nghe thế cả mừng, bèn lấy quần áo cưới của chị cho cô gái mặc, rồi vội đưa nàng lên kiệu đi. Về tới nhà chồng, vợ chồng rất yêu thương nhau, nhưng cô gái có bệnh rụng tóc cứ nơm nớp lo ông chê, lâu sau ông nghe phong thanh chuyện tráo người nên lại càng cám ơn nàng là kẻ tri kỷ.

Không bao lâu, ông được lấy làm Giám sinh, đi dự thi hương, đường đi ngang qua quán trọ của Xá nhân họ Vương. Đêm trước chủ quán nằm mơ thấy thần nói "Sáng mai sẽ có Thủ khoa họ Mao tới đây về sau sẽ giúp ngươi thoát được tai ách", vì vậy dậy sớm ra đứng chờ những khách từ phía đông vào. Đến khi gặp ông mừng lắm, cung phụng hầu hạ rất kính trọng, không chịu nhận tiền trọ, lấy việc giấc mộng ra kể, coi đó là trách nhiệm của mình. Ông cũng rất tự phụ, nghĩ thầm vợ mình rụng trụi cả tóc, sợ bị những người quyền quý chê cười, định là lúc thi đỗ xong sẽ cưới vợ khác. Kế đó ra bảng thì ông thi rớt, than thở rằng mình lận đận, trong lòng chán nản, thầm hổ thẹn với chủ quán trọ bèn đi đường khác về nhà.

Ba năm sau lại đi thi, chủ quán trọ vẫn tiếp đãi nồng hậu như trước. Ông nói "Lời ông nói lần trước không đúng, ta rất xấu hổ được đối xử như thế này". Chủ quán nói "Tú tài vì ngầm muốn bỏ vợ nên bị âm ty đánh rớt, đâu phải ta mơ mộng quàng xiên". Ông kinh ngạc hỏi, thì ra sau khi chia tay chủ quán lại nằm mơ thấy thần nói thế. Ông nghe kể áy náy hối hận, đứng thừ ra như tượng gỗ. Chủ quán trọ nói "Tú tài nên tự giữ mình, rồi thế nào cũng đỗ Thủ khoa mà”. Không bao lâu quả nhiên ông đỗ Thủ khoa, tóc phu nhân cũng dần dần dài ra, ngày thêm mượt mà, càng xinh đẹp hơn.

Người chị thì lấy chồng là con nhà giàu trong làng, càng thêm kiêu hãnh, nhưng chồng chơi bời lêu lổng, nhà dần dần sa sút, đến nỗi trong nhà không còn gì, dưới bếp không nổi lửa. Nghe nói em gái đã là vợ Hiếu liêm càng thêm xấu hổ, đi đường gặp em là tránh mặt. Không bao lâu người chồng chết, nhà càng nghèo túng, kế đó ông Mao lại thi đỗ Tiến sĩ, người chị nghe thấy vô cùng hối hận, uất ức xuống tóc vào chùa làm ni cô. Đến khi ông được phong chức Tể tướng về thăm nhà, ni cô ép lòng sai đệ tử tới phủ Tể tướng khuyến hóa, có ý chờ ông tặng tiền bạc. Tới nơi thì phu nhân lấy vải vóc the lụa như thường lệ đưa cho, nhưng ngầm gói vàng bên trong. Người đệ tử không biết, đem gói vải về đưa thầy, thầy thất vọng bực tức nói "Cho tiền bạc thì còn có thể mua củi gạo, chứ những thứ quà biếu này thì ta cần gì", rồi sai đem trả lại.

Ông Mao và phu nhân ngờ vực đến khi mở ra xem thì vàng đều còn đó, mới hiểu ý người chị từ chối. Phu nhân bèn cất vàng đi, cười nói "Thầy của ngươi có hơn trăm lượng vàng cũng không giữ được, làm sao có phúc lấy quan Thượng thư nhà ta?". Rồi lấy năm mươi lượng vàng đưa cho người đệ tử đem về, dặn "Đem về đưa cho thầy ngươi chi dùng, nhiều hơn thì sợ là kẻ ít phúc không nhận nổi đâu”. Người đệ tử về kể hết mọi chuyện với thầy, người chị im lặng thầm than thở, nghĩ thấy những việc mình làm lúc trước đều dại dột, lẫn lộn người hay kẻ dở. Ôi, há có phải chỉ do người thôi đâu? Về sau chủ quán trọ dính líu vào việc án mạng bị bắt giam, nhờ ông Mao ra sức giúp đỡ mà được khỏi tội.

Dị Sử thị nói:Khu mộ cũ nhà ông Trương lại là ngôi đất quý của họ Mao, kể cũng lạ thật. Ta nghe người thời ấy có vở tuồng Chồng cô chị thành chồng cô em, Giải nguyên trước thành Giải nguyên sau, đó há phải là những người khôn ngoan tinh ranh bịa đặt mà viết ra được đâu? Than ôi, trời xanh kia lâu lắm không ai hỏi được, sao lại có ông Mao, nhân quả báo ứng mau lẹ như thế!



057. Sư Tây Vực



(Phiên Tăng)




Sư Thể Không kể lúc ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) gặp hai nhà sư Tây Vực trạng mạo cổ quái, tai đeo vòng, mặc áo vàng, râu tóc xoăn tít, nói là ở Tây Vực tới, nghe quan Thái thú chuộng đạo Phật nên tới yết kiến. Thái thú sai hai người lính đưa tới ở chùa, Hòa thượng Linh Bí ở đó coi thường, người quản lý trong chùa thấy tướng mạo họ kỳ lạ nên đứng ra khoản đãi giữ lại ngủ. Có người hỏi “Tây Vực có nhiều bậc dị nhân, chắc các vị La Hán đây cũng có phép lạ chứ?”. Một người mỉm cười rút từ tay áo ra một cái tháp nhỏ cao khoảng một thước long lanh rất đẹp. Chỗ cao nhất trên vách có cái kệ nhỏ, nhà sư ném cái tháp lên, cái tháp nghiễm nhiên đứng thẳng không hề nghiêng ngửa, trên ngọn tháp có viên ngọc xá lỵ phóng ra ánh sáng chiếu sáng cả phòng. Giây lát nhà sư lấy tay vẫy, cái tháp lại rơi vào lòng bàn tay. Nhà sư kia trật vai áo duỗi cánh tay trái ra, thấy dài tới sáu bảy thước, còn cánh tay phải không thấy đâu nữa, lại chuyển qua duỗi cánh tay phải ra thì cánh tay trái cũng rút vào không thấy đâu.





058. Tư Giám Họ Lý



(Lý Tư Giám)




Tư giám Lý Vĩnh Niên là Cử nhân, ngày hai mươi tám tháng chín năm Khang Hy thứ 4 (1665) đánh vợ là Lý thị chết, địa phương báo lên quan, quan trên sức về cho huyện tra xét. Tư giám đang đứng trước phủ, chợt rút một con dao trên giá chạy vào miếu Thành hoàng, lên thẳng trên gác quỳ xuống trước bàn thờ nói “Thần trách ta nghe lời kẻ gian làm điên đảo thị phi trong làng xóm, nên cắt tai ta”. rồi tự cắt rụng vành tai trái ném xuống dưới gác. Lại nói "Thần trách ta nhận tiền của người, nên chặt tay ta", rồi tự chặt bàn tay trái. Lại nói "Thần trách ta gian dâm với phụ nữ, nên thiến dái ta", rồi tự thiến dái, ngã quay ra chết cứng. Lúc ấy quan Tổng đốc Chu Vân Môn gởi bản tâu hặc tội Lý, xin triều đình cách chức luận tội, vừa có chỉ dụ gởi xuống thì Lý đã bị âm ty trừng phạt rồi. Việc này xem ở để báo*.




* Để báo: một loại công báo của triều đình dùng để thông báo tin tức cần thiết cho quan lại các địa phương thời Thanh.





059. Bảo Trú



(Bảo Trú)




Phiên vương Ngô Tam Quế lúc chưa làm phản* thường ra lệnh cho tướng sĩ rằng ai một mình tay không bắt sống được cọp sẽ được cấp bổng hạng nhất, tặng danh hiệu Đả hổ tướng. Trong các viên tướng ấy có một người tên Bảo Trú, khỏe mạnh nhanh nhẹn như khỉ, lúc trong vương phủ xây ngôi lầu cao, xà vừa gác lên, Trú men theo góc lầu mà lên, trong giây lát đã tới trên nóc, đứng trên xà chạy đi chạy lại mấy lần, kế lại co người nhảy xuống đứng thẳng dưới đất. Vương có người ái cơ giỏi đánh đàn tỳ bà, chiếc đàn nàng dùng lấy noãn ngọc làm chốt lên dây, cầm lên là cả phòng ấm hẳn. Người thiếp quý báu cất kỹ, nếu không phải vương ra lệnh thì không đem ra cho ai thấy. Một đêm ăn yến, khách có người xin được xem vật lạ một lần, vương đang mỏi mệt nên hẹn để hôm sau. Lúc ấy Trú đang ở bên cạnh nói "Không cần vương gia phải ra lệnh, thần có thể lấy được".




*Phiên vương... làm phản: Ngô Tam Quế 1à người thời Minh, 1àm tướng giữ Sơn Hải quan. Khi Lý Tự Thành diệt nhà Minh, Ngô Tam Quế mở cửa quan mời quân Mãn Châu vào Bắc Kinh đánh Lý Tự Thành. Quân Mãn Châu nhân đó chiếm đóng Trung Quốc, lập ra nhà Thanh, phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương trấn thủ Vân Nam, Cảnh Tinh Trung làm Tĩnh Nam vương trấn thủ Phúc Kiến và Thượng Khả Hỷ làm Bình Nam vương trấn thủ Quảng Đông, hơp xưng là Tam phiên (Ba phiên vương). Về sau vua Khang Hy nhà Thanh triệt phiên, Tam phiên làm phản, lần lượt bị tiêu diệt.




Vương bèn sai người báo khắp trong ngoài vương phủ, ra lệnh phòng bị nghiêm cẩn rồi sai Trú đi lấy. Trú vượt qua mười mấy lần tường mới vào tới chỗ người ái cơ của vương ở, thấy đèn trong phòng sáng choang mà của nẻo khóa chặt không vào được. Dưới hành lang có cái lồng nuôi chim vẹt, Trú giả tiếng mèo kêu, kế lại giả tiếng vẹt kêu ầm lên là có mèo tới, lại làm ra tiếng vỗ cánh phành phạch rất gấp. Nghe người ái cơ nói “Lục Nô ra ngay xem, con vẹt bị mèo vồ chết rồi", Trú liền nép vào góc tối. Giây lát có một cô gái khêu đèn lách ra, Trú nhân đó lẻn vào, thấy người ái cơ đang cầm chiếc đàn tỳ bà ngồi trên ghế liền xô vào giật lấy bỏ chạy. Người ái cơ hoảng sợ la lớn giặc tới, đám quân canh gác đổ cả ra, thấy Trú ôm đàn chạy nhưng đuổi theo không kịp, bắn tên rào rào như mưa. Trú nhảy lên gốc cây, dưới tường vốn có cây hòe lớn, Trú chuyền qua cành cây như chim chuyền cành, hết gốc cây lên tới gác, hết gác lên tới lầu, chuyền vào trong điện như có cánh, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Khách còn đang uống rượu, Trú ôm chiếc đàn phi thân vào đứng trước tiệc, cửa vẫn đóng chặt như cũ, không hề có tiếng gà kêu chó sủa.





060. Nạn Lụt



(Thủy Tai)




Năm Khang Hy thứ 21 (1682) đại hạn, từ xuân qua hạ đất khô cháy không còn cọng cỏ nào xanh. Ngày mười ba tháng sáu có cơn mưa nhỏ mới có kẻ trồng bắp, ngày mười tám thì mưa lớn ngập bàn chân, người ta mới trồng đậu. Một hôm ở trang Thạch Môn (tỉnh Chiết Giang) có ông già lúc chiều tối nhìn thấy hai con trâu húc nhau trên núi, nói với người trong thôn rằng "Sắp có lụt lớn" rồi lập tức dắt gia đình đi tránh, người trong thôn đều cười. Không bao lâu mưa đổ ào ào từ đêm đến sáng không ngớt, trên đất bằng nước cao mấy thước, nhà cửa đều bị ngập hết. Có một nông dân bỏ hai đứa con lại, cùng vợ dìu cha mẹ chạy lên gò cao, nhìn xuống dưới thôn thì đã như cái đầm lớn, nghĩ không kịp quay về cứu con nữa. Khi nước đã rút trở về, thấy cả thôn đã thành bãi hoang, vào nhà thấy một gian phòng còn nguyên mà hai đứa con đều ngồi trên giường cười đùa không hề hấn gì. Có người nói đó là trời thương cho hai vợ chồng có hiếu, đó là việc ngày hai mươi tháng sáu.




Năm Khang Hy thứ 34 (1695) ở Bình Dương có động đất, nhân dân mười phần chết hết bảy tám, thành quách đều sụp đổ chỉ còn một căn nguyên vẹn là nhà một người con có hiếu. Giữa cơn đại kiếp mênh mang mà chỉ có những người con hiếu là không việc gì, ai bảo là ông trời kia không phân biệt được trắng đen?





061.Mỗ Giáp ở Chư Thành



(Chư Thành Mỗ Giáp)




Học quan tiên sinh Tôn Cảnh Hạ nói trong huyện có Mỗ Giáp, gặp lúc có giặc bị chém, đầu rơi xuống trước ngực. Khi giặc rút đi người nhà tìm được xác, đang định đem chôn thì nghe còn hơi thở, nhìn kỹ thấy cổ họng còn một khoảng bằng ngón tay chưa đứt, bèn nâng đầu lên giữ lại cho đúng chỗ rồi khiêng về. Qua một ngày một đêm thì bắt đầu rên rỉ, người nhà lấy thìa đút cháo cho, nửa năm thì lành. Hơn mười năm sau, Giáp cùng hai ba người trò chuyện, có kẻ kể chuyện cười, mọi người cùng cười ầm lên, Giáp cũng vỗ tay. Đang lúc nghiêng ngửa thì vết thương cũ chợt toác ra, rơi đầu phun máu, mọi người cùng nhìn lại thì đã đứt hơi chết rồi. Cha Giáp đi kiện người kể chuyện, mọi người cùng góp tiền van xin, người cha bèn chôn Giáp mà không kiện nữa.




Dị Sử thị nói:Cười một trận mà rơi đầu, quả là chuyện cười hiếm có trong ngàn năm. Cổ họng liền lại không chết, để mười năm sau làm thành một vụ án cười, há không phải là kiếp trước hai ba người láng giềng kia mắc nợ y sao?




062. Đùa Giỡn Thắt Cổ



(Hý ải)
Mỗ người huyện ta là kẻ lông bông vô lại, tình cờ ra ngoài thôn thấy một thiếu phụ cưỡi ngựa đi tới bèn nói với bạn bè "Ta có thể làm nàng cười một trận". Mọi người không tin, đánh cuộc một bữa rượu. Mỗ bèn chạy lên trước ngựa kêu luôn mồm rằng "Ta muốn chết đây". Nhân thấy chỗ đầu tường có một miếng ván mỏng nhô ra, bề ngang hơn một thước bèn cởi dây lưng móc lên đó, thò cổ vào làm như sắp tự tử. Thiếu phụ đi qua nhìn thấy quả nhiên bật cười, bạn bè cũng đều cười rộ. Thiếu phụ đi xa rồi mà Mỗ vẫn bất động, mọi người càng cười dữ, nhưng tới gần xem thì đã thè lưỡi trợn mắt tắt hơi rồi. Treo cổ lên tấm ván mà chết há chẳng phải là chuyện lạ sao? Chuyện này đủ để răn bọn người khinh bạc vậy.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển IV - 63 -
A Tiêm
(A Tiêm)

Hề Sơn người huyện Cao Mật (tỉnh Sơn Đông) làm nghề buôn bán, thường qua lại vùng Mông Sơn, Nghi Thủy (đều thuộc tỉnh Sơn Đông). Một hôm dọc đường gặp mưa, tới được nhà trọ quen thì đã khuya, gõ cửa mãi mà không ai lên tiếng. Đang ngần ngừ dưới hiên thì hai cánh cửa chợt mở, một ông già bước ra mời vào. Sơn mừng theo vào, lần dò lên sảnh, trong sảnh không có giường ghế gì cả. Ông già nói “Ta thương khách không có chỗ nghỉ nên mời vào, chứ thật ra ta không phải là người mở hàng bán cơm. Nhà không có ai đỡ đần, chỉ có bà vợ già và đứa con gái nhỏ đã ngủ cả rồi. Cái ăn thì còn đủ nhưng không còn nóng lắm, đừng chê là nguội lạnh".

Nói xong vào trong, giây lát mang ra một cái chõng thấp đặt xuống đất mời khách ngồi. Lại trở vào mang ra một cái bàn con, đi lại tất bật trông rất vất vả. Sơn đứng ngồi không yên, giữ ông lại nói xin cứ nghỉ một lúc. Giây lát một cô gái mang rượu ra, ông già nói "Con A Tiêm nhà ta dậy rồi", nhìn thấy khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp yểu điệu, phong thái đoan trang. Sơn có em trai chưa vợ, cũng thầm có ý bèn hỏi thăm dòng dõi quê quán ông già. Ông đáp "Ta họ Cổ tên Sĩ Hư, con cháu đều chết yểu chỉ còn đứa con gái này nên không nỡ làm nó mất giấc ngủ ngon, chắc bà vợ ta gọi nó dậy đấy". Hỏi "Chồng cô em là ai?", ông đáp còn chưa hứa gả, Sơn mừng thầm. Kế thức ăn bày lên đủ thứ, như trong hàng cơm. Sơn ăn xong cung kính nói “Con người bèo nước, đội ơn thương tới, đến chết cũng không dám quên. Nhân thấy ông thịnh đức nên xin đường đột tỏ lời quê mùa. Ta có đứa em trai nhỏ là Tam Lang mười bảy tuổi theo nghiệp đèn sách, cũng không đến nỗi ngu tối, muốn cầu chỉ thắm xe duyên, không biết ông có chê nghèo hèn không". Ông già mừng nói "Lão phu ở đây cũng là ngụ cư, nếu nó có chỗ gửi thân, nhân mượn được túp lều dời đi chỗ khác thì cũng đỡ lo". Sơn đều xin vâng, đứng dậy vái tạ. Ông già ân cần sắp đặt chỗ ngủ cho khách đâu đó rồi vào.

Gà vừa gáy ông đã ra gọi khách dậy rửa mặt, Sơn gói hành lý xong đưa trả tiền cơm, ông già từ chối, nói "Khách ở lại dùng bữa cơm, không lý gì lại lấy tiền, hay định đưa tiền dẫn cưới đây?" Kế chia tay, hơn tháng sau Sơn quay lại, cách thôn hơn dặm thì thấy có bà già dắt một cô gái, khăn áo đều trắng, tới gần thấy như là A Tiêm. Cô gái cũng mấy lần nhìn Sơn rồi nắm áo bà già nói nhỏ gì đó, bà già liền dừng chân quay lại hỏi Sơn "Ông họ Hề phải không?” Sơn dạ dạ. Bà già buồn rầu nói "ông nhà ta không may bị tường đổ đè chết rồi. Hôm nay bọn ta định đi thăm mộ, ở nhà không có ai, xin đợi bên đường một lát sẽ trở lại ngay", rồi đi vào rừng.

Lát sau trở lại thì trời đã tối, bèn cùng đi về, nói chuyện mẹ góa con côi, bất giác mủi lòng thương khóc Sơn cũng bùi ngùi. Bà già nói "Dân ở đây rất không lương thiện, con côi mẹ góa khó sống nổi. A Tiêm đã là dâu nhà ông, để lâu nữa sợ chậm trễ ngày tháng, chẳng bằng khuya nay cùng đưa nhau về sớm", Sơn bằng lòng. Tới nhà, bà già khêu đèn dọn cơm đãi khách xong, nói với Sơn “Nghĩ là ông sắp tới nên đã bán thóc lúa cất trữ đi, chỉ còn hơn hai mươi thạch vì xa nên chưa bán được. Cách đây khoảng bốn năm dặm về phía bắc có ngôi nhà đầu xóm là nhà Đàm Nhị Tuyền là người vẫn mua thóc của ta. Xin phiền ông chịu khó mang một túi tới trước gọi cổng, cứ nói bà già họ Cổ ở xóm Nam có vài thạch thóc định bán lấy tiền đi đường, phiền cho lừa tới chở luôn một lúc", rồi đưa túi thóc cho Sơn. Sơn vội vàng đi ngay, tới nơi gõ cửa thì một người đàn ông bụng phệ ra, Sơn nói rõ rồi trút thóc về trước. Lát sau có hai người phu dắt năm con lừa tới, bà già dẫn Sơn tới chỗ chứa thóc, thì là một căn hầm. Sơn chui xuống cầm hộc xúc lên, mẹ con bà già chuyền cho nhau, chốc lát đầy túi đưa họ mang đi. Đi lại tới bốn lần mới chở hết thóc, kế họ đưa tiền đưa cho bà già, bà giữ lại một người và hai con lừa rồi thu xếp hành lý đi về phía đông. Được hai mươi dặm, trời mới sáng rõ, tới một khu chợ, thuê được ngựa xe ở đầu chợ, đầy tớ họ Đàm bèn quay về.

Về tới nhà, Sơn thưa lại với cha mẹ. Hai bên gặp nhau rất vui vẻ, bèn dọn một chỗ riêng cho bà già ở rồi chọn ngày lành làm lễ thành hôn cho Tam Lang, bà già sắm sửa tư trang cho con gái rất đầy đủ. A Tiêm hiền lành ít nói, ai trò chuyện chỉ mỉm cười, sớm tối lo dệt vải không ngừng, vì thế cả nhà ai cũng thương yêu. Nàng dặn Tam Lang "Nhớ dặn anh nếu có trở lại miền Tây thì đừng nói gì về mẹ con thiếp cả"

Được ba bốn năm, nhà họ Hề càng giàu có, Tam Lang được vào học trường huyện. Một hôm Sơn ghé trọ nhà láng giềng cũ của họ Cổ, tình cờ kể chuyện năm trước không có chỗ trọ, phải ngủ nhờ nhà ông bà già. Chủ nói "Ông khách lầm rồi, đó là căn nhà riêng của bác ta, trước đó ba năm người ở đó thường thấy chuyện quái dị nên bỏ hoang đã lâu, làm gì có ông bà già nào mà cho ông ngủ lại?". Sơn rất kinh ngạc nhưng chưa tin lắm. Chủ nhân lại nói "Khu nhà ấy bỏ không mười năm, không ai dám vào. Một hôm bức tường sau nhà bị sập, bác ta tới xem thì thấy đá đè lên một con chuột to như con mèo, khúc đuôi bên dưới còn quẫy, vội về gọi mọi người tới xem thì không thấy đâu nữa. Ai cũng nghi vật đó là yêu quái, hơn mười ngày sau vào xem thử thì yên ắng không thấy gì, hơn năm sau mới có người tới ở".

Sơn càng lấy làm lạ, về nói riêng với người nhà, trộm ngờ em dâu không phải là người. Lo thầm cho Tam Lang, nhưng Tam Lang vẫn hết lòng yêu quý vợ như thường. Lâu ngày người nhà xì xào bàn tán, cô gái thoáng nghe biết, nửa đêm nói với Tam Lang "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng có một lỗi nhỏ. Nay lại đặt chuyện để khinh rẻ, xin viết cho tờ ly hôn để chàng chọn một người vợ xứng đáng”, rồi rơi nước mắt. Tam Lang nói "Lòng ta thế nào thì nàng đã rõ. Từ ngày nàng về, nhà ngày một no đủ, vẫn nghĩ là nhờ phúc trạch của nàng, đâu lại còn điều này tiếng khác?". Nàng nói "Chàng vốn không hai lòng, thiếp há không biết sao? Nhưng nhiều người nói ra nói vào, e rồi không khỏi như chiếc quạt đến mùa thu bị bỏ xó”. Tam Lang khuyên giải mấy lần mới thôi. Nhưng Sơn vẫn không tha, ngày ngày cứ tìm mèo giỏi bắt chuột về để dò ý tứ. Cô gái tuy không sợ nhưng rầu rầu không vui.

Một đêm nói mẹ không khỏe, xin Tam Lang cho về săn sóc, sáng ra Tam Lang qua tìm thì trong phòng trống không, phát hoảng cho người đi tìm khắp nơi không thấy tung tích, bứt rứt bỏ ăn bỏ ngủ. Cha và anh lại đều lấy làm may, cùng vỗ về an ủi, định cưới vợ khác cho, nhưng Tam Lang nhất định không chịu. Chờ hơn một năm, tin tức vắng bặt, cha và anh cứ chế nhạo trách mắng, bất đắc dĩ phải bỏ nhiều tiền mua một người thiếp, mà lòng nhớ A Tiêm vẫn không nguôi. Lại vài năm nhà họ Hề nghèo dần, vì thế càng thương nhớ A Tiêm.

Có người em con chú Tam Lang là Lam nhân có việc tới huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), đường xa nghỉ lại nhà người họ hàng bên ngoại là Lục sinh, đêm nghe bên nhà láng giềng có tiếng khóc rất đau thương, cũng chưa rảnh hỏi thăm. Lúc quay về lại nghe thấy bèn hỏi, chủ nhân đáp “Mấy năm trước có người đàn bà góa và cô gái mồ côi thuê nhà ở đó. Tháng trước bà già mất, cô gái ở một mình không người thân thích nên khóc đó thôi”. Lam nhân hỏi họ, Lục đáp “Họ Cổ, thường đóng cửa không giao thiệp với làng xóm nên chưa rõ gia thế ra sao". Lam giật mình nói "Thế thì là chị dâu ta rồi”. Bèn qua gọi cửa thì có người nín khóc bước ra, đứng trong cửa nói “Nhà ta không có đàn ông đâu”. Lam nhìn qua khe cửa, từ xa ngắm kỹ thấy đúng là chị dâu liền nói "Chị mở cửa, em ở nhà chú A Toại đây". Cô gái nghe tiếng, mở cửa mời vào, kể lể tình cảnh lẻ loi khổ sở, lời lẽ rất bi thảm. Lam nói "Anh Tam Lang nhớ chị lắm, vợ chồng có gì trái ý đâu mà chị xa lánh tới tận đây", rồi lập tức định thuê xe cùng về. Cô gái buồn rầu nói "Ta vì bị người khinh rẻ mới đưa mẹ đi ẩn, nay lại trở về nương tựa người thì ai không khinh rẻ? Như muốn ta trở về thì phải cùng anh chia bếp, nếu không, ta chỉ còn nước uống thuốc độc tự vẫn cho rồi".

Lam về kể lại cho Tam Lang, Tam Lang lật đật đi ngay. Vợ chồng gặp nhau đều rơi lệ, hôm sau nói với chủ nhà xin về. Chủ nhà là Giám sinh họ Tạ thấy nàng đẹp, ngầm tính cưới nàng làm thiếp nên mấy năm không lấy tiền nhà, đã nhiều lần ngỏ ý với bà già nhưng bà cự tuyệt. Bà chết rồi, đang mừng mưu mình chắc xong thì Tam Lang chợt tới, bèn tính tiền nhà luôn trong mấy năm để làm khó. Nhà Tam Lang vốn không dư dật, nghe nói tiền nhiều có ý lo. Cô gái nói không sợ, rồi dẫn vào xem vựa thóc, khoảng hơn ba mươi thạch, trả tiền nhà rồi vẫn thừa. Tam Lang mừng nói với Tạ, Tạ không nhận thóc, cứ nhất định đòi tiền. Cô gái than "Trăm sự cũng vì nghiệp chung thân này", rồi kể lại tình thật. Tam Lang tức giận định kiện lên huyện. Lục bèn can, đem thóc chia bán cho người thân thích trong làng lấy tiền trả Tạ, rồi đem xe tiễn hai người về.

Tam Lang thưa với cha mẹ, xin cùng anh chia nhà ra để ở. A Tiêm bỏ tiền riêng, ngày ngày xây kho thóc mà trong nhà vẫn chưa có lấy được một thạch, ai cũng lấy làm lạ, nhưng hơn năm xem lại thì kho đã đầy. Không vài năm, nhà đã giàu có mà Sơn vẫn nghèo khổ. Nàng mời cha mẹ chồng về nuôi dưỡng và đem tiền gạo chu cấp cho anh, nhiều lần thành lệ. Tam Lang mừng nói “Nàng có thể nói là người không để tâm thù oán". Cô gái đáp “Cũng bởi anh ấy có lòng thương em trai. Nếu không có anh ấy, thiếp đâu được cùng chàng nên duyên?”. Về sau cũng không có chuyện gì lạ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 64 -
Thụy Vân
(Thụy Vân)

Thụy Vân là danh kỹ ở đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), nhan sắc tài nghệ vô song. Năm mười bốn tuổi bà chủ là mụ dầu họ Sái định cho ra tiếp khách. Thụy Vân nói “Đây là lúc con bắt đầu vào đời, không thể qua quít, nên giá thì do mẹ định nhưng khách thì xin cho con tự chọn". Mụ ưng thuận, bèn định giá là mười lăm lượng vàng, nàng bèn hàng ngày ra tiếp khách. Khách muốn gặp thì đưa lễ vật tới, nhiều thì được tiếp một ván cờ, tặng một bức tranh, ít thì được mời uống chén trà mà thôi.

Thụy Vân nổi tiếng đã lâu, từ đó các bậc phú thương quý quan ngày ngày nối nhau tới cổng. Hạ sinh người huyện Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) nổi tiếng tài danh nhưng gia tư chỉ đủ ăn, vốn ngưỡng mộ Thụy Vân nhưng chưa dám nghĩ tới giấc mộng uyên ương, cũng gắng sửa chút lễ mọn, chỉ mong được một lần gặp mặt, vẫn thầm lo nàng trải đời đã nhiều, không để mắt tới kẻ nghèo hèn. Đến lúc gặp mặt, vừa chuyện trò nàng đã tỏ ra rất ân cần. Cùng nói chuyện hồi lâu, đầu mày cuối mắt đều chứa chan tình ý, lại tặng sinh bài thơ rằng:

Hà sự cầu tương giả,
Lam Kiều khấu hiểu quan.
Hữu tâm tầm ngọc chử
Đoan chỉ tại nhân gian

(Xin nước làm chi cho vất vả
Tinh sương lại phải tới cầu Lam*
Có lòng xin cố tìm chày ngọc
Dám chắc còn trên cõi thế gian)

*Cầu Lam: dịch chữ Lam Kiều. Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng là người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên.

Sinh được thơ mừng quýnh, còn muốn nói nữa chợt a hoàn vào báo khách tới. Sinh vội từ biệt, về nhà đem bài thơ ra ngắm nghía ngâm nga, mộng hồn vướng vít. Được một hai hôm không kìm được, lại sắm sửa lễ vật tìm tới. Thụy Vân đón tiếp rất vui vẻ dời ghế tới gần sinh, buồn bã nói "Chàng có thể lo được một đêm sum họp không?". Sinh đáp "Học trò nghèo chỉ có tấm tình si để tặng tri kỷ, lo được cái lễ nhỏ mọn thì bao nhiêu tơ tằm đã rút hết, được gần mặt hoa là thỏa nguyện rồi, còn như đầu gối tay ấp thì đâu dám mong tưởng". Thụy Vân nghe nói chau mày không vui, hai người chỉ nhìn nhau không nói. Sinh ngồi lâu không ra, mụ chủ mấy lần gọi Thụy Vân để giục giã. Sinh bèn ra về, trong lòng buồn bực, muốn đem hết gia sản chuốc một lần vui, nhưng hết đêm lại phải chia tay thì thật không sao chịu nổi, nghĩ tới đó thì tấm lòng hăm hở đều tiêu tan. Từ đó dứt hẳn không lui tới nữa.

Thụy Vân kén rể mấy tháng mà chưa chọn được người vừa ý. Mụ dầu bực tức, định ép uổng nhưng còn chưa ra tay. Một hôm có người Tú tài đem lễ vật tới, ngồi nói chuyện một lúc bèn đứng lên, ấn một ngón tay lên trán nàng nói “Đáng tiếc, đáng tiếc” rồi ra về. Thụy Vân tiễn khách ra trở vào mọi người cùng nhìn thì thấy trên trán nàng có dấu ngón tay in đen như mực, rửa lại càng đậm. Sau vài hôm vết mực lan rộng ra, hơn một năm sau thì lan từ trán xuống cả mũi, ai thấy cũng cười, vì vậy vết xe ngựa ngoài cổng cũng mất hẳn. Mụ dầu lột hết trang sức, bắt làm việc của hạng tôi tớ, Thụy Vân lại ẻo lả không làm nổi việc nặng nhọc nên ngày càng tiều tụy.

Hạ nghe tin ghé qua, thấy nàng đầu bù tóc rối dưới bếp, xấu xí như ma, ngẩng đầu thấy sinh thì quay vào tường giấu mặt. Hạ thương xót bèn nói với mụ dầu xin chuộc nàng, mụ ưng thuận. Hạ bán ruộng dốc túi mua nàng đem về. Tới nhà nàng kéo áo lau nước mắt, không dám tự xem là vợ, chỉ xin giữ phận làm lẽ, để ngôi chính thất chờ người sau này. Hạ nói "Người ta ở đời vẫn quý kẻ biết mình. Lúc nàng đang thịnh, nàng còn biết tới ta, lẽ nào vì nàng suy mà ta quên nàng sao?", rồi không lấy vợ nữa. Ai nghe chuyện cũng chế nhạo, nhưng sinh thì càng thương yêu nàng thêm.

Được hơn năm, sinh ngẫu nhiên tới đất Tô (tỉnh Giang Tô), gặp Hòa sinh cùng trọ một chỗ. Bỗng Hòa hỏi "Danh kỹ đất Hàng là Thụy Vân nay ra sao?", sinh đáp đã lấy chồng rồi. Hòa lại hỏi lấy ai, sinh đáp "Người đó cũng đại loại như ta". Hòa nói "Nếu được như ông thì có thể nói là lấy đúng người, không biết giá bao nhiêu?". Hạ nói "Vì mắc bệnh lạ nên cũng rẻ thôi, nếu không loại bọn ta làm sao mua nổi người đẹp trong kỹ viện". Hòa lại hỏi “Người đó quả thật có được như ông không?". Hạ thấy câu hỏi kỳ lạ bèn căn vặn lại, Hòa cười nói "Thật không dám dối, trước đây ta từng gặp nàng một lần, rất tiếc tài mạo tuyệt thế mà lênh đênh không có người xứng đôi nên dùng chút thuật mọn che ánh sáng để giữ vẻ ngọc, dành lại chờ tấm gương soi chân hình của kẻ yêu tài". Hạ vội hỏi “Ông chấm được chắc cũng rửa được chứ?”. Hòa cười đáp “Sao không được, nhưng phải chính người kia thành tâm cầu xin thôi". Hạ đứng dậy vái nói “Người chồng của Thụy Vân chính là ta đây”, Hòa mừng nói "Trong thiên hạ chỉ có kẻ chân tài mới có thể đa tình, không vì xấu đẹp mà đổi ý. Xin cho ta theo về nhà, ta sẽ tặng một người đẹp".

Bèn cùng nhau về, tới nhà Hạ định sai dọn rượu, Hòa ngăn lại nói “Cứ để ta làm phép để người dọn rượu phải vui vẻ trước đã". Rồi lập tức bảo bưng lên một chậu nước, lấy ngón tay vẽ bùa lên, nói "Rửa đi là khỏi, nhưng phải đích thân ra tạ ơn thầy thuốc đấy”. Hạ cười bưng chậu nước vào, đứng đợi Thụy Vân rửa mặt, vết mực theo tay trôi hết, diễm lệ chẳng khác năm xưa. Vợ chồng đều cảm ơn, cùng nhau ra vái tạ thì khách đã biến mất, tìm khắp nơi không thấy, có lẽ là tiên chăng?



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 65 -
Tướng Công Long Phi
(Long Phi Tướng Công)



Đới sinh ở An Khánh (tỉnh thành An Huy), lúc trẻ tính bừa bãi không kiềm thúc. Một hôm say rượu từ nơi khác về, dọc đường gặp người anh họ ngoại là Quý sinh, lúc đang say mờ mịt cũng quên mất là Quý sinh đã chết, bèn hỏi "Trước nay ở đâu?”. Quý nói "Ta đã chết rồi, ông quên hay sao?". Đới mới sực nhớ ra nhưng đang say cũng không sợ hãi, bèn hỏi "Ông làm gì dưới âm ty?", Quý đáp “Gần đây làm chức giữ sổ sách cho Chuyển Luân vương điện hạ*". Đới nói “Nếu thế thì chắc ông biết được họa phúc của mọi người", Quý nói "Đó là chức phận của ta, sao lại không biết? Chỉ là nhiều quá, nếu không phải là người thật thân thiết thì không nhớ kỹ thôi.

*Chuyển Luân vương điện hạ: theo truyền thuyết dưới âm phủ có mười vua, trong đó Chuyển Luân vương coi việc cho các hồn ma đi đầu thai.

Ba hôm trước tình cờ soát lại sổ sách, thấy có tên ông". Đới vội hỏi trong ấy viết thế nào, Quý đáp “Thật không dám dối, tên ông có trong số những người bị giam vào ngục tối”. Đới cả sợ tỉnh rượu hẳn, năn nỉ xin cứu giúp. Quý nói “Đây không phải là việc ta giúp được, chỉ có việc thiện là có thể giải cứu thôi. Nhưng sổ sách ghi tội lỗi của ông dày cả ngón tay, không có việc thiện lớn thì không cứu được, mà Tú tài nghèo khó thì làm sao làm được việc gì lớn. Thôi cứ lập tức mỗi ngày làm một việc thiện, không hơn một năm như vậy thì không được xét tới đâu. Bây giờ đã muộn rồi, giả như cố sức thì may ra có thể thoát khỏi địa ngục". Đới nghe thế rơi nước mắt lạy rạp xuống đất cầu khẩn, khi ngẩng lên thì Quý đã biến mất bèn buồn bã trở về.

Từ đó sửa lòng đổi nết, không dám sơ sẩy. Trước kia Đới tư thông với người đàn bà láng giềng, người chồng biết nhưng không nói ra, định rình bắt quả tang, nhưng Đới đã sửa nết không đi lại với người đàn bà nữa, người chồng rình mãi không bắt được căm tức lắm. Một hôm gặp nhau ngoài ruộng bèn giả vờ trò chuyện, lừa Đới tới cái giếng cạn rồi xô xuống. Giếng sâu mấy trượng nên y nghĩ thế nào Đới cũng chết, nhưng nửa đêm thì Đới tỉnh dậy, ngồi dưới giếng gào lớn mà không ai biết. Người láng giềng cũng sợ Đới sống lại, sáng hôm sau tới nghe ngóng, nghe tiếng Đới kêu cứu vội ném đá xuống. Đới lùi vào hốc dưới giếng, không dám kêu nữa, người láng giềng biết là chưa chết bèn xúc đất lấp giếng đầy gần tới miệng.

Cái hốc dưới giếng tối om, thật không khác gì địa ngục, Đới không có gì ăn, nghĩ thầm ắt phải chết. Lom khom bò vào trong khoảng ba bước thì đều là nước, không sao đi tiếp bèn quay lại ngồi chỗ cũ, ban đầu thì thấy đói bụng, hồi lâu cũng quên đi. Nhân nghĩ dưới suối vàng không có điều thiện gì mà làm, đành niệm Phật mà thôi. Kế thấy lửa ma trơi bay túa tới lập lòe đầy hang, bèn khấn "Nghe nói lửa ma trơi đều là hồn ma chết oan, ta tuy còn sống nhưng cũng khó trở về, nếu có thể trò chuyện được với nhau thì cũng đỡ tịch mịch". Chỉ thấy các đốm lửa ma trơi đều họp cả trên mặt nước, trong mỗi đốm đều có một người cao khoảng nửa người thường. Sinh hỏi từ đâu tới, họ đáp "Đây là cái hầm than cũ, chủ nhân đào lấy than động tới ngôi mộ cũ bị tướng công Long Phi khoét đất dẫn nước biển vào dìm chết bốn mươi ba người, bọn ta đều là các hồn ma ấy".

Sinh hỏi tướng công là ai, họ đáp "Không biết, nhưng tướng công là kẻ sĩ văn học, nay làm mạc khách của Thành hoàng, ông cũng thương bọn ta vô tội mà chết nên cứ năm ba ngày lại cho một bữa cháo loãng. Nhưng xương cốt bọn ta bị dầm trong nước lạnh không có ngày siêu thăng, nếu ông trở về được nhân thế xin vớt mớ xương tàn xây cho ngôi mộ làm phúc thì bọn ta dưới suối vàng được đội ơn nhiều lắm". Đới nói "Nếu vạn nhất được trở về thì chuyện ấy có khó gì? Chỉ là thân dưới chín suối, làm sao dám mong ngày thấy lại mặt trời”. Nhân dạy đám ma niệm kinh Phật, vê đất làm tràng hạt, cứ theo đủ tạng số mà đọc, không biết ngày đêm thế nào, cứ mệt thì ngủ, thức thì ngồi niệm Phật mà thôi.

Chợt thấy chỗ sâu bên trong có ánh đèn lồng, bọn ma mừng rỡ nói "Tướng công Long Phi cho ăn đấy”, rồi rủ Đới cùng đi. Đới sợ nước sâu, đám ma ép kéo đi, phất phới bay lên, quanh co chừng nửa dặm, tới một chỗ thì buông xuống bảo tự đi càng đi càng lên cao như bước lên bậc thang cao vài trượng, hết bậc thang thấy phòng ốc, trên sảnh đường có một ngọn nến cháy sáng, to bằng cánh tay. Đới đã lâu không thấy đèn lửa, mừng quá rảo bước tới, thấy ở trên có một ông già ngồi, mặc áo đội mũ nhà nho. Đới dừng chân không dám bước tới nữa song ông già đã nhìn thấy, kinh ngạc hỏi người lạ từ đâu tới đây.

Đới bước lên quỳ xuống thưa chuyện mình, ông già nói “Té ra là cháu năm đời của ta". Bèn bảo đứng dậy cho ngồi, tự nói "Ta tên là Đới Tiềm, tự Long Phi, trước đây vì đứa cháu hư là Đường kết đảng với bọn xấu, đào hầm than gần mộ khiến lão phu không được yên ổn dưới suối vàng nên khơi nước biển dìm chết cả bọn, người là con cháu dòng nào?". Đại khái họ Đới có năm chi, Đường là ngành trưởng, lúc đầu có nhà thế gia trong huyện đút tiền cho Đường để đào hầm lấy than cạnh mộ tổ, các em sợ thế lực nên không ai dám cãi lại. Không bao lâu nước dưới đất vọt ra, những người đào than đều chết dưới hầm, gia đình họ họp nhau thưa kiện, Đường và nhà thế gia kia vì thế trở nên nghèo khó, con cháu Đường đến nỗi không có tấc đất cắm dùi.

Đới là dòng dõi của em Đường, từng nghe ông cha kể lại chuyện ấy, bèn thưa với ông tổ. Ông già nói "Hư hỏng như thế thì con cháu làm sao mà khá được? Cháu đã tới đây, phải tiếp tục học hành". Rồi lấy rượu thịt cho ăn uống, kế đem sách đặt lên bàn, đều là những văn trường ốc trong niên hiệu Thành Hóa Hoằng Trị thời Minh (1465-1505) bắt phải học, lại ra đề bài cho làm văn như thầy dạy trò. Nến trong sảnh đường đều sáng, cắt bấc đi cũng không tắt. Đới cứ lúc mệt thì ngủ, không biết đang ngày hay đêm. Ông già lúc đi vắng thì sai một tiểu đồng tới hầu hạ, lâu như trải qua mấy năm nhưng may mà không phải chịu khổ. Có điều là không có sách gì khác để đọc, chỉ có trăm bài văn bát cổ, vài ngàn bài thơ mà thôi. Một hôm ông già nói “Cháu đã hết hạn quả báo, sắp được trở về nhân thế. Chỗ mộ ta có đường hầm đào than xoi vào, gió âm châm chích xương cốt, sau này cháu đắc chí rồi hãy dời mộ ta ra cánh đồng phía đông”. Đới cung kính vâng dạ. Ông già bèn gọi bọn ma tới sai đưa Đới ra chỗ cũ, đám ma lạy rạp nghe lệnh, nhưng Đới cũng không biết làm sao mà lên khỏi giếng được.

Trước là gia đình thấy Đới mất tích, tìm kiếm khắp nơi, mẹ lên báo quan, bắt bớ đòi gọi rất nhiều người mà không có chút manh mối gì. Qua ba bốn năm, quan thôi giữ chức, việc tìm kiếm tra xét cũng thưa dần, vợ Đới không chờ được bèn xin lấy chồng khác. Gặp lúc người làng vét giếng cũ, vào trong hốc thấy Đới, vỗ về thấy chưa chết cả sợ báo cho gia đình biết, cáng về nhà mấy ngày mới nói được, kể lại mọi chuyện đã qua. Sau khi Đới rơi xuống giếng, người láng giềng cãi vã rồi giết chết vợ, bị cha vợ thưa kiện, giam nhốt xét xử hơn một năm, chỉ còn bộ da bọc xương trở về, nay nghe tin Đới sống lại cả sợ bỏ trốn. Người trong họ bàn xin thưa quan trừng trị, Đới không nghe, cứ nói "Trước đây là ta chuốc lấy tội, chuyện đó là âm ty trừng phạt chứ y có can dự gì?”, người láng giềng thấy không có ý gì khác bèn lần mò trở về.

Nước dưới giếng đã vét sạch, Đới thuê người xuống thu nhặt xương cốt, đều sắm quan tài chôn cất ở nghĩa địa làm phúc. Lại giở tới gia phả thấy có tên Tiềm tự Long Phi, bèn sắm sửa lễ vật ra cúng tế trước mộ. Quan Học sứ nghe chuyện lạ, lại khen ngợi văn bài của Đới, khoa ấy lấy Đới làm hạng ưu cho đi thi hương, kế Đới thi đỗ Cử nhân. Đới trở về liền xây dựng phần mộ ở cánh đồng phía đông, dời mộ Long Phi ra đó, xuân thu cúng tế, hương lửa không dứt.

Dị Sử thị nói:Làng ta có người đào than, hầm than bị nước ngập, hơn mười người bị khốn dưới đó. Người ta múc nước tìm xác hơn hai tháng mới cạn mà hơn mười người không ai chết cả. Té ra lúc nước đổ tới thì họ cũng bị vây trên chỗ cao nên không bị chết đuối. Dòng dây xuống đưa lên, gặp gió thì tắt thở, một ngày một đêm mới tỉnh lại. Mới biết người ta ở dưới đất thì cũng như chim rắn côn trùng, nhất thời chưa thể chết được. Nhưng chưa có ai sống được suốt mấy năm dưới đất, nếu không phải là kẻ chí thiện thì ba năm liền sống trong địa ngục làm sao có thể sống mà trở về.
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 66 -
San Hô
(San Hô)

An Đại Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm, em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức, rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ riêng, tỏ ý dứt tình với vợ.

Lâu ngày mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói "Cưới vợ là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?", bèn thôi vợ, sai bà vú già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói "Là đàn bà mà không làm vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi cho xong". Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về, sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi “San Hô có tội gì?", sinh trách là không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa liền trở về.

Qua mấy hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói "Nàng ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?". Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vưong thị tới đó ở. Bà Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay. San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai.

Sinh sau khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung dữ đã lan rộng ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu.

Gọi em tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể, kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về. San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về, cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng "Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa", nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới. Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than "Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như thế?” Bà Vu hỏi "Có bằng nàng dâu em đuổi không?” Bà Thẩm nói “Ôi! Nói ra không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!". Bà Vu nói “Nàng dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?". Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi “San Hô lấy chồng khác chưa?". Bà Vu đáp “Không biết, để hỏi lại sau”.

Mấy hôm sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói "Sợ chị đi thì em chết mất thôi". Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng, Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh, động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu, hết sức ca ngợi nàng hiền.

Bà Vu nói "Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì được”. Thẩm nói “Ồ, oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?". Bà Vu hỏi “Như San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?", bà Thẩm đáp “Chỉ có mắng chửi thôi". Bà Vu nói "Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng". Bà Thẩm nói "Ai cũng có lúc lỗi lầm, chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng". Bà Vu nói "Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy". Bà Thẩm giật mình hỏi "Chị nói gì?", bà Vu đáp “San Hô tới đây lâu rồi, những thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy”

Bà Thẩm nghe thế nước mắt ròng ròng, nói "Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?". Bà Vu bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô. Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt, sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng.

Ông Nhiệm vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói "Ta là An Hiếu liêm đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?", rồi nhìn sinh nói "Âm ty cảm động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần". Sinh rơi lệ nói “Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con", An đáp "Thứ con hư dâu dữ có gì đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta". Sinh nói "Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?". An nói "Dưới gốc cây Tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng". Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì.
Sinh về kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông cha để lại, không nỡ giấu diếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ con đang vui vẻ chúc mừng nhau.

Nhị Thành vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng Cô nói "Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?", Nhị Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói “Những tiền trả nợ đều là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan”. Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói "Thế nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thằng đấy". Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về.
Nhìn kỹ thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng “Mấy lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn, còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng, những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh". Sinh không biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc.

San Hô bước ra cười nói “Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ”. rồi bảo sinh đem văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói "Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?”. Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ, tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy.

Tàng Cô từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ cả ăn uống, nói với người ta rằng “Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy". Sau sinh nở mười lần đều không nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo đáp lòng hiếu hữu vậy.

Dị Sử thị nói:Nhà nghèo hay con hiếu, nước loạn biết tôi trung, nhà hay nước cũng đều như thế chăng? Con dâu dữ cải hóa thì mẹ chết, té ra một nhà hiếu thuận thì kẻ không có đức khó mà hưởng được. Tàng Cô tự hối cải, nói trời không cho mình chuộc tội, không phải kẻ ngộ đạo thì làm sao nói ra được câu ấy? Lẽ ra phải chết sớm mà lại được sống lâu thì cũng là trời tha tội cho, song sống mà không được thanh thản thì là trời có ý trừng phạt chăng?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 67 -
Dâm Thần Ngũ Thông
(Ngũ Thông)

I.
Phương nam có dâm thần Ngũ thông cũng như phương bắc có hồ vậy. Nhưng ở phương bắc bị hồ ám thì còn tìm đủ cách khu trừ, chứ ở vùng Giang Tô Chiết Giang đàn bà con gái xinh đẹp trong dân gian mà bị thần Ngũ thông hành dâm thì cha mẹ anh em không ai dám ho he, gây hại còn dữ hơn cả hồ.

Có Thiệu Hồ là nhà buôn mở cửa hiệu ở huyện Ngô (tỉnh Giang Tô), vợ là Diêm thị rất xinh đẹp. Một hôm có người đàn ông nghênh ngang từ ngoài vào, vỗ kiếm trừng mắt nhìn quanh, vú già tớ gái trong nhà chạy sạch. Diêm muốn chạy ra, người ấy chặn lại nói "Đừng sợ, ta là Tứ lang trong Ngũ thông đây. Ta yêu nàng, không làm hại nàng đâu” rồi ôm ngang lưng Diêm thị nhấc lên như bế trẻ con đặt lên giường, giải quần nàng tự tuột ra, y bèn cưỡng hiếp, nhưng dương vật to cứng nàng không chịu nổi, lúc mê man đau đớn kêu rên như sắp chết. Tứ lang cũng thương xót không làm hết sức, kế bước xuống giường nói "Năm ngày nữa ta sẽ lại tới", rồi đi.

Hồ bày cửa hiệu ngoài cổng, đêm ấy đám tớ gái chạy tới thưa, Hồ biết là thần Ngũ thông không dám nói gì. Đến sáng thấy vợ mỏi mệt không dậy nổi, trong lòng rất nhục nhã xấu hổ, dặn người nhà không được kể rộng ra. Người đàn bà qua ba bốn ngày mới khỏe lại, nhưng sợ thần Ngũ thông lại tới, đám vú già tớ gái không dám ngủ đêm trong phòng, tránh hết ra nhà ngoài, chỉ có người đàn bà buồn rầu ngồi trước đèn chờ. Không bao lâu, Tứ lang dắt hai người nữa tới, đều là thiếu niên ôn nhã, có tên tiểu đồng bày rượu thịt ra cùng ăn uống với người đàn bà. Người đàn bà xấu hổ cúi đầu, họ ép uống rượu cũng không uống, trong lòng nơm nớp sợ họ thay phiên hành dâm thì hết sống. Ba người uống rượu vui vẻ với nhau, người gọi là đại ca người gọi là tam đệ. Uống đến khuya, hai người khách đứng lên nói "Hôm nay Tứ lang được mỹ nhân nên mời, cũng nên gọi Nhị lang Ngũ lang tới uống rượu mừng", rồi từ biệt đi.

Tứ lang kéo người đàn bà vào màn, nàng khóc lóc năn nỉ, Tứ lang cứ ép giao hoan, nàng máu me đầm đìa ngất đi không biết gì nữa, Tứ lang mới đi. Người đàn bà nằm vật ra trên giường khôn xiết căm hờn xấu hổ, nghĩ định tự tử nhưng treo cổ thì dây tự đứt, mấy lần đều như thế, khổ không sao chết được. May mà Tứ lang cũng không tới thường, cứ chờ khoảng nàng đỡ bệnh mới lại tới một lần, cứ thế hơn ba tháng, cả nhà không yên.

Có Vạn sinh ở Cối Kê (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là em họ ngoại của Thiệu, dũng mãnh thiện xạ, một hôm tới thăm Thiệu. Lúc ấy trời đã tối, Thiệu vì nhà khách đã cho gia nhân ở bèn đưa Vạn vào ngủ nhà trong. Vạn nằm hồi lâu không ngủ, nghe trong sân có tiếng chân người bèn núp cạnh cửa sổ nhìn ra, thấy một người đàn ông bước vào phòng vợ Thiệu, lấy làm ngờ vực xách đao lẻn theo. Thấy người ấy ngồi sánh vai với Diêm thị, trên bàn thì đầy rượu thịt liền nổi giận sấn vào, người đàn ông giật mình vội đứng dậy nắm lấy kiếm thì đã bị chém toác đầu ngã xuống, nhìn ra thì là một con ngựa con to như con lừa.
Vạn kinh ngạc hỏi Diêm thị, người đàn bà kể lại mọi chuyện rồi nói "Các thần sắp tới, làm sao bây giờ?”. Vạn xua tay ra hiệu đừng lên tiếng rồi tắt đèn cầm cung tên nằm chờ trong bóng tối. Không bao lâu có bốn năm người trên không đáp xuống, Vạn bắn mau một phát, người đi đầu trúng tên chết tươi. Ba người kia tức giận gầm thét, tuốt kiếm xông vào tìm kẻ bắn tên, Vạn cầm đao núp sau cánh cửa im lặng không động đậy, một người bước vào bị Vạn chém trúng đầu cũng lăn ra chết. Vạn đứng im chỗ cũ chờ hồi lâu thấy im ắng bèn bước ra gọi Thiệu dậy kể chuyện. Thiệu cả kinh cùng đốt đuốc vào xem thì thấy một con ngựa và hai con heo chết trong phòng. Cả nhà đều mừng rỡ, nhưng sợ hai con quái còn sống tới trả thù bèn giữ Vạn ở lại. Nấu nướng thịt heo thịt ngựa đem lên mời, thấy ngon ngọt khác hẳn thịt heo ngựa thường, từ đó Vạn sinh lừng lẫy tiếng tăm.

Vạn ở lại hơn tháng, không thấy đám quái tới nữa bèn từ giã Thiệu, sắp lên đường thì có nhà buôn Mỗ tới mời. Trước là Mỗ có con gái chưa lấy chồng, chợt Ngũ thông giữa ban ngày hiện ra, là một người đàn ông đẹp trai hơn hai mươi tuổi, nói sẽ cưới cô gái làm vợ, đưa một trăm lượng vàng làm sính lễ rồi hẹn ngày cưới. Mỗ tính lại sắp tới ngày hẹn, cả nhà lo sợ, nghe danh Vạn sinh bèn nài nỉ mời bằng được về nhà, nhưng sợ Vạn từ chối nên giấu không nói thật, thết tiệc xong mới cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra lạy chào. Vạn thấy cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp kinh ngạc không hiểu là có ý gì, vội đứng lên chào, Mỗ kéo ngồi xuống kể thật mọi việc. Vạn nghe thấy cả kinh, nhưng bình sinh ý khí hào hùng nên cũng không từ chối.

Đến ngày cưới, Mỗ cũng hoa giăng dây lụa ngũ sắc ngoài cổng, bảo Vạn ngồi trong phòng. Đến trưa vẫn không thấy Ngũ thông tới, Vạn mừng rỡ nghĩ thầm chắc tân lang là trong số đã bị mình giết. Phút chốc chợt thấy trước thềm có vật như con chim sa xuống rồi một thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ bước vào, nhìn thấy Vạn quay người bỏ chạy. Vạn đuổi ra tới ngoài, chỉ thấy một làn khí đen sắp bay lên, vội rút đao nhảy lên chém theo, chặt đứt một chân, thiếu niên kêu gào bay mất. Cúi nhìn thì khúc chân là một cái móng lớn to bằng bàn tay, không biết là con gì, tìm theo vết máu thì thấy nhảy xuống sông. Mỗ cả mừng, lại nghe nói Vạn không có vợ, ngay đêm ấy chuẩn bị giường chiếu cho làm lễ hợp cẩn với cô gái. Từ đó những người vốn sợ Ngũ thông đều mời Vạn tới nhà mình ngủ một đêm. Được hơn năm Vạn mới đưa vợ về nhà, từ đó Ngô Trung chỉ còn một trong Ngũ thông, không dám công nhiên tác quái nữa.

Dị Sử thị nói:Ngũ thông Thanh oa làm mê hoặc thế tục đã lâu đến nỗi cứ mặc cho chúng tùy ý dâm loạn mà không ai dám nói một tiếng, Vạn sinh thật là người hào sảng trong thiên hạ vậy.


II.
Kim sinh tự Vương Tôn, người Tô Châu (tỉnh Giang Tô). Tới đất Hoài (tỉnh Giang Tô) dạy học, ở trong vườn một vị thân sĩ lầu gác không nhiều nhưng cây cối rậm rạp. Hàng đêm đến khuya, khi bọn tiểu đồng đầy tớ đã ngủ hết thường một mình ngồi trước đèn, trong lòng buồn bã. Một đêm vừa hết canh hai chợt nghe có người lấy ngón tay búng cửa sổ, sinh vội lên tiếng hỏi, bên ngoài nói là xin lửa, giọng nói như đứa tiểu đồng. Sinh mở cửa cho vào thì là một người đẹp khoảng mười sáu tuổi, có một tỳ nữ theo sau. Sinh ngờ là yêu quái, gạn hỏi cặn kẽ, cô gái nói "Thiếp thấy chàng là kẻ sĩ phong nhã mà cô tịch đáng thương nên không ngại sương gió tới định cùng vui vầy đêm nay, chứ sợ nói lai lịch ra thì thiếp không dám tới mà chàng cũng không dám chứa chấp đâu”. Sinh lại nghĩ là con gái hư hỏng trong làng, lấy cớ sợ mang tiếng để từ tạ. Cô gái đưa mắt liếc, sinh thấy thần trí mê man, tâm thần điên đảo không thể tự chủ được nữa. Người tỳ nữ biết, bèn nói “Cô Hà, em đi đây”. cô gái gật đầu, kế mắng "Đi thì cứ đi, còn Hà Hà Vân Vân gì?".

Người tỳ nữ đi rồi, nàng mới cười nói “Gặp lúc nhà không có ai mới dắt nó tới đây, ngu ngốc như thế đấy, nói lộ ra cho chàng biết tên tự của thiếp". Sinh nói "Nàng tinh tế sâu sắc quá làm ta sợ có tai họa". Nàng nói “Về sau sẽ biết thôi, nhưng thiếp cam đoan là không làm gì có hại cho chàng đâu, đừng lo”. Kế nàng lên giường tháo gỡ đồ trang sức, sinh thấy trên tay nàng có đeo một cái xuyến bằng vàng tía khảm hai viên ngọc minh châu, tắt đèn vẫn lóng lánh chiếu sáng cả phòng. Sinh càng sợ hãi, không đoán được là nàng từ đâu tới. Vừa giao hoan xong thì người tỳ nữ tới gõ cửa, cô gái trở dậy, lấy chiếc xuyến soi đường vào trong rặng cây um tùm đi mất.

Từ đó đêm nào cũng tới, có lần sinh định lén đi theo, cô gái như đã biết bèn che ánh sáng, cây cối rậm rạp tối om giơ bàn tay lên cũng không nhìn thấy, sinh đành quay về. Một hôm sinh đi Hà Bắc, dây mũ bị đứt, gió thổi suýt rơi, ngồi trên ngựa cứ phải lấy tay giữ. Tới sông lên ngồi trên thuyền, mũ bị gió thổi rơi xuống sông rồi bị nước cuốn đi, nghĩ là mất rồi. Đến khi lên bờ thì gặp con gió lớn thổi chiếc mũ bay tới, chao chao trên không rồi rơi xuống, giơ tay chụp lấy thì thấy dây mũ đã liền lại, lấy làm lạ.

Khi trở về kể lại với cô gái, nàng không nói gì mà chỉ cười khẽ. Sinh ngờ là do nàng làm bèn nói "Nếu quả nàng là thần thì xin nói rõ cho ta yên lòng". Cô gái nói "Chàng lúc vắng vẻ tịch mịch lại được kẻ si tình giải khuây cho, thiếp tự nghĩ như thế là không xấu. Giả như thiếp làm được như thế thì cũng là yêu thương nhau đó thôi, căn vặn làm gì muốn tuyệt tình sao?", Sinh không dám nói nữa.

Trước Sinh có nuôi đứa cháu gái, đã đi lấy chồng, bị Ngũ thông quấy phá, rất lo lắng nhưng chưa từng nới với ai, vì quen biết thân mật với cô gái đã lâu nên kể ra không giấu giếm gì. Nàng nói "Những loại ấy thì cha thiếp có thể diệt trừ được, nhưng làm sao thiếp dám đem việc riêng của người tình mà kể với cha". Sinh năn nỉ xin bày cách cho, nàng ngẫm nghĩ rồi nói ”Loại ấy cũng dễ trừ, nhưng phải đích thân thiếp đi, mà bọn ấy đều là đầy tớ nhà thiếp, nếu chỉ để chúng chạm một ngón tay vào người thôi thì nước Tây Giang cũng không rửa hết nhục”. Sinh nài nỉ mãi, nàng nói "Để thiếp tính cho". Đêm sau nàng tới nói “Thiếp đã vì chàng sai đứa tỳ nữ xuống nam rồi, nhưng nó yếu ớt, sợ không giết được chúng thôi".

Đêm sau đang ngủ thì đứa tỳ nữ tới gọi, Sinh vội dậy mở cửa cho vào. Cô gái hỏi công việc thế nào, đứa tỳ nữ đáp "Con không đủ sức bắt sống, nên đã thiến nó rồi". Nàng cười hỏi đầu đuôi, đứa tỳ nữ kể “Ban đầu con tưởng là ở nhà lang quân đây, nhưng tới nơi mới biết là không phải. Tới nhà chồng nàng thì đã lên đèn, vào trong thấy nàng ngồi trước đèn, gục xuống bàn như đang ngủ, con bèn thu hồn nàng cho vào vò úp lại. Giây lát con quái tới, vừa vào phòng thì lùi ra ngay, quát "Sao lại có người lạ nào thế?” nhưng nhìn kỹ không thấy ai khác lại bước vào. Con làm như đang mê man, y cởi quần áo ra leo lên, lại giật mình nói "Sao lại có binh khí thế này". Ý con không muốn cầm vào vật bẩn dơ tay, nhưng sợ chậm trễ sinh biến bèn chụp lấy thiến luôn. Con quái đau đớn kêu la bỏ chạy, con trở dậy mở cái vò lên, nàng tỉnh dậy rồi thì con đi". Sinh mừng rỡ tạ ơn, cô gái cùng đứa tỳ nữ ra về.

Hơn nửa năm sau không thấy nàng tới, Sinh đã tuyệt vọng. Cuối năm Sinh nghỉ dạy dịnh về quê, cô gái chợt tới. Sinh mừng rỡ ra đón, nói "Lâu quá nàng không tới, ta nghĩ chắc đã phạm lỗi gì, nay nàng không dứt tình chứ?”. Nàng đáp "Gắn bó với nhau cả năm mà chia tay nhau không có một lời thì cũng chưa trọn vẹn. Nghe nói chàng thôi dạy học nên lén tới nói lời từ biệt". Sinh xin nàng cùng về quê với mình, nàng than "Khó nói lắm, hôm nay chia tay mà lòng không nỡ quên tình. Thiếp là con gái của Kim Long đại vương, vốn cùng chàng có túc duyên nên tới gặp gỡ. Không ngờ sai đứa tỳ nữ xuống Giang Nam làm giang hồ đồn ầm lên rằng thiếp vì chàng mà thiến Ngũ thông, cha thiếp nghe được cho là quá nhục nhã, đã định ban tội chết. May mà đứa tỳ nữ đứng ra nhận tội, ông mới hơi nguôi giận, phạt đánh nó một trăm gậy. Thiếp đi đâu nửa bước cũng có bà vú đi theo, chỉ nhân lúc sơ hở tới được đây một lần chứ không thể trọn duyên cầm sắt, biết làm sao được".

Nói xong từ biệt, Sinh kéo lại rơi nước mắt, nàng nói "Chàng đừng làm thế, ba mươi năm sau sẽ lại sum họp mà". Sinh nói “Ta nay ba mươi tuổi, ba mươi năm nữa đã là một ông già tóc bạc, còn mặt mũi nào gặp lại nhau?". Cô gái nói "Không phải thế. Ở Long cung không có người già tóc bạc, mà người đời thọ hay yểu không phải ở chỗ dung mạo, song nếu chàng muốn giữ dung mạo cho không già là chuyện rất dễ", kế viết một phương thuốc lên bìa quyển sách trên bàn rồi đi. Sinh về quê, cháu gái kể lại chuyện lạ, nói "Tối đến mơ thấy một người tới bắt bỏ vào vò, tỉnh dậy thấy máu đầm đìa cả chăn nệm, mà con quái tuyệt tích luôn". Sinh nói "Đó là do ta cầu đảo Hà Bá đấy” mọi người mới rõ.

Về Sau sinh sáu mươi tuổi mà diện mạo vẫn như người ba mươi. Một hôm qua sông, nhìn thấy xa xa phía thượng lưu có chiếc lá sen to như chiếc chiếu trôi xuống, một người đẹp ngồi ở trên, tới gần thì là cô gái thần liền nhảy qua, người theo chiếc lá sen nhỏ dần lại, khi còn bằng đồng tiền thì biến mất. Chuyện này và chuyện Thiệu Hồ đều xảy ra thời Minh mạt, không biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Nếu chuyện này xảy ra sau khi Vạn sinh dụng võ thì vùng Ngô Hạ chỉ còn có nửa tên Ngũ thông, chắc không đủ để tác quái làm hại nữa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 68 -
Họ Thân
(Thân Thị)

Cạnh sông Kính Hà (ở tỉnh Thiểm Tây) có họ Thân là con sĩ nhân, nhà rất nghèo, có ngày không nổi lửa nấu cơm, vợ chồng nhìn nhau không biết làm sao. Vợ nói "Hết cách rồi, hay là chàng đi ăn trộm vậy?", Thân đáp "Là con nhà sĩ nhân đã không làm rạng rỡ tổ tông mà còn làm mất danh tiếng, làm nhục ông cha, thì ăn trộm mà sống chẳng bằng trong sạch mà chết". Vợ uất ức nói "Ngươi muốn sống mà ghét mang nhục à? Trên đời những kẻ không cày ruộng mà sống chỉ có hai cách, ngươi đã không thể làm ăn trộm thì ta cũng không sao làm đĩ". Thân tức giận cãi vã với vợ, vợ uất ức bỏ đi ngủ.

Thân nghĩ mình là đàn ông mà không lo được ngày hai bữa cơm, để đến nỗi vợ muốn đi làm đĩ thì thà chết cho xong, bèn lặng lẽ dậy ra thắt thòng lọng trên cây ngoài sân treo cổ tự tử. Chợt thấy cha tới kinh ngạc nói "Thằng con ngu này sao lại đến nỗi như thế?”. Rồi cắt dây, dặn "Ăn trộm thì cũng được, nhưng phải rình ở chỗ đám lúa dày, chuyến này thì được chứ không được làm lần nữa đâu đấy". Vợ nghe có tiếng rơi xuống đất giật mình tỉnh dậy gọi chồng không thấy lên tiếng, thắp đèn ra nhìn thì thấy trên cây có sợi dây đứt, Thân thì chết ngất ở dưới, hoảng sợ tới lay gọi, giây lát Thân tỉnh lại, vợ đỡ vào nằm trên giường, cũng bớt tức giận.

Trời sáng, vợ Thân nói thác là chồng bị bệnh qua xin cơm nhà láng giềng về cho Thân ăn. Thân ăn xong ra cửa đi, tới trưa vác một túi gạo về. Vợ hỏi gạo ở đâu, Thân đáp "Các bạn bè của cha ta đều là nhà thế gia, tới đó xin xỏ thì được nhưng không mặt mũi nào đi cầu xin. Người xưa nói “Kẻ không nổi tiếng thì làm gì cũng được, nay ta định đi ăn trộm đây, còn tiếc gì? Nấu cơm mau lên, ta định theo lời nàng đi trộm cướp đây". Vợ nghĩ Thân giận lời nói của mình hôm qua nên mới nói thế, bèn vo gạo nấu cơm, Thân ăn no rồi vội tìm gỗ cứng lấy búa đẽo thành cái gậy cầm lấy ra đi. Vợ thấy đúng là đi trộm cướp vội kéo áo giữ lại, Thân nói “Cô bảo ta đi trộm cướp, nếu việc bại lộ liên lụy tới nhau thì đừng có hối hận", rồi dứt áo đi thẳng.

Chập tối Thân tới thôn bên cạnh bèn vòng ra cách đó một dặm nằm rình. Chợt có cơn mưa rào đổ xuống, cả người ướt đầm, nhìn thấy phía xa có rặng cây bèn tìm tới tránh mưa. Chợt có tia chớp lóe sáng, thấy đã tới gần bức tường, xa xa lại như có người đi tới, sợ họ trông thấy, nhìn thấy dưới tường có đám lúa dày vội lủi mau vào đó ngồi thụp xuống. Không bao lâu có một người đàn ông tới, thân thể to lớn, cũng rẽ xuống đám lúa. Thân sợ không dám nhúc nhích, may mà người ấy đi xéo qua, nhìn theo thấy y nhảy vào trong tường. Thân nhớ lại phía trong tường là nhà phú ông họ Khang, ắt người này là kẻ trộm, cứ chờ y ăn trộm trở ra sẽ đòi chia. Lại nghĩ y to lớn khỏe mạnh, nếu không lấy trộm được nhiều sẽ không chịu chia, ắt phải dùng võ, nhưng tự lượng sức mình không đánh nổi y, chẳng bằng nhân lúc bất ngờ đánh ngã. Tính kế xong nằm xuống chờ hồi lâu, lúc gà gáy canh một y mới nhảy tường ra, chân chưa chạm đất, Thân đã vùng dậy đập một gậy vào lưng ngã xuống đánh huỵch, thì là một con rùa lớn, miệng to như cái chậu. Thân phát hoảng vác gậy đập túi bụi, con rùa chết luôn.
Trước là ông họ Khang có một con gái rất xinh đẹp, cha mẹ đều yêu thương. Một đêm có người đàn ông vào trong phòng nàng cưỡng ép đòi giao hoan, cô gái muốn la lên thì lưỡi đã cứng đơ rồi hôn mê không biết gì nữa, mặc cho y mượn làm gì thì làm. Khi y đi rồi nàng xấu hổ không dám nói, chỉ họp đám tỳ nữ lại ngủ cùng phòng, đóng cửa thật chặt mà thôi. Đêm sau không biết vì sao cửa phòng lại tự mở ra, vào xem thì mọi người đều mê man, đám tỳ nữ đều bị hành dâm, cùng hoảng sợ kể lại với nhau rồi báo cho ông Khang. Ông sai gia nhân cầm dao gậy rình sẵn, thắp đèn sáng ngồi trong phòng, khoảng gần nửa đêm thì người gác trong ngoài đều nhất loạt thiếp đi, chợt như tỉnh mộng thức dậy thì thấy cô gái đã trần truồng nằm trên giường ngất đi, hồi lâu mới tỉnh lại ông Khang hận lắm nhưng không biết làm sao, được vài tháng thì cô gái cứ héo hắt gầy mòn đi. Ông Khang nói với mọi người rằng ai có thể trừ tà cho thì sẽ thưởng ba trăm lượng vàng, ngày thường Thân cũng đã từng nghe. Đêm ấy đánh được con rùa, sực nghĩ ra đây là tà quỷ ám cô gái. Bèn gõ cửa xin thưởng, ông Khang mừng rỡ mở tiệc mời, sai treo con rùa ở sân phanh thịt ra, giữ Thân ở lại qua đêm, quả nhiên tà quỷ đều tuyệt tích, bèn đem đủ ba trăm lượng vàng thưởng cho Thân.
Thân mang vàng về, vợ thấy qua đêm không về đang lo lắng trông ngóng, thấy Thân vào vội hỏi han, Thân không đáp, bày vàng ra giường. Vợ nhìn thấy hoảng sợ nói "Thật là anh đi ăn cướp à?”, Thân đáp "Cô bắt ta làm như thế, sao lại còn hỏi?". Vợ khóc nói “Hôm trước chỉ là nói đùa thôi, nay anh phạm tội chết chém, ta không thể chịu liên lụy với thằng giặc giết người, xin chết trước đây". Rồi chạy ra ngoài, Thân đuổi theo cười kéo lại kể thật mọi chuyện, vợ mới mừng rỡ. Từ đó đem vàng buôn bán, cũng nổi tiếng giàu có.

Dị Sử thị nói:Người ta không lo nghèo, chỉ lo mất nết mà thôi. Tính nết đã ngay thẳng thì tuy đói cũng không chết, nếu không được người thương cũng có quỷ giúp. Những người nghèo khổ trên đời quên nghĩa để cầu lợi, quên nhục để kiếm cơm, không ai dám nhờ giữ giùm một đồng, thì làm sao còn được quỷ thần giúp cho?

69. Hằng Nương
(Hằng Nương)

Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị nhan sắc rất đẹp, hai bên đều yêu thương nhau. Sau Hồng cưới tỳ nữ là Bảo Đới làm thiếp, nhan sắc kém xa Chu nhưng Hồng lại yêu chiều. Chu bất bình, vì thế vợ chồng sinh ra bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ở luôn lại phòng thiếp nhưng càng chiều chuộng Bảo Đới mà xa cách Chu.

Sau Hồng dời nhà, ở cạnh nhà một người buôn lụa họ Địch. Vợ Địch là Hằng Nương qua thăm Chu trước, thấy khoảng ba mươi tuổi, nhan sắc chỉ bình thường nhưng nói năng dịu dàng, Chu thích lắm. Hôm sau qua thăm đáp lễ thấy nhà nàng cũng có người thiếp khoảng hai mươi tuổi rất xinh đẹp. Ở cạnh nhau gần nửa năm, Chu không nghe thấy họ cãi cọ gì cả, mà Địch lại chỉ yêu quý có Hằng Nương, vợ thiếp chỉ là người để đó mà thôi. Một hôm Chu qua chơi nhà Hằng Nương, hỏi "Thiếp trước nay cho rằng chồng yêu vợ lẽ là vì vợ lẽ muốn thay bậc đổi ngôi, nay mới biết không phải. Phu nhân có thuật gì thế, nếu có thể dạy được thì thiếp xin làm học trò". Hằng Nương đáp “Ồ! chị tự xa cách rồi lại trách chồng sao? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim sẻ cho bụi rậm, càng xa cách nhau hơn. Về nhà cứ để mặc họ, dù chồng tự tới cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng thiếp sẽ tính tiếp cho chị".

Chu theo lời, trang điểm thêm cho Bảo Đới, bảo cùng ngủ với chồng, Hồng ăn uống gì cũng bảo Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng quan tâm thì Chu ra sức từ chối, từ đó mọi người đều khen Chu thị hiền. Như thế hơn tháng, Chu qua thăm Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Được đấy!” Bây giờ chị về nhà bỏ hết nữ trang, đừng mặc quần áo đẹp, đừng đánh phấn tô son, để mặt bẩn đi giày rách làm lụng với người nhà, một tháng sau hãy qua đây”.

Chu theo lời, mặc áo vá đụp, làm ra vẻ bẩn thỉu chỉ lo dệt vải chứ không hỏi gì tới chuyện khác. Hồng thương xót bảo Bảo Đới cùng làm lụng nhưng Chu không cho, cứ quát đuổi lên nhà. Như thế hơn tháng, lại qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương nói "Đứa nhỏ này dạy được đấy! Ngày tới là tiết Thượng ty*, muốn rủ chị đi chơi. Chị nên bỏ hết quần áo rách, giày dép áo quần thay mới một loạt rồi qua ta cho sớm", Chu thị vâng dạ.

*Tiết thượng ty: một lễ hội ở Trung Quốc cổ, tiến hành vào ngày Tỵ đầu tiên trong thượng tuần tháng ba âm lịch.

Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy đều theo như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong qua nhà Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói "Tốt lắm” rồi búi hộ mái tóc cánh phượng, mượt bóng như gương, tay áo không hợp thời trang thì tháo ra may lại, lại nói kiểu giày vụng, lấy vải vụn trong rương ra cùng khâu, xong rồi lập tức bảo Chu thay đổi. Lúc chia tay mời Chu uống rượu rồi dặn "Về gặp mặt chồng xong là đóng cửa đi ngủ ngay, y có tìm gõ cửa cũng đừng mở. Gọi ba lần mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn chuyện hôn hít vuốt ve. Nửa tháng sau hãy qua đây”.

Chu ăn mặc đẹp đẽ về nhà vào chào Hồng, Hồng chăm chú ngắm vợ từ trên xuống dưới, vui vẻ cười nói khác hẳn ngày thường. Chu thị kể qua buổi đi chơi rồi đỡ má ra vẻ mệt mỏi, trời chưa tối đã đứng dậy về phòng cài cửa đi nằm. Không bao lâu quả nhiên Hồng tới gõ cửa, Chu cứ nằm mãi không chịu dậy, Hồng mới bỏ đi, đêm sau cũng thế. Sáng ra Hồng trách móc, Chu nói "Ngủ một mình quen rồi, không chịu nổi sự quấy rầy”. Trời vừa xế Hồng đã vào phòng vợ ngồi giữ chỗ, kế tắt đèn lên giường như đêm tân hôn, thương yêu rất mực, lại hẹn đêm sau. Chu không chịu, hẹn trở đi cứ ba ngày một lần.

Khoảng nửa tháng qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò rồi nói "Từ nay thì chị có thể chiếm luôn chồng rồi. Có điều chị tuy đẹp nhưng chưa có duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên thì tranh giành được cả lòng sủng ái với Tây Thi, huống hồ là kẻ xấu hơn”. Liền bảo Chu liếc thử, nói “Không phải thế! Cạnh ngoài khóe mắt chưa được”. Lại bảo cười thử, nói "Không phải thế! Má bên trái chưa được," Rồi liếc mắt đưa tình, hé miệng cười duyên bảo Chu làm theo, mấy mươi lần mới hơi giống. Hằng Nương bảo "Chị về cứ soi gương mà tập, thuật chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn như lúc trên giường thì tùy cơ mà khêu gợi, tùy sở thích mà chiều chuộng thì đó không phải là điều dùng lời mà dạy được!".

Chu về làm đúng như lời Hằng Nương dạy, Hồng rất đẹp ý, bị cả nhan sắc lẫn phong thái của vợ làm cho si mê, chỉ sợ bị cự tuyệt. Trời vừa xế là vào ngồi nói chuyện vui cười với vợ không chịu rời phòng nửa bước, ngày nào cũng thế, không sao bảo ra được. Chu càng tử tế với Bảo Đới, mỗi khi ăn uống trong phòng đều gọi vào ngồi cùng, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã bảo nàng ta đi ra. Chu lại lừa chồng vào phòng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng suốt đêm Hồng không động chạm gì tới, Bảo Đới vì thế giận Hồng, gặp ai cũng oán trách ra miệng.

Hồng càng chán ghét, dần dần tới chỗ đánh đập. Bảo Đới phẫn uất bỏ cả trang điểm, áo bẩn giày rách, đầu bù tóc rối nên càng không trách ai được. Một hôm Hằng Nương hỏi Chu "Thuật của ta thế nào?". Chu đáp "Đạo thầy thật là tuyệt diệu, có điều đệ tử có thể làm được mà rốt lại vẫn chưa hiểu được. Để mặc là vì sao?". Hằng Nương nói "Chị không biết sao? Người ta vốn chán cái cũ mà thích cái mới, trọng cái khó mà khinh cái dễ. Chồng yêu vợ lẽ không hẳn vì cô ta đẹp mà vì thấy cái ít được nếm là ngon, thấy việc khó được gặp là hay. Cứ để mặc cho ăn no thì sơn hào hải vị cũng ngán chứ nói gì tới canh rau muống". Chu hỏi "Bỏ hết trang điểm rồi sau ăn mặc lộng lẫy là vì sao?". Hằng Nương đáp "Bỏ không ngó ngàng gì tới thì như xa cách lâu ngày, bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như mới tới, khác nào người nghèo chợt được ăn thịt ngon, sẽ thấy gạo lứt là vô vị. Lại không dễ dàng cho nếm ngay thì kẻ kia là cũ mà mình là mới, kẻ kia thì dễ mà mình thì khó, đó chính là thuật biến vợ thành thiếp đấy".

Chu cả mừng, bèn coi Hằng Nương là bạn thân chốn khuê phòng. Được vài mấy chợt Hằng Nương nói với Chu “Hai người chúng ta tình như ruột thịt, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích, trước đã định nói nhưng sợ chị nghi ngờ. Nay sắp từ biệt nên xin nói thật, thiếp chính là hồ. Thuở nhỏ thiếp gặp nạn, bị mẹ kế bán lên kinh đô, vì chồng thiếp đối xử tử tế nên không nỡ dứt tình ngay mới dùng dằng đến nay. Ngày mai cha thiếp trút xác lên tiên, thiếp phải về thăm không trở lại nữa". Chu cầm tay Hằng Nương than thở, sáng ra qua xem thì cả nhà đang hoảng hốt kinh sợ vì Hằng Nương đã biến đâu mất.

Dị Sử thị nói:Người mua ngọc không quý ngọc mà lại quý cái hộp đựng ngọc*. Tình người đối với mới, cũ, khó, dễ vẫn là điều ngàn xưa đến nay không sao hiểu được, nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu đã được dùng trong chỗ đó rồi. Kẻ nịnh thần ngày xưa thờ vua thì ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, đủ biết việc giữ cho mình được sủng ái lâu dài cũng là điều tâm truyền đấy.

*Người mua ngọc... cái hộp đựng ngọc: Hàn Phi tử chép có người nước Sở bán viên ngọc cho người nước Trịnh, lấy gỗ mộc lan làm cái hộp đựng, sơn phết chạm trổ đẹp đẽ, người nước Trịnh bèn mua cái hộp mà trả lại viên ngọc.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 70 -
Cát Cân
(Cát Cân)

Thường Đại Dụng người đất Lạc (tỉnh Hà Nam), rất mê hoa mẫu đơn. Nghe nói mẫu đơn ở Tào Châu (tỉnh Sơn Đông) đứng đầu cả Tề Lỗ (vùng Sơn Đông), đã có ý tới tìm. Gặp lúc có việc tới Tào Châu, nhân thuê khu vườn của một nhà thân sĩ để ở. Lúc ấy mới tháng hai, mẫu đơn chưa có, sinh cứ bồi hồi trong vườn nhìn chằm chằm vào cành, mong thấy nụ hoa nhú ra, lại làm đủ một trăm bài thơ tứ tuyệt nhan đề Hoài mẫu đơn (Nhớ mẫu đơn).

Ít lâu sau mẫu đơn có nụ, tiền lưng đã cạn phải cầm bán quần áo, nhưng vẫn say mê với hoa quên cả chuyện về. Một hôm sáng sớm ra vườn hoa, thấy có một nữ lang cùng bà vú ở đó, ngờ là gia quyến nhà quan vội quay vào phòng. Chiều ra vườn lại thấy, họ thong thả tránh đi. Liếc nhìn thấy nữ lang mặc quần áo lối cung trang vô cùng xinh đẹp, đang lúc ngây ngất chợt nghĩ "Đây chắc là tiên chứ dưới trần há có được người như thế sao". Vội vàng quay lại tìm, vừa qua một hòn giả sơn thì giáp mặt bà vú. Nữ lang đang ngồi trên hòn đá, thấy sinh thì giật nảy mình. Bà vú đứng trước mặt nàng, quát "Cuồng sinh định làm gì?". Sinh quỳ rạp xuống nói “Nương tử đây ắt là thần tiên". Bà vú thét mắng "Ăn nói bậy bạ như vậy thật đáng trói lại giải lên quan lắm", sinh cả sợ. Nữ lang mỉm cười nói "Thôi ta đi", rồi họ vòng qua hòn giả sơn đi mất.

Sinh quay về, cất bước không nổi, nghĩ chắc nữ lang về kể lại với cha anh ắt mình phải chịu nhục nhã, nằm lăn trong phòng tự hối hận vì đã liều lĩnh. Rồi nghĩ may mà nữ lang không có vẻ tức giận, có lẽ nàng không để bụng. Vừa hối hận vừa lo sợ suốt đêm phát ốm, đến rạng ngày vẫn không thấy ai tới hỏi tội mới hơi yên lòng. Song nhớ lại dung mạo âm thanh của nàng thì lại đổi sợ ra nhớ, cứ thế ba ngày, người gầy rộc đi như sắp chết. Đêm thắp đèn ngồi đến khuya, đầy tớ đã ngủ say thì bà vú kia bước vào cầm một cái liễn đưa sinh nói "Nương tử Cát Cân nhà ta tự tay nấu tô canh thuốc độc này đây, uống mau đi". Sinh nghe thế phát hoảng, kế nói "Kẻ hèn này với nương tử vốn không có thù oán, sao lại ban cho tội chết? Nếu đã là nương tử tự tay sắc thì ốm tương tư mà chết không bằng uống thuốc độc mà chết”, rồi ngửa cổ uống luôn. Bà vú cười cầm cái liễn đi. Sinh thấy vị thuốc thơm mát tựa hồ không phải là thuốc độc, giây lát thấy thân thể khoan khoái, đầu óc nhẹ nhàng, ngủ thiếp đi luôn.

Khi tỉnh thấy nắng đã soi sáng cửa sổ, thử trở dậy thì như đã khỏi bệnh, trong lòng càng tin nữ lang là tiên. Không biết làm sao gặp lại song lúc vắng người vẫn thấy phảng phất như nàng đang đứng đang ngồi, nên sinh lại vái lạy cầu khấn. Một hôm đi dạo chợt gặp phải nữ lang trong khóm cây rậm, không có ai khác bên cạnh. Sinh mừng quá lạy phục xuống đất, nữ lang tới gần đỡ dậy. Sinh chợt nghe mùi hương lạ tỏa ra khắp người nàng, liền nắm tay nàng đứng lên, thấy da thịt mềm mại khiến người ta nhũn cả xương cốt. Đang vừa muốn nói thì bà vú chợt tới, nàng bảo sinh núp vào sau tảng đá, chỉ về phía nam nói “Tối cứ theo cái thang trong vườn mà leo qua tường, chỗ bốn phía đều có cửa sổ sơn màu hồng là nơi thiếp ở", rồi vội vàng bỏ đi.

Sinh ngẩn ngơ mất cả hồn phách, không biết mình đang ở đâu. Đến đêm bắc thang leo lên bức tường phía nam thì bên trong đã có chiếc thang bắc sẵn, vui mừng leo xuống, quả thấy chỗ có cửa sổ sơn màu hồng, bên trong có tiếng gõ quân cờ. Sinh dừng lại không dám tới, lại leo qua tường quay về. Lát sau lại leo qua thì vẫn còn tiếng gõ quân cờ chan chát, tới gần nhìn thì thấy nữ lang đang ngồi đối diện với một mỹ nhân áo trắng, bà vú cũng ngồi đó, có một tỳ nữ đứng hầu, lại quay về. Qua lại ba lần, trống canh ba đã điểm. Sinh đang núp dưới chiếc thang bên này thì nghe bà vú đi ra nói "Ai đem cái thang ra bắc ở đây thế này?", rồi gọi tỳ nữ cùng đem cất. Sinh leo lên đầu tường, muốn xuống lần nữa thì không có thang, buồn bực quay về.

Đêm sau lại qua thì thang đã đặt sẵn trong tường, may là vắng vẻ không có ai. Vào tới nơi thì nữ lang ngồi một mình như đang nghĩ ngợi điều gì, thấy sinh giật mình đứng dậy thẹn thùng khép nép. Sinh chắp tay nói "Tự nghĩ mình phúc mỏng, sợ không có duyên phận với người tiên, ngờ đâu lại có đêm nay”. Rồi ôm lấy nàng, thấy lưng ong nhỏ nhắn, hơi thở thơm phúc. Nàng đẩy ra nói "Sao mà gấp thế?", sinh đáp "Việc hay thường khó khăn, chậm trễ thì quỷ ghét!". Chưa dứt lời thì nghe có tiếng người xa xa, nàng vội nói "Em Ngọc Bản tới, chàng hãy tạm núp xuống gầm giường”, sinh theo lời. Giây lát một cô gái bước vào cười nói "Tướng thua trận còn dám nói đánh nữa hay không? Ta đã pha trà sẵn, xin mời tới chơi luôn qua đêm". Cô gái lấy cớ mỏi mệt từ chối nhưng Ngọc Bản cứ cố mời, nàng ngồi lỳ không chịu đi. Ngọc Bản nói "Còn chần chừ nữa, hay là giấu trai trong phòng” rồi lôi nàng ra cửa đi mất.

Sinh lóp ngóp bò ra, hận quá liền lục chăn nệm mong tìm được một vật làm tin, nhưng trong phòng không có món nữ trang nào, chỉ có một cái như ý pha lê buộc mảnh khăn tía ở đầu giường trông xinh xắn đáng yêu, bèn nhét vào bụng. Kế leo qua tường, về tới nhà xếp áo thấy vẫn còn đượm hương thơm của nàng, càng thêm thiết tha ái mộ. Nhưng vì bị cái sợ chui dưới gầm giường nên lo bị khép vào tội lớn, nghĩ ngợi không dám quay lại nữa, chỉ giữ kỹ cái như ý chờ nàng tới tìm. Cách một đêm quả nhiên nữ lang tới, cười nói "Trước nay thiếp cho rằng chàng là bậc quân tử chứ không biết là kẻ trộm cắp”. Sinh nói "Đúng thế đấy chứ, sở dĩ ngẫu nhiên có lúc chưa phải là bậc quân tử chỉ là vì mong được như ý thôi". Rồi ôm nàng vào lòng, cởi giải quần cho. Da ngọc vừa lộ ra, hương thơm đã tỏa khắp. Trong lúc ôm ấp vuốt ve thấy hơi thở mồ hôi của nàng đều thơm phức, nhân nói “Ta vẫn nghĩ nàng là bậc tiên nữ, nay càng thấy là đúng. Nay may được nàng đoái thương cũng là duyên kiếp ba sinh. Nhưng chỉ sợ Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc*, cuối cùng sẽ thành mối hận biệt ly thôi".

* Đỗ Lan Hương xuống trần một lúc: Dung Thành tiên lục chép có người đánh cá ở Tương Giang ven hồ Động Đình nghe tiếng trẻ khóc, tới nhìn thì là một bé gái khoảng một hai tuổi bèn đem về nuôi, đến năm hơn mười tuổi thì dung mạo xinh đẹp lạ lùng, quả đúng như người tiên. Chợt có Đông Linh chân nhân trên không hạ xuống đưa nàng đi. Lúc ra đi cô gái nói với người đánh cá rằng "Ta là tiên nữ Đỗ Lan Hương, vì có lỗi bị đày xuống trần, nay xin từ biệt”.

Nàng cười nói "Chàng nói quá lời! Thiếp chẳng qua như Thiến nữ lìa hồn* tình cờ động lòng vì tình thôi. Việc này phải thật kín đáo, chứ e lời thị phi đơm đặt trắng đen thì chàng không thể mọc cánh bay còn thiếp cũng không thể cưỡi gió trốn, lúc ấy tai họa còn thê thảm hơn biệt ly nhiều”. Sinh cho là đúng nhưng rốt lại vẫn ngờ nàng là tiên, cứ cố hỏi họ tên. Nàng đáp "Chàng cho thiếp là tiên, mà đã là tiên thì cần gì phải lưu tên họ”. Sinh lại hỏi bà vú là ai, nàng đáp “Đó là bà Tang. Thuở nhỏ thiếp được bà che chở nên không coi như hạng tôi tớ". Rồi trở dậy ra về, dặn "Chỗ thiếp ở có nhiều tai mắt, không thể ở lâu, lúc nào có cơ hội thiếp sẽ tới". Khi từ biệt nàng đòi cái như ý, nói "Vật này không phải của thiếp mà là của Ngọc Bản để quên". Sinh hỏi Ngọc Bản là ai, nàng đáp “Đó là em con ông chú”, rồi trở gót quay về. Nàng đi rồi, chăn gối đều nhuốm mùi hương lạ.

* Thiến nữ lìa hồn: Thiến nữ tức Thiến Nương. Xem chú thích truyện Diệp sinh, quyển I.

Từ đó cứ hai ba đêm nàng lại tới một lần, sinh say mê chẳng nghĩ gì tới việc về quê mà đã hết sạch tiền, định bán ngựa. Nàng biết được, nói “Vì thiếp mà chàng hết tiền bán áo, lòng đã không nỡ, lại còn bán cả vật đỡ chân thì hơn ngàn dặm đường lấy gì mà đi? Thiếp có của riêng, có thể giúp chàng chút ít". Sinh từ chối, nói “Cảm lòng nàng yêu thương, dù thịt nát xương tan cũng không đủ đền đáp, thế mà còn tham lam hèn hạ để nàng tốn kém thì sao đáng gọi là người?". Nàng cố ép nói "Nhờ chàng một lúc" rồi cầm tay sinh dẫn tới dưới một gốc dâu, chỉ một hòn đá bảo vần đi. Sinh làm theo, nàng lại rút chiếc trâm trên đầu chọc vài mươi nhát xuống đất rồi bảo đào lên. Sinh làm theo, thấy lộ ra một cái miệng vò. Nàng mò vào trong lấy ra một đỉnh bạc khoảng năm mươi lượng, sinh giữ tay ngăn lại nhưng nàng không nghe, cứ lấy thêm hơn mười đĩnh nữa, sinh cố trả lại một nửa rồi lấp đất lại như cũ.
Một đêm nàng nói với sinh "Gần đây đã hơi có lời đồn, thế không thể lâu dài được, không thể không tính kế khác". Sinh cả kinh hỏi "Làm sao bây giờ. Tiểu sinh vốn lo xa nhưng nay vì chuyện nàng, thật như góa phụ thất tiết không thể tự chủ được. Xin nhất nhất vâng lời nàng, dù đao cưa rìu búa gì cũng bất kể". Nàng bàn cùng trốn đi, bảo sinh về trước, hẹn gặp nhau ở đất Lạc. Sinh sắp sửa hành trang về quê, định về trước đợi đón nàng, nhưng vừa vào tới nhà thì xe nàng đã tới cổng. Hai người lên sảnh cho gia nhân lạy chào, láng giềng tới mừng không ai biết là hai người đi trốn. Sinh nơm nớp lo sợ nhưng nàng vẫn thản nhiên, nói với sinh "Không nói là ngoài ngàn dặm thì ma quỷ cũng không biết được, dù có biết thì thiếp là con gái Trác Vương Tôn lại không bằng Tương Như* à?".

*Trác Vương Tôn... Tương Như: Hán thư chép con gái Trác Vương Tôn là Trác Văn Quân xinh đẹp, giỏi thi phú, hiểu âm luật nhưng góa chồng sớm. Tư Mã Tương Như tới chơi nhà Trác Vương Tôn thấy nàng xinh đẹp bèn gảy đàn hát khúc Phượng cầu hoàng để khêu gợi, Văn Quân bèn trốn theo Tương Như. Đây cô gái có ý nói sẵn sàng vì tình trốn theo người yêu.

Em trai sinh là Đại Khí, tuổi vừa mười bảy. Nàng nhìn thấy khen "Thật có bản căn thông tuệ, tiền đồ còn hơn chàng nhiều”. Đại Khí sắp làm đám cưới thì vợ chưa cưới chết yểu, cô gái nói với sinh “Em Ngọc Bản của thiếp chàng đã thấy mặt rồi, dung mạo không xấu, tuổi cũng xấp xỉ, làm vợ chú ấy có thể nói là xứng đôi”. Sinh nghe thế phì cười, đùa nhờ nàng làm mai. Nàng nói "Nếu muốn cũng không khó". Sinh mừng hỏi làm cách nào, nàng đáp "Em Ngọc Bản và thiếp rất thân thiết, chỉ cần hai con ngựa kéo chiếc xe nhẹ và một bà vú đi về thôi”. Sinh sợ lộ chuyện trước không dám theo lời, nàng quả quyết không hề gì, lập tức sai thắng xe, bảo bà Tang đi. Vài ngày tới Tào Châu, tới gần cổng làng bà Tang xuống xe, bảo người đánh xe dừng lại đợi bên đường, nhân lúc trời tối vào làng, hồi lâu đưa Ngọc Bản ra lên xe phóng về, đêm nghỉ ngày đi. Cô gái tính ngày, bảo Đại Khí mặc quần áo đẹp đi đón, cách năm mươi dặm thì gặp nhau, đánh xe trở về, nổi nhạc kết đèn làm lễ cưới. Từ đó cả hai anh em cùng có vợ đẹp, gia cảnh ngày càng khá giả.

Một hôm có bọn cướp lớn vài mươi tên vào nhà, sinh biết có biến, gọi cả nhà lên lầu. Bọn cướp vào nhà tới vây chặt dưới lầu, sinh cúi xuống hỏi "Có thù oán gì với nhau chăng?” Chúng đáp “Không có thù oán gì, nhưng có hai điều muốn xin. Một là nghe nói hai phu nhân nhà này xinh đẹp tuyệt thế, xin cho được thấy mặt một lần. Hai là năm mươi tám người ở đây, mỗi người xin năm trăm lượng vàng". Rồi chất củi dưới lầu, định dùng kế phóng hỏa để uy hiếp. Sinh ưng thuận nộp tiền nhưng chúng không thỏa ý, vẫn đòi đốt lầu, gia nhân cả sợ. Cô gái muốn cùng Ngọc Bản xuống lầu, ai ngăn cũng không nghe, thay áo quần lộng lẫy bước xuống, chưa hết ba bậc thì nói với bọn cướp "Chị em ta đều là người nơi tiên cung tạm thời xuống trần, sợ gì bọn giặc cướp. Muốn cho các ngươi ngàn vạn lượng vàng, chỉ e các ngươi không dám lấy thôi". Bọn cướp nhất tề ngước lên vái lạy, đồng thanh nói không dám. Hai chị em đang định trở lên, một tên thét “Trò bịp đấy”. Nàng nghe thấy quay lại nói "Muốn gì cứ làm ngay đi, cũng chưa muộn mà” Bọn cướp nhìn nhau im lặng, hai chị em ung dung bước lên lầu. Chúng nhìn theo đến khi hai nàng khuất bóng rồi mới ồn ào rút đi.

Sau hai năm, chị em mỗi người sinh một con trai, lúc ấy cô gái mới tự nói là họ Ngụy, mẹ được phong làm Tào Quốc phu nhân. Sinh ngờ là đất Tào không có nhà thế gia nào họ Ngụy, vả lại dòng họ lớn mà mất hai con gái đời nào chịu để yên, tuy không dám căn vặn tới cùng nhưng vẫn thầm ngờ vực. Bèn kiếm cớ trở lại đất Tào, vào địa giới đất Tào là hỏi thăm ngay nhưng không có nhà thế gia nào họ Ngụy. Bèn tìm đến nhà trọ cũ, chợt thấy trên vách có bài thơ Tặng Tào Quốc phu nhân, vô cùng kinh sợ lạ lùng. Bèn hỏi chủ nhân, chủ nhân cười, lập tức mời đi xem Tào Phu nhân, tới nơi thì là một gốc mẫu đơn cao ngang chái nhà. Hỏi vì đâu có tên ấy thì vì đó là thứ hoa đệ nhất đất Tào nên người ta mới phong đùa như vậy. Hỏi đó là giống gì, chủ nhân đáp là Tử Cát sinh càng sợ hãi, cho cô gái là tinh hoa.

Trở về cũng không dám hỏi han, chỉ kể lại chuyện bài thơ Tặng Tào phu nhân để dò ý. Cô gái chợt biến sắc bỏ ra ngay, gọi Ngọc Bản bế con tới, nói với sinh "Ba năm trước cảm lòng chàng nghĩ tới nên đem thân đền đáp. Nay đã ôm lòng nghi ngờ thì sao còn có thể chung sống được nữa?". Rồi lập tức ném con ra xa, hai đứa nhỏ rơi xuống chết ngay. Sinh đang hoảng hốt thì hai nàng đã biến mất, hối hận vô cùng. Vài hôm sau ở chỗ hai đứa nhỏ rơi chết mọc lên hai cây mẫu đơn, qua đêm đã cao một thước, ngay trong năm ấy nở hoa một màu tía, một màu trắng, đóa hoa to như cái mâm, tươi đẹp dày đặc hơn hẳn các giống Cát Cân, Ngọc Bản bình thường. Mấy năm sau hai cây mẫu đơn ấy tươi tốt thành bụi dày, nếu đem đi trồng nơi khác thì biến đổi không ra giống gì cả. Từ đó, nơi nhiều mẫu đơn không đâu hơn đất Lạc.

Dị Sử thị nói:Để lòng cả vào việc nhung nhớ thì có thể thông suốt tới cả quỷ thần, hoa kia lay động cũng không thể nói là vô tình vậy. Thiếu phủ cô quạnh còn coi hoa là phu nhân*, huống hồ là người đẹp biết nói cười, cần gì phải vất vả truy tìm cho tớì tận nguồn gốc lai lịch chứ! Tiếc cho Thường sinh chưa phải là kẻ đạt vậy.

*Thiếu phủ... phu nhân: lấy ý câu trong bài Hý đề tân tài tường vi của Bạch Cư Dị thời Đường "Thiếu phủ vô thê xuân tịch mịch, Hoa khai tương nhĩ đáng phu nhân” (Thiếu phủ xuân về buồn vắng vợ, Chờ khi hoa nở gọi phu nhân). Thời Đường thường gọi Huyện úy là Thiếu phủ, Bạch Cư Dị lúc ấy đang làm Huyện úy nên tự xưng như vậy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 71 -
Hoàng Anh
(Hoàng Anh)

Mã Tử Tài người phủ Thuận Thiên, gia đình mấy đời rất chuộng hoa cúc, đến đời Tài thì càng say mê hơn, nghe ở đâu có giống cúc quý thì dù xa xôi ngàn dặm cũng tìm tới. Một hôm có người khách từ Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới trọ trong nhà, nói họ hàng bên ngoại mình có một vài giống cả phương Bắc không đâu có. Mã thích quá lập tức thu xếp hành trang theo tới Kim Lăng, khách tìm đủ cách mới tìm được cho hai cây. Mã giữ gìn như của báu, về tới giữa đường gặp một thiếu niên cưỡi ngựa theo sau một cỗ kiệu có mui, bèn tới gần bắt chuyện. Thiếu niên nói mình họ Đào, ăn nói rất phong nhã, nhân hỏi Mã từ đâu tới, Mã kể thật. Thiếu niên nói "Không có giống cúc nào không đẹp, chỉ là ở người chăm bón tưới tắm thôi". Nhân bàn tới thuật trồng cúc, Mã thích lắm, hỏi định đi đâu. Thiếu nỉên đáp "Chị ta chán đất Kim Lăng, muốn lên phương Bắc ở". Mã vui mừng nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng lều tranh có thể ở tạm, nếu không chê hoang vắng bỉ lậu thì khỏi phải vất vả đi đâu cả" Đào phóng ngựa lên trước kiệu thưa với chị, người trong kiệu vén rèm trò chuyện, là một mỹ nhân tuyệt thế, tuổi khoảng hai mươi. Nàng nói với em trai "Nhà thấp nhỏ không sao nhưng vườn thì cần rộng". Mã gật đầu, hai chị em bèn theo Mã về.

Phía nam nhà Mã có một khu vườn hoang, trên có ba bốn gian nhà nhỏ, Đào mừng rỡ bèn vào đó ở. Hàng ngày qua nhà phía bắc giúp Mã trồng cúc, cúc đã chết khô thì nhổ lên rồi giâm xuống, cây nào cũng sống. Nhưng gia cảnh Đào thanh bần, hàng ngày ăn uống với Mã chứ xem trong nhà như không mấy khi nổi lửa. Vợ Mã là Lữ thị cũng rất quý chị Đào, thỉnh thoảng lại giúp cho gạo thóc. Chị Đào tiểu tự là Hoàng Anh, ăn nói khéo léo nhã nhặn, cứ qua chỗ Lữ thị cùng nhau may vá. Một hôm Đào nói với Mã "Nhà ông vốn không dư dật, hàng ngày ta lại vì miếng cơm làm lụy kẻ tri giao, cứ thế mãi sao được. Nay tính kế thì bán cúc cũng đủ mưu sinh". Mã vốn ngay thẳng nên nghe Đào nói thế rất khinh bỉ, nói “Ta cho rằng ông là kẻ cao sĩ phong lưu, có thể vui với cảnh nghèo, nay bàn như thế là lấy vườn cúc làm cái chợ, nhục cho cúc thật". Đào cười nói "Tay làm hàm nhai không phải tham, trồng hoa để sống không phải tục. Người ta vốn không nên mong giàu bậy bạ song cũng bất tất phải mong nghèo”. Mã không nói gì, Đào đứng dậy ra về, từ đó cứ cành gãy mầm xấu bên nhà Mã bỏ đi thì nhặt hết đem về nhà mình, cũng không qua ăn ngủ với Mã nữa, Mã có mời mới qua.

Không bao lâu đến kỳ hoa cúc nở, Mã nghe bên cổng nhà Đào ồn ào như cái chợ, lấy làm lạ ra xem thì thấy khách buôn tới mua hoa, vai vác xe chở đầy đường. Nhìn tới hoa đều là giống lạ mắt chưa từng thấy, trong lòng ghét Đào tham lam, muốn tuyệt giao nhưng hận vì còn giữ kín giống lạ bèn gõ cửa qua định trách mắng. Đào ra dắt tay dẫn vào, thấy nửa mẫu sân bỏ hoang đều thành luống cúc, ngoài mấy gian nhà ra không còn đất trống, những chỗ vừa cắt cúc đi thì lấy cành khác dặm vào, hoa trên luống đều đẹp đẽ, nhìn kỹ đều là những thứ mình bỏ đi trước kia. Đào vào nhà lấy rượu thịt ra bày cạnh luống cúc nói "Ta nghèo không giữ được điều răn thanh bạch, bao nhiêu ngày mới may kiếm được chút ít, cũng đủ uống say” Lát sau trong phòng có tiếng gọi Tam Lang, Đào dạ quay vào, giây lát đem ra các thức nấu nướng ngon lành. Mã nhân hỏi lệnh tỷ sao không xuất giá, Đào đáp chưa đến lúc. Mã hỏi lúc nào, Đào đáp bốn mươi ba tháng nữa. Mã lại gặng hỏi tại sao nói thế, Đào chỉ cười không đáp, hai người uống say rồi mới chia tay.

Hôm sau lại qua, thấy những nhánh cúc mới dặm đã cao gần thước lấy làm lạ bèn năn nỉ hỏi Đào cách trồng. Đào nói "Điều ấy không thể lấy lời mà truyền được, vả lại ông không trồng cúc để mưu sinh thì biết làm gì”. Lại mấy hôm nữa, trong sân ngoài ngõ hơi vắng người mua, Đào bèn lấy chiếu cói bọc cúc, chất lên mấy xe chở đi. Giữa mùa xuân năm sau Đào mới chở hoa lạ ở phương Nam về, mở hàng bán hoa trong kinh đô, mười ngày thì bán hết sạch, kế lại về trồng cúc. Hỏi tới những người năm trước mua cúc của Đào giữ cây làm giống thì năm sau hoa đều thay đổi kém hẳn, lại phải mua của Đào. Đào vì thế ngày càng giàu có, năm đầu làm thêm phòng ốc, năm thứ hai xây nhà, việc xây cất cứ tùy ý không bàn với chủ nhân, dần dần vườn trồng cúc cũ đều là nhà cửa. Lại mua riêng một khu ruộng, xây tường chung quanh trồng toàn cúc, mùa thu chở hoa đi, cuối xuân vẫn không về. Kế vợ Mã chết, Mã muốn cưới Hoàng Anh nên nhờ người bắn tin, Hoàng Anh mỉm cười có vẻ ưng thuận, chỉ đợi Đào về mà thôi. Hơn năm Đào vẫn chưa về, Hoàng Anh đốc thúc tôi tớ trồng cúc giống hệt như Đào, có tiền lại càng buôn bán lớn, cấy cày đến hai mươi khoảnh ruộng tốt ngoài thôn, nhà cửa ngày càng bề thế. Bỗng có khách từ Đông Việt (tỉnh Quảng Đông) tới đem thư của Đào gới về, mở xem thì là Đào khuyên chị lấy Mã, xem lại ngày viết thư đúng là ngày vợ Mã chết. Mã nhớ lại lúc uống rượu trong vườn, tính đến đó vừa đúng bốn mươi ba tháng, vô cùng lạ lùng bèn đưa thư cho Hoàng Anh xem, hỏi nộp sính lễ ở đâu. Hoàng Anh từ chối không nhận sính lễ, lại vì chỗ ở cũ chật chội, muốn Mã qua ở bên khu nam giống như ở rể. Mã không nghe, chọn ngày đón dâu về nhà mình.

Hoàng Anh về với Mã rồi, mở cửa trên vách thông với khu nam, hàng ngày qua đó sai bảo đầy tớ. Mã xấu hổ vì vợ giàu, thường dặn Hoàng Anh làm sổ biên chép của cải hai khu để đề phòng bị lẫn lộn, nhưng những thức cần dùng, Hoàng Anh đều lấy ở khu nam. Chưa được nửa năm, vật dụng trong nhà đều là của nhà Đào, Mã lập tức sai người đem trả hết, dặn đừng lấy qua nữa. Chưa đầy một tuần mọi thứ lại lẫn lộn, mấy lần đem trả như thế, Mã không sao chịu nổi phiền phúc. Hoàng Anh cườí nói "Chàng Trần Trọng Tử* có mệt không?", Mã xấu hổ không kê biên gì nữa, nhất nhất theo ý Hoàng Anh. Hoàng Anh thuê thợ, mua vật liệu để dựng nhà, Mã không sao cản được, qua vài tháng thì lầu gác san sát, hai khu nhà hợp làm một không chia ranh giới nữa.

*Trần Trọng Tử: Cao sĩ truyện của Hoàng Phủ Mật chép ẩn sĩ Trần Trọng Tử nước Tề thời Chiến quốc là em Trần Đới đại quý tộc ở nước Tề, "ăn lộc muôn chung”. Trần Trọng Tử cho rằng như thế là bất nghĩa, vì vậy dắt vợ trốn tới đất Ô Lăng nước Sở, chồng đan hài, vợ dệt vải để sống, được người ta coi là liêm. Nhân vật Hoàng Anh có ý chế nhạo.

Nhưng theo ý Mã nên gia đình đóng cửa không bán cúc nữa, song việc chi dùng còn hơn cả các nhà thế gia. Mã áy náy nói "Nết trong sạch ba mươi năm của ta vì nàng mà bị lụy. Nay sống ở đời mà mọi sự ăn ở đều nhờ vào vợ, thật không có chút phẩm giá đàn ông. Cho nên người ta đều muốn giàu mà ta chỉ muốn nghèo thôi". Hoàng Anh nói "Thiếp không phải là phường tham bỉ, nhưng nếu không dư dật chút ít thì ngàn năm sau người ta lại nói Uyên Minh* nghèo thấu xương, trăm đời không ngóc đầu nổi, nên phải xóa bỏ tiếng chê cười cho nhà Bành Trạch* chúng ta thôi. Nhưng kẻ nghèo mong giàu thì khó, còn kẻ giàu muốn nghèo vốn rất dễ, bao nhiêu tiền bạc trong nhà xin chàng cứ mặc ý phá tán, thiếp không tiếc đâu”. Mã nói "Làm hao tổn tiền bạc của người khác thì tệ lắm". Hoàng Anh nói "Chàng không muốn giàu nhưng thiếp cũng không thể chịu nghèo. Thôi cứ ở riêng, ai trong cứ trong, ai đục cứ đục, có hại gì đâu?”. Rồi sai cất một gian nhà tranh trong vườn, chọn tỳ nữ xinh đẹp cho tới hầu hạ Mã.

*Uyên Minh, Bành Trạch: Nam sử chép Đào Tiềm thời Tấn tự Uyên Minh, từng giữ chức Huyện lệnh Bành Trạch nên người ta còn gọi là Đào Bành Trạch, tính ngay thẳng thanh cao, rất thích hoa cúc. Chị em Hoàng Anh trong truyện này lấy họ Đào là có ý nói mình là hậu duệ của Đào Tiềm.

Mã yên lòng ra ở đó nhưng được vài ngày nhớ Hoàng Anh quá, sai gọi nhưng nàng không chịu tới bất đắc dĩ phải quay về, cứ cách một đêm một lần thành lệ. Hoàng Anh cười nói “ăn nhà đông ngủ nhà tây, kẻ liêm không nên như thế", Mã cũng phì cười không trả lời được, bèn lại ở chung như trước. Gặp lúc Mã có việc lên Kim Lăng đúng vào mùa cúc thu, sáng đi ngang hàng bán hoa thấy bày đủ thứ chậu, hoa đều rất đẹp, động lòng ngờ là cúc của Đào. Lát sau chủ nhân ra thì quả là Đào, mừng rỡ hàn huyên rồi ngủ lại đó. Mã nhân rủ Đào về, Đào nói “Kim Lăng là quê cũ của ta, ta sắp cưới vợ ở đây. Có dành dụm được ít tiền, phiền anh đem về cho chị ta, khoảng cuối năm ta sẽ về". Mã không chịu cố nài nỉ Đào về, lại nói "May gia cảnh đã phong túc, có thể ngồi mà ăn không cần phải buôn bán gì cả". Đào bèn ngồi trong hàng sai đầy tớ thay mình ngã giá bán rẻ, vài ngày thì bán hết hoa, vội thu xếp hành lý thuê thuyền về Bắc.

Vào nhà thì chị đã dọn dẹp phòng ốc, chuẩn bị giường chiếu chăn đệm như đã biết trước là em trai về. Đào từ khi về tới nhà thì cởi hành lý coi việc nhà, tu sửa hết nhà cửa vườn tược, hàng ngày chỉ cùng Mã uống rượu đánh cờ, không tiếp người khách nào. Anh chị muốn tìm vợ cho nhưng Mã không chịu, chị bèn sai hai tỳ nữ hầu hạ giường chiếu, qua ba bốn năm sinh được một gái. Đào vốn uống rượu rất hào, chưa ai thấy say. Mã có người bạn là Tăng sinh, tửu lượng cũng chưa ai bằng, gặp lúc ghé chơi, Mã bảo uống thi với Đào. Hai người thả sức uống rất vui vẻ, chỉ hận là biết nhau quá muộn. Uống từ giờ Thìn đến canh tư, tính ra mỗi người uống hết trăm bầu. Tăng say mèm ngủ luôn tại bàn, Đào đứng lên về phòng ngủ, ra tới luống cúc thì ngã vật xuống, ném cái áo bên cạnh hóa luôn thành cây hoa cúc cao bằng đầu người, mang hơn chục đóa hoa đều to bằng nắm tay. Mã khiếp đảm báo Hoàng Anh, Hoàng Anh vội tới nhổ cây cúc đặt trên mặt đất, nói “Sao mà say tới mức này?” rồi đắp cái áo lên, kéo Mã cùng đi, bảo đừng nhìn.

Sáng ra Mã tới thì thấy Đào nằm bên luống cúc, mới sực hiểu ra hai chị em là tinh cúc, từ đó càng thêm yêu kính. Từ ngày lộ tung tích, Đào uống rượu càng buông thả, thường viết thư mời Tăng tới uống rượu, chơi với nhau rất thân. Gặp ngày Tết Tăng tới thăm, dắt hai người đầy tớ mang theo một vò rượu trắng ngâm thuốc, hẹn cùng uống kỳ hết. Vò rượu gần cạn mà hai người vẫn chưa say lắm, Mã lại ngầm rót thêm rượu vào, hai người lại uống cạn. Tăng say khướt, bọn đầy tớ cõng về. Đào nằm lăn ra đất, lại hóa thành cây cúc. Mã thấy đã quen không sợ nữa, cứ theo đúng cách nhổ lên đặt trên đất rồi ngồi canh bên cạnh xem diễn biến. Hồi lâu lá cúc càng héo đi, Mã cả sợ mới báo với Hoàng Anh. Hoàng Anh hoảng hốt nói "Chết em ta rồi", rồi chạy ra xem thì cả gốc lẫn cành cúc đã khô héo. Nàng vô cùng đau xót, ngắt lấy cành hoa giâm vào chậu mang về phòng riêng, hàng ngày tưới bón chăm sóc. Mã vô cùng hối hận, rất oán Tăng, mấy ngày sau thì nghe tin Tăng chết vì say rượu. Nhánh cúc trong chậu dần nảy mầm, tháng chín đã trổ hoa, cành ngắn nụ mướt, ngửi có mùi thơm như rượu, đặt tên là "Túy đào” (Đào say), tưới bằng rượu thì rất tươi tốt. Về sau con gái Đào lớn lên lấy chồng nhà thế gia, còn Hoàng Anh đến trọn đời cũng không có gì khác lạ.

Dị Sử thị nói:Người của mây trắng trên núi xanh, say rượu mà chết*, đời đều thương tiếc nhưng chưa chắc họ đã không lấy đó làm điều khoái ý. Trồng loại hoa ấy trong sân thì như gặp mặt bạn hiền, như đối diện người đẹp, không thể không tìm cho được vậy.

*Người của... mà chết: Phó Kỳ người thời Đường, có bệnh không mời thầy thuốc, tự ghi mộ chí rằng “Kỳ là người của mây trắng núi xanh, say rượu mà chết”. Đến năm tám mươi tuổi chết, dặn người nhà cứ để trần truồng mà chôn, kẻ thức giả cho là người phóng đạt.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 72 -
Mê Sách
(Thư Si)

Lang Ngọc Trụ người Bành Thành, cha làm quan Thái thú, lúc tại chức thanh liêm, được bổng lộc không mua ruộng đất nhà cửa, chỉ chứa sách đầy nhà. Đến đời Ngọc Trụ lại càng say mê, nhà nghèo khó phải bán hết đồ đạc nhưng một quyển sách của cha để lại cũng không nỡ bán. Khi cha còn sống từng chép thiên Khuyến học* dán bên phải chỗ ngồi, Lang hàng ngày vẫn ngâm nga, lại lấy the trắng bọc lại sợ mờ mất chữ, không phải vì công danh mà thật lòng tin rằng trong sách cũng có vàng có thóc.

*Thiên Khuyến học: tức bài thơ Khuyến học của vua Chân tông nhà Tống, nguyên văn như sau "Phú gia bất dụng mại lương điền, Thư trung tự hữu thiên chung túc. An cư bất dụng giá cao đường, Thư trung tự hữu hoàng kim ốc. Thú thê mạc hận vô lương môi, Thư trung hữu nữ nhan như ngọc. Xuất môn mạc hận vô nhân tùy, Thư trung xa mã đa như thốc. Nam nhi dục toại bình sinh chí, Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc” (Nhà giàu không cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở yên chẳng cần xây gác cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ chớ hờn không mối mai, Trong sách có nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe nhiều lóc nhóc. Nam nhi muốn thỏa chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc)".

Ngày đêm mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không bỏ bê, hơn hai mươi tuổi cũng không lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới. Bạn bè thân thích tới chơi cũng không buồn hỏi han chuyện trò, nói năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc khách tự về. Lần nào học quan về sát hạch cũng được lấy đứng đầu, nhưng thi mãi vẫn không đỗ. Một hôm Lang đang học, chợt có cơn gió lớn thổi bay sách, vội đuổi theo nhặt chợt chân bị sụt xuống đất, mò xem thì dưới hố có cỏ mục, đào lên thì là kho lúa của người xưa cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn được nhưng càng tin mấy chữ "ngàn chung thóc" là đúng nên càng chăm đọc sách.

Hôm khác bắc thang trèo lên giá sách cao, trong đống sách vở nhặt được chuỗi tiền vàng dài một thước, cả mừng cho rằng nghiệm với chữ "nhà vàng". Đưa cho người ta thì té ra là vàng mạ, không phải vàng thật, lòng thầm oán cổ nhân lừa mình. Không bao lâu người bạn cùng khoa với cha Lang ra làm Quan sát đạo ấy, tính mộ đạo Phật. Có người khuyên Lang cúng chuỗi tiền xây tháp Phật. Quan sát thích lắm ban cho Lang ba trăm đồng vàng và hai con ngựa. Lang mừng cho là chữ “xe ngựa, nhà vàng” đều đã nghiệm nên càng ra sức học hành nhưng đã ba mươi tuổi.

Có người khuyên lấy vợ, Lang nói "Trong sách có nàng mặt như ngọc, ta lo gì không có vợ đẹp”. Lại học thêm hai ba năm vẫn không thấy gì, có người chế giễu. Lúc ấy trong dân gian ngoa truyền rằng "Chức Nữ trên trời trốn theo trai”, có người nhân đùa Lang rằng "Cháu trời bỏ trốn chỉ vì ông thôi”, Lang biết là đùa nên không buồn cãi. Một đêm đọc sách Hán thư tới quyển tám*, tới giữa quyển thấy hình một mỹ nhân cắt bằng lụa mỏng ép trong đó, hoảng sợ nói "Câu Trong sách có nàng mặt như ngọc là ứng vào đây chăng?”, trong lòng chợt thấy buồn rầu.

* Hán thư tới quyển tám: Hán thư quyển này có chép tờ chiếu tháng 5 năm Bản Thủy thứ 4 đời Hán Tuyên đế, trong có câu "Phụ tử chi thân, phu phụ chi đạo, thiên tính dã" (Tình cha con, đạo vợ chồng là tính trời), có vẻ ám hợp với nội dung truyện này vì nhân vật Lang Ngọc Trụ không chịu lấy vợ.

Nhìn kỹ mỹ nhân thì thấy con mắt lông mày như người sống, sau lưng có chữ "Chúc Nữ" mờ mờ, vô cùng lạ lùng, hàng ngày cứ đặt lên trên sách xoay trở ngắm nghía đến nỗi quên ăn quên ngủ. Một hôm đang chăm chú nhìn thì mỹ nhân chợt nhỏm dậy ngồi trên sách mỉm cười, Lang khiếp đảm lạy sụp xuống trước bàn, khi ngẩng lên thấy nàng đã cao một thước, càng sợ lại lạy phục xuống. Mỹ nhân ung dung bước xuống đất, rõ ràng là một giai nhân tuyệt thế. Lang lạy hỏi là thần gì, mỹ nhân cười nóì “Thiếp họ Nhan tên Như Ngọc, chàng đã biết từ lâu rồi. Hàng ngày được chàng rủ mắt xanh, nếu thiếp không tới một phen e rằng ngàn năm sau không còn ai tin vào cổ nhân”.

Lang mừng rỡ để ở cùng phòng, ngủ chung với nhau rất thân thiết, nhưng lúc chăn gối thì không làm sao cho ra đàn ông. Mỗi khi đọc sách là bảo cô gái ngồi cạnh, nàng bảo đừng học nữa nhưng Lang không nghe. Cô gái nói “Chàng sở dĩ không đỗ đạt là vì đọc sách đó thôi. Thử xem những người khoa bảng có mấy người đọc sách như chàng. Không nghe là thiếp bỏ đi đấy”. Lang nghe theo nhưng chốc lát lại quên lời nàng, cất tiếng ngâm đọc. Giây lát ngoái tìm cô gái thì đã biến mất, hoảng hốt quỳ xuống cầu khấn nhưng vẫn không thấy đâu. Chợt nhớ tới nơi ẩn náu cũ của nàng, mở sách Hán thư kiểm kỹ lại, tới chỗ cũ quả tìm thấy. Gọi mãi vẫn không động, Lang quỳ xuống năn nỉ nàng mới bước ra, nói "Chàng còn trái lời thiếp thì quyết sẽ vĩnh biệt".

Rồi lấy bàn cờ cỗ bài ra hàng ngày cùng chơi, nhưng Lang không thích thú gì, cứ vắng nàng lại giở trộm sách ra đọc, sợ bị nàng biết nên ngầm cất quyển tám sách Hán thư vào chỗ khác để nàng không tìm thấy. Một hôm đang đọc say sưa thì cô gái tới, cho rằng nàng không biết, vội gấp sách lại thì nàng đã biến mất. Lang cả sợ, lục soát khắp sách vở không thấy, tới quyển tám sách Hán thư tới đúng trang cũ lại thấy, bèn lạy lục khấn khứa thề không đọc sách nữa. Cô gái bèn bước ra bắt cùng đánh cờ, nói “Nếu ba ngày đánh không khá thiếp sẽ đi đấy". Đến ngày thứ ba chợt một ván Lang thắng nàng hai quân, nàng bèn vui vẻ trao đàn bắt tập, hẹn năm ngày phải chơi được một khúc. Lang lo nhìn dây bấm phím, không rảnh mà nghĩ tới chuyện khác, lâu sau thì đã đàn đúng tiết tấu giai điệu, bất giác mừng rỡ múa lên. Cô gái bèn hàng ngày rủ uống rượu đánh bài, Lang vui thích quên cả việc đọc sách, nàng lại bảo ra ngoài kết bạn, vì vậy bỗng nhiên nổi tiếng sành đời.

Cô gái nói “Chàng có thể thi đỗ làm quan rồi”. Một đêm Lang nói với cô gái "Phàm người ta nam nữ ở chung sẽ sinh con, nay ta với nàng ăn ở đã lâu mà sao không thấy gì cả?”. Cô gái cười nói "Chàng hàng ngày đọc sách, thiếp đã nói là vô ích, nay quả chưa hiểu nổi một chương "Chồng vợ". Hai chữ "gối chăn" cũng có công phu chứ”. Lang kinh ngạc hỏi công phu gì, nàng cười không nói. Lát sau ngầm bày vẽ, Lang thích lắm nói "Ta không nghĩ rằng cái lạc thú vợ chồng lại có chỗ không nói rộng ra được". Từ đó gặp người ta là kể, ai cũng che miệng cười. Cô gái biết được trách móc, Lang nói "Kẻ khoét ngạch trèo tường mới không dám kể ra, chứ cái lạc thú trong đạo thiên luân thì ai cũng thế, có gì mà kiêng kỵ". Qua tám chín tháng cô gái quả sinh một trai, thuê vú nuôi trông nom. Một hôm nàng nói với Lang "Thiếp theo chàng hai năm đã sinh con, có thể chia tay rồi, ở lâu sợ gây tai họa cho chàng, hối hận không kịp". Lang nghe nói khóc ròng, lạy phục xuống không đứng lên, nói "Nàng không nghĩ tới đứa nhỏ oa oa sao?”. Cô gái cũng buồn rầu, hồi lâu mới nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì phải phá tán hết sách vở đi", Lang nói "Đó là quê cũ của nàng, là tính mệnh của ta, sao nàng lại nói thế”. Cô gái không ép, nói "Thiếp cũng biết là có số mệnh, nhưng không thể không báo trước”.

Trước đây trong họ Lang có người nhìn thấy cô gái ai cũng giật mình, lại chưa thấy mai mối với nhà nào nên cùng cật vấn. Lang không biết nói dối nên cứ im lặng không đáp, mọi người càng ngờ vực, lời đồn đại dần tới quan huyện họ Sử. Sử người đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), xuất thân Tiến sĩ, nghe chuyện động lòng muốn được thấy mặt người đẹp một lần bèn sai bắt Lang và cô gái. Cô gái nghe tin bỏ trốn biệt tích, quan huyện tức giận bắt Lang lột hết quần áo, cùm kẹp tàn nhẫn, mong cô gái sẽ tự tới. Lang gần chết vẫn không nói một lời, quan tra tấn đứa tỳ nữ, nó nói ra vài chuyện loáng thoáng. Quan cho là yêu quái bèn đích thân tới nhà Lang khám xét, thấy sách vở chất đầy nhà nhiều không kiểm xuể liền ra lệnh đốt, khói kết lại trước sân không tan, mờ mịt như mây mù.

Sau Lang được tha, xin được thư người học trò cũ của cha nên lấy lại được áo mũ nho sinh, năm ấy thì đỗ Cử nhân, năm sau đỗ Tiến sĩ. Nhưng trong lòng chứa chất căm hận, lập bài vị thờ Nhan Như Ngọc, sớm chiều khấn rằng “Nàng có khôn thiêng xin phù hộ cho ta được làm quan đất Mân". Sau quả được cử đi Tuần sát đất Mân, ở lại ba tháng tra hỏi các tội ác của Sử, tịch biên gia sản. Lúc ấy Sử có người anh em họ ngoại làm quan Tư lý đòi cưới ái thiếp, Sử nói thác là mua tỳ nữ gởi lại trong dinh. Khi vụ án kết thúc, Lang lập tức trở về, đưa cả người ấy theo.

Dị Sử thị nói:Vật trong thiên hạ, chứa cất thì bị oán ghét, ưa thích thì sinh ma quỷ, cô gái là yêu quái ma quỷ trong sách vở vậy. Việc giống như quái đản nhưng muốn trị cũng không phải không được, việc đốt sách chẳng cũng tàn ngược sao? Còn kẻ kia có lòng riêng tư ắt phải bị người căm hờn báo thù, than ôi, có gì lạ đâu!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 73 -
Tề Thiên Đại Thánh
(Tề Thiên Đại Thánh)

Hứa Thịnh người đất Duyện (tỉnh Trực Lệ) theo anh là Thành đi buôn bán tới đất Mân (tỉnh Phúc Kiến). Còn chưa cất hàng xong thì có người khách nói "Đại thánh thiêng lắm, hãy tới đền cầu khẩn”. Thịnh chưa biết Đại thánh là thần nào bèn theo anh tới đó, vào thấy điện gác san sát nối nhau vô cùng tráng lệ đẹp đẽ. Vào điện cúng bái thấy tượng thần mình người đầu khỉ, té ra là Tề Thiên Đại thánh Tôn Ngộ Không, khách khứa đều kính cẩn vái lạy, không ai dám tỏ vẻ khinh nhờn. Thịnh vốn cương trực, cười thầm người đời ngu muội nên lúc mọi người thắp hương khấn khứa thì ngầm bỏ ra. Về tới nhà trọ, anh trách Thịnh không kính cẩn, Thịnh nói “Tôn Ngộ Không là truyện ngụ ngôn của ông Khưu* đặt ra, sao lại tin là có thật như thế? Mà giả như có thật thì bao nhiêu búa rìu sấm sét em xin chịu cả”.

* Ông Khưu: tức Khưu Xử Cơ, người cuối thời Tống đầu thời Nguyên, đệ tử của Vương Trùng Dương phái Toàn Chân Đạo giáo, có đạo hiệu là Trường Xuân tử, được Thành Cát Tư Hãn mời qua Mông Cổ, có viết quyển Trường Xuân chân nhân Tây du ký. Nhân vật Hứa Thịnh trong truyện này lầm Tây du ký của Khưu Xử Cơ với Tây du ký của Thi Nại Am kể chuyện Huyền Trang thỉnh kinh.

Chủ quán trọ nghe gọi tên Đại thánh thì xua tay tái mặt như sợ Đại thánh nghe được, Thịnh thấy thế càng bô bô nói ầm lên, ai nghe thấy cũng bịt tai bỏ chạy. Đến đêm quả nhiên Thịnh bị bệnh, đầu nhức như búa bổ, có người khuyên tới đền tạ lỗi nhưng Thịnh không nghe. Không bao lâu thì đầu đỡ đau nhưng đùi lại nhức, qua đêm thì mọc một cái mụn nhọt lớn, cả chân đều lở lói, không ăn ngủ gì được, anh tới đền cầu khẩn thay nhưng không hiệu nghiệm. Có người nói thần phạt thì phải tự mình cầu khẩn, Thịnh rốt lại vẫn không tin, hơn một tháng thì những chỗ lở lành dần nhưng lại nảy ra một cái mụn nhọt khác đau nhức gấp bội. Thầy thuốc tới lấy dao cắt bỏ những chỗ thịt thối, máu chảy cả tô nhưng sợ người ta nói bị thần phạt nên cắn răng không rên rỉ.

Hơn tháng sau mới bình phục nhưng anh lại mắc bệnh nặng. Thịnh nói “Thế nào nào? Người kính thần cũng bị bệnh như vậy, đủ thấy là bệnh của ta chứ không phải do Ngộ Không". Anh nghe thế rất bực tức, trách em không đi cầu khấn cho mình. Thịnh nói "Anh em như chân tay, trước đây em chân tay lở lói còn không chịu đi cầu khấn, nay chẳng lẽ chân tay có bệnh mà đổi ý à?", rồi chỉ rước thầy cắt thuốc chứ không chịu đi cầu đảo. Anh uống thuốc xong thì lăn ra chết, Thịnh đau đớn uất ức trong lòng, mua quan tài liệm anh xong tới thẳng đền Đại thánh chỉ lên tượng thần kể tội, nói “Anh ta bị bệnh, nói là do người giận lây khiến ta không sao bày tỏ được, nếu như ngươi là thần thật cứ làm cho anh ta sống lại, ta sẽ lạy thờ làm sư phụ không dám nói gì khác, nếu không ta sẽ theo đúng cách ngươi đối xử với Tam Thanh mà đối xử với ngươi*, cũng có thể trút hờn cho anh ta nơi chín suối”.

* Làm đúng cách ... với ngươi: Tây du ký kể Tôn Ngộ Không bảo hộ Tam Tạng đi lấy kinh tới nước Xa Trì, vua quan nước ấy trọng Đạo khinh Phật, Ngộ Không cùng Bát Giới, Sa Tăng nửa đêm lẻn vào nơi cúng Tam Thanh (tức Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thái Thượng Lão Quân, Linh Bảo Đạo Quân của Đạo giáo Trung Hoa) đem tượng Tam Thanh vứt vào nhà xí rồi hóa thành tượng Tam Thanh ăn uống. Đây nhân vật Hứa Thịnh có ý nói sẽ quăng tượng Tề Thiên Đại thánh vào nhà xí.

Đến đêm Thịnh nằm mơ thấy một người tới gọi đi, vào đền Đại thánh, ngẩng lên thấy Đại thánh lộ vẻ giận dữ quát mắng “Vì ngươi không chịu phục nên ta mới lấy đao của Bồ Tát xuyên qua chân ngươi, đã không biết tự hối lại còn ăn nói lằng nhằng. Lẽ ra ta đã tống ngươi xuống ngục Rút lưỡi dưới âm ty, nhưng nghĩ ngươi nhất sinh ngay thẳng nên mới tạm tha cho. Còn như anh ngươi bệnh thì vì ngươi rước gã lang băm về làm giảm tuổi thọ, chứ người khác dính líu gì vào đó? Nay mà ta không tạm thi triển chút ít pháp lực thì bọn ngông cuồng còn chưa chịu im mồm".

Rồi sai Thanh y sứ tới xin Diêm Vương, Thanh y sứ nói "Sau ba ngày thì danh sách ma quỷ đã báo lên Thiên đình, sợ Diêm Vương khó mà tha được” Đại thánh bèn rút thiết bảng làm bút viết những gì không biết, rồi bảo Thanh y sứ cầm thư tới Diêm Vương. Hồi lâu Thanh y sứ trở về, Thành cũng theo về, vào quỳ xuống lạy tạ. Đại thánh hỏi sao chậm thế, Thanh y sứ bẩm "Diêm Vương không dám tự chuyên, cầm lệnh chỉ của Đại thánh lên báo với Bắc Đẩu* vì thế nên về chậm". Thịnh rảo bước lên vái lạy tạ ơn, Đại thánh nói "Đưa anh ngươi về ngay đi, nếu biết theo điều thiện thì ta sẽ ban phúc cho", anh em vừa mừng vừa tủi dắt nhau cùng về.

*Bắc đẩu: Tây du ký chép trên trời có hai tòa Nam tào Bắc đẩu coi sổ sách ghi việc sống chết của muôn vật, Nam tào coi sổ sinh, Bắc đẩu coi sổ tử.

Thịnh tỉnh dậy lấy làm lạ, vội tới mở quan tài ra xem thì quả anh đã sống lại bèn đỡ ra, hết sức cảm tạ pháp lực Đại thánh. Thịnh từ đó dốc lòng tin tưởng thờ phụng còn hơn cả người thường. Nhưng vốn liếng của hai anh em vì mắc bệnh đã hao mất một nửa, anh lại chưa thật khỏe, hai anh em cứ nhìn nhau buồn bã. Một hôm Thịnh ngẫu nhiên đi dạo ngoài thành, chợt gặp một người áo xám nhìn mình hỏi "Anh có chuyện gì lo lắng à?". Thịnh đang buồn rầu không biết nói với ai, bèn kể nhĩmg chuyện mình gặp. Người áo xám nói “Có một nơi phong cảnh rất đẹp, cứ tạm tới ngắm xem cũng đủ giải sầu”. Hỏi ở đâu, người ấy chỉ nói không xa, Thịnh bèn đi theo.

Ra khỏi thành khoảng nửa dặm, người áo xám nói "Ta có thuật mọn, trong khoảnh khắc có thể tới nơi". Rồi bảo Thịnh ôm lưng mình, khẽ gật đầu một cái chợt có mây đùn lên dưới chân, nhảy vọt lên trên không biết là đi bao xa. Thịnh cả sợ nhắm mắt không dám mở ra, trong khoảnh khắc nghe người ấy nói "Tới rồi". Thịnh thấy thành quách trong vắt đủ màu sắc rực rỡ lạ lùng, kinh ngạc hỏi đây là nơi nào. Người ấy đáp "Đây là thiên cung" rồi rảo bước đi vào, càng đi càng lên cao, xa xa thấy một ông già, người áo xám mừng rỡ nói "Gặp được người này thì anh có phúc lắm", rồi giơ tay vái chào. Ông già mời vào nhà, pha trà mời khách nhưng chỉ bưng ra có hai chén chứ không nhìn ngó gì tới Thịnh. Người áo xám nói "Đây là đệ tử của ta, đi buôn bán ngàn dặm tới thăm tiên cung, xin ông tặng cho chút quà”. Ông già sai tiểu đồng lấy ra một mâm đá trắng to bằng trứng chim sẻ, sáng loáng như băng, bảo Thịnh tự nhặt lấy.

Thịnh nghĩ cầm về có thể làm tửu lệnh uống rượu, bèn lấy sáu viên, người áo xám cho rằng quá ít bèn lấy thêm cho sáu viên nữa, đưa cả cho Thịnh bảo cất vào túi rồi chắp tay nói "Đủ rồi". Thịnh từ biệt ông già đi ra, người áo xám lại bảo bám vào mình rồi bay xuống, chốc lát đã tới mặt đất. Thịnh dập đầu thỉnh giáo tiên danh, người áo xám cười nói “Phép thuật đi trên mây vừa rồi gọi là Cân đẩu vân* đấy". Thịnh giật mình hiểu ra là Đại thánh, lại cầu xin giúp đỡ. Đại thánh nói "Vừa rồi là gặp Tài tinh, cho ngươi được lãi mười hai phần, còn muốn gì nữa".

*Cân đẩu vân: Tây du ký chép Tôn Ngộ Không có phép cân đẩu vân, uốn lưng một cái đã vượt được mười vạn tám ngàn dặm đường.

Thịnh lạy tạ, đứng lên nhìn thì Đại thánh đã biến mất. Thịnh trở về mừng rỡ kể lại với anh, cởi túi ra nhìn thì đá đã lặn cả vào thắt lưng rồi. Về sau cất hàng trở về, được lãi rất nhiều, từ đó cứ tới buôn bán ở đất Mân là vào đền khấn vái Đại thánh, người khác khẩn cầu có khi không hiệu nghiệm chứ Thịnh khẩn cầu thì điều gì cũng ứng nghiệm.

Dị Sử thị nói:Ngày xưa có người sĩ nhân đi ngang chùa, vẽ hình cây đàn tỳ bà lên vách rồi đi, đến khi quay về thì chùa nổi tiếng linh thiêng, lửa hương không dứt. Chuyện thiên hạ vốn không cứ phải có thật, người ta cho là thiêng thì thành thiêng thôi. Sao lại như thế? Vì lòng người hướng về thì vật cũng theo về vậy. Cứng cỏi ngay thẳng như Thịnh ắt phải được thần linh phù hộ, há cần tới ngọn kim thêu trong lỗ tai, lông tơ biến hóa, cân đẩu vân lên trời* sao? Rốt lại lại bị mê hoặc, cũng là kiến thức không đúng vậy.

* Kim thêu... lên trời: đều 1à những phép thuật của nhân vật Tôn Ngộ Không trong Tây du ký.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 74 -
Thần ếch
(Thanh Oa Thần)

Vùng Giang Hán thờ cúng thần ếch rất kính cẩn, trong đền không biết là bao nhiêu ngàn vạn con ếch, có con to bằng cái lồng. Có ai xúc phạm làm thần giận thì trong nhà liền có điềm lạ, ếch nhái nhảy cả lên bàn lên giường, thậm chí bám đầy trên vách không rơi xuống, nhà ấy sẽ gặp tai họa. Người ta sợ hãi cứ cúng tế cầu khẩn, nếu thần vui lòng thì khỏi. Đất Sở (tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc) có Tiết Côn Sinh lúc nhỏ thông minh, diện mạo tuấn tú. Năm lên sáu bảy tuổi có bà già áo xanh tới nhà tự xưng là sứ giả của thần, vào ngồi trò chuyện ngỏ ý thần muốn gả con gái cho Côn Sinh. Ông Tiết tính chất phác vụng về nghe thế rất không thích, liền lấy cớ con trai còn nhỏ để từ chối, nhưng tuy cố từ chối vẫn chưa dám hỏi cưới con gái nhà khác.
Được vài năm Côn Sinh dần lớn lên, dạm hỏi con gái họ Khương, thần nói với Khương “Tiết Côn Sinh là con rể của ta, sao ngươi dám ăn đồ cúng hả?". Khương sợ hãi trả lại sính lễ, ông Tiết lo lắng trai giới mang lễ vật ra đền khấn khứa, tự nói không dám kết thông gia với thần. Vừa khấn xong thì thấy cỗ bàn cúng tế đều có giòi lớn bò ra lúc nhúc cựa quậy, bèn đổ bỏ tạ tội rồi về, trong lòng càng sợ nhưng cũng chờ để nghe ngóng xem sao.
Một hôm Côn Sinh đi đường có sứ giả đón báo thần tuyên triệu, cố mời ghé lại, sinh bất đắc dĩ phải đi theo. Vào tới một phủ đệ cánh cổng sơn son, lầu gác hoa lệ, có ông già ngồi trên sảnh đường, trông như người bảy tám mươi tuổi. Côn Sinh vào lạy ra mắt, ông già sai kéo đứng lên, cho ngồi cạnh bàn. Giây lát đám tỳ nữ, vú già tụ tập lại nhìn ngó dày đặc chung quanh, ông già quay lại nói "Vào trong báo là Tiết lang tới". Mấy người tỳ nữ chạy đi, lát sau có bà già đỡ một nữ lang ra, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song. Ông già chỉ nàng nói "Đây là tiểu nữ tên Thập Nương, ta tự cho rằng có thể sánh đôi với chàng, nhưng cha chàng lại cho là khác loài nên cự tuyệt, vậy thì do chàng thôi". Côn Sinh chăm chú nhìn Thập Nương, trong lòng yêu thích, im lặng không nói gì. Bà già nói “Ta đã biết là chàng ưng thuận, xin cứ về trước, sẽ lập tức đưa Thập Nương tới ngay”. Côn Sinh vâng dạ rồi vội về kể vớì cha. Cha hốt hoảng không biết làm sao đành ưng thuận, sai con quay lại tạ ơn thần nhưng Côn Sinh không chịu đi.
Đang lời qua tiếng lại thì kiệu hoa đã tới ngoài cổng, cả đám tỳ nữ xúm xít đưa Thập Nương vào. Nàng lên sảnh đường làm lễ, cha mẹ chồng thấy mặt đều vui mừng. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, cầm sắt rất hòa hợp. Từ đó vợ chồng thần thường giáng lâm nhà sinh, cứ thấy mặc áo đỏ là có tin vui, mặc áo tràng là có tiền bạc, vì vậy nhà ngày càng khá giả. Từ khi Côn Sinh cưới Thập Nương thì khắp nhà từ hàng rào đến cầu xí đều có ếch, mọi người không ai dám chửi bới giẫm đạp, chỉ có Côn Sinh tuổi trẻ ngông nghênh, vui thì thôi giận thì đạp cho chết chẳng thương xót gì lắm. Thập Nương tuy hiền lành nhu thuận nhưng hay giận, rất không thích việc ấy song Côn Sinh không vì có Thập Nương mà kiềm chế. Thập Nương bực tức nói năng có chỗ xúc phạm, Côn Sinh nổi giận nói "Ngươi cậy cha mẹ có thể gieo tai họa cho người ta à? Trượng phu có sợ gì con ếch?". Thập Nương nghe thế giận lắm, nói "Từ khi thiếp về đây thì nhà chàng ruộng thêm lúa, buôn thêm lời không phải là ít, nay cả nhà già trẻ đều được no ấm, lại như chim vọ mọc cánh rồi thì muốn mổ mắt chim mẹ sao?". Côn Sinh càng tức tối, nói “Ta đang ngại nhận thêm những thứ nhơ bẩn, không dám lưu lại cho con cháu, xin cứ chia tay cho sớm", rồi đuổi Thập Nương.
Cha mẹ vừa nghe tin thì Thập Nương đã đi rồi, bèn quát mắng Côn Sinh, sai mau đuổi theo giữ lại nhưng Côn Sinh căm tức không chịu. Đến đêm mẹ con đều ngã bệnh, trong người bứt rứt không ăn uống gì được. Ông Tiết sợ hãi tự mang roi tới đền thần tạ lỗi, thiết tha nài nỉ. Qua ba ngày thì hai người dần dần khỏi bệnh, Thập Nương tự quay về, vợ chồng lại đầm ấm như trước. Thập Nương hàng ngày cứ trang điểm xong là ngồi yên, không làm việc nội trợ, những áo quần giày tất của Côn Sinh đều nhờ mẹ khâu vá. Một hôm mẹ bực tức nói "Con trai đã có vợ còn làm phiền mẹ, nhà người ta thì con dâu hầu mẹ chồng, nhà này thì mẹ chồng hầu con dâu”. Thập Nương nghe thấy tức tối lên thêm nói "Con buổi sớm tới thăm, buổi tối tới viếng, đạo thờ mẹ chồng còn gì khác nữa? Còn như việc con kém cỏi, thì thật không thể tiếc chút tiền thuê mướn mà chuốc khổ vào thân được". Mẹ không biết nói sao, hổ thẹn khóc lóc.
Côn Sinh vào thấy mắt mẹ có ngấn lệ, hỏi biết được chuyện giận dữ mắng Thập Nương, Thập Nương cứ giữ ý mình không chịu thua. Côn Sinh nói "Lấy vợ mà không được vui sướng thì chẳng bằng đừng có, cho dù làm con ếch già giận thì bất quá cũng chỉ gặp nạn dữ mà chết là cùng”, lại đuổi Thập Nương, Thập Nương ra cửa đi thẳng. Hôm sau nhà Côn Sinh phát hỏa, lửa lan ra cháy rụi cả mấy gian, bàn ghế giường tủ đều thành tro. Côn Sinh tức giận tới đền thần quát mắng kể tội, nói "Nuôi con gái không thờ phụng được cha mẹ chồng, đã không dạy bảo gì mà lại còn bao che cái dở của con, thần là phải rất công bằng mà lại dạy người ta sợ vợ à? Vả lại việc bát đũa va chạm là do ta gây ra, không dính líu gì tới cha mẹ, muốn đâm chém cưa xẻ gì cứ nhằm vào ta thôi. Còn nếu không thế thì ta cũng đốt đền của ông để trả thù”. Nói xong vác củi vào chất dưới điện định châm lửa, dân quanh đó xúm lại năn nỉ mới tức tối bỏ về, cha mẹ nghe được đều sợ tái mặt.
Đến đêm thần báo mộng cho thôn bên cạnh, sai cất lại nhà cho con rể, sáng ra thì kẻ mua gỗ người mướn thợ kéo tới làm nhà cho Côn Sinh, từ chối thế nào họ cũng không chịu thôi, hàng ngày có mấy trăm người gọi nhau trên đường. Không mấy ngày thì nhà cửa đều xây xong, mọi thứ đồ dùng đều đầy đủ. Vừa dọn dẹp đâu đấy thì Thập Nương đã tới, lên thềm tạ lỗi với cha mẹ, ăn nói nhỏ nhẹ từ tốn rồi quay qua Côn Sinh tươi cười cả nhà bèn đổi oán làm vui. Từ đó Thập Nương càng hiền dịu, suốt hai năm không có chuyện xích mích. Thập Nương rất ghét rắn, Côn Sinh đùa bắt một con rắn nhỏ bỏ vào hộp bảo nàng mở ra. Thập Nương biến sắc mắng nhiếc, Côn Sinh cũng đổi cười thành giận tức tối cãi vã, Thập Nương nói “Lần này thì không cần phải đuổi, xin vĩnh biệt từ đây”, rồi ra cửa đi. Ông Tiết cả sợ đánh đòn Côn Sinh rồi tới tạ tội với thần, may mà không bị giáng họa nhưng cũng lặng ngắt không thấy đáp lại.
Hơn năm sau Côn Sinh nhớ Thập Nương, vô cùng hối hận, lén tới chỗ thần năn nỉ Thập Nương nhưng không ai trả lời. Không bao lâu nghe tin thần gả Thập Nương cho họ Viên, vô cùng thất vọng, cũng dạm hỏi người khác nhưng xem mặt mấy đám đều không có ai bằng Thập Nương, vì vậy càng thêm nhớ nhung. Tới nhà họ Viên nghe ngóng thì thấy họ đang quét dọn nhà cửa, sửa sang xe kiệu chuẩn bị đám cưới. Trong lòng thẹn thùng uất ức không thể tự chủ, bỏ ăn ngã bệnh, cha mẹ hoảng sợ lo lắng nhưng không biết làm sao. Chợt đang lúc mê man thấy có người vỗ về lay gọi, nói "Đại trượng phu mấy lần muốn dứt tình mà như thế này sao?”, mở mắt nhìn thì là Thập Nương. Côn Sinh mừng quýnh nhảy bật dậy hỏi “Sao nàng lại tới đây?", Thập Nương đáp “Vì gã khinh bạc đối xử với nhau tệ bạc, chỉ nên nghe lời cha mẹ mà lấy người khác nên từ lâu đã nhận sính lễ của nhà họ Viên, có điều thiếp nghĩ đi nghĩ lại cũng không nỡ. Đêm nay đã là ngày cưới, cha lại cho rằng không mặt mũi nào trả lại sính lễ nên đích thân thiếp đem tới trả. Lúc đi cha thiếp đưa ra cửa nói: ‘Con nhãi ngây không nghe lời ta, sau này có bị nhà họ Tiết đối xử tàn tệ thì có chết cũng đừng về đây nữa’ ".
Côn Sinh cảm vì tình nghĩa của nàng chảy nước mắt ròng ròng, gia nhân cùng mừng rỡ chạy đi báo cho ông bà hay. Bà Tiết nghe tin không chờ nàng qua chào, vội tới phòng con trai nắm tay nàng òa khóc. Từ đó Côn Sinh cũng trở nên đứng đắn không đùa ác nữa, vợ chồng vì thế càng yêu thương nhau. Thập Nương nói "Trước đây thiếp cho rằng chàng là người khinh bạc, chưa chắc đã sống được với nhau đến lúc bạc đầu nên không dám lưu lại con cái nơi trần thế. Nay chàng đã không có ý khác, thiếp sẽ sinh con trai”. Không bao lâu vợ chồng thần mặc áo đỏ giáng lâm nhà sinh, hôm sau Thập Nương lâm bồn, sinh một lần được hai con trai, từ đó hai bên đi lại không dứt. Dân quanh vùng nếu có ai xúc phạm làm thần giận cứ tới năn nỉ với Côn Sinh trước, sai đàn bà ăn mặc đẹp đẽ vào phòng vái lạy Thập Nương, nếu nàng cười thì được thần tha tội. Con cháu họ Tiết rất đông, người ta gọi là nhà Tiết ếch, nhưng người ở gần không dám gọi thế, chỉ có người ở xa gọi mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 75 -
Vãn Hà (Vãn Hà)

Tiết Đoan ngọ ở vùng Ngô Việt có trò đua thuyền rồng. Người ta chạm gỗ làm thuyền hình con rồng, vảy rồng sơn son thếp vàng, mạn thuyền đều chạm trổ, lấy gấm thêu làm buồm. Cuối thuyền là đuôi rồng, cao hơn một trượng, dùng dây vải kết làm sạp, có đứa con trai nhỏ ngồi trên đó múa may nhảy nhót diễn các trò khéo, bên dưới là sông sâu rất nguy hiểm. Cho nên thuê đứa trẻ ấy thường đưa nhiều tiền cho cha mẹ trước để dạy nó luyện tập, nếu rơi xuống nước chết cũng không được oán hận.

Ở vùng Ngô Môn (Tô Châu) thì cho các ca kỹ xinh đẹp đứng trên đuôi thuyền múa hát, cũng có khác nhau. Ở huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) có đứa nhỏ họ Tưởng tên A Đoan, mới bảy tuổi đã giỏi diễn những trò khéo không ai hơn được hết nên rất nổi tiếng. Năm mười sáu tuổi người ta vẫn còn thuê, nhưng thuyền đua tới núi Kim Sơn thì rơi xuống nước chết đuối, bà Tưởng chỉ có đứa con ấy nhưng cũng đành đau xót khóc lóc mà thôi.

A Đoan không biết mình đã chết, được hai người tới dẫn đi, thấy dưới nước cũng có một cõi trời đất riêng, ngoái nhìn thì thấy sóng nước vây quanh cao như vách núi. Chợt có cung điện hiện ra, thấy một người mặc giáp trụ ngồi trên điện, hai người kia nói "Đó là Long Oa quân", rồi bảo A Đoan vái lạy. Long Oa quân vẻ mặt ôn hòa vui vẻ nói "Tài khéo có thể cho vào ban Liễu Điều” hai người bèn dẫn A Đoan tới một chỗ bốn phía cung điện rộng rãi. Rảo bước lên hành lang phía đông thì có một bọn thiếu niên ra chào hỏi, đều khoảng mười ba mười bốn tuổi, kế có một bà già tới, mọi người gọi là bà Giải, lên ngồi sai diễn trò thử. Kế bèn dạy điệu múa Sấm ran sông Tiền Đường và khúc nhạc Gió dịu hồ Động Đình, chỉ nghe chiêng trống ầm ầm vang rền các cung điện. Khi tiếng chiêng trống đã tắt, bà già sợ A Đoan không thể nhớ hết, cứ dặn đi dặn lại. Nhưng A Đoan học qua một lần đã hiểu rõ cả, bà già mừng rỡ nói "Được thằng nhỏ này thật chẳng thua kém gì A Hà".

Hôm sau Long Oa quân tổng duyệt các ban ca vũ, các ban đều tập hợp cả lại. Đầu tiên duyệt ban Dạ Xoa, đều là mặt quỷ áo da cá, chiêng lớn chu vi khoảng bốn thước, trống thì khoảng bốn người ôm, tiếng như sấm sét, có gào thét cũng không nghe thấy gì. Ban ấy vừa múa thì sóng lớn nổi cuồn cuộn dâng lên ngang trời, liền có một điểm tinh quang trên trời sa xuống, tới đất thì tắt, Long Oa quân vội sai dừng lại. Sai ban Khổng Oanh ra, đều là mỹ nhân mười sáu tuổi thổi sinh gõ phách dìu dặt, liền có gió mát hây hây, tiếng sóng tắt hẳn, mặt nước êm ả trong suốt như một cõi pha lê nhìn rõ cả trên dưới, diễn xong thì đều lui vào đứng dưới thềm phía tây. Kế tới ban Yến Tử, đều kết bím tóc rũ xuống, trong có một nữ lang tuổi khoảng mười bốn mười lăm trở lại rung tay áo nghiêng búi tóc múa điệu Rắc hoa chập chờn qua lại, trên khắp người tung ra những đóa hoa ngũ sắc theo gió lả tả rụng xuống rải khắp trên sân, múa xong thì theo ban cũng lui vào dưới thềm phía tây.

A Đoan đứng bên cạnh nhìn trong lòng ưa thích, hỏi người cùng ban thì nàng ấy là Vãn Hà. Không bao lâu lại gọi tới ban Liễu Điều, Long Oa quân đặc biệt thử tài một mình A Đoan. Đoan liền múa theo điệu đã được dạy, vẻ vui mừng giận dữ hiện ra theo điệu nhạc, lui tới qua lại ăn khớp với tiết tấu, Long Oa quân khen là sáng dạ, thưởng cho nhung phục ngũ sắc và trâm cài đầu hình cá trên khảm ngọc dạ quang. A Đoan vái lạy tạ ơn rồi cũng rảo bước về thềm phía tây đứng vào ban. Đoan đứng giữa đám đông cứ nhìn Vãn Hà chằm chằm. Vãn Hà cũng từ xa chăm chú nhìn lại. Giây lát Đoan theo ban từ từ đi về phía bắc, Vãn Hà cũng thong thả theo ban đi về phía nam, cách nhau có mấy quãng đường phép nghiêm không dám làm rối loạn hàng ngũ, chỉ nhìn nhau ngây ngất mà thôi.

Kế duyệt tới ban Giáp Điệp, đều là đồng nam đồng nữ từng cặp ra múa, đứa cao đứa thấp, đứa lớn đứa nhỏ nhưng đều mặc áo quần màu trắng màu vàng một loạt như nhau. Các ban duyệt xong xếp hàng đi ra, ban Liễu Điều đi sau ban Yến Tử, Đoan rảo bước lên phía trên thì Vãn Hà đã thong thả lui về phía cuối, ngoảnh lại nhìn Đoan rồi cố ý đánh rơi chiếc trâm bằng san hô, Đoan vội nhặt lấy cho vào tay áo.

Về tới chỗ ở tơ tưởng thành bệnh bỏ ăn bỏ ngủ, bà Giải cứ mang thức ăn ngon tới cho, mỗi ngày ba bốn lần vào thăm hỏi, chăm sóc rất ân cần mà bệnh vẫn không hề giảm. Bà Giải lo lắng không biết làm sao, nói “Đã sắp đến ngày mừng thọ của Ngô Giang vương, làm sao bây giờ?”. Chiều tối có một đồng tử tới vào ngồi bên giường trên chuyện với Đoan, tự nói là trong ban Giáp Điệp rồi thong thả hỏi “Anh bệnh vì Vãn Hà phải không?”, Đoan giật mình hỏi sao biết, nó cười đáp “Chị Vãn Hà cũng như anh thôi". Đoan buồn rầu ngồi dậy nhờ tìm cách giúp cho, đồng tử hỏi “Anh đi được không?" Đoan đáp “Cố gắng thì cũng được”, đồng tử bèn kéo Đoan ra, đi về phía nam, qua một cánh cửa thì vòng qua phía tây, lại mở hai lần cửa nữa thì thấy mấy mươi mẫu sen mọc trên đất bằng, tàu lá to như cái chiếu, cánh hoa to như cái lọng, đài hoa rụng xuống đất chất cao cả thước.

Đồng tử dẫn Đoan vào đó, nói “Cứ ngồi tạm ở đây” rồi đi. Giây lát một mỹ nhân rẽ hoa sen bước vào, thì là Vãn Hà. Hai nguời gặp nhau vừa mừng vừa sợ, cùng kể lể nỗi nhớ nhung rồi thuật qua chuyện mình. Kế lấy lá dằn lên lá sen che kín lại, vun đài hoa rụng làm chiếu rồi vui vẻ ân ái với nhau, kế hẹn chiều hôm sau gặp lại rồi chia tay. Đoan về thì bệnh cũng giảm từ đó ngày nào hai người cũng gặp nhau ở bãi sen. Qua vài hôm thì theo Long Oa quân tới chúc thọ Ngô Giang vương, chúc thọ xong các ban đều về, chỉ còn Vãn Hà và một người trong ban Khổng Oanh ở lại dạy múa trong cung Ngô Giang vương, vài tháng không có tin tức gì.

Đoan sốt ruột trông ngóng, thì có bà Giải hàng ngày lui tới phủ Ngô Giang vương, bèn bịa rằng Vãn Hà là em họ ngoại của mình, xin bà dẫn đi thăm mong được gặp mặt một lần. Nhưng ở lại trong phủ Ngô Giang vương mấy ngày mà cung cấm thâm nghiêm, Vãn Hà lại không sao ra được đành rầu rĩ trở về, hơn một tháng thì nhớ nhung mỏi mòn sắp chết. Một hôm bà Giải vào, đau xót chia buồn nói “Tiếc thay, Vãn Hà nhảy xuống sông tự tử rồi”. Đoan kinh sợ chảy nước mắt ròng ròng không sao cầm được, vứt mũ xé áo mang vàng ngọc bỏ ra, định chết theo Vãn Hà, nhưng thấy nước trong sông như bức vách, ra sức lấy đầu húc mà vẫn không vào được cũng muốn quay về song sợ bị hỏi tới mũ áo tội sẽ nặng thêm, trong lòng quẫn bách, mồ hôi toát ra khắp người.

Chợt thấy trên vách sóng có một cây đại thụ bèn bám vào trèo lên, dần dần lên tới ngọn cây rồi hết sức nhảy xuống, may không bị ướt mà thấy mình nổi trên mặt nước. Trong lúc bất ngờ lại chợt thấy cõi trần, bèn bì bõm bơi đi. Giây lát vào tới bờ, lên khỏi bến sông nhớ tới mẹ già liền thuê thuyền về. Về tới quê nhìn cảnh vật bốn bề thấy như đã trải qua kiếp khác. Hôm sau về tới nhà, chợt nghe sau cửa sổ có người con gái nói “Con mẹ tới rồi”, giọng nói rất giống Vãn Hà, kế cùng với mẹ bước ra, quả là Hà thật. Lúc ấy hai người mừng rỡ quên hết nỗi đau xót mà bà mẹ thì đau xót ngờ vực, sợ hãi mừng rỡ xen lẫn.

Lúc trước Vãn Hà ở trong phủ Ngô Giang vương thấy trong bụng máy động mà phép tắc dưới Long cung rất nghiêm, sợ một sớm một chiều lâm bồn sẽ bị trừng phạt mà không gặp được A Đoan lần nữa, chỉ muốn tìm cái chết bèn nhảy xuống sông tự tử. Thân thể nổi lên dật dờ trong sóng, được người khách đi thuyền vớt lên, hỏi tới quê quán thì Hà vốn là ca kỹ nổi tiếng ở đất Ngô chết đuối không tìm được xác, tự nghĩ không thể trở lại kỹ viện bèn nói “Họ Tưởng ở Trấn Giang là chồng ta”, người khách bèn thuê thuyền cho về tới nhà. Bà Tưởng ngở là lầm, nàng nói là không lầm rồi kể rõ tình thật, bà thấy nàng xinh đẹp phong vận nên rất yêu mến. Kế lại nghĩ nàng còn quá trẻ, ắt không phải là kẻ chịu ở góa, nhưng cô gái rất cung kính hiếu thảo, thấy nhà nghèo bèn cởi châu báu trang sức bán được vài vạn đồng mang về, bà Tưởng thấy nàng không có ý gì khác rất mừng.

Nhưng vì không có con trai ở nhà nên sợ lúc nàng sinh nở thì họ hàng láng giềng không tin, cô gái nói "Cốt là mẹ được cháu nội thật chứ cần gì người ta biết", bà cũng yên lòng. Đến lúc ấy Đoan về, cô gái mừng quýnh, bà mẹ cũng ngờ là con không chết, lén đào mộ con lên thì hài cốt đều còn đó bèn đem chuyện căn vặn Đoan. Đoan mới sực hiểu nhưng sợ Vãn Hà chê mình không phải là người bèn dặn mẹ đừng nói ra, mẹ cho là phải bèn nói với láng giềng rằng cái xác vớt được trước đây không phải là con mình, nhưng rốt lại cũng sợ Đoan không thể sinh được con trai.

Không bao lâu Vãn Hà sinh được một con trai, bế thấy không khác gì trẻ con thường mới vui mừng. Lâu dần cô gái biết được A Đoan không phải là người bèn nói "Sao chàng không nói sớm, phàm là ma mà mặc áo của Long cung qua bốn mươi chín ngày hồn phách sẽ ngưng tụ lại chẳng khác gì người sống. Nếu có keo sừng rồng của Long cung thì có thể nối xương cốt mà sinh da thịt, tiếc là không mua cho sớm". Đoan bán viên ngọc của mình, có người khách buôn đất Hồ bỏ ra trăm vạn đồng để mua, nhờ đó trở thành giàu có cự vạn. Đến ngày mừng thọ mẹ thì vợ chồng múa hát dâng rượu, chuyện dần truyền tới phủ Hoài vuơng.

Vương muốn chiếm đoạt Vãn Hà, Đoan sợ hãi vào ra mắt vương tự tâu bày rằng hai vợ chồng đều là ma, vương sai xét nghiệm đều thấy không có bóng nên tin lời không bắt Vãn Hà nữa. Nhưng sai cung nhân ra biệt viện cho nàng dạy múa, Vãn Hà lấy nước đái rùa bôi lên mặt loang lổ che giấu dung mạo rồi mới tới ra mắt. Dạy được ba tháng họ cũng không sao học hết được tài múa, kế nàng trở về.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 76 -
Bạch Thu Luyện
(Bạch Thu Luyện)

Ở tỉnh Trực Lệ có Mộ sinh tự Thiềm Cung là con thương gia Mộ Tiểu Hoàn, thông minh ham học. Năm mười sáu tuổi cha cho rằng việc văn chương là viễn vông, bắt bỏ học đi buôn. Sinh theo cha tới đất Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), mỗi khi trong thuyền rảnh rỗi lại ngâm nga đọc sách. Tới Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc), cha ở lại nhà trọ để giữ hàng, sinh nhân lúc cha đi vắng cầm sách đọc thơ, tiếng ngâm sang sảng, cứ thấy ngoài cửa sổ thấp thoáng như có người nghe trộm nhưng cũng chưa lấy gì làm lạ.

Một đêm cha đi uống rượu lâu không về, sinh càng cao giọng ngâm nga, thấy có người quanh quẩn ngoài song, trăng sáng nhìn thấy rất rõ, lấy làm lạ vội bước ra xem thì là một nữ lang tuyệt đẹp khoảng mười lăm mười sáu tuổi, thấy sinh vội vàng tránh đi. Hai ba ngày sau chở hàng về bắc, chiều tối đậu thuyền bên bờ hồ, cha vừa ra khỏi thuyền thì có bà già bước vào nói "Chàng giết con gái ta rồi". Sinh ngạc nhiên hỏi, bà đáp "Ta họ Bạch, có một gái tên Thu Luyện, cũng hơi biết chữ nghĩa, nói rằng lúc ở quận thành được nghe giọng ngâm thanh cao nên đem lòng nhớ nhưng đến nỗi bỏ cả ăn ngủ, ý muốn kết duyên, xin đừng chối từ". Sinh thật lòng rất thích nhưng còn lo cha giận, bèn nói thẳng với bà già, bà già không tin bắt phải thề nguyền, sinh không chịu. Bà giận nói “Việc nhân duyên ở đời, có kẻ xin mang sính lễ tới mà còn không được, nay già tự đứng ra làm mối cho con lại bị từ chối thì còn gì nhục bằng, vậy xin đừng nghĩ tới chuyện về Bắc nữa", rồi bỏ đi.

Lát sau cha về, sinh khéo léo kể lại, có ý mong cha chấp thuận nhưng cha vì đường sá xa xôi, lại có ý khinh rẻ các cô gái hoài xuân nên cười bỏ qua. Chỗ đậu thuyền nước sâu lút con sào, đến đêm cát sỏi chợt bồi lên, thuyền mắc cạn không xoay trở gì được. Hàng năm thuyền buôn trong hồ vẫn có người ở lại, đến mùa nước hoa đào năm sau hàng hóa nơi khác vẫn chưa kịp chở tới, những hàng trong thuyền đều tăng giá gấp trăm. Cha sinh vì vậy cũng không lo lắng gì lắm, chỉ tính cách làm sao sang năm về Bắc hàng vẫn được giá, bèn để con ở lại còn mình về nhà.

Sinh mừng thầm nhưng tiếc là không hỏi rõ nơi ở của bà già. Trời sập tối, bà già cùng một tỳ nữ dìu nữ lang tới, cởi áo khoác đặt nàng lên giường, kế nhìn sinh nói "Người ta bệnh tới mức này, xin đừng nằm khoèo làm ra vẻ vô sự nữa", rồi bỏ đi. Sinh vừa nghe thì hoảng sợ, cầm đèn tới nhìn cô gái thấy đang lúc đau ốm vẫn xinh đẹp, ánh mắt vẫn lóng lánh. Lại gần hỏi han, nàng chỉ cười khẽ. Sinh cố ép lên tiếng thì nàng nói "Câu Vì chàng tiều tụy, thẹn cùng chàng* là vịnh thiếp đấy".

* Vì chàng... cùng chàng: nguyên văn 1à "Vị lang tiều tụy khước tu lang", câu trong bài thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường gởi Trương Quân Thụy.

Sinh mừng quýnh muốn thân cận nhưng thương nàng còn yếu nên chỉ sờ tay vào bụng vuốt ve hôn hít làm vui. Cô gái chợt rạng rỡ mặt mày, tươi cười nói "Hãy ngâm cho thiếp nghe ba lần bài Áo là lớp lớp của Vương Kiến* thì sẽ khỏi bệnh". Sinh theo lời, ngâm đến lần thứ hai cô gái đã xốc áo ngồi dậy nói “Thiếp khỏi rồi”, ngâm tiếp thì nàng cất giọng êm ái thỏ thẻ họa theo, sinh thần trí càng bay bổng bèn tắt đèn cùng ngủ. Trời chưa sáng cô gái đã dậy, nói “Mẹ già sắp tới rồi". Không bao lâu quả nhiên bà già tới, thấy con gái đang ngồi tươi tắn trang điểm bất giác mừng rỡ, giục về thì nàng cúi đầu không nói. Bà già lập tức ra về, nói "Ngươi thích vui đùa với lang quân thì mặc ngươi".

*Bài áo là... của Vương Kiến: nguyên văn là “Vương Kiến La y diệp diệp chi tác", tức bài Cung từ của Vương Kiến thời Đường, mở đầu bằng câu "La y diệp diệp tú trùng trùng” (áo là lớp lớp chập chùng thêu)

Sinh nhân hỏi nhà cửa ở đâu, cô gái nói "Thiếp với chàng chẳng qua là bạn mới quen, việc cưới xin còn chưa chắc chắn, cần gì phải biết nhà cửa, nhưng hai người vẫn yêu thương nồng mặn, thề thốt keo sơn. Một đêm cô gái chợt ngồi dậy, khêu đèn mở sách ra xem rồi buồn bã rơi lệ. Sinh vội dậy hỏi, nàng đáp "Cha chàng sắp tới đây, chuyện giữa hai ta mới rồi thiếp vừa mở sách bói một quẻ thì được bài Giang Nam khúc của Lý Ích*, ý bài thơ không phải là điềm hay". Sinh an ủi nói "Câu đầu bài thơ là Lấy chàng thương lái Cù Đường thì đại cát có gì là không hay”. Cô gái mới hơi vui vẻ, đứng lên từ biệt, nói “Xin tạm chia tay, kẻo trời sáng lại nhiều người dòm ngó". Sinh cầm tay nàng nghẹn ngào hỏi "Nếu việc tốt đẹp thì báo cho nàng ở đâu?”, cô gái đáp “Thiếp vẫn sai người dò la, việc tốt đẹp hay không là biết ngay”. Sinh định lên bờ tiễn chân nhưng nàng cố từ chối rồi đi.

*Bài Giang Nam khúc của Lý ích: tức bài thơ của Lý ích thời Đường, nguyên văn là “Giá đắc Cù Đường cổ, Triêu triêu ngộ thiếp kỳ, Tảo tri triều hữu tín, Giá dữ lộng triều nhi" (Lấy chàng thương lái Cù Đường, Sớm hôm chờ đợi xót thương phận mình, Nếu hay con nước đáng tin, Đã theo con nước kết tình phu thê)

Không bao lâu quả ông Mộ tới, sinh dần dà thổ lộ tình thật, cha ngờ là dắt kỹ nữ về, nổi giận chửi mắng, đến khi xem kỹ trong thuyền thấy không mất mát chút gì mới thôi. Một đêm ông đi vắng, cô gái chợt tới, hai người buồn rầu nhìn nhau không biết làm sao. Nàng nói “Thấp cao có số, cứ lo việc trước mắt đã xin chàng ở lại thêm hai tháng rồi sẽ bàn tiếp". Lúc chia tay hẹn lấy tiếng ngâm thơ làm hiệu gặp nhau. Từ đó cứ cha đi vắng, sinh lại cao giọng ngâm nga thì nàng tới. Sắp hết tháng tư hàng hóa đều mất giá, đám khách buôn không biết làm sao bèn góp tiền sắm lễ vật tới cầu đảo ở miếu thần hồ. Sau tiết Đoan dương mưa to nước lên, thuyền mới đi được.

Sinh về tới nhà tương tư thành bệnh, ông Mộ lo lắng tìm đủ cách cầu cúng thuốc thang. Sinh nói riêng với mẹ “Bệnh của con chẳng có thuốc men cầu cúng nào chữa được, chỉ có Thu Luyện tới mới xong". ông Mộ lúc đầu nổi giận nhưng lâu sau thấy sinh ngày càng gầy gò héo hắt thì hoảng sợ, bèn thuê xe chở con trở lại đất Sở, xuống thuyền đậu đúng chỗ cũ. Hỏi người ở đó thì không ai biết bà già họ Bạch, vừa lúc có bà già ghé thuyền vào bờ, bước ra tự nhận là mình. Ông Mộ lên thuyền thấy mặt Thu Luyện mừng thầm, nhưng hỏi tới dòng dõi gia thế thì ra chỉ sống trên thuyền, trôi nổi đây đó mà thôi. Ông nhân nói thật bệnh của con trai, mong nàng tới thuyền mình để con bớt bệnh trước, nhưng bà già lấy cớ chưa định hôn ước nên không chịu.

Cô gái ngồi nghiêng chăm chú lắng nghe, thấy hai người tranh cãi thì rưng rưng muốn khóc. Bà già thấy mặt con gái như thế, lại vì ông Mộ năn nỉ quá nên cũng nhận lời. Đến đêm, ông ra ngoài, cô gái quả tới, lại gần giường khóc lóc, nói “Tình cảnh thiếp năm trước nay lại rơi vào chàng rồi ư? Mùi vị nó thế nào tưởng cũng phải để chàng nếm qua cho biết. Nhưng gầy rộc đi thế này, làm sao chữa khỏi ngay được? Xin vì chàng ngâm một bài thơ vậy”. Sinh cũng mừng rỡ, cô gái bèn ngâm lại bài thơ của Vương Kiến ngày trước. Sinh nói "Đó là tâm sự của nàng, đem chữa cho cả hai người sao được. Nhưng nghe giọng nàng cũng đã thấy tâm thần khoan khoái, hãy thử ngâm bài Liễu hướng về tây ca vạn cành* cho ta nghe xem”.

*Bài Liễu hướng về tây ca vạn cành: tức bài Xuân oán của Lưu Phương Bình thời Đường, nguyên văn là "Triêu nhật tàn oanh bạn thiếp đề, Khai liêm chỉ kiến thảo thê thê, Đình tiền thời hữu đông phong nhập, Dương liễu thiên điều tận hướng tây”, (Sáng sớm quanh mình rộn tiếng oanh, Mở rèm chỉ thấy cỏ xanh xanh, Gió xuân thổi lộng trong đình viện, Liễu hướng về tây cả vạn cành).

Cô gái theo lời, sinh thích thú nói “Khoan khoái quá! Trước đây nàng đọc bài Hái sen trong tập Thi dư có câu Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò* vẫn chưa quên, nay phiền nàng tốt giọng ngâm lên lần nữa", nàng lại theo lời. Vừa dứt tiếng, sinh nhảy ngay dậy nới “Tiểu sinh có bệnh gì đâu”, rồi ôm ấp nhau như đã khỏi hẳn. Kế hỏi “Cha gặp mẹ nàng nói những gì? Việc có xong không?”. Cô gái đã biết ý ông Mộ, nói thẳng rằng không xong rồi đi.

*Tốt tươi hương tỏa khắp mười gò: nguyên văn 1à "Hạm đạm hương liên thập khoảnh pha", chưa rõ xuất xứ.

Cha về thấy sinh đã dậy được mừng lắm nhưng chỉ lựa lời khuyên nhủ, nhân nói “Con bé rất đẹp, nhưng từ nhỏ đã ôm mái chèo gõ bánh lái ca hát, chưa nói tới chuyện là con nhà hèn mọn, cũng không thể là gái trinh", sinh im lặng. Cha vừa đi thì cô gái trở lại, sinh kể rõ ý cha. Nàng nói "Thiếp vừa nhìn đã biết ngay rồi. Việc đời cứ càng đeo đuổi thì càng xa lánh, càng săn đón thì càng cự tuyệt, cứ để ông tự đổi ý quay lại cầu cạnh nhau”. Sinh hỏi kế, nàng đáp "Kẻ buôn bán thì chỉ mong được lợi thôi. Thiếp có thuật biết được giá cả hàng hóa, mới rồi thấy các hàng hóa trên thuyền chẳng thứ nào có lời chút gì. Hãy nói với cha chàng muốn lãi gấp ba thì mua hàng này, muốn lãi gấp mười thì mua hàng này, về tới nhà nếu đúng thì thiếp đúng là dâu hiền rồi. Lúc trở lại thì chàng mười tám tuổi còn thiếp mười bảy, còn có ngày sum vầy, có gì phải lo".

Sinh đem lời nàng nói lại với cha, cha không tin lắm nên tạm đem nửa số tiền còn thừa mua những hàng nàng dặn. Sau khi về, những hàng ông mua đều lỗ nặng, may có ít hàng mua theo lời cô gái được lãi lón nên bù lại được, vì thế phục Thu Luyện là thần. Sinh còn khoe khoang rằng cô gái tự nói có thể giúp mình thành giàu có, vì thế ông Mộ lại mang thêm nhiều tiền xuống Nam. Tới hồ mấy ngày không thấy bà già họ Bạch, qua mấy hôm nữa mới thấy bà đậu thuyền dưới gốc liễu bèn đem sính lễ tới. Bà không nhận gì cả, chỉ chọn ngày lành đưa con gái qua thuyền sinh, ông Mộ thuê một thuyền khác cho con làm lễ hợp cẩn. Cô gái bèn bảo ông xuống Nam, hàng nào cần mua đều viết ra giấy đưa ông, bà già bèn mời rể qua ở thuyền mình.

Ba tháng sau ông Mộ trở lại, hàng hóa mới về tới đất Sở đã tăng giá gấp đôi. Khi sắp về, cô gái xin chở theo một ít nước hồ, về tới nhà mỗi lần ăn cơm lại rưới vào một ít như chan tương. Vì vậy lần nào xuống Nam ông cũng mang về cho vài vò. Ba bốn năm sau nàng sinh một trai. Một hôm cô gái khóc muốn về thăm nhà, ông Mộ bèn dẫn cả con và dâu cùng tới đất Sở. Tới hồ không biết bà già ở đâu, cô gái gõ mạn thuyền gọi mẹ, thất sắc giục sinh theo ven hồ tìm hỏi. Vừa lúc có người câu cá tầm hoàng câu được một con cá ngựa trắng, sinh tới gần xem thì là một con cá lớn hình dáng như người, có đủ cả vú và âm hộ. Sinh về kể lại, cô gái hoảng hốt nói trước kia có lời nguyền phóng sinh, bảo sinh mua thả ra. Sinh tới thương lượng nhưng người câu cá đòi giá rất cao. Cô gái nói "Thiếp ở nhà chàng nghĩ cách kiếm ra tiền không dưới bạc vạn, mà sao lại khư khư tiếc nhau bấy nhiêu. Nếu không nghe thì thiếp nhảy xuống hồ chết quách cho rồi".

Sinh sợ, không dám nói với cha, lấy trộm tiền mua cá thả ra. Khi quay về không thấy cô gái, tìm mãi không được, đến khuya nàng mới về. Hỏi đi đâu, nàng đáp "Vừa về nhà mẹ". Hỏi mẹ ở đâu, nàng nói "Hôm nay thì không thể không thưa thật, con cá chàng vừa chuộc chính là mẹ thiếp đấy. Trước sống ở hồ Động Đình, được Long quân giao coi việc khách qua lại. Gần đây trong cung muốn tuyển phi tần, nhiều người đồn đại là thiếp xinh đẹp, nên có sắc chỉ trị tội mẹ để đòi thiếp. Mẹ thiếp tâu thật nhưng Long quân không nghe, đày mẹ xuống bến Nam, gần chết đói nên mới mắc nạn. Nay tuy thoát nạn nhưng vẫn chưa được xóa tội. Nếu chàng yêu thiếp thì hãy thay thiếp khẩn cầu với Chân quân, mẹ có thể được yên lành. Còn nếu thấy khác loài mà ghét bỏ thì xin trả con cho chàng, thiếp đi. Hầu hạ ở Long cung chưa chắc đã không gấp trăm lần ở nhà chàng”.

Sinh cả sợ, lo không gặp được Chân quân, nàng nói "Giờ Mùi ngày mai Chân quân sẽ tới, cứ thấy vị đạo sĩ thọt chân thì phải phục xuống lạy ngay, ông ta xuống nước cũng phải xuống theo. Chân quân thích kẻ văn sĩ, ắt sẽ rủ lòng thương xót". Kế lấy ra một vuông lụa bóng mượt như bụng cá nói "Nếu Chân quân hỏi muốn xin điều gì thì đưa cái này ra xin ông viết cho một chữ Miễn". Sinh theo lời chờ, quả có một đạo sĩ khập khiễng đi tới. Sinh lạy phục xuống, đạo sĩ bước mau đi, sinh rảo theo sau. Đạo sĩ ném gậy xuống nước rồi nhảy lên trên, sinh cũng lội xuống nước lên theo, thì không phải gậy mà là một chiếc thuyền. Sinh lại sụp xuống lạy, đạo sĩ hỏi cần gì, sinh đưa vuông lụa ra xin viết chữ. Đạo sĩ giở ra nhìn, nói "Đây là vẩy cá ngựa trắng, sao ngươi có được? , Thiềm Cung không dám giấu, kể rõ đầu đuôi, đạo sĩ cười nói “Loài này rất phong nhã, con rồng già làm sao hoang dâm được". Bèn rút bút ra viết ngoáy một chữ “Miễn" như đạo bùa, rồi quay thuyền ghé bờ bảo sinh lên. Kế thấy đạo sĩ đạp cây gậy rẽ nước mà đi, phút chốc đã mất dạng.

Sinh về thuyền, cô gái mừng rỡ, dặn đừng nói lộ cho cha mẹ biết. Sau khi về nhà hai ba năm, ông Mộ xuống nam mấy tháng không về, bình nước hồ cạn dần mà chờ mãi không thấy. Cô gái bỗng lâm bệnh, ngày đêm thở dốc, dặn sinh "Nếu thiếp chết thì đừng chôn, cứ đúng các giờ Mão, Ngọ, Dậu lại ngâm một lần bài thơ Đỗ Phủ mộng thấy Lý Bạch, thì chết rồi thây vẫn không nát. Chờ khi nước về rót vào bồn rồi đóng cửa, cởi áo thiếp ra, ôm thiếp dầm vào trong nước, thiếp sẽ sống lại”. Thở thoi thóp vài hôm, nàng lịm đi mà chết. Nửa tháng sau ông Mộ về, sinh vội làm theo lời, ngâm nước khoảng một giờ thì nàng dần dần tỉnh lại. Từ đó nàng thường có ý muốn về nam. Sau ông Mộ mất, sinh chiều ý nàng dời nhà xuống sống ở đất Sở.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 77 - 81 -
Hòa Thượng Họ Kim
(Kim Hòa Thượng)

Hòa thượng họ Kim là người Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), cha là kẻ vô lại, đưa mấy trăm đồng tiền đem Kim lên gởi vào chùa trên núi Ngũ Liên. Kim lúc nhỏ ngu si đần độn không thể học kinh, chỉ làm được những việc chăn heo đi chợ như tôi tớ. Sau sư phụ của Kim chết, cũng có chút ít tiền bạc để lại, Kim cuỗm đi trốn khỏi chùa làm nghề buôn bán, rất giỏi những việc treo dê bán chó, tráo đấu lường thăng nên chỉ mấy năm vụt trở nên giàu có. Bèn mua ruộng đất nhà cửa ở làng Thủy Pha, đệ tử rất đông, hàng ngày có hàng ngàn người ăn cơm, quanh làng có mấy ngàn mẫu ruộng tất đều là của Kim, trong làng có vài mươi gian nhà lớn đều là sư ở. Nếu là người khác thì cũng là kẻ nghèo khó không sản nghiệp nên dắt vợ con tới đó ở nhà thuê làm ruộng mướn mà thôi, có mấy trăm gia đình như thế.

Mỗi nhà thì cất phòng sát tường san sát cho họ ở, sư thì ở giữa, phía trước có sảnh đường, rường sơn cột chạm sơn son thiếp vàng lóa mắt, bàn ghế bình phong trong sảnh bóng loáng có thể soi được. Phía sau thì làm phòng ở, rèm đỏ màn thêu xông lan xạ thơm phức, giường nằm chạm trổ khảm xà cừ, trên giường trải nệm dày hơn thước, trên vách thì treo kín các bức vẽ mỹ nhân sơn thủy nổi tiếng. Trong nhà gọi to một tiếng thì ngoài cổng có mấy mươi người dạ ran như sấm ào ào chạy vào xếp hàng im lặng lắng tai nghe lệnh. Khách tới bất ngờ thì trong vòng mười mâm có thể bày lên trong chớp mắt, cơm canh rượu thịt ngon lành bưng lên tới tấp. Chí là không dám công nhiên nuôi ca kỹ nhưng cũng có mười mấy tiểu đồng đẹp trai, đều lanh lợi khéo léo có thể làm vừa lòng người, sai đội khăn đen ca hát thì người nghe kẻ xem cũng không thấy chướng.

Kim mỗi lần ra khỏi nhà thì trước sau có vài mươi kỵ mã đeo cung dẹp đường, bọn tôi tớ đều gọi là gia gia, dân trong huyện người gọi là ông, người gọi là chú chứ không gọi là sư hay Thượng nhân, cũng không gọi theo pháp hiệu. Môn đồ Kim ra ngoài thì nghi vệ có kém hơn nhưng áo đẹp ngựa khỏe cũng gần như các công tử con quan. Kim lại giao du rộng, cho dù ngoài ngàn dặm cũng biết được tin tức, vì vậy các quan lớn nhỏ trong vùng nếu ngẫu nhiên làm Kim mất lòng cũng run sợ lo lắng. Nhưng Kim là người thô lỗ, từ đầu tới chân không có chút nào là văn nhã, bình sinh không đọc một câu kinh, tụng một câu sấm, chân không lui tới chùa chiền, phòng không bày biện chuông mõ, những vật ấy thì bọn môn đồ chưa từng thấy mà cũng chưa từng nghe. Phàm những gia đình tới thuê nhà ở thì phụ nữ trang sức như gái kinh đô, phấn sáp gương lược đều do sư cấp, sư cũng không bỏn xẻn. Vì vậy các gia đình không có ruộng mà làm nông trong vùng có tới vài trăm.
Thỉnh thoảng lại có chuyện tá điền giết sư trên giường, Kim cũng không tra xét gì lắm, chỉ đuổi đi nơi khác, dần dần thành lệ. Kim lại mua trẻ con khác họ nuôi làm con mình, rước thầy về dạy cho học hành. Đứa nhỏ thông minh học giỏi, bèn sai vào học trường huyện, kế theo lệ mua cho chức Thái học sinh. Không bao lâu y lên thi hương ở phủ Thuận Thiên đỗ Cử nhân, từ đó Kim được gọi là Thái công, những người gọi là gia gia trước đây càng khúm núm, con cháu của họ đều chắp tay làm lễ với Kim như ông tổ mấy đời.

Không bao lâu Thái công chết, Hiếu liêm mặc tang phục cư tang, tự xưng là con mồ côi, các môn đồ chống gậy đứng đầy quanh giường, nhưng sau linh sàng chỉ có một mình phu nhân Hiếu liêm khe khẽ sụt sùi mà thôi. Sĩ phu có người dắt vợ ăn mặc đẹp đẽ tới điếu tế an ủi, mũ lọng xe kiệu chen chúc tắc cả đường. Ngày chôn cất thì nhà táng cao chạm mây, cờ phướn rợp mặt trời, khi chôn thì bó cỏ dán giấy vàng bạc ngũ sắc làm vật tuẫn táng, gồm mấy mươi cỗ kiệu, một ngàn con ngựa, một trăm mỹ nhân. Làm thần dẹp đường đội khăn gấm đen, đầu cao chạm mây, nhà đám thì lầu gác phòng ốc rộng tới mấy mẫu, ngàn cửa trăm cổng, ai vào cũng lạc không biết đường ra, những vật đưa lên cúng tế đều không thể gọi tên.

Những người tới dự đám tang mũ lọng chen nhau, các quan lớn cũng lom khom vào quỳ lạy tám lần, các Giám sinh, Cống sinh và quan nhỏ ở huyện thì bò ra đất dập đầu làm lễ không dám để công tử và các sư thúc lạy trả. Cả vùng đổ tới xem đám ma, đàn ông dắt vợ, đàn bà bế con mồ hôi nhễ nhại đứng đầy đường, tiếng người ồn ào át cả tiếng chiêng trống, người đứng chỉ hở có từ vai trở lên, hàng vạn cái đầu ngoảnh qua ngoảnh lại mà thôi. Có kẻ có thai chuyển bụng sinh nở thì chị em bạn kéo xiêm giáng quanh làm màn che, nghe tiếng trẻ khóc cũng không buồn hỏi là trai hay gái, lập tức xé áo làm tã bế lên rồi kẻ dìu người kéo sản phụ chập choạng bước đi, thật là kỳ quan vậy! Sau khi chôn cất xong, đem những tiền của Kim để lại chia đôi, con Kim một phần, các môn đồ một phần. Hiếu liêm được nửa gian nhà, bốn phía nam bắc đông tây toàn là sư ở nhưng đều là hàng anh em, đau ngứa gì cũng có nhau.

Dị Sử thị nói:Một phái ấy thì hai dòng* chưa có, sáu tổ** không truyền, có thể nói là một mình mở ra một pháp môn vậy. Nhưng vẫn nghe ngũ uẩn đều không, lục trần không nhiễm là Hòa thượng, trong miệng thuyết pháp, trên ghế tham thiền là Hòa dạng, giày thơm đất Sở, nón nặng trời Ngô là Hòa chàng, chiêng trống ồn ào, đàn sáo ầm ĩ là Hòa xướng, chơi bời lăng nhăng, cờ bạc bợm bãi là Hòa chướng. Như Kim là Hòa thượng chăng, là Hòa dạng chăng, là Hòa chàng chăng, là Hòa xướng chăng, hay là Hòa chướng ở địa ngục chăng?

* Hai dòng: tức Nam tông và Bắc tông trong Phật giáo đại thừa Trung Hoa.
** Sáu tổ: tức sáu vị sau Đạt Ma trong Phật tâm tông của Phật giáo đại thừa Trung Hoa, gồm Tuệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Tuệ Năng, Thần Hội.






078. Nhà Sư Ăn Xin



(Cái Tăng)
Ở Tế Nam (tỉnh thành Hà Nam) có một nhà sư, không rõ gốc gác ở đâu. Hàng ngày đi chân đất mặc áo vá, lê la trước các hàng quán bên hồ Phù Dung tụng kinh khuyến hóa, song ai cho cơm rượu tiền gạo gì đều không nhận, hỏi có cần gì khác không thì không đáp, thường cả ngày không thấy ăn uống. Có người khuyên nói "Sư đã không ăn rau lại chẳng uống rượu thì đi khuyến hóa trong thôn cùng ngõ vắng cũng được, cần gì phải mỗi ngày mỗi tới nơi ồn ào náo nhiệt như thế này?", sư cứ chắp tay tụng kinh, rủ đôi lông mi dài một tấc xuống như không hề nghe thấy. Lại hỏi nữa, sư mới mở mắt lớn tiếng đáp "Ta muốn khuyến hóa như vậy", rồi tiếp tục tụng kinh, hồi lâu mới bỏ đi.
Có người đuổi theo, hỏi tại sao phải khuyến hóa như vậy, sư cứ đi không đáp. Hỏi ba bốn lần, lại lớn tiếng nói "Ngươi không biết được đâu, lão tăng muốn khuyến hóa như vậy". Mấy hôm sau chợt ra ngoài phía nam thành, nằm dài như xác chết ở cạnh đường ba ngày không động đậy. Dân ở đó sợ sư chết đói thì liên lụy tới thôn xóm, họp nhau kéo tới khuyên nên đi chỗ khác nằm, muốn cơm sẽ cho cơm, muốn tiền sẽ cho tiền. Sư cứ nhắm mắt không lên tiếng, mọi người bèn lay gọi. Sư giận, rút trong áo ra một lưỡi đao ngắn tự rạch bụng, thò tay vào kéo ruột ra bày lên đường rồi đứt hơi chết. Mọi người khiếp sợ báo lên quan rồi đem chôn qua loa. Ngày khác chỗ ấy bị chó moi lên lộ manh chiếu bó thây ra, đạp lên thấy như không có gì, mở ra xem thì manh chiếu vẫn gói kín như cũ nhưng chỉ như cái kén rỗng.

079. Rồng Dời



(Chí Long)
Quan Thông chính sứ họ Khúc ở đất U Lục (thuộc tỉnh Sơn Đông) đọc sách trên lầu, gặp lúc trời mưa mù mịt, thấy một con dời nhỏ sáng như đom đóm cựa quậy trên bàn, bò qua khỏi chỗ nào thì chỗ ấy cháy đen. Dần dần bò lên quyển sách, quyển sách cũng bị cháy. Ông nghĩ là rồng bèn bưng quyển sách lên tiễn đi, nhưng ra tới ngoài cửa đứng chờ hồi lâu vẫn thấy nằm bất động bèn nói "Hay là cho rằng ta không cung kính?". Bèn bưng quyển sách trở vào đặt lại lên bàn, đội mũ mặc áo vái dài rồi lại bưng ra. Vừa tới ngoài thềm thì con dời ngẩng đầu duỗi thân rời quyển sách bay lên, rít gió thành tiếng thành một đạo ánh sáng kéo dài. Ra được vài bước thì quay nhìn lại ông, đầu như cái vò, dài mấy mươi vây. Lại uốn lộn một hồi thì có tiếng sét nổ ầm ầm, vọt thẳng lên mây đi mất. Quay vào nhìn chỗ nó vừa bò qua thì thấy từng đoạn từng đoạn như tre bị đốt vậy.

080. Cái Búi Tóc Nhỏ



(Tiểu Kết)
Huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) có người dân là Mỗ đang ngồi chơi thì có người khách thấp lùn tới, ngước mặt trò chuyện hồi lâu, thấy bình sinh không hề quen biết, cố nhớ lại. Khách nói "Ba bốn hôm nữa sẽ dời tới đây làm láng giềng". Qua bốn năm hôm lại tới nói "Hôm nay đã là cùng làng, xin được sớm tối dạy bảo cho". Mỗ hỏi ngụ ở đâu, người ấy không nói rõ, chỉ lấy tay chỉ về phía bắc. Từ đó ngày nào cũng tới, có khi hỏi mượn vật dùng chén bát, nếu có ai bủn xỉn không cho thì tự nhiên bị mất, mọi người cùng nghi là hồ.
Phía bắc thôn có ngôi mộ cổ, sâu không biết là bao nhiêu, mọi người ngờ hồ ở đó, cùng nhau vác gậy gộc khí giới tới nằm rình, hồi lâu không thấy gì lạ. Đến hết canh một thì nghe dưới mộ có tiếng lào xào như hàng trăm hàng ngàn người trò chuyện, mọi người im lặng không động đậy. Giây lát có đám người lùn khoảng hơn một thước lũ lượt kéo ra, đông không biết bao nhiêu mà kể. Mọi người cùng quát tháo vùng dậy xô vào đánh túi bụi, đánh trúng thì trên gậy lửa bắn tứ tung, trong chớp mắt bọn kia chạy tứ tán. Chỉ còn lại một cái búi tóc nhỏ bằng trái hồ đào bọc lụa buộc dây kim tuyến, ngửi thử thì hôi tanh vô cùng.

081. Hoắc Sinh



(Hoắc Sinh)
Hoắc sinh và Nghiêm sinh ở huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) lúc nhỏ vẫn đùa giỡn với nhau, lớn lên cũng hay chọc ghẹo nhau, lấy miệng lưỡi hơn thua, chỉ sợ không bằng đối thủ. Hoắc có bà già láng giềng từng đỡ đẻ cho vợ Nghiêm, ngẫu nhiên trò chuyện với vợ Hoắc, nói rằng chỗ kín của vợ Nghiêm có hai mụn cóc, vợ bèn kể lại cho Hoắc. Hoắc bèn cùng chúng bạn bàn tính, rình lúc Nghiêm vừa tới, cố ý nói thầm với nhau rằng “Ta quá rành vợ y". Chúng bạn làm ra vẻ không tin, Hoắc bèn bịa đặt đủ cả đầu đuôi rồi nói "Nếu không tin, thì chỗ kín của vợ y có hai cái mụn cóc” Nghiêm dừng lại ngoài cửa sổ nghe thấy hết bèn không vào, quay về nhà chửi mắng đánh đập vợ. Người vợ không chịu nhận, Nghiêm đánh đập càng tàn nhẫn, vợ không chịu nổi treo cổ tự tử.
Hoắc vô cùng hối hận nhưng không dám nói thật với Nghiêm là mình bịa đặt. Vợ Nghiêm chết rồi, đêm đêm cứ hiện hồn về khóc lóc, cả nhà không sao ở yên. Không bao lâu Nghiêm bị bạo bệnh mà chết, hồn ma mới không khóc nữa. Vợ Hoắc nằm mơ thấy vợ Nghiêm xõa tóc gào lớn rằng "Ta chết rất khổ, vợ chồng người lại muốn yên vui à?", tỉnh dậy mắc bệnh vài ngày thì chết. Hoắc cũng nằm mơ thấy vợ Nghiêm xỉa xói chửi mắng, lấy tay vả vào miệng mình, hoảng sợ tỉnh dậy thấy trên môi dau nhức, cứ sưng to dần, ba ngày thì biến ra hai cục thịt thừa thành tật luôn, không dám cười nói lớn tiếng vì há mồm to thì đau không chịu nổi.




Dị Sử thị nói:Kẻ chết rồi mà có thể làm hại là vì bị oan ức. Tật chỗ kín mà lại đem lên môi, thần linh thật như đùa cợt vậy. Trong huyện có họ Vương hay đùa giỡn với bạn học là Mỗ. Vợ Mỗ về thăm cha mẹ ruột, Vương biết con lừa nhà Mỗ nhút nhát bèn ra trước chỗ bụi rậm rình sẵn, chờ người đàn bà tới liền nhảy xổ ra. Con lừa hoảng sợ lồng lên hất người đàn bà ngã xuống, chỉ có một thằng nhỏ theo hầu không sao giữ được con lừa cho nàng leo lên. Vương bèn ân cần tới giúp đỡ, nàng cũng không biết là ai. Vương về lấy đó làm chuyện đắc ý, kể rằng nhân lúc thằng nhỏ đuổi theo con lừa thì mình đã tư thông với vợ Mỗ trong bụi, tả lại quần áo giày tất của nàng rất rõ ràng, Mỗ nghe thế xấu hổ bỏ về. Lát sau Vương nhìn qua cửa sổ thấy Mỗ một tay cầm dao, một tay kéo vợ tới trông rất hung dữ, cả sợ trèo qua tường bỏ chạy, Mỗ đuổi theo suốt hai ba dặm không kịp mới bỏ về. Vương vì ra sức chạy, phế quản bị giãn ra nên từ đó mắc bệnh thở khò khè, mấy năm không khỏi.








Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển V - 82 -
Hồ Đùa Giỡn
(Hồ Hài)

Vạn Phúc tự Tử Tường là người huyện Bác Hưng (tỉnh Sơn Đông). Từ nhỏ theo đòi nghiệp nho, nhà cũng hơi khá giả nhưng thi cử lận đận, hơn hai mươi tuổi vẫn không đỗ đạt gì. Ở quê có lệ xấu là bắt các nhà giàu ra làm lý dịch, có người phải khuynh gia bại sản. Vạn bị ép làm chức ấy, sợ quá trốn tới Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) vào nhà trọ ở. Đêm có cô gái tới khêu gợi, cũng khá xinh đẹp, Vạn thích bèn giao hoan. Hỏi họ tên, cô gái nói “Nói thật ta là hồ, nhưng không làm hại chàng đâu”. Vạn mừng rỡ không ngờ vực gì, nàng dặn đừng ở chung với ai, từ đó ngày nào cũng tới ăn ở cùng phòng, phàm mọi chi dùng hàng ngày đều do hồ chu cấp.
Không bao lâu có vài người quen tới thăm chơi, thường ngủ lại không về. Vạn chán ghét nhưng không nỡ cự tuyệt, bất đắc dĩ phải nói thật. Khách xin được chiêm ngưỡng dung nhan người tiên một lần, Vạn nói với hồ, hồ nói với khách “Gặp ta làm gì? Ta cũng như mọi người thôi”, nghe tiếng nói rõ ràng trước mắt, nhưng nhìn quanh thì không thấy đâu. Khách có người tên Tôn Đắc Ngôn giỏi khôi hài, cố xin được thấy mặt, lại nói được nghe giọng oanh, thần hồn điên đảo, sao lại tiếc không cho thấy dung nhan khiến người ta nghe tiếng mà tương tư. Hồ cười đáp "Cháu hiền muốn vẽ bức tranh hành lạc* cho bà cố à?", khách khứa đều cười.
*Bức tranh hành lạc: nguyên văn là "hành lạc đồ", vẽ những hình ảnh trai gái giao hoan, đại khái là loại tranh ảnh khiêu dâm.
Hồ nói "Ta là hồ, xin kể chuyện hồ cho khách nghe, chịu không?". Mọi người đều ừ, hồ kể "Xưa ở quán trọ làng nọ có nhiều hồ, thường ra quấy phá khách trọ, khách khứa qua lại biết được, dặn nhau đừng trọ ở đó. Nửa năm sau hàng quán vắng vẻ, chủ trọ lo lắm, rất kiêng nói tới hồ. Chợt có người khách từ xa tới, tự nói là người nước ngoài, thấy quán trọ nên vào nghỉ. Chủ trọ mừng lắm mời vào, liền có người đi đường lén nói với khách rằng “Nhà này có hồ”. Khách sợ, nói rõ với chủ trọ rồi định qua trọ chỗ khác, chủ trọ ra sức phân trần rằng đó là lời bịa đặt.
Khách bèn ở lại, vào phòng vừa nằm xuống thì thấy bầy chuột từ gầm giường chạy ra, khiếp đảm nhào ra ngoài la hoảng "Có hồ". Chủ nhân sợ hãi hỏi han, khách oán trách nói “Hồ làm hang ở đây, sao nói dối ta là không có". Chủ nhân lại hỏi thấy hình thù nó thế nào, khách đáp "Ta nay mới thấy, nó ngắn ngắn nhỏ nhỏ, không phải hồ con ắt là hồ cháu”. Vừa dứt lời thì khách khứa đều cười ầm. Tôn nói "Nếu không cho thấy mặt thì bọn ta sẽ ngủ lại, mà ai đó cũng đừng đi mà bỏ lỡ giấc mộng Dương Đài"*. Hồ cười đáp "Cứ ngủ lại không sao, nếu có hơi xúc phạm thì xin đừng để bụng". Khách sợ bị chơi ác bèn cùng tan về.
*Giấc mộng Dương Đài: bài tựa Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua Sở ra chơi đầm Vân Mộng, đêm mộng thấy một người con gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nàng ấy nói "Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn sớm làm mây, tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, sau người ta thường dùng tích này để chỉ việc ái ân trai gái.
Kế cứ vài ngày lại tới, đòi hồ trêu cợt. Hồ rất giỏi khôi hài, cứ lên tiếng là khách cười nghiêng ngửa, nhưng kẻ có tài hoạt kê cũng không thể hơn được, mọi người đùa gọi là Hồ nương tử. Một hôm bày tiệc họp mặt, Vạn ngồi ghế chủ, Tôn và hai người khách nữa chia ngồi hai bên, đặt một cái giường phía sau mời hồ, hồ từ chối là không hay rượu. Có người xin cứ ngồi nói chuyện, hồ ưng thuận. Rượu được vài tuần, mọi người bày trò gieo xúc xắc làm tửu lệnh "qua man”*, khách trúng mặt dưa bị phạt, đùa đưa chén qua giường nói "Hồ nương tử là bậc đại tỉnh, xin uống giùm một chén". Hồ cười đáp "Ta vốn không uống được, xin kể một câu chuyện góp vui với các vị". Tôn bịt tai ra vẻ không muốn nghe, mọi người đều nói "Nếu chửi xỏ người thì phải chịu phạt đấy”. Hồ cười hỏi “Thế ta chửi xỏ hồ được không?", mọi người đáp “Được", rồi lắng tai nghe.
*"Qua man": nghĩa đen là dây dưa bò lan, chưa rõ thể thức luật chơi cụ thể.
Hồ kể "Xưa có một ông quan lớn đi sứ nước Hồng Mao*” đội mũ lông hồ vào yết kiến quốc vương nước ấy. Quốc vương thấy cái mũ lạ, hỏi lông gì mà vừa dày vừa mềm như thế. Ông quan lớn ấy thưa là lông hồ. Quốc vương nói bình sinh chưa từng nghe nói tới, vậy chữ “hồ" viết ra sao? Ông quan lớn bèn lấy tay vạch lên không, tâu “Bên phải là một qua lớn, bên trái là một khuyển nhỏ**", chủ khách lại cười ầm.
*Nước Hồng Mao: tức Anh.
**Bên phải... nhỏ: đây là theo lối chiết tự trong chữ Hán, hồ có ý nói xỏ người khách ngồi bên trái Vạn tức Tôn là “khuyển” (chó), vì người bên phải đã gieo trúng mặt “qua" (dưa).
Hai người khách kia là hai anh em họ Trần, một tên Sở Kiến, một tên Sở Văn, thấy Tôn bị áp đảo quá bèn nói "Hồ đực đâu mà để hồ cái ác hại thế này?". Hồ nói “Có một câu chuyện kể chưa xong đã bị sủa loạn làm ngắt quãng, xin kể nốt. Quốc vương Hồng Mao thấy sứ thần cưỡi một con la, rất lạ lùng. Sứ thần thưa "Đây là do con ngựa đẻ ra” quốc vương lại càng lấy làm lạ. Sứ thần nói ở Trung Quốc thì con ngựa đẻ ra con la, con la đẻ ra con ngựa choai”. Quốc vương hỏi kỹ hình dạng, sứ thần đáp "Ngựa đẻ ra la là thần sở kiến, la đẻ ngựa choai là thần sở văn*", cử tọa lại cười ầm.
* Ngựa đẻ... sở văn: sở kiến nghĩa đen là "vốn thấy", sở văn nghĩa đen là “vốn nghe", nhưng cũng là tên hai anh em họ Trần, nên câu này có ý nói xỏ hai người là la và ngựa choai.
Mọi người biết không địch nổi mồm mép của hồ, liền giao hẹn trở đi nếu ai khơi chuyện ngạo ngược thì phải đứng ra làm chủ, bỏ tiền mua rượu. Giây lát rượu ngà ngà, Tôn nói đùa với Vạn “Có vế đối thách ông đối lại”, Vạn hỏi câu gì, Tôn đọc “Kỹ nữ xuất môn phỏng tình nhân, lai thời vạn phúc, khứ thời vạn phúc*” cả bàn nghĩ mãi không ai đối được.
*Kỹ nữ... vạn phúc: nghĩa đen là "Kỹ nữ ra cửa thăm tình nhân, lúc tới thưa vạn phúc, lúc đi thưa vạn phúc", “vạn phúc" là lời chúc tụng nhưng cũng là tên của Vạn Phúc, nên đoạn sau còn có thể hiểu là "tới cũng Vạn Phúc, đi cũng Vạn Phúc", có ý đùa là Vạn Phúc chuyên tới kỹ viện chơi bời.
Hồ cười nói "Ta có câu rồi đây", mọi người lắng tai nghe, hồ đọc “Long vương hạ chiếu cầu trực gián, miết dã đắc ngôn, quy dã đắc ngôn*” tất cả lại cười bò ra. Tôn bực lắm, nói “Đã giao hẹn rồi, sao lại phạm?”. Hồ cười đáp “Đúng là ta có lỗi, nhưng nếu không thế thì không đối cho sát được. Sáng mai xin đặt tiệc để chuộc lỗi”, chủ khách cùng cười rồi chia tay. Hồ khôi hài đại loại như thế, không sao kể hết được.
*Long vương... đắc ngôn: nghĩa đen là “Long vương xuống chiếu cầu lời thẳng, vích cũng được nói, rùa cũng được nói", “được nói” (đắc ngôn) cũng là tên của Đắc Ngôn, nên đoạn sau còn có thể hiểu là “... vích là Đắc Ngôn, rùa là Đắc Ngôn", có ý nói xỏ Tôn Đắc Ngôn là con rùa. Rùa là một giống vật được người Trung Hoa ví với kẻ hạ tiện dâm đãng.
Được vài tháng, hồ cùng Vạn về quê. Tới địa giới Bác Hưng, hồ nói với Vạn “Ở đây ta có người họ hàng xa, đã lâu không qua lại, không thể không ghé thăm. Vả lại trời cũng đã tối, chàng cứ đi cùng tới đó ngủ lại, sáng mai đi cũng được”. Vạn hỏi ở đâu, hồ chỉ nói không xa. Vạn ngờ vì trước nay khu này vốn không có làng xóm gì, nhưng cũng đi theo. Khoảng hai dặm quả thấy một gia trang, bình sinh chưa đi ngang lần nào. Hồ gõ cổng thì có một người hầu ra mở, vào trong thấy cửa liền gác nối, rõ ràng là nhà thế gia. Giây lát tới chỗ chủ nhân, có hai ông bà già, vái chào Vạn rồi mời ngồi, bày tiệc linh đình tiếp đãi như con rể, kế hai người nghỉ lại đó.
Sáng sớm hồ nói "Ta về ngay cùng chàng, sợ người nhà sợ hãi. Chàng cứ về trước, ta sẽ theo tới ngay”. Vạn theo lời về trước nói rõ với gia nhân. Không bao lâu hồ tới, nói cười với Vạn, mọi người đều nghe rõ nhưng không nhìn thấy người. Năm sau Vạn lại có việc đi Tế Nam, hồ cũng đi cùng. Chợt có mấy người tới, hồ theo ra trò chuyện thăm hỏi rồi nói với Vạn “Ta vốn gốc gác ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), cùng chàng có mối túc duyên nên theo nhau bấy lâu, nay anh em ta đã tới, ta phải theo về, không theo hầu chàng trọn đời được”. Vạn cố giữ lại không được, kế hồ ra đi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 83 -
Nối Giấc Kê Vàng
(Tục Hoàng Lương)

Cử nhân họ Tăng người Phúc Kiến lúc vừa thi đỗ Tiến sĩ cùng vài người bạn thân khoa dạo chơi ngoài thành. Tình cờ nghe nói ở chùa Tỳ Lư có một thầy tướng liền kéo nhau tới xem quẻ. Tăng vào ngồi, thầy tướng nhìn thấy ý khí tự đắc bèn nịnh hót lấy lòng. Tăng phe phẩy quạt mỉm cười rồi hỏi “Ta có số làm Tể tướng không?”. Thầy tướng nghiêm trang nói sẽ làm Tể tướng hai mươi năm trong đời thái bình, Tăng cả mừng, ý khí càng thêm cao ngạo. Gặp lúc có cơn mưa nhỏ, cùng bạn bè vào tăng xá tránh mưa, thấy bên trong có vị sư già mắt sâu mũi cao ngồi trên tấm bổ đoàn, ngạo mạn không chào hỏi ai. Cả bọn cùng chào rồi lên sạp ngồi nói chuyện với nhau, đều mừng Tăng sẽ làm Tể tướng.

Tăng càng đắc ý, chỉ bạn cùng đi nói "Khi nào ta làm Tể tướng, sẽ cử Trương huynh làm Tuần phủ Hà Nam, ông anh cô cậu của ta làm chức Tham du, lão bộc nhà ta cũng được chức Thiên bả nho nhỏ, thế là mãn nguyện", cả bọn cười vang. Kế nghe bên ngoài mưa càng lớn như trút nước, Tăng mỏi mệt nằm xuống giường, chợt thấy hai quan Trung sứ đem tờ chiếu do Thiên tử đích thân viết tới triệu Tăng Tể tướng vào triều bàn việc nước. Tăng đắc ý vội vàng vào triều, nhà vua hỏi han dịu ngọt hồi lâu, truyền cho Tăng được quyền thăng giáng các quan từ tam phẩm trở xuống, ban cho mãng bào đai ngọc và ngựa quý, Tăng mặc áo đeo đai dập đầu tạ ơn rồi ra về.

Vào nhà thì thấy không phải nơi ở cũ ngày trước mà toàn là cột chạm cửa sơn vô cùng lộng lẫy, cũng không hiểu vì sao vinh hiển mau lẹ như vậy, nhưng chỉ cần vuốt râu gọi khẽ thì quân hầu dạ ran như sấm. Kế các quan công khanh đem quà cáp tặng biếu tới khúm núm xếp hàng ngoài cổng. Các quan khanh sáu bộ tới thì Tăng vội vàng ra đón, hạng Thị lang thì vái chào cùng trò chuyện, chức thấp hơn thì chỉ gật đầu chào thôi. Tuần phủ Sơn Tây gởi tặng ban nữ nhạc mười người đều là con gái trẻ đẹp, trong đó Niễu Niễu và Tiên Tiên đẹp nhất, hai người rất được yêu quý, Tăng cho phục dịch khăn áo, hàng ngày hầu hạ ca múa.

Một hôm Tăng nhớ lại lúc còn hàn vi thường được thân sĩ trong huyện là Vương Tư Lương giúp đỡ, nay ta đã nhẹ bước thang mây mà ông ấy còn lận đận trên đường công danh, sao không đưa tay dìu dắt một phen. Sáng ra dâng sớ tiến cử Vương làm quan Gián nghị, lập tức có chỉ dụ bổ dụng. Lại nghĩ tới Thái bộc họ Quách từng trợn mắt với mình, liền gọi bọn Cấp gián họ Lữ và Thị ngu Trần Xương dặn dò, hôm sau sớ tấu đàn hặc nối nhau dâng lên, liền có chỉ cách chức Quách Thái bộc cho về làm dân. Đền ơn trả oán xong, Tăng rất thỏa ý.

Một hôm ra ngoài thành chơi, có người say rượu phạm vào nghi trượng, Tăng sai trói lại giải tới quan Kinh triệu doãn, người ấy lập tức bị đánh đòn mà chết. Những người có nhà cửa ruộng đất ở cạnh đều sợ quyền thế đem những ruộng tốt nhà to hiến cho, từ đó Tăng thành phú gia địch quốc. Không bao lâu, Niễu Niễu và Tiên Tiên nối nhau qua đời. Tăng khuya sớm nhớ nhung, chợt nhớ năm xưa thấy người con gái hàng xóm tuyệt đẹp, vẫn muốn mua làm tỳ thiếp nhưng vì ít tiền nên không được như nguyện, nay may đã đắc ý, bèn sai mấy tên gia nhân đắc lực đem tiền tới ép nhận sính lễ, giây lát kiệu nàng về tới, so lại với ngày trước thì càng đẹp hơn, tự nghĩ như thế đã thỏa nguyện ước bình sinh rồi.

Hơn năm sau thì các quan trong triều đều ngầm có lòng chê trách nhưng đều không dám nói ra, Tăng cũng nghênh ngang không thèm để ý. Có quan Long đồ học sĩ họ Bao dâng sớ hặc tội, đại lược như sau:
“Trộm nghĩ Tăng Mỗ vốn là một kẻ vô lại cờ bạc rượu chè, tiểu nhân đầu đường xó chợ, chỉ có một lời nói hợp ý mà được thánh thượng tin dùng, cha con vinh hiển, ân sủng tột bực. Thế mà không nghĩ tới việc dốc lòng báo đáp trong muôn một, lại phóng ý rông càn làm oai phúc, những tội đáng chết nhổ tóc mà đếm cũng không đủ. Danh vị trọng thể của triều đình thì coi như món hàng lạ, cân nhắc nhỏ to, ra giá cao thấp. Vì thế công khanh tướng sĩ đều phải lui tới nhà y, tính toán tiến thân như đi buôn, luồn lọt lấy lòng không kể xiết. Hoặc có kẻ kiệt sĩ hiền thần không chịu a dua, nhẹ thì bị gạt bỏ không dùng, nặng thì bị cách quan bãi chức. Thậm chí chỉ hơi trái ý thì y đặt điều vu cáo bắt phải đi đày, nên quan lại đều tê lòng, triều đình thành cô lập. Lại máu mỡ dân đen mặc tình vơ vét, con gái nhà lành bắt ép làm hầu, hơi oán mịt mờ, mặt trời u ám. Gia nhân của y tới nơi thì quan địa phương phải dạ lấy lòng, thư từ của y gởi ra thì kẻ cầm quyền phải làm trái phép. Có khi con cái tôi tớ, họ hàng dây dưa đi ra cũng dùng ngựa trạm, ruổi rong mịt bụi, hò hét thị uy. Địa phưong cung cấp hơi chậm trễ, roi vọt đánh đập liền ra tay, ức hiếp nhân dân, sai khiến quan lại, nghi trượng tới đâu thì ruộng đồng sạch cỏ. Thế mà Tăng Mỗ vẫn nghênh ngang hống hách, không chút ăn năn, tấu đối qua loa ở triều đình, dối trá gian tà trước thánh thượng. Xe kiệu vừa rời chốn công môn, sênh ca đã bày nơi hậu uyển. Thanh sắc chó ngựa cứ chơi tràn, quốc kế dân sinh chẳng lo nghĩ, trên đời há có loại Tể tướng như thế sao? Trong ngoài xôn xao, nhân tâm ly tán, nếu không có búa rìu trị ngay, ắt sẽ thành Mãng Tháo* gây họa. Thần sớm tối lo lắng, không dám yên thân, liều chết kể ra các tội của y, dâng lên Thánh thượng xem xét. Mong Thánh thượng ra lệnh xử chém kẻ gian nịnh, tịch thu của tham ô, để trên thỏa dạ trời, dưới hả bụng chúng. Nếu thần vu oan, xin cam chịu tội..."

*Mãng Tháo: tức Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán và Tào Tháo lấn quyền vua Hán, sử sách Trung Hoa ngày xưa coi là gian thần.

Tờ sớ dâng lên, Tăng nghe được vô cùng run sợ, người lạnh toát như uống băng, nhưng may nhờ vua khoan dung, để đó không xét. Kế các quan Khoa đạo cửu khanh lại liên tiếp dâng sớ đàn hặc, ngay những kẻ trước kia xin làm môn hạ, cung kính như cha cũng trở mặt vớì Tăng. Vua liền giáng chỉ tịch thu gia sản, bắt Tăng sung quân ở Vân Nam, con trai Tăng làm Thái thú quận Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) cũng bị triều đình sai quan ra tra xét. Tăng nghe chỉ dụ đang kinh hoàng thì có mấy mươi võ sĩ đeo gươm cầm giáo vào thẳng nhà trong lột hết áo mão, vợ cũng bị trói. Kế thấy mấy người vác của cải trong nhà ra sân, vàng bạc tiền nong tới mấy trăm vạn, châu ngọc bảo vật tới mấy trăm hộc, rèm màn giường tủ cũng tới mấy ngàn món, còn những tã lót trẻ con, giày tất đàn bà thì vương vãi khắp sân. Tăng đều nhất nhất trông thấy, đau lòng xốn mắt. Giây lát lại có một người bắt nàng hầu đẹp nhất giải ra, tóc rối kêu khóc, mặt ngọc tái xanh, Tăng đau xót như lửa đốt ruột gan nhưng ngậm hờn không dám nói. Kế lầu gác kho tàng niêm phong xong, họ lập tức quát thét giải Tăng ra, toán lính áp giải xô đẩy vung giáo bắt đi mau. Vợ chồng Tăng nuốt lệ lên đường, lúc này muốn ngựa tồi xe xấu đỡ chân cũng không sao có được. Được hơn mười dặm thì vợ mệt quá loạng choạng muốn ngã, Tăng phải dìu đỡ. Lại hơn mười dặm nữa thì mình cũng mệt mỏi, thấy núi non xa xa cao chọc trời mà lo không trèo lên nổi, cứ kéo tay vợ nhìn nhau khóc lóc nhưng toán lính áp giải trợn mắt sấn tới không cho nghỉ chân. Lại thấy mặt trời đã lặn, không có chỗ nào nghỉ lại bất đắc dĩ phải khập khiễng lê bước. Tới lưng núi thì vợ kiệt sức khóc lóc ngồi phịch xuống vệ đường, Tăng cũng mệt quá ngồi xuống nghỉ, mặc cho toán lính áp giải quát tháo chửi mắng.
Bỗng nghe tiếng hò la ầm ĩ, có bọn cướp vác đao sắc ào ào xông ra, toán lính áp giải hoảng sợ bỏ chạy. Tăng quỳ mọp nói mình một thân trơ trọi bị đày đi xa, hành lý chẳng có gì đáng giá, năn nỉ bọn cướp tha cho. Bọn cướp trợn mắt nói “Bọn ta đều là dân bị hại, chỉ cần cái đầu đứa nịnh tặc chứ không cần lấy gì cả". Tăng nổi giận quát "Ta dù mắc tội cũng là quan lớn của triều đình, lũ giặc cỏ sao dám hỗn láo như thế?”. Bọn cướp cũng nổi giận vung búa lớn trên đầu Tăng, nghe thấy đầu rơi xuống đất thành tiếng. Hồn Tăng còn đang kinh hãi thì lập tức có hai tên quỷ tốt tới nắm tay lôi đi. Đi mấy khắc thì vào tới một nơi đô hội, giây lát tới một cung điện, trên điện có một vị vương giả tướng mạo xấu xí ngồi xét xử tội phúc.

Tăng khúm núm tới quỳ trước mặt nghe lệnh, vị vương giả mở sổ xem qua mấy hàng lập tức giận dữ quát "Tên này phạm tội dối vua hại nước, phải bỏ vào vạc dầu”, muôn quỷ dạ ran như sấm, lập tức có tên quỷ to lớn lôi Tăng xuống dưới thềm, thấy cái vạc cao khoảng bảy tám thước, bốn phía đốt than, chân vạc đỏ rực. Tăng run sợ kêu khóc, muốn chạy trốn mà không được, tên quỷ tốt tay trái túm tóc, tay phải nắm chân Tăng ném vào vạc dầu, Tăng theo dầu sôi nổi lên chìm xuống, da thịt bong rát đau thấu tim gan, dầu tràn vào miệng cháy bỏng gan ruột, muốn chết ngay mà không chết được. Khoảng xong bữa cơm, tên quỷ tốt lấy đinh ba vớt Tăng ra đem vào sảnh đường. Vị vương giả lại xem sổ sách, nổi giận nói "Y cậy thế hiếp người, phải quăng vào núi đao” Quỷ tốt lại lôi Tăng đi, thấy hòn núi không to lớn lắm nhưng sườn đá dựng đứng, đao nhọn tua tủa như măng mọc dày đặc, đã có mấy người thủng bụng toác ruột đang vướng bên trên, đau đớn kêu gào vô cùng thảm thiết. Quỷ tốt giục Tăng leo lên, Tàng khóc rống lùi lại, quỷ tốt cầm dùi nhọn đâm vào gáy, Tăng nhịn đau xin tha cho, quỷ tốt nổi giận túm lấy Tăng ra sức ném lên trời. Tăng thấy mình lơ lửng trên mây rồi rơi thẳng xuống, bị đao xóc vào bụng, đau đớn không sao nói xiết. Lát sau vì thân thể to béo đè nặng lên nên vết đao đâm vào dần dần rộng ra, chợt rơi phịch xuống, chân tay co quắp. Quỷ tốt lại dẫn vào trước mặt vị vương giả, vương sai tính lại lúc sinh bình Tăng bán chức buôn danh, ăn hối lộ cướp của người được bao nhiêu tiền. Lập tức có người rậm râu đứng gãy bàn tính rồi nói "Tất cả là Ba trám hai mươi mốt vạn”. Vương nói "Y đã gom góp thì bắt y uống đi". Phút chốc lấy vàng bạc ra chất đống dưới thềm, cao như gò núi, rồi từ từ bỏ vào nồi sắt quạt lửa nấu chảy ra, kế mấy tên quỷ tốt luân phiên lấy gáo múc đổ vào miệng Tăng, tràn qua gò má thì da thịt cháy khét, vào tới cuống họng thì ruột gan nóng sôi, lúc sống lo vật ấy có ít, lúc ấy lại sợ nó quá nhiều, mất nửa ngày mới uống xong.

Vương giả sai quỷ tốt giải Tăng đi đầu thai làm con gái ở đất Cam Châu (huyện Trương Dịch tính Cam Túc). Đi độ vài bước thấy trên giá cao có một cây trục sắt chu vi độ mấy thước xỏ qua một bánh xe lớn, rộng lớn không biết mấy trăm dặm, sáng lóe năm sắc chiếu tới mây xanh. Quỷ tốt đánh bắt trèo lên, Tăng nhắm mắt bước lên thì bánh xe theo chân xoay chuyển, thấy như bị rơi xuống, toàn thân mát lạnh, mở mắt nhìn lại mình thì đã hóa ra đứa trẻ sơ sinh mà lại là con gái. Nhìn tới cha mẹ thì áo quần rách rưới, trong gian phòng vách đất còn đủ cả bị gậy, biết đã đầu thai làm con ăn mày. Lớn lên hàng ngày theo đám trẻ ăn mày đi xin ăn, bụng lép kẹp ít khi được no, áo tả tơi gió lạnh thấu xương.

Năm mười bốn tuổi bị bán làm vợ lẽ cho Tú tài họ Cố, tuy hơi được no ấm nhưng gặp người vợ lớn hay ghen, hàng ngày thường đánh đập, lại nung sắt đỏ đốt vú, may là chồng thương xót nên cũng thấy được an ủi. Chợt có gã thiếu niên hung ác bên láng giềng trèo tường qua cưỡng ép, mới tự nghĩ kiếp trước làm nên tội nghiệt đã chịu hình phạt dưới âm ty rồi, nay sao lại phải chịu như thế nữa. Bèn kêu ầm lên, chồng và vợ lớn đều tỉnh dậy, gã thiếu niên mới bỏ chạy. Không bao lâu, một đêm Tú tài tới ngủ ở phòng, đang thì thầm to nhỏ kể lể oan khổ bỗng có tiếng ầm ầm, cửa phòng mở toang, có hai tên cướp cầm đao sấn vào chặt đầu Tú tài rồi lục lọi tài vật, sợ hãi nằm im trong chăn không dám lên tiếng. Kế bọn cướp đi rồi mới kêu khóc chạy tới phòng vợ lớn, vợ lớn cả kinh, cùng tới xem xét khóc lóc, nghi là vợ lẽ đưa gian phu vào giết chồng bèn làm đơn trình lên Thứ sử. Thứ sử cho bắt tra hỏi, bị tra tấn tàn nhẫn đành nhận bừa, bị kết án lăng trì.

Khi bị giải ra chỗ hành hình, trong lòng uất ức không sao phát tiết, vừa đi vừa la khóc rằng mười tám địa ngục dưới âm ty cũng không có nơi nào đen tối hơn. Đang kêu gào thảm thiết, nghe tiếng bạn cùng đi gọi “Anh bị ma đè à?", giật mình tỉnh dậy, thấy nhà sư già vẫn ngồi xếp bằng như cũ. Bạn bè lại hỏi “Trời chiều bụng đói sao ngủ say thế?”. Tăng buồn rầu đứng lên. Nhà sư mỉm cười hỏi “Quẻ bói Tể tướng nghiệm chưa?”. Tăng càng kinh sợ, vái lạy thỉnh giáo. Nhà sư nói "Tu nhân tích đức thì trong lò lửa tự có sen vàng chứ bần tăng làm sao biết được?". Tăng nghênh ngang khi tới, không ngờ buồn bã mà về, tấm lòng công danh từ đó nguội lạnh, sau vào núi tu, không rõ kết cục ra sao.

Dị Sử thị nói:Ban phúc cho kẻ lành, giáng họa cho người dâm là đạo thường của trời. Kẻ kia nghe nói sẽ được làm Tể tướng thì mừng rỡ cho là đúng, thì có thể biết không phải là người cúc cung tận tụy thờ vua rồi. Lúc bấy giờ thì nắm đại quyền, lầu gác thê thiếp không gì không có, tuy giấc mơ kia vốn là dối song mong ước ấy cũng không phải đúng. Nhà sư làm ra ảo mộng, lấy đạo thuật thần diệu để răn người, kê vàng thành lệ giấc mộng ấy ắt có thật, có thể phụ vào sau chuyện giấc mộng ở Hàm Đam*.
*Kê... vàng... Hàm Đan: Chẩm trung ký chép Lư sinh thời Đường tới ngụ ở Hàm Đan, vào quán trọ gặp tiên ông Lữ Động Tân, thở than mình nghèo khổ. Lúc ấy chủ quán đang nấu kê, tiên ông đưa chiếc gối cho Lư, bảo gối lên mà ngủ sẽ được như nguyện. Lư chớp mắt thấy mình thi đỗ Tiến sĩ, làm quan lớn, vợ đẹp con khôn, giàu sang vinh hiển suốt năm mươi năm. Khi tỉnh dậy thì nồi kê trong quán trọ vẫn chưa chín. Lư kinh ngạc hỏì “Chỉ là mộng thôi sao?”. Lữ Động Tân cười đáp "Việc đời đều như thế cả". Sau người ta hay dùng tích này để nói việc công danh phú quý chỉ là ảo mộng.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 84 -
Chó Săn Nhỏ
(Tiểu Lạp Khuyển)

Tể tướng họ Vệ ở Sơn Tây lúc còn là Chư sinh ghét ồn ào phiền nhiễu nên tới ở trong chùa, khổ là trong phòng rất nhiều rận rệp ruồi muỗi, cả đêm không chợp mắt được nên ăn cơm trưa xong bèn lên giường nằm nghỉ. Chợt thấy một võ sĩ nhỏ bé đội mũ gắn lông trĩ, cao khoảng hai tấc, cưỡi con ngựa to bằng con sâu, vai mang cái đai xanh trên có con chim ưng to bằng con ruồi từ ngoài vào qua lại trong phòng, lúc đi lúc chạy. Ông đang chăm chú ngắm nhìn chợt lại có một người khác vào, trang phục như người trước, lưng đeo bộ cung nhỏ, dắt con chó săn to bằng con kiến càng. Khoảnh khắc thì có vài trăm quân bộ quân kỵ ồ ạt kéo vào, dắt theo vài trăm con chim ưng, vài trăm con chó săn, có bao nhiêu ruồi muỗi đang bay đều thả ưng ra đánh giết bằng hết.
Lại thả chó lên giường lần theo sát vách tìm săn rận rệp sâu bọ, sục tới khe hở nào thì sâu bọ trong đó đều phải bò ra, trong chớp mắt đã cắn giết sạch. Ông vờ ngủ hé mắt nhìn, thấy chim ưng đánh giết, chó săn săn mồi sát bên người mình. Kế có một người mặc áo màu vàng đội mũ bình thiên như bậc vương giả lên một giường khác, nghênh ngang dong xe bốn ngựa đi lại. Bọn quân kỵ đều xuống ngựa dâng các con vật săn được lên, chất đống bên cạnh, cũng không rõ là trò chuyện những gì. Giây lát vị vương giả lại lên xe, quân hộ vệ đều vội vàng lên ngựa rầm rập túa ra như đậu lăn kéo đi như mây bay gió cuốn, trong chớp mắt đã đi hết.
Ông nhìn thấy rõ ràng, kinh lạ không rõ bọn họ từ đâu tới, xỏ giày bước ra xem thì không thấy bóng dáng dấu vết gì cả, duy thấy trên hòn gạch sát tường còn sót một con chó nhỏ, vội vàng bắt lấy. Con chó rất thuần, ông đặt vào cái hộp đựng nghiên mực xoay đi xoay lại ngắm nhìn, thấy lông rất mượt, cổ có đeo cái vòng nhỏ. Lấy cơm cho ăn thì nó chỉ ngửi rồi bỏ đi, nhảy lên giường tìm những nếp chăn nếp áo sục sạo bắt rận rệp, xong rồi quay về nằm xương ngủ. Qua một đêm, ông ngờ là nó đã bỏ đi, xem lại thấy vẫn nằm khoanh tròn như cũ. ông ngủ trưa thì nó nhảy lên giường, cứ thấy sâu bọ nào trên chiếu là cắn chết hết, ruồi muỗi cũng không dám đáp xuống, ông quý hơn cả vàng ngọc.
Một hôm ông ngủ trưa, con chó tới rúc xuống nằm bên cạnh. Ông tỉnh dậy trở mình đè lên nó, thấy có vật gì cộm dưới lưng, nghĩ ngay là con chó vội vàng dậy xem thì nó đã chết bẹp như mảnh giấy, nhưng từ đó không bị rận rệp gì cắn nữa.
Phụ Lục: Một Truyện Trong Trì Bắc Ngẫu Đàm(Phụ Lục: Trì Bắc Ngẫu Đàm Nhất Tắc)
Quan Tể tướng Mỗ lúc chưa thi đỗ, mùa hè thường nằm ngủ trưa. Chợt thấy một người nhỏ bé cưỡi ngựa vào, người ngựa đều cao khoảng hơn tấc, lưng đeo cung tên, vai mang chim ưng to bằng con ruồi. Kế một người nữa tới, cũng nhỏ bé như vậy, dắt một con chó săn to bằng con kiến càng. Hai người đi vòng vòng trong phòng, hồi lâu có vài ngàn giáp sĩ kéo vào, cờ xí rực rỡ chia làm hai cánh bổ vây mở cuộc săn lớn, ruồi muỗi trong phòng đều bị giết sạch, những sâu bọ trốn núp trên kẽ vách đều bị lôi ra. Kế có một người áo đỏ xuống xe ngồi lên giường khác, quân sĩ lần lượt tới dâng những vật săn bắt được. Xong lại lên xe, đội ngũ tề chỉnh kéo đi, quân giáp sĩ cũng ra theo như mây bay gió cuốn rút hết. Ông choàng dậy không thấy gì nữa, chỉ còn một con chó nhỏ ngơ ngác trên vách, lập tức bắt lấy bỏ vào tráp. Con chó rất thuần, ông cho cơm thì không ăn, ông ngủ thì nằm bên cạnh gối, cứ thấy ruồi muỗi thì cắn đuổi đi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 85 -
Cô Tân Mười Bốn
(Tân Thập Tứ Nương)

Phùng sinh ở huyện Quảng Bình (tỉnh Hà Bắc) là người thời Chính Đức nhà Minh (1506-1521), lúc trẻ lông bông hay rượu. Sáng sớm ra đường gặp một thiếu nữ mặc áo khoác đỏ, vô cùng xinh đẹp, có đứa tiểu đồng theo hầu, đạp bừa trên sương mà đi, giày tất ướt hết, lòng thầm yêu mến. Chiều tối say rượu trở về, bên đường vốn có ngôi chùa bỏ hoang đã lâu, có cô gái từ trong đi ra, chính là người đẹp lúc sáng. Nàng vừa thấy sinh tới, lập tức quay người trở vào. Sinh nghĩ thầm người đẹp như thế sao lại ở trong chùa, liền buộc lừa ở cổng rồi vào trong tìm hiểu chuyện lạ.

Vào thấy tường rào đổ nát, cỏ phủ đầy thềm, còn đang ngần ngừ thì một ông già tóc bạc đi ra, áo mũ chỉnh tề hỏi khách tới đây làm gì. Sinh đáp "Ngẫu nhiên đi ngang thấy ngôi chùa cổ nên muốn vào lễ Phật, còn ông tới đây làm gì?”. Ông già đáp “Lão phu ngụ cư không có chỗ ở nên mượn tạm nơi này cho gia đình ở, được ông quang lâm, có chén trà núi cũng tạm thay rượu được", rồi cung kính mời khách vào. Thấy hậu điện có gian nhà, đường đi lát đá sáng bóng không có chút rêu cỏ, vào nhà thì rèm cửa màn giường đều thơm phức. Ngồi xuống hỏi họ tên, ông già nói là Mông Tẩu họ Tân. Sinh nhân say hỏi "Nghe nói ông có một cô con gái chưa gả cưới, ta không xét mình, tình nguyện làm rể được không?”. Tân cười nói "Để ta bàn lại với bà ấy", sinh lập tức hỏi lấy giấy bút làm một bài thơ rằng:

Thiên kim mịch ngọc chử,
Ân cần thủ tự tương.
Vân Anh như hữu ý,
Thân vị đảo nguyên sương.

(Ngàn vàng tìm chày ngọc
Ân cần tay tự mang
Vân Anh như có ý
Xin giã thuốc cho nàng)*

*Vân Anh... cho nàng: Bùi Hàng truyền kỳ chép Bùi Hàng 1à người thời Đường đi ngang trạm Lam Kiều khát nước ghé vào nhà một bà già xin nước uống, bà già sai con gái là Vân Anh mang nước ra cho. Hàng thấy nàng xinh đẹp xin cưới làm vợ, bà già nói mình có phương thuốc tiên nhưng còn thiếu cối ngọc chày ngọc để giã, nếu Hàng tìm được sẽ gả Vân Anh cho. Sau Hàng mua được cối ngọc chày ngọc tới, bà già sai Hàng giã thuốc một trăm ngày rồi gả Vân Anh cho Hàng, kế hai vợ chồng cũng thành tiên. Bài thơ của Phùng sinh dùng tích này để ngỏ ý xin làm rể nhà ông Tân.

Chủ nhân đọc thơ cười đưa cho người hầu, giây lát có tỳ nữ từ nhà trong ra ghé tai Tân nói nhỏ. Tân đứng lên xin khách chịu khó ngồi đợi rồi vén rèm vào nhà trong, nghe trò chuyện loáng thoáng năm ba câu rồi lập tức trở ra. Sinh nghĩ chắc có tin hay nhưng Tân cứ ngồi cười nói trò chuyện chứ không nói gì tới việc đó. Sinh không kìm được hỏi luôn "Chưa rõ ý ông về việc đó thế nào, xin dạy bảo cho ta hết ngờ vực”. Tân đáp "ông là bậc tài sĩ, ta đã hâm mộ từ lâu, nhưng có chuyện riêng nên không dám nói thôi". Sinh cứ nài nỉ xin cho biết, Tân đáp "Ta có tất cả mười chín con gái, đã gả chồng cho mười hai đứa, nhưng việc cưới gả đều quyền ở bà nó chứ ta không dự bàn”. Sinh nói "Tiểu sinh chỉ muốn hỏi cưới người dắt đứa tiểu đồng lội sương sáng nay thôi”.

Tân không đáp, im lặng nhìn khách, nghe trong phòng có tiếng con gái thì thào, sinh mượn men vén rèm bước vào, nói “Đã không thành vợ chồng được, thì cũng phải thấy mặt một lần ta mới nguôi hận”. Bên trong nghe tiếng rèm khua đều sửng sốt đúng cả dậy, quả có cô gái áo đỏ xốc tay áo nghiêng đầu mân mê giải áo, thấy sinh xông vào hoảng hốt nhìn khắp mọi người trong phòng. Tân tức giận sai mấy người lôi sinh ra cửa. Men rượu càng bốc, sinh ngã lăn vào bụi gai, gạch đá ném xuống như mưa, may mà không trúng vào người. Nằm một lúc nghe con lừa vẫn còn gặm cỏ bên đường, bèn dậy lên lừa thất thểu ra đi.

Trời tối lầm đường lạc vào khe núi, sói gào cú rúc rợn gáy lạnh mình, ngập ngừng nhìn quanh không biết đang ở đâu. Nhìn tới khu rùng xa xa thấy có ánh đèn thấp thoáng, nghĩ là làng xóm, liền giục lừa tới, thấy cánh cổng cao rộng bèn cầm roi gõ cửa. Bên trong có người hỏi "Lang quân ở đâu mà nửa đêm tới đây?", sinh đáp là lạc đường. Người ấy nói “Chờ ta thưa với chủ nhân". Sinh đứng đợi chồn cả chân, chợt nghe tiếng then lạch cạch rồi cánh cổng mở ra, một người tớ trai khỏe mạnh bước ra đỡ dây cương lừa.

Sinh vào, thấy nhà cửa hoa lệ, trên sảnh thắp đèn sáng trưng. Ngồi giây lát thì có người đàn bà ra hỏi tên họ khách, sinh nói rõ. Hồi lâu có mấy tỳ nữ đỡ một bà già ra, nói “Quận quân tới”. Sinh đứng lên định vái lạy, bà già ngăn lại bảo ngồi rồi hỏi “Ngươi là cháu nội của Phùng Vân Tử phải không?", sinh đáp "Thưa phải". Bà già nói “Vậy thì ngươi là cháu gọi lão thân bằng bà mợ. Thân già như chuông câm lậu cạn, đến cuối đời họ hàng ruột thịt cũng không ai lui tới”. Sinh nói "Cháu lúc nhỏ mồ côi cha, những người lui tới với ông nội mười phần không biết một nên chưa được chào bà, xin chỉ bảo cho” Bà già nói "Rồi cháu sẽ tự rõ". Sinh không dám hỏi nữa, ngồi đối diện bà già trầm tư.

Bà già hỏi "Sao cháu lại nửa đêm tới đây?”, sinh bèn khoe khoang mình gan dạ, kể rõ những chuyện đã qua. Bà già cười nói “Đó là việc mừng lớn, huống hồ cháu là danh sĩ, chẳng có gì làm nhà thông gia phải xấu hổ mà con chồn tinh nhà quê sao dám làm cao như thế? Cháu đừng lo, để ta thu xếp cho". Sinh vâng dạ cám ơn, bà già quay lại hỏi tả hữu "Ta không biết con gái họ Tân lại có đứa xinh đẹp như thế đấy". Một tỳ nữ nói “Y có mười chín con gái, người nào cũng xinh xắn, không rõ quan nhân định hỏi người nào?”. Sinh đáp “Là người khoảng mười lăm tuổi". Người tỳ nữ nói "Vậy là cô Mười bốn, ba hôm trước từng theo mẹ tới đây chúc thọ Quận quân, Quận quân quên rồi sao?". Bà già cười nói "Phải là người kết hột sen làm giày cao gót, trong chứa bột thơm, ngoài bọc sa mỏng mà đi không?”, người tỳ nữ đáp "Thưa phải". Bà già nói "Con nhãi ấy biết làm ra vẻ quyến rũ khéo lắm, nhưng quả là xinh đẹp, cháu ta thưởng lãm không sai", rồi lập tức bảo "Sai thằng Mèo Con gọi nó tới đây".

Người tỳ nữ đó vâng dạ đi ra, lát sau quay vào bẩm "Đã gọi được cô Mười bốn nhà họ Tân tới", liền thấy cô gái áo đỏ bước vào phủ phục làm lễ, bà già kéo dậy nói “Sắp làm vợ cháu ta, không nên làm lễ như tỳ nữ thế nữa". Cô gái thướt tha đứng lên, hai tay áo đỏ rủ xuống, bà già sửa mái tóc cho, sờ đôi hoa tai của nàng hỏi "Gần đây Tân Mười bốn ở nhà làm gì?”. Nàng đáp khẽ "Lúc rảnh con chỉ thêu thùa” rồi quay đầu thấy sinh, có vẻ ngượng ngập bối rối. Bà già nói "Đó là cháu ta, nó có ý tốt muốn kết duyên với con, sao lại để nó lạc đường, đêm khuya thất thểu trong khe núi thế?”, nàng cúi đầu im lặng. Bà già nói "Ta gọi con tới đây không có chuyện gì khác, chỉ là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi”, nàng vẫn im lặng. Bà già sai quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức, cô gái thẹn thùng nói “Xin cho con về thưa với cha mẹ". Bà già nói "Ta làm mai cho con thì còn có gì sai sót chứ?”. Nàng thưa "Quận quân ra lệnh thì cha mẹ con phải vâng lời chứ đâu đám trái, nhưng qua quít thế này thì con dù chết cũng không dám vâng mệnh". Bà già cười nói “Con bé này chí khí cứng cỏi, thật xứng đáng làm vợ cháu ta", bèn rút một chiếc thoa vàng trên tóc nàng đưa cho sinh làm tin, bảo về chọn ngày lành giờ tốt làm lễ cưới. Rồi sai tỳ nữ đưa nàng về, nghe xa xa có tiếng gà gáy lại sai dắt lừa tới tiễn sinh ra.
Sinh đi được vài bước, ngoảnh lại thì nhà cửa xóm làng đã biến mất, chỉ thấy cây cối um tùm, cỏ hoang mộ lở mà thôi, định thần ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra chỗ đó là mộ quan Thượng thư họ Tiết. Tiết vốn là em bà nội sinh nên gọi sinh là cháu. Lúc ấy sinh biết mình đã gặp ma, nhưng không hiểu cô Tân Mười bốn là ai. Bèn than thở quay về, chọn bừa một ngày tốt chờ nhưng vẫn thầm ngờ vực lời hẹn của ma quỷ khó tin, lại tới ngôi chùa cổ xem thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm thì người ở đó nói trong chùa thường có hồ quy. Sinh nghĩ thầm nếu được vợ đẹp thì có là hồ cũng tốt.

Đến ngày đã định liền cho dọn phòng quét ngõ, sai người nhà thay phiên nhau ra ngóng, đến nửa đêm vẫn yên ắng, sinh đã hết trông chờ. Giây lát nghe ngoài cổng ồn ào, lật đật ra xem thì kiệu hoa đã ngừng ở sân, hai a hoàn đỡ cô gái vào phòng, của hổi môn không có gì đáng giá chỉ có hai người tớ trai khiêng một cái phốc mãn to bằng cái khạp ghé vai đặt xuống góc phòng khách. Sinh mừng được vợ đẹp, không nghĩ gì tới việc khác loài, nhân hỏi cô gái "Một người đã chết như vậy sao nhà nàng quá phục tùng thế?”. Nàng đáp “Quan Thượng thư họ Tiết hiện làm Ngũ Đô Tuần hoàn sứ, hồ quỷ trong vài trăm dặm đều phải theo hầu, nên ít khi về mộ". Sinh nhớ cái ơn làm mối, hôm sau tới tế mộ ông bà, lúc về thấy hai tỳ nữ đem tới một cuộn gấm mừng, đặt lên bàn rồi đi. Sinh kể lại cho cô gái, nàng xem cuộn gấm rồi nói "Đây là vật của quận quân đấy".

Trong huyện có công tử con quan Thông chính ty họ Sở, thuở nhỏ học chung với sinh, chơi bời thân mật, nghe sinh cưới được vợ hồ liền đem thức ăn tới, sinh lập tức ra sảnh đường nhận rượu mừng. Vài hôm sau công tử lại bày tiệc mời, cô gái nghe chuyện nói với sinh “Hôm trước công tử tới, thiếp nhìn trộm qua kẽ vách thấy người ấy mắt vượn mũi ưng không thể thân cận, chàng đừng đi", sinh nghe theo. Hôm sau công tử tới trách sinh lỗi hẹn, nhân khoe bài văn mới làm. Sinh bình phẩm có ý giễu cợt, công tử cả thẹn không vui, kế chia tay. Sinh vào phòng cười kể lại, cô gái buồn bã nói “Công tử độc ác như sài lang, không nên trêu chọc. Chàng không nghe lời thiếp thì sắp gặp tai vạ rồi” sinh cười xin lỗi nàng.

Sau đó sinh gặp công tử thì cười đùa vui vẻ, chuyện xích mích trước dần tiêu tan. Gặp lúc có kỳ thi ở dinh Đốc học, công tử đỗ đầu, vô cùng vui vẻ sai người mời sinh qua uống rượu, sinh từ chối, công tử sai mời mấy lần mới tới. Khi tới mới biết là ngày sinh nhật của công tử, khách khứa đầy nhà, rượu thịt ê hề. Công tử đưa quyển thi cho sinh xem, bạn bè đua nhau ca tụng. Rượu được vài tuần, dàn nhạc ra tấu dưới thềm, tiếng đàn sáo tưng bùng, chủ khách đều rất vui vẻ. Bỗng công tử nói với sinh “Lời ngạn có câu Trong trường chớ bàn văn chương hơn kém, nay mới rõ câu ấy là sai. Sở dĩ mới rồi tiểu sinh may mắn đỗ trên ông là nhờ vài câu khởi đề cao hơn một bực mà thôi". Công tử nói xong, cả tiệc đều cất tiếng khen ngợi. Sinh đang say không nhín được, cười rộ nói “Mãi đến nay ông mới nhờ văn chương mà thành đạt tới mức ấy à?". Sinh nói xong cả tiệc đều tái mặt, công tử vừa thẹn vừa uất. Khách khứa lần lượt ra về, sinh cũng lẩn đi.

Khi tỉnh rượu hối hận bèn kể lại cho vợ, nàng không vui, nói "Chàng thật là gã thôn phu quê mùa! Phàm lấy thái độ khinh bạc đối xử với bậc quân tử thì tổn đức, đối xử với kẻ tiểu nhân thì hại thân, tai họa sắp tới cho chàng không còn xa đâu. Thiếp không nỡ thấy chàng lưu lạc, từ nay xin giã biệt". Sinh lo sợ sa nước mắt tỏ ý ăn năn, nàng nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì chàng phải hứa là từ nay trở đi đóng cửa tuyệt hết bạn bè, không uống rượu say sưa nữa”, sinh kính cẩn theo lời.

Cô Mười bốn tính cần kiệm hơn người, hàng ngày thường lo việc canh cửi, có lúc về thăm nhà nhưng không bao giờ ở lại qua đêm. Có khi lại xuất tiền buôn bán, hàng ngày có lời thì bỏ vào cái phốc mãn. Ngày ngày đóng cửa, ai tới thăm viếng cững bảo gia nhân ra từ tạ không tiếp. Hôm sau, công tử họ Sở gửi thư tới, nàng đốt bỏ không cho sinh biết. Lại hôm sau sinh vào thành điếu tang, gặp công tử ở nhà tang chủ, công tử nắm tay lôi kéo mời mọc, sinh thác cớ không đi. Công tử sai mã phu nắm cương ngựa sinh kéo đi, tới nhà công tử lập tức sai bày tiệc, sinh lại cáo từ muốn về sớm. Công tử nhất định giữ lại, lại gọi ban nhạc trong nhà ra đàn hát giúp vui. Sinh vốn không chịu bị gò bó, từ khi phải đóng cửa ở lỳ trong nhà rất lấy làm buồn bực, gặp bữa rượu lớn chợt nổi hứng không nghĩ gì tới ý trước nữa, cứ thả sức uống đến lúc say mèm lăn ra luôn bên bàn tiệc.

Vợ công tử là Nguyễn thị rất hung dữ ghen tuông, đám tỳ thiếp không dám trang điểm son phấn. Hôm trước có một nàng hầu vào phòng sách của công tử bị Nguyễn thị bắt được, cứ lấy gậy đập vào đầu, nàng ấy vỡ đầu chết ngay. Công tử vẫn căm giận vì bị sinh chế giễu, hàng ngày nghĩ cách báo thù, bèn mưu phục rượu cho say để vu cáo. Nhân lúc sinh say ngủ, liền khiêng cái xác nàng hầu lên giường rồi khép cửa bỏ đi. Đến canh năm sinh tỉnh mới biết mình ngủ trên ghế bèn dậy tìm giường, thấy có vật mềm mềm vướng chân, mò xem thì là người. Bụng nghĩ chắc chủ nhân cho tiểu đồng ngủ chung để chăm sóc hầu hạ, nhưng lay gọi sờ nắn thì bất động mà cứng đờ, cả sợ ra cửa la ầm lên. Tôi tớ trong nhà vùng dậy, thắp đèn soi thấy xác chết liền bắt sinh đánh dập. Công tử tới giả xem xét xác chết rồi vu cho sinh cưỡng gian giết nàng hầu của mình, giải nộp lên huyện Quảng Bình.

Hôm sau cô Mười bốn mới biết chuyện, khóc nói “Ta đã biết trước là sẽ có ngày hôm nay mà", rồi hàng ngày gởi tiền bạc cho sinh. Sinh gặp quan Phủ doãn không có lý lẽ gì để minh oan nên sớm chiều bị tra khảo đánh đập tuột da nát thịt. Cô gái vào ngục thăm, sinh gặp nàng nghẹn ngào đau đớn không nói nên lời. Nàng biết đã mắc vào mưu sâu bèn khuyên cứ nhận tội bừa cho khỏi bị tra tấn đau đớn, sinh khóc nghe theo. Nàng ra vào trong ngục mà người cách nhau gang tấc cũng không nhìn thấy, về nhà thở dài buồn bã, đuổi hết tớ gái ra ngoài, ở trong phòng một mình liền mấy ngày. Kế nhờ bà mối mua giùm một cô gái nhà dân tên Lộc Nhi, tuổi vừa cập kê, nhan sắc khá đẹp, cho ăn cùng mâm nằm cùng chiếu, yêu mến khác hẳn đám tỳ thiếp trong nhà.
Sinh nhận tội ngộ sát bị kết án thắt cổ, người lão bộc nghe tin chạy về khóc lóc kể không ra tiếng, nhưng nàng thản nhiên như không để ý. Kế sắp đến ngày đem xử những tù phạm bị kết án tử hình, nàng mới nhớn nhác vội vã, ngày đi đêm về không lúc nào nghỉ ngơi, lúc vắng người thì ngồi buồn rầu, bỏ cả ăn ngủ. Một hôm trời vừa sập tối, chợt con hồ tỳ tới, nàng vội đứng lên dắt vào phòng kín trò chuyện, lúc quay ra thì có vẻ hón hở, lại coi sóc việc nhà như ngày thường. Hôm sau người lão bộc vào ngục thăm, sinh gởi lời vĩnh biệt nương tử, người lão bộc về thuật lại, nàng ậm ừ mà cũng chẳng có vẻ đau thương buồn bã, chỉ lạnh lùng mặc kệ, tôi tớ đều lén chê là nàng nhẫn tâm.

Chợt khắp nơi đồn đại quan Thông chính sứ họ Sở bị cách chức, quan Quan sát Bình Dương vâng đặc chỉ xét lại vụ án Phùng sinh. Lão bộc nghe tin, mừng rỡ vào nói với bà chủ. Nàng cũng mừng, lập tức sai lão bộc lên phủ thăm dò, thì sinh đã ra khỏi ngục, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Giây lát thấy công tử bị bắt giải tới, chỉ tra hỏi một lượt là biết hết nội tình, sinh được tha ngay về. Về tới nhà, sinh vừa nhìn thấy vợ vùng sa nước mắt, nàng cũng chua xót. Sinh buồn rồi lại vui, nhưng rốt lại vẫn không rõ nhờ đâu mà vua biết được. Nàng cười chỉ con hồ tỳ nói "Đây là công thần của chàng đấy", sinh mới kinh ngạc hỏi han.

Trước là nàng sai con hồ tỳ lên yên Kinh, muốn vào cung vua kêu oan cho sinh nhưng tới nơi thấy trong cung có thần canh giữ, cứ quanh quẩn ngoài ngự câu mấy tháng không vào được. Nó sợ hỏng việc, toan về bàn tính lại, chợt nghe tin Thiên tử sắp ngự giá tới huyện Đại Đồng (tỉnh Sơn Tây), liền tới đó trước, giả làm con hát rong. Vua tới kỹ viện gặp nó rất thương yêu, tỏ ý ngờ không phải là kẻ phong trần, nó bèn cúi đầu khóc lóc. Vua hỏi có chuyện gì oan khổ, con hồ tỳ tâu "Thiếp vốn quê ở huyện Quảng Bình, con gái sinh viên Phùng mỗ, vì cha bị vu oan sắp bị xử tử nên bị bán vào kỹ viện”. Vua nghe thấy buồn bã thương xót, ban cho một trăm lượng vàng, lúc ra về lại hỏi kỹ đầu đuôi câu chuyện, lấy giấy bút ghi lại tên họ, lại nói muốn đưa nó về cùng chung hưởng phú quý. Con hồ tỳ nói chỉ muốn cha con đoàn tụ chứ không mong được hưởng giàu sang, vua gật đầu rồi đi. Con hồ tỳ kể lại cho sinh nghe, sinh vội vái lạy tạ ơn, nước mắt lưng tròng.

Không bao lâu sau, cô gái chợt nói với sinh "Thiếp không vì tình duyên thì đâu phải chịu cảnh phiền não thế này. Lúc chàng bị giam, thiếp chạy chọt khắp cả họ hàng thân thuộc mà không một ai bàn tính giùm mưu kế gì, lúc ấy trong lòng chua cay, thật không thể nói ra. Nay thấy chán ghét tục lụy, đã tìm sẵn cho chàng một người vợ hiền, vậy từ đây xin giã biệt”. Sinh nghe lạy phục xuống đất khóc lóc không chịu đứng lên, cô gái mới ở lại. Đến đêm nàng sai Lộc Nhi qua với sinh, sinh nhất định từ chối. Sáng hôm sau thấy cô Mười bốn dung mạo sút hẳn, hơn một tháng thì già sọm đi, nửa năm thì mặt nám da đen như bà già nhà quê, nhưng sinh vẫn kính mến không khác trước.

Chợt cô gái lại đòi từ biệt, nói “Chàng đã có vợ đẹp rồi, cần gì tới con quỷ già này?” sinh lại khóc giữ lại như trước. Qua tháng sau, cô gái phát bệnh nguy cấp, bỏ cả ăn uống nằm liệt. Sinh hôm sớm thuốc thang như lo cho cha mẹ, nhưng thuốc men bùa chú gì cũng vô hiệu, kế nàng chết. Sinh đau thương muốn chết theo luôn, liền lấy số vàng của con hồ tỳ được vua ban cho trước kia lo việc chôn cất. Vài hôm sau con hồ tỳ cũng đi. Sinh bèn lấy Lộc Nhi làm vợ, hơn một năm sinh được một trai. Nhưng sinh đi thi mấy khoa liền không đỗ mà gia cảnh ngày càng sa sút, vợ chồng không biết làm sao, chỉ nhìn nhau buồn rầu. Chợt nhớ tới cái phốc mãn trong góc nhà, thường thấy cô Mười bốn bỏ tiền vào trong, không biết có còn không? Tới xem thì nồi niêu chai lọ bày la liệt ở trên, phải nhấc cả ra rồi lấy đũa chọc thử nhưng không chọc vào được, bung lên đập vỡ thì tiền bạc tuôn ra đầy nhà, nhờ thế bỗng chốc sinh lại trở thành sung túc.

Về sau người lão bộc tới núi Thái Hoa, gặp cô Tân Mười bốn cưỡi ngựa đi trước, con hồ tỳ cưỡi lừa theo sau, hỏi "Phùng lang bình yên chứ?”, lại dặn "Về nói cho ông chủ biết là ta đã thành tiên rồi", nói xong thì biến mất.

Dị Sử thị nói:Những lời khinh bạc phần lớn là do các kẻ sĩ nói ra, đó là điều bậc quân tử than tiếc. Ta từng mạo cái danh không thật, nói là oan uổng thì cũng đã lỡ rồi, song chưa từng không khắc khổ tự khích lệ mình để gượng dự vào hàng quân tử, còn chuyện họa hay phúc thì không dự bàn. Như Phùng sinh chỉ lỡ lời một câu mà mấy lần suýt mất mạng, nếu không phải là trong nhà có người tiên thì làm sao thoát khỏi ngục tù mà sống lại ở đời? Thật đáng sợ thay!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 86 - 88 -
Bạch Liên Giáo
(Bạch Liên Giáo)

Bạch Liên giáo* có Mỗ người tỉnh Sơn Tây, không rõ tên họ, đại khái là đệ tử của Từ Hồng Nho**, dùng yêu thuật mê hoặc dân chúng, có nhiều người hâm mộ phép thuật nhận y làm thầy. Có hôm Mỗ đi vắng, đặt một cái chậu trong sảnh đường, lại lấy một cái chậu khác úp lên, dặn một người học trò ngồi giữ nhưng không được mở ra nhìn. Mỗ đi rồi, trò mở ra xem thì thấy trong chậu đựng nước trong, trên mặt nước có một chiếc thuyền kết bằng cỏ đủ cả cánh buồm bánh lái, lấy làm lạ đưa ngón tay khều, chiếc thuyền nghiêng đi một cái rồi nổi lại như cũ, bèn úp chậu lại. Kế thầy về hỏi sao dám trái lời ta, trò ra sức biện bạch là không hề mở ra, thầy nói "Vừa rồi thuyền đi trên biển suýt bị lật, còn dám dối ta à?".

* Bạch Liên giáo: tên một tổ chức quần chúng mang hình thức tôn giáo xuất hiện ở Trung Quốc cuối thời Nguyên, liên tục bị giai cấp phong kiến từ Nguyên đến Minh, Thanh đàn áp nhưng vẫn tồn tại với tôn chỉ chống chính quyền. Tổ chức này có nhiều người dùng võ nghệ, thuốc men, ảo thuật để tập hợp nhân dân, nên thường bị coi là tà giáo.
**Từ Hồng Nho: xem truyện Bạch Liên giáo, quyển Thập di.

Lại một đêm thầy đốt đuốc cắm trên sảnh đường, dặn phải giữ đừng để gió thổi tắt rồi ra đi. Hết canh một thầy vẫn chưa về, trò mệt mỏi lên giường nằm ngủ, thức giấc thì đuốc đã tắt ngấm vội đứng dậy đốt lên. Kế thầy vào, lại trách mắng, trò nói "Con vốn không hề ngủ, làm sao đuốc tắt được?”. Thầy tức giận nói "Mới rồi ta phải đi thầm hơn chục dặm, lại còn cãi à?” trò cả sợ. Những việc làm kỳ lạ như thế rất nhiều, không thể chép ra hết được.

Sau người ái thiếp của Mỗ tư thông với một người học trò, Mỗ biết nhưng để bụng không nói ra, sai trò đi cho heo ăn. Trò bước vào chuồng heo thì ngã lăn ra đất biến thành con heo, Mỗ lập tức gọi đồ tể tới giết thịt đem bán, không ai biết cả. Cha người ấy không thấy con về tới hỏi, Mỗ chối nói là lâu lắm không thấy tới, người cha quay về tìm kiếm khắp nơi không có tin tức gì. Có người học trò khác của Mỗ ngầm biết việc đó lén nói cho người cha, người cha lên báo với quan huyện. Quan huyện sợ Mỗ trốn thoát, không dám đi bắt, bẩm lên quan trên xin phát một ngàn giáp sĩ kéo tới vây nhà, bắt được cả Mỗ lẫn vợ con nhốt vào lồng sắt, định giải lên kinh.

Đi ngang núi Thái Hàng, trong núi có một người to lớn bước ra, cao như cây lớn, mắt như cái tô, miệng như cái chậu, răng dài hơn thước, quân sĩ hoảng sợ đứng ngây ra không dám đi. Mỗ nói "Đó là yêu quái, vợ ta có thể đuổi được", quân sĩ theo lời cởi trói cho vợ Mỗ. Vợ Mỗ vác giáo xông tới, người to lớn tức giận vồ lấy nuốt chửng, mọi người càng sợ hãi. Mỗ nói "Nó đã giết được vợ ta, thì phải con trai ta ra mới xong", quân sĩ lại thả con trai Mỗ ra, nhưng cũng bị nuốt sống như thế. Mọi người nhìn nhau không biết làm sao. Mỗ khóc lóc rồi giận dữ nói “Đã giết vợ ta, lại giết con ta làm sao nhịn được? Nhưng không phải đích thân ta ra thì không xong”. Mọi người quả nhiên lại thả Mỗ ra khỏi lồng sắt, trao cho thanh đao bảo tới đánh. Người to lớn giận dữ xông tới, tay không ác đấu một lúc thì vươn tay chụp lấy Mỗ đút vào miệng, rướn cổ ra nuốt xuống rồi ung dung bỏ đi.

087. Tướng Công Hồ Tứ
(Hồ Tứ Tướng Công)

Trương Hư Nhất ở huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) là anh Học sứ Trương Đạo Nhất, tính hào sảng tự tin. Nghe nói ngôi nhà của người nọ trong huyện bị hồ chiếm ở, bèn mang danh thiếp tới yết kiến mong được gặp một lần. Nhét danh thiếp vào khe cửa một lúc thì cánh cổng tự mở, đầy tớ sợ hãi lui lại. Trương sửa áo kính cẩn bước vào, thấy trong sảnh đường đủ cả bàn ghế nhưng vắng ngắt không có một ai, bèn vái dài khấn rằng "Tiểu sinh trai giới tới đây, thượng tiên đã không nỡ từ chối ngay từ cổng, sao không ban ơn cho thấy mặt?”. Chợt nghe có tiếng người nói "Làm phiền ông lặn lội giá lâm, đã nghe tiếng bước chân rồi, xin mời ngồi xuống dạy dỗ cho", lập tức thấy hai chiếc ghế di động tới đối mặt với nhau.

Trương vừa ngồi lập tức có cái khay đỏ sơn đen đựng hai chung trà lơ lửng tới trước mặt, mỗi bên cầm một chén lên uống, nghe tiếng thổi, tiếng hớp nước nhưng vẫn không thấy người. Uống trà xong, kế có rượu dọn ra, Trương hỏi lai lịch, hồ đáp "Đệ họ Hồ, bày hàng thứ tư, bọn tùy tùng gọi là Tướng công". Rồi đó uống rượu trò chuyện, thấy rất hợp nhau. Thấy chả ba ba, khô thịt nai, rau sống liên tiếp đưa lên, như có rất nhiều người hầu rượu. Trương uống rượu xong đang muốn uống trà, vừa nghĩ xong đã có trà thơm phức đặt lên bàn, cứ vừa nghĩ cần món gì thì lập tức món đó đã được mang tới. Trương thích lắm, uống say mới về. Từ đó cứ ba bốn hôm lại đến thăm Hồ một lần, Hồ cũng thường tới nhà Trương như qua lại đáp lễ.

Một hôm Trương hỏi “Có bà đồng ở nam thành vẫn khoe nhà có thần hồ mà lấy tiền người bệnh, không rõ ông có quen hồ nhà ấy không?". Hồ đáp "Mụ ta bịa đấy, không có hồ thật đâu”. Lát sau Trương đứng dậy đi tiểu, nghe thấy tiếng nói nhỏ "Vừa rồi nghe nói tới bà đồng có hồ ở nam thành, chẳng biết ra sao. Tiểu nhân muốn theo tiên sinh tới xem, xin tiên sinh nói với chủ nhân một câu”. Trương biết đó là đám hồ nhỏ, bèn gật đầu nói “Được rồi”. Rồi quay vào chỗ ngồi nói với Hồ rằng "Ta muốn mượn hai ba người hầu dưới trướng tới xem thư bà đồng có hồ, xin ông ra lệnh”. Hồ cứ nói không cần, Trương năn nỉ mấy lần mới ưng thuận.

Kế Trương ra thì ngựa tự tới như có người nắm cương dắt đi, khi lên ngựa đi thì dọc đường hồ nói với Trương "Từ nay tiên sinh đi đường thấy cát nhỏ bắn lên vạt áo tức là có bọn ta đi theo đấy”. Nói tới đó thì vào thành, tới nhà bà đồng nọ. Bà đồng thấy Trương tới, tươi cười ra đón, nói “Sao quý nhân lại bất ngờ quang lâm?". Trương hỏi "Nghe nói ông hồ trong nhà bà linh thiêng lắm phải không?". Bà đồng nghiêm sắc mặt dáp "Người sang cả không nên nói lời khinh bạc, sao lại nói là ông hồ? E rằng bà chị xinh đẹp nhà ta không vui đâu!". Chưa dứt lời thì có nửa viên gạch ném tới trúng tay, bà đồng giật mình nhảy dựng lên, hoảng sợ hỏi Trương "Sao quan nhân lại ném gạch vào già?". Trương cười nói “Bà già mù rồi, đó là gạch ngói trên nóc nhà bà lở xuống, định vu oan cho người ngoài à?”. Bà đồng ngạc nhiên không biết viên gạch từ đâu bay tới, đang dáo dác ngó quanh lại bị một hòn đá ném trúng đầu ngã lăn ra, kế bị bùn đất cứt đái ném xuống tới tấp, mặt mày lấm lem như quỷ, chỉ kêu gào xin tha mạng.

Trương xin đám hồ nhỏ tha cho, chúng mới dừng tay. Bà đồng vội vùng dậy chạy tuốt vào phòng đóng chặt cửa không dám ra nữa. Trương gọi hỏi "Hồ của ngươi bằng hồ của ta không?", bà đồng chỉ rối rít xin lỗi. Trương ngẩng đầu lên không bảo đừng ném nữa, bà đồng mới dám run rẩy bước ra, Trương cười an ủi vài câu rồi về. Từ đó Trương đi một mình trên đường mà thấy cát bụi bắn lên áo thì gọi hồ cùng trò thuyện, lần nào cũng có bên cạnh, nhờ thế chẳng sợ gì sói cọp trộm cướp. Cứ thế nửa năm, ngày càng thân thiết với đám hồ. Thường hỏi tuổi, cả bọn đều không nhớ rõ, chỉ nói rằng từng thấy Hoàng Sào* làm phản nhưng cũng chỉ như vừa hôm qua.

*Hoàng Sào: lãnh tụ nông dân cuối thời Đường, theo Phương Tiên Chi khởi nghĩa rồi thay Tiên Chi lãnh đạo, từng đánh chiếm Trường An, xưng hiệu Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, chống nhà Đường trong thời gian 874-884.

Một đêm đang cùng trò chuyện chợt nghe đầu tường có tiếng hú lớn rất ghê rợn, Trương lấy làm lạ, Hồ nói "Đó ắt là anh ruột ta". Trương hỏi "Vậy sao không mời vào chơi?", Hồ đáp "Y tệ lắm, chỉ thích trộm cắp gà qué mà ăn, cứ mặc kệ y là xong". Trương nói với Hồ "Giao du thân thiết như hai chúng ta có thể nói là không ngờ vực gì nhau, thế mà chưa lần nào được thấy mặt ông, nghĩ thật đáng hận". Hồ đáp "Chỉ cần chơi thân với nhau là được rồi, thấy mặt làm gì?”.

Một hôm Hồ bày tiệc mời Trương, nói xin cáo biệt. Trương hỏi định đi đâu, Hồ đáp "Đệ có sản nghiệp ở Thiểm Trung (tỉnh Thiểm Tây), định về lại đó. Ông vẫn hận việc đối diện không thấy mặt, nay xin nhìn qua người bạn mấy năm một lần để ngày sau còn nhận ra nhau”. Trương nhìn quanh không thấy gì, Hồ nói "Ông cứ vén rèm cửa phòng ngủ ra là thấy đệ". Trương theo lời vén rèm lên, thấy có một thiếu niên đẹp trai đang nhìn mình cười, phục sức sang trọng, mày mắt như vẽ, chớp mắt không thấy đâu nữa. Trương quay người bước ra thì có tiếng giày lẹp kẹp phía sau, nói "Hôm nay ông hết hận rồi nhé". Trương lưu luyến không nỡ chia tay, Hồ nói "Tan hợp là có số, băn khoăn làm gì?". Rồi lấy chén lớn mời rượu, đến nửa đêm mới sai lấy đèn lồng đưa Trương về.

Sáng ra Trương tới xem, thì chỉ có nhà không vắng ngắt mà thôi. Về sau tiên sinh Trương Đạo Nhất làm quan Học sứ ở Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên), Trương vẫn nghèo như trước bèn tới thăm em, cũng mong được biếu thật nhiều. Hơn tháng trở về, được biếu quá ít so với lòng mong mỏi, trên ngựa cứ thở vắn than dài như vợ chết. Chợt có một thiếu niên cưỡi ngựa Thanh câu từ sau đuổi theo, Trương nhìn thấy áo đẹp ngựa khỏe, dáng vẻ rất phong nhã, bèn trò chuyện qua loa.

Thiếu niên thấy Trương có vẻ buồn bã bèn hỏi, Trương cũng thở dài kể lại nguyên do, thiếu niên cũng tìm lời an ủi. Cùng đi hơn một dặm, tới ngã ba thiếu niên chắp tay chào nói "Phía trước có người gởi ông một vật của cố nhân, xin vui lòng nhận cho”, định hỏi lại thì đã phóng ngựa đi thẳng, Trương cũng chẳng hiểu là có ý gì. Lại đi hai dặm, gặp một người đầy tớ cầm cái rương nhỏ đón trước ngựa đưa lên nói “Tướng công Hồ Tứ kính gởi tiên sinh", Trương lúc ấy mới chợt hiểu ra. Bèn đón lấy mở ra xem, thì bên trong toàn bạc nén trắng xóa, nhìn lại người đầy tớ thì không biết đã đi đâu mất.







088. Cừu Đại Nương



(Cừu Đại Nương)




Cừu Trọng người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) không rõ phủ huyện, gặp loạn bị giặc bắt đi. Có hai trai là Phúc và Lộc còn nhỏ, vợ kế là Thiệu thị chăm sóc đôi trẻ mồ côi, may nhờ sản nghiệp của Trọng để lại cũng được ấm no, nhưng gặp mấy năm mất mùa liên tiếp, lại bị cường hào lấn áp đến nỗi không giữ được mà ăn. Chú của Trọng là Thượng Liêm thấy cháu dâu cải giá thì có lợi cho mình, thường khuyên lấy chồng nhưng Thiệu thị thề giữ chí không lay chuyển. Liêm ngầm hẹn với một nhà đại tộc, định cưỡng ép nàng, bàn bạc đã xong mà người ngoài vẫn không ai biết.




Trong làng có tên Ngụy là kẻ gian giảo quỷ quyệt từ lâu có hiềm khích với nhà Trọng, có chuyện gì cũng nghĩ cách phá đám, nhân Thiệu thị ở góa bèn phao tin nhảm để bêu xấu. Nhà đại tộc nghe được, cho Thiệu thị là người không có đức bèn thôi. Lâu ngày mưu của Liêm và lời đồn đại bên ngoài cũng tới tai Thiệu thị, nàng buồn rầu uất sớm tối sa lệ dần dần tay chân tê bại nằm liệt giường. Phúc đã mười sáu tuổi, vì trong nhà không có người khâu vá nên vội lo việc lấy vợ, hỏi cưới con gái Tú tài Khương Dĩ Chiêm, có tiếng hiền thục đảm đang, việc nhà đều nhờ nàng lo toan xếp đặt, nhờ vậy nhà cũng hơi dư dật, bèn cho Lộc đi học.




Ngụy ghen ghét nhưng làm ra vẻ thân thiện, nhiều lần mời Phúc uống rượu, Phúc thấy thế coi Ngụy như bạn thân. Ngụy nhân dịp nói “Lệnh đường bệnh nằm liệt giường không thể coi sóc việc nhà, chú em thì chỉ ngồi ăn không làm được việc gì, hai vợ chồng việc gì phải nai lưng ra làm trâu ngựa? Lại lúc chú em cưới vợ thì còn tốn kém nhiều nữa chứ. Tính kế cho ông chẳng bằng cứ sớm ra riêng, thì chú em sẽ phải nghèo chứ ông sẽ giàu có”. Phúc về bàn với vợ, vợ cho là nói bậy. Nhưng Ngụy cứ rủ rỉ xúi giục ngày này tháng khác, mưa dầm thấm sâu nên Phúc nghe theo, bèn nói thẳng ý ấy với mẹ. Mẹ tức giận chửi mắng, Phúc càng tức tối, cho rằng tiền bạc thóc gạo trong nhà chẳng qua chỉ là của người khác nên không ngó ngàng gì tới nữa.




Ngụy thừa cơ rủ rê Phúc cờ bạc, thóc trong kho cứ vơi dần, vợ biết nhưng chưa dám nói, đến lúc hết thóc ăn, mẹ giật mình hỏi mới nói thật. Mẹ giận lắm nhưng không làm sao được, đành cho Phúc ra ở riêng. May là cô gái họ Khương hiền đức, sáng chiều vẫn qua lại lo cơm nước hầu hạ mẹ như trước. Phúc đã ra riêng càng không nể sợ gì nữa, thả sức cờ bạc, chỉ trong vài tháng đã bán sạch ruộng vườn nhà cửa để trả nợ chơi bời mà mẹ và vợ vẫn chưa biết. Khi tiền bạc đã hết sạch, không còn cách nào bèn làm tờ gán vợ để vay tiền mà không ai chịu nhận.




Trong huyện có Triệu Diêm La vốn là tên cướp lớn lọt lưới, ngang ngược nhất vùng nên không sợ Phúc nuốt lời, thản nhiên cho vay. Phúc cầm tiền đi, vài ngày thì thua sạch, đang ngần ngừ định bội ước thì Triệu đã trừng mắt nhìn. Phúc cả sợ, lừa dắt vợ tới giao cho Triệu. Ngụy nghe tin mừng thầm, chạy ngay tới nói với nhà họ Khương, rắp tâm làm cho họ Cừu lụn bại. Khương tức giận phát đơn kiện, Phúc sợ quá bèn bỏ trốn. Cô gái họ Khương tới nhà Triệu mới biết là bị chồng lừa bán, khóc lớn chỉ muốn chết ngay. Triệu ban đầu còn dỗ dành nhưng nàng không nghe, kế ra oai quát nạt thì nàng càng mắng chửi, cả giận đánh đập nàng cũng không chịu khuất phục, rút trâm cài đầu tự đâm vào cổ họng, vội tới cứu thì đã lút vào thực quản, máu phun ra. Triệu vội lấy lụa băng bó cho nàng, còn nghĩ cứ để thong thả sẽ khuất phục được.




Hôm sau có trát quan tới đòi, Triệu thản nhiên lên hầu như không có chuyện gì. Quan khám thấy vết thương của cô gái rất nặng, sai nọc Triệu ra đánh, nhưng đám lính cứ nhìn nhau không dám ra tay. Quan nghe đồn Triệu ngang ngược đã lâu, đến lúc ấy càng tin, cả giận gọi người nhà ra đánh Triệu chết luôn tại chỗ, Khương bèn cáng con gái về. Từ khi họ Khương đi kiện, Thiệu thị mới biết Phúc hư hỏng tới mức ấy, gào khóc cơ hồ đứt hơi rồi nhắm mắt ngất đi. Bấy giờ Lộc mười lăm tuổi, một mình lúng túng không biết làm sao.




Trọng có một gái con vợ trước là Đại Nương gả chồng xa, tính khí cương cường, mỗi khi về thăm mà thức ăn vật dùng không vừa ý thì cãi vã với cha mẹ rồi giận dữ bỏ đi, Trọng vì thế giận ghét, lại vì đường xa nên có khi vài năm không một lần thăm hỏi. Lúc Thiệu thị bệnh nặng, Ngụy muốn gọi nàng tới để gây ra việc tranh giành của cải, gặp lúc có người lái buôn ở cùng làng với Đại Nương bèn thác cớ nhắn tin, lại mừng rằng nhà này thế là tan nát.




Vài hôm sau quả nhiên Đại Nương dắt một đứa con nhỏ tới, vào nhà thấy em nhỏ hầu mẹ ốm, quang cảnh rất thảm đạm, bất giác mủi lòng. Nhân hỏi tới Phúc, Lộc kể hết đầu đuôi, Đại Nương nghe thấy giận nghẹn cổ nói “Nhà không có người lớn nên để cho người ta giày xéo đến như thế! Ruộng vườn nhà ta sao bọn ăn cướp dám lừa chiếm lấy?”. Rồi xuống bếp chụm lửa nấu cháo bưng lên mời mẹ trước, kế gọi em và con cùng ăn. Ăn xong giận dữ ra đi, tới huyện nộp đơn kiện bọn cờ bạc. Cả bọn sợ góp tiền đút lót Đại Nương, nàng nhận tiền nhưng vẫn kiện.




Quan cho bắt tên Giáp, tên Ất... đánh đòn quở trách nhưng không hỏi tới việc ruộng vườn. Đại Nương căm tức không thôi, dắt con lên thẳng lên quận. Quận thú rất ghét cờ bạc, Đại Nương hết sức bày tỏ nỗi cô khổ cùng tình trạng bị bọn cờ bạc lừa đảo, lời lẽ thống thiết. Quận thú động lòng, ra lệnh cho quan huyện truy thu ruộng vườn cấp lại cho chủ cũ và trừng phạt Cừu Phúc làm gương cho bọn hư hỏng. Sau khi nàng về, quan huyện được lệnh ráo riết thi hành nên nhà cửa ruộng vườn cũ lấy lại được hết. Lúc ấy Đại Nương góa chồng đã lâu, bèn bảo đứa con nhỏ về nhà, dặn phải theo anh lo làm ăn không được tới nữa. Đại Nương từ đó ở lại nhà mẹ, nuôi mẹ dạy em, xếp đặt trong ngoài đâu vào đấy. Mẹ được an ủi rất nhiều, dần dần khỏi bệnh, việc
nhà giao cả cho Đại Nương.




Bọn cường hào trong làng có hơi lấn lướt thì nàng vác dao tới tận cửa cứng cỏi đấu lý, kẻ nào cũng phải nhụt. Hơn một năm thì ruộng vườn ngày càng tăng, thỉnh thoảng lại mua thuốc men và thức ngon vật lạ gởi cho cô gái họ Khương. Lại thấy Lộc dần trưởng thành, nhiều lần dặn mối lái tìm nơi cưới hỏi. Ngụy nói với mọi người rằng "Sản nghiệp nhà họ Cừu đều giao cho Đại Nương, e rằng sau này không lấy lại được", mọi người tin theo nên không ai muốn kết thông gia với họ Cừu. Có công tử Phạm Tử Văn, nhà có khu vườn nổi tiếng nhất ở đất Tấn, các loại hoa quý trong vườn trồng dọc hai bên đường chạy thẳng vào nhà trong. Có người không biết lỡ đi vào, gặp lúc gia đình công tử đang ăn tiệc, ông nổi giận bắt trói bảo là kẻ trộm, đánh cho gần chết.




Gặp tiết Thanh minh, Lộc từ trường học trở về, Ngụy rủ đi chơi, dắt tới chỗ ấy. Ngụy vốn quen người coi vườn nên được cho vào, đi xem khắp cả đình tạ. Giây lát tới một chỗ nước khe chảy cuồn cuộn, có chiếc cầu vẽ lan can màu đỏ thông vào cánh cổng sơn đen, từ xa nhìn tới thấy hoa rậm như gấm, là nơi phòng sách của công tử. Ngụy lừa nói "Anh cứ vào trước, ta đi tiểu một chút". Lộc tin bèn bước lên, qua cầu vào cửa, tới một dãy viện thì nghe tiếng con gái cười nói. Vừa dừng chân thì có một tỳ nữ ra, nhìn thấy Lộc lập tức quay gót trở vào, Lộc mới sợ hãi bỏ chạy. Giây lát công tử bước ra quát người nhà lấy dây thừng đuổi bắt, Lộc bí quá nhảy luôn xuống khe. Công tử hết giận bật cười, sai đầy tớ xuống dắt lên.




Thấy mặt mũi y phục của Lộc đều phong nhã, ông sai đem áo và giày ra cho thay rồi dắt vào một ngôi đình hỏi họ tên, thái độ hết sức niềm nở thân mật. Lát sau công tử đi nhanh vào trong rồi trở ra ngay, tươi cười dắt tay Lộc đi, qua cầu dần tới chỗ lúc nãy. Lộc không hiểu ý thế nào, dùng dằng không dám bước, công tử cố kéo vào. Thấy sau giậu hoa thấp thoáng có người đẹp nhìn trộm, vừa ngồi xuống thì các tỳ nữ dọn rượu lên. Lộc từ tạ nói "Trẻ con không biết gì, đi lầm vào chốn khuê các, được khoan xá là đã mừng lắm, chỉ mong được cho về sớm thì đội ơn vô cùng", nhưng công tử không nghe. Giây lát thức ăn bày lên la liệt, Lộc lại đứng lên từ tạ là đã no say rồi. Công tử kéo ngồi xuống, cười nói "Ta có một cái tên từ khúc, nếu ông đối được xin cho đi ngay”. Lộc dạ dạ xin cho biết. Công tử nói “Phách tên Chẳng hề giống”, Lộc ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đối “Bạc đúc Biết làm sao". Công tử cười lớn nói "Quả đúng là Thạch Sùng!”*, Lộc không hiểu gì cả.




*Công tử nói... Thạch Sùng: nguyên văn hai vế đối trên là "Phách danh Hồn bất tự, Ngân thành Một nại hà”. Vế trước lấy tích Chiêu Quân có chiếc đàn tỳ bà bị hỏng, sai làm chiếc khác, khi dâng lên thì bé hơn chiếc trước, Chiêu Quân cười nói "Chẳng hề giống chiếc trước” (Hồn bất tự), người sau nhân lấy đó đặt tên cho một bản nhạc, vì ngoa truyền nên có khi gọi là “Hồn phát tứ”. Vế sau lấy tích nhà Trương Tuần, Vương Tuấn thời Tấn có nhiều bạc, cho đúc thành hình quả cầu, mỗi quả là một ngàn lượng, gọi tên là "Biết làm sao" (Một nại hà), ý nói quá giàu có. Thạch Sùng là người thời Tấn, nổi tiếng phú gia địch quốc.





Thì ra công tử có con gái tên Huệ Nương, xinh đẹp lại biết chữ, vẫn tìm chỗ gả chồng cho. Đêm trước nàng mơ thấy một người nói "Chồng ngươi là Thạch Sùng", hỏi ở đâu thì đáp "Ngày mai sẽ rơi xuống nước", sáng ra kể với cha, mọi người đều lấy làm lạ. Vừa gặp việc Lộc rất hợp với giấc mơ nên công tử mời vào nhà trong cho phu nhân và đàn bà con gái trong nhà xem mặt. Công tử nghe câu đối của Lộc rất mừng, nói "Tên phách nhạc là do tiểu nữ đặt ra, nghĩ mãi mà không đối được, nay mới được câu đối hay, cũng là duyên trời. Ta muốn để cháu làm người nâng khăn sửa túi cho ông, vả lại tệ xá cũng không thiếu nơi ở, không dám làm phiền phải rước dâu”. Lộc bối rối từ tạ lại lấy cớ mẹ đang ốm không ở rể được. Công tử bảo cứ về bàn lại rồi sai mã phu thắng ngựa mang áo quần ướt đưa Lộc về.




Về tới nhà Lộc kể với mẹ, mẹ sợ cho là việc bất tường, từ đó mới biết Ngụy là kẻ hiểm độc nhưng vì gặp việc dữ mà được điều lành nên cũng không đem lòng thù oán, chỉ khuyên con nên xa lánh đừng giao thiệp với y nữa mà thôi. Qua vài hôm công tử lại cho người đến ngỏ ý với mẹ Lộc, rốt lại bà vẫn không dám nhận lời, Đại Nương bèn nhận lời rồi nhờ hai bà mối đi nộp sính lễ cho nhà công tử. Không bao lâu Lộc tới gởi rể ở nhà công tử, qua năm sau được vào học trường huyện nổi tiếng tài giỏi. Em vợ dần dần lớn lên, không kính trọng anh rể như trước nữa. Lộc tức giận bèn đưa vợ về nhà mình. Lúc ấy mẹ đã chống gậy đi lại được mấy năm liền nhờ có Đại Nương trông nom nên nhà cửa cũng khang trang.




Cô dâu mới đã về, tớ trai tớ gái tấp nập, rõ ra có phong thái đại gia. Ngụy bị tuyệt giao lại càng ghen ghét, giận không vạch lá tìm sâu gì được để hãm hại, gặp lúc có bọn cướp lớn đang bị truy nã bèn vu cáo Lộc giấu diếm tiền bạc cho chúng, Lộc bị xử đày ra ngoài cửa ải. Phạm công tử đút lót từ trên tới dưới chỉ xin miễn cho Huệ Nương khỏi bị đi đày, còn ruộng vườn nhà cửa đều bị sung công. May là Đại Nương cầm giấy chia gia tài lên quan cãi lý, bao nhiêu ruộng vườn mới mua thêm đều đứng tên Phúc nên mẹ con mới được ở yên. Lộc nghĩ mình không trở về được nữa bèn làm giấy ly hôn đưa cha vợ rồi lẻ loi lên đường.
Đi được vài ngày tới đất Bắc Đô, vào ăn trong quán, thấy có người ăn mày khép nép ngoài cửa, mặt mũi rất giống anh mình, ra hỏi thì đúng là anh. Lộc kể chuyện mình, anh em đều buồn thảm. Lộc mở hành lý chia cho Phúc ít tiền bảo về nhà. Phúc rơi lệ nhận rồi chia tay.




Lộc tới cửa ải được sung làm lính hầu cho tướng quân, vì là học trò yếu ớt nên được giữ việc biên chép sổ sách, ăn ở chung với đám tôi tớ. Bọn họ hỏi han gia thế, Lộc kể hết, trong bọn có một người cả kinh nói "Đúng là con ta rồi". Thì ra Cừu Trọng ban đầu bị bọn cướp sai chăn ngựa, về sau chúng bỏ trốn, Trọng bị bắt đày ra cửa ải làm đầy tớ cho tướng quân. Trọng thuật lại rõ đầu đuôi, cha con mới nhận ra nhau bèn ôm nhau khóc, mọi người đều mủi lòng. Không bao lâu, tướng quân bắt được vài mươi tên cướp lớn, trong có một tên chính là kẻ trước đây Ngụy vu cáo là bè đảng của Lộc. Kế lấy lời cung của y xong, hai cha con kêu khóc với tướng quân. Tướng quân dâng sớ rửa oan cho, vua biết chuyện bèn ra lệnh cho quan địa phương chuộc lại ruộng đất trả lại họ Cừu, cha con đều mừng rỡ. Lộc hỏi số người trong nhà để tính cách chuộc mình cho cha mới biết từ khi theo hầu tướng quân Trọng đã hai lần lấy vợ mà không có con, lúc ấy lại vừa góa vợ. Lộc bèn sắm sửa hành trang về quê.




Trước đó Phúc chia tay em về tới nhà, khúm núm sụp lạy xin chịu tội. Đại Nương rước mẹ lên ngồi nhà trên, cầm gậy hỏi Phúc "Ngươi chịu đánh đòn thì có thể tạm cho ở lại còn không thì ruộng vườn nhà cửa của ngươi đã hết sạch, đây cũng không phải chỗ người xin ăn, mời xéo ngay!". Phúc khóc lạy xuống đất xin chịu đòn, Đại Nương vứt gậy xuống nói "Cái người đã bán vợ thì ta cũng chẳng thèm đánh đòn, nhưng án cũ vẫn chưa xóa, nếu tái phạm cứ báo quan thôi!", rồi lập tức cho người qua báo tin cho họ Khương. Cô gái họ Khương mắng "Ta là người gì của nhà họ Cừu mà phải báo tin!", Đại Nương cứ nhắc đi nhắc lại câu ấy để đay nghiến Phúc, Phúc hổ thẹn không dám lên tiếng.




Suốt nửa năm Đại Nương cho Phúc đủ ăn đủ mặc nhưng bắt làm việc như tôi tớ, Phúc cũng làm lụng không hề oán trách, có giao cho tiền bạc cũng không dám bừa bãi. Đại Nương xét thấy không có ý gì khác, bèn thưa với mẹ mời cô gái họ Khương về. Mẹ cho rằng không sao làm nàng hồi tâm lại được, Đại Nương nói "Không phải thế, nếu người ta chịu thờ hai chồng thì đã không tự chuốc lấy đau đớn khổ sở, chứ không thể không có nỗi uất hận ấy”, rồi dắt em trai qua chịu tội. Ông bà nhạc trách mắng hết lời, Đại Nương quát bắt Phúc quỳ xuống rồi mới xin gặp mặt cô gái. Mời ba bốn lần nàng vẫn khăng khăng từ chối không chịu ra, Đại Nương kéo ra thì nàng chỉ mặt Phúc mắng nhiếc. Phúc thẹn toát mồ hôi, không sao tha thứ được cho mình, bà Khương mới kéo Phúc, bảo đứng lên. Đại Nương xin cho biết ngày trở về, cô gái nói "Trước nay chịu ơn chị rất nhiều, nay chị dạy như thế đâu dám nói gì khác nhưng sợ không giữ được khỏi bị bán lần nữa. Vả chăng ân nghĩa đã dứt, còn mặt mũi nào ăn ở với đứa vô lại xấu xa ấy nữa? Muốn xin chị cho một chỗ ở riêng, thiếp qua đấy phụng dưỡng mẹ già còn hơn cạo đầu đi tu là đủ”. Đại Nương nói hộ là Phúc đã ăn năn, hẹn ngày mai qua đón rước rồi chào về.
Sáng hôm sau cho kiệu qua đón cô gái về, mẹ ra đón ở cổng quỳ lạy, cô gái cũng sụp lạy khóc lớn. Đại Nương khuyên lơn an ủi, dọn tiệc ăn mừng, bảo Phúc ngồi cạnh bàn rồi nâng chén rượu nói “Ta tranh giành khổ sở không phải để mưu lợi cho mình. Nay em đã hối lỗi, vợ hiền đã trở về, xin đem sổ sách giao lại, ta tới tay không thì cũng về tay không". Vợ chồng đều rời bàn tiệc đứng dậy, nghiêm trang vái lạy khóc lóc năn nỉ, Đại Nương bèn thôi. Không bao lâu lệnh rửa oan về tới, chỉ vài ngày ruộng vườn nhà cửa lại trở về chủ cũ. Ngụy kinh hãi không biết vì sao, tự giận mình không còn kế gì để thi thố. Gặp lúc nhà láng giềng phía tây bị cháy, Ngụy lấy cớ chữa cháy chạy qua, ngầm lấy mồi rơm đốt nhà Lộc, gió lại thổi mạnh cháy lan gần hết, chỉ còn hai ba gian nhà của Phúc, cả nhà phải ở chung vào đó ít lâu sau Lộc về, gặp nhau mừng mừng tủi tủi.
Lúc trước Phạm công tử nhận được tờ ly hôn, đem bàn với Huệ Nương, Huệ Nương khóc ròng xé nát vứt xuống đất, cha chiều ý không ép nữa. Lộc về nghe nỏi nàng chưa cải giá mừng rỡ tới nhà nhạc gia, công tử biết nhà Lộc vừa bị cháy, mượn giữ ở lại đó nhưng Lộc không chịu, cáo từ ra về. May là Đại Nương còn tiền cất được bèn đem ra sửa nhà, Phúc vác mai đi đào đất đắp nền, đào phải hầm tiền chôn. Đêm đến cùng em ra đào thì là một cái bể xây bằng đá rộng khoảng một trượng chứa đầy tiền đồng, nhờ đó mướn thợ xây nhà, lầu gác san sát tráng lệ sánh ngang nhà đại gia. Lộc nhớ ơn tướng quân, sắp ra ngàn vàng để chuộc cha. Phúc xin đi, nhà bèn cho đầy tớ khỏe mạnh theo hầu. Lộc đón Huệ Nương về, ít lâu sau cha và anh cùng về, cả nhà vui vẻ tưng bừng.
Đại Nương từ khi về ở nhà mẹ thì cấm con tới thăm để tránh tiếng, nay cha đã về liền quyết ý xin đi, hai em không nỡ để chị đi. Cha bèn chia gia sản làm ba, con trai hai phần con gái một phần. Đại Nương từ tạ không nhận, hai em rơi nước mắt nói "Hai em không có chị thì làm gì có được ngày nay!". Đại Nương bèn ở lại, sai người gọi con dọn nhà về ở chung. Có người hỏi Đại Nương rằng chị em khác mẹ sao gắn bó như vậy, Đại Nương đáp "Biết có mẹ mà không biết có cha, chỉ có cầm thú mới thế thôi? Là người sao lại bắt chước giống vật chứ". Phúc và Lộc nghe nói đều chảy nước mắt. Rồi sai thợ làm nhà cho Đại Nương, cũng rộng lớn như nhà mình.
Ngụy nghĩ hơn mười năm tìm cách gây họa mà hóa ra lại là tạo phúc cho người, rất hổ thẹn áy náy. Lại ngưỡng mộ họ Cừu giàu có, muốn làm thân bèn lấy cớ mừng Trọng mới về, đưa lễ vật qua mừng. Phúc muốn từ chối nhưng Trọng không nỡ phật ý bèn nhận gà rượu. Gà có buộc dây vải ở chân, sổng ra chạy vào bếp, lửa bén vào dây vải, gà nhảy lên đống củi đậu, đám tôi tớ đều nhìn thấy nhưng chưa để ý. Lát sau đống củi bốc cháy, cả nhà hoảng sợ, may có đông người nhiều tay xúm lại dập tắt được ngay nhưng đồ đạc trong bếp đã cháy sạch, anh em đều bảo đồ vật của Ngụy là không lành.
Sau đó gặp ngày mừng thọ của Trọng, Ngụy lại biếu con dê, từ chối không được phải buộc dê vào gốc cây ngoài sân. Đến đêm có đứa tiểu đồng bị tên đầy tớ đánh, tức giận chạy ra gốc cây mở sợi dây buộc dê tự treo cổ chết. Anh em than rằng “Y làm phúc lại không bằng y gây họa", từ đó tuy Ngụy vẫn ân cần, nhưng nhà Trọng không dám nhận đến một sợi chỉ, chỉ đối xử với y thật tốt mà thôi. Sau Ngụy già nghèo khổ phải đi ăn mày, nhà họ Cừu vẫn lấy ơn trả oán, chu cấp cho cái ăn cái mặc.
Dị Sử thị nói:Ôi, tạo vật quả thật rất không theo ý người. Càng thù ghét thì càng đem phúc tới cho, sự gian trá của kẻ kia không thể nói là quá đáng được! Nhưng mong được y thương yêu kính trọng thì lại gặp tai họa, chẳng cũng lạ ư? Thế mới biết nước suối Đạo Tuyền*, vốc một vốc thì nhơ bẩn một vốc.


* Đạo Tuyền: tên một con suối ở tỉnh Sơn Đông, "Đạo” có nghĩa là trộm cướp Tương truyền Khổng Tử đi ngang suối ấy khát nước nhưng không chịu uống vì ghét tên suối, người ta dùng tích này để chỉ việc kẻ quân tử tự trọng thân phận trong hành động. Đây có ý nói nên thận trọng trong việc giao du với người xấu.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 89 - 90 -
Lý Bá Ngôn
(Lý Bá Ngôn)

Lý sinh tên Bá Ngôn là người huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông), cương trực can đảm. Chợt mắc bệnh nặng, người nhà mang thuốc cho uống, Lý từ chối nói “Bệnh của ta không phải là thuốc mà chữa được, vì chức Diêm Vương ở âm ty bị khuyết nên ta tạm đi giữ ấn triện thôi, đừng chôn ta, cứ để đấy đợi". Hôm ấy Lý chết, thấy có nghi trượng tới đón đi, vào tới một nơi cung điện có người dâng áo mão Diêm Vương, nha lại đứng hầu rất nghiêm chỉnh.

Trên bàn sổ sách chất đống, có một vụ án là tên Mỗ ở Giang Nam, tính lại bình sinh đã cưỡng gian tám mươi hai người đàn bà con gái nhà lương thiện, tra xét thì thấy đủ cả chứng cứ không sai, xét theo luật âm ty phải chịu tội bào lạc. Dưới thềm có cây cột đồng cao tám chín thước, chu vi khoảng một ôm, ruột rỗng để đổ than lửa vào đó, trong ngoài đều đỏ rực. Đám quỷ tốt lấy chùy sắt có gai nhọn đánh giải Mỗ tới, bắt giang tay khuỳnh chân trèo lên. Lên tới đỉnh cột thì khói bốc mù mịt, đoàng một tiếng nổ tung ra như ống pháo tre, thân thể rơi xuống, nằm co quắp một hồi mới tỉnh lại. Đám quỷ tốt lại đánh bắt trèo lên, lại nổ ra rơi xuống như lần trước, tới lần thứ ba chỉ còn là một đám khói là là mặt đất rồi tan ra, không sao còn có thể trở thành hình người nữa.

Lại tới một vụ khác, là Vương Mỗ người cùng huyện, bị cha người tỳ nữ kiện là bắt cóc con gái, Vương vốn là thông gia với sinh. Trước là có một người bán tỳ nữ, Vương biết là y bất chính nhưng thấy giá hời bèn mua về. Đến lúc ấy Vương bị bạo bệnh chết, hôm sau bạn Vương là Chu lại gặp bên đường, biết là ma bỏ chạy về nhà, Vương cũng theo vào. Chu sợ hãi ra gặp hỏi định làm gì. Vương đáp "Phiền ông xuống làm chứng giùm dưới âm ty", Chu kinh ngạc hỏi làm chứng việc gì, Vương đáp "Ta mua tỳ nữ theo đúng giá, nay bị vu là bắt cóc, việc này chính ông chứng kiến, xin nói cho một câu làm tin, không cần nói gì khác". Chu cố từ chối, Vương bỏ ra nói "Sợ chuyện này thì ông không làm chủ được thôi”.
Không bao lâu quả nhiên Chu chết, cùng bị giải tới Diêm Vương đối chất. Lý thấy Vương trong lòng ngầm có ý thiên vị, chợt trên nóc điện có ngọn lửa bùng lên, rường cột cháy phùng phừng, Lý cả sợ đứng bật dậy, viên lại ngầm bước tới sau lưng nói "Âm ty không phải như dương thế, không thể có một chút ý niệm riêng tư, xin ông bỏ ngay ý ấy thì lửa sẽ tự tắt". Lý bèn ngưng thần gạt bỏ tạp niệm, ngọn lửa tắt ngay. Kế hỏi cung, vương và cha người tỳ nữ tranh cãi không thôi, hỏi Chu thì Chu cứ theo sự thật thưa lên. Vương bị kết án cố ý phạm tội, phạt đánh gậy, đánh xong Lý sai đem cả về cho hồi sinh. Vương và Chu đều chết ba ngày rồi sống lại.
Lý xét việc xong, có xe kiệu đưa về, giữa đường gặp một bọn vài trăm người sứt đầu cụt chân nằm rạp dướỉ đất van xin. Lý dừng xe hỏi thì là ma quỷ chết xa quê muốn trở về nhưng sợ dọc đường bị ngăn trở, xin dẫn đường cho. Lý nói "Ta coi việc Diêm Vương chỉ có ba ngày, nay đã thôi giữ chức, làm sao giúp được". Đám ma nói "Hồ sinh ở thôn nam sắp lập đàn chay tế độ, xin ông nói giùm", Lý ưng thuận. Về tới nhà thì tùy tùng đều quay đi, Lý mới sống lại.

Hồ sinh tự Thủy Tâm chơi thân với Lý, nghe nói Lý sống lại bèn tới thăm, Lý hỏi ngay lúc nào mở đàn chay. Hồ kinh ngạc nói "Sau cơn binh lửa, ta may mà vợ con được vô sự, hôm trước bàn với bà nó định làm điều tâm nguyện ấy nhưng chưa từng nói với một ai, sao ông biết được?". Lý kể lại mọi chuyện, Hồ than "Một câu vừa thốt ra trong phòng kín mà đã đồn đại khắp chốn u minh, thật đáng sợ!", rồi cung kính nhận lời mà về.

Hôm sau Lý qua nhà Vương, Vương còn nằm bệnh, thấy Lý vào lập tức kính cẩn đứng lên tạ ơn đã che chở giúp đỡ cho. Lý nói "Pháp luật không thể nương nhẹ tha thứ gì cả, nay ông may vẫn không sao chứ?". Vương đáp "Nay thì không bị gì khác, chỉ những chỗ bị đánh thì làm mủ thôi”. Hơn hai mươi ngày sau mới lành hẳn, thịt thối ở mông rụng ra, còn lại những vết sẹo như lằn gậy in xuống vậy.

Dị Sử thị nói:Hình phạt dưới âm ty còn thảm độc hơn trên dương thế, khiển trách cũng nặng nề hơn, nhưng không ai can thiệp xin xỏ gì được nên kẻ chịu hình phạt thảm khốc cũng không hờn oán. Ai dám nói nơi mộ huyệt không có ánh sáng mặt trời? Ta chỉ hờn không có ngọn lửa nào thiêu đốt sảnh đường trị dân trên dương thế mà thôi.




090. Hoàng Cửu Lang



(Hoàng Cửu Lang)




Hà Sư Tham tự Tử Túc làm phòng học ở phía đông Thiều Khê (ở núi Thiên Mục tỉnh Chiết Giang). Cửa nhà học nhìn ra cánh đồng rộng, xế chiều ngẫu nhiên ra ngoài thấy có người đàn bà cưỡi lừa đi tới, một thiếu niên theo sau. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi, phong thái nhàn nhã, thiếu niên thì khoảng mười lăm mười sáu, phong tư xinh đẹp còn hơn cả giai nhân. Hà sinh vốn có bệnh thích đàn ông, thấy thiếu niên điên đảo cả thần hồn, nhón chân nhìn theo đến khi mất hút mới trở về.




Hôm sau lại ra đứng đón, đến sẩm tối thiếu niên mới tới. Sinh niềm nở bước ra đón, cười hỏi đi đâu về, thiếu niên đáp là từ nhà ông ngoại về. Sinh mời vào nghỉ chân, thiếu niên từ chối nói là không rảnh, sinh lôi kéo mãi bèn vào, ngồi giây lát lại đứng lên cáo từ, không thể giữ lại được. Sinh dắt tay đưa ra, ân cần dặn lúc nào tiện đường cứ ghé chơi, thiếu niên dạ dạ rồi đi. Sinh từ đó cứ ngơ ngẩn nhớ nhưng, ra vào trông ngóng cả ngày.




Một hôm lúc mặt trời đang lặn thiếu niên chợt tới, sinh cả mừng mời vào, sai tiểu đồng dọn rượu tiếp đãi. Hỏi tên họ, thiếu niên đáp là họ Hoàng, bày vai thứ chín, vì còn nhỏ nên chưa có tên tự. Hỏi sao hay qua lại đường này, thiếu niên đáp "Mẹ ta ở bên nhà ông ngoại, hay có bệnh nên ta phải qua thăm”. Rượu được vài tuần thì cáo từ ra về, sinh nắm tay giữ lại, khóa chặt cửa, Cửu lang không biết làm sao, bẽn lẽn ngồi xuống lại. Sinh thắp đèn cùng trò chuyện, thấy thiếu niên nhỏ nhẻ như con gái, buông lời chọc ghẹo thì càng có vẻ thẹn thùng, quay mặt vào vách. Lát sau cùng đi ngủ, sinh ôm chặt lấy vuốt ve mơn trớn đòi này nọ. Cửu lang tức giận nói "Ta cho rằng ông là kẻ sĩ phong nhã nên mới qua lại, nay lại làm như thế thật chẳng khác gì cầm thú”. Không bao lâu, sao trời chỉ còn thưa thớt, Cửu lang bỏ về. Sinh sợ Cửu lang sẽ tuyệt giao, lại ra cửa chờ, qua lại đăm đăm trông ngóng.




Qua mấy hôm Cửu lang mới tới, sinh ra đón tạ lỗi, ép kéo vào nhà, giục ngồi trò chuyện cười nói, thầm lấy làm may mắn vì Cửu lang không để bụng chuyện cũ. Cửu lang nói "Tình thương yêu của ông ta đã khắc sâu vào lòng, nhưng thân ái đâu cứ phải làm thế". Rồi đang đêm ra về, sinh buồn bực như mất vật quý, quên ăn bỏ ngủ, ngày càng héo hắt, chỉ hàng ngày sai tiểu đồng ra cổng chờ đợi. Một hôm Cửu lang ngang qua cổng, định đi thẳng luôn nhưng tiểu đồng ra nắm áo kéo vào. Thấy sinh tiều tụy, Cửu lang kinh sợ hỏi han. Sinh kể thật đầu đuôi, nước mắt rơi lã chã. Cửu lang nói nhỏ "Cái ý thương mến nhau ấy thật đáng cảm kích, nhưng đã chẳng ích lợi gì cho đệ mà còn làm hại cho ông, nên không muốn thôi. Chứ nếu ông đã thích thì ta có tiếc gì".




Sinh cả mừng, Cửu lang đi rồi thấy bệnh tật phút chốc tiêu tan. Vài hôm hoàn toàn bình phục rồi quả nhiên Cửu lang lại tới, cùng nhau vui vầy rồi nói "Nay nể lòng chiều ông, xin đừng làm như thế nữa". Kế nói "Có việc muốn nhờ, không biết ông có chịu giúp không", sinh hỏi việc gì, Cửu lang đáp “Mẹ ta bị đau tim, chỉ có Tiên thiên đan của quan Thái y Tề Dã Vương chữa được, ông chơi thân với ông ấy chắc sẽ xin được", sinh hứa sẽ xin cho. Lúc Cửu lang ra đi lại dặn dò, sinh bèn vào thành xin thuốc, chiều tối mang về. Cửu lang mừng rỡ cảm ơn ca ngợi, nói "Xin tìm cho ông một mỹ nhân, còn hơn đệ gấp vạn lần". Sinh hỏi là ai, Cửu lang đáp "Đệ có người biểu muội xinh đẹp vô song, nếu ông ưng thuận đệ sẽ làm mai cho".




Sinh cười khẽ không đáp, Cửu lang cầm thuốc về. Ba hôm sau lại tới xin thuốc, sinh giận vì tới muộn, lời lẽ có ý bực túc. Cửu lang nói "Bản ý vốn không muốn làm hại ông nên không tới thường, nay ông đã không rộng lượng cho, thì xin đừng hối hận". Từ đó tối nào cũng vui vầy với nhau, mà cứ ba ngày lại xin thuốc một lần. Tề lấy làm lạ vì cứ xin mãi, nói "Thuốc này ai uống ba lần cũng khỏi bệnh, sao lâu quá vẫn không khỏi thế?", rồi lấy ba tễ trao cả cho, lại nhìn sinh nói "Ông khí sắc tối tăm, có bệnh phải không?", sinh đáp "Không". Tề bèn cầm tay bắt mạch, giật mình nói "Ông có quỷ mạch, bệnh ở mạch Thiếu âm, nếu không tự gìn giữ thì chết đấy”.
Sinh về kể lại, Cửu lang than "Quả thật là danh y, nói thật ta là hồ, sợ không phải là điều may cho ông". Sinh ngờ là dối trá nên giấu bớt thuốc lại không đưa hết vì sợ Cửu lang không tới nữa. Không bao lâu quả nhiên sinh bị bệnh, rước Tề tới xem, Tề nói "Trước đây ông không nghe ta, nay thần khí đã tan tác, thầy giỏi nào chữa được nữa?”. Cửu lang hàng ngày tới chăm sóc, nói "Không nghe lời ta, quả đến nông nỗi này", kế sinh chết, Cửu lang khóc lớn rồi đi.




Trước là trong huyện có Thái sử Mỗ lúc trẻ cùng học với sinh, năm mười bảy tuổi đã làm Hàn lâm. Lúc ấy phiên vương đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) tham bạo mà thích ăn của đút, các quan trong triều không ai dám nói. Ông bèn dâng sớ hặc tội, bị kết tội quá phận cách chức. Phiên vương lại được thăng chức Tuần phủ tỉnh ấy, hàng ngày cứ rình ông sơ hở để bắt tội. Ông lúc trẻ có tiếng tài giỏi, có một phiên vương làm phản coi trọng, lúc ấy Tuần phủ bắt được thư từ qua lại giữa đôi bên đem tới uy hiếp, ông sợ treo cổ tự tử, phu nhân cũng tự thắt cổ chết.
Qua đêm chợt ông sống lại nói “Ta là Hà Tử Túc”. Người nhà hỏi han thấy đều nói chuyện nhà họ Hà, biết là Hà mượn xác hoàn hồn, giữ lại không được bèn cho về nhà cũ. Tuần phủ ngờ là gian trá, cũng muốn đẩy vào chỗ chết bèn sai người tới đòi ngàn vàng, sinh giả vâng dạ nhưng vô cùng lo lắng.




Chợt Cửu lang tới, cùng nhau mừng rỡ trò chuyện, vừa mừng vừa tủi. Kế lại muốn cùng vui vầy với nhau, Cửu lang nói "ông có tới ba mạng sống à?", sinh đáp "Ta hối vì sống lo chẳng bằng chết sướng”, nhân kể lại chuyện oan khổ. Cửu lang nghĩ ngợi rồi nói "May mà ông còn sống lại gặp nhau. Ông còn chưa có vợ, trước ta đã nói biểu muội xinh đẹp đa mưu, có thể giúp ông". Sinh muốn gặp mặt một lần, Cửu lang nói "Không khó, ngày mai nàng cùng tới thăm mẹ ta, cũng đi qua đây, ông giả làm anh của đệ, ta sẽ giả khát vào xin nước uống. ông cứ nói Lừa chạy mất rồi, thế là xong”. Bàn tính xong Cửu lang ra về.




Gần trưa hôm sau quả nhiên Cửu lang cùng một nữ lang đi ngang cổng, sinh ra chắp tay trò chuyện dằng dai, liếc thấy nữ lang mắt phượng mày ngài, quả thật xinh đẹp như tiên. Cửu lang đòi uống trà, sinh mời vào nhà, Cửu lang nói “Tam muội đừng ngại, đây là anh em kết nghĩa của anh, ghé vào nghỉ một chút không hề gì", rồi đỡ nàng xuống, buộc lừa ngoài cổng cùng vào. Sinh tự pha trà mời, đưa mắt nhìn Cửu lang nói “Trước đây ông nói chưa đủ đâu, hôm nay đúng là ta được chỗ để chết rồi". Cô gái như biết nói tới mình, rời ghế đứng phắt dậy, khẽ nói "Đi thôi".




Sinh nhìn ra ngoài nói "Lừa chạy mất rồi". Cửu lang vội vàng chạy ra. Sinh ôm cô gái đòi giao hoan, cô gái đỏ bừng cả mặt mày, lính quýnh như con chó bị nhốt, gọi Cửu huynh nhưng không thấy đáp, bèn nói "Chàng đã có vợ rồi, sao lại làm mất danh tiết người ta", sinh bèn phân trần rằng mình không có vợ, nàng nói “Nếu dám thề rằng không phụ rẫy nhau, thì thiếp xin vâng lời". Sinh bèn chỉ lên mặt trời thề thốt, cô gái bèn không chống cự nữa. Xong đâu đấy rồi Cửu lang bước vào, cô gái hầm hầm nét mặt trách mắng, Cửu lang nói "Đây là Hà Tử Túc, trước là danh sĩ, nay là Thái sử, chơi thân với anh. Người này có thể nương tựa được, nếu cậu mợ nghe thấy chắc cũng không phiền giận gì đâu”. Trời xế chiều, sinh giữ lại không cho đi, cô gái sợ cô lo lắng, Cửu lang nhận sẽ lo hết rồi lên lừa ra đi.




Được vài hôm, có người đàn bà dắt một tỳ nữ tới, tuổi trạc bốn mươi, phong nhã xinh đẹp giống hệt Tam nương. Sinh gọi cô gái ra xem thì quả là mẹ nàng. Bà nhìn con gái kinh ngạc hỏi sao lại ở đây, nàng thẹn thùng không đáp, sinh bèn mời vào lạy chào rồi kể rõ. Người đàn bà cười nói "Cửu lang thật là tính khí trẻ con, sao không bàn trước". Cô gái vào bếp làm thức ăn mời mẹ, bà ăn xong rồi về. Sinh từ khi lấy được vợ đẹp trong lòng vui sướng, nhưng nỗi lo lắng còn dó nên thường chau mày nghĩ ngợi. Cô gái hỏi, sinh kể rõ đầu đuôi, nàng cười nói “Chuyện đó thì một mình Cửu huynh cũng giúp được, chàng việc gì phải lo". Sinh hỏi nguyên do, nàng đáp "Nghe nói quan Tuần phủ thích thanh sắc, chuyện thằng nhãi con ngu ngốc ấy thích đều là sở trường của Cửu huynh. Đem cái y thích mà dâng, thì thù oán gì mà y không bỏ qua". Sinh sợ Cửu lang không chịu, cô gái nói "Phải năn nỉ thôi”.




Qua hôm sau, sinh thấy Cửu lang tới, bèn khép nép ra đón, Cửu lang ngạc nhiên nói "Hai đời giao du đã biết rõ nhau, dù cho tan xương nát thịt cũng không dám tiếc, sao lại đối xử với nhau như thế?”. Sinh kể lại việc mình và vợ bàn tính, Cửu lang có vẻ ngần ngừ, cô gái nói "Thiếp thất thân với Hà lang là vì ai gây nên? Nếu để Hà lang nửa đường đứt gánh thì thiếp sẽ ra sao?", Cửu lang bất đắc dĩ phải ưng thuận. Sinh bèn cùng Cửu lang bàn tính, gởi thư tới bạn thân là Vương Thái sử, lại gởi gắm Cửu lang.




Vương hiểu ý, mở tiệc lớn mời Tuần phủ tới, sai Cửu lang mặc y phục đàn bà ra múa khúc Thiên ma vũ, xinh đẹp như con gái. Tuần phủ thích lắm, xin Vương cho trả nhiều tiền để mua Cửu lang nhưng vẫn sợ không được. Vương làm ra vẻ nghĩ ngợi như khó xử, ngần ngừ hồi lâu rồi tỏ ý sinh muốn dâng Cửu lang. Tuần phủ vui mừng không căm giận gì sinh nữa, từ khi được Cửu lang, ăn ngủ gì cũng có nhau, có hơn mười người thiếp trẻ đẹp đều coi như đất bùn, cung phụng cái ăn cái mặc cho Cửu lang như bậc vương giả, ban cho vàng bạc hàng vạn lượng. Được nửa năm Tuần phủ ngã bệnh, Cửu lang biết là sắp chết bèn chở hết vàng bạc gấm vóc về nhà sinh. Kế Tuần phủ chết, Cửu lang bỏ tiền ra xây nhà cửa mua tôi tớ, mẹ con cùng cậu mợ đều tới đó ở chung. Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ.
(Mỗi khi Cửu lang ra đường thì mặc áo cừu cưỡi ngựa béo rất sang trọng, mọi người không ai biết là hồ). Ta có đùa bình một bài, cũng chép cả vào đây.




Trai gái ở chung, là đạo thường chồng vợ, khô ướt thông suốt, ấy khiếu chính âm dương. Chờ trăng đón gió* còn chuốc danh nhơ, cắt áo chia đào**, khó che tiếng xấu. Người đều là lực sĩ, đường chim bay mới được mở ra, động chẳng phải Đào Nguyên, sào ngư phủ sao cho chọc xuống. Nay Mỗ theo lối dưới mà quên trở lại, bỏ đường chính mà chẳng đi theo. Mây mưa chưa hừng, trên dưới liền tay sờ mó, âm dương ngược thế, trong ngoài cứ thế làm gian. Ao hoa thành chốn không dùng, nói bậy sư già nhập định, động Mán là vùng không cỏ, lại sai tướng chột vung gươm.




* Chờ trăng đón gió: nguyên văn là “nghênh phong đãi nguyệt", chữ trong câu thơ của Thôi Oanh Oanh thời Đường "Đãi nguyệt Tây sương hạ, Nghênh phong hộ bán khai” (Chờ trăng hiên thấp mái, Đón gió cửa không cài), đây chỉ việc hẹn hò trai gái.




** Cắt áo chia đào: nguyên văn là “đoạn tụ” và "phân đào” Hán Ai đế sủng ái Đổng Hiền, có lần ngủ chung trở dậy thấy Đổng Hiền nằm đè lên tay áo mình, bèn cắt tay áo để Đổng Hiền không bị mất giấc ngủ. Vệ Linh công sủng ái Di Tử Hà, có lần cùng dạo trong vườn, Di Tử Hà hái một trái đào chín, cắn một miếng rồi đút cho Vệ Linh công. Đây chỉ việc đàn ông thích đàn ông.




Buộc Xích thố ngoài viên môn, như toan bắn kích*”, mò cung lớn trong quốc khố, những muốn phá rào**. Hay là nhà Giám mộng cá vàng***, thăm tri giao đêm trước, rõ ràng họ Vương dùi mận đỏ****, đòi báo đáp kiếp sau. Rừng Hắc Tùng người ngựa thường qua, vốn là yên ổn, phủ Hoàng Long nước triều chợt tới, lấy gì chặn ngăn. Phải chặt đứt cây gậy đâm xoi, mà nút kín con đường đưa đón.




*Buộc Xích thố ... bắn kích: lấy tích Lữ Bố thời Hậu Hán bắn kích giải hòa cho Lưu Bị và Kỷ Linh tướng của Viên Thuật, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.




**Mò cung lớn ... phá rào: lấy tích Dương Hổ thời Xuân thu lấy trộm cung lớn trong quốc khố, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.




*** Nhà Giám mộng cá vàng: Nhĩ đàm chép Vương Tế tửu ở Nam Kinh thân thiết với một viên Giám sinh, người ấy nằm mơ thấy có con cá chiên vàng từ đũng quần rơi ra, kể lại với bạn bè. Đám Giám sinh đùa nói "Giấc mơ của Mỗ rất nhiêu khê. Chuyện cá chiên vàng xoi vào mông rất đáng ngờ, chắc là Vương học sĩ đang đêm tới thăm người thương”.




**** Họ Vương dùi mận đỏ: Tấn thư, Vương Nhung truyện chép nhà Vương Nhung có cây mận ngon, Vương hái quả bán nhưng sợ người ta lấy giống, nên trước khi bán là dùng kim đâm phá hỏng hạt mận, nghĩa bóng chỉ quan hệ tình dục không lành mạnh giữa đàn ông với đàn ông.




Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 91 - 92 -
Cô Gái Ở Kim Lăng
(Kim Lăng Nữ Tử)

Người dân ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) là Triệu Mỗ có việc vào thành trở về, gặp một cô gái mặc áo trắng khóc than bên đường rất thảm thiết. Triệu liếc thấy xinh đẹp thích lắm, dùng lại nhìn chằm chằm không chịu đi. Cô gái gạt lệ nói "Ông kia đường không chịu đi lại cứ nhìn ta”. Triệu nói "Ta thấy đồng không mông quạnh mà nàng đau xót khóc lóc nên thật rất thương tâm". Cô gái nói "Chồng chết không biết về đâu nên đau lòng thôi". Triệu khuyên nên lấy chồng khác, nàng đáp "Một thân lưu lạc, biết ai mà chọn? Nếu được nương tựa thì làm vợ lẽ cũng được". Triệu mừng rỡ xin đứng ra bảo bọc, cô gái bèn đi theo. Triệu vì nhà ở xa, định tìm ngựa đỡ chân, cô gái nói không cần rồi bước lên trước, lãng đãng đi mau như chạy.

Về tới nhà rồi, nàng lo việc nhà rất chăm chỉ, được hơn hai năm nói với Triệu "Cảm vì chàng thương mến nên theo về, thấm thoát đã hai năm, nay phải đi thôi”. Triệu hỏi "Trước nàng nói không biết về đâu, nay định tới nơi nào?", nàng đáp "Lúc ấy chỉ là nói dối thế thôi, chứ đâu lại không còn nơi về? Cha thiếp bán thuốc ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nếu chàng muốn gặp nhau thì nên chở thuốc tới, sẽ giúp đỡ cho ít nhiều đi đường". Triệu tính toán định thuê xe ngựa cho, nàng từ tạ rồi ra cửa đi thẳng, Triệu đuổi theo không kịp, trong chớp mắt đã mất hút.
Lâu sau Triệu càng nhung nhớ, bèn mua thuốc chở lên Kim Lăng, gởi hàng ở quán trọ rồi ra phố, chợt có ông già ở hiệu thuốc nhìn ra nói "Con rể tới rồi", rồi ra kéo vào. Cô gái đang giặt áo trong sân, thấy Triệu không nói cũng không cười, cứ mãi miết giặt giũ. Triệu uất ức bỏ ngay ra, ông già lại kéo trở vào, nàng vẫn không nhìn ngó gì tới. Ông già bảo dọn cơm rượu thết đãi, định tặng tiễn cho Triệu thật hậu, cô gái ngăn lại nói "Y bạc phúc, có cho nhiều cũng không hưởng được, chỉ cần an ủi nỗi vất vả tới đây, lựa ra mười mấy bài thuốc trao cho là thừa cơm áo một đời rồi". Ông già hỏi tới số thuốc Triệủ mang lên, nàng đáp “Đã ngã giá rồi, đang để cả ở đây". Ông già bèn đưa bài thuốc ra, trao tiền cho Triệu về. Dùng thử các bài thuốc thì hiệu nghiệm phi thường, đến nay có người ở Nghi Thủy còn biết bài thuốc lấy vỏ trái vải giã nát ra hứng nước mưa ở mái tranh để tẩy nốt ruồi, là một trong những bài ấy, rất có công hiệu.

092. Liên Tỏa
(Liên Tỏa)

Dương Vu Úy dời nhà tới ở cạnh sông Tứ Thủy, phòng học liền với cánh đồng rộng, ngoài tường có nhiều ngôi mộ cổ. Đêm nghe cành lá bạch dương rung ào ào như sóng dâng, khuya dậy thắp đèn ngồi, đang buồn bã bâng khuâng chợt nghe ngoài tường có tiếng người ngâm thơ rằng " Nguyên dạ thê phong khích đảo xuy, Lưu oanh nặc thảo phục triêm vi" (Hiu hắt đêm rằm gió lạnh qua, Lập lòe đom đóm đậu màn là), ngâm đi ngâm lại, âm thanh rất não nùng, Dương lắng tai nghe kỹ thấy dịu dàng như tiếng con gái, lấy làm ngờ vực. Hôm sau ra ngoài tường xem không thấy vết chân người nào cả, duy có một sợi dây lụa tía rơi trong bụi gai, bèn nhặt về để trên bậu cửa sổ. Đến canh hai lại nghe tiếng ngâm nga như đêm trước, Dương bắc ghế leo lên nhìn ra thì tiếng ngâm vụt tắt, biết đó là ma nhưng rất thích.

Đêm sau ra núp chờ bên tường, vừa hết canh một thấy có một cô gái trong đám cỏ lững thững đi ra, tỳ tay vào gốc cây nhỏ cúi đầu buồn bã ngâm nga. Dương khẽ đằng hắng, nàng vội lui vào đám cỏ rậm biến mất. Từ đó Dương cứ ra chờ, một đêm đợi cô gái vừa ngâm xong, liền cách tường đọc tiếp rằng "U tình khổ tự hà nhân kiến, Thúy tụ đơn hàn nguyệt thượng thì" (Tình riêng mối khổ nào ai rõ, áo biếc mong manh dưới nguyệt tà), hồi lâu vẫn thấy im ắng. Dương bèn trở vào phòng, vừa ngồi xuống chợt thấy một cô gái đẹp từ ngoài bước vào, khép nép nói "Chàng vốn là văn nhân phong nhã mà bấy lâu nay thiếp cứ sợ sệt trốn tránh". Dương mừng rỡ kéo nàng ngồi, thấy ẻo lả như mặc áo không nổi. Hỏi quê quán nơi nào, ở đây bao lâu rồi, nàng đáp “Thiếp là người quận Lũng Tây (tỉnh Cam Túc) theo cha lưu lạc tới đây, năm mười bảy tuổi bị bạo bệnh chết, đến nay đã hơn hai chục năm rồi. Hồn ở suối vàng, thây vùi đồng trống, trơ trọi một mình, hai câu thơ thường ngâm là của thiếp làm ra để gởi gắm niềm u hận, lâu nay vẫn muốn làm trọn bài nhưng nghĩ không ra, được chàng nối giùm nên thiếp ở dưới suối vàng lấy làm vui sướng". Dương muốn cùng giao hoan, nàng cau mày nói "Xương nát dưới dạ đài không như người sống, nếu còn nọ kia sẽ làm người ta tổn thọ, thiếp không nỡ gây họa cho bậc quân tử", Dương mới thôi. Đùa thò tay nắn bóp ngực nàng thì đầu vú còn son, rõ ràng vẫn là xử nữ, lại muốn nhìn đôi hài dưới chân. Nàng cúi mặt cười nói "Anh chàng si cuồng tò mò quá". Dương cầm chân nàng đùa giỡn, thấy hài làm bằng gấm màu nguyệt bạch nhỏ như bó tơ, nhìn kỹ thấy một chiếc thiếu giải lụa tía. Hỏi sao không buộc cả hai chiếc, nàng đáp "Đêm trước sợ chàng bỏ chạy, không biết đánh rơi chỗ nào". Dương nói "Để ta thay sợi khác cho nàng rồi lấy sợi dây lụa tía trên bậu cửa sổ đưa cho cô gái. Nàng ngạc nhiên hỏi ở đâu ra, Dương kể lại nàng bèn giắt vào thắt lưng. Kế mở xem sách vở trên bàn, chợt thấy tập Liên xướng cưng từ* cảm khái nói "Lúc thiếp còn sống rất thích đọc tập thơ này, giờ nhìn thấy, giống như đang trong mơ vậy". Dương cùng nói chuyện văn thơ, thấy nàng thông minh đáng yêu, chong đèn trò chuyện như gặp bạn quý.

*Liên xướng cung từ: tên tập thơ của Nguyên Chẩn, nhà thơ thời Đường.

Từ đó cứ đêm đến nghe tiếng ngâm thơ khe khẽ thì thấy nàng tới. Thường dặn Dương rằng “Xin chàng giữ kín đừng cho ai biết, thiếp từ nhỏ vẫn nhút nhát nên sợ có khách khứa hung dữ hiếp đáp" Dương ưng thuận. Hai người vui như cá nước gặp nhau, tuy chưa thật là vợ chồng nhưng trong chốn phòng khuê còn âu yếm đằm thắm hơn cả vợ chồng. Cô gái thường trước đèn chép sách cho Dương, nét chữ đoan chính đẹp đẽ. Lại tự chọn một trăm bài Cung từ chép để ngâm nga, còn dặn Dương sắm bàn cờ vây, mua đàn tỳ bà, đêm đêm dạy Dương đánh cờ, không thì nàng so phím lên dây gảy khúc Mưa sa tàu chuối bên song khiến người phải não lòng. Dương không nỡ nghe hết khúc, thì nàng gảy bản Tiếng oanh trong vườn buổi sớm, chợt Dương thấy trong lòng khoan khoái. Thường chong đèn vui chơi quên cả đêm dài, thấy ánh mai hiện ra trên cửa sổ nàng mới vội vã ra đi.

Một hôm Tiết sinh tới chơi, gặp lúc Dương đang ngủ trưa, thấy trong nhà đủ cả bàn cờ nhạc khí, biết không phải là những môn Dương giỏi. Lại lật sách vở xem, gặp tập Cung từ thấy nét chữ ngay thẳng đẹp đẽ không phải chữ Dương, càng thêm ngờ vực. Dương thức dậy, Tiết hỏi bàn cờ nhạc khí từ đâu ra, Dương đáp là đang muốn học, lại hỏi về quyển thơ, Dương nói thác là mượn của bạn bè. Tiết giở ra xem đi xem lại, tới tờ cuối thấy có hàng chữ nhỏ đề ngày ấy tháng ấy Liên Tỏa viết bèn cười nói "Đây là tên con gái mà, sao dối nhau quá thế?”. Dương bí quá không biết trả lời thế nào, Tiết càng hỏi riết. Dương không chịu nói, Tiết bèn lấy tập thơ bỏ túi, Dương cùng đường phải nói thật.

Tiết xin cho gặp một lần, Dương nhắc lại lời Liên Tỏa dặn. Tiết càng hâm mộ cứ thiết tha xin gặp, Dương bất đắc dĩ đành nhận lời. Khuya cô gái tới, Dương tỏ ý Tiết, nàng giận nói "Trước đã dặn thế nào, mà lại ba hoa với người ta!". Dương kể lại sự tình để phân trần, nàng nói “Duyên phận với chàng đến đây là hết rồi”. Dương tìm đủ lời năn nỉ khuyên giải mà nàng vẫn không vui, đứng dậy từ biệt, nói "Thiếp phải tạm lánh mặt". Hôm sau Tiết tới, Dương cho biết là Liên Tỏa không chịu, Tiết ngờ là kiếm cớ thoái thác, chiều tối rủ hai bạn học nữa tới, dằng dai không chịu ra về, làm ầm ĩ suốt đêm, Dương bực lắm nhưng không biết làm sao. Họ thấy mấy đêm liền không có gì lạ cũng chán, dần dần yên lặng, chợt nghe tiếng ngâm thơ, cùng lắng tai nghe, thấy rất buồn thảm. Tiết còn đang chăm chú nghe, trong bọn có một người bạn học võ là Vương sinh lượm hòn đá to ném ra nói lớn “Làm bộ làm tịch không chịu ra mặt, thơ có ra gì mà ngâm nga sướt mướt nghe phát bực”, tiếng ngâm thơ tắt liền. Mọi người rất tức, Dương thì bực bội ra mặt. Hôm sau họ mới chịu đi, Dương ngủ một mình ở phòng sách chờ cô gái trở lại nhưng nàng biệt tăm.

Qua hai hôm nàng chợt tới khóc nói "Chàng đón những khách hung tợn tới làm thiếp sợ gần chết". Dương chưa kịp xin lỗi, nàng đã bước ngay ra, nói "Thiếp đã nói duyên phận với chàng hết rồi, từ đây xin vĩnh biệt". Dương định kéo lại thì nàng đã biến mất, suốt hơn tháng sau không thấy tới nữa. Dương nhớ nhung tới mức gầy ốm nhưng không còn cách nào gặp được nàng. Một đêm đang ngồi uống rượu một mình, chợt cô gái vén rèm bước vào. Dương mừng quá, nói "Nàng tha thứ cho ta rồi sao?”. Cô gái chảy nước mắt im lặng không đáp, hỏi mãi thì nàng muốn nói lại thôi, kế nói "Tức giận bỏ đi, lại có chuyện nguy cấp phải nhờ người, nghĩ mà hổ thẹn". Dương gặng hỏi mấy lần, nàng nói “Có một tên lính lệ thô bỉ không biết ở đâu tới ép thiếp phải làm vợ lẽ của y. Thiếp nghĩ mình là con nhà thanh bạch, há lại chịu khuất phục một tên quỷ tốt, nhưng một thân yếu đuối làm sao chống cự. Nếu chàng coi thiếp như vợ chồng thì chắc không để mặc thiếp phải khổ". Dương cả giận, căm tức tưởng chết nhưng lo người với ma khác loài, không thể giúp nàng được. Cô gái nói "Đêm mai cứ đi ngủ sớm, thiếp nhờ chàng trong mộng vậy". Rồi cùng nhau chuyện trò đợi sáng, lúc nàng ra đi dặn Dương đi ngủ để giữ cái hẹn buổi tối, Dương theo lời.

Buổi chiều uống vài chén rượu rồi nhân lúc ngà ngà lên giường, để nguyên áo mà ngủ. Chợt thấy cô gái tới, đưa cho thanh bội đao rồi cầm tay dắt đi. Tới một căn nhà, vừa vào đóng cửa trò chuyện thì nghe có người đập cửa cô gái hoảng sợ nói "Kẻ thù tới đấy". Dương mở cửa sấn ra, thấy một người mũ đỏ áo xanh, râu quai nón tua tủa như lông nhím, tức giận thét đuổi đi. Tên lính trợn mắt quát lại, lời lẽ rất ngạo mạn. Dương cả giận sấn vào, y vác đá ném như mưa, Dương bị ném trúng tay không cầm đao được nữa. Đang lúc nguy cấp, chợt thấy xa xa có một người đeo cung tên đi săn, nhìn kỹ chính là Vương sinh, bèn kêu lớn cầu cứu. Vương sinh giương cung chạy tới bắn trúng đùi tên lính, lại bắn thêm một phát giết chết luôn. Dương mừng rỡ cảm tạ. Vương hỏi duyên cớ, Dương kể lại đầu đuôi. Vương mừng đã chuộc được lỗi trước, bèn cùng vào nhà. Cô gái thẹn thùng sợ sệt đứng xa nhìn không nói một câu. Trên bàn có thanh đao nhỏ dài hơn một thước khảm vàng ngọc, rút ra khỏi vỏ thì long lanh sáng quắc. Vương khen ngợi không nỡ rời tay, trò chuyện qua loa với Dương, thấy cô gái sợ sệt rất đáng thương bèn bước ra chia tay rồi đi.

Dương cũng ra về, tới cổng thì ngã chúi, giật mình tỉnh dậy nghe gà trong thôn gáy ran. Thấy cánh tay đau buốt, sáng ra nhìn kỹ thì da thịt sưng lên đỏ bầm. Trưa Vương sinh tới, nói đêm qua nằm mơ rất lạ. Dương hỏi "Mơ thấy bắn tên phải không?", Vương lấy làm lạ sao Dương biết. Dương đưa tay cho xem rồi nói rõ duyên cớ. Vương nhớ lại người đẹp trong mộng, hận chưa được thấy người thật, nhưng nghe may có chút công với cô gái nên lại xin cho được gặp. Đêm đến cô gái tới cảm tạ, Dương quy công cho Vương sinh rồi tỏ bày lòng thành của Vương. Nàng nói “Cái ơn giúp đỡ làm sao dám quên, nhưng y mạnh mẽ dữ tợn, thật thiếp sợ quá”. Kế lại nói "Y thích thanh bội đao của thiếp, thanh đao ấy là cha thiếp ngày trước mua ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông) hết trăm lượng vàng. Thiếp thích nên cha cho tua buộc tơ vàng, vỏ nạm minh châu, cha thương thiếp mệnh bạc nên bỏ vào quan tài chôn theo. Nay xin dứt tình đưa tặng, y thấy đao cũng như gặp thiếp vậy”.

Hôm sau Dương tỏ ý ấy Vương thích lắm. Đến đêm, cô gái quả đem thanh đao tới, nói “chàng dặn y giữ cho kỹ, đây không phải là vật ở Trung Hoa đâu”, từ đó lại lui tới nhà Dương như trước. Vài tháng sau chợt nàng ngồi dưới đèn nhìn Dương như định nói gì, nhưng hai ba lần đỏ mặt rồi thôi. Dương ôm nàng hỏi han, nàng đáp "Lâu nay được chàng yêu mến, tiếp nhận sinh khí người sống, hàng ngày ăn những thức nấu nướng nên mớ xương khô chợt có sinh cơ, nhưng phải có tinh huyết của người sống mới có thể sống lại”. Dương cười nói "Vì nàng không muốn chứ ta có tiếc gì đâu”. Cô gái nói “Thiếp tiếp nhận tinh khí rồi thì chàng ắt ốm nặng hơn hai mươi ngày, nhưng uống thuốc là khỏi", bèn cùng nhau giao hoan. Kế nàng mặc áo trở dậy, lại nói "Còn phải có một giọt máu tươi, chàng nhịn đau cho nhau đươc không?” Dương liền cầm dao sắc tự đâm vào tay lấy máu, cô gái nằm trên giường bảo nhỏ máu vào rốn, xong rồi đứng dậy nói "Thiếp không tới nữa. Chàng nhớ là sau đây một trăm ngày ra trước mộ thiếp, thấy có con chim xanh kêu trên ngọn cây thì lập tức đào lên". Dương hứa theo lời. Lúc nàng ra cửa lại dặn “Chàng nhớ kỹ đừng quên, sớm hay trễ hơn đều không được đâu”, rồi đi.

Hơn mười ngày sau quả Dương phát bệnh, bụng trướng lên gần chết, thầy lang cho uống thuốc, xổ ra hôi thối như bùn, đúng mười hai hôm thì khỏi. Tính đủ trăm ngày, sai gia nhân mang cuốc ra chờ sẵn bên mộ, lúc mặt trời xế bóng quả thấy hai con chim xanh hót. Dương mừng nói “Đến lúc rồi", rồi phát gai đào mồ, thấy quan tài đã mục nát mà dung mạo cô gái vẫn như còn sống, sờ vào người thấy âm ấm liền lấy chăn bọc lại khiêng về đặt vào phòng kín. Lát sau có hơi thở như sợi tơ, từ từ đổ nước cho, nửa đêm thì nàng sống lại. Thường nói với Dương "Hơn hai mươi năm* mà thấy như một giấc mộng thôi".

* Hơn hai mươi năm: cả hai bản Đài Loan và Hương Cảng đều in là, thập dư niên" (hơn mười năm), có lẽ là sơ suất của tác giả, vì bên trên nhân vật Liên Tỏa có nói là đã chết hơn hai mươi năm. Đây tạm đính như trên.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 93 -
Bạch Vu Ngọc
(Bạch Vu Ngọc)

Ngô Quân tự Thanh Am lúc trẻ đã nổi tiếng, quan Thái sử họ Cát đọc thấy văn bài thường khen ngợi, nhờ người quen mời tới nhà, thấy ngôn ngữ phong thái bèn nói "Chẳng lẽ có tài như Ngô sinh mà nghèo hèn mãi sao?". Nhân nhờ người đánh tiếng, nói "Nếu Thanh Am gắng sức thi đỗ thì ta gả con gái cho". Lúc ấy Thái sử có cô con gái tuyệt đẹp, sinh nghe thế cả mừng, rất tự tin sẽ thi đỗ. Kế thi hương bị đánh rớt, bèn nhờ người nói với Thái sử rằng nhất định sẽ được giàu sang, chỉ không biết sớm hay muộn thôi, xin chờ cho ba năm nữa, nếu mình không thành danh hãy gả chồng cho tiểu thư, từ đó càng ra sức học hành.
Một đêm sáng trăng có người Tú tài tới thăm, da trắng râu ngắn, vóc nhỏ móng tay dài. Hỏi từ đâu tới, khách tự xưng là họ Bạch, tự Vu Ngọc, cùng chuyện trò vài câu thấy hợp nên thích lắm, mời ngủ lại. Sáng ra Bạch sắp lên đường, sinh dặn có qua ngang tiện đường nhớ ghé chơi. Bạch cảm vì ân cần, xin lần sau cho ở nhờ, hẹn ngày tới rồi chia tay. Đến ngày hẹn, có một người đầy tớ đem các vật dụng nhà bếp tới trước, kế Bạch tới, cưỡi con ngựa thần thái như con rồng, sinh để một gian nhà riêng cho Bạch ở. Bạch sai đầy tớ dắt ngựa đi, còn mình ở lại sớm tối cùng sinh gần gũi, rất vui vẻ tương đắc.

Sinh thấy những sách Bạch đọc đều không phải loại thường thấy, cũng tuyệt nhiên không có loại sách văn chương khoa cử nên ngạc nhiên hỏi. Bạch cười đáp "Kẻ sĩ ai có chí người ấy, ta không phải là người trong trường công danh”. Thường đêm, Bạch mời sinh qua uống rượu, đưa một quyển sách cho xem, đều là dạy thuật đạo dẫn dưỡng sinh, nhiều chỗ không hiểu nổi, sinh thấy viễn vông nên bỏ đó. Hôm khác Bạch nói "Quyển sách ta đưa hôm trước là con đường tu luyện, chiếc thang lên tiên đấy". Sinh cười nói "Việc gấp của ta không phải ở đó, vả lại muốn thành tiên ắt phải dứt hết lòng trần, bỏ hết ham muốn, nhưng ta có tật xấu nên chưa làm được” Bạch hỏi vì sao, sinh đáp phải lo có người nối dõi. Bạch hỏi "Vậy sao vẫn không lấy vợ?”, sinh cười đáp “Quả nhân có tật xấu, quả nhân thích sắc đẹp". Bạch cũng cười nói "Xin nhà vua đừng thích cái sắc nhỏ, ông thích sắc đẹp ra sao?"*. Sinh kể lại việc Thái sử, Bạch ngờ rằng con gái Thái sử chưa chắc đã thật đẹp. Sinh nói "Chuyện đó thì xa gần đều biết, không phải tiểu sinh không có mắt đâu”, Bạch cười khẽ rồi im lặng.

*Quả nhân... sắc nhỏ: nguyên văn là “Quả nhân hữu tật, quả nhân hiếu sắc”, và "Vương thỉnh vô hiếu tiểu sắc", câu đầu là lời Tề Hoàn công thời Xuân thu nói với Quản Trọng, câu sau là nhại lời Mạnh Tử nói với Đằng Văn công "Vương hà tất viết lợi", đây hai nhân vật dùng để nói đùa với nhau.

Hôm sau chợt sắp hành lý chào đi, sinh buồn bã cùng trò chuyện, quyến luyến không dứt ra được, Bạch bèn sai tiểu đồng mang hành lý đi trước. Hai người còn đang bịn rịn, chợt thấy một con ve xanh sè sè đáp xuống bàn. Bạch chào nói “Ngựa xe đã tới, từ nay xin giã biệt. Nếu ông nhớ nhau thì cứ quét cái giường ta nằm mà ngủ”. Sinh đang muốn hỏi lại thì trong chớp mắt Bạch đã chỉ còn nhỏ như ngón tay, nhảy lên cưỡi trên lưng con ve, e e bay lên biến mất trong mây. Sinh lúc ấy mới biết Bạch không phải là người thường, kinh ngạc than thở hồi lâu, buồn bực như mất của quý. Mấy hôm sau chợt trời mưa phùn, sinh càng nhớ Bạch, nhìn tới chỗ giường Bạch nằm thấy vết chân chuột chi chít, cảm khái quét dọn rồi trải chiếu lên nằm ngủ. Giây lát thấy đứa tiểu đồng của Bạch tới mời bèn vui vẻ đi theo.

Chợt có con phượng đáp xuống, tiểu đồng giục sinh "Đường tối khó đi, cưỡi nó đỡ chân cũng được". Sinh lo con chim nhỏ không chở nổi, tiểu đồng nói "Ông cứ cưỡi thử xem sao". Sinh theo lời thì thấy ngồi còn thừa chỗ, tiểu đồng cũng ngồi ghé trên đuôi, chim giương cánh soạt một tiếng bay thẳng lên không. Không bao lâu, thấy một cái cổng sơn son, tiểu đồng bước xuống trước rồi đỡ sinh cùng xuống. Sinh hỏi đây là nơi đâu, tiểu đồng đáp "Đây là cổng trời". Bên cửa có con cọp lớn ngồi chồm chổm, sinh sợ hãi, tiểu đồng bèn lấy mình che cho cùng vào, thấy phong cảnh khắp nơi đều khác hẳn thế gian.

Tiểu đồng dẫn vào cung Quảng Hàn, bên trong lấy thủy tinh làm bậc thềm, người đi lên như đang giữa tấm gương, có hai cây quế lớn vấn vít lấy nhau, mùi hương theo gió thơm tho không dứt, đình tạ cửa sổ đều sơn son. Lúc lúc lại có mỹ nhân ra vào, người nào cũng xinh đẹp lạ thường, thế gian không sao bì kịp. Tiểu đồng nói mỹ nhân ở cung Vương Mẫu còn xinh đẹp hơn nhưng sợ ông chủ đợi lâu, không thể thơ thẩn rồi dắt sinh đi mau ra. Giây lát thấy Bạch đứng chờ ngoài cửa, cầm tay sinh đưa vào thấy trước nhà suối trong cát trắng, tiếng chảy róc rách, thềm ngọc hiên son như cung điện vua chúa, vừa ngồi xuống đã có hai thị nữ trẻ bưng trà lên mời. Kế Bạch sai dọn rượu, có bốn mỹ nhân khép nép hầu hạ chung quanh, vừa thấy trong lưng hơi ngứa thì mỹ nhân đã lấy móng tay dài gãi giùm.

Sinh thấy tâm thần phiêu diêu, quên cả là mình đang ở đâu, lúc đã ngà ngà say không tự chủ được nữa, cười liếc mỹ nhân, kéo lại nói nhỏ, mỹ nhân mỉm cười né ra. Bạch sai đàn hát chuốc rượu, một nàng mặc áo hồng bưng chén rượu mời khách rồi đứng trước tiệc cất tiếng hát du dương, các nàng khác gõ sênh phách réo rắt họa theo. Kế tới một nàng mặc xiêm xanh cũng chuốc rượu rồi hát, còn một nàng mặc áo tía, một nàng mặc áo màu nguyệt bạch cứ cười khúc khích đùn đẩy nhau không chịu bước ra. Bạch sai mỗi nàng mời một chén hát một bài, nàng áo tía bèn bước lên rót rượu. Sinh mượn cớ đón chén rượu đùa nắm lấy cổ tay, nàng bật cười buột tay làm rơi chén rượu xuống đất Bạch trách mắng, nàng nhặt chén lên mỉm cười, cúi đầu nói khẽ "Da lạnh như tay ma mà cố nắm tay người ta?". Bạch cười lớn, phạt nàng phải múa hát một mình. Nàng múa xong, nàng áo nguyệt bạch lại mời một chén, sinh từ chối nói không uống nổi nữa. Cô gái bưng chén rượu có vẻ hổ thẹn, sinh bèn gượng uống. Nhìn kỹ bốn nàng thấy phong thái yêu kiều, người nào cũng xinh đẹp tuyệt thế, sinh nói với chủ nhân "Người đẹp trên đời, ta mong được một mà còn khó khăn, ông thì tụ họp bấy nhiêu giai nhân, có thể cho nhau hưởng thú tiêu hồn không?”.
Bạch cười nói "Túc hạ trong lòng đã có giai nhân rồi, thế này đâu đã đủ lọt vào mắt?". Sinh nói "Nay ta mới biết kiến thức của mình còn hẹp hòi". Bạch gọi tất cả các cô gái tới cho chọn, sinh mê mệt không biết chọn ai. Bạch nghĩ nàng áo tía có cái duyên nắm tay, bèn sai lo giường nệm hầu khách. Kế cùng chung chăn chung gối, hết sức yêu thương, sinh đòi tặng một vật làm kỷ niệm, nàng tháo chiếc xuyến vàng ở cổ tay đưa cho. Chợt đứa tiểu đồng vào nói “Tiên phàm khác nhau, ông nên đi ngay", cô gái vội trỗi dậy đi ra. Sinh hỏi ông chủ, tiểu đồng nói "Ông chủ ta đi chầu Ngọc Hoàng, lúc đi có dặn ta tiễn khách về". Sinh buồn bã theo ra, lại theo lối cũ, gần tới cổng quay lại nhìn thì tiểu đồng đã đi đâu mất. Con cọp gầm thét chồm lên, sinh sợ hãi bỏ chạy, nhìn xuống dưới thấy mờ mịt nhưng chân đã lọt xuống, giật mình tỉnh dậy thì phía đông đã hừng sáng. Vừa giũ áo đứng lên thì có một vật rơi nhẹ xuống chiếu, nhìn lại thì là chiếc xuyến, càng lấy làm lạ.

Từ đó ý nghĩ lúc trước thành nguội lạnh, thường muốn tìm tiên học đạo nhưng còn lo về nỗi không có con nối dõi. Qua hơn mười tháng, một hôm sinh ngủ trưa mơ thấy nàng áo tía từ ngoài vào, bế một đứa nhỏ nói “Đây là xương máu của chàng, trên trời không giữ lại được nên xin đem tới trả chàng", rồi đặt đứa nhỏ trên giường, kéo vạt áo sinh đắp cho nó rồi vội vã định đi. Sinh ép cùng giao hoan, kế nàng nói “Lần trước là động phòng, lần này là vĩnh quyết, vợ chồng trăm năm đến đây là hết. Nếu chàng có chí, may ra còn có lúc gặp lại”.

Sinh tỉnh giấc thấy đứa nhỏ nằm trong bọc tã trên giường, liền bế vào nói với mẹ. Mẹ mừng rỡ, thuê vú nuôi cháu, đặt tên là Mộng Tiên. Rồi đó sinh sai người báo cho Thái sử rằng mình sắp đi ở ẩn xin kén rể khác. Thái sử không chịu, sinh cố từ chối. Thái sử kể cho con gái, nàng nói "Xa gần chẳng ai không biết con đã hứa làm vợ Ngô lang, nay thay đổi hóa ra là hai chồng sao?", Thái sử đem lời ấy nói với sinh. Sinh nói "Ta chẳng những không có chí về việc công danh mà còn tuyệt tình về đường gia thất nữa, sở dĩ không vào núi ngay chỉ vì còn mẹ già đó thôi”. Thái sử lại bàn với con gái, nàng nói "Ngô lang nghèo thì con cam phận rau cháo, Ngô lang đi thì con xin thờ mẹ chồng, quyết không theo người khác".

Sinh sai người qua lại hai ba lần cũng không xong, Thái sử bèn chọn ngày lành cho xe kiệu đưa con gái về nhà chồng. Sinh cảm là người hiền đức, rất mực kính yêu. Nàng thờ mẹ chồng rất có hiếu, chiều chuộng hầu hạ còn hơn con gái nhà nghèo. Qua hai năm mẹ chồng mất, nàng cầm bán tư trang lo liệu tang lễ rất tươm tất. Sinh nói "Được người vợ như nàng, ta còn lo gì. Nhưng nghĩ một người đắc đạo bỏ nhà lên tiên, ta sắp đi xa, việc nhà xin phó thác cho nàng". Nàng thản nhiên không hề giữ lại, sinh bèn ra đi.

Nàng ngoài lo mưu sinh, trong dạy con côi, đều có phép tắc. Mộng Tiên dần dần lớn lên, vô cùng thông minh, mười bốn tuổi thi khoa Thần đồng đỗ Cử nhân, mười lăm tuổi vào Hàn lâm viện, triều đình phong tặng nhưng không biết tên mẹ đẻ nên chỉ có bà Cát được phong tặng mà thôi. Đến ngày tế, Mộng Tiên hỏi cha ở đâu, bà Cát nói rõ, Mộng Tiên muốn từ quan đi tìm cha, bà nói “Cha con rời nhà đến nay đã hơn mười năm, chắc đã lên tiên rồi, biết đâu mà tìm".

Sau Mộng Tiên phụng chỉ ra tế ở Nam Nhạc, giữa đường gặp cướp, đang lúc nguy cấp có một đạo sĩ cầm gươm xông vào đánh, bọn cướp thua chạy tán loạn nên được giải vây. Mộng Tiên cảm ơn đạo sĩ, tặng tiền nhưng y không nhận, đưa ra một phong thư nói “Ta có người bạn cũ cùng làng với đại nhân, phiền đưa giùm lá thư thăm hỏi". Mộng Tiên hỏi họ tên người ấy, đạo sĩ đáp là Vương Lâm, nhưng nhớ lại trong thôn không có ai tên ấy, đạo sĩ nói “Người ấy con nhà hèn mọn nên ông không biết thôi”. Lúc từ giã lại đưa ra một chiếc xuyến vàng, nói "Đây là vật dùng của đàn bà con gái, bần đạo nhặt được nhưng không dùng gì tới, xin biếu ông luôn”.

Mộng Tiên thấy chiếc xuyến chạm trổ rất tinh xảo, đem về đưa phu nhân. Phu nhân thích lắm, sai thợ khéo theo đúng kiểu làm thêm chiếc nữa, nhưng không sao tinh xảo bằng được. Mộng Tiên hỏi khắp trong thôn thì không có ai tên Vương Lâm, bèn lén mở phong thư ra xem, thấy phía trên viết như sau:

Ba năm loan phượng
Chia cách đôi miền
Nuôi con chôn mẹ
Toàn cậy nàng hiền
Lấy gì báo đức?
Tặng thuốc một viên
Cắt ra mà uống
Có thể thành tiên


Dưới viết "Kính gửi Phu nhân Lâm nương". Mộng Tiên đọc xong không hiểu là gởi ai bèn cầm tới kể với mẹ. Bà Cát đọc xong khóc nói "Đây là thư của cha con gửi về nhà, Lâm là tiểu tự của ta", Mộng Tiên mới sực hiểu ra “Vương Lâm" là chiết tự chữ “Lâm“*, ân hận không thôi. Lại đưa chiếc xuyến cho mẹ xem, bà Cát nói "Đây là di vật của mẹ đẻ con, lúc cha con còn ở nhà vẫn đưa cho ta xem". Mộng Tiên thấy viên thuốc bằng hạt đậu lớn, vui mừng nói "Cha đã thành tiên, mẹ uống viên thuốc này ắt được trường sinh” nhưng bà Cát chưa muốn uống ngay, bèn nhận lấy cất đi.

*Vương Lâm"... chữ "Lâm”: đây theo lối chiết tự trong chữ Hán. Chữ Lâm (ngọc lâm) đây gồm bộ ngọc và chữ lâm (rừng), nhưng bộ ngọc thường viết giảm một chấm nên thành chữ vương.

Gặp lúc Thái sử qua thăm cháu, bà đọc bức thư của Ngô lang cho ông nghe, nhân mang viên thuốc ra chúc thọ. Thái sử cắt làm đôi cho cha con cùng uống, trong giây lát thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên. Năm ấy Thái sử đã bảy mươi tuổi, già nua yếu ớt lắm rồi mà chợt thấy sức lực cuồn cuộn dưới da thịt, lúc về bỏ kiệu xuống bộ đi rất nhanh, bọn gia nhân chạy theo mướt mồ hôi mới kịp. Năm sau đô thành có nạn cháy nhà, lửa bốc suốt ngày không tắt, mọi người đêm không dám ngủ, tụ tập ở sân. Thấy lửa cứ lan ra, dần dần tới lối xóm, cả nhà nhớn nhác không biết làm sao.

Bỗng chiếc xuyến vàng ở tay phu nhân soạt một tiếng thoát khỏi tay bay ra, nhìn theo thấy to mấy mẫu úp quanh trên nhà, hình dáng như vành trăng, chỗ mối nối hướng về phía đông nam, nhìn thấy rất rõ ràng, mọi người đều kinh ngạc. Giây lát ngọn lửa từ phía tây lan tới, tới gần cái vành thì tạt qua phía đông. Khi thế lửa đã dịu, phu nhân đang thầm nghĩ chắc mất chiếc xuyến rồi, không sao lấy lại được nữa chợt thấy ánh vàng vụt thu lại, chiếc xuyến rơi leng keng ngay dưới chân. Mấy vạn nhà dân trong thành đều cháy sạch, chung quanh đều ra tro, chỉ có nhà họ Ngô là không bị gì, duy có một ngôi lầu nhỏ ở phía đông nam bị cháy rụi, tức là nơi mối nối của chiếc xuyến để hở ra. Bà Cát hơn năm mươi tuổi mà có người gặp, thấy chỉ như ngoài hai mươi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 94 - 96 -
Nước Dạ Xoa
(Dạ Xoa Quốc)

Họ Từ ở đất Giao Châu (huyện Ngô Châu tỉnh Quảng Tây) vượt biển đi buôn, bị bão thổi bạt thuyền. Mở mắt thấy tới một xứ núi cao rừng rậm, cho rằng có người ở bèn buộc thuyền đem theo lương khô lên bờ. Vừa vào thì thấy hai bên núi đều có cửa hang dày đặc như lỗ tổ ong, phía trong như có tiếng người. Bèn tới ngoài một cửa hang nhìn vào, thấy có hai con dạ xoa răng tua tủa như dao, mắt sáng quắc như đèn đang lấy móng xé một con hươu ăn sống, hồn bay phách lạc vội chạy lui lại thì dạ xoa quay lại nhìn thấy, bỏ ăn quay ra bắt vào. Hai con nói chuyện với nhau, tiếng như chim kêu thú gào, rồi tranh nhau xé nát áo Từ như muốn ăn tươi nuốt sống. Từ cả sợ quá vội lấy lương khô thịt khô trong túi ra đưa, chúng chia nhau ăn có vẻ ngon lành lắm rồi lại lục cái túi. Từ xua tay ra hiệu không còn, dạ xoa tức giận lại túm lấy Từ. Từ năn nỉ “Tha cho ta đi, trong thuyền ta có nồi niêu, có thể nấu nướng được". Dạ xoa không hiểu, vẫn tức giận. Từ dùng tay ra hiệu, chúng có vẻ hơi hiểu bèn theo Từ ra thuyền.

Từ đem nồi vào hang, gom củi nhen lửa nấu chín thịt hươu còn lại đưa cho dạ xoa, hai con vật ăn xong thích lắm. Đêm đến chúng vần khối đá lớn lấp cửa hang như có ý sợ Từ bỏ trốn. Từ nằm co quắp xa xa, chỉ sợ không sao sống được. Trời sáng hai con vật ra, lại lấp chặt cửa hang, lát sau mang về một con hươu đưa cho Từ. Từ lột da, múc nước chảy ở cuối hang luộc thịt làm mấy nồi, giây lát có một bầy mấy con dạ xoa kéo tới ăn ngấu nghiến hết sạch, rồi cùng chỉ vào cái nồi như chê nhỏ. Ba bốn ngày sau, một dạ xoa vác tới một cái nồi lớn như người ta vẫn thường dùng. Từ đó cả bầy cứ đem tới nào nai nào sói cho Từ nấu, thịt chín rồi thì gọi Từ cùng ăn. Được vài ngày, dạ xoa dần dà quen Từ, khi đi không vần đá lấp cửa hang nhốt lại nữa mà đối xử như cùng trong bầy.

Từ dần dần xét tiếng kêu của chúng mà xem ý tứ rồi tập kêu theo, nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa càng thích, đưa một dạ xoa cái tới làm vợ Từ. Lúc đầu Từ sợ không dám gần, dạ xoa cái tới ngủ chung, cùng Từ ăn nằm thích lắm, thường đem thịt cho Từ ăn như vợ chồng con người vậy. Một hôm cả bầy dậy sớm, lấy chuỗi hạt minh châu đeo quanh cổ thay phiên nhau ra cửa như chờ khách quý, lại bảo Từ nấu nhiều thịt. Từ hỏi dạ xoa cái, nó đáp đây là tiết Thiên thọ. Dạ xoa cái ra nói với bầy rằng "Từ lang không có vòng đeo cổ". Mỗi con bèn trích trong chuỗi minh châu của mình năm hạt đưa nó, nó cũng rút mười hạt trong chuỗi của mình ra, được tất cả năm mươi hạt rồi lấy dây cỏ xỏ thành một chuỗi đeo vào cổ cho Từ, Từ xem kỹ thấy mỗi hạt đều đáng giá hàng trăm đồng vàng. Lát sau cả bầy đều ra ngoài, Từ nấu thịt xong, dạ xoa cái vào bảo đi, nói là ra đón thiên vương.

Tới một cái hang lớn rộng chừng một mẫu, giữa có tảng đá to bằng phẳng như cái bàn, chung quanh đều có chỗ ngồi bằng đá, một chỗ trên cùng phủ da báo, còn lại đều phủ da hươu, hai ba chục dạ xoa đã ngồi la liệt trong hang. Giây lát gió to tung bụi bay mù mịt, cả bọn vội vàng ra đón, thấy một con vật to lớn hình thù như dạ xoa chạy ào vào hang, nhảy lên ngồi ngất ngưỡng trên bệ, đưa mắt nhìn khắp chung quanh. Bầy dạ xoa theo vào chia ngồi xuống hai bên, đầu ngẩng cao, hai cánh tay chắp thành hình chữ thập trước ngực. Con vật đếm cả bọn rồi hỏi "Bọn Ngọa My Sơn có mặt cả ở đây không?", cả bầy cùng dạ. Nó nhìn Từ hỏi “Từ đâu tới?”, dạ xoa cái thưa là chồng, cả bầy đều ca ngợi Từ biết nấu thịt. Lập tức hai ba dạ xoa chạy đi lấy thịt chín bày lên, con vật bốc ăn no, hết sức khen ngợi, bảo phải cung đốn thường xuyên. Lại quay nhìn Từ hỏi "Vòng hạt sao ngắn thế?", cả bọn thưa “Mới tới nên chưa đủ”. Con vật rút mười hạt trong chuỗi hạt đeo trên cổ đưa cho, hạt nào cũng to như đầu ngón tay, tròn như viên đạn, dạ xoa cái vội đón lấy đeo vào cho Từ, Từ cũng chắp tay nói tiếng dạ xoa tạ ơn.

Kế con vật ra khỏi hang, lướt gió đi nhanh như bay, cả bầy bèn ăn chỗ thịt còn lại rồi tan đi. Được hơn bốn năm, vợ Từ sinh ba, hai trai một gái, đều có hình người chứ không giống mẹ. Bầy dạ xoa đều rất thích ba đứa nhỏ, cùng vỗ về đùa giỡn với chúng. Một hôm cả hang đi vắng, chỉ còn một mình Từ, chợt một dạ xoa cái ở hang khác sang gạ gẫm, Từ không chịu, nó tức giận quật Từ xuống đất. Vợ Từ từ ngoài vào, nổi giận đánh nhau, cắn đứt tai nó. Giây lát con đực chồng nó về, gỡ ra đuổi nó đi, từ đó dạ xoa cái giữ rịt lấy Từ không rời. Lại ba năm sau, ba đứa trẻ biết đi, Từ dạy chúng tiếng người, dần dần biết nói, bập bẹ như người, tuy còn nhỏ nhưng trèo núi như đi trên đất bằng, khắng khít với Từ như cha con loài người.

Một hôm dạ xoa cái và một trai một gái ra ngoài, nửa ngày chưa về mà gió bấc thổi mạnh, Từ chạnh tình quê, dẫn con trai tới bờ biển. Thấy chiếc thuyền cũ vẫn còn, định cùng nhau trở về, đứa con định báo với mẹ, Từ ngăn lại. Hai cha con xuống thuyền, một ngày một đêm về tới Giao Châu, tới nhà thì vợ đã cải giá. Từ bán hai hạt châu được rất nhiều tiền, trong nhà dư dật. Đứa con lấy tên là Bưu, mười bốn mười lăm tuổi đã có thể nhấc nổi vật nặng trăm thạch, tính thô mãng thích đánh nhau. Viên Tổng súy đất Giao gặp lấy làm lạ, trao cho chức Thiên tổng. Gặp lúc có loạn ngoài biên, Bưu lập được công, năm mười tám tuổi được phong Phó tướng.

Lúc ấy có một lái buôn đi biển cũng bị gió bạt tới Ngọa My, vừa lên bờ thì gặp một thiếu niên, lấy làm kinh ngạc. Thiếu niên biết là người Trung Quốc liền tới hỏi han, người lái buôn nói rõ. Thiếu niên dẫn tới hẻm núi vắng, đưa vào một hang đá . nhỏ, bên ngoài toàn là cây cỏ gai góc, dặn chớ ra ngoài. Đi hồi lâu quay về đem thịt hươu cho người lái buôn ăn, nói cha mình cũng là người Giao Châu, người lái buôn hỏi ra thì là Từ, lúc đi buôn có biết nhau bèn nói "Ông ta là bạn ta, nay đứa con trai đang làm Phó tướng". Thiếu niên không hiểu Phó tướng là gì người ấy nói "Đó là chức quan ở Trung Quốc”. Thiếu niên lại hỏi quan là gì, người ấy đáp “Ra đường thì cưỡi ngựa đi xe, vào nhà thì ngồi trên sảnh đường, gọi một tiếng thì trăm người dạ, ai gặp cũng không dám nhìn thẳng, không dám đứng thẳng, như thế gọi là quan". Thiếu niên có vẻ thích lắm, người lái buôn nói "Tôn quân đã ở Giao Châu, sao còn chịu ở đây lâu thế?". Thiếu niên kể lại sự tình.

Người lái buôn khuyên nên về nam, thiếu niên nói "Ta cũng thường có ý ấy, song mẹ ta không phải là người Trung Quốc, vẻ người tiếng nói đều khác, vả lại nếu đồng loại mà biết sẽ làm hại nên còn chần chừ". Rồi đi ra, nói "Đợi gió bắc nổi ta sẽ đưa ông về, phiền ông tới báo cho cha anh ta biết tin". Người lái buôn ẩn trong hang gần nửa năm, có lần nhìn qua đám gai góc thấy dạ xoa qua lại bên ngoài sợ lắm, không dám động đậy. Một hôm gió bắc ù ù nổi, thiếu niên chợt tới, dẫn người lái buôn trốn ra, dặn "Đừng quên điều ta nhờ”, người lái buôn vâng dạ rồi về, tới Giao Châu vào ngay phủ Phó tướng kể lại những điều đã gặp. Bưu nghe chuyện chạnh lòng muốn đi tìm mẹ và em, cha lo biển khơi sóng gió, yêu vật hung dữ, nguy hiểm khó lòng nên hết sức ngăn cản. Bưu đấm ngực kêu khóc, cha phải cho đi.

Bưu tới trình với Tổng súy đất Giao, dẫn hai người lính ra biển. Thuyền bị gió ngược, trôi dạt trên biển nửa tháng, nhìn quanh chỉ thấy mênh mông trời nước không bờ, không phân biệt được phương hướng. Bỗng gặp con sóng to ngất trời, thuyền bị lật úp, Bưu rơi xuống biển bị sóng cuốn hồi lâu thì được một con vật kéo đi. Tới một nơi thấy có nhà cửa, nhìn thấy con vật ấy có hình dáng dạ xoa, bèn nói tiếng dạ xoa. Dạ xoa kinh ngạc hỏi han, Bưu nói rõ là mình định đi đâu, dạ xoa mừng rỡ nói "Ngọa My là quê cũ của ta, đường đột thế này thật có lỗi. Ông đã đi chệch đường tám ngàn dặm, đây là đường tới nước Độc Long, không phải lối đến Ngọa My". Rồi tìm thuyền đưa Bưu xuống, dạ xoa bơi dưới nước đẩy thuyền đi nhanh như tên bắn, chớp mắt đã vượt ngàn dặm, qua một đêm thì tới bờ bắc Ngọa My.

Thấy trên bờ có một thiếu niên quanh quẩn trông ngóng, Bưu biết trên núi không có loài người ở, ngờ đó là em, tới gần hỏi quả đúng. Hai anh em nắm tay nhau khóc, kế Bưu hỏi tin tức mẹ và em gái, em trai nói đều mạnh khỏe bình yên. Bưu muốn tới thăm, em trai ngăn lại, trời tối quay đi. Bưu trở ra cám ơn dạ xoa đưa mình tới thì nó đã đi mất. Không bao lâu mẹ và em gái cùng tới, vừa thấy Bưu đã khóc ròng. Bưu nói ý mình, mẹ dạ xoa buồn rầu bảo "Sợ đến sẽ bị người làm nhục". Bưu nói "Con ở Trung Quốc rất quý hiển, ai dám coi thường". Khi đã quyết ý về Giao Châu thì lại gặp gió ngược không đi được, mẹ con đang lúng túng thì cánh buồm xoay về phía nam kêu phần phật, Bưu mừng nói “Trời giúp ta rồi”. Mẹ con theo nhau lên thuyền, sóng xuôi gió thuận, thuyền đi như tên bắn, ba ngày thì tới Giao Châu, người trên bờ nhìn thấy đều bỏ chạy.

Bưu chia quần áo cho ba người, về tới nhà, mẹ dạ xoa thấy Từ thì giận dữ chửi mắng vì ra đi không bàn với mình, Từ phải xin lỗi mãi. Gia nhân tới chào chủ mẫu, người nào cũng run sợ. Bưu khuyên mẹ học nói tiếng Trung Quốc, cho mặc đẹp ăn ngon, mẹ dạ xoa dần dần vui vẻ yên lòng. Cả mẹ và con gái đều mặc nam trang, được vài tháng mẹ dần biết tiếng người, hai em thì trắng ra. Em trai đặt tên là Báo, em gái đặt tên là Dạ Nhi, đều rất khỏe mạnh. Bưu xấu hổ vì em không biết chữ, cho Báo học hành. Báo rất thông minh, kinh sử chỉ đọc qua là hiểu nhưng không muốn học văn, Bưu bèn cho tập cưỡi ngựa bắn cung, sau đỗ Tiến sĩ võ, lấy con gái viên Du kích họ A.

Dạ Nhi thì vì khác loài không ai lấy, sau có viên Thủ bị họ Viên dưới trướng Bưu góa vợ mới lấy gượng. Dạ Nhi có thể giương được cung cứng trăm thạch, ngoài trăm bước bắn trúng chim nhỏ, không sai một phát. Viên mỗi khi đánh dẹp thường đưa vợ cùng đi, dần làm tới chức Đồng tri tướng quân, một nửa công trạng là do vợ lập. Báo năm ba mươi tư tuổi được đeo ấn Tướng quân, mẹ cũng thường theo đi đánh dẹp phía nam, mỗi khi gặp đám giặc mạnh là mặc giáp cầm gươm tiếp ứng cho con, quân giặc trông thấy là sợ hãi lui chạy. Nhà vua xuống chiếu phong tước nam, Báo thay mẹ dâng sớ từ chối, được phong Phu nhân.

Dị Sử thị nói:Phu nhân dạ xoa là chuyện ngày nay ít nghe, nhưng nghĩ kỹ thì không ít đâu, trong phòng nhà nào cũng thường có dạ xoa đấy thôi.




095. Cướp Già



(Lão Hào)




Hình Đức người Trạch Châu (huyện Tấn Thành tỉnh Sơn Tây) là tay kiệt hiệt trong bọn lục lâm, có thể phát tên liên tiếp nhiều mũi, nổi tiếng là tuyệt kỹ, bình sinh phóng khoáng không để ý tới chuyện kiếm tiền, ra cửa mới nhìn lại túi. Các nhà buôn lớn ở hai kinh* đều thích đi chung với Hình vì dọc đường chắc chắn sẽ được yên ổn. Gặp lúc đầu mùa đông, có hai ba người khách buôn tới vay ít tiền rồi rủ Hình cùng đi, Hình cũng dốc túi góp vốn với họ. Bạn Hình có người bói giỏi, Hình tới hỏi, người bạn gieo quẻ rồi nói "Quẻ này rất xấu, làm gì cũng không những không có lời mà còn cụt vốn". Hình không vui, đã định thôi không đi nữa nhưng mấy người khách cứ ép lên đường ngay.




*Hai kinh: tức Trường An và Lạc Dương, hai trung tâm chính trị và kinh tế ở Trung Quốc thời cổ.




Tới kinh quả nhiên buôn bán thua lỗ, giữa tháng chạp Hình cưỡi ngựa rời kinh, tự nghĩ qua năm mới không có tiền, càng thêm phiền muộn. Lúc ấy là buổi sáng, hơi mù ngập đồng, Hình phóng nhanh tới một quán rượu cạnh đường, cởi hành lý gọi rượu. Thấy một ông già tóc bạc trắng ngồi cùng hai thiếu niên uống rượu chỗ của sổ phía bắc, có một đứa tiểu đồng đứng hầu, tóc xõa rối tung. Hình ngồi bàn phía nam, đối diện với ông già. Đứa tiểu đồng bưng rượu lỡ tay làm đổ mâm vấy cả thức ăn vào áo ông già, một thiếu niên tức giận đứng dậy kéo tai nó rồi lấy khăn lau áo cho ông già. Kế lại thấy trên cổ tay đứa tiểu đồng có đeo một chuỗi đạn sắt dày khoảng nửa tấc, mỗi viên nặng khoảng hơn hai lượng. Ăn uống xong ông già bảo thiếu niên lấy bọc tiền trong túi da đổ ra trên bàn, tính toán trả tiền xong còn đủ uống thêm mấy chén nữa, bèn cất trở vào.




Thiếu niên dắt một con ngựa đen buộc dưới tàu ra, đỡ ông già lên, đứa tiểu đồng cũng nhảy lên ngựa đi theo. Hai thiếu niên thì đều đeo cung tên trên lưng, thúc ngựa cùng ra. Hình nhìn trộm thấy họ có nhiều tiền, lại đang lúc túng quẫn, máu tham nổi lên vội trả tiền đuổi theo, thấy ông già và đứa tiểu đồng đang thủng thỉnh phía trước bèn rẽ xuống đường tắt phóng ngựa vòng lên chặn trước ông già, kéo căng dây cung chĩa thẳng tên trợn mắt hăm dọa. Ông già cúi xuống tháo chiếc giày bên chân trái ra cười khẽ nói "Người không biết lão cướp già này à?". Hình bắn thử một phát, ông già ngã người trên yên ngựa giơ chân lên lấy hai ngón cặp mũi tên rồi cười nói "Tài nghề chỉ có bấy nhiêu thì chưa đáng là địch thủ của cha ngươi đâu”. Hình nổi giận giở tuyệt kỹ ra, mũi trước vừa phát đi, mũi sau lại xé gió bay tới. Ông già vươn tay chụp được mũi trước nhưng dường như không đề phòng tên liên châu nên bị mũi sau bắn trúng miệng ngã lăn xuống ngựa, miệng ngậm tên, mắt trợn ngược, đứa tiểu đồng cũng vội xuống ngựa.




Hình mừng rỡ cho là ông ta đã chết bèn phóng tới gần, ông già phun mũi tên ra nhảy choàng dậy vỗ tay nói "Sao vừa gặp nhau đã giở độc thủ ra thế?”. Hình cả kinh, con ngựa cũng giật mình phóng đi, vì thế biết ông già là người lạ, không dám quay lại nữa. Đi được ba bốn mươi dặm thấy có một bọn gia nhân nhà quan chở đồ đạc về kinh, Hình đánh cướp luôn, tính ra được khoảng hơn ngàn vàng, lại bắt đầu hăng hái. Đang lúc phóng nhanh chợt nghe phía sau có tiếng vó ngựa, ngoảnh nhìn thì thấy đứa tiểu đồng đã thay con ngựa khác đuổi tới như bay, quát lớn "Thằng kia đừng chạy, số hàng vừa cướp được phải chia đôi". Hình hỏi "Ngươi có biết Liên châu tiễn Hình mỗ không?", nó đáp "Ta vừa được lãnh giáo rồi".




Hình nhìn bộ dạng nó không có gì là khỏe mạnh, lại không thấy có cung tên nên xem thường, phát luôn ba mũi tên liên châu nối nhau không dứt như bầy chim ào ạt bay ra. Đứa tiểu đồng không hề hoang mang, giơ tay bắt hai mũi, há miệng cắn một mũi rồi cười nói "Tài nghề như thế thì nhục nhã thật, cha ngươi đi gấp quá không kịp mang cung, vật này vô dụng, xin trả lại ngay", rồi rút chuỗi đạn sắt trên tay xỏ vào mũi tên lấy hết sức phóng trả. Mũi tên rít gió bay tới, Hình vội lấy dây cung gạt ra, vừa chạm vào chuỗi đạn sắt thì phựt một tiếng, dây cung đứt đôi, cánh cung cũng bị sứt một mảnh.




Hình khiếp đảm, chưa kịp bỏ chạy thì mũi kế lại lướt qua mang tai, bất giác ngã ngựa. Đứa tiểu đồng xuống ngựa tới túm lấy, Hình nằm dưới đất lấy cánh cung đánh trả. Đứa tiểu đồng tức giận giật cung bẻ làm đôi, lại chập đôi bẻ làm tư ném đi, rồi một tay nắm hai tay, một chân đạp lên hai đùi Hình, tay nắm chặt như dây trói, chân đạp nặng như đá đè, Hình hết sức vùng vẫy mà không sao nhúc nhích được. Trên lưng Hình có thắt sợi dây lưng dày hai lớp, rộng bằng ba ngón tay, đứa tiểu đồng lấy một tay giật ra, sợi dây theo tay đứt tả tơi như tro. Lấy hết tiền của Hình xong, nó nhảy lên ngựa giơ tay một cái, một tràng vó ngựa vừa vang lên thì người đã mất hút. Hình về tới nhà, sau đó trở nên lương thiện, thường kể lại cho người ta nghe chuyện ấy không hề lấy làm xấu hổ. Chuyện này cũng phảng phất như chuyện Lưu Đông Sơn*.




*Chuyện Lưu Đông Sơn: chưa rõ nội dung, nhưng bản Hương Cảng chú là chép trong Cửu thược tập của Tống ấu Thanh.





096. Cơ Sinh



(Cơ Sinh)




Nhà họ Ngạc ở Nam Dương (tỉnh thành Hà Nam) bị hồ quấy phá, tiền bạc đồ dùng cứ bị lấy trộm, chửi mắng thì càng phá phách thêm. Ngạc có cháu ngoại là Cơ sinh, là kẻ danh sĩ, tính vốn không chịu bị ràng buộc, cứ đốt hương khấn khứa năn nỉ thay Ngạc nhưng hồ không nghe. Lại khấn khứa xin tha cho nhà ông ngoại, bảo cứ về nhà mình mà phá phách, hồ cũng không chịu, người ta đều cười. Sinh nói “Hồ có thể biến hóa thì ắt biết suy nghĩ, nên ta cố dẫn dắt cho vào đường chính", cứ hai ba hôm lại khấn khứa một lần. Tuy vẫn không hiệu nghiệm nhưng cứ sinh tới thì hồ không phá phách gì nữa, vì vậy Ngạc thường giữ sinh ngủ lại.




Sinh đêm đêm cứ nhìn lên trời khấn khứa ngày càng thêm kiên tâm. Một hôm sinh về nhà, đang ngồi một mình trong phòng, chợt cửa phòng từ từ khép lại, sinh đứng lên kính cẩn nói “Hồ huynh tới đấy ư?”, nhưng không có tiếng động nào khác nữa. Một đêm cánh cổng tự mở ra, sinh nói "Nếu đúng là hồ huynh giáng lâm thì đó là vì tiểu sinh khấn khứa nài nỉ, ngại gì mà không cho gặp mặt?”, thì lại yên ắng, nhưng có hai trăm đồng tiền để ở đầu bàn, sáng ra nhìn tới đã mất rồi. Đến đêm sinh lại để thêm vài trăm đồng, giữa khuya nghe ngoài màn có tiếng động, sinh nói "Lại tới đấy ư? Có sẵn vài trăm đồng tiền để đó phòng khi huynh cần dùng, ta tuy không dư dả gì nhưng cũng chẳng phải loại keo kiệt, nếu huynh cần gấp để chi dùng cứ hỏi mà lấy có hề gì, cần chi phải lấy trộm?". Lát sau ra nhìn thấy chuỗi tiền bị rút mất hai trăm đồng, sinh vẫn để yên đó nhưng mấy đêm không bị mất nữa.




Có con gà luộc định đãi khách thì mất, tối đến sinh lại đặt thêm bầu rượu vào đó, nhưng từ đó hồ tuyệt tích luôn. Nhà họ Ngạc thì vẫn bị quấy phá như cũ, sinh qua khấn nói "Ta để tiền mà ông không cầm, để rượu mà ông không uống, còn ông ngoại ta già yếu, sao cứ quấy phá mãi thế? Ta có sắp sẵn vật mọn, đêm nay nhờ ông tới lấy giúp". Rồi lấy mười ngàn đồng tiền và một vò rượu gói lại đặt lên bàn, sinh nằm ngay bên cạnh nhưng cả đêm không thấy một tiếng động, tiền và rượu vẫn còn nguyên chỗ cũ, từ đó hết hẳn nạn hồ. Một hôm chiều tối sinh về nhà, mở cửa phòng sách thấy trên bàn có một bầu rượu, một đĩa thịt gà luộc và bốn trăm đồng tiền xâu bằng dây đỏ, là những món bị mất trước đây, biết là hồ đem tới.




Ngửi bầu rượu thấy thơm phức, rót ra thấy màu xanh biếc, uống vào vô cùng ngon ngọt, uống cạn bầu rượu thì hơi say, chợt nảy ý tham lam muốn đi ăn trộm bèn mở cổng bước ra. Nhớ lại trong thôn có một nhà giàu bèn tới đó nhảy qua tường, tuy tường cao nhưng nhảy lên rồi nhảy xuống nhẹ nhàng như có cánh, vào phòng xách luôn cái áo cừu, bưng cái đỉnh đồng trở ra quay về nhà đặt ở đầu giường rồi mới đi ngủ. Sáng ra cắp vào phòng vợ, vợ ngạc nhiên hỏi, sinh thì thào kể lại, dáng vui vẻ lắm. Vợ lúc đầu còn cho là sinh đùa, khi biết là thật hoảng sợ nói "Chàng vốn ngay thẳng, sao bỗng nhiên lại đi làm chuyện này?". Sinh thản nhiên không hề lấy làm lạ lùng, còn kể chuyện hồ có tình nghĩa. Vợ giật mình hiểu ra ắt là trong bình rượu có thuốc độc của hồ, nhân nghĩ đan sa có thể giải tà độc bèn lấy nghiền ra hòa vào rượu bảo sinh uống.




Giây lát chợt sinh rú lên nói “Tại sao ta lại đi ăn trộm?", vợ giải thích nguyên do, sinh thẫn thờ như mất của. Lại nghe nói nhà giàu bị trộm, cả làng đồn đại, sinh cả ngày bỏ ăn không biết làm sao, vợ bàn nhân đêm tối đem ném trả vào trong tường, sinh nghe theo. Nhà giàu lấy lại được vật bị mất, việc ấy mới lắng xuống. Sinh khảo khóa cuối năm đỗ đầu, lại được cử làm Chư sinh hạng ưu, theo lệ thì được thưởng gấp đôi. Đến ngày phát thưởng chợt trên xà nhà công thự có một tấm thiếp dán vào, trên viết "Cơ sinh là ăn trộm, lấy trộm áo cừu đỉnh đồng của ông Mỗ, sao lại được hạng ưu?". Xà nhà rất cao, không thể nhảy lên mà dán vào được, khảo quan lấy làm ngờ vực, cầm tấm thiếp hỏi sinh. Sinh ngạc nhiên, nghĩ việc này ngoài vợ ra thì không ai biết, huống hồ công thự canh gác nghiêm cẩn thì tấm thiếp từ đâu tới được, chợt sực nghĩ ra nói “Đây chắc là hồ làm ra". Rồi kể lại mọi việc không e ngại gì, khảo quan bèn thưởng thêm cho. Sinh vẫn tự nghĩ không làm gì nên tội với hồ, mấy lần mình sa hầm sẩy hang cũng chỉ là cái nhục của kẻ tiểu nhân, vì mình là kẻ tiểu nhân mà thôi.




Dị Sử thị nói:Cơ sinh muốn dẫn dắt kẻ tà đạo vào đường chính mà lại bị kẻ tà mê hoặc, chưa chắc là hồ đã có ác ý, có lẽ sinh đùa dẫn dắt thì hồ cũng đùa phá quấy thôi. Nhưng nếu thân không có túc căn, nhà không có vợ hiền, thì biết đâu lại chẳng như Nguyên Thiệp vẫn nói “Gia nhân, quả phụ vì trộm cắp nhơ danh rồi làm bậy luôn*”, sao! Ôi, đáng sợ thay!




*Nguyên Thiệp... làm bậy luôn: Tiền Hán thư, Du hiệp truyện chép Nguyên Thiệp làm Huyện lệnh Cốc Khẩu, tính ưa chiêu hiền đãi sĩ, có người môn khách nghèo bệnh chết, Thiệp tới tận nhà giúp đỡ tiền bạc tống táng chu đáo, lại thường chu cấp cho vợ con người ấy. Có người chê Thiệp bỏ tiền mua cái danh hào hiệp, Thiệp nói người ta ai cũng muốn làm đầy tớ trung thành, góa phụ trinh tiết, nhưng nếu trong nhà thiếu thốn phải trộm cắp nhơ danh thì sẽ làm bậy luôn, nên phải giúp đỡ cho họ giữ được tiếng trong sạch mà giữ lòng trong sạch.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 97 -
Tướng Quân Khỏe Mạnh



(Đại Lực Tướng Quân)

Tra Y Hoàng là người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tiết Thanh minh đi chơi, vào uống rượu trong một ngôi chùa hoang. Thấy trước điện phật có cái chuông cổ to bằng hai cái lu, trên dưới đầy vết tay bụi bặm còn mới, lấy làm ngờ vực bò xuống xem thì bên trong có cái giỏ tre đựng khoảng tám thăng, không biết chứa vật gì. Sai mấy người xúm lại nhấc lên mà không nổi, càng sợ bèn ngồi lại uống rượu chờ xem. Không bao lâu có một người ăn mày từ ngoài vào, đặt các thức cơm bánh xin được thành đống xuống cạnh chuông, một tay nhấc chuông lên, một tay bốc bỏ vào cái giỏ, mấy lượt như thế mới hết rồi đậy chuông lại bỏ đi. Lát sau trở lại bốc ăn, ăn xong lại đậy chuông lại, nhẹ nhàng như mở nắp rương, cả bọn đều sợ hãi. Tra hỏi "Anh là kẻ nam nhi, tại sao phải xin ăn?” người ấy đáp vì ăn khỏe quá nên không có ai thuê mướn. Tra thấy thế khuyên nên đầu quân, người ấy thở dài nói rằng không có người dẫn dắt.

Tra bèn dắt về nhà cho ăn uống, thấy ăn khỏe bằng năm sáu người. Lại may y phục cho, rồi tặng năm mươi đồng vàng làm lộ phí. Hơn mười năm sau, cháu của Tra làm Tri huyện ở đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), chợt có tướng quân Ngô Lục Nhất tới bái phỏng. Đang lúc chuyện trò, tướng quân hỏi Y Hoàng là người thế nào với ông, cháu Tra đáp “Đó là chú ta, quen biết tướng quân ở đâu?". Tướng quân nói "Đó là thầy ta, chia tay đã mười năm, lòng thường không quên, phiền ông nhắn với tiên sinh tới chơi một lần". Cháu Tra ậm ừ, tự nghĩ chú mình có tiếng văn chương, làm sao có được học trò theo nghề võ. Gặp lúc Y Hoàng tới, cháu kể lại, Y Hoàng quên bẵng không nhớ ra là ai nhưng thấy nói là thăm hỏi rất ân cần, lập tức sai đầy tớ dắt ngựa tới phủ tướng quân đưa danh thiếp xin yết kiến.

Tướng quân rảo bước ra đón tận ngoài cổng lớn, Tra thấy không hề quen biết, nghĩ thầm chắc là tướng quân lầm. Nhưng tướng quân tỏ vẻ rất cung kính, mời khách vào nhà, qua ba bốn lần cửa tới một chỗ có đàn bà con gái qua lại, Tra biết là nơi ăn ở của gia đình bèn dừng lại, tướng quân lại kéo đi. Giây lát lên một sảnh đường, những người cuốn rèm bưng ghế đều là tỳ thiếp trẻ đẹp. Tra vừa ngồi xuống, đang định hỏi thì tướng quân khẽ hất hàm, một người tỳ thiếp liền bưng mũ áo đại trào tới, tướng quân lập tức đứng dậy thay áo. Tra không biết tướng quân định làm gì thì các tỳ thiếp đều xắn tay áo, tướng quân sai mấy người xúm lại giữ chặt Tra ngồi yên không cho nhúc nhích rồi lạy phục xuống đất như ra mắt thiên tử vậy. Tra rất kinh ngạc không hiểu vì sao, tướng quân lạy xong lại vào thay áo ra ngồi, cười nói "Tiên sinh không nhớ thằng ăn mày nhấc cái chuông à?", Tra mới sực nhớ ra.

Kế đó mời lên thềm cao ăn yến, phường hát trong nhà ca múa ở dưới, lúc say rồi các tỳ thiếp xúm lại hầu hạ. Tướng quân vào trong bảo dọn giường cho Tra nghỉ rồi mới đi. Tra say rượu dậy muộn, tướng quân đã tới ngoài cửa phòng hỏi thăm mấy lần. Tra áy náy cáo từ muốn về, tướng quân sai đóng cổng lại không cho ra. Tra thấy tướng quân hàng ngày không làm gì khác, chỉ tính toán số tỳ thiếp và tôi tớ trong nhà, kiểm điểm xe ngựa, quần áo, vật dùng, bắt làm sổ sách, dặn không được để sót. Tra cho rằng đó là việc nhà của tướng quân nên cũng không hỏi gì.

Một hôm tướng quân cầm sổ sách tới nói với Tra “Kẻ bất tài này có được ngày hôm nay là nhờ ơn lớn của tiên sinh, một người một vật cũng không dám riêng tư, xin kính dâng tiên sinh một nửa”. Tra ngạc nhiên từ chối, tướng quân không nghe, đem tiền bạc ra có đến mấy vạn chia làm hai phần, kế theo sổ sách đem từ đồ cổ ngoạn tới bàn ghế giường tủ ra bày la liệt từ trong tới ngoài. Tra cố từ chối nhưng tướng quân không để ý gì tới, kê biên tên họ tôi tớ tỳ thiếp xong, lập tức ra lệnh đàn ông lo thu thập hành lý, đàn bà lo thu thập tư trang, dặn phải kính cẩn thờ phụng tiên sinh, mọi người dạ rân. Lại đích thân đưa các tỳ thiếp lên kiệu, sai bọn mã phu dắt lừa ngựa rầm rộ ra đi rồi quay lại chào Tra. Về sau Tra vướng vào cái án làm sử* bị bắt, sau cùng được tha đều là nhờ sức tướng quân.

*Cái án làm sử: xem chú thích đoạn Phụ lục.

Dị Sử thị nói:Ban ơn mà không hỏi gì tới tên họ, đúng là bậc trượng phu hào hiệp thời cổ. Mà tướng quân báo đáp cũng khẳng khái hào sảng, ngàn năm ít thấy, bụng dạ như thế thì ắt không thể chết già nơi ngòi rãnh. Xem đó đủ biết hai bậc hiền tài gặp nhau không phải là ngẫu nhiên đâu.

Phụ Lục: Một Truyện Trong Cô Thặng Tuyết Cấu
(Phụ Lục Cô Thặng Tuyết Cấu Nhât Tắc)

Hiếu Liêm họ Tra ở huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang tự Y Hoàng là người tài hoa tiêu sái, thường nói “Mắt thấy mênh mông, không sao gặp gỡ hết các bậc kỳ kiệt trong thiên hạ, nếu không tìm trong đám người thường thì không được". Cuối năm ở nhà, sai lấy rượu ra độc ẩm, khoảnh khắc mây mù giăng mắc, tuyết rơi mờ mịt, bèn đi dạo ra cổng xem có khách quý nào tới để cùng ngâm cảnh. Chợt thấy một người ăn mày tránh tuyết nép dưới vòm cổng, hiên ngang đứng thẳng, Hiếu liêm đứng nhìn hồi lâu thầm lấy làm lạ.

Nhân gọi vào ngồi, hỏi "Ta nghe nói trong chợ có một người ăn mày tay không cầm gậy, miệng như ngậm tăm, áo rách hở bụng mà không có vẻ đói rét, mọi người đều gọi là Thiết cái (ăn mày sắt), có phải là ngươi không?", người ấy đáp “Phải”. Lại hỏi “Uống rượu được không?”, người ấy đáp “Được Hiếu liêm bèn sai tiều đồng lấy chỗ rượu thừa trong bầu trút vào tô cho y uống, người ăn mày bưng tô uống một hơi hết sạch. Hiếu liêm thích quá lại sai quạt than hâm rượu, hẹn với y rằng “Ngươi uống một tô thì ta uống một chung, hết chỗ rượu này thì thôi” Người ăn mày uống liền hơn ba mươi tô mà mặt chưa đỏ, còn Hiếu liêm đã say nằm lăn ra chiếu. Tiểu đồng xốc nách dìu vào nhà trong, người ăn mày đứng lên, lại bước ra đứng dưới vòm cổng. Đến sáng tuyết ngừng rơi, Hiếu liêm tỉnh rượu nói với gia nhân rằng "Đêm qua ta cùng Thiết cái đối ẩm vui quá, thấy quần áo y rách rưới, lấy gì chống rét cho được, lấy cái áo bông của ta đem cho y". Người ăn mày khoác áo rồi đi, cũng không xin vào tạ ơn chủ nhân.

Năm sau Hiếu liêm tới ngụ trong chùa Tường Minh ở Hàng Châu (tỉnh thành chiết Giang), lúc cuối xuân cùng bạn bè mang rượu đi chơi trên hồ. Chợt gặp người ăn mày ấy ở đình Phóng Hạc (tại Cô Sơn ở Tây Hồ), áo hở khuỷu tay, chân trần không dép ngẩng đầu đi một mình, bèn kéo về chùa, hỏi cái áo cho ngày trước đâu? Y đáp "Đang là tiết xuân, dùng nó làm gì? Ta đã bán lấy tiền gởi cả vào quán rượu rồi". Hiếu liêm nghe thế lấy làm lạ, nhân hỏi đã từng học chữ chưa, y đáp "Nếu không học chữ đọc sách thì đã không làm ăn mày". Hiếu liêm chạnh lòng, cho tắm rửa ăn mặc sạch sẽ rồi hỏi tên họ quê quán, người ăn mày nói "Ta là hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình*, nhà ở Việt Hải (tỉnh Quảng Đông), tên là Lục Kỳ.

*Hậu duệ Diên Lăng, hâm mộ Trần Bình: nguyên văn là "Hệ xuất Diên Lăng, tâm nghĩa Khúc Nghịch”. Diên Lăng là địa danh thuộc huyện Vũ Tiến tỉnh Giang Tô, là nơi ở của Ngô Quý Trát thời Xuân thu, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình họ Ngô. Khúc Nghịch tức Khúc Nghịch hầu, tước phong của Trần Bình, một trong Hán triều tam kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, ba khai quốc công thần bậc nhất của nhà Hán, đây nhân vật Lục Kỳ có ý nói mình có hoài bão lớn lao.

Chỉ vì cha anh mất sớm, tính lại ưa cờ bạc nên tới nỗi lưu lạc giang hồ, trôi nổi như thế này. Nhân nghĩ gõ cửa xin ăn thì người hiền ngày xưa có khi cũng không tránh được, ta là hạng người nào mà dám cho đó là cái nhục, không nghĩ rằng gặp được minh công coi trọng kẻ phong trần, ra ơn lúc gặp gỡ. Ta tuy không phải kẻ thiếu niên ở Hoài âm* nhưng cái ơn một bữa cơm cũng đâu dám quên?". Hiếu liêm vội đứng dậy nắm tay y nói "Ngô sinh vốn là bậc kỳ kiệt trên đời mà ta lại coi là bạn rượu, để mất Ngô sinh rồi". Bèn sai sư trong chùa mua một thạch rượu Lê hoa xuân uống với nhau trọn ngày, giữ lại cả tháng rồi tặng tiền đi đường, bảo về Việt Đông.

*Thiếu Hoài âm: tức Hàn Tín, người huyện Hoài âm, Phá Sở Nguyên nhung của Hán Cao tổ Lưu Bang, là người cầm quân đánh bại Tây Sở Bá vương Hạng Vũ, kết thúc cục diện Hán Sở tranh hùng. Lúc Hàn Tín còn hàn vi ra câu cá ở bờ sông, được một bà già giặt vải (Phiếu mẫu) cho ăn cơm suốt cả tháng. Sau Tín lập nên công nghiệp, đem ngàn lượng vàng về tạ ơn bà.

Lục Kỳ nhiều đời ở Triều Châu (tỉnh Quảng Đông), từng học Thi Thư nhưng vì say mê cờ bạc mà gia tài khánh tận, gởi thân làm phu trạm nên đường đi cửa ải hình thế hiểm trở ra sao đều biết rất rõ. Lúc ấy thiên hạ vừa định*, vương sư từ Chiết Giang tiến vào Quảng Đông, chiến thuyền liên tiếp nối nhau, cờ xí đỏ rực chiêng trống ầm ầm suốt mấy trăm dặm không dứt, qua các thành ấp quận huyện cư dân đều chạy trốn về thôn xóm, trên đường không một bóng người.

*Thiên hạ vừa định: chỉ lúc nhà Thanh đã đàn áp được nhiều phong trào phản Thanh phục Minh, bắt đầu khẳng định được quyền thống trị ở Trung Hoa.

Lục Kỳ một mình thản nhiên đi tới bị đội tiền tiêu bắt giải về dưới trướng, nhân đó xin ra mắt chủ tướng, thưa rõ về hình thế đất Việt Trung (tỉnh Quảng Đông), nói có thể truyền hịch mà bình định. Kỳ có ba mươi anh em kết nghĩa, vốn có tiếng anh hùng giỏi võ, chỉ vì thiên hạ vô chủ nên tụ tập bè đảng chiếm cứ đất đai làm cướp. Nay gặp lúc Hoàng thượng lên ngôi, thiên binh nam chinh, chính là lúc cứu vớt dân đen, sử dụng hào kiệt, bèn cho Kỳ đem ba mươi tờ văn thư phong chức đi trước chia cấp cho quần hùng, người gần ra hàng, người xa hưởng ứng, chưa đầy một tháng đã hình thành cái thế phá giặc như chẻ tre.
Chủ tướng theo lời Lục Kỳ, đất Việt bèn yên. Từ đó Lục Kỳ bày mưu tính kế, nói gì trúng đó, những kẻ có sức khỏe cũng không chống được, đánh đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) phá đất Thục (tỉnh Tứ Xuyên) nhiều lần lập kỳ công, trong vòng vài năm được thăng tới chức Thông tỉnh Thủy lục Đề đốc. Lúc Lục Kỳ lưu lạc chưa gặp thời, tự nghĩ rằng mình phải làm ăn mày hèn hạ suốt đời, gặp được Tra Hiếu liêm cởi áo tặng vàng, lại nổi tiếng là bậc kỳ kiệt trong thiên hạ nên trong lòng mừng rỡ hăng hái, trong quân ngũ ra sức lập công, dần làm tới bậc nguyên nhung, thường nói "Thiên hạ có một người tri kỷ, không ai được như Tra Hiếu liêm".

Đầu niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mở phủ Đề đốc ở Tuần Châu (tỉnh Quảng Đông), lập tức sai nha tướng đem ba ngàn lượng vàng về để sẵn trong nhà rồi gửi thư mời Tra Hiếu liên tới đất Việt, chuẩn bị đầy đủ thuyền bè xe kiệu. Tra vừa qua Mai Lĩnh thì Ngô công tử đã đón đường vái lạy đón rước, giữ lễ rất mực cung kính, còn cách tỉnh thành hai mười dặm thì Ngô tự ra đón, đem nghi vệ dẫn đường như bậc vương hầu. Hiếu liêm về tới phủ thì Ngô phục lạy dập đầu, tự nói "Thằng ăn mày hèn hạ ngày xưa nếu không gặp được tiên sinh thì làm gì có ngày hôm nay. Nay may được tỉên sinh quá bộ tới chơi, dẫu nát thân ăn mày này cũng không đủ báo ơn”.

Tra ở đó một năm, Ngô tuy việc quân bận rộn nhưng ai được Tra tiên sinh nói giúp một lời thì Ngô lập tức nghe theo, nhờ vậy Tra được người ta biếu xén có tới hàng vạn lượng vàng. Đến khi Tra về, Ngô đem ba ngàn lượng vàng ra tiễn tặng, nói “Không dám nói là đền ơn, chỉ là để ghi lại lòng cảm kích của kẻ thiếu niên ở Hoài âm mà thôi". Trước là ở Thiều Trung (tỉnh Chiết Giang) có nhà giàu Trang Đình Việt mua được bộ sử của Chu Tướng quốc, tìm mời các danh sĩ vùng Tam Ngô (Tô Châu, Nhuận Châu, Hồ Châu) san định tu sửa, khắc in lưu truyền. Đầu sách có kể ra mười mấy ngườitham gia san định, vì Tra Hiếu liêm là bậc danh sĩ nên cũng kể vào. Không bao lâu cái án làm sử riêng* phát ra, ai dính líu đều bị khép trọng tội. Ngô ra sức tâu bày nên Tra Hiếu liêm mới thoát chết.

*Cái án làm sử riêng: tức vụ án Minh thư tập lược nổi tiếng thời Thanh. Trang Đình Long người Hồ Châu mua được bản thảo bộ Minh sử của tướng quốc nhà Minh Chu Quốc Trinh bèn dựa vào đó biên soạn thêm, mời nhiều danh sĩ Giang Nam san định bình chú, đặt tên sách là Minh thư tập lược, khắc bản lưu hành. Vì trong sách có dùng niên hiệu các vua nhà Minh, lời lẽ cũng nhiều chỗ động chạm tới nhà Thanh, nên gây ra vụ án lớn, có đến hàng trăm danh sĩ bị bắt, những người in sách bán sách mua sách cũng bị liên lụy, hàng vạn người tan cửa nát nhà náo động một thời.

Hiếu liêm từ đó về sau càng thả tình ở thơ rượu, dốc hết tiền bạc mua mười hai người con gái xinh đẹp dạy cho múa hát. Mỗi lúc đêm thanh mở tiệc thì buông rèm thắp đèn ca múa, châu ngọc khua ran, mỹ nữ yêu kiều, ai nhìn thấy cũng phải ngây ngất. Phu nhân của Hiếu liêm cũng giỏi âm luật, thường đích thân ra gõ phách cho đám ca kỹ trong nhà múa hát, sửa cho những chỗ sai, vì vậy phường nữ nhạc của họ Tra nổi tiếng nhất ở vùng Chiết Trung.

Trước kia lúc Hiếu liêm ở mạc phủ Quảng Đông thấy vườn hoa trong phủ cực đẹp, trong có một tòa giả sơn bằng đá thạch anh cao hơn hai trượng, lóng lánh đẹp đẽ như là quỷ thần tạc ra, rất ưa thích bèn đề cho hai chữ "Xu Vân" (Mây the). Qua tuần sau lại ra xem thì tòa giả sơn không còn, té ra Ngô đã sai lấy thuyền lớn chở về nhà Hiếu liêm, qua sông lên núi tốn phí tới hàng ngàn quan tiền. Nay Hiếu liêm đã chết, ca kỹ đã già, vườn hoang ao cạn mà tòa giả sơn vẫn còn.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển VI - 98 - 99
Lưu Hải Thạch
(Lưu Hải Thạch)

Lưu Hải Thạch người huyện Bồ Đài (tỉnh Sơn Đông), tránh loạn tới ở Tân Châu (thuộc tỉnh Cát Lâm). Năm ấy mười bốn tuổi học cùng thầy với người học trò ở Tân Châu là Lưu Thương Khách, nhân chơi thân với nhau nên kết nghĩa anh em. Không bao lâu cha mẹ Hải Thạch mất, Hải Thạch mang hài cốt về quê, từ đó bặt tin. Thương Khách nhà khá giả, đến năm bốn mươi tuổi có hai con trai, con trưởng là Cát, mười bảy tuổi đã là danh sĩ trong huyện, con thứ cũng thông minh. Thương Khách lại nộp sính lễ cưới con gái nhà họ Nghê trong huyện, rất yêu dấu. Nửa năm sau con trưởng đau óc rồi chết, vợ chồng đều buồn rầu. Không bao lâu vợ lại mắc bệnh chết, vài tháng sau con dâu trưởng cũng chết, rồi tôi tớ cũng nối nhau chết, Thương Khách vô cùng thương xót đau buồn.

Một hôm đang ngồi buồn bã chợt người giữ cổng vào báo là Hải Thạch tới, Thương Khách mừng rỡ vội ra cổng đón vào. Đang định hỏi thăm sức khỏe, chợt Hải Thạch kinh ngạc nói "Anh có cái tai vạ chết sạch cả nhà mà không biết sao?", Thương Khách ngạc nhiên không hiểu ý tứ. Hải Thạch nói “Lâu quá không có tin tức, vẫn thầm nghĩ gần đây anh không được vui". Thương Khách sa nước mắt kể lại mọi chuyện, Hải Thạch than thở hồi lâu rồi cười nói “Tai ương chưa hết, lúc nãy là phúng điếu cho anh, nhưng may là anh gặp được ta, vậy xin chúc mừng anh". Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp chắc anh học được nghề thuốc giỏi lắm phải không?”. Hải Thạch đáp “Chuyện đó thì không phải sở trường, nhưng những môn coi đất xem nhà thì có học".

Thương Khách mừng rỡ xin xem nhà cho, Hải Thạch bèn vào trong xem khắp trước sau, kế xin cho gặp mặt hết mọi người trong nhà. Thương Khảch theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thê thiếp gia nhân tới sảnh đường, Hải Thạch nhìn kỹ từng người, tới họ Nghê thì ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy cô gái họ Nghê run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn hơn hai thước. Hải Thạch lấy thước đánh vào đầu, nghe leng keng như gõ vào đá. Hải Thạch nắm tóc cô ta xem sau gáy, thấy có mấy cọng lông trắng, toan nhổ thì cô gái rụt cổ quỳ xương kêu khóc xin tha đừng nhổ. Hải Thạch giận dữ nói “Ngươi chưa bỏ hết lòng hung ác à?", rồi nhổ cả ra, cô gái lập tức biến thành con vật đen như con mèo mun, mọi người cả sợ.

Hải Thạch tóm lấy bỏ vào tay áo, quay lại nhìn con dâu thứ của Thương Khách nói “Cháu bị ngấm chất độc đã nhiều, trên lưng ắt có sự lạ, xin cho ta xem”. Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai Lưu phải ép vén lên, thấy trên lưng có sợi lông trắng dài khoảng bốn đất tay. Hải Thạch lấy trâm khều ra, nói "Sợi lông này đã mọc lâu rồi, chỉ bảy ngày nữa ắt không sao cứu được". Lại xem tới lưng con trai Lưu thì cũng có sợi lông trắng nhưng chỉ mới dài khoảng hai đốt tay, bèn nói “Thế này thì hơn một tháng sẽ chết". Rồi xem khắp từ Thương Khách tới gia nhân, khều ra hết cho, nói "Nếu ta không tới, thì chắc cả nhà không ai sống nổi". Lưu hỏi đó là con gì, Hải Thạch đáp "Cũng là hồ thôi, nhưng hút tinh khí người ta để tu luyện, chuyên làm chết người”.

Thương Khách hỏi "Lâu quá không gặp ông, sao lại có phép thuật thần diệu như vậy, hay đã thành tiên rồi ư?”. Hải Thạch cười đáp "Chỉ là theo thầy học chút thuật mọn thôi, đâu đáng nói là tiên?". Hỏi thầy là ai, Hải Thạch đáp "Là Sơn Thạch đạo nhân. Con vật này thì ta không thể giết, định sẽ mang về nộp cho thầy". Nói xong cáo từ, xem lại thấy trong tay áo trống không giật mình nói "Nó chạy mất rồi, ở cuối đuôi còn sợi lông lớn chưa nhổ nên nó trốn được". Mọi người đều hoảng sợ, Hải Thạch nói "Nó đã bị nhổ hết lông trên cổ thì không thể biến ra hình người nữa, chỉ có thể biến thành thú, chắc chưa chạy xa đâu". Bèn vào phòng xem xét lũ mèo, lại ra cổng tắc lưỡi gọi chó, đều nói là không có.

Tới mở cửa chuồng heo xem thì cười nói “Nó đây rồi". Thương Khách nhìn, thấy trong chuồng dư ra một con heo, nghe tiếng Hải Thạch cười thì nằm mọp xuống không dám động đậy. Hải Thạch nắm tai kéo ra, thấy ở chót đuôi có một sợi lông trắng cứng như cây kim, đang định nhổ thì con heo giãy giụa kêu khóc không cho nhổ. Hải Thạch nói “Ngươi làm ác đã nhiều mà bị nhổ một sợi lông cũng không muốn à?". Rồi nhổ luôn ra, con heo lập tức biến thành chồn, Hải Thạch bỏ vào tay áo định đi luôn, Thương Khách giữ mãi mới ở lại ăn một bữa cơm. Hỏi khi nào lại gặp nhau, Hải Thạch đáp "Chuyện đó khó biết trước, nhưng thầy ta có lời nguyền nên thường sai bọn ta ngao du khắp nơi cứu giúp cho người ta, cũng có thể sẽ gặp lại". Sau khi chia tay, Thương Khách nhớ lại tên đạo nhân mới sực hiểu, nói "Hải Thạch thành tiên rồi". Chữ sơn và chữ thạch hơp lại thành chữ Nham, chính là tên húy của tiên ông Lữ Động Tân.


099. Ngọn Đèn Chó
(Khuyển Đăng)

Nhà Quang lộc tự khanh Hàn Đại Thiên có người đầy tớ đêm ngủ ngoài hè, thấy trên lầu có ánh đèn như sao sáng. Không bao lâu ánh đèn lập lòe rơi xuống, tới đất thì biến thành con chó, hé mắt nhìn thấy nó đi vòng ra sau nhà. Vội vùng dậy lẻn theo xem, vào tới trong vườn thấy biến thành cô gái, biết là hồ bèn quay lại chỗ ngủ. Lát sau cô gái từ sau nhà tới, y vờ ngủ để chờ xem sao, cô gái bèn tới nằm đè lên. Y làm ra vẻ vừa tỉnh ngủ, hỏi là ai. Cô gái không đáp, y nói “ánh đèn trên lầu là nàng đấy phải không?". Cô gái đáp “Đã biết rồi còn hỏi làm gì”, rồi ngủ với nhau. Từ đó cứ sáng đi khuya tới, dần dần thành lệ.

Chủ nhân biết được, sai hai người đầy tớ khác cùng tới ngủ kèm, nhưng cứ khi họ tỉnh dậy thì thấy mình đã nằm dưới đất, cũng không biết rơi khỏi giường lúc nào. Chủ nhân càng tức giận, nói với người đầy tớ “Lúc nào nó tới thì phải bắt đem tới đây, nếu không thì ăn đòn”. Người đầy tớ không dám nói gì, dạ dạ lui ra, nhưng nghĩ bắt cô ta rất khó, mà không bắt thì sợ bị tội trăn trở không biết làm sao. Chợt nhớ ra cô gái có chiếc áo lót mình màu đỏ, thường mặc sát vào người chưa lần nào cởi ra, ắt đó là chỗ yếu hại, có thể nắm lấy nó để uy hiếp.

Nửa đêm cô gái tới, hỏi "Chủ nhân dặn anh bắt ta phải không?”, y đáp "Đúng là có chuyện đó, nhưng hai ta ân tình thắm thiết, nỡ nào ta chịu?". Kế đó cùng lên giường, y lén cởi chiếc áo lót, cô gái vội kêu lên, giãy giụa vùng ra chạy mất, từ đó biệt tăm luôn. Sau người đầy tớ từ nơi khác về, xa xa nhìn thấy cô gái ngồi cạnh đường, tới gần thì nàng lấy tay áo che mặt. Y xuống ngựa gọi rồi hỏi "Sao lại làm thế?”. Cô gái đứng dậy cầm tay y nói "Ta vẫn cho là chàng đã quên tình cũ, nay thấy có ý quyến luyến cố nhân thì có thể tha thứ. Chuyện trước đây là theo lệnh chủ nhân, cũng không trách chàng được. Nhưng duyên phận đã hết, nay có bữa tiệc nhỏ xin mời vào uống để chia tay”.

Lúc ấy đang đầu mùa thu, lúa mì đang tốt, cô gái dắt y chui vào đám ruộng, thấy bên trong có một tòa phủ đệ lớn. Y buộc ngựa rồi vào, thấy trong sảnh đường đã bày đầy rượu thịt, ngồi vào bàn thì đám tỳ nữ liên tiếp đưa thức ăn lên. Mặt trời sắp lặn, người đầy tớ có việc phải về báo với chủ nhân bèn chia tay. Khi trở ra thấy vẫn là ruộng lúa mì như cũ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 100 -
Liên Thành
(Liên Thành)

Kiều sinh người huyện Tấn Ninh (tỉnh Vân Nam), thuở trẻ rất nổi tiếng. Năm hơn hai mươi tuổi tính gan dạ, chơi thân với Cố sinh, khi Cố mất thường chu cấp cho vợ con Cố. Quan huyện lấy văn chương cùng sinh giao du thân mật, kế mất tại chức, gia đình nấn ná mãi không về được, sinh bỏ hết gia tài ra đưa linh cữu về quê quán, khứ hồi hơn hai ngàn dặm, vì thế sĩ lâm càng trọng, nhưng từ đó nhà cửa ngày càng sa sút. Hiếu liêm họ Sử có con gái tên Liên Thành, giỏi thêu thùa, lại biết chữ nên Hiếu liêm rất thương yêu, đem bức tranh Thiếu nữ ngồi thêu mỏi mệt của nàng thêu ra cho các văn sĩ thiếu niên đề vịnh, ý muốn qua đó kén rể. Sinh hiến bài thơ như sau:

Dung hoàn cao kết lục bà sa,
Tảo hướng lan song tú bích hà
Thích đáo uyên ương hồn dục đoạn
Ám đình châm tiễn kiển song nga

(Tóc xanh cao búi dáng thơ ngây
Sáng tới song thêu cảnh ráng mây
Thêu tới uyên ương hồn tựa đứt
Lén ngừng kim chỉ khẽ chau mày
Lại một bàì khen nàng thêu khéo rằng:
Tú tiễn khiêu lai tự tả sinh,
Bức trung hoa điểu tự thiên thành
Đương niên chức cẩm phi trường kỹ
Hạnh bả hồi văn cảm thánh minh

(Thêu như sống thật thấy tài chưa?
Hoa điểu trời xanh há kém thua
Hơn hẳn năm xưa người dệt gấm
Hồi văn may được cảm lòng vua)*

*Tranh gấm... lòng vua: theo Trữ tình thi, đời Đường Vũ tông nàng họ Hầu có chồng là Trương Thấu làm tướng ra đồn thú ở biên cương mười năm không được về, nàng bèn thêu bài thơ hồi văn theo hình con rùa (tức bài thơ mà các dòng chữ đan chéo vào nhau trở đi trở lại tạo ra các ô hình quả trám giống mai rùa, chỗ nhô ra giống đầu rùa là chỗ bắt đầu bài thơ), tới cửa khuyết dâng lên Vũ tông, vua cảm động bèn cho Trương Thấu về.

Cô gái được thơ mừng lắm, trước mặt cha cứ khen sinh nức nở, nhưng cha chê sinh nghèo. Nàng gặp ai cũng ca ngợi sinh, lại sai bà vú giả vâng lệnh cha đem tiền tặng giúp sinh học hành. Sinh than rằng "Liên Thành là tri kỷ của ta", từ đó trong lòng luôn mơ tưởng như kẻ khát muốn uống nước. Kế Sử Hiếu liêm nhận hứa gả nàng cho con nhà buôn muối Vương Hóa Thành, sinh mới tuyệt vọng, nhưng mộng hồn vẫn còn tơ tưởng.

Ít lâu sau, nàng mắc bệnh nặng nằm liệt giường, có nhà sư Tây Vực nói mình có thể chữa được, nhưng phải có một đồng cân thịt ở ngực đàn ông để trộn thuốc. Sử sai người tới nhà họ Vương nói với con rể, con rể cười nói “Ông già ngây đòi cắt thịt ở ngực ta sao?". Người ấy về kể lại, Sử tức giận nói với mọi người rằng ai có thể cắt thịt cứu con gái thì sẽ gả nàng luôn cho. Sinh nghe tin tới nhà Sử, tự cầm đao bén cắt thịt trước ngực trao cho nhà sư máu ướt đẫm cả áo, nhà sư rịt thuốc cho mới hết. Nhà sư trộn thịt với thuốc thành ba viên cho uống trong ba ngày, cô gái liền khỏi bệnh. Sử định làm theo lời hứa, nhưng trước tiên cho họ Vương biết, Vương nổi giận định kiện. Sử bèn làm tiệc mời sinh, bày ngàn vàng trên án, nói “Mang ơn rất nặng, xin được báo đáp", rồi nói rõ lý do nuốt lời. Sinh không vui, nói "Ta sở dĩ không tiếc miếng thịt trên ngực là để báo đáp người tri kỷ chứ có bán thịt đâu”, rồi phẩy tay áo bỏ về.

Cô gái nghe thấy trong lòng không nỡ, nhờ bà vú tới an ủi, lại nói "Tài hoa như chàng chắc không phải khổ lâu, lo gì trên đời thiếu giai nhân. Ta thường nằm mơ thấy điềm không lành, ba năm nữa ắt chết, chàng không cần tranh giành con người sắp chết này". Sinh nói với bà vú "Kẻ sĩ chết cho người biết mình chứ không vì sắc đẹp. Ta sợ Liên Thành chưa thật biết ta, chứ nếu nàng biết thật thì không lấy nhau cũng có hề gì". Bà vú thay nàng thề thốt bày tỏ lòng thành, sinh nói “Nếu đúng thế thì lúc nào gặp nhau, chỉ cần nàng cười với ta một cái thì dù chết cũng không ân hận gì", bà vú bèn trở về. Mấy hôm sau sinh tình cờ ra đường, gặp cô gái từ nhà chú về, đưa mắt liếc sinh nhoẻn miệng cười. Sinh cả mừng nói "Liên Thành quả thật biết ta".

Gặp lúc họ Vương qua bàn chọn ngày đón dâu, bệnh cũ của cô gái lại phát, vài tháng thì chết. Sinh tới viếng tang, đau lòng gào lớn một tiếng rồi chết luôn. Sử cho khiêng về nhà, sinh tự biết mình đã chết nhưng cũng không buồn bã gì, cứ đi ra khỏi thôn, muốn gặp Liên Thành một lần. Xa thấy trên đường phía tây bắc người đi nườm nượp như kiến, sinh trà trộn chen lẫn vào đó. Giây lát vào một dinh thự gặp ngay Cố sinh. Cố kinh ngạc hỏi "Sao ông lại tới đây?", rồi lập tức cầm tay sinh định dắt về. Sinh thở dài nói tâm nguyện còn chưa xong, Cố nói “Ta coi sổ sách ở đây cũng được tín nhiệm, nếu giúp đỡ đỡ gì thật không dám tiếc". Sinh hỏi Liên Thành, Cố lập tức dẫn đi, qua mấy nơi thì thấy Liên Thành cùng một nữ lang áo trắng đang buồn bã ngồi ở góc hành lang.

Nàng thấy sinh tới đứng bật dậy như rất mừng rỡ, hỏi sao tới đây. Sinh đáp "Nàng chết, ta đâu dám sống". Liên Thành khóc nói “Kẻ phụ nghĩa thế này còn không phỉ nhổ bỏ đi, chết theo làm gì? Nhưng đã lỗi hẹn với chàng kiếp này, thề kiếp sau sẽ báo đáp". Sinh nói với Cố “Ông có việc xin cứ đi, ta vui sướng được chết chứ không thích sống nữa, nhưng phiền ông tra lại sổ sách xem Liên Thành thác sinh ở đâu để ta đi theo”, Cố gật đầu rồi đi. Nữ lang áo trắng hỏi sinh là ai, Liên Thành kể lại, nữ lang nghe xong như cũng ngậm ngùi. Liên Thành nói với sinh "Nàng này cùng họ với thiếp, tên Tân Nương, con gái quan Thái thú Trường Sa, cùng đi một đường tới đây nên rất thương yêu nhau”. Sinh liếc thấy nàng có vẻ dễ thương, đang định hỏi rõ hơn thì Cố đã quay lại nhìn sinh chúc mừng "Ta đã lo liệu cho ông xong rồi, nương tử đây nay được theo ông hoàn hồn, được chứ?".

Hai người cùng mừng rỡ, đang định từ biệt thì Tân Nương khóc lớn nói “Chị đi thì em biết về đâu? Xin rủ lòng thương xót cứu cho em được theo hầu”. Liên Thành thương xót nhưng không biết làm sao, quay qua bàn với sinh, sinh lại năn nỉ Cố. Cố tỏ vẻ khó khăn, nói là không được, sinh năn nỉ mãi bèn nói "Để ta thử làm bừa xem sao" rồi đi. Khoảng ăn xong bữa cơm thì quay lại xua tay nói "Biết mà, thật là vạn phần không sao giúp được". Tân Nương nghe thế nghẹn ngào khóc lóc, cứ nép vào Liên Thành chỉ sợ nàng đi mất, buồn bã không biết làm sao, chỉ nhìn nhau im lặng, nét mặt thê thảm khiến người ngoài cũng phải mủi lòng. Cố sinh phát phẫn nói “Thôi ông cứ đưa Tân Nương theo, nếu chẳng may có chuyện gì tiểu sinh xin chịu hết", Tân Nương mới mừng rỡ theo sinh ra. Sinh lo cho nàng đường xa không có ai đi cùng, Tân Nương nói "Thiếp đi theo chàng chứ không muốn về nhà". Sinh nói "Nàng ngây quá, không về thì làm sao sống lại được. Ngày khác ta tới Hồ Nam, xin đừng lánh mặt là may rồi".

Vừa lúc có hai bà già nhận trát tới Tràng Sa, sinh gởi Tân Nương theo, Tân Nương khóc từ biệt lên đường. Trên đường về Liên Thành đi rất chậm, cứ hơn dặm lại nghỉ, nghỉ hơn mười lần mới thấy cổng làng. Liên Thành nói "Sau khi sống lại e lại có chuyện lật lọng, xin cứ đòi lấy xác thiếp, thiếp sống lại ở nhà chàng mới không phải ăn năn về sau”, sinh cho là đúng. Bèn cùng nhau về nhà sinh, cô gái run rẩy như không đi nổi, sinh phải đứng lại chờ. Nàng nói "Thiếp tới đây thấy chân tay run rẩy như không tự chủ được, e không được toại nguyện, phải bàn bạc thật kỹ, nếu không thì sau khi sống lại làm sao theo ý mình được?". Hai người cùng vào gian phòng cạnh nơi quàn quan tài, im lặng một lúc thì Liên Thành cười hỏi "Chàng có ghét thiếp không?”. Sinh ngạc nhiên hỏi sao nói thế, nàng thẹn thùng đáp “Sợ việc không xong thì lại phụ chàng lần nữa, xin lấy hồn báo đáp chàng trước". Sinh mừng rỡ, cùng nàng giao hoan hết sức đằm thắm, vì vậy lưu luyến không rời, ở cùng nhau luôn ba ngày. Liên Thành nói "Lời ngạn có câu Nàng dâu có xấu cũng phải ra mắt cha mẹ chồng, cứ bịn rịn ở đây không phải là kế lâu dài”, rồi nàng giục sinh vào nhập hồn, vừa tới cạnh quan tài thì sinh giật mình sống dậy.

Người nhà kinh ngạc lấy nước cháo đổ cho, sinh bèn sai người mời Sử tới, xin cho được đem xác Liên Thành về, nói là có thể làm cho nàng sống lại. Sử mừng rỡ theo lời, vừa khiêng nàng tới nhà sinh, nhìn lại thì đã sống lại. Nàng nói với cha rằng "Con đã trao thân cho Kiều lang, không có lý nào trở về, nếu có chuyện gì thay đổi thì chỉ có chết mà thôi", Sử về sai tớ gái qua hầu hạ nàng. Họ Vương nghe tin làm đơn kiện, quan ăn hối lộ xử bắt nàng về lại nhà Vương. Sinh phẫn hận muốn chết, nhưng cũng không biết làm sao. Liên Thành tới nhà Vương, phẫn uất bỏ ăn uống, chỉ mong chết ngay, cứ lúc vắng người là treo cổ lên xà nhà. Qua hôm sau bệnh càng nặng, hơi thở thoi thóp, Vương sợ đưa nàng về nhà Sử, Sử lại cho khiêng về nhà sinh, Vương biết nhưng đành phải bỏ đó.

Liên Thành khỏi bệnh, thường nhớ Tân Nương, muốn gởi thư thăm hỏi nhưng vì đường xa đi lại khó khăn. Một hôm gia nhân vào thưa ngoài cổng có xe ngựa khách lạ, vợ chồng chạy ra xem thì Tân Nưong đã vào tới sân, gặp nhau vừa mừng vừa tủi. Quan Thái thú đích thân đưa con gái tới, sinh mời vào nhà. Thái thú nói “Tiểu nữ nhờ ông mà được sống lại, thề không lấy ai khác, hôm nay ta làm theo ý nó", sinh bèn vái lạy theo lễ con rể cha vợ. Sử Hiếu liêm cũng tới ba nhà đoàn tụ rất vui vẻ. Sinh tên Niên, tự Đại Niên.

Dị Sử thị nói:Một nụ cười mà biết nhau, đem thân theo về, người đời có kẻ cho là ngây, nhưng như thế thì chẳng lẽ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Điền Hoành* đều ngu cả sao? Đó là bởi người biết mình rất ít nên lấy làm quý, bậc hào kiệt vì thế mà cảm động không thể làm chủ được. Ngoảnh nhìn bốn biển mênh mang, những bậc anh tài đều xiêu lòng vì một cái cười của người đẹp thôi, nghĩ đáng buồn thay.

*Năm trăm... Điền Hoành: Điền Hoành là tướng nước Tề thời Hán Sở tranh hùng. Khi tướng Hán là Hàn Tín đánh bại quân Tề, Điền Hoành hết sức chống cự không được bèn dẫn năm trăm tráng sĩ dưới quyền ra hải đảo sống, nhất định không chịu theo Hán. Sau Lưu Bang đánh bại được Hạng Vũ, sợ Điền Hoành gây loạn bèn sai người ra ép Hoành về kinh. Hoành tới nơi không chịu đầu hàng, Lưu Bang sai giết, kế lại sai người ra chiêu dụ năm trăm tráng sĩ dưới quyền Hoành. Năm trăm người nghe tin Hoành chết đều lần lượt đâm cổ tự tử, nhất định không theo nhà Hán.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 101 - 102 -
Uông Sĩ Tú (Uông Sĩ Tú)

Uông Sĩ Tú người đất Lô Châu (huyện Hợp Phì tỉnh An Huy), tính gan dạ khỏe mạnh, có thể nhấc được cái cối đá. Cha con đều giỏi đá cầu, năm cha hơn bốn mươi tuổi qua sông Tiền Đường bị chết đuối. Tám chín năm sau, Uông có việc đi Hồ Nam, đêm đậu thuyền trên hồ Động Đình. Lúc ấy trăng rằm mọc ở phía đông, mặt nước phẳng lặng như tấm lụa. Uông đang ngắm cảnh chợt có năm người dưới hồ nhô lên, cắp theo chiếc chiếu to trải lên mặt hồ, rộng chừng nửa mẫu, rồi lăng xăng bày rượu thịt, cốc chén va nhau thành tiếng nhưng không vang như tiếng sành sứ. Bày xong, ba người ngồi xuống, hai người hầu rượu.

Trong ba người ngồi có một mặc áo vàng, hai mặc áo trắng, đều đội khăn đen cao vót, phía dưới liền luôn với vai áo, kiểu dáng rất kỳ lạ nhưng ánh trăng chập chờn không sao nhìn rõ. Hai người hầu đều mặc áo đen, một người tựa tiểu đồng, một người tựa ông già. Chỉ nghe người áo vàng nói "Đêm nay trăng đẹp quá, phải uống thật say” Người áo trắng nói "Phong cảnh đêm nay giống hệt hôm Quảng Lợi vương thết tiệc ở đảo Lê Hoa". Ba người chuốc rượu lẫn nhau, uống rất ngon lành nhưng nói hơi khẽ nên không nghe thấy gì nữa. Người lái thuyền nép mình, không dám thở mạnh. Uông nhìn kỹ người hầu già thấy rất giống cha nhưng nghe giọng nói lại không phải. Sắp hết canh hai, chợt một người nói "Nhân lúc trăng sáng thế này, nên đá cầu một lúc cho vui". Lập tức thấy đứa tiểu đồng nhảy xuống nước mang lên một vật hình tròn to đầy một ôm, bên trong như chứa thủy ngân, trong ngoài sáng quắc. Ba người ngồi đứng cả dậy, người áo vàng gọi ông già cùng đá, quả cầu bay cao hơn trượng, lấp loáng chói mắt. Chợt nghe "bình" một tiếng, quả cầu bay ra xa lọt vào thuyền.

Uông ngứa nghề lấy hết sức đá trả, thấy mềm nhẹ lạ thường. Cú đá mạnh như phá vỡ, quả cầu vọt lên gần một trượng, chất sáng bên trong bắn ra rót xuống như cầu vồng rồi rơi mau xuống, quả cầu cũng như ngôi sao chổi lao thẳng xuống nước, kêu ùng ục rồi mất tăm. Mấy người trên tiệc đều nổi giận nói “Thằng tục tử nào làm bọn ta mất hứng thế?” Người hầu già cười nói “Không kém không kém, đó là ngón Quặt sao băng của nhà ta đấy” Người áo trắng bực giọng bỡn cọt ấy, túc giận nói “Ta đang bực mình, thằng hầu già lại dám đùa hả? Mau cùng thằng nhỏ qua bắt tên ngông cuồng lại đây, không thì đầu gối sẽ được ăn chùy đấy". Uông thấy không còn chỗ nào trốn được nên cũng không sợ nữa, xách đao ra đứng giữa thuyền.

Thấy ông già và đứa tiểu đồng cầm binh khí tới, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội gọi lớn "Cha ơi! Con đây mà!". Ông già cả sợ nhìn con buồn thảm, đứa tiểu đồng thấy vậy quay về ngay. Ông già nói "Con trốn ngay đi, nếu không thì chết cả hai cha con bây giờ”. Chưa dứt lời thì cả ba người kia đã lên tới trên thuyền, người nào cũng mặt mũi đen sì, mắt to hơn trái lựu, túm lấy ông già lôi đi. Uông cố sức giằng lại, thuyền chòng chành đứt cả dây neo. Uông dùng đao chém vào tay họ, một cánh tay rơi xuống, người áo vàng bỏ chạy. Một người áo trắng sấn vào Uông, Uông chém sả vào đầu, y rơi tõm xuống nước, cả bọn biến mất. Uông định giong thuyền đi luôn trong đêm thì thấy có cái mõm to nhô lên mặt nước, sâu rộng như cái giếng, nước hồ bốn bên rót vào, réo lên ào ào. Lát sau nó phun nước ra, sóng cao tận sao trời, hàng vạn chiếc thuyền cùng chòng chành, người trên hồ đều khiếp đảm.

Trên thuyền có hai cái trống đá đều nặng cả trăm cân, Uông nhấc một cái ném xuống đánh ầm như sét, sóng nước êm dần, ném luôn cái nữa thì sóng gió tắt hết. Uông ngờ cha là ma, ông già nói “Số ta chưa chết, mười chín người cùng đắm thuyền đều bị yêu quái ăn thịt, ta nhờ biết đá cầu nên được toàn tính mạng. Bọn yêu đắc tội với Long quân sông Tiền Đường nên trốn qua hồ Động Đình này, cả ba đều là cá thành tinh, quả cầu kia là bong bóng cá". Cha con vui mừng, đang đêm chèo thuyền đi ngay. Trời sáng thấy trong thuyền có cái vây cá đường kính tới bốn năm thước, chợt nghĩ ra đó là cánh tay chặt đứt được đêm qua.


102. Tiểu Nhị
(Tiểu Nhị)

Triệu Vượng người huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông), vợ chồng đều thờ Phật, không ăn mặn, người trong vùng xếp vào hạng thiện nhân. Nhà cũng khá giả, có một con gái tên là Tiểu Nhị rất thông minh xinh đẹp, Triệu rất thương yêu. Năm nàng sáu tuổi, được cho theo anh là Trường Xuân cùng đi học, qua năm năm thì thuộc làu cả Ngũ kinh. Có Đinh sinh là bạn học, lớn hơn ba tuổi, dáng người nho nhã phong lưu rất say mê nàng, nói với mẹ tới cầu hôn với họ Triệu, nhưng Triệu muốn gả nàng cho nhà đại gia nên chối từ. Không bao lâu Triệu bị Bạch Liên giáo mê hoặc, khi Từ Hồng Nho làm phản, cả nhà đều theo giặc.

Tiểu Nhị học giỏi thông minh, phàm những phép thuật cắt giấy làm quân, rải đậu làm ngựa cho qua là hiểu ngay. Có sáu cô gái nhỏ theo làm đồ đệ của Từ thì nàng giỏi nhất, nhờ vậy họa được hết phép thuật của Từ. Triệu nhờ có con gái như vậy nên được Từ trọng dụng. Năm ấy Đinh mười tám tuổi, đã vào học trường huyện nhưng không chịu cưới vợ vì không quên Triệu Nhị, bèn ngầm trốn đi tới xin làm quan của Từ. Cô gái gặp Đinh rất mừng rỡ, đối xử trọng hậu khác hẳn người thường. Cô gái vì là học trò giỏi của Từ, được coi sóc việc cơ nên đi đêm về hôm cha mẹ cũng không ngăn cấm được. Đêm nào nàng cũng gặp Đinh, thường đuổi hết những người hầu đi, đến canh ba mới về.

Đinh nói riêng với nàng rằng "Tiểu sinh tới đây, nàng có biết ý mọn là gì không?", cô gái đáp không biết. Đinh đáp "Ta không phải muốn cầu danh vị, sở dĩ tới đây thật ra cũng vì nàng mà thôi. Bọn tả đạo chẳng làm được chuyện gì đâu, chỉ chuốc lấy diệt vong thôi, nàng là người thông tuệ mà không nghĩ tới điều đó sao? Nếu trốn đi với ta, thì quyết không phụ nhau”. Cô gái sực nghĩ ra, chợt như tỉnh mộng, nói “Bỏ cha mẹ mà đi thì bất nghĩa, xin để ta nói với hai người đã". Rồi vào trình bày lợi hại, Triệu không nghe, nói "Thầy ta là bậc thần nhân, há lại lầm lẫn sao?”. Nàng biết không thể can ngăn, bèn búi tóc lại lấy ra hai con diều bằng giấy rồi cùng Đinh mỗi người cưỡi lên một con, diều vỗ cánh phành phạch như gọi nhau rồi sát cánh bay lên. Đến sáng tới địa giới huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông), nàng lấy ngón tay búng vào cổ diều, hai con diều xếp cánh hạ xuống. Cô gái cất diều đi, lấy ra hai cỗ lừa rồi cùng tới làng Sơn âm, nói thác là người chạy loạn, thuê nhà ở lại đó.

Hai người vội vã ra đi nên không mang theo bao nhiêu tiền bạc, củi nước không đủ, Đinh rất lo lắng, nhưng hỏi láng giềng chẳng ai chịu cho vay mượn. Cô gái lại không hề tỏ vẻ lo buồn, cứ cầm bán vòng xuyến, đóng cửa ở yên với nhau. Đêm đến vặn nhỏ đèn ngồi nhớ lại những sách đã học. Láng giềng bên tây họ Ông, là kẻ kiệt hiệt trong bọn lục lâm, một hôm về nhà, cô gái nói "Có láng giềng như thế ta còn lo gì nữa. Hãy mượn ngàn vàng, liệu y cho không?”. Đinh cho là khó, cô gái nói “Ta sẽ bắt y tình nguyện đưa chứ”. Rồi cắt giấy làm hình Phán quan âm ty đặt dưới đất, lấy cái lồng gà úp lên rồi kéo Đinh lên giường hâm rượu uống.

Lấy sách Chu lễ làm tửu lệnh, cứ nói quyển ấy trang nào dòng nào rồi cùng mở ra xem, ai được chữ có bộ thực (ăn), bộ thủy (nước), bộ dậu (như chữ tửu) thì phải uống, được chữ tửu (rượu) thì phải uống gấp đôi. Kế cô gái được chữ tửu, Đinh lấy chén lớn rót đầy rượu bắt uống ngay, nàng bèn khấn “Nếu mượn được vàng về thì chàng phải được bộ ẩm”. Đinh giở sách được chữ miết (ba ba), cô gái cười lớn nói “Chàng được chữ miết, phải uống say như con ba ba". Đang tranh cãi ầm lên chợt nghe trong cái lồng gà có tiếng lạch cạch, cô gái bước xuống nói “Tới rồi", rồi mở ra xem thì thấy vàng nén chất đống, Đinh vô cùng kinh ngạc mừng rỡ. Về sau bà vú nhà họ Ông bế trẻ qua chơi, nói vụng rằng “Chủ nhân vừa về tới nhà, đang đốt đèn ngồi chợt mặt đất xé ra sâu không biết là bao nhiêu, có một vị Phán quan từ dưới bước lên nói ‘Ta là sai dịch dưới âm ty. Thái Sơn Đế quân hội các ty tào ở âm phủ làm quyển sách ghi chép tội ác của bọn trộm cướp, làm một ngàn ngọn đèn mỗi ngọn nặng mười lượng vàng, người nào cúng một trăm ngọn thì dược xóa hết tội lỗi’. Chủ ta sợ quá thắp hương khấn khứa rồi cúng một ngàn lượng vàng. Phán quan cầm lấy bước xuống dưới, mặt đất lại khép lại”. Hai vợ chồng nghe thế cố ý tặc lưỡi tỏ vẻ kinh ngạc.

Từ đó dần dần mua trâu ngựa, nuôi đầy tớ, xây nhà cửa. Bọn vô lại trong làng thấy giàu có bèn họp đảng nhân đêm tới đánh cướp nhà Đinh. Vợ chồng Đinh vừa tỉnh giấc thì thấy đèn đuốc sáng rực, bọn cướp đã đứng đầy trong nhà. Hai tên bắt lấy Đinh, lại một tên khác thò tay vào bụng cô gái, cô gái vùng ra chỉ tay quát "Đứng im", tất cả mười ba tên cướp đều trợn mắt đớ lưỡi đứng sững ra như tượng gỗ. Cô gái mới mặc áo bước xuống giường gọi gia nhân, trói cả bọn lại hỏi cung rõ ràng xong bèn nói "Người ở phương xa tới nương náu, lẽ ra phải giúp đỡ, sao lại bất nhân như thế? Người ta ai cũng có lúc này lúc khác, các ngươi cùng quẫn thì cứ nói rõ, ta há lại nỡ giàu có đủ ăn một mình sao? Cái thói sài lang lẽ ra phải giết hết, nhưng ta không nỡ, hãy tạm tha cho một lần, nếu tái phạm sẽ không tha đâu”, bọn cướp dập đầu lạy tạ rồi đi.

Không bao lâu Từ Hồng Nho bị bắt, vợ chồng và con trai họ Triệu đều bị chém, sinh bỏ tiền tới xin chuộc đứa con nhỏ của Trường Xuân mang về. Đứa nhỏ lúc ấy ba tuổi, Đinh nuôi nấng như con ruột, cho lấy họ Đinh, đặt tên là Thừa Triệu, từ đó người làng dần dần biết nó là hậu duệ của Bạch Liên giáo. Gặp lúc có cào cào phá lúa, cô gái lấy giấy cắt làm mấy trăm con ó thả trên ruộng, cào cào đều tránh xa không dám vào ruộng nhà, nhờ thế không bị tổn hại gì. Người làng đều ghen ghét kéo nhau lên thưa quan rằng nàng là dư đảng của Từ Hồng Nho, quan thấy nhà Đinh giàu cũng muốn làm tiền, bèn bắt Đinh. Đinh đem nhiều tiền lo lót với quan mới được thả. Cô gái nói "Lui tới buôn bán là kế tạm bợ, thế nào cũng bị tổn thất, mà đây là nơi làng xóm rắn rết, không thể ở lâu được”. Nhân bán hết cơ nghiệp dời đi, tới ở ngoài cửa Tây huyện thành.

Cô gái là người lanh lợi khéo léo, giỏi buôn bán, làm ăn còn hơn cả đàn ông. Mở xưởng làm đồ pha lê, chỉ vẽ cho thợ cách làm, hàng làm ra đều tinh xảo đẹp đẽ những xưởng khác không sao bằng được, vì vậy bán giá cao mà vẫn chạy. Được vài năm càng thêm giàu có, nhưng cô gái đốc thúc tôi tớ rất nghiêm, nhà có hàng trăm người ăn nhưng không ai dám lười biếng. Lúc rảnh thường cùng Đinh pha trà đánh cờ hoặc đọc sách làm vui. Từ tiền gạo thu chi cho tới công việc tôi tớ cứ năm ngày lại xem xét một lần, cô gái cầm thẻ, Đinh thì ghi sổ, đọc rõ từng việc. Người siêng năng thì thưởng theo thứ bậc, người lười biếng thì đánh roi bắt quỳ, ngày hôm ấy thì không làm việc ban đêm, vợ chồng dọn rượu thịt gọi gia nhân vào ăn uống hò hát làm vui.

Cô gái xét việc sáng suốt như thần, mọi người không ai dám lừa dối nhưng nàng thường công xứng đáng nên công việc đều trót lọt. Trong làng có hơn hai trăm nhà, nhà nào nghèo thì giúp vốn cho làm ăn, nhờ thế vùng ấy không có ai lười biếng rong chơi. Gặp lúc đại hạn, nàng bảo người trong thôn đắp đàn ngoài ruộng, đang đêm ngồi kiệu ra đó lên đàn làm phép đảo vũ, lập tức mưa ngọt đổ xuống, trong năm dặm đều ngập bàn chân, mọi người càng cho là thần. Cô gái ra ngoài ít khi che mặt, người trong làng đều nhìn thấy, có bọn thiếu niên tụ tập bàn vụng rằng nàng đẹp nhưng khi gặp nàng đều kính cẩn không dám nhìn thẳng mặt. Cứ tới mùa thu lại cho tiền bọn trẻ con chưa đủ sức làm ruộng trong thôn thuê cắt cỏ đồ tô, qua hai mươi năm chất đống đầy trong nhà, người ta trộm chê cười. Gặp lúc Sơn Đông đói kém, người ta phải ăn thịt nhau, cô gái đem cỏ nấu cháo cấp cho kẻ đói, các thôn chung quanh đều nhờ vào đó mà sống, không ai phải bỏ đi.

Dị Sử thị nói:Những điều Tiểu Nhị làm đều là nhờ sức trời chứ không phải là sức người làm được. Nhưng nếu không có một lời nói của Đinh sinh làm cho tỉnh ngộ, thì đã chết lâu rồi. Từ đó mà xem thì những người ôm cái tài phi thường trên đời song lầm lẫn nhập đảng với bọn xấu mà chết chắc cũng không ít. Biết đâu trong sáu người bạn cùng học với Tiểu Nhị cũng có người như nàng, khiến người ta phải hận vì họ không gặp được người như Đinh sinh vậy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 103 - 104 -
Canh Nương
(Canh Nương)

Kim Đại Dụng là con nhà thế gia cũ ở Trung Châu (tỉnh Hà Nam), cưới con gái quan Thái thú họ Vưu tên Canh Nương, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Vì có bọn giặc nổi loạn, mọi người đều bỏ nhà tìm nơi trốn tránh, Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng dắt vợ chạy loạn, tự nói là Vương Thập Bát ở đất Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), tình nguyện dẫn đường. Kim vui mừng, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau. Tới Hà Thượng, Canh Nương nói thầm với chồng “Đừng đi chung thuyền với người này. Yđã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường", Kim ưng thuận.

Nhưng Vương đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp, rất là sốt sắng nên Kim không nỡ từ chối để đi riêng. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Vương cùng ngồi với Canh Nương trong thuyền, thấy ý tứ cũng hiền hậu dịu dàng, Vương thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu. Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Kim nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Vương mời cha con Kim ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Kim xuống sông. Cha Kim nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Kim nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Vương mới kêu cứu. Lúc mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã rình thấy mọi việc, kế nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói “Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?".

Vương vào thuyền khuyên "Nương tử đừng lo, xin theo ta về Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại". Nàng nín khóc nói "Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi", Vương cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Vương bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói "Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra". Vương đánh vợ, vợ la lớn "Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người". Vương tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Vương kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi.

Không bao lâu tới Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Vương nói “Vợ con chết đuối, mới lấy người này”. Về tới phòng riêng, Vương lại muốn giở trò này nọ, Canh Nương cười nói “Đàn ông ngót ba chục tuổi mà còn chưa biết xử sự. Cho dù là mua tỳ thiếp thì đêm thành thân cũng phải có chén rượu nhạt, nhà anh giàu có thì chuyện ấy cũng không khó, chứ lặng ngắt nhìn nhau thì còn ra thể thống gì?”. Vương mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Canh Nương nâng chén mời rất ân cần. Vương dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Vương không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Canh Nương dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Vương. Vương còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Canh Nương ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Vương không chết ngay, rú lên vùng dậy, nàng bồi thêm nhát nữa mới chết.

Mẹ Vương nghe có tiếng chạy qua hỏi, nàng cũng giết nốt. Em trai Vương là Thập Cửu biết chuyện chạy tới, Canh Nương tự biết không thoát được vội tự tử nhưng lưỡi dao đã cùn không cứa sâu được, vội mở cửa bỏ chạy. Thập Cửu đuổi tới thì nàng đã nhảy xuống ao rồi. Thập Cửu gọi láng giềng cứu lên thì nàng đã chết nhưng dung mạo vẫn tươi đẹp như khi còn sống. Mọi người cùng vào xem xác Vương, thấy có bức thư trên cửa sổ, mở ra xem thì là thư của nàng kể rõ sự oan khổ, đều cho rằng nàng trinh liệt, bàn nhau góp tiền chôn cất. Sáng ra có mấy ngàn người tới xem, nhìn thấy dung mạo nàng đều vái lạy. Trọn ngày thì quyên được trăm lượng vàng, chôn nàng ở phía nam thành, những kẻ hiếu sự còn đem mão ngọc áo bào liệm cho nàng, xây mộ rất to cao.

Lúc trước Kim sinh rơi xuống sông bám được tấm ván trôi trên sông nên không chết, chiều hôm sau trôi tới Hoài Thượng thì gặp một chiếc thuyền nhỏ vớt lên. Thuyền này là của nhà phú hộ họ Doãn đặt trên sông để cứu người chết đuối, Kim tỉnh lại rồi bèn tới tạ ơn ông Doãn, ông đối xử rất tử tế, giữ Kim ở lại nhờ dạy con mình học. Kim không rõ cha mẹ sống chết ra sao, đang còn ngần ngại chưa quyết thì có người tới thưa ông Doãn rằng vừa vớt được xác hai ông bà già. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy tới nhìn mặt quả đúng. Ông Doãn sắm quan tài chôn cất cho, sinh đang đau đón khóc lóc, lại nghe báo vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim sinh. Kim giật mình gạt lệ ra xem thì người đàn bà đã tới, không phải Canh Nương mà là vợ Vương Thập Bát. Nàng nhìn Kim khóc lớn, nói xin đừng bỏ nhau. Kim nói “Ta đang lúc lòng dạ rối bời, còn rảnh đâu mà lo cho vợ người khác?”, nàng càng đau xót. Doãn hỏi rõ đầu đuôi, mừng là đạo trời báo ứng, khuyên Kim lấy nàng làm vợ. Kim chối từ nói đang có tang, vả lại đang định báo thù cho cha mẹ, sợ nàng yếu ớt sẽ bị liên lụy. Nàng nói "Nói như chàng thì giả như Canh Nương còn sống chàng cũng vì việc cư tang và báo thù mà bỏ hay sao?”. Doãn khen lời ấy, xin tạm thu dưỡng nàng thay, Kim mới ưng thuận. Hôm chôn cất cha mẹ Kim nàng cũng mặc tang phục khóc lóc như là cha mẹ chồng thật.

Chôn cất xong, Kim định giắt dao đeo bị xin ăn tìm tới Quảng Lăng, nàng ngăn lại nói "Thiếp họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với gã lang sói ấy, lúc trước y nói ở Quảng Lăng là dối trá. Vã lại bọn thủy khấu chốn sông hồ có một nửa là đồng đảng của y, coi chừng thù không trả được mà rước vạ vào thân”. Kim ngần ngừ không biết tính sao, chợt có tin đồn về chuyện cô gái giết chết kẻ thù, khắp một vùng sông hồ đều xôn xao, nói rõ ràng cả tên họ. Kim nghe được một phen hả dạ nhưng càng đau đớn, chối từ không lấy Đường thị, nói "May mà ta không bị mang nhục, nhưng trong nhà có người vợ trinh liệt như thế thì đâu nỡ phụ lòng mà cưới vợ nữa”. Đường thị nói đã bàn bạc thành chuyện rồi, không chịu giữa đường chia tay, nguyện làm nàng hầu vợ lẽ.

Gặp lúc có Phó Tướng quân họ Viên quen biết Doãn, nhân lên đường phó nhiệm ở miền tây ghé thăm, gặp Kim rất thích, mời theo làm Ký thất. Không bao lâu sau giặc cướp nổi loạn phạm vào kinh đô, Viên đánh dẹp lập công lớn, Kim cũng tham dự việc quân cơ, được bảo cư phong chức Du kích trở về, lúc ấy vợ chồng mới làm lễ thành thân. Vài hôm sau Kim dắt vợ đi Kim Lăng viếng mộ Canh Nương, ngang huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) định lên Kim Sơn ngắm cảnh. Đang xuôi dòng chợt có chiếc thuyền đi ngược chiều, trong có một bà già và một thiếu phụ, ngạc nhiên vì thấy thiếu phụ rất giống Canh Nương. Thuyền Kim lướt mau qua, thiếu phụ nhô ra cửa sổ nhìn Kim, càng thấy thần thái giống nàng. Kim kinh ngạc ngờ vực không dám đuổi theo hỏi, vội gọi lớn “Nhìn lũ vịt con đang bay trên trời kìa” Thiếu phụ nghe thấy cũng lớn tiếng gọi "Chó con lại muốn ăn thịt mèo sao?", đó là lời nói lóng của vợ chồng vẫn đùa nhau trong phòng riêng ngày xưa.

Kim giật mình cho quay chèo đuổi theo, tới gần thì quả là Canh Nương. Con hầu đỡ Canh Nương qua thuyền Kim, vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, người trên thuyền đều thương cảm. Đường thị lấy lễ vợ thiếp chào Canh Nương, Canh Nương ngạc nhiên hỏi, Kim bèn kể lại mọi chuyện. Canh Nương cầm tay Đường thị nói "Trò chuyện một lần với nhau trên thuyền, lòng vẫn không quên, không ngờ nay lại được Hồ Việt một nhà. Đội ơn thay mặt chôn cất cha mẹ chồng, lẽ ra ta phải tạ ơn trước, sao lại làm lễ với nhau như thế?”. Bèn so tuổi tác Đường thị kém một tuổi nên làm em.

Trước là canh Nương đã được chôn cất, cũng không tự biết đã bao lâu, chợt nghe có người gọi nói "Canh Nương, chồng ngươi không chết đâu, rồi vợ chồng sẽ được sum họp”, liền thấy như vừa tỉnh mộng. Sờ thấy bốn phía đều là vách tường, mới hiểu ra rằng mình chết đi đã được chôn, nhưng chỉ thấy hơi buồn bực chứ cũng không có gì khổ sở. Có bọn thiếu niên bất lương biết nàng có nhiều vật tùy táng quý giá bèn đào mộ phá quan tài, đang định tìm tòi nhặt nhạnh thì thấy Canh Nương vẫn còn sống, cả bọn đều khiếp đảm. Canh Nương sợ chúng làm hại nên năn nỉ, nói "May có các ông tới nên ta lại được nhìn thấy mặt trời, bao nhiêu trâm vòng xin cứ lấy hết, xin đem bán ta cho chùa làm ni cô thì có thể cũng được thêm ít nhiều, ta không nói lộ ra với ai đâu"
Bọn trộm dập đầu nói "Nương tử trinh liệt, thần người đều khâm phục. Bọn tiểu nhân chẳng qua vì nghèo túng hết cách sống mà phải làm việc bất nhân này, chỉ cần nương tử không nói lộ ra là may lắm rồi, chứ đâu dám bán nương tử làm ni cô". Canh Nương đáp "Đó là tự ta muốn mà”. Một tên nói "Cảnh phu nhân ở Trấn Giang góa chồng mà không có con, nếu gặp được nương tử ắt là mừng lắm". Canh Nương tạ ơn rồi tự tháo hết các vật châu báu trang sức ra đưa, bọn trộm không dám nhận. Nàng cố ép, cả bọn cùng lạy tạ nhận lấy rồi chở nàng đi. Tới nhà Cảnh phu nhân, họ nói thác rằng nàng bị gió bạt thuyền lạc tới đây. Cảnh phu nhân nhà giàu có mà lớn tuổi góa chồng vò võ một mình, gặp Canh Nương cả mừng, coi như con đẻ, hôm ấy là hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về. Canh Nương kể hết đầu đuôi xong, Kim bèn qua thuyền lạy mẹ. Phu nhân tiếp đãi như con rể, mời tới nhà chơi mấy ngày mới cho về từ đó vợ chồng qua lại nhà bà luôn luôn.

Dị Sử thị nói:Trước biến cố lớn, kẻ dâm thì cầu sống mà người trinh thì thà chết, kẻ sống thì khiến người ta xốn mắt, người chết thì khiến người ta rơi lệ vậy. Đến như cười nói không sợ, vung đao báo thù thì các bậc trượng phu nghĩa liệt ngàn xưa cũng có mấy người sánh được? Ai nói đàn bà con gái không thể theo kịp bậc anh hùng.







104. Cung Mộng Bật



(Cung Mộng Bật)




Liễu Phương Hoa người Bảo Định (tỉnh thành Hà Bắc), giàu có nhất vùng, tính phóng khoáng hiếu khách, trên tiệc thường có hàng trăm người. Giúp người nguy cấp thì ngàn vàng cũng không tiếc, bạn bè khách khứa vay mượn không trả là thường. Liễu chỉ có một người khách tên Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây là không hề nhờ vả xin xỏ gì, mỗi lần tới chơi thì ở lại cả năm, ngôn ngữ trang nhã, phong thái tiêu sái, Liễu cùng ăn ở chuyện trò nhiều nhất. Con trai Liễu tên Hòa, lúc ấy còn nhỏ, gọi Cung là chú, Cung cũng thích đùa giỡn với Hòa. Mỗi lần Hòa ở trường học về thì cùng gỡ gạch lát dưới nền nhà lên vùi đá sỏi xương giả như chôn giấu vàng bạc làm vui. Nhà có năm gian, đào bới chôn giấu khắp cả. Mọi người cười là tính khí trẻ con nhưng Hòa lại rất yêu thích Cung, thân thiết với Cung hơn tất cả mọi người.




Hơn mười năm sau nhà sa sút dần, không thể thỏa mãn lòng mong cầu của nhiều người nên khách thưa dần, nhưng vẫn thường có mười mấy người hội họp chuyện trò đến sáng. Đến lúc Liễu già thì nhà ngày càng sa sút, nhưng còn cắt ruộng đất bán được tiền mà đãi khách. Hòa cũng phung phí, theo gương cha mời thết đám bạn nhỏ, Liễu cũng không ngăn cấm. Không bao lâu Liễu bệnh chết, nhà nghèo đến nỗi không mua được quan tài. Cung bèn bỏ tiền túi ra lo liệu việc tang cho Liễu, Hòa càng biết ơn, việc lớn nhỏ gì cũng nhờ chú Cung. Mỗi lần Cung đi đâu về ắt có cất gạch đá trong tay áo, vào tới nhà thì ném vào những chỗ khuất, chẳng ai hiểu để làm gì. Hòa trò chuyện với Cung thường lo nghèo khổ, Cung nói “Cháu không biết cái khó nhọc của việc kiếm tiền, đừng nói là không có tiền, dù có ngàn vàng đưa cháu cũng sẽ hết sạch ngay. Kẻ nam nhi chỉ lo không tự lập thân được chứ lo gì nghèo?".




Một hôm Cung từ giã, Hòa khóc dặn trở lại mau, Cung ừ rồi đi. Hòa nghèo quá không đủ sống, trong nhà còn món gì cứ đem cầm bán, dần dần hết sạch. Hàng ngày mong Cung tới lo toan giúp đỡ cho, nhưng Cung vắng tăm bặt tích như hạc vàng một đi không về lại. Trước kia lúc Liễu còn sống đã hỏi con gái họ Hoàng ở huyện Vô Cực (tỉnh Hà Bắc) cho Hòa, nhà ấy cũng giàu có, sau nghe tin Liễu sa sút nên ngầm có ý hối hôn. Khi Liễu chết Hòa báo tang Hoàng cũng không tới phúng điếu, còn nghĩ vì đường xa nên bỏ qua. Hòa mãn tang xong, mẹ sai tự tới nhà nhạc gia xin hẹn ngày cưới, có ý mong Hoàng thương xót giúp đỡ cho. Hòa tới, Hoàng nghe nói áo cũ giày rách bèn bảo người giữ cổng không cho vào, nhắn "Trở về lo được trăm lượng vàng hãy tới, nếu không từ nay xin thôi". Hòa nghe thế khóc lớn, có bà già họ Lưu ở nhà đối diện với Hoàng thương xót đem cơm cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, an ủi bảo về.




Mẹ Hòa cũng buồn bã uất ức nhưng không biết làm sao, nhân nhớ tới khách khứa ngày xưa mười người có tới tám chín vay mượn chưa trả, liền bảo Hòa chọn những kẻ giàu có mà tới xin họ giúp đỡ. Hòa nói “Trước kia họ giao du với nhà ta chỉ vì tiền bạc của nhà ta thôi. Nếu con giong ngựa hay ngồi xe lớn thì dù mượn ngàn lượng vàng cũng không khó, nhưng nay nhà ta nghèo khó thế này, còn ai nhớ ơn xưa nghĩa cũ. Vả lại cha cho người ta vay không hề làm giấy tờ gì, khó có bằng cớ mà đòi nợ". Mẹ cứ ép, Hòa vâng lời, đi suốt hơn hai mươi ngày không đòi được một đồng, chỉ có người kép hát Lý Tứ xưa thường được Liễu giúp đỡ nghe chuyện tới tặng một đồng vàng. Mẹ con cùng khóc lớn, từ đó thôi không trông mong gì ai nữa. Cô gái họ Hoàng đến tuổi lấy chồng, nghe cha dứt tình với Hòa thầm cho là không phải. Hoàng muốn gả cho người khác, nàng khóc nói “Liễu lang không phải sinh ra đã nghèo, giả như nay giàu hơn thì kẻ hỏi cưới con có cướp được của chàng không? Nay thấy nghèo lại bỏ thì bất nhân lắm".




Hoàng không vui, tìm đủ cách khuyên mà rốt lại cũng không làm nàng lay chuyển được. Hai vợ chồng cùng tức giận, sớm tối chửi mắng, cô gái cũng vẫn thế. Không bao lâu, đang đêm có bọn cướp vào nhà, vợ chồng Hoàng bị nướng dùi đốt thịt tra khảo chết đi sống lại, bao nhiêu của cải đều bị cướp sạch. Thấm thoát qua ba năm, nhà càng sa sút. Có nhà buôn nghe tiếng cô gái đẹp, xin nộp sính lễ năm mươi lượng vàng, Hoàng thấy nhiều tiền bèn ưng thuận, định ép con gái bằng được. Cô gái đoán biết, mặc áo rách bôi đen mặt, nhân đêm bỏ trốn, xin ăn dọc đường, trải hai tháng mới tới Bảo Định, hỏi thăm nhà Hòa rồi tìm thẳng vào. Mẹ Hòa ngỡ là vợ kẻ ăn mày bèn xua đuổi, nàng nức nở thưa rõ, bà nắm tay nàng chảy nước mắt nói “Sao con lại ra nông nổi này”. Cô gái lại khóc lóc kể hết đầu đuôi, mẹ con Hòa đều khóc. Kế múc nước cho nàng tắm rửa, thấy nhan sắc xinh đẹp, mặt mũi sáng sủa, mẹ con cùng mừng rỡ.




Nhưng nhà ba miệng ăn, mỗi ngày chỉ được một bữa, mẹ khóc nói "Mẹ con ta phải chịu cực khổ đã đành, chỉ thương cho nàng dâu thảo của ta thôi”. Nàng cười an ủi bà rằng "Con dâu của mẹ lúc trong đám ăn mày đã nếm đủ mùi cực khổ, hôm nay nhìn lại thấy như thiên đường khác với địa ngục vậy”, mẹ mới vui vẻ. Một hôm cô gái vào gian nhà bỏ không thấy cỏ dại mọc lan khắp nơi, tới phòng trong thì bụi bặm phủ đầy. Trong góc tối có vật gì đó chất thành đống, bước vào thấy vướng chân, nhặt lên xem thì toàn là bạc ròng, giật mình chạy về nói với Hòa. Hòa theo nàng vào xem, thì những gạch ngói ngày xưa Cung ném vào đó đều trở thành bạc nén trắng xóa. Nhân nhớ lại lúc còn nhỏ thường cùng Cung chôn gạch đá trong nhà, biết đâu đều là vàng bạc. Nhưng nhà cũ đã đem cầm cho láng giềng, vội qua chuộc lại thì thấy gạch lát nền đã vỡ cả, những chỗ chôn gạch ngói ngày xưa đều lộ cả ra, vô cùng thất vọng. Đến khi đào tìm dưới đất thì thấy toàn là bạc ròng sáng loáng, trong chốc lát trở thành giàu có ức vạn. Nhờ vậy chuộc ruộng vườn thuê tôi tớ, nhà cửa hoa lệ còn hơn ngày xưa.




Hòa vì thế hăng hái tự nhủ "Nếu không cố gắng lập thân, thật là phụ lòng chú Cung của ta", rồi ra sức học hành, ba năm sau đỗ Cử nhân. Bèn đích thân đem trăm lượng vàng tới tạ ơn bà Lưu, y phục rực rỡ lóa mắt, mười mấy tùy tùng khỏe mạnh đều cưỡi ngựa đẹp như rồng. Bà Lưu chỉ có một gian nhà, khách phải ngồi cả lên giường, người ngựa ồn ào vang động cả xóm. Hoàng từ khi con gái trốn đi, người nhà buôn đòi lại món tiền sính lễ, nhưng đã tiêu mất một nửa nên phải bán nhà mới trả được. Vì thế trở thành cùng quẫn như Hòa ngày xưa, nay nghe rể cũ giàu có sang trọng chỉ đóng cửa tự thương thân mà thôi. Bà Lưu mua rượu dọn tiệc đãi Hòa, nhân kể con gái Hoàng hiền, tỏ ý tiếc vì nàng bỏ nhà đi mất, rồi hỏi Hòa lấy vợ chưa, Hòa đáp rồi. Ăn uống xong, Hòa cố mời bà đi xem mặt vợ mình, rồi chở cùng về.




Tới nhà, nàng ăn mặc lộng lẫy bước ra, tỳ nữ xúm quanh như tiên, gặp nhau cùng sửng sốt, rồi cùng nhắc lại chuyện cũ, nhân hỏi thăm tin tức cha mẹ. Bà Lưu ở lại vài ngày, được tiếp đãi rất tử tế, may sắm quần áo mới rồi cho đưa về. Bà qua nhà Hoàng, kể lại tin tức cô gái và nhắn lời nàng hỏi thăm, vợ chồng cả kinh. Bà Lưu khuyên tới thăm con gái nhưng Hoàng có vẻ ngần ngại, kế khổ cực quá không chịu nổi nên bất đắc dĩ phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cổng trừng mắt nhìn, suốt ngày không nhắn gì được. Mãi sau có một bà già đi ra, Hoàng nhũn nhặn năn nỉ, tự nói họ tên, nhờ lén báo cho con gái biết.




Một lát bà già trở ra dắt Hoàng vào căn nhà phụ, nói "Nương tử rất muốn gặp ông một lần nhưng sợ lang quân biết nên phải chờ cơ hội thuận tiện. Ông tới đây bao lâu, đã ăn gì chưa?", Hoàng được dịp kể lể nỗi khổ. Người đàn bà đem một bầu rượu, hai đĩa thức ăn bày ra trước mặt Hoàng, lại đặt lên năm đồng vàng, nói "Lang quân đang ăn tiệc ở trong phòng, e nương tử không tới được. Sáng mai ông nên đi sớm, chớ để lang quân biết". Hoàng vâng dạ, sáng dậy mang gói ra thì cổng chưa mở, phải đứng chờ. Chợt có tiếng ồn ào nói ông chủ đi ra, Hoàng định nép mình tránh mặt nhưng Hòa đã nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi là ai. Tất cả gia nhân đều im lặng, Hòa giận nói "Ắt là kẻ gian, cứ bắt giải lên quan!". Chúng dạ vang đổ ra trói Hoàng vào gốc cây, Hoàng vừa sợ vừa thẹn không biết nói gì. Không bao lâu người đàn bà hôm qua ra quỳ xuống thưa "Đây là cậu ruột ta, tới lúc chặp tối nên chưa kịp thưa với ông chủ?", Hòa bèn sai cởi trói. Bà già dẫn Hoàng ra, nói "Vì ta quên dặn người giữ cổng nên có chuyện rắc rối. Nương tử nhắn rằng lúc nào tưởng nhớ cứ nói bà nhà giả làm người bán hoa đi với bà Lưu tới".




Hoàng vâng dạ, về nhà kể chuyện với vợ, bà nhớ con gái vội qua nói với bà Lưu, bà Lưu bèn cùng đi, tới nhà Hòa qua hơn mười lớp cửa mới tới chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, đeo châu ngọc khắp mình, hương thơm ngào ngạt, thỏ thẻ kêu một tiếng thì tỳ nữ tớ gái xúm tới nhắc ghế mang gối, pha trà mời khách. Mẹ con nói tiếng lóng chuyện trò, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm tới dọn phòng cho hai bà già nghỉ, thấy nệm ấm gối êm, nhà mình năm xưa tuy giàu có cũng chưa từng dùng qua. Lưu lại năm ba ngày, nàng đối xử rất chu tất, bà dẫn nàng ra chỗ vắng khóc lóc hối hận về việc sai trái ngày trước. Nàng nói "Mẹ con ta thì có lầm lỗi nào không bỏ qua được, nhưng chồng con tức giận không nguôi, chỉ sợ chàng biết thôi”, nên cứ khi Hòa tới thì bà liền tránh mặt.




Một hôm đang ngồi chơi chợt Hòa bước vào nhìn thấy nổi giận quát “Mụ nhà quê nào lại dám ngồi ngang hàng với nương tử thế kia? Nắm đầu tống cổ ra cho ta”. Bà Lưu vội bước lên nói "Đó là Vương tẩu làm nghề bán hoa, có họ với già, xin ông tha lỗi”. Hòa bèn chắp tay tạ lỗi rồi ngồi xuống nói "Bà đến chơi mấy hôm mà ta bận quá chưa hỏi chuyện được, lão súc sinh họ Hoàng còn sống không?". Bà Lưu đáp "Cả hai ông bà vẫn mạnh khỏe, có điều nghèo lắm, quan nhân quá giàu sang sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút”. Hòa đập bàn nói “Năm xưa không có bà thương xót cho bát cháo thì ta làm sao về tới được quê quán, nay còn muốn bắt lão mà lột da ra chứ nghĩ tình cái gì?", nói tới đó căm giận quá dậm chân đứng dậy chửi mắng. Cô gái bực tức nói "Họ dẫu bất nhân cũng là cha mẹ ta. Ta từ xa xôi tìm tới đây rách chân nát gót, cũng tự thấy không phụ lòng chàng, sao chàng trước mặt con mà chưi mắng cha, khiến người ta không chịu nổi", Hòa mới nguôi giận đứng dậy bỏ đi. Vợ Hoàng thẹn tím mặt từ giã ra về, cô gái lấy hai chục đồng vàng đưa riêng cho mẹ. Sau khi bà về, không có tin tức gì nữa.
Cô gái thương nhớ cha mẹ quá, Hòa bèn sai người tới mời, hai vợ chồng tới vẫn có vẻ thẹn thùng áy náy. Hòa xin lỗi nói "Năm trước ông bà tới chơi lại không nói rõ, khiến ta mắc tội rất nhiều”, Hoàng chỉ dạ dạ. Hòa may sắm quần áo mới cho, lưu lại hơn một tháng. Hoàng vẫn thấy áy náy, mấy lần xin về. Hòa tặng một trăm lượng vàng, nói “Người nhà buôn trước kia đưa năm mươi lượng, nay ta xin đưa gấp đôi". Hoàng thẹn toát mồ hôi nhận lấy. Hòa cho xe ngựa đưa về, cuối đời Hoàng sống cũng hơi dư dật.




Dị Sử thị nói:Sau khi Ung Môn* khóc xong thì giày son vắng cổng khiến người ta uất ức đóng cửa tuyệt giao. Thế nhưng bạn tốt chôn cất, đá hóa ra vàng, không thể nói rằng đó không phải là sự báo đáp cho người khẳng khái được. Còn kẻ phòng khuê chỉ ngồi mà hưởng, nghiễm nhiên như phi tần trong cung vua, nếu không phải là người trung trinh kỳ lạ như nàng họ Hoàng thì ai có thể hưởng thụ như vậy mà không xấu hổ? Tạo vật không giáng họa ban phúc sai là như thế đấy.




*Ung Môn: Hoàn đàm tân luận chép Ung Môn Chu cầm đàn tới ra mắt Mạnh Thường quân nói “Ta trộm cho rằng túc hạ có điều đau buồn. Đạo trời vốn không thường, ngàn vạn năm sau tôn miếu ắt không ai thờ cúng, đài cao đã nghiêng, ao sâu đã lấp, trên mộ đầy gai góc, chồn cáo làm hang bên trong, trẻ chăn trâu giẫm đạp lên ca hát mà nói sự giàu sang của Mạnh Thường quân cũng chỉ thế này thôi sao”. Mạnh Thường quân ngậm ngùi rơi lệ, Ung Môn Chu nhân đó gảy thành khúc đàn. Đây ý nói người giàu sang nhưng đã chết cũng không ai đoái hoài tới nữa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 105 - 106 -
Người Thiếp Hồ
(Hồ Thiếp)

Lưu Động Cửu người huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), ngồi một mình trong dinh nghe ngoài sân có tiếng cười nói, dần tới gần rồi vào trong phòng. Nhìn ra thì là bốn cô gái, một nàng độ bốn mươi tuổi, một nàng khoảng ba mươi, một nàng chừng hai mươi tư hai mươi lăm, cuối cùng là một nàng còn để tóc xõa. Cả bốn đứng trước kỷ nhìn nhau cười, Lưu vốn biết trong dinh nhiều hồ nên không ngó tới. Giây lát, nàng để tóc xõa rút ra chiếc khăn hồng đùa ném lên mặt Lưu. Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn. Bốn nàng cười rồi đi.

Một hôm nàng lớn nhất tới nói với Lưu "Em gái ta có nhân duyên với ông, xin đừng chê là hèn hạ”. Lưu ừ bừa, nàng ấy liền đi. Lát sau cùng một tỳ nữ dẫn nàng để tóc xõa tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói "Thật là đẹp đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc, cố mà hầu hạ Lưu lang, ta về đây". Lưu nhìn kỹ thấy nàng xinh đẹp vô song, bèn cùng vui vầy. Hỏi tới lai lịch, nàng nói “Thiếp không phải là người, nhưng thật ra cũng là người. Thiếp là con gái quan tiền nhiệm ở đây, bị hồ làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ hồ làm phép cho sống lại, cũng biến hóa như hồ vậy”. Lưu thò tay sờ phía sau, nàng hiểu ý cười nói "Chàng định nói là hồ thì có đuôi chứ gì?", rồi quay người lạỉ nói "Thử sờ xem nào”. Từ đó nàng ở lại luôn, đứng ngồi đều có đứa tỳ nữ ở bên, gia nhân đều tôn kính gọi là bà thứ, tôi tớ lên chào ra mắt đều được thưởng rất hậu.

Gặp dịp sinh nhật của Lưu, khách khứa đông đảo, tính ra tới ba chục mâm, phải có nhiều đầu bếp, đã sức gọi từ trước nhưng chỉ có một hai người tới, Lưu bực tức lắm. Cô gái biết được bèn nói "Đừng lo, số đầu bếp đã không đủ dùng thì cứ cho mấy người tới về luôn cho xong. Thiếp tuy kém cỏi nhưng nấu ba chục mâm cũng chẳng phải khó". Lưu mừng rỡ, sai mang cá thịt tỏi gừng vào tư thất, gia nhân chỉ nghe tiếng dao thớt khua ran không dứt. Cửa trong đặt một chiếc bàn, những người hầu để mâm lên đó, quay đi quay lại đã đầy thức ăn, bưng xong lại quay lại, hơn mười người đi lại liên tiếp mà lấy bao nhiêu cũng có. Sau cùng người hầu vào gọi lấy bánh canh, bên trong nói "ông chủ không dặn trước, gấp gáp thế này làm sao có được?". Kế lại nói "Không còn cách nào, đành phải mượn vậy”. Giây lát gọi vào lấy bánh canh, nhìn lại thì thấy đã có hơn ba chục tô bánh canh bốc khói đặt trên bàn. Khách về rồi, nàng nói với Lưu "Phải đưa tiền trả tiền bánh canh cho nhà nọ". Lưu sai đem tiền tới nhà ấy thì họ mất bánh canh còn đang kinh ngạc, khi người nhà Lưu tới trả tiền mới hết ngờ vực.

Một hôm uống rượu đêm, Lưu chợt thèm rượu nếp đắng Sơn Đông, nàng xin đi lấy rồi ra cửa đi. Giây lát trở về nói "Được một vò ngoài cửa, đủ uống mấy ngày rồi". Lưu ra xem, quả có một vò, đúng là thứ rượu mới cất ở nhà. Qua vài hôm, phu nhân sai hai người đầy tớ tới Phần Châu, giữa đường một người nói "Nghe nói phu nhân chồn hồ thưởng rộng rãi, chuyến này mà được tiền thưởng ta sẽ mua một cái áo lông chiên". Nàng ở dinh đã biết cả, nói với Lưu “Người nhà ở quê sắp tới, đáng giận thằng đầy tớ vô lễ, phải trị mới được". Hôm sau người đầy tớ vừa vào trong thành, đầu đã đau nhức, tới dinh thì ôm đầu kêu gào, mọi người đều bàn đi tìm thầy thuốc. Lưu cười nói “Không cần chữa, đến lúc sẽ tự hết", mọi người ngờ là y phạm tội với bà thứ.

Người đầy tớ tự nghĩ mới tới đây chưa kịp cởi hành lý ra thì đã làm gì nên tội, nhưng không biết kêu van với ai đành phải bò tới năn nỉ. Trong rèm có tiếng nói "Ngươi gọi phu nhân là đủ rồi, sao còn nói chữ hồ?". Người đầy tớ sực nhớ ra, lạy lục không thôi. Trong rèm lại nói "Đã muốn có áo lông chiên sao lại vô lễ thế?”, kế nói tiếp "Ngươi khỏi rồi đấy”, dứt câu thì người đầy tớ thấy hết đau, lạy tạ định lui ra, chợt trong rèm ném ra một cái bọc, nói "Đây là một cái áo lông dê non, ngươi cầm đi", y mở ra xem thì thấy có năm đồng vàng. Lưu hỏi tin nhà, người đầy tớ thưa đều được vô sự chỉ có đang đêm bị mất một vò rượu, tính lại ngày giờ thì đúng vào đêm nàng đi lấy rượu. Mọi người kính sợ nàng có phép thần thông, gọi là Thánh tiên.

Lưu vẽ tranh nàng, lúc ấy Trương Đạo Nhất làm quan Đề học sứ nghe chuyện lạ liền lấy tình đồng hương tới thăm Lưu xin được gặp mặt một lần, nàng từ chối. Lưu đưa bức tranh cho xem, Trương giật lấy đem về treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn khứa "Xinh đẹp như nàng muốn gì chẳng được, sao lại gởi thân cho lão già râu xồm? Hạ quan không thua kém gì Động Cửu, sao không chiếu cố cho nhau một lần”. Nàng ở dinh chợt nói với Lưu "Trương công vô lễ phải trừng phạt một chút". Một hôm Trương đang khấn khứa thấy như có ai cầm thước đánh mạnh vào trán đau điếng, cả sợ cuốn bức tranh sai người đem trả. Lưu hỏi vì sao trả lại, người ấy giấu việc Trương bị đánh mà bịa chuyện trả lời, Lưu cười hỏi "Trán chủ ngươi có đau không?", người ấy không dám nói dối phải kể thật.

Không bao lâu sau, rể Lưu là Nguyên sinh tới thăm, xin được ra mắt nhưng nàng từ chối. Nguyên nài nỉ mãi, Lưu hỏi “Con rể nào phải người ngoài, sao cự tuyệt quá thế?”. Nàng đáp "Con rể tới ra mắt ắt phải có gì tặng, nhưng y mong cầu quá lắm, ta tự thấy không làm vừa lòng y được nên không muốn gặp đó thôi”. Kế Nguyên lại cố nài nỉ, nàng hứa mười ngày sẽ cho ra mắt. Đến ngày hẹn Nguyên vào, đứng ngoài rèm chắp tay vái rồi hỏi thăm sức khỏe, chỉ thấy loáng thoáng dung mạo nhưng không dám nhìn kỹ. Kế lui ra, đi được mấy bước cứ ngoảnh lại nhìn chằm chằm, chỉ nghe tiếng nàng nói "Con rể quay lại kìa", dứt lời cười lớn, lanh lảnh như tiếng cú rúc. Nguyên nghe thấy gân cốt nhũn cả ra, run rẫy tựa mất hồn.

Ra ngoài ngồi hồi lâu mới hơi định thần, bèn nói “Vừa nghe tiếng cười như nghe tiếng sét, thật không biết mình còn sống hay đã chết” Giây lát người tỳ nữ vâng lệnh nàng đem ra hai mươi lượng vàng tặng Nguyên, Nguyên nhận rồi nói "Thánh tiên hàng ngày ở với ông chồng, há lại không biết tính ta phung phí chứ không quen dùng món tiền nhỏ sao?” Nàng nghe thế nói "Ta vẫn biết là thế, nhưng vừa lúc hết tiền, mới rồi cùng bạn bè đi Biện Lương (tỉnh thành Hà Nam) thì thành bị Hà Bá chiếm cứ, kho tàng đều ngập dưới nước, lặn xuống lấy mỗi người chỉ được bấy nhiêu, làm sao đầy được túi tham không đáy của y. Vả lại nếu ta tặng cho thật hậu thì y phúc bạc cũng không thể hưởng được đâu".

Phàm mọi việc cô gái đều có thể biết trước nên có việc gì nghi ngờ cứ bàn với nàng là quyết được ngay. Một hôm đang cùng ngồi chuyện trò, chợt nàng ngữa mặt lên trời cả kinh nói “Đại nạn sắp tới, làm sao bây giờ”. Lưu hoảng sợ hỏi người trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói "Tất cả vô sự, chỉ có nhị công tử là đáng lo. Không bao lâu nơi đây sẽ thành chiến trường, chàng nên xin đi công cán nơi xa mới khỏi nạn”. Lưu theo lời, xin quan trên cho đi áp tải lương tiền tới Vân Nam Quý Châu. Đường sá xa xôi, ai nghe cũng thương xót cho Lưu, duy có cô gái lấy làm vui mừng. Không bao lâu Khương Khôi làm phản*, Phần Châu bị giặc chiếm làm sào huyệt, con trai thứ hai của Lưu từ Sơn Đông tới thì vừa gặp loạn, bị giết chết. Thành bị hãm, quan lại đều bị hại, chỉ có Lưu đi công cán nơi xa được thoát, đến khi yên giặc mới trở về.

*Khương Khôi làm phản: Khương Khôi là người cuối thời Minh, giữ chức Tổng binh Đại Đồng, khi Lý Tự Thành đánh tới thì Khôi đem thành đầu hàng, theo Tự Thành chống nhà Minh.

Sau Lưu dính líu vào vụ án lớn bị bãi chức, nghèo túng tới mức ngày không lo đủ hai bữa cơm, quan lại còn đòi hỏi hạch sách rất nhiều nên cùng quẫn lo lắng muốn chết. Nàng nói "Đừng lo, dưới gầm giường có chôn ba ngàn đồng vàng, cũng đủ chi tiêu”. Lưu mừng rỡ hỏi đánh cắp được ở đâu, nàng đáp "Của vô chủ trong thiên hạ muốn lấy bao nhiêu cũng có, cần gì phải trộm cắp?". Lưu dùng số tiền ấy lo lót được thoát tội về quê, cô gái cũng đi theo. Vài năm sau chợt bỏ đi, để lại cái túi giấy chứa mấy vật lại cho Lưu, trong có lá phướn nhỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc, mọi người đều cho là điềm bất tường, kế Lưu chết.

106. Thần Sấm Sét
(Lôi Tào)

Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình Tử lúc nhỏ ở cùng làng, lớn lên học cùng trường, chơi với nhau rất thân. Hạ thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã nổi tiếng, Nhạc dốc lòng kính ái, Hạ cũng thường khuyên dạy cho không biết mỏi. Nhạc học hành ngày càng tấn tới nhờ vậy cũng nổi tiếng, nhưng khoa cử lận đận, cứ đi thi là rớt. Không bao lâu Hạ mắc bệnh dịch chết, nhà nghèo không chôn cất nổi, Nhạc khẳng khái đứng ra lo liệu, Hạ còn vợ góa con côi thì thường lui tới thăm hỏi, kiếm được chút ít gì cũng chia cho một nửa. Vợ con Hạ nhờ vậy mới sống được, các bậc sĩ đại phu vì thế càng khen Nhạc hiền. Nhà Nhạc không có của cải gì nhiều, lại còn chu cấp cho vợ con Hạ nên gia cảnh ngày càng sa sút, bèn than "Tài học như Bình Tử mà còn phải lận đận rồi chết, huống chi là ta? Sự giàu sang ở đời phải đúng lúc, nếu cứ lo lắng tròn năm thì e sẽ chết trước cả giống vật nơi ngòi rãnh, phí cả một đời, chẳng bằng lo liệu cho sớm".

Từ đó Nhạc bỏ học đi buôn, làm ăn nửa năm thì cảnh nhà hơi khá lên. Một hôm đi buôn tới Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), vào nghỉ trong quán trọ thấy một người cao lớn, bắp thịt cuồn cuộn cứ quanh quẩn cạnh chỗ mình ngồi, sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi "Muốn ăn cơm không?", người ấy cũng im lặng. Nhạc đẩy mâm ra mời, y lấy tay bốc ăn, trong giây lát hết sạch. Nhạc lại gọi thêm một mâm mấy phần cơm, y lại ăn hết, Nhạc bèn bảo chủ quán cắt thịt heo, bóc bánh chưng đầy mâm, y lại ăn sạch mấy phần nữa mới no, cảm tạ nói "Ba năm nay chưa từng được bữa nào ăn no thế này". Nhạc hỏi "Ông là bậc tráng sĩ sao lại lưu lạc khổ cực tới mức này?”, y đáp “Ta mắc tội với trời, không thể nói ra được”. Nhạc hỏi quê quán nhà cửa, y đáp "Trên bộ không có nhà cửa, dưới nước không có ghe thuyền, chỉ sáng vào trong làng tối ra ngoàí ruộng thôi".

Nhạc sửa soạn hành lý ra đi, người ấy đi theo, bịn rịn không rời. Nhạc từ tạ, y nói "Ông sắp gặp nạn lớn, ta không nỡ quên cái ơn cho một bữa ăn”. Nhạc lấy làm lạ, bèn cho y đi cùng, trên đường kéo vào quán ăn cơm, y từ chối nói “Cả năm ta chỉ ăn vài bữa thôi", Nhạc càng lấy làm lạ. Hôm sau qua sông, chợt sóng gió nổi lên, ghe thuyền chở thuê đều đắm cả, Nhạc và người ấy cũng chìm xuống sông. Lát sau gió lặng sóng yên, y cõng Nhạc đạp sóng ngoi lên, đưa Nhạc lên một chiếc thuyền khách rồi lại rẽ nước đi. Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc qua dặn ngồi đó giữ rồi nhảy xuống nước, trồi lên thì hai tay xách hàng hóa bị chìm ném vào thuyền rồi lại lặn xuống, mấy lần lên xuống thì hàng hóa bị chìm được vớt lên đầy cả thuyền.

Nhạc cảm tạ nói “Ông cứu sống ta là quá đủ rồi, đâu dám mong lấy lại được hàng hóa” Kiểm lại của cải thấy không bị mất gì, càng mừng rỡ kính phục y là thần, định dong thuyền đi thì y từ biệt, Nhạc cố giữ cùng qua sông. Kế cười nói “Cái nạn thế này mà chỉ mất có một chiếc trâm vàng”, người ấy muốn lại xuống nước tìm, Nhạc đang ngăn lại bảo thôi thì y đã nhảy xuống nước mất hút. Nhạc kinh ngạc hồi lâu, chợt thấy y tươi cười trồi lên đưa cho chiếc trâm, nói “May là cũng tìm thấy”, người trên sông ai cũng kinh lạ. Nhạc đưa người ấy về nhà, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu. Cứ mười mấy ngày y mới ăn một bữa, mà ăn thì ăn rất nhiều.

Một hôm từ giã đi, Nhạc cố giữ lại, vừa lúc trời tối tăm như muốn mưa, nghe có tiếng sấm. Nhạc nói “Không biết quang cảnh trong mây ra sao, sấm sét là vật gì, làm sao lên được trên trời mà xem một lần mới hết thắc mắc”. Người ấy cười nói “ông muốn lên mây chơi à?”. Giây lát chợt Nhạc thấy trong người mỏi mệt quá, lăn ra giường thiu thiu ngủ, khi tỉnh thấy người đong đưa không giống như đang nằm trên giường. Mở mắt nhìn thì thấy đang trong mây, chung quanh trắng toát như bông, hoảng sợ vùng dậy thấy váng vất như đang đi thuyền, dưới chân thì mềm mại không phải là đất, ngẩng đầu thì thấy tinh tú ngay trước mắt, nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Nhìn kỹ thấy các ngôi sao khảm vào bầu trời như hạt sen trong gương sen, ngôi lớn bằng cái khạp, ngôi vừa bằng cái vò, ngôi nhỏ bằng cốc chén, lấy tay lắc thử thấy sao lớn bám chặt không nhúc nhích, sao nhỏ thì lung lay như có thể hái xuống. Liền hái lấy một ngôi cất vào tay áo rồi vén mây nhìn xuống thì bể bạc mênh mông, thấy thành quách nhỏ như hạt đậu, kinh ngạc tự nghĩ nếu lỡ hụt chân một cái thì còn gì là mạng.

Bỗng thấy hai con rồng uốn lượn kéo một chiếc xe căng màn chạy tới, đuôi ngoắt thành tiếng vun vút như roi trâu. Trong xe có cái bồn chu vi mấy trượng đựng đầy nước, có mấy mươi người cầm gáo múc nước tưới khắp trên mây. Họ thấy Nhạc đều lấy làm lạ, Nhạc nhìn kỹ thì thấy trong bọn có người tráng sĩ bạn mình. Y nói với mọi người "Đây là bạn ta", rồi đưa Nhạc một cái gáo bảo múc nước mà tưới. Lúc đó trời đang đại hạn, Nhạc đón lấy cái gáo, vén mây nhìn về phía quê chăm chỉ múc tưới. Lát sau người bạn nói với Nhạc "Ta vốn là thần sấm sét, vì trước đây làm mưa sai hẹn nên bị phạt đày ba năm, nay đã mãn hạn, từ đây xin vĩnh biệt". Rồi lấy sợi dây buộc xe dài cả vạn thước bảo Nhạc bám vào một đầu để thả xuống đất. Nhạc lo dây đứt, y cười nói không hề gì, Nhạc theo lời bám vào, thấy lơ lửng trong chớp mắt đã tới mặt đất, nhìn lại thì đang đứng ngoài làng, sợi dây thì thu dần vào trong mây không thấy đâu nữa.

Lúc ấy hạn hán đã lâu mới có trận mưa, nhưng ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, chỉ có làng Nhạc thì hồ rạch tràn đầy. Về tới nhà Nhạc mò lại trong tay áo thì ngôi sao đã hái vẫn còn, đem đặt lên bàn thì đen như hòn đá, đến đêm thì long lanh sáng rực chiếu rọi khắp nhà. Nhạc càng quý báu gói lại cất kỹ, mỗi khi có khách quý thì mang ra thay đèn uống rượu ban đêm, nhìn thẳng vào thấy ánh sáng chói cả mắt. Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ngôi sao chải tóc chợt thấy ánh sáng thu nhỏ mờ dần chỉ còn như con đom đóm, lại động đậy bay lên, giật nảy mình định kêu lên thì ngôi sao đã chui tọt vào miệng, vừa khạc thì đã xuống tới cổ họng. Nàng sợ hãi chạy vào kể cho Nhạc, Nhạc cũng lấy làm lạ.

Kế nằm ngủ mơ thấy Hạ Bình Tử tới nói “Ta là sao Thiếu Vi những việc ông giúp cho ta vẫn nhớ không quên. Lại nhờ ông thương mến đem ta trên trời về, có thể nói là có duyên với nhau, nay xin làm người nối dõi cho ông để đền ơn lớn". Lúc ấy Nhạc đã ba mươi tuổi vẫn chưa có con, mơ thấy thế mừng lắm. Từ đó vợ có mang, khi lâm bồn có ánh sáng chiếu khắp nhà như lúc đặt ngôi sao trên bàn, nhân đó đặt tên con là Tinh Nhi. Tinh Nhi khôn ngoan lạ thường, năm mười sáu tuổi thi đỗ Tiến sĩ.

Dị Sử thị nói:Ông Nhạc nổi tiếng văn chương một thời, chợt thấy việc theo đuổi công danh đến già không hợp với mình liền vứt ngọn bút như cởi chiếc dép, có khác gì Ban Siêu ném bút*! Đến như thần sấm sét cảm ơn cho ăn, sao Thiếu Vi đáp tình bạn cũ, há phải là thần nhân đền đáp ơn riêng đâu mà là tạo vật báo đáp cho bậc hiền hào đấy.

*Ban Siêu ném bút: nguyên văn là "Yến hạm đầu bút". Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện chép Ban Siêu thuở trẻ nhà nghèo phải làm việc chép thuê trong dinh quan để sống, gặp người thầy tướng nói "Ông hàm én đầu hổ (yến hạm hổ đầu), bay cao mà ăn thịt, đó là tướng được phong hầu ngoài vạn dặm", Siêu ném bút than “Đại trượng phu phải lập công nơi đất lạ để được phong hầu, chứ sao có thể theo việc bút nghiên mãi được”. Sau đi sứ Tây Vực có công được phong tước Định Viễn hầu. Đây tác giả có ý nói ngược lại.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 107 - 109 -
Bùa Đánh Bạc
(Đổ Phù)

Đạo sĩ họ Hàn ở miếu Thiên Tề trong huyện ta giỏi phép thuật, mọi người đều gọi là tiên. Cha ta chơi thân với ông, cứ có dịp vào thành là ghé thăm. Một hôm cha ta cùng chú ta vào thành, định tới thăm thì gặp Hàn trên đường, Hàn đưa chìa khóa nói "Xin cứ tới mở cửa vào ngồi đợi một lúc, ta sẽ về ngay”. Cha ta theo lời, tới miếu mở cửa vào thì Hàn đã ngồi ở trong, những việc như vậy rất nhiều. Trước trong họ hàng có người hay cờ bạc, qua cha ta nên cũng quen Hàn, gặp lúc có một nhà sư ở chùa Thiên Phật tới, rất sành cờ bạc, đánh bạc rất lớn. Người ấy gặp thích lắm, mang tiền tới chơi, thua nặng, càng cay cú. Về cầm bán nhà cửa ruộng vườn tới chơi tiếp, hết đêm thì thua sạch, chán nản bất đắc chí ra về, tiện đường ghé Hàn, đầu óc thẫn thờ, ngôn ngữ thất thố. Hàn hỏi, người ấy kể lại mọi chuyện, Hàn cười nói "Thường đánh bạc thì không ai không thua, nếu ngươi chừa đánh bạc được thì ta sẽ giúp lấy tiền lại cho". Người ấy nói "Nếu lấy lại được thì xin đem chày sắt đập nát hết xúc xắc". Hàn bèn lấy giấy vẽ bùa đưa cho bảo giắt vào thắt lưng, dặn "Nếu lấy lại được hết tiền thua rồi phải thôi ngay, không nên được voi đòi tiên". Lại đưa cho một ngàn đồng tiền, hẹn khi thắng rồi thì trả lại, người ấy cả mừng ra đi.

Nhà sư thấy chỉ có bấy nhiêu tiền coi thường không thèm chơi, người ấy cố ép, hẹn chỉ đánh một tiếng bạc thôi. Nhà sư cười ưng thuận, người ấy đặt cả một ngàn đồng tiền. Nhà sư gieo xúc xắc trước, chưa phân thắng bại, người ấy gieo liền thắng ngay. Nhà sư lại đánh hai ngàn đồng tiền, lại thua, dần dần tăng tới mười mấy ngàn đồng. Người ấy gieo lần đầu thì rõ ràng là điểm rất thấp quát lên một tiếng thì con xúc xắc lật lại thành điểm cao nhất, trong khoảnh khắc đã lấy lại được tất cả số tiền đã thua, nhưng nghĩ thầm kiếm thêm vài ngàn nữa cũng hay. Bèn đánh thêm thì thua ngay, lấy làm kỳ quái đứng lên nhìn lại thắt lưng thì lá bùa đã biến mất, cả sợ bèn thôi không chơi nữa. Bèn chở tiền về miếu, trả cho Hàn xong tính cả số bị thua trong tiếng bạc chót với số thắng được thì vừa khớp với số tiền bị thua trước đó. Liền xấu hổ xin lỗi về việc mất lá bùa, Hàn cười nói "Nó ở đây rồi, ta đã dặn đừng tham mà ông không chịu nghe nên đã lấy về"

Dị Sử thị nói:Cái làm thiên hạ khuynh gia bại sản không gì mau bằng cờ bạc, cái làm thiên hạ tổn đức mất nết không không gì mạnh bằng cờ bạc, sa vào rồi thì như rơi xuống biển mê không biết đâu là đáy. Phàm kẻ làm ruộng buôn bán đều có nghề nghiệp, kẻ học trò đọc sách càng tiếc thời giờ. Đọc sách cầm cày vốn là đường chính để thành gia, chén rượu chung trà cũng là niềm vui trên cõi thế. Thế mà lại theo bạn xấu rủ rê, suốt canh khuya đàn đúm. Nghiêng rương vét tủ, treo vàng mơ trên mấy tầng trời, la thắng thét ù, xin thần giúp trong trò ngu dại. Năm con xúc xắc đổ tựa gieo châu, mấy lá bài chia cầm như xòe quạt. Liếc bài người lại ngó bài mình, chán cho mắt quỷ, bài thì tốt mà kêu là xấu, giở đủ trò ma. Trước cửa tân khách chờ, còn lưu luyến bên sòng bạc, ở nhà cơm nước đợi, vẫn mê mãi với quân bài. Quên ăn bỏ ngủ, lâu ngày thành mê, mặt sạm môi chì, nhìn xem tựa quỷ. Đến lúc thua sạch tiền lưng, ngồi trơ mắt ếch. Nhìn vào sòng thì la hét vang rân, anh hùng ngứa ngáy, ngó lại túi thì trống không nhẵn nhụi, tráng sĩ thẫn thờ. Nghểnh cổ bồi hồi, biết tay trắng không sao chơi được, cúi đầu than thở, đến hừng đông mới chịu ra về. Ngang nhà người quen đang ngủ, sợ chó sủa ầm, thấy bụng mình đói cứ sôi, hờn nồi cạn sạch. Kế lại bán vợ đợ con, cũng muốn cầu may thủ vận, chẳng ngờ nắm lông lò lửa, chung quy đáy nước mò trăng. Lúc tàn mạt mới ngẫm lại mình, thấy đã ra người hạ tiện, đám cờ bạc hỏi ai giỏi nhất, đều tôn ấy bậc không quần. Thậm chí xoa bụng đói dài, phải đi làm cướp, gãi đầu tính lại, đành chịu xin ăn. Than ôi, cờ bạc chính là một con đường dẫn tới chỗ tổn đức mất nết, tan cửa nát nhà đấy.

108. A Hà
(A Hà)

Cảnh Tinh Giả người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ có tiếng tài giỏi, ở cạnh nhà Trần sinh, phòng sách chỉ cách nhau một bức tường ngắn. Một hôm vừa chập tối, Trần đi qua một bãi đất vắng nghe trong tiếng con gái khóc trong đám tùng bách, tới gần thấy trên cành cây mọc ngang có sợi dây vắt qua như sắp treo cổ tự tử. Trần hỏi han, cô gái gạt lệ nói "Mẹ đi xa gởi thiếp ở nhà người anh bên ngoại, không dè quân lang sói tàn ác nuôi nấng không ra sao, bơ vơ thế này thì chết đi còn hơn”, nói xong lại khóc. Trần cởi sợi dây khuyên nàng tìm người mà lấy, nàng lo không có ai để nương tựa, Trần mời về nhà mình ở tạm, cô gái bèn đi theo. Về tới nhà khêu đèn nhìn kỹ thấy phong tư xinh đẹp, Trần rất thích, muốn làm ẩu, cô gái lớn tiếng chống cự, cãi nhau ồn ào vang qua bên kia vách. Cảnh sinh leo tường qua xem, Trần mới buông nàng ra. Cô gái thấy Cảnh cứ nhìn không chớp mắt, hồi lâu bỏ chạy, hai người cùng đuổi theo nhưng không biết nàng chạy về hướng nào.

Cảnh về nhà đóng cửa định đi ngủ thì cô gái lững thững trong phòng bước ra, ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Y đức ít phúc mỏng, không thể nương tựa suốt đời". Cảnh mừng lắm gạn hỏi tên họ quê quán, nàng nói "Tổ tiên thiếp ở đất Tề (tỉnh Sơn Đông) nên lấy chữ Tề làm họ, tiểu tự là A Hà". Cảnh buông lời trêu ghẹo, nàng cười không có vẻ chống cự gì lắm, bèn cùng ăn ở với nhau. Nhà hay có đông bè bạn lui tới, cô gái thường núp kín trong phòng. Qua mấy hôm nói “Thiếp phải tạm đi, nơi này đông người ồn ào mệt quá. Từ nay xin hẹn nhau buổi tối thôi". Cảnh hỏi nhà ở đâu nàng đáp "Cũng không xa lắm", rồi đi sớm, buổi tối quả nhiên lại tới.

Mấy hôm sau nàng lại nói "Hai ta tuy thương yêu nhau nhưng rốt lại vẫn là tự ý chung chạ. Nay cha đi làm quan ở miền tây, sáng mai phải theo mẹ đi, định tìm dịp thưa rõ rồi sẽ theo chàng trọn đời". Cảnh hỏi chia tay bao lâu, nàng hẹn khoảng một tuần rồi đi. Cảnh nghĩ ở nhà học không tiện, mà dọn vào ở nhà trong thì lo vợ ghen, tính không gì bằng bỏ vợ, bèn quyết ý. Vợ tới cứ mắng chửi, vợ nhục nhã không chịu nổi, khóc lóc đòi chết. Cảnh nói với vợ “Cô chết sợ ta bị liên lụy, xin cứ về lại nhà cô", rồi giục đi mau. Vợ khóc lóc nói "Thiếp theo chàng mười năm chưa làm điều gì thất đức, sao quyết dứt tình như thế”. Cảnh không thèm nghe, càng đuổi đi gấp, vợ bèn ra cửa đi. Từ đó sơn phết tường vách, quét dọn nhà cửa, dài cổ trông ngóng A Hà, không ngờ tin tức vắng bặt như đá chìm xuống biển.

Vợ Cảnh bị đuổi rồi, mấy lần nhờ bạn thân nói giùm xin cho trở lại nhưng Cảnh không chịu, bèn lấy chồng họ Hạ Hầu. Làng Hạ Hầu gần nhà Cảnh, vì chuyện bờ ruộng nên nhiều đời có hiềm khích với nhau, Cảnh nghe tin ấy càng tức giận, nhưng còn đợi A Hà trở lại để tự an ủi lỗi lầm. Hơn một năm chẳng thấy tăm hơi, gặp ngày cúng Hải thần, trong ngoài đền trai gái tấp nập, Cảnh cũng tới đó. Xa xa thấy một cô gái rất giống Hà, Cảnh tới gần thì nàng chen vào đám đông, theo ra tới ngoài cổng thì nàng đi rất nhanh, Cảnh đuổi theo không kịp tức tối bỏ về.

Nửa năm sau Cảnh đi trên đường thấy một nữ lang mặc áo đỏ cưỡi ngựa đen có đầy tớ dắt cương đi tới, nhìn ra thì là A Hà, bèn hỏi kẻ tùy tùng nương tử là ai, y đáp là vợ kế công tử họ Trịnh ở thôn Nam. Cảnh lại hỏi công tử cưới bao lâu rồi, y đáp "Nửa tháng nay thôi". Cảnh đang nghĩ hay mình lầm, thì nữ lang nghe tiếng trò chuyện quay lại, Cảnh nhìn thì đúng là Hà. Thấy nàng đã lấy người khác, trong lòng giận sôi lên, kêu lớn "Nàng Hà sao lại quên lời hứa cũ?". Bọn tùy tùng nghe gọi bà chủ mình xúm lại toan đánh, cô gái vội ngăn lại vén khăn che mặt nói với Cảnh "Gã phụ lòng còn dám nhìn mặt nhau à?". Cảnh nói "Tự nàng phụ ta chứ ta phụ nàng lúc nào?”. Nàng đáp “Phụ phu nhân còn tệ hơn phụ ta, với người kết tóc trăm năm còn thế huống hồ với kẻ khác? Trước đây nhờ âm đức ông bà nên ngươi được ghi tên vào bảng thi đỗ, ta mới đem thân theo ngươi. Nay vì việc bỏ vợ, âm ty đã phạt tước giảm lộc số của ngươi rồi. Khoa này người đỗ thứ hai là Vương Xương thay vào tên ngươi đấy. Nay ta đã theo Trịnh quân, ngươi đừng mơ tưởng nữa".

Cảnh gục đầu cụp tai không dám mở miệng, nhìn thấy cô gái thúc ngựa phóng như bay, chỉ còn biết não nề mà thôi. Khoa thi ấy Cảnh trượt, người đỗ thứ hai quả họ Vương tên Xương, Trịnh cũng đỗ. Từ đó Cảnh mang tiếng phụ bạc, bốn mươi tuổi không có vợ, nhà càng sa sút, thường tới ăn chực ở nhà bạn bè. Một hôm ngẫu nhiên tới nhà Trịnh, Trịnh khoản đãi giữ lại ngủ đêm. Cô gái lén ra nhìn khách, thấy Cảnh thương xót hỏi Trịnh "Người khách ở nhà trên có phải là Cảnh Khánh Vân không?”. Trịnh hỏi vì sao biết, nàng nói "Lúc chưa lấy chàng từng lánh nạn ở nhà y, được y nuôi nấng cũng tử tế. Tính nết y tuy hèn nhưng âm đức tổ tiên chưa dứt, vả lại còn là cố nhân của chàng, cũng nên giúp đỡ cho trọn nghĩa bạn bè". Trịnh cho là phải, đưa áo quần mới cho Cảnh thay, giữ lại khoản đãi mấy ngày.

Nửa đêm Cảnh sắp đi ngủ có người tỳ nữ cầm hơn hai mươi đồng vàng vào tặng, cô gái thì đứng ngoài của sổ nói "Đó là của riêng ta đền đáp nghĩa cũ, nên về tìm cưới một người vợ tốt. May là phúc đức tổ tiên còn lớn, cũng đủ giúp cho con cháu. Từ nay nên ráng giữ nết, đừng để tổn thọ", Cảnh cảm tạ. Trở về bỏ ra hơn mười đồng vàng mua một tỳ nữ nhà thân hào, vừa xấu vừa dữ, sinh được một con trai về sau liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội. Trịnh thì làm quan tới chức Lang trung bộ Lại, khi chết cô gái chôn cất xong trở về, vén rèm kiệu thì không có ai, bấy giờ mới biết nàng không phải là người. Ôi! kẻ vô lương được mới nới cũ, rốt lại tổ lật mà chim cũng bay, trời cao báo ứng cũng thảm độc lắm!

109. Con Hồ Lông Lá
(Mao Hồ)

Nhà nông Mã Thiên Vinh hơn hai mươi tuổi góa vợ, nghèo không cưới nổi vợ khác. Một hôm đang bừa ruộng, thấy một thiếu phụ ăn mặc đẹp đẽ xuyên bờ đạp lúa đi ngang, sắc mặt đỏ sậm, cũng có vẻ phong lưu. Mã ngờ là bị lạc đường, nhìn quanh không có ai bèn đùa trêu chọc, thiếu phụ cũng mỉm cười. Mã muốn giao hoan tại đó, nàng nói “Ban ngày ban mặt làm thế sao được? Chàng cứ về nhà khép cửa chờ, trời tối ta sẽ tới". Mã không tin, nàng thề sẽ tới, Mã nói rõ phương hướng cửa ngõ nhà mình, nàng bèn đi. Đến đêm quả tới, cùng nhau giao hoan, Mã thấy da thịt nàng rất mềm mại, thắp đèn soi thì da đỏ mỏng như trẻ sơ sinh, lông tơ đầy mình, lấy làm lạ. Lại ngờ vì lai lịch nàng không rõ ràng, nghĩ biết đâu là hồ liền đùa hỏi thử, nàng nhận ngay không hề e ngại. Mã nói "Đã là người tiên thì cầu gì được nấy, đã đội ơn thương yêu, sao không giúp luôn cho ta ít tiền qua cơn nghèo?". Nàng nhận lời, đêm sau tới, Mã hỏi tiền, nàng ra vẻ sửng sốt nói "Ta quên bẵng đi mất” lúc sắp đi Mã lại nhắc.

Đêm đến Mã hỏi lại quên món mình xin rồi phải không, nàng cười hẹn hôm khác. Qua mấy hôm Mã lại hỏi, nàng cười rút trong tay áo ra hai nén bạc đáng giá năm sáu lượng vàng, ngoài rìa có hoa văn nhỏ nhìn rất thích mắt. Mã mừng rỡ cất kỹ trong rương, nửa năm sau có việc cần dùng lấy đưa người ta xem, họ nói “Đây là chì mà". Đưa lên răng cắn quả gãy ngay, Mã sợ quá nhặt lấy trở về, đến đêm người đàn bà tới, Mã tức tối trách móc, nàng cười nói "Phần số của chàng mỏng manh lắm, không dùng được tiền thật đâu”, rồi cùng cười bỏ qua. Mã nói "Nghe nói hồ tiên đều là bậc quốc sắc, nhưng rất là không đúng". Người đàn bà nói "Bọn ta đều tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, chàng đã không có phúc hưởng một đồng vàng thì nhan sắc chim sa cá lặn làm sao hưởng thụ được? Ta xấu xí vấn không đủ để phụng sự bậc quý nhân, nhưng so với bọn chân to lưng gù thì là bậc quốc sắc đấy".

Qua mấy tháng chợt đưa cho Mã ba lượng vàng, nói “Chàng hỏi nhiều lần, ta vì thấy mạng chàng không thể có tiền để dành nên không cho, nay đến dịp cưới hỏi, xin đem số tiền cưới một người vợ để tặng chàng thay cho món quà chia tay”. Mã bày tỏ mình không có chuyện mai mối cưới hỏi gì cả, nàng nói "Một hai ngày nữa sẽ có bà mối tới”. Mã hỏi theo nàng thì vợ mình sắc đẹp ra sao, nàng đáp "Chàng muốn có bậc quốc sắc thì sẽ được bậc quốc sắc” Mã nói “Ta không dám mong tới đó, nhưng ba lượng vàng làm sao đủ cưới vợ”, nàng đáp "Đó là chủ ý của Nguyệt lão, không phải sức người làm được đâu”. Mã hỏi sao vội từ giã như thế nàng đáp "Đêm đêm tìm tới, rốt lại cũng không đâu vào đâu, vả lại chàng sẽ có vợ, giữ nhau tới cùng làm gì?". Sáng hôm sau ra đi, đưa Mã một gói thuốc bột, dặn "Sau khi chia tay e chàng lâm bệnh, cứ uống thuốc này là khỏi".

Hôm sau quả có bà mối tới, Mã trước tiên hỏi nhan sắc người con gái, bà ta đáp ở giữa khoảng xấu đẹp, hỏi tiền sính lễ là bao nhiêu, đáp chỉ khoảng bốn năm lượng vàng. Mã không nói giá cao, nhưng muốn nhìn thấy mặt. Bà mối ngại rằng con nhà tử tế không chịu ra mặt, kế hẹn cùng tới đó sẽ tùy cơ tìm cách cho xem mặt. Tới nơi, bà mối vào trước, bảo Mã đứng chờ ngoài thôn, hồi lâu trở ra nói "Được rồi, người họ hàng của ta cũng ở khu nhà ấy, xin chàng giả tới thăm người họ hàng của ta mà đi qua, chỉ cách gang tấc có thể nhìn rõ". Mã theo lời, quả nhiên thấy cô gái ngồi trên sảnh đường, ngã mình xuống giường sai người gãi lưng. Mã đi ngang nhìn lướt vào, thấy mặt mũi nàng quả đúng như bà mối đã nói.

Đến lúc bàn chuyện sính lễ, nhà gái không kèo nài gì cả, chỉ xin được một hai lượng vàng để mua sắm chút tư trang cho cô gái, Mã còn cò kè xin bớt. Kế nộp tiền sính lễ, tạ ơn bà mối và người làm hôn thư xong tính ra vừa hết ba lượng vàng, cũng không tốn thêm đồng nào. Kế chọn được ngày lành giờ tốt đón dâu, vợ vào tới nhà, Mã nhìn thì thấy bụng ỏng lung gù, cổ rụt như cổ rùa, nhìn xuống gấu quần thấy đôi hài dài cả thước mới sực nghĩ ra lời hồ nói là có lý do.

Dị Sử thị nói:Tùy theo người mình gặp mà hóa thân hiện hình, có lẽ là lời hồ nữ đặt ra để đùa cợt, nhưng lời nói về phúc trạch thì quả rất đáng tin. Ta vẫn nói không phải là tổ tiên tu hành mấy đời thì không thể làm quan to, không phải là chính mình tu hành mấy đời thì không thể cưới vợ đẹp. Kẻ nào tin thuyết nhân quả ắt không cho rằng ta nói chuyện hoang đường.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 110 -
Thanh Mai (Thanh Mai)

Trình sinh người Bạch Hạ (thuộc huyện Giang Ninh tỉnh Giang Tô) tính không không chịu câu thúc. Một hôm từ ngoài về cởi đai áo thấy nặng như có vật gì bám vào, nhìn xuống không thấy gì nhưng vừa ngoảnh đi thì có cô gái sau áo hiện ra, vén tóc mỉm cưỡi, xinh đẹp tuyệt trần. Trình ngờ là ma, cô gái nói "Thiếp không phải là ma mà là hồ”. Trình nói "Đã được giai nhân thì cho dù là ma cũng không sợ, huống chi là hồ” bèn cùng nhau giao hoan. Hai năm sau nàng sinh được đứa con gái, đặt tên là Thanh Mai, thường nói với Trình đừng lấy vợ, ta sẽ sinh con trai cho chàng. Trình tin lời không lấy vợ, thân thích bạn bè đều đàm tiếu, Trình xiêu lòng lại lấy con gái nhà họ Vương ở Hồ Đông. Hồ nghe tin tức giận, tới cho con gái bú rồi giao cho Trình nói "Đây là món hàng phải bù tiền của nhà anh, nuôi sống hay giết chết là tùy anh, việc gì ta phải làm vú em cho người khác?", rồi ra của đi thẳng.

Thanh Mai lớn lên thông minh, dáng mạo thanh tú giống mẹ. Kế Trình bệnh chết, Vương thị tái giá gửi Thanh Mai cho người chú họ nuôi. Chú phóng đãng vô hạnh, định đem bán để kiếm lợi. Gặp lúc có Tiến sĩ họ Vương còn chờ bổ quan ở nhà, nghe tiếng nàng thông minh, liền bỏ món tiền lớn mua về sai hầu hạ con gái mình là A Hỷ. Hỷ năm ấy mười bốn tuổi, dung nhan tuyệt thế, thấy Thanh Mai thích lắm, cho ngủ chung phòng. Mai cũng khéo hầu hạ, có thể nhìn mặt biết ý chủ nên cả nhà đều thương mến. Trong huyện có Trương sinh tự Giới Thụ, nhà rất nghèo không có của cải gì, thuê nhà Vương ở, tính rất hiếu thuận, cẩn trọng chăm học. Thanh Mai tình cờ sang nhà, thấy sinh ngồi trên bậc thểm đá ăn cháo tấm, vào nhà nói chuyện với bà mẹ thì thấy trên bàn có cái giò heo. Lúc ấy cha sinh ốm, sinh vào đỡ cha đi tiểu, nước tiểu dây bẩn ra áo sinh, cha thấy lấy làm ân hận, sinh vội che vết bẩn ra ngoài tự gột rửa, chỉ sợ cha biết.

Mai thấy thế lạ lắm, về kể rồi nói với cô chủ “Người khách thuê nhà của nhà ta không phải là kẻ tầm thường, nương tử không muốn lấy người chồng xứng đáng thì thôi, còn muốn lấy được người xứng đáng thì đó chính là Trương sinh đấy". Cô gái sợ cha mẹ chê sinh nghèo, Mai nói "Không phải, việc này là ở nương tử, nếu thấy là được, thiếp sẽ nói riêng để chàng nhờ người làm mối. Phu nhân ắt sẽ gọi nương tử tới hỏi, nương tử chỉ cần vâng dạ là tốt đẹp thôi”. Cô gái lại sợ nghèo hèn suốt đời sẽ bị người ta chê cười, Mai nói “Thiếp dám nói là biết xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ, quyết không lầm đâu”. Hôm sau Mai qua nói chuyện với bà Trương, bà hoảng sợ cho lời ấy là điềm không lành. Mai nói "Tiểu thư nghe nói tới công tử cho là hiền đức, thiếp đã biết ý nên mới nói thế. Người mối tới, hai người chúng ta nói giúp chêm thì việc có thể xong, mà nếu không được thì công tử cũng có gì nhục?", bà Trương nói "Được rồi", rồi nhờ bà bán hoa họ Hầu tới nói.

Phu nhân nghe nói phì cười, kể lại với Vương, Vương cũng cười lớn, gọi con gái tới kể lại ý Hầu thị. Cô gái chưa trả lời, Thanh Mai đã ra sức tán tụng Trương sinh hiền đức, đoan chắc là sẽ quý hiển. Phu nhân lại hỏi “Đây là việc trăm năm của con, nếu ăn nổi cháo tấm thì ta sẽ gả ngay". Cô gái cúi đầu hồi lâu rồi ngoảnh mặt vào vách nói "Giàu nghèo là số, nếu số tốt thì có nghèo cũng không lâu, mà kẻ không nghèo thì không bao giờ tới bước đường cùng. Còn nếu số không tốt thì những bậc vương tôn gấm vóc trở thành không tấc đất cắm dùi có ít đâu? Việc này xin tùy cha mẹ”. Bản ý Vương bàn với con gái là cũng định tìm một trận cười, khi nghe nàng nói thế thì không vui, nói "Ngươi muốn lấy họ Trương sao?” Cô gái không đáp, hỏi lần nữa vẫn không đáp, Trương tức giận nói "Quân này cốt cách bần tiện không khá được, lại muốn xách bị làm vợ thằng ăn mày, sao không biết nhục mà chết đi cho rồi!". Cô gái đỏ mặt uất ức, rưng rưng nước mắt bước ra, bà mối cũng lủi trốn. Thanh Mai thấy việc không xong, muốn tự làm mối cho mình.

Mấy hôm sau đang đêm qua nhà sinh. Sinh đang đọc sách, giật mình hỏi tới làm gì, thấy nàng ăn nói úp mở liền nghiêm nét mặt từ khước. Mai khóc nói “Thiếp là con nhà tử tế chứ không phải kẻ dâm bôn, thấy chàng hiền đức nên xin theo nương tựa". Sinh nói “Nàng yêu mà bảo ta là người hiền đức, nhưng đang đêm qua lại thì kẻ tự trọng cũng không làm, huống hồ là người hiền đức ư? Phàm trước tư thông mà sau nên vợ chồng, người quân tử còn cho là không được, huống chi nếu không thể nên vợ chồng thì hai bên sẽ tự đặt mình vào đâu?” Mai hỏi “Vậy nếu vạn nhất mà nên được vợ chồng thì có chịu cưu mang cho nhau không?". Sinh đáp “Được người như nàng thì còn mong gì hơn, nhưng có ba điều không thể làm sao được nên không dám khinh suất nhận lời". Mai hỏi "Ba điều gì?", sinh đáp "Nàng không thể tự chủ thì không thể làm sao được, nếu nàng có thể tự chủ mà cha mẹ ta không bằng lòng thì không thể làm sao được, nếu cha mẹ ta bằng lòng mà thân nàng cao giá, ta nghèo không lo nổi thì càng không biết làm sao được. Thôi nàng về ngay đi, chuyện giàn bầu ruộng dưa* đáng sợ lắm”. Mai sắp đi lại dặn "Nếu chàng có lòng, xin cùng lo toan", sinh nhận lời.

* Chuyện giàn bầu ruộng dưa: nguyên văn là "qua lý chi hiềm", lấy ý câu "Qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan" (Đi ngang ruộng dưa thì đừng xỏ giày, đi ngang giàn bầu thì đừng sửa mũ), thì việc người quân tử thận trọng để tránh bị hiềm nghi.

Mai về, cô gái hỏi đi đâu, bèn quỳ mà tự thú. Cô gái giận là dâm bôn toan đánh đòn, Mai khóc nói không có làm chuyện gì khác nhân kể thật mọi chuyện. Cô gái than “Không đi lại cẩu thả là có lễ phải thưa với cha mẹ là có hiếu, không khinh suất nhận lời là có tín. Có ba đức ấy ắt trời sẽ giúp, không lo gì nghèo đâu”. Kế hỏi “Em định thế nào?” Mai thưa "Làm vợ chàng". Cô gái cười nói "Con nhãi ngây có thể tự chủ sao?". Mai nói "Không được thì chỉ còn chết thôi". Cô gái nói "Ta sẽ làm cho ngươi được như nguyện", Mai dập đầu lạy tạ.

Lại qua vài hôm, Mai nói với cô gái "Hôm trước là nói đùa hay quả có lòng từ bi thật? Nếu quả thế thì còn chút việc mọn xin rủ lòng thương cho trọn". Cô gái hỏi việc gì, Mai đáp "Trương sinh không có nhiều tiền cưới vợ mà tiểu tỳ cũng không có sức tự chuộc mình, nếu đòi nhiều tiền thì có chịu gả thiếp cũng như không gả mà thôi". Cô gái ngẫm nghĩ rồi nói "Việc này thì ta không làm được rồi. Ta nói gả chồng cho ngươi sợ còn chưa được, huống hồ còn nói không đòi tiền chuộc, điều ấy thì đại nhân ắt không nghe, mà ta cũng không dám nói kia". Thanh Mai nghe thế nước mắt ròng ròng, chỉ xin thương xót cứu vớt. Cô gái nghĩ hồi lâu rồi nói "Thôi vậy, ta có để dành riêng được vài lượng vàng, sẽ dốc túi ra giúp”.

Mai lạy tạ, nhân lén qua nói với Trương. Mẹ Trương cả mừng tìm đủ cách vay mượn được đủ số cất đó chờ tin mừng. Vừa gặp lúc Vương được bổ làm Huyện lệnh Khúc ốc (tỉnh Sơn Tây), Hỷ nhân dịp nói với mẹ “Thanh Mai đã lớn, nay cha sắp phó nhiệm, chẳng bằng cho nó ra". Phu nhân vốn thấy Thanh Mai khôn ngoan quá, sợ lại rủ rê con gái làm chuyện không hay, thường muốn gả đi mà sợ nàng không bằng lòng, nghe nàng nói thế mừng lắm. Qua hai ngày có người đàn bà làm thuê lên thưa lại ý của họ Trương, Vương cười nói "Nhà ấy chỉ xứng với tỳ nữ nhà ta thôi, lần trước sao càn rỡ thế. Nhưng mua tỳ thiếp nhà quan thì phải trả giá gấp đôi". Cô gái vội bước lên nói "Thanh Mai hầu hạ con đã lâu, nếu đem bán làm thiếp thì thật không nỡ". Vương bèn nhắn nhà họ Trương mang đủ số tiền mua ngày trước qua làm giấy tờ rồi gả Thanh Mai cho sinh.

Về tới nhà chồng, nàng hầu hạ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ân cần chăm sóc còn hơn cả sinh, mà làm lụng lại siêng năng, ăn uống cực khổ vẫn vui vẻ, vì thế cả nhà ai cũng yêu kính Thanh Mai. Mai lại làm thêm việc thêu thùa, hàng bán rất chạy, người mua cứ tới chờ ở cửa chỉ sợ không mua được, có thêm ít tiền nên nhà cũng đỡ túng thiếu. Lại thường khuyên chồng đừng lo việc nhà mà bỏ lỡ việc học, mọi chuyện trong nhà tự xin cáng đáng cả. Nhân chủ cũ lên đường phó nhiệm, nàng qua tiễn A Hỷ. Hỷ thấy nàng khóc nói "Em có nơi có chốn rồi, chứ ta thì không biết sẽ ra sao". Mai đáp “Được thế này là nhờ ai mà dám quên, nhưng xin đừng nói là không bằng tiểu tỳ làm tiểu tỳ giảm thọ", rồi khóc mà chia tay nhau.

Vương tới đất Tấn nửa năm thì phu nhân chết, quan tài quàn ở trong chùa. Lại hai năm sau Vương vì tham tang bị cách chức, phải bồi thường hàng vạn, dần dần nghèo túng không đủ ăn, đầy tớ đều bỏ trốn. Lúc ấy có trận dịch lớn, Vương mắc bệnh rồi chết, chỉ còn một bà già ở với cô gái, không bao lâu bà già cũng chết, cô gái càng lênh đênh khổ cực. Có bà già láng giềng khuyên đi lấy chồng, nàng nói "Ai chôn cất được cha mẹ sẽ xin theo về. Bà già thương xót cho đấu gạo rồi về, nửa tháng sau lại qua nói "Ta đã hết sức giúp nương tử nhưng việc này khó quá! Người nghèo thì không thể chôn cất cha mẹ cô, kẻ giàu thì chê cô là hậu duệ của gia dình sa sút, biết làm thế nào? Còn có một cách nhưng sợ nương tử không theo được thôi". Nàng hỏi "Cách gì?” bà đáp "Ở đây có Lý lang muốn lấy vợ lẽ, nếu nhìn thấy dung nhan nương tử thì dù đòi tống táng cha mẹ thật linh đình ắt cũng không tiếc tiền".

Nàng khóc òa nói "Thiếp là con quan mà phải đi làm lẽ người ta sao?”, bà già im lặng bỏ đi. Kế mỗi ngày nàng chỉ có một bữa cơm, cố sống để chờ người hỏi cưới nhưng được nửa năm thì không sao chi trì được nữa. Một hôm bà già tới, nàng khóc nói “Khốn đốn thế này chỉ muốn tự tử, sở dĩ còn chần chừ sống tạm chỉ vì quan tài cha mẹ còn đó, mình đã phơi xác nơi ngòi rãnh thì ai thu nhặt nắm xương song thân, nên nghĩ lại chăng bằng nghe theo lời bà". Bà già bèn dẫn Lý tới, vừa thoạt thấy nàng đã rất ưa thích, tức thì bỏ tiền ra lo việc tống táng, hai chiếc quan tài hạ huyệt xong thì đón cô gái về. Vào chào vợ cả, vợ cả vốn dữ tợn hay ghen, lúc đầu Lý chưa dám nói là thiếp, chỉ nói thác là tỳ nữ mới mua. Đến khi gặp nàng vợ Lý đùng đùng nổi giận, đánh đập đuổi ra không cho vào nhà. Cô gái tóc tai rũ rượi, nước mắt giàn giụa, không còn nơi lui tới. Có ni cô già đi ngang thấy thế mời về ở cùng, nàng mừng rỡ theo về.

Vào tới trong am, nàng lạy xin xuống tóc cho, ni cô không cho, nói “Ta thấy nương tử không phải là kẻ chịu kiếp phong trần, trong am chén sành gạo xấu cũng tạm đủ sống, cứ tạm ở lại chờ thời, đến thời cô sẽ tự đi mà". Không bao lâu, bọn vô lại trong chợ thấy nàng đẹp, cứ tới đập cửa buông lời cợt nhã làm vui, ni cô không ngăn cấm được, nàng gào khóc định tự tử. Ni cô tới xin ông Mỗ ở bộ Lại ra yết thị nghiêm cấm đám thiếu niên vô lại mới hơi nín tiếng. Sau đang đêm có kẻ khoét tường nhà chùa, ni cô hô hoán mới bỏ đi, vì thế lại báo lên quan bộ Lại, bắt được tên cầm đầu đưa tới quận phạt roi mới dần dần được yên. Lại được hơn năm, có vị công tử nhà quyền quý đi qua am, thấy cô gái vô cùng kinh ngạc, ép ni cô dỗ dành nàng, lại đưa nhiều tiền đến đút lót. Ni cô tìm lời dịu ngọt nói “Nàng ta là con nhà trâm anh, không chịu làm lẽ, công tử cứ về, để thong thả chắc chắn ta sẽ làm được theo lệnh". Lúc công tử đi rồi, cô gái toan uống thuốc độc tự tử, đêm nằm mơ thấy cha tới, buồn thảm nói "Ta không theo ý con khiến con phải tới nông nỗi này, ăn năn đã muộn nhưng con đừng vội chết, ước nguyện cũ vẫn có thể thành mà", nàng lấy làm lạ.

Sáng ra rửa mặt xong, ni cô nhìn thấy giật mình nói "Nhìn mặt em trọc khí đã tiêu hết, bọn càn rỡ không đáng lo nữa. Phúc sẽ tới, đừng quên già này đấy”, chưa dứt lời thì nghe tiếng gõ cửa, cô gái thất sắc nghĩ ắt là đầy tớ nhà công tử, ni cô ra mở cửa quả đúng. Bọn chúng xúm vào hỏi tính việc thế nào, ni cô ngọt ngào giả lả xin hoãn ba ngày nữa. Chúng nhắn lại lời chủ "Nếu việc không xong thì mụ vãi liệu hồn", ni cô líu ríu vâng dạ, chúng bèn bỏ đi. Cô gái vô cùng đau xót, lại muốn tự tử, ni cô ngăn lại. Nàng lo ba ngày nữa chúng trở lại không biết trả lời thế nào, ni cô nói “Có lão thân ở đây, chém giết gì cứ để ta chịu cho”.
Hôm sau vừa đến buổi trưa thì mưa như trút nước, chợt nghe có mấy người đập cửa réo gọi ầm ĩ, cô gái nghĩ rằng lại có chuyện, khiếp sợ không biết làm sao. Ni cô đội mưa ra mở cổng, thấy có chiếc kiệu thơm dừng lại, mấy người tỳ nữ đỡ một người đẹp bước ra, đám tùy tùng đều oai vệ, mũ lọng rất lộng lẫy. Ni cô ngạc nhiên hỏi thì họ đáp là gia quyến quan Tư lý tạm vào tránh mưa, bèn đưa vào trong điện dời sập mời ngồi. Bọn tỳ nữ tớ gái túa vào thiền phòng tìm chỗ nghỉ, vào trong thấy cô gái đẹp quá liền chạy ra bẩm với phu nhân. Không bao lâu tạnh mưa, phu nhân đứng lên xin đi xem thiền phòng, ni cô liền đưa vào. Phu nhân nhìn thấy cô gái giật nảy mình nhìn không chớp mắt, nàng cũng nhìn lại hồi lâu, thì ra phu nhân không phải ai khác mà chính là Thanh Mai.

Hai người đều khóc lớn, nhân mới cùng kể lại chuyện đã qua, mới biết Trương ông đã ốm chết, Trương sinh mãn tang xong, liên tiếp đỗ thi hương rồi thi hội, được bổ làm Tư lý, đưa mẹ tới nơi phó nhiệm trước còn gia quyến đi sau. Cô gái than “Hôm nay nhìn nhau sao thấy như một trời một vực?". Mai cười đáp "May là nương tử gặp bước gian truân chưa lấy chồng, chính vì trời muốn cho chúng ta sum họp đấy thôi. Nếu không bị mưa cản trở thì làm sao có cuộc gặp gỡ này được, bên trong là có quỷ thần chứ không phải sức người làm được đâu”. Bèn lấy mũ ngọc áo gấm ra giục cô gái thay, nàng cúi đầu ngần ngừ, ni cô cũng khuyên nhủ. Cô gái lo cùng ở chung thì danh không được thuận, Mai nói “Danh phận đã có từ trước, tiểu tỳ đâu đám quên ơn lớn, vả lại cứ nghĩ xem Trương lang có phải là kẻ phụ nghĩa đâu?", rồi ép nàng thay quần áo, từ biệt ni cô ra đi.

Tới nơi, mẹ con Trương đều mừng rỡ, cô gái lạy nói "Ngày nay không mặt mũi nào nhìn mẹ!". Mẹ cười an ủi, nhân bàn chọn ngày làm lễ hợp cẩn. Cô gái nói "Nếu trong am chỉ còn một đường sống bằng sợi tơ thì cũng không chịu theo phu nhân tới đây đâu, nếu còn nghĩ đến tình cũ, thì xin cất cho một túp lều để đặt tấm bồ đoàn ngồi niệm phật là đủ. Mai cười không nói gì, đến ngày ôm các thứ trang sức lộng lẫy đến, cô gái hai bề không biết tính sao. Giây lát nghe tiếng đàn sáo rộn rã, nàng càng không tự chủ được Mai sai đám tỳ nữ ép nàng mặc áo rồi kéo dìu ra. Thấy sinh mặc triều phục vái lạy, nàng bất giác cũng vái theo. Mai kéo nàng vào động phòng, nói "Để trống chỗ này chờ chị lâu rồi", kế ngoảnh nhìn sinh nói "Đêm nay được dịp đền ơn phải làm cho tốt đấy", rồi quay người bước ra.

Cô gái nắm ống quần kéo lại, Mai cười nói “Đừng giữ thiếp lại, chuyện này thì không làm thay nhau được đâu”, rồi gỡ ngón tay cô gái ra bỏ đi. Thanh Mai thờ phụng cô gái rất kính cẩn, không dám giành riêng phần ân ái, mà nàng vẫn thẹn thùng áy náy. Vì vậy mẹ bảo cùng gọi nhau là phu nhân, nhưng Thanh Mai vẫn giữ lễ tỳ thiếp, không dám bê trễ. Ba năm sau Trương được triệu về kinh, qua am ni cô, đem năm trăm lượng vàng để tạ ơn ni cô không nhận, cố ép mới nhận hai trăm lượng, dựng đền Đại sĩ* lập bia cho Vương phu nhân. Sau Trương làm quan tới chức Thị lang, Trình phu nhân sinh được hai trai một gái, Vương phu nhân sinh được bốn trai một gái. Trương dâng thư trần tình, hai người đều được phong là Phu nhân.

*Đại sĩ: tức Quan âm Đại sĩ, một danh hiệu khác của Quan Thế âm Bồ tát.

Dị Sử thị nói: Trời sinh người đẹp là để đền đáp cho những kẻ tài giỏi, nhưng những bậc vương công trên đời lại đem tặng cho đám con em nhà giàu sang khiến cho tạo vật có chuyện tranh giành. Nhưng lại ly ly kỳ kỳ, làm đủ cách để tác hợp cho người, hóa công cũng khổ làm sao! Chỉ có Thanh phu nhân riêng biết kẻ anh hùng lúc còn hàn vi, quyết tâm theo bằng được, đến chết mới thôi. Những kẻ nghiễm nhiên đội mão mặc áo lại bỏ đức hạnh mà mong sang giàu, sao mà thua trí một người tỳ nữ tới mức như vậy.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 111 -
Điền Thất Lang
(Điền Thất Lang)

Vũ Thừa Hưu người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), tính thích giao du, bạn bè đều là kẻ sĩ có danh tiếng. Đêm mơ thấy một người nói "Anh kết giao khắp trong nước nhưng đều là bạn thừa, chỉ có một người có thể cùng chia hoạn nạn thì lại không biết". Hỏi đó là ai, người ấy đáp "Điền Thất Lang chứ ai", Vũ tỉnh dậy lấy làm lạ. Sáng ra gặp bạn bè nào cũng hỏi thăm Thất Lang là ai, khách có người biết đó là người thợ săn ở thôn Đông. Vũ kính cẩn tới yết kiến, cầm roi ngựa gõ cửa. Không bao lâu có một người bước ra, thấy khoảng hơn hai mươi tuổi lưng ong mắt báo, đội khăn mềm, vận áo ngắn quần cụt vá nhiều chỗ, chắp tay ngang trán hỏi khách ở đâu tới. Vũ xưng tên họ, nói thác là đi đường mệt mỏi muốn vào nghỉ nhờ. Hỏi Thất Lang, người ấy đáp "Chính là ta đây" rồi mời khách vào nhà. Thấy có mấy gian nhà nát, vách chống bằng cây, vào một phòng nhỏ thấy trên cột treo đầy da cọp da sói mà không có giường ghế gì để ngồi, Thất Lang trải một tấm da cọp dưới đất.

Vũ cùng Thất Lang trò chuyện, thấy lời lẽ thật thà rất thích, liền tặng tiền để làm ăn. Thất Lang không nhận, Vũ cố ép, Thất Lang bèn cầm vào nhà trong thưa lại với mẹ, giây lát trở ra đưa trả không lấy. Vũ ép đôi ba lần, bà mẹ lọm khọm bước ra, nghiêm sắc mặt nói "Già này chỉ có đứa con đó, không muốn sai nó thờ người sang". Vũ thẹn ra về, dọc đường ngẫm nghĩ không hiểu ý bà thế nào, có kẻ tùy tùng lúc nãy đứng sau nhà nghe được lời bà mẹ bèn kể lại cho Vũ. Vốn là khi Thất Lang cầm tiền vào thưa, bà mẹ nói "Ta vừa thấy mặt công tử có sắc mờ tối, ắt sẽ gặp họa lớn. Thường nghe Được người biết thì phải chia sẻ điều lo âu, được người giúp thì phải báo đáp lúc hoạn nạn, kẻ giàu lấy tiền báo đáp, người nghèo lấy nghĩa báo đáp. Nay vô cớ mà được cho nhiều tiền là điềm không lành, e người ta muốn con đem cái chết báo đáp đấy".

Vũ nghe thế rất phục bà mẹ giỏi, nhưng càng dốc lòng hâm mộ Thất Lang. Hôm sau làm tiệc mời nhưng Thất Lang từ chối không tới, Vũ bèn tới nhà đòi uống rượu, Thất Lang tự đi mua rượu, đem khô nai ra đãi khách hết sức niềm nở. Qua hôm sau nữa Vũ mời, Thất Lang mới tới, cùng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ nhưng tặng tiền bạc thì không nhận, Vũ nói thác là mua da cọp mới nhận. Thất Lang về nhà xem lại số da cọp để dành thì không đủ so với số tiền, tự nghĩ phải đi săn nữa mới đủ giao nộp. Vào núi liền ba ngày không săn được gì. Gặp lúc vợ bệnh phải ở nhà lo thuốc thang không rảnh đi săn được, qua mười ngày vợ chết phải lo chôn cất, số tiền nhận được đem tiêu gần hết. Vũ tới điếu tang, phúng viếng rất hậu. Chôn cất vợ xong, Thất Lang lại mang nỏ vào núi, càng nóng lòng trả nợ Vũ, nhưng rốt lại vẫn không săn được gì.

Vũ nghe biết chuyện, khuyên đừng gấp, mong Thất Lang tới chơi một lần nhưng Thất Lang vẫn băn khoăn về nỗi còn thiếu nợ nên không chịu tới. Vũ đòi giao số da đã có để Thất Lang tới, Thất Lang kiểm lại những bộ da cũ thấy mối mọt làm hư, lông rụng mất sạch, càng thêm buồn bã. Vũ biết vội tới nhà, hết lời an ủi rồi vào xem những tấm da hư, nói “Thế này lại hay, ý ta là không cần những da có lông”. Rồi gỡ xuống đem ra, mời Thất Lang cùng về nhà chơi, Thất Lang không chịu đi, Vũ đành về một mình. Thất Lang vẫn nghĩ ngợi về việc còn thiếu tiền Vũ, lại mang lương khô vào núi, qua vài đêm bắn được một con cọp, mang cả về đưa cho Vũ. Vũ mừng bày tiệc khoản đãi, mời ở lại chơi ba hôm. Thất Lang nhất quyết từ chối, Vũ sai khóa chặt cổng không cho về.

Tân khách thấy Thất Lang quê mùa chất phác, thầm cho rằng công tử chọn bạn sai, nhưng Vũ lo toan cho Thất Lang hơn tất cả khách khứa khác. Vũ mang áo mới cho thay, Thất Lang chối từ không nhận, bèn nhân lúc Thất Lang ngủ lén đánh đổi, Thất Lang bất đắc dĩ phải mặc áo mới. Sau về nhà lại vâng lời mẹ đem trả áo mới đòi áo cũ, Vũ cười nói “Về thưa giùm với lão mẫu rằng đã cắt áo cũ ra may lót giày rồi”. Từ đó Thất Lang thường sai mang thịt thỏ thịt hươu tới biếu, nhưng Vũ mời thì không tới nữa. Một hôm Vũ tới nhà Thất Lang, gặp lúc Thất Lang đi săn chưa về bà mẹ ra đứng dựa cửa nói "Từ nay xin đừng rủ rê con ta nữa, cho khỏi mất lòng". Vũ lễ phép chào, ngượng ngùng ra về.
Nửa năm sau, chợt gia nhân vào báo “Thất Lang vì tranh giành con beo săn được mà đánh chết người, hiện đã bắt giải lên quan rồi". Vũ cả kinh, lập tức tới thăm thì Thất Lang đã bị đóng gông hạ ngục, gặp Vũ không nói gì, chỉ dặn "Từ nay phiền ông săn sóc giùm mẹ già". Vũ đau xót trở ra, vội đem nhiều tiền đút lót quan huyện, lại đem trăm lượng vàng nhét cho gia đình người bị giết. Hơn tháng họ không kiện cáo, quan bèn tha Thất Lang về, Bà mẹ cảm khái nói “Mạng sống của con nay là nhờ Vũ công tử mà có, không phải là già này được thương tiếc nữa. Chỉ cầu mong công tử suốt đời không gặp tai họa, thì đó là cái phúc của con". Thất Lang muốn tới tạ ơn Vũ, bà nói “Con tới thì tới, nhưng gặp công tử đừng có tạ ơn, ơn nhỏ còn tạ được chứ ơn lớn không tạ được đâu”.

Thất Lang tới nhà Vũ, Vũ dịu ngọt an ủi. Thất Lang chỉ dạ dạ, người nhà có kẻ lấy làm quái lạ vì hời hợt, nhưng Vũ mừng là thật thà, đối xử càng tử tế hơn. Từ đó thường tới chơi nhà công tử hàng hai ba ngày, tặng cho vật gì cũng nhận, không chối từ mà cũng không tặng gì đáp lễ. Gặp ngày sinh nhật của Vũ, khách khứa và bọn tùy tùng đông đúc, tối ngủ lại chật nhà, Vũ tới ngủ chung với Thất Lang trong một phòng nhỏ, ba người đầy tớ trải rơm nằm dưới giường. Qua canh hai chúng đều ngủ say, hai người vẫn nhỏ to trò chuyện.

Thanh bội đao của Thất Lang treo trên vách bỗng tự vọt lên, tuốt ra khỏi vỏ đến mấy tấc, loảng xoảng thành tiếng, lóe sáng như chớp. Vũ giật mình, Thất Lang cũng vùng dậy hỏi ba người nằm dưới giường là những ai, Vũ đáp đều là tôi tớ. Thất Lang nói “Trong bọn này ắt có kẻ ác”. Vũ hỏi sao biết, Thất Lang đáp,Thanh đao này mua ở nước ngoài, giết người chưa từng dính máu, dòng họ ta đeo đã ba đời, chặt đầu người có tới hàng ngàn mà vẫn sắc bén như mới mài, gặp kẻ ác thì khua vang tuốt ra, chắc sắp phải giết người rồi. Xin công tử nên thân người quân tử, xa kẻ tiểu nhân thì may ra tránh khỏi tai họa.

Vũ gật đầu, Thất Lang vẫn không vui, trằn trọc mãi trên giường. Vũ nói "Lành dữ có số, sao lại lo lắng quá thế?”. Thất Lang đáp “Ta chẳng sợ gì nguy hiểm, chỉ vì còn có mẹ già thôi". Vũ nói "Làm gì mà tai họa tới mau thế được?", Thất Lang đáp "Không tới thì càng hay". Đại khái ba người đầy tớ ngủ dưới giường, một là Lâm Nhi, Vũ rất vừa ý, một là đứa tiểu đồng khoảng mười hai mười ba tuổi, Vũ thường sai phái này nọ, một là Lý ứng tính rất bướng bỉnh, thường vì chuyện nhỏ cãi lại công tử, Vũ đã nhiều lần nổi giận. Đêm ấy Vũ nghĩ thầm chuyện này chắc có dính líu tới nó nên sáng ra gọi tới nói khéo rồi bảo nó đi.

Con trưởng của Vũ là Thân, lấy Vương thị làm vợ. Một hôm công tử đi vắng, sai Lâm Nhi coi phòng sách, trong phòng có cây cúc đang trổ hoa. Vợ Thân nghĩ cha chồng đi vắng, phòng sách chắc vắng vẻ bèn một mình tới hái hoa cúc. Lâm Nhi chợt xông ra níu kéo trêu ghẹo, nàng toan bỏ chạy thì Lâm Nhi bế xốc vào phòng. Nàng kêu gào chống cự xám mặt khản tiếng, Thân chạy vào Lâm Nhi mới buông nàng ra bỏ trốn. Vũ về nghe chuyện, nổi giận tìm Lâm Nhi nhưng không rõ đã trốn đi đâu, qua hai ba hôm mới rõ nó tới xin làm tôi tớ trong nhà quan Ngự sử Mỗ. Mỗ làm quan ở kinh, việc nhà đều giao cho người em, Vũ lấy tình thân gởi thư đòi trả Lâm Nhi, em Mỗ cứ để đó không trả.

Vũ càng tức, thưa lên quan huyện, quan tuy có trát bắt mà lính không bắt, quan cũng không hỏi. Vũ đang tức giận thì gặp lúc Thất Lang tới, Vũ nói "Lời ông nói đã nghiệm rồi”. Nhân kể lại mọi chuyện, Thất Lang nghe xong sắc mặt tái xanh không nói câu nào, bỏ về ngay. Vũ sai bọn gia nhân đắc lực theo dõi Lâm Nhi, tối đến Lâm Nhi ra đường bị bọn kia bắt được trói lại mang về nộp Vũ. Vũ lấy gậy đánh, Lâm Nhi gào thét chửi mắng rất hỗn láo. Chú Vũ tên Hằng vốn là bậc trưởng giả sợ cháu nóng giận gây họa, khuyên đưa Lâm Nhi lên để quan trị tội. Vũ nghe theo, giải Lâm Nhi lên công đường, nhưng nhà Ngự sử gởi thư tới quan huyện bèn thả Lâm Nhi ra, cho muốn theo ai tùy ý.

Lâm Nhi càng rông càn, trước chỗ đông người bịa đặt nói vung lên rằng Vũ tư thông với con dâu, Vũ không nhịn được, phẫn uất muốn chết. Hôm sau Vũ tới cổng nhà Ngự sử kêu gào chửi rủa, người chung quanh khuyên giải bảo về. Qua một đêm, chợt gia nhân vào bẩm Lâm Nhi bị người ta giết chết lóc thịt ném xác ngoài đồng trống, Vũ ngạc nhiên mừng rỡ, mới hơi hả dạ. Kế nghe nhà Ngự sử kiện hai chú cháu, Vũ bèn đưa chú tới đối chất, quan huyện không nói năng gì, sai đánh Hằng, Vũ lớn tiếng nói "Đã vu cho tội giết người, lại làm nhục bậc thân sĩ à? Chuyện này cứ hỏi ta, đừng kéo chú ta vào". Quan huyện không thèm nghe, Vũ trợn mắt toan sấn lên, đám nha lại đánh đập ngăn lại. Bọn đánh Hằng đều là chó săn của nhà quan, Hằng lại già yếu, chịu chưa đủ nửa số roi phạt đã tắt hơi chết rồi, quan huyện thấy chú Vũ đã chết cũng không xét xử nữa. Vũ gào thét chửi mắng, quan huyện làm ngơ như không nghe thấy gì đành khiêng xác chú về, căm hờn đau xót không biết làm sao.

Nghĩ muốn bàn với Thất Lang, nhưng không thấy Thất Lang tới điếu tang, tự nghĩ mình đối xử với Thất Lang không tệ, sao lại làm ngơ như kẻ qua đường? Cũng ngờ rằng kẻ giết Lâm Nhi là Thất Lang, nhưng lại nghĩ thế sao không bàn với mình? Bèn sai người tới nhà Thất Lang thăm dò nhưng thấy cửa đóng im ỉm, láng giềng đều không rõ đi đâu. Một hôm em Mỗ đang ngồi trong dinh trò chuyện với quan huyện, gặp ngày nộp củi đuốc, chợt một người tiều phu tới trước mặt, ném gánh củi xuống rút đao sắc sấn vào chém. Em Mỗ hoảng sợ giơ tay lên đỡ, lưỡi đao lướt qua cánh tay rơi xuống, lại thêm nhát nữa rơi đầu. Quan huyện cả sợ bỏ chạy, tiều phu còn nhìn quanh thì dám nha lại vội đóng cổng, cầm gậy gộc la lớn xúm lại, tiều phu liền tự đâm cổ chết. Mọi người nhao nhao xúm lại nhận mặt, biết đó là Điền Thất Lang. Quan huyện hoàn hồn mới trở ra xem xét, thấy Thất Lang nằm cứng đờ giữa vũng máu, tay còn cầm đao. Vừa tới gần nhìn kỹ, xác chết chợt vùng dậy chém bay đầu quan huyện rồi lại ngã xuống. Lính huyện tới bắt bà mẹ Thất Lang thì bà đã bỏ trốn từ mấy hôm trước.

Vũ nghe Thất Lang chết, chạy tới khóc lóc rất đau thương, có người nói là chính Vũ sai Thất Lang làm thế, Vũ bán hết điền sản lo lót mới được vô sự. Xác Thất Lang bị vứt ra đồng trống hơn ba chục ngày, chim muông thay nhau canh giữ, Vũ thu nhặt về tống táng rất hậu. Con trai Thất Lang tới lưu ngụ ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) đổi họ là Đồng, lớn lên đi lính, nhờ quân công làm tới chức Đồng tri tướng quân, khi trở về Liêu Dương thì Vũ đã hơn tám mươi tuổi, chỉ cho biết mồ cha.

Dị Sử thị nói:Không khinh suất nhận một đồng tiền, thì đúng là không quên báo ơn một bữa cơm, người mẹ Thất Lang mới hiền làm sao! Còn như Thất Lang chưa phát tiết nỗi hận nhưng chết rồi vẫn trút hờn được, sao mà thiêng như thế. Nếu Kinh Kha* làm được như vậy, thì ngàn năm đâu còn mối hận không đâm được vua Tần. Nếu có được người như thế thì có thể vá những chỗ lưới trời bị lọt**. Thế đạo mênh mang, hận là những kẻ như Thất Lang quá ít, thật đau lòng thay!

*Kinh Kha: kiếm khách nổi tiếng thời Chiến quốc, nhận lệnh Thái tử Đan nước Yên vào đất Tần ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công.

**Vá những chỗ lưới trời bị lọt: lấy ý từ câu "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu” (Lưới trời giăng giăng, thưa mà không lọt), ý nói những kẻ làm điều ác trước sau cũng bị trừng trị. Vá những chỗ lưới trời bị lọt đây ý nói có những kẻ làm ác không bị trừng trị nên phải có những người như Điền Thất Lang để thi hành đạo trời.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 112 -
Chợ Biển La Sát
(La Sát Hải Thị)

Mã Tuấn tự Long Môi là con nhà buôn bán, dung mạo đẹp đẽ. Lúc trẻ phóng túng, giỏi ca múa, thường đi theo phường hát, lấy khăn gấm bịt đầu trông xinh xắn như con gái, nhân đó có hiệu là Tuấn Nhân. Năm mười bốn tuổi vào học trường huyện, lập tức có tiếng là học giỏi. Cha già yếu thôi buôn bán về nghỉ ở nhà, bảo sinh rằng "Mấy quyển sách kia đói không thể nấu, rét không thể mặc, con cứ nối nghiệp cha mà đi buôn thôi". Từ đó Mã đi buôn, theo người ta ra buôn ngoài biển, bị bão trôi dạt mấy ngày đêm tới một nơi đô hội. Người ở đó xấu xí lạ lùng, thấy Mã cho là yêu quái, kêu la bỏ chạy. Ban đầu Mã thấy họ xấu xí sợ lắm, đến khi biết người xứ ấy sợ mình lại lấy đó lừa họ, thấy ai đang ăn uống thì chạy xộc tới, người ta sợ chạy thì ăn những thức họ bỏ lại. Lâu ngày vào tới xóm núi, thấy ở đó cũng có kẻ dung mạo giống người nhưng áo quần rách rưới như ăn mày. Mã ngồi nghỉ dưới gốc cây, người làng không dám tới gần, chỉ đứng xa nhìn, hồi lâu thấy Mã không phải là kẻ ăn thịt người mới mon men tới. Mã cười trò chuyện với họ, tuy khác tiếng nhưng cũng hiểu được nửa phần, Mã nói rõ vì sao mình lạc tới đây Người làng mừng rỡ loan báo khắp làng xóm rằng khách không phải là kẻ bắt người ăn thịt, nhưng những kẻ xấu xí chỉ đứng xa nhìn rồi bỏ đi, không dám tới gần.

Những kẻ tới gần thì chỗ mũi miệng cũng giống người Trung Quốc, cùng bày rượu mời Mã. Mã hỏi vì sao lại sợ mình, họ đáp “Thường nghe ông bà nói rằng cách đây hai vạn sáu ngàn dặm về phía tây có nước Trung Quốc, dân ở đó mặt mũi kỳ quái nhưng chỉ nghe đồn, nay mới tin là đúng". Hỏi sao nghèo thế, họ đáp "Điều nước bọn ta quý chuộng không phải văn chương mà là tướng mạo. Những người đẹp nhất làm thượng khanh, kế làm chức dân xã, hạng dưới chót cũng được quý nhân thương yêu nên có lương bổng nuôi vợ con. Còn loại bọn ta lúc mới chào đời thì cha mẹ đều cho là điềm xấu vứt đi không nuôi, những nhà không nỡ bỏ là vì nối dõi tông môn thôi. Mã hỏi nước này tên gì, họ đáp “Đây là nước Đại La Sát, kinh đô cách đây ba mươi dặm về phía Bắc". Mã xin dẫn tới xem một phen, rồi đó gà gáy thức dậy cùng đi.

Trời sáng tới kinh, thấy kinh thành xây bằng đá đen như mực, lầu gác cao gần trăm thước nhưng ít lợp ngói mà lấy đá đỏ úp phía trên, dùng đá vụn trít các khe hở trông không khác gì đan sa. Gặp lúc bãi chầu, các quan đội mão che lọng trong triều ra, người làng chỉ mà nói "Kia là quan Tướng quốc". Mã nhìn thấy ông ta hai tai quặt ra phía sau, mũi có ba lỗ, lông mày che kín mắt như tấm rèm. Lại có mấy người cưỡi ngựa ra, người kia nói "Kia là quan Đại phu”, lần lượt theo thứ tự nói rõ quan chức của từng người, Mã thấy dung mạo đều ghê rợn kỳ quái, nhưng quan chức càng thấp thì diện mạo càng bớt xấu xí. Lát sau Mã về, người trên đường phố trông thấy đều bỏ cbạy tán loạn, xô nhau ngã dúi dụi như gặp quái vật. Người cùng đi ra sức phân trần, người trong chợ mới dám đứng xa xa mà nhìn.

Mã về rồi, người trong nước lớn nhỏ đều biết xóm núi có quái nhân, các nhà quyền quý tranh nhau muốn mở rộng kiến văn bèn sai người trong thôn mời Mã. Nhưng Mã tới nhà nào thì người giữ cổng cũng đóng chặt cửa, đàn ông đàn bà lén nhìn qua khe cửa thì thào bàn tán, cả ngày không có một ai dám ra mặt đón tiếp. Người làng nói "Ở đây có quan Chấp kích lang từng phụng mệnh tiên vương đi sứ ngoại quốc, là người từng trải lịch duyệt, may ra không sợ anh chăng?". Bèn tới nhà quan Chấp kích, quả nhiên ông vui mừng tiếp đón Mã như thượng khách.

Mã thấy diện mạo ông như người tám chín mươi tuổi, hai mắt lồi ra, râu ria tua tủa như lông nhím. Ông nói "Ta lúc trẻ từng phụng mệnh vua đi sứ ngoại quốc rất nhiều, chỉ chưa tới Trung Hoa. Nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi lại được nhìn thấy nhân vật thượng quốc, không thể không tâu lên cho thiên tử biết. Nhưng ta nương náu nơi rừng núi đã hơn mười năm không đặt chân tới triều đình, sáng mai xin vì ông cố đi một phen”. Rồi sai dọn tiệc đãi khách, rượu được vài tuần gọi phường nữ nhạc mười mấy người ra thay phiên múa hát, nàng nào mặt mũi cũng như quỷ dạ xoa, gấm trắng bịt đầu, áo đỏ quét đất, lời hát không nghe rõ là gì mà khúc điệu cũng kỳ quái, nhưng chủ nhân có vẻ vui thích lắm. Hỏi Trung Quốc chắc cũng có thú vui này chứ, Mã đáp có. Chủ nhân xin được nghe, Mã gõ bàn hát một khúc, chủ nhân vui vẻ nói "Lạ thay, tiếng hát như rồng ngâm phụng gáy, ta chưa từng được nghe bao giờ".

Hôm sau ông vào triều tiến cử Mã với quốc vương, nhà vua vui mừng xuống chiếu vời Mã. Nhưng có hai ba vị đại thần nói hình dạng Mã quái gở, e làm kinh hãi thánh thể, vua bèn thôi. Ông Chấp kích lập tức trở về kể cho Mã nghe, tỏ ý rất tiếc. Mã ở đó lâu ngày, có hôm cùng chủ nhân uống rượu say, cầm gươm đứng dậy múa, lấy than bôi mặt đóng vai Trương Phi*. Chủ nhân cho là đẹp, nói "Xin khách đem bộ mặt Trương Phi tới ra mắt Tướng quốc, chắc Tướng quốc sẽ vui vẻ trọng dụng, khó gì không được chức cao lộc hậu”. Mã nói “Ôi, bôi mặt đùa giỡn thì còn được, chứ làm sao có thể mang bộ mặt này đi cầu chức tước”. Chủ nhân cố ép, Mã bèn theo lời.

*Trương Phi: võ tướng và là em kết nghĩa của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc, tính tình thô mãng, mặt mũi dữ tợn.

Chủ nhân liền mở tiệc mời các quan tới uống rượu, bảo Mã vẽ mặt chờ sẵn. Không bao lâu khách tới, ông gọi Mã ra chào, khách đều ngạc nhiên nói ”Lạ quá, sao bữa trưóc xấu xí mà hôm nay xinh đẹp thế kia?”, rồi cùng nhau uống rượu hết sức vui vẻ. Mã múa may hát khúc Dặc dương, cả tiệc đều phục lăn. Hôm sau các quan cùng dâng biểu tiến cử Mã, vua mừng rỡ, sai đem cờ tiết đi vời. Mã tới bái kiến, vua hỏi về đạo trị an của Trung Quốc. Mã tâu bày cặn kẽ, vua rất khen ngợi, ban yến ở Ly cung. Rượu ngà ngà, vua hỏi "Nghe nói khanh giỏi múa hát, có thể cho quả nhân nghe được không?". Mã liền đứng dậy múa, cũng bắt chước lấy gấm trắng bịt đầu, hát giọng ồm ồm. Vua thích lắm phong ngay cho Mã chức Hạ Đại phu, thường ban yến riêng, ân sủng khác thường.

Lâu ngày các quan lớn nhỏ trong triều biết diện mạo Mã mang là giả, Mã tới đâu cũng thấy người ta rỉ tai nhau lơ là với mình, từ đó bị cô lập, trong lòng sợ sệt không yên, dâng sớ xin về hưu trí nhưng vua không cho. Mã lại xin nghỉ phép, vua cho nghỉ ba tháng, bèn lấy ngựa trạm chở vàng bạc châu báu trở về xóm núi. Người làng quỳ đón bên đường, Mã lấy vàng bạc chia cấp cho những kẻ đối xử tử tế với mình trước đây, tiếng reo mừng cảm ơn như sấm. Dân làng nói "Bọn ta hèn mọn, được Đại phu cho tiền bạc, ngày mai ra chợ biển, sẽ tìm mua vật quý để đền ơn" Mã hỏi chợ biển ở đâu, họ đáp "Chợ họp giữa biển, hội tụ châu báu hàng hóa của Giao nhân* bốn biển, người ở bốn phương mười hai nước đều tới mua bán, trong đó có nhiều thần nhân dạo chơi, mây ráng rợp trời, ba đào cuồn cuộn. Các bậc quý nhân tự trọng không dám xông pha nguy hiểm đều đưa vàng lụa nhờ bọn ta mua giùm các món quý lạ, nay sắp đến phiên chợ rồi".

*Giao nhân bốn biển: Thuật dị ký chép ở Nam Hải có giống người là Giao nhân sống ớ dưới nước như cá, chuyên việc dệt vải, nếu khóc thì nước mắt hóa thành ngọc châu.

Mã hỏi tại sao biết sắp đến phiên chợ, họ đáp "Mỗi khi thấy chim đỏ bay liệng qua lại trên biển thì bảy hôm sau có phiên chợ”. Mã hỏi đi mất bao lâu, muốn cùng đi xem nhưng dân làng can ngăn, khuyên nên tự trọng thân phận, Mã đáp "Ta vốn là khách đi biển, sợ gì ba đào". Không bao lâu quả có nhiều người nối nhau tới gởi tiền nhờ mua hàng giùm, Mã liền mang hành lý xuống thuyền. Thuyền có vài mươi người, đáy phẳng lườn cao, có mười tay chèo, lướt đi như tên bay. Qua ba ngày, trông thấy xa xa giữa chốn mây nước mênh mông có đài gác chập chồng, thuyền buôn đông đặc như kiến. Giây lát tới dưới thành, thấy tường thành xây bằng những tảng đá cao như thân người, chòi canh cao chạm mây xanh. Buộc thuyền vào thành, thấy trong chợ bày đầy các món kỳ trân dị bảo lớng lánh chói mắt, nhiều thứ trần gian không có.

Chợt một thiếu niên cưỡi ngựa đi tới, người trong chợ đều dạt ra tránh đường, nói đó là Tam Thế tử biển Đông. Thế tử đi tới, nhìn Mã nói “Đây hẳn là người xứ lạ”, liền có kẻ tùy tùng tới hỏi quê quán. Sinh đứng bên đường chắp tay vái chào, tự nói tên họ quê quán. Thế tử mừng nói “Được ông hạ cố tới đây, thật có duyên phận không ít". Rồi đó đưa ngựa cho sinh cưỡi, mời cùng sóng vai đi ra cửa tây thành, vừa tới bờ cù lao thì con ngựa sinh cưỡi hý vang rồi nhảy xuống nước. Sinh cả sợ kêu thất thanh thì thấy nước biển rẽ ra, hai bên dựng đứng như vách tường. Giây lát thấy có cung điện, đồi mồi làm kèo, vảy cá làm ngói, bốn vách là pha lê lóng lánh chói mắt. Sinh xuống ngựa vào trong ra mắt, ngẩng lên thấy Long quân ngồi trên, Thế tử tâu nói “Thần đi chơi chợ, gặp được bậc hiền sĩ Trung Hoa, xin dẫn kiến với đại vương".

Sinh bước lên vái lạy xong, Long quân nói "Tiên sinh là bậc văn sĩ, ắt văn chương hay lắm, quả nhân muốn phiền viết hộ bài phú Chợ biển, xin đừng tiếc lời châu ngọc". Sinh dập đầu vâng lệnh, Long quân sai đem cho nghiên pha lê, bút râu rồng, giấy sắc trắng tựa tuyết, mực thơm ngát như lan. Sinh lập tức viết xong bài phú hơn ngàn chữ dâng lên trước điện, Long quân khen ngợi nói "Tài lớn của tiên sinh làm thủy quốc vẻ vang thêm nhiều lắm". Rồi hội họp thủy tộc mở tiệc lớn ở cung Thái Hà, rượu được vài tuần, Long quân nâng chén nhìn khách nói "Quả nhân có đứa con gái yêu chưa lấy chồng, muốn gả cho tiên sinh, tiên sinh có bằng lòng không?”. Sinh rời tiệc bước ra thẹn thùng lạy tạ, chỉ dạ dạ mà thôi. Long quân bèn quay lại dặn dò tả hữu. Không bao lâu có mấy người cung nhân đỡ một nữ lang ra, vòng ngọc khua vang, nhã nhạc trỗi lớn. Sinh lạy xong liếc nhìn thấy nàng xinh đẹp như tiên, công chúa lạy xong quay trở vào. Giây lát bãi tiệc, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa sinh vào hậu cung.

Công chúa trang điểm lộng lẫy ngồi đợi, trong phòng kê giường san hô khảm bát bảo, rèm kết tú cầu điểm xuyết minh châu to như cái đấu, chăn nệm đều mềm mại thơm tho. Trời vừa rạng sáng thì gái hầu trẻ đẹp đã xúm tới hầu hạ. Sinh trở dậy ra triều đường lạy tạ, Long quân phong sinh làm Phò mã Đô úy, sai đưa bài phú ra các biển. Long quân các biển đều sai sứ tới mừng, tranh nhau mời Phò mã tới uống rượu. Sinh mặc quần áo thêu, cởi rồng xanh, tiền hô hậu ủng ra đi, mấy mươi võ sĩ cưỡi ngựa hộ vệ đều mang cung sơn son, mang giày cựa bạc sáng loáng xúm xít chung quanh, trên ngựa gảy đàn, trong xe gõ phách, trong ba ngày dạo chơi khắp các biển. Từ đó danh tiếng con rể Long quân vang dậy bốn biển.

Trong cung có một cây ngọc thân đầy một ôm, gốc trong suốt như pha lê trắng, trong có lõi màu vàng nhạt nhỏ hơn cánh tay, lá như bích ngọc dày bằng đồng tiền mọc chi chít, sinh thường cùng vợ ngồi dưới bóng cây ngâm thơ thổi sáo. Hoa nở đầy cây như hoa thiềm bồ, cánh hoa rụng xuống thì kêu leng keng, nhặt lên nhìn thấy như mã não đỏ chạm trổ, long lanh rất đẹp. Lúc lúc có chim lạ tới đậu trên cây hót, lông màu vàng ánh, đuôi dài hơn thân, tiếng hót như ngọc khua ai oán làm người ta xót xa. Sinh cứ nghe chim hót lại chạnh niềm cố hương, nhân nói với công chúa "Ta lạc lõng ba năm, bặt tin cha mẹ, cứ nghĩ tới lại đau lòng, nàng có thể theo ta về không?”. Nàng nói “Tiên phàm hai lối, không thể theo được. Nhưng thiếp cũng không nỡ vì tình vợ chồng mà khiến chàng lỗi đạo hiếu, xin thong thả sẽ tính". Sinh nghe thế sa nước mắt, nàng cũng than "Tình thế này thật không thể tròn cả hai bề".

Hôm sau sinh đi chơi về, Long quân hỏi "Nghe nói Đô úy nhớ quê muốn về, sáng mai khởi hành được chăng?". Sinh từ tạ nói “Thần bơ vơ đất khách, đội ơn đại vương quá yêu, trong lòng chỉ mong có dịp báo đáp. Nay xin cho tạm về thăm cha mẹ, rồi sẽ trở lại hầu đại vương". Tối đến công chúa đặt tiệc từ giã, sinh hẹn ngày gặp lại, nàng nói "Tình duyên đôi ta đến đây là hết". Sinh vô cùng đau xót, nàng nói “Cứ về phụng dưỡng mẹ cha để tỏ lòng hiếu thảo của chàng, chứ đời người hết hợp rồi tan, trăm năm cũng như sớm tối thôi, cần gì khóc lóc như lối đàn bà? Từ nay về sau nếu thiếp thủ tiết vì chàng, chàng giữ nghĩa với thiếp, hai nơi vẫn một lòng thì là vợ chồng đấy, cần gì phải sớm tối giữ riệt lấy nhau mới gọi là bách niên giai lão? Nếu phụ lời nguyền thì có lấy vợ lấy chồng cũng chẳng tốt lành đâu. Còn nếu trên trần gian thiếu người nội trợ, thì cưới tỳ thiếp cũng được thôi.

Còn có một chuyện muốn nói, là từ ngày kết bạn, hình như thiếp đã có thai, phiền chàng đặt tên trước cho con”. Sinh nói "Nếu sinh con gái thì đặt tên là Long Cung, nếu sinh con trai thì đặt tên là Phúc Hải". Công chúa xin để lại một vật làm tin, sinh lúc ở nước La Sát được một đôi hoa sen bằng ngọc đỏ bèn lấy đưa cho nàng. Công chúa nói "Ba năm sau, đúng ngày mùng tám tháng tư, chàng chèo thuyền ra Nam đảo, thiếp sẽ giao con". Rồi lấy da cá làm túi, bỏ đầy châu ngọc vào đưa cho sinh, nói "Chàng giữ cho kỹ, bấy nhiêu thì ăn tiêu mấy đời cũng không hết". Trời mờ sáng, Long vương bày tiệc tiễn hành, tặng cho rất hậu. Sinh lạy tạ ra đi, công chúa ngồi xe dê trắng đưa lên tới tận bờ. Sinh lên bờ xuống ngựa, nàng dặn dò tự bảo trọng rồi quay xe trở về, phút chốc đã xa tít, nước biển khép lại không thấy gì nữa, sinh bèn về nhà.

Từ khi sinh vượt biển, có người cho rằng đã chết, đến khi về tới người nhà đều kinh ngạc. Cũng may là cha mẹ đều còn khỏe mạnh, duy vợ đã đi lấy chồng khác, mới sực hiểu câu nói “giữ nghĩa" của Long nữ là đã biết trước việc ấy. Cha muốn cưới vợ khác cho nhưng sinh không nghe, chỉ mua thiếp. Đúng kỳ hẹn ba năm sinh chèo thuyền ra đảo, thấy hai đứa nhỏ ngồi trên mặt biển vốc nước đùa giỡn, không động cũng không chìm. Sinh tới gần bế, một đứa reo lên nắm tay sinh rồi nhảy vào lòng, đứa kia khóc lớn như giận sinh không dắt mình, sinh cũng bế cả lên. Nhìn kỹ thì là một trai một gái, mặt mũi thanh tú, đội mũ hoa gắn ngọc, tức đôi hoa sen bằng ngọc đỏ. Trên lưng một đứa đeo túi gấm, sinh mở ra xem thấy có bức thư như sau:

“Kính thăm cha mẹ bình an. Thấm thoát ba năm, cách đường bụi đỏ, mênh mông một bể, dứt lối chim xanh. Kết tương tư thành mộng, để nhưng nhớ làm đau, thăm thẳm trời xanh, hận nào sánh được? Nhưng nghĩ Hằng Nga còn lạnh lùng trong cung quế, Chức Nữ phải tê tái cạnh sông Ngân, thì ta là hạng người nào mà mong trăm năm sum họp, thiếp nghĩ tới đó liền gạt nước mắt mà vui cười. Sau khi từ biệt hai tháng thì thiếp sinh được song thai, đến nay đã bi bô đòi bế, hơi biết nói cười, ngó táo giành lê, không có mẹ cũng sống được, nên kính trao lại cho chàng. Đôi hoa sen bằng ngọc đỏ chàng để lại, thiếp gài lên mũ chúng để làm tin, lúc nào ôm con trên gối thì cũng như có thiếp bên cạnh vậy. Biết chàng đã giữ trọn lời nguyền, thiếp được an ủi rất nhiều, thề giữ trọn tình với chàng đến chết, vật trong rương cam thiếu dầu thơm, người trong kính lâu không son phấn. Chàng như chinh nhân thì thiếp làm quả phụ, cho dù không gần gũi cũng vẫn có thể nói là duyên cầm sắt kia mà. Chỉ nghĩ tới cha mẹ chồng đã bế cháu nội mà chưa gặp nàng dâu, kể theo tình lý cũng còn chưa trọn vẹn, nên năm sau tống táng mẹ, thiếp sẽ tớì mộ điếu tang cho trọn đạo dâu con. Từ nay về sau thì Long Cung vô sự, còn nhiều lúc gặp nhau, Phước Hải sống lâu, cũng có đường lui tới. Mong chàng khoẻ mạnh, thư chẳng hết lời”.

Sinh đọc đi đọc lại lá thư rơi lệ, hai đứa nhỏ ôm cổ, nói "Về nhà thôi”, sinh càng đau xót, vỗ về hai đứa hỏi "Hai con có biết nhà ở đâu không?", hai đứa khóc lóc líu lo đòi về. Sinh nhìn ra thấy biển cả mênh mông, chân trời xa tít, bóng người mờ mịt, mây nước muôn trùng đành bế con quay thuyền ngậm ngùi trở về. Sinh biết mẹ không còn sống lâu nữa nên lo sẵn mọi việc ma chay, trồng hơn trăm cây tùng quanh khu mộ. Năm sau quả nhiên mẹ sinh mất, khi quan tài sắp hạ huyệt thì có cô gái mặc áo tang tới làm lễ.

Mọi người đang ngạc nhiên nhìn chợt gió bão nổi lên, sét nổ ầm ầm, kế mưa như trút nước, trong chớp mắt cô gái biến mất, những tùng bách mới trồng phần nhiều chết khô lúc ấy lại trở nên xanh tốt. Phước Hải hơi lớn thường nhớ nhung mẹ, cứ nhảy xuống biển mấy ngày mới về. Long Cung là con gái không đi được, chỉ biết đóng cửa ngồi khóc. Một hôm đang ban ngày mà trời tối sầm, Long nữ chợt tới bảo con gái nín khóc rồi nói "Con sẽ lấy chồng, khóc lóc làm gì?”, rồi cho con gái một cây san hô cao tám thước, một hộp long não hương, một trăm viên ngọc minh châu, một đôi vòng vàng khảm bát bảo làm của hồi môn. Sinh nghe nói vợ tới vội chạy vào nắm tay nàng khóc nức nở. Giây lát trời nổi mua gió, sét đánh vang nhà, nàng biến mất.

Dị Sử thị nói: Vẽ mặt lấy lòng, tình đời thật như ma quỷ, ưa chuyện kỳ quái, thế gian quả chỉ một đường. Thẹn ít thì người thích ít, thẹn nhiều thì người thích nhiều, nhưng nếu công nhiên mang râu tóc phường tuồng dạo chơi ở kinh kỳ thì chắc rất ít người không hoảng sợ bỏ chạy. Chàng ngây Lăng Dương kia định ôm viên ngọc liên thành tới đâu mà khóc vậy*? Than ôi, chuyện hiển vinh phú quý chỉ nên cầu nơi chốn thẩn lâu hải thị** mà thôi.

* Chàng ngây... khóc vậy: Hàn Phi tử chép Biện Hòa người nước Sở dâng viên ngọc chưa đẽo gọt cho Hoài vương, Hoài vương cho là viên đá bèn chặt chân trái của Hòa. Hoài vương chết, Hòa lại dâng cho Bình vương, Bình vương cũng cho là khi quân, sai chặt chân phải của Hòa. Bình vương chết, Kinh vương lên ngôi, Hòa ôm viên ngọc khóc dưới núi. Kinh vương biết chuyện sai thợ khéo gọt giũa, phá lớp đá ngoài thì được một viên ngọc rất đẹp, bèn phong Hòa làm Lăng Dương hầu. Cả câu chỉ kẻ có tài mà không ai biết tới.

** Thẩn lâu hải thị: tức hiện tượng những thành quách chợ búa hiện ra trên mặt biển, là ảo ảnh sinh ra do sự khúc xạ của ánh sáng, người xưa cho rằng do khí của loài ngao sò ở biển thở ra kết thành. Đây dùng chỉ ảo ảnh, ảo tưởng.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 113 -
Công Tôn Cửu Nương
(Công Tôn Cửu Nương)

Cái án Vu Thất* phát ra, những kẻ liên lụy bị giết nhiều nhất là người hai huyện Thê Hà, Lai Dương (tỉnh Sơn Đông), mỗi ngày có tới mấy trăm người bị giải ra pháp trường xử chém, máu đen ngập đất, xương trắng ngút trời. Quan trên nhân từ cấp cho quan tài, các hiệu bán quan tài trong thành Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) hết sạch cả hàng, vì vậy những người bị xử tử phần lớn được chôn ở cánh đồng phía nam thành.

*Cái án Vu Thất: tức vụ khởi binh chống triều đình của Vu Thất ở huyện Thê Hà tỉnh Sơn Đông năm Thuận Trị thứ 18 (1661), bị nhà Thanh đàn áp rất thảm khốc.

Năm Giáp dần có thư sinh người huyện Lai Dương tới chơi Tắc Hạ (cửa nam thành Tế Nam), vì có hai ba người bạn bị xử tử nên nhân đó mua giấy tiền vàng bạc ra cúng ở đám mả hoang, rồi tới thuê một gian phòng trong chùa ở trọ. Hôm sau vào thành lo công việc, xế chiều vẫn chưa về. Chợt có một thiếu niên tới phòng trọ thăm, thấy sinh đi vắng liền bỏ mũ leo lên giường, để nguyên giày nằm ngửa, đầy tớ sinh hỏi chỉ nhắm mắt không trả lời. Lúc sinh về trời đã nhá nhem, không nhìn rõ mặt bèn tới cạnh giường hỏi, khách trợn mắt nói “Ta đang chờ chủ ngươi, sao cứ hạch hỏi lôi thôi, chẳng lẽ ta là trộm cướp à?” Sinh cười nói “Chủ nhân đây". Thiếu niên vội vùng dậy, đội mũ sửa áo ngồi xuống, vồn vã hỏi thăm.

Sinh nghe tiếng như người quen, vội gọi lấy đèn, thì ra là Chu sinh người cùng huyện, cũng chết trong nạn Vu Thất, cả sợ bỏ chạy. Chu kéo lại nói "Ta với ông là bạn văn chương, sao vô tình với nhau như thế? Ta tuy là ma nhưng vẫn canh cánh nhớ cố nhân, nay có chuyện muốn làm phiền, xin đừng coi là khác loài mà xử tệ". Sinh bèn ngồi xuống xin nghe sai bảo, Chu nói "Cháu gái ông hiện ở một mình không có chồng, ta muốn cưới nàng về lo việc trong nhà, đã mấy lần nhờ mai mối dạm hỏi nhưng nàng cứ lấy cớ là không có lệnh của bậc tôn trưởng để từ chối, xin ông nói giúp cho một câu”.

Trước sinh có đứa cháu gái gọi bằng cậu, mồ côi mẹ từ nhỏ nên sinh đem về nuôi, đến năm mười lăm tuổi mới về sống với cha. Nàng bị bắt giải tới Tế Nam, nghe tin cha bị hành hình, gào khóc tắt hơi mà chết. Sinh nói "Có cha nó đó, sao lại cầu ta?”. Chu đáp “Cha nàng đã được người cháu bốc mộ mang đi, hiện không có ở đây". Sinh hỏi cháu gái mình đang ở với ai, Chu đáp nàng ở chung với bà láng giềng. Sinh ngại người sống không thể làm mai mối cho ma, Chu nói "Nếu ông chịu giúp thì xin phiền dời gót ngọc", rồi đứng dậy nắm tay sinh kéo đi. Sinh từ chối, hỏi đi tới đâu, Chu nói "Cứ đi sẽ biết", sinh bèn miễn cưỡng đi theo. Đi về phía bắc khoảng một dặm thấy có thôn xóm đông đúc, ước chừng mấy trăm nóc nhà.

Tới một gian nhà, Chu gõ cửa, lập tức có bà già ra mở cả hai cánh cửa, hỏi Chu tới có việc gì. Chu nói "Làm phiền bà nói với nương tử rằng có ông cậu tới," Bà già quay vào, giây lát trở ra mời sinh vào, nhìn Chu nói "Có hai gian nhà tranh chật chội, phiền công tử ngồi đợi ngoài cổng một lúc", sinh theo bà ta vào, thấy bên trong là nửa mẫu vườn hoang, có hai gian phòng nhỏ, đứa cháu gái khóc lóc đứng đón ở cửa, trong phòng đèn lửa lờ mờ. Cô gái dung mạo vẫn xinh xắn như lúc còn sống, gạt lệ hỏi thăm tất cả các dì các mợ. Sinh đáp "Mọi người khỏe cả, duy có vợ ta đã qua đời rồi". Cô gái lại sụt sùi khóc, nói "Cháu lúc nhỏ được cậu mợ nuôi nấng, chưa có chút gì báo đáp mà không ngờ đã vùi xác nơi ngòi rãnh trước, rất đỗi ân hận. Năm trước ông anh lớn con nhà bác tới mang hài cốt cha cháu về nhưng không nghĩ gì tới cháu, bơ vơ ngoài mấy trăm dặm như én thu lạc đàn, cậu lại không bỏ qua hồn ma vất vưởng, lại đốt cho vàng bạc, cháu đã nhận được rồi". Sinh bèn kể lại lời Chu, cô gái cúi mặt im lặng.

Bà già nói "Chu công tử nhờ bà Dương tới dạm hỏi năm ba bận, già nói việc này rất đáng mừng nhưng nương tử không chịu tự lấy chồng kiểu qua quít, nay được ông cậu làm chủ hôn, mới ưng ý như thế đấy". Bà ta vừa dứt lời thì một nữ lang khoảng mười bảy mười tám tuổi, có đứa hầu gái theo sau xăm xăm bước vào, vừa thấy sinh liền quay người toan chạy. Cháu gái sinh nắm vạt áo kéo lại nói "Không cần phải làm thế, đây là cậu ruột ta, không phải người ngoài". Sinh vái chào, nữ lang cũng khép nép đáp lễ. Cháu sinh nói "Đây là Cửu Nương, họ Công Tôn ở huyện Thê Hà. Ông thân sinh là con nhà thế gia cũ nhưng nay cũng sa sút, không thích chơi với ai, sớm tối chỉ qua lại bạn với cháu”.

Sinh liếc thấy nàng mỉm cười miệng sáng tựa trăng thu, bẽn lẽn má hồng như ráng sớm, xinh đẹp như tiên bèn nói "Nhìn thì biết ngay là con nhà đại gia, chứ lều tranh vách đất làm sao có người đẹp như vậy được”. Cháu sinh nói "Đã thế còn là nữ học sĩ, thơ phú đều hay, trước nay cháu vẫn được nàng chỉ dạy”. Cửu Nương cười khẽ nói “Con nhãi bỗng dưng lại bêu xấu người, ông cậu cười cho kìa!”. Cháu sinh lại cười nói “Cậu góa vợ chưa tục huyền, thế người như nương tử đây cậu có vừa ý không?”. Cửu Nương cười chạy ra, nói "Con nhãi điên rồi", rồi bỏ đi. Câu nói tuy giống như đùa giỡn nhưng sinh rất thích, cháu sinh biết ý bèn nói "Tài mạo Cửu Nương thiên hạ không ai sánh kịp, nếu cậu không chê là ma thì cháu sẽ nói giùm với mẹ nàng". Sinh cả mừng nhưng ngại người với ma khó kết vợ chồng với nhau, cháu sinh nói “Không sao đâu, nàng với cậu vốn có túc duyên với nhau”. Sinh ra về, cháu gái tiễn ra, nói "Năm hôm nữa, lúc trăng thanh người vắng, sẽ sai người tới đón cậu”.

Sinh ra ngoài cổng không thấy Chu đâu, nhìn về phía tây thấy nửa vành trăng trong ánh sáng mờ mờ còn nhận ra đường cũ. Đi một quãng thấy phía nam có một ngôi nhà, Chu đang ngồi chờ trên bậc thềm ngoài cổng, đứng lên đón, nói “Ta chờ ông lâu rồi, mời ông quá bộ vào tệ xá”, rồi cầm tay sinh đưa vào, ân cần cảm tạ. Kế đưa ra một cái chén vàng, trăm hạt ngọc châu nói “Chẳng có gì đáng giá, xin nhận mấy thứ này thay sính lễ”. Kế nói “Trong nhà cũng có ít rượu dở, nhưng vật dưới âm ty sợ không mời khách quý được, làm thế nào?". Sinh khiêm tốn từ tạ, Chu tiễn tới nửa đường mới quay về.

Sinh về tới nơi trọ, các sư và đầy tớ xúm lại hỏi han, sinh giấu kín chuyện? nói “Ai nói ta gặp ma là nói bậy, mới rồi ta tới nhà người bạn uống rượu thôi". Sau năm hôm quả thấy Chu tới, sửa giày phẩy quạt có vẻ đắc ý vui mừng lắm, vừa vào tới sân đã vái lạy. Giây lát cười nói "Việc vui mừng của ông đã thu xếp xong, đêm nay làm lễ cưới rồi, xin mời lên đường". Sinh nói "Ta vì không thấy có tin tức gì nên còn chưa nộp sính lễ, làm sao đã thu xếp xong?” Chu nói "Ta đã nộp thay cả rồi”. Sinh hết lời cảm tạ rồi cùng đi tới nơi vào thẳng nhà trong, thấy cháu gái ăn mặc đẹp đẽ tươi cười ra đón. Sinh hỏi làm đám cưới lúc nào, Chu đáp đã ba hôm. Sinh bèn đưa số vàng ngọc Chu tặng hôm trước để thêm vào của hồi môn cho cháu gái, cô gái từ chối hai ba lần mới nhận, rồi nói với sinh "Cháu tỏ ý cậu với Công Tôn phu nhân, phu nhân rất vui mừng, chỉ nói rằng đã già cả không có con cháu nào khác nên không muốn Cửu Nương lấy chồng xa, hẹn đêm nay cậu tới gởi rể tại nhà. Nhà ấy không có đàn ông, để chồng cháu qua làm lễ với cậu cũng được".

Chu liền dẫn sinh đi tới cuối thôn thấy một ngôi nhà mở cổng sẵn, hai người lên thẳng sảnh đường. Giây lát gia nhân báo phu nhân tới, có hai người hầu gái đỡ bà già lên thềm. Sinh định lạy chào, phu nhân nói "Ta già yếu lọm khọm, không thể đáp lễ, xin bớt bớt nghi thức thôi", rồi sai đám hầu gái bày tiệc mừng. Chu cũng gọi gia nhân đem ra một mâm riêng đặt trước mặt sinh, lại lấy ra một bầu rượu riêng để sinh uống. Các món ăn trong tiệc không khác gì với trần gian, chỉ có chủ nhân tự rót uống chứ không mời mọc khách. Kế tan tiệc, Chu ra về, hầu gái đưa sinh vào. Tới phòng trong thấy Cửu Nương ngồi bên đuốc hoa đợi sẵn, duyên may giải cấu, người ngọc đa tình, gặp gỡ nhau vô cùng vui sướng.

Nguyên là trước kia mẹ con Cửu Nương bị giải lên kinh, nhưng tới Tế Nam thì mẹ nàng chết vì không chịu nổi khổ cực, Cửu Nương cũng tự vẫn chết theo. Nay trên gối kể lại chuyện đã qua, nàng thổn thức không sao ngủ được, bèn khẩu chiếm hai bài thơ tứ tuyệt:

I. Tích nhật la thường hóa tác trần,
Không tương nghiêp quả hận tiền thân. .
Thập niên lô lãnh phong lâm nguyệt,
Thủ dạ sơ phùng họa các xuân.
II. Bạch dương phong vũ nhiễu cô phần,
Thùy tưởng Dương đài cánh tác vân.
Hốt khải lũ kim sương lý khán,
Huyết tinh do nhiễm cựu la quần.

(I. Xiêm áo ngày xưa hóa bụi trần
Luống đem nghiệp chướng hận tiền thân
Rừng bàng sương lạnh mười năm nguyệt
Lầu gác đêm nay mới sáng xuân
II. Mưa gió mồ hoang quạnh bạch dương
Đâu ngờ mây lại phủ đài Dương
Chợt mở rương xưa nhìn vật cũ
Máu vấy xiêm y nghĩ đoạn trường)

Trời gần sáng, nàng giục sinh "Chàng nên về sớm, đừng để bọn tôi tớ sợ hãi”. Từ đó ngày đi đêm tới hết sức gắn bó. Một đêm sinh hỏi Cửu Nương làng này tên là gì, nàng đáp “Là làng Lai Hà, trong làng phần nhiều là ma mới, vốn là người hai huyện Lai Dương và Thê Hà, nhân đặt tên như thế". Sinh nghe thế bùi ngùi than thở, nàng buồn rầu nói "Cô hồn ngàn dặm trôi nổi không nhà, tình cảnh mẹ con thiếp nói tới thật đau xót. Nếu chàng nghĩ tới ơn nghĩa một đêm, xin thu nhặt giùm hài cốt mẹ con thiếp đem về chôn cất cạnh mồ mả ông bà cho được trăm đời có chỗ nương dựa thì chết cũng còn có tiếng thơm".

Sinh nhận lời, nàng lại nói “Người và ma khác loài, chàng cũng không nên ở lại chốn này lâu”, rồi đưa tặng sinh cái khăn lụa, gạt lệ giục lên đường. Sinh buồn rầu đi ra, trong lòng đau đớn, bồi hồi không nỡ ra về, nhân qua gõ cửa nhà Chu. Chu chạy chân không ra đón, cháu sinh cũng trỗi dậy, tóc còn chưa chải, hoảng sợ ra hỏi han cậu. Sinh ngậm ngùi hồi lâu mới thuật lại lời Cửu Nương. Cháu gái sinh nói "Mợ mà không nói thì cháu cũng đã tính toán lâu nay, nơi đây không phải là trần gian, quả thật cậu không nên ở lâu”. Rồi đó nhìn sinh rơi lệ, sinh cũng ứa nước mắt từ biệt. Trở về gõ cửa nhà trọ, nằm thao thức đến sáng, trở dậy muốn tìm mộ Cửu Nương thì nhớ ra là quên hỏi dấu tích. Đến tối trở lại nơi đó thì thấy mồ mả ngổn ngang, không tìm ra được đường đi làng xóm đành than thở quay về.

Giơ chiếc khăn nàng tặng ra xem, gặp cơn gió thổi qua lập tức mủn ra, nát vụn như tro, bèn thu xếp hành trang về quê. Liền nửa năm không thể yên lòng, lại tới Tế Nam mong có dịp gặp lại nàng. Tới cánh đồng phía nam thành thì trời đã xế chiều, liền buộc ngựa vào gốc cây trước sân đình rồi đi mau vào bãi tha ma. Chỉ thấy mồ mả trùng trùng, cỏ gai mút mắt, ma trơi lập lòe, chồn kêu ảo não, ghê lòng sởn gáy, sợ hãi đau xót trở về chỗ trọ, chán nản không muốn đi chơi đâu cả, dong ngựa về quê. Đi được khoảng một dặm, nhìn thấy xa xa có một nữ lang thơ thẩn giữa đám mồ mả, lấy làm lạ vì dáng vẻ phong thái rất giống Cửu Nương, liền ra roi thúc ngựa tới gần nhìn thì đúng là nàng. Sinh xuống ngựa định hỏi han, nhưng nàng bỏ chạy như không quen biết. Sinh lại lên ngựa đuổi tới gần, nàng tỏ vẻ giận dữ lấy tay áo che mặt, sinh vội gọi tên Cửu Nương thì nàng biến mất.

Dị Sử thị nói:Khuất Nguyên gieo mình xuống sông, máu đầy gan ruột, Thân Sinh đeo quyết ra trận, lệ đẫm cỏ cây* các bậc tôi trung con hiếu ngàn xưa có kẻ đến lúc chết vẫn không xét lại vua cha của mình. Có lẽ Công Tôn Cửu Nương tuy đem hài cốt chết theo cha mẹ nhưng vẫn không cởi bỏ được mối oán hờn trong lòng chăng? Ý niệm trong lòng không thể vốc ra cho người khác nhìn rõ, mới oan uổng làm sao!

*Khuất Nguyên... cỏ cây: Sử ký chép Khuất Nguyên là trung thần nước Sở thời Chiến quốc, bị các nịnh thần ghen ghét gièm pha khiến Sở Hoài vương không dùng, Nguyên xỏa tóc đi lang thang bên đầm, ngâm thơ để tỏ chí rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự tử. Tả truyện chép Thân Sinh là Thái tử của Tấn Hiến công thời Xuân thu, Hiến công yêu vợ lẽ là Ly Cơ, muốn lập con Ly Cơ là Hề Tề nối ngôi nên muốn giết Thân Sinh, sai Thân Sinh đi đánh Cao Lạc thị ở Đông Sơn, đeo cho Thân Sinh cái kim quyết. Đại phu nước Tấn là Hồ Đột than "Đeo cho cái kim quyết thì chúa công có ý muốn phế Thái tử rồi", vì Kim quyết (cái quyết bằng vàng) đồng âm với kim quyết (từ nay vĩnh biệt). Câu này ý nói những kẻ tôi trung con hiếu nhiều khi vẫn bị oan uổng, đây chỉ nhân vật Công Tôn Cửu Nương.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 114 -
Câu Đối Của Hồ
(Hồ Liên)

Tiêu sinh là em con chú của Tiên sinh Thạch Hồng ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) đọc sách trong vườn, nửa đêm thấy có hai mỹ nhân tới, đều rất xinh đẹp, một nàng khoảng mười bảy mười tám, một nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, vỗ vào bàn nhoẻn miệng cười. Tiêu biết là hồ, nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Nàng lớn nói "Chàng râu cứng như sắt, sao không có khí sắc đàn ông thế?”. Tiêu đáp "Ta bình sinh không dám biết tới người đàn bà thứ hai”. Cô gái cười nói “Thật là cổ hủ quá, chàng còn câu nệ chuyện ấy sao! Quỷ thần thời hạ nguyên* cũng đều lấy đen làm trắng, huống chi chuyện nhỏ nhặt trên giường”.

*Hạ nguyên: đây chỉ thời loạn lạc, phong tục suy đồi.

Tiêu lại xì khinh bỉ. Cô gái biết là không lay chuyển được, bèn nói "Chàng là bậc danh sĩ, thiếp có một vế đối xin chàng đối giúp, nếu đối được thì bọn ta tự đi: Mậu tuất đồng thể, phúc trung chỉ khiếm nhất điểm (Mậu tuất cùng thể, trong bụng chỉ thiếu một điểm)". Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu không đối được, cô gái cười nói "Danh sĩ mà như thế à? Ta đối thay cho cũng được: Kỷ tỵ liên tung, túc hạ hà bất song khiêu (Kỷ tỵ liền vết, dưới chân sao chẳng hai khều?)”* kế cười rộ bỏ đi. Chuyện này là Tư khấu họ Lý** ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) kể lại.

*Mậu tuất... hai khều: đôi câu đối này có chỗ chơi chữ: trong Hán tự, chữ mậu và chữ tuất, chữ kỵ và chữ tỵ có tự hình gần như nhau, ngoài ra hai chữ "túc hạ" còn là một đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít với ý nghĩa trang trọng. Hai cô gái hồ có ý chế nhạo nhân vật Tiêu sinh không có "phong thái đàn ông” vì không chịu thân mật với họ.

**Tư khấu họ Lý: bản Hương Cảng chú nhân vật này tên Hoa Hy, tự Ngũ Huyền, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628 -1643), làm quan tới chức Thượng thư bộ Hình, theo đó thì hai chữ "Mậu tuất" và “Kỷ tỵ" của hai cô gái hồ trong truyện này có lẽ không chỉ đơn giản là chơi chữ mà có thể còn dính dáng hay ám chỉ hai sự kiện chính trị nào đó khoảng cuối Minh đầu Thanh.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển VII - 115 -
Phiên Phiên
(Phiên Phiên)

La Tử Phù người huyện Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), cha mẹ đều mất sớm lúc tám chín tuổi, được chú là Đại Nghiệp nuôi. Nghiệp làm Tả sương Quốc tử giám, giàu mà không có con nên yêu thương La như con ruột. Năm La mười bốn tuổi bị kẻ xấu dụ dỗ đi uống rượu chơi gái, gặp lúc có một kỹ nữ ở Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô) tới ngụ ở quận, sinh gặp gỡ rất thích, đâm ra say mê. Khi nàng ta trở về Kim Lăng, sinh bỏ nhà trốn theo, ở kỹ viện nửa năm thì tiền bạc hết sạch, đám chị em đều rẻ rúng lạnh nhạt nhưng chưa thẳng thừng dứt tình. Không bao lâu mắc bệnh lở loét, máu mủ thối tha ướt cả giường chiếu, bị đuổi đi, ra chợ xin ăn, người ở chợ cứ nhìn thấy là tránh xa.

Sinh sợ chết ở quê người bèn lên đường xin ăn trở về Sơn Tây, mỗi ngày đi được ba bốn mươi dặm, dần dần tới địa giới Phần Châu, nhưng lại nghĩ mình rách rưới hôi thối không mặt mũi nào về làng nên cứ quanh quẩn ở huyện bên cạnh. Trời tối, sinh tới chùa trên núi định ngủ nhờ, dọc đường gặp một cô gái dung mạo như tiên, tới gần hỏi đi đâu. Sinh kể thật chuyện mình, nàng nói "Ta là kẻ xuất gia, nơi ở có cái hang núi, có thể cho khách nghỉ lại, không sợ gì cọp sói". Sinh mừng đi theo nàng vào tới giữa núi sâu, thấy một tòa động phủ, vào trong thì thấy trước cửa có khe nước chảy, có chiếc cầu đá bắc qua. Đi thêm vài bước tới hai gian thạch thất, ánh sáng chói lọi không cần đèn đuốc. Cô gái bảo sinh cởi bỏ quần áo ăn mày xuống khe mà tắm, nói "Tắm ở đó sẽ khỏi bệnh". Lại kéo màn quét giường chiếu giục sinh đi ngủ, nói “Xin cứ đi nghỉ, ta sẽ may áo quần cho”. Kế lấy lá to như tàu lá chuối cắt may thành áo, sinh nằm nhìn thấy nàng may không bao lâu đã xong, xếp lại đem đặt ở đầu giường mình, nói "Sáng ra lấy mà mặc", rồi lên chiếc giường đối diện nằm ngủ.

Sinh sau khi tắm rửa sạch sẽ thấy những chỗ lở loét không đau đớn nữa, lúc tỉnh dậy sờ tới thì đều đã lên da non. Trời sáng sắp dậy còn ngờ lá chuối không mặc được, cầm lên nhìn kỹ thì là gấm xanh bóng loáng. Lát sau dọn cơm, cô gái lấy lá trên nói là bánh, sinh ăn thấy quả là bánh. Nàng lại cắt lá thành hình gà và cá đem nấu nướng, ăn vào thấy đều như gà và cá thật. Trong góc nhà có một cái vò đựng rượu ngon, cứ đem ra uống, khi nào đã vơi thì múc nước suối đổ thêm vào. Mấy hôm sau sinh lành hẳn, qua giường cô gái xin ngủ chung, nàng nói "Gã khinh bạc vừa được yên thân đã sinh tà niệm”. Sinh đáp "Ta muốn đền ơn thôi", bèn cùng ngủ chung, vô cùng đằm thắm.
Một hôm có thiếu phụ bước vào cười nói "Con ranh Phiên Phiên vui sướng quá, chừng nào có bầu đấy?". Cô gái bước ra đón, cười nói “Nương tử Hoa Thành lâu quá không hạ cố tới chơi, hôm nay gió tây nam nổi mạnh mới bị thổi tới, đã được bế cậu bé chưa?” Hoa Thành đáp "Lại là một con nhãi". Cô gái cười hỏi “Hoa cô mắn con gái thật, thế sao không đưa cháu tới chơi?", Hoa Thành đáp “Vừa khóc rồi ngủ yên đấy". Rồi đó cùng ngồi uống rượu” lại nhìn qua sinh nói "Chàng trẻ này đốt hương thơm đấy”, sinh nhìn thấy nàng khoảng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi, vẫn còn khá đẹp, trong lòng thích lắm. Lúc gọt trái cây lỡ làm rơi xuống dưới bàn bèn cúi xuống nhặt, lén sờ lên hài nàng, Hoa Thành nhìn qua chỗ khác cười như không hay biết. Sinh đang vui mừng ngây ngất chợt thấy người lạnh ngắt, tự nhìn lại thì quần áo đã biến thành lá cây, vô cùng hoảng sợ, ngồi yên một lúc mới biến thành vải vóc như cũ, mừng thầm là hai nàng không thấy.
Lát sau trong lúc thù tạc lại gãi vào bàn tay Hoa Thành, Hoa Thành thản nhiên cười đùa như không biết gì sinh đang hồi hộp lo sợ thì quần áo đã biến thành lá cây, lát sau mới trở lại như cũ, vì thế hổ thẹn ngồi im không dám nghĩ bậy nữa. Hoa Thành cười nói "Lang quân nhỏ nhà cô thật không đứng đắn, nếu cô không phải là nương tử mang hũ giấm thì e là y đã nhảy lên tới mây xanh rồi". Phiên Phiên cũng mỉm cười đáp "Cứ mặc cho quân bạc bẽo chết rét", hai người cùng vỗ tay cười lớn. Hoa Thành đứng lên nói "Con nhãi thức dậy khát sữa e khóc tới đứt ruột mất". Phiên Phiên cũng đứng lên nói "Ham dụ dỗ chồng người ta, không nhớ gì tới cô Thành con cả". Hoa Thành về rồi, sinh sợ Phiên Phiên trách mắng nhưng nàng vẫn đối xử như trước. Không bao lâu hết thu qua đông, sương sa lá rụng, cô gái bèn nhặt lá rơi để làm lương ăn mùa đông, thấy sinh co ro bèn đem túi ra ngoài cửa động vốc mây trắng làm bông may áo rét cho sinh mặc, thấy ấm áp mềm mại mà nhẹ nhàng như bông mới vậy.
Qua năm sau nàng sinh một con trai rất xinh xắn thông minh, sinh hàng ngày trong động đùa chơi với con làm vui nhưng vẫn nhớ quê, muốn cô gái cùng về. Nàng nói "Thiếp không theo được, thôi chàng cứ đi một mình”. Nấn ná hai ba năm, đứa con lớn dần, bèn đính ước thông gia với Hoa Thành. Sinh thường lo nghĩ tới chú đã già, cô gái nói “Chú tuy đã già nhưng may là còn mạnh khỏe, không cần lo lắng, cứ chờ con cưới vợ xong thì đi hay ở tùy chàng". Cô gái ở trong động cứ lấy lá làm giấy viết chữ dạy con học, đứa nhỏ học qua là thuộc lòng, nàng nói "Thằng nhỏ này có phúc tướng, thả vào cỏi trần thì chẳng lo gì không làm nên quan lớn” Không bao lâu con sinh được mười bốn tuối, Hoa Thành tự đưa con gái tới gả. Cô gái ăn mặc đẹp đẽ, dung nhan lộng lẫy, vợ chồng sinh cả mừng, cả nhà yến tiệc linh đình. Phiên Phiên gõ trâm hát rằng:

Ta có con hiền
Không cần quan sang
Ta có dâu thảo
Không cần bạc vàng
Đêm nay tụ họp
Cả nhà hân hoan
Mời chàng một chén
Chúc chàng an khang


Kế Hoa Thành ra về, hai người cùng vợ chồng con trai ở đối diện nhau trong động phủ. Con dâu hiếu thảo, quấn quýt cạnh mẹ chồng, nàng thương yêu như con ruột. Sinh lại bàn chuyện về quê, nàng nói "Chàng có cốt tục, rốt lại không thành tiên được, con ta cũng là người trong mạch phú quý, chàng nên đưa về để khỏi làm lỡ cuộc đời của nó". Con dâu đang nghĩ việc từ giã mẹ thì Hoa Thành đã tới, hai con lưu luyến, nước mắt lưng tròng, hai bà mẹ an ủi, nói "Các con hãy tạm ra đi, sẽ có dịp trở lại mà". Phiên Phiên cắt lá thành hình lừa, bảo ba người cưỡi về. Đại Nghiệp lúc ấy đã già yếu về hưu, cho rằng cháu đã chết, chợt thấy sinh dắt con trai con dâu về, mừng rỡ như bắt được của báu. Vào tới trong nhà, ba cha con nhìn lại áo quần của mình thấy đều biến thành lá chuối, xé ra thì bông lót bên trong nghi ngút bay lên không, bèn thay quần áo khác. Sau sinh nhớ Phiên Phiên, dắt con vào núi thăm thì lá vàng lấp ngõ, cửa động mây phong, đành sa lệ quay về.

Dị Sử thị nói:Phiên Phiên và Hoa Thành là bậc tiên chết chăng? Ăn lá mặc mây, sao mà kỳ quái như vậy? Nhưng đùa cợt trong phòng, lấy chồng sinh con, cũng có gì khác người trần đâu! Ở trong núi mười lăm năm, tuy lạ lùng ở chỗ không có nhân dân thành quách, nhưng trở lại thì mây mờ cửa động không biết tìm đâu, xem cảnh huống ấy thì thật đúng như lúc Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai* vậy.

* Lưu Nguyễn trở lại Thiên Thai: Thần tiên truyện chép Lưu Thần và Nguyễn Triệu thời Hán vào núi hái thuốc bị lạc đường, gặp hai tiên nữ bèn ở lại đó kết làm vợ chồng với họ nửa năm. Sau hai người nhớ nhà đòi về, tới quê nhà thì đã trải qua mười năm, khi quay lại Thiên Thai tìm hai tiên nữ thì không còn nhận ra lối cũ nữa, đành ngậm ngùi trở về.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 116 -
Dế Chọi
(Xúc Chức)

Niên hiệu Tuyên Đức thời Minh (1426-1435) trong cung rất chuộng trò chọi dế, hàng năm bắt dân gian dâng nộp. Vật này không phải sản ở Thiểm Tây nhưng Tri huyện Hoa Âm (tỉnh Thiểm Tây) muốn lấy lòng quan trên đem hiến một con, quan tỉnh cho chọi thử thấy hay bèn đòi đâng nộp thường xuyên. Tri huyện lại đòi lý trưởng phải cung ứng, bọn du thủ du thực ở chợ tìm bắt được con nào hay là nhốt vào lồng nuôi, coi như món hàng quý. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ dâng nộp dế để sách nhiễu dân chúng, mỗi con nộp lên đủ làm mấy nhà khuynh gia bại sản. Trong huyện có Thành Danh đã dự khoa Đồng tử nhưng lâu không thi đỗ, tính chất phác nên bị bọn lý dịch gian giảo ép làm chức Lý chính, tìm đủ cách chối từ mà không được, chưa đầy một năm thì chút ít gia sản đã cạn kiệt. Gặp kỳ nộp dế, Thành không dám sách nhiễu dân nhưng không có gì để bù, lo buồn chỉ muốn chết.

Vợ nói "Chết thì có ích gì, chẳng bằng cứ tự tìm bắt, biết đâu cũng được một con", Thành cho là phải. Bèn sáng đi tối về, cầm ống trúc lồng tơ bới đất lật đá khắp bãi hoang tường đổ, làm đủ cách mà không được, có bắt được hai ba con thì nhỏ yếu không đủ quy cách. Quan trên theo hạn trách phạt, qua hơn mười ngày Thành đã bị đánh trăm trượng, hai mông máu me bê bết, ngay cả sâu con cũng không sao đi mà bắt nữa, trăn trở trên giường chỉ nghĩ tới việc tự tử. Lúc ấy trong thôn có bà đồng gù lưng tới, bói toán như thần. Vợ Thành đem tiền lễ tới, thấy gái non bà già đứng chật cổng ngõ. Vào trong nhà thì có phòng kín buông rèm, ngoài rèm bày hương án, người tới bói thắp hương trong đỉnh rồi vái lạy, bà đồng đứng bên hướng lên không khấn khứa, môi mấp máy không biết là nói gì, ai cũng kính cẩn đứng chờ. Lát sau trong rèm ném ra tờ giấy ghi rõ về việc người ấy muốn hỏi, không sai chút nào. Vợ Thành đặt tiền lễ lên án rồi thắp hương vái lạy như những người trước, khoảng ăn xong bữa cơm thì tấm rèm lay động, mảnh giấy ném ra. Giở ra xem không phải là chữ mà là bức vẽ, trong vẽ điện gác là chùa chiền, phía sau có hòn núi nhỏ đầy những tảng đá hình thù kỳ quái, gai góc tua tủa, có con dế nằm dưới, bên cạnh có con ếch như sắp nhảy lên, mở xem không hiểu nhưng thấy có con dế ám hợp với việc mình cầu khẩn nên cất vào người đem về đưa Thành xem.

Thành giở đi giở lại, nghĩ “Hay là bức vẽ này chỉ ta chỗ bắt dế chăng?”. Nhìn kỹ quang cảnh trong đó thấy rất giống Đại Phật Các ở phía đông thôn, bèn gượng dậy chống gậy cầm bức vẽ tới sau chùa. Ở đó có ngôi mộ cổ, lần quanh thấy đá nằm ngổn ngang đúng như trong bức vẽ bèn dò dẫm trong đám cây cỏ lắng nghe như tìm mũi kim hạt cải, bao nhiêu tâm trí sức mắt sức tai đều dốc ra hết nhưng không thấy gì cả. Đang còn tìm kiếm thì chợt có một con ếch nhảy ra, Thành càng ngạc nhiên vội đuổi theo. Con ếch nhảy vào đám cỏ, Thành theo vết vạch cỏ tìm thì thấy một con dế núp dưới gốc cây gai, vội chụp lấy thì nó chui vào kẽ đá, lấy cọng cỏ chọc vào nó vẫn nằm lỳ, đem ống đổ nước vào mới chịu chui ra, dáng vẻ rất khỏe mạnh, Thành đuổi theo vồ được. Nhìn kỹ thấy nó mình to đuôi đài, cổ xanh cánh vàng, mừng quá nhốt vào lồng mang về. Cả nhà vui mừng, dù là được ngọc báu liên thành cũng không bằng. Rồi thả nó vào chậu nuôi, cho ăn chu đáo, gìn giữ nâng niu chờ tới kỳ hạn nộp quan.

Thành có đứa con trai chín tuổi rình lúc cha không có nhà lén mở chậu ra xem. Con dế thừa cơ nhảy ra, nó đuổi theo mãi không được, đến khi chụp được vào tay thì dế đã gãy cẳng vỡ bụng, lát sau thì chết. Đứa nhỏ sợ quá khóc lóc tới kể với mẹ, mẹ nó nghe thế mặt tái mét, hoảng sợ nói “Đồ oan nghiệt hết sống rồi, cha ngươi về sẽ nói chuyện với ngươi", đứa nhỏ khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại như bị dội băng tuyết lên người, nổi giận đi tìm con nhưng không thấy đâu, kế tìm thấy xác con dưới giếng, đổi giận thành thương gào khóc muốn tắt hơi. Vợ chồng quay mặt vào vách, nhà tranh không khói lửa nấu cơm, im lặng nhìn nhau không còn hy vọng gì nữa. Trời gần tối liệm xác con, tới bế lên thì thấy còn thoi thóp thở, cả mừng bế đặt lên giường, nửa đêm thì đứa nhỏ sống lại. Hai vợ chồng hơi nhẹ lòng, nhưng đứa nhỏ thần thái ngây ngốc như người gỗ, cứ ngủ mê mệt.

Thành nhìn tới lồng dế rỗng không thì đứt hơi nghẹn cổ, cũng không nghĩ gì tới con nữa, từ đêm đến sáng không sao chợp mắt, trời đã sáng rõ vẫn nằm đờ buồn bã. Bỗng nghe tiếng dế gáy ngoài cửa, Thành giật mình vùng dậy nhìn thì dế vẫn còn sờ sờ, mừng rỡ chụp lấy. Con dế kêu to một tiếng nhảy đi, Thành đuổi mau theo lấy bàn tay chụp lên thì thấy trống không như không có gì, giở tay lên thì nó lại nhảy vọt lên. Thành đuổi mau theo tới góc tường thì không thấy đâu, ngơ ngẩn nhìn quanh thấy nó đậu trên vách, nhìn lại thấy vừa nhỏ vừa ngắn mà màu tía, không phải là con trước, cho là loại dở nhưng vẫn quanh quẩn nhìn ngó. Chợt con dế từ vách nhảy xuống tay áo, Thành ngắm kỹ thấy hình dáng như con chó, cánh hoa mai, đầu vuông chân dài, có vẻ như dế hay, bèn mừng giữ lại. Định đem lên nộp quan nhưng thấp thỏm lo quan không vừa ý quan, bèn nghĩ cho chọi thử xem sao. Trong thôn có gã thiếu niên hiếu sự nuôi một con dế, nói là loại "Giải xác thanh" (Xanh vỏ cua), hàng ngày đem chọi với dế của bạn bè đều thắng, muốn giữ để kiếm lợi ai trả giá cao cũng không chịu bán.

Nhân qua thăm Thành thấy con dế Thành nuôi, y bịt miệng ôm bụng cười, đưa dế của mình ra, bỏ vào lồng chọi. Thành nhìn thấy nó to lớn khỏe mạnh càng thêm xấu hổ, không dám cho chọi thử. Thiếu niên cố ép, Thành nghĩ nuôi dế dở rốt lại cũng vô dụng, chi bằng cứ cho chọi thử mua vui, bèn cho dế vào lồng chọi. Con dế nhỏ nằm mọp xuống không động đậy, ngơ ngơ như gà gỗ. Thiếu niên lại cười rộ, lấy lông lọn chọc vào râu, nó vẫn nằm im, thiếu niên lại cười, lại chọc. Con dế nổi giận xông thẳng ra, lúc sắp đánh thì phùng cánh gáy lớn, rồi vềnh râu cong đuôi nhảy xổ tới cắn cổ địch thủ. Thiếu niên cả sợ vội gạt hai con dế ra không cho chọi nữa, con dế hiên ngang gáy vang như báo cho chủ biết nó đã thắng trận. Thành mừng quá, đang cùng nhau ngắm nghía chợt có con gà sấn sổ xông tới mổ luôn một nhát vào dế. Thành kinh hãi bật dậy la hoảng, may là gà mổ không trúng, con dế nhảy ra hơn một thước. Gà sấn theo mổ lia lịa, con dế đã nằm dưới móng gà, Thành thảng thốt không biết làm sao cứu, giẫm chân tái mặt. Nhưng gà lại rướn cổ lăn ra, tới gần nhìn thì thấy dế đã trên mào gà, cắn chặt không buông. Thành càng kinh ngạc mừng rỡ, vội bắt dế bỏ vào lồng.
Hôm sau đem dâng Tri huyện, quan thấy dế nhỏ quát Thành, Thành kể lại chuyện lạ, quan không tin, cho chọi thử với dế của người khác đều thắng, lại đem gà ra thử thì quả như lời Thành nói. Tri huyện bèn thưởng cho Thành, hiến dế cho Tuần phủ. Tuần phủ cả mừng liền cho dế vào lồng vàng hiến vua, dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Vào tới cung cho chọi thử với đủ thứ dế kỳ lạ của các nơi dâng lên như dế bướm, dế bọ ngựa, dế đánh dầu, dế trán tơ xanh thì con nào cũng thua. Mỗi khi nghe tiếng đàn sáo thì nó lại nhảy nhót theo điệu nhạc, mọi người càng lấy làm lạ. Vua rất vừa lòng, ban chiếu thưởng cho Tuần phủ ngựa hay vải quý. Tuần phủ không quên kẻ hiến dế, không bao lâu tâu xin thưởng cho Tri huyện một cấp trác dị. Tri huyện mừng, cho Thành được miễn sai dịch, dặn học quan lấy Thành đỗ Tú tài. Hơn năm sau con Thành bình phục, kể rằng mình hóa thành dế, khoẻ mạnh chọi giỏi nay mới sống lại. Quan tỉnh lại trọng thưởng, không quá vài năm nhà Thành ruộng vườn trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê cả ngàn con, ra khỏi nhà thì mặc áo cừu cưỡi ngựa tốt, giàu sang hơn cả các nhà thế gia.

Dị Sử thị nói:Họ Thành vì sâu mọt mà nghèo, nhờ dế chọi mà giàu, áo cừu ngựa tốt vênh vang, lúc làm Lý chính bị trách phạt chắc không nghĩ rằng mình được thế đâu. Trời đền đáp cho kẻ trưởng giả trọng hậu, tới nỗi Tuần phủ Tri huyện cũng được hưởng phúc ấm nhờ con dế. Thường nghe Một người lên trời, gà chó cũng thành tiên, đúng lắm thay!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 117 - 119 -
Hướng Cảo
(Hướng Cảo)

Hướng Cảo tự Sơ Đán người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), cùng anh là Thạnh rất thương yêu nhau. Thạnh dan díu với một kỹ nữ tên Ba Tư, từng cắt máu ăn thề nhưng bà chủ đòi tiền chuộc quá nặng nên ước nguyện không thành. Gặp lúc bà ta định hoàn lương, muốn bán Ba Tư trước. Có công tử họ Trang vốn thích Ba Tư, xin mua làm thiếp. Ba Tư nói với bà chủ "Đã mong cùng nhau rời nơi nước lửa là muốn ra khỏi địa ngục lên cõi thiên đường, nếu lại làm tỳ thiếp thì có khác nhau bao nhiêu đâu. Nếu mẹ theo ý con thì Hướng lang cũng được mà". Bà ta bằng lòng, bắn tin cho Thạnh. Lúc ấy Thạnh góa vợ chưa tục huyền, được tin mừng lắm, dốc hết của cải cưới Ba Tư về.

Trang nghe tin, giận Thạnh cướp người mình yêu, ngẫu nhiên gặp Thạnh trên đường lớn tiếng chửi mắng. Thạnh cãi lại, Trang quát sai tùy tùng vác gậy đánh chết rồi bỏ đi. Cảo nghe tin chạy tới xem thì anh đã chết, vô cùng đau xót căm phẫn liền kiện lên quận. Trang hối lộ khắp nơi, quan xử Trang chôn cất Thạnh rồi tha. Cảo ôm nỗi phẫn uất không sao phát tiết, nghĩ chỉ còn cách đón đường giết Trang, hàng ngày cứ mang đao sác rình ở bụi rậm trên đường núi. Lâu ngày việc tiết lộ, Trang biết mưu ấy nên ra khỏi nhà là phòng bị nghiêm ngặt, nghe ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây) có Tiêu Đồng dũng mãnh thiện xạ liền đem nhiều vàng tới đón về làm vệ sĩ. Cảo không sao thi hành được kế nhưng hàng ngày vẫn đón rình.

Một hôm Cảo đang nằm rình bỗng mưa rào đổ xuống, cả người ướt đẫm lạnh run cầm cập, kế gió mạnh nổi khắp bốn phía, tiếp theo là mưa đá, toàn thân đau đớn tê dại. Trên núi vốn có miếu thờ Sơn thần, Cảo gượng lần lên, tới nơi thấy vị đạo sĩ quen đang ở đó. Trước đạo sĩ thường vào thôn khuyến hóa, Cảo thường cúng dường nên có biết Cảo. Thấy quần áo Cảo ướt sũng, đạo sĩ đưa cho chiếc áo vải, nói "Cứ tạm thay đi". Cảo thay xong bỗng thấy người cứng đờ phải ngồi chồm hổm, nhìn lại mình thấy mọc đầy lông lá, đã hóa thành cọp mà đạo sĩ thì không còn ở đó nữa. Cảo vừa sợ vừa giận nhưng lại nghĩ nếu vồ được kẻ thù ăn thịt thì cũng hay. Xuống tới chỗ rình lúc nãy thì thấy xác mình nằm trong bụi rậm, mới sực hiểu ra rằng mình đã chết, nhưng vẫn sợ diều quạ rỉa xác nên cứ quanh quẩn cạnh đó canh giữ.

Hôm sau thì gặp Trang đi ngang, cọp vọt ra tát y ngã ngựa, ngoạm đầu nhai nát. Tiêu Đồng quay lại bắn trúng bụng cọp rồi khuỵu chân cũng bị vồ chết. Cảo trong bụi rậm tan hoang chợt như tỉnh mộng, qua một đêm mới đi đứng được, lê bước về nhà. Người nhà thấy Cảo mấy đêm liền không về đang ngờ sợ, thấy Cảo mừng rỡ xúm lại hỏi han, nhưng Cảo chỉ nằm rũ rượi không nói được. Giây lát có tin Trang bị cọp vồ, mọi người tranh nhau tới trước giường báo tin mừng. Cảo bèn nói "Con cọp ấy là ta đấy" rồi kể lại chuyện lạ lùng đã qua, từ đó tin đồn rộng ra. Con Trang đau xót về cái chết của cha, nghe chuyện căm tức đầu đơn kiện Cảo, quan thấy chuyện quái đản lại không có bằng cứ nên không xét tới.

Dị Sử thị nói:Tráng sĩ thề báo ơn ắt không sống mà về, đó là nỗi thương hận của ngàn đời vậy. Giúp cho người ta giết người rồi sống lại, phép thuật nhà tiên sao mà thần diệu vậy. Nhưng trong thiên hạ những chuyện khiến người ta trợn mắt dựng tóc rất nhiều, khiến kẻ căm hận thường hờn không được hóa thành cọp trong chốc lát.


118. Chuyện Lạ Chim Câu
(Cáp Dị)

Chim bồ câu rất nhiều giống, đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) có Khôn tinh, đất Lỗ (tỉnh Sơn Đông) có Hạch tú, đất Kiềm (vùng Quý Châu) có Dịch diệp, đất Lương (tỉnh Hà Nam) có Phiên khiêu, đất Việt (tỉnh Chiết Giang) có Chư tiêm, đều là những giống lạ. Lại có các loại Hài đầu, Điểm tử, Đại bạch, Hắc thạch, Phu phụ tước, Hoa cẩu nhãn, bấm đốt ngón tay không thể kể hết, chỉ những kẻ ham thích mới biết rõ. Công tử Trương Công Lượng ở huyện Trâu Bình (tỉnh Sơn Đông) nghiện nuôi chim câu, cứ theo sách Cáp tử kinh mà tìm, muốn có đủ hết các giống. Nuôi nấng chim câu thì như chăm chút trẻ thơ, chim lạnh thì chữa bằng cỏ phấn, chim nóng thì cho ăn muối hạt. Chim câu thích ngủ nhưng ngủ nhiều quá thì bị tê bại mà chết, Trương mua ở Quảng Lăng một con giá mười lượng vàng, thân rất nhỏ mà hay chạy, nếu thả xuống đất cứ chạy loanh quanh không ngừng, đến chết mới thôi nên phải có người bắt lại, ban đêm thả vào bầy cho các con khác kinh động để khỏi mắc bệnh tê bại, có tên là Dạ du.

Những nhà nuôi chim câu ở vùng Tề Lỗ đều không sành bằng, công tử cũng lấy việc nuôi chim để kiêu hãnh. Một đêm công tử đang ngồi trong thư phòng, bỗng một thiếu niên áo trắng gõ cửa bước vào, nhìn ra thì chưa từng quen biết. Công tử hỏi, khách đáp "Kẻ phiêu bạt tên họ có gì đáng nói. Ở xa nghe đồn công tư nuôi rất nhiều chim câu, bình sinh ta cũng ưa thích, xin được cho xem". Trương đem hết ra, đủ cả năm sắc, rực rỡ như mây như gấm. Thiếu niên cười nói "Lời đồn quả không ngoa, có thể nói công tử biết hết mọi sự trong nghề nuôi chim câu. Ta cũng có đem theo một hai con, công tử có muốn xem không?", Trương mừng bèn đi theo thiếu niên.

Đêm trăng mờ mờ, đồng không mông quạnh, Trương đang thầm ngờ sợ thì thiếu niên chỉ ra phía trước nói "Xin cố đi thêm một đoạn, nơi ta ngụ không còn xa đâu”. Đi thêm mấy chặng thì thấy một khu nhà chỉ có hai gian. Thiếu niên dắt tay Trương vào, thấy trong nhà không có chút đèn lửa. Thiếu niên đứng giữa sân, bắt chước tiếng chim câu gù, chợt có một đôi chim bay ra, vóc dáng như chim thường nhưng lông tuyền màu trắng, bay cao ngang mái hiên, vừa gù vừa chọi, đánh nhau rất hăng. Thiếu niên lấy tay xua, hai con nối cánh bay đi. Thiếu niên lại chúm miệng kêu thành tiếng rất lạ, lại có hai con chim câu ra, con lớn to bằng con le, con nhỏ to bằng nắm tay đỗ xuống thềm múa như chim hạc múa. Con lớn vươn cổ đứng thẳng, xòe cánh làm bình phong, nhún nhảy vừa gù vừa bước như dẫn dắt, con nhỏ vừa kêu vừa bay liệng lên xuống, có lúc đậu lên đầu con lớn, cánh chấp chới như chim én đáp xuống bãi lau, tiếng kêu lắc cắc như tiếng trống bỏi. Con lớn thì vươn cổ đứng yên không động đậy, tiếng kêu càng gấp rút, nghe như tiếng khánh đá, hai giọng hòa vào nhau cũng có tiết tấu. Kế con nhỏ bay vọt lên, con lớn lại lắc lư như chào gọi.

Trương tấm tắc khen ngợi không ngớt lời, tự biết mình kiến thức còn hẹp hòi bèn vái lạy thiếu niên xin được chia sẻ điều ưa thích. Thiếu niên không chìu, Trương nài nỉ mãi, thiếu niên bèn quát đuổi hai con chim câu đang múa đi gọi hai con chim câu trắng ra, bắt lấy đưa Trương, nói "Nếu không ghét bỏ, xin biếu đôi này". Trương nhận lấy ngắm nhìn, thấy mắt chim phản chiếu ánh trăng lấp lánh như hổ phách như không có tròng mắt mà con ngươi tròn đen láy như hạt tiêu kéo cánh lên thấy da thịt trong suốt có thể nhìn rõ tạng phủ. Trương càng lấy làm lạ song vẫn chưa thỏa ý, lại nài xin nữa. Thiếu niên nói "Còn có hai giống nữa chưa đưa ra trình, nhưng giờ không dám mời ông xem nữa". Đang phân bua thì người nhà soi đuốc vào tìm chủ, Trương nhìn lại thì thiếu niên biến thành con chim câu trắng to như con gà bay vút lên trời, còn nhà cửa trước mắt cũng biến mất chỉ còn một ngôi mộ nhỏ trên trồng hai cây bách, bèn cùng gia nhân ôm đôi chim than thở kinh sợ ra về.

Thử bảo bay, chim vẫn thuần lạ như trước, tuy không phải là loại quý nhất nhưng cũng là giống hiếm có trên đời, vì vậy Trương càng yêu quý. Qua hai năm, chim đẻ thêm được ba trống ba mái, dù là thân thích cầu xin Trương cũng không cho. Có ông Mỗ bạn cha là bậc quý quan, một hôm gặp công tử hỏi nuôi chim câu được nhiều không. Công tử dạ dạ cáo lui, nghĩ rằng ông cũng thích, muốn làm vừa lòng nhưng khó nỗi dứt ruột chia sẻ vật mình yêu thích. Nhưng lại nghĩ bậc trưởng thượng đã hỏi tới thì không thể làm ngơ, không dám đưa chim thường bèn chọn hai con chim câu trắng bỏ vào lồng gởi biếu, tự cho rằng ngàn vàng cũng không sánh được.

Ngày khác gặp ông Mỗ, công tử có vẻ đắc ý nhưng không thấy ông nói một câu cảm ơn, không nhịn được bèn hỏi đôi chim hôm trước tốt không, Mỗ đáp cũng béo ngon. Trương phát hoảng hỏi "Đã mổ thịt rồi ạ?", ông đáp "Phải". Trương cả kinh nói "Đó không phải loại chim câu thường, người ta vẫn gọi là giống Thát đát đấy ạ", ông Mỗ nhớ lại rồi nói "Mùi vị cũng không khác chim thường mấy", Trương thương tiếc ôm hận trở về. Đến tối Trương mơ thấy thiếu niên áo trắng đến trách "Ta thấy ông có lòng yêu thương nên mới đem con cháu gởi gắm, sao lại đem ngọc sáng ném cho thằng mù để tới nỗi chúng bị nấu nướng. Nay ta dắt hết lũ con đi đây". Nói xong hóa thành chim câu, các con chim câu trắng Trương nuôi đều bay theo. Sáng ra Trương tới chuồng xem thì quả không còn con nào nữa, vô cùng ân hận bèn đem tất cả chim câu mình nuôi chia tặng bạn bè, vài hôm thì hết sạch.

Dị Sử thị nói:Vật nào cũng quy tụ về chỗ kẻ ưa thích nó, lời ấy đúng lắm. Như Diệp công tử thích rồng thì có rồng thật vào nhà*, huống hồ kẻ học thích bạn tốt, vua sáng thích tôi hiền ư? Nhưng chỉ có tiền bạc là ưa thích càng nhiều thì quy tụ càng ít, cũng cho thấy quỷ thần giận sự tham lam chứ không giận sự si mê vậy.

*Diệp công tử... vào nhà: Thân tử chép công tử Diệp Cao Chi thích rồng, chạm vẽ hình rồng khắp nhà, rồng trên trời nghe biết bèn tới nhà thò đầu vào xem.

119.Giang Thành
(Giang Thành)

Cao sinh ở huyện Lâm Giang (tỉnh Cát Lâm) tên Phồn, lúc trẻ thông minh tuấn tú, mười bốn tuổi đã vào học trường huyện, các nhà giàu tranh nhau hứa gả con gái cho. Nhưng sinh kén chọn quá quắt, mấy lần cãi lời cha. Cha là Trọng Hồng sáu mươi tuổi chỉ có sinh là con trai nên rất chiều chuộng, không nỡ làm trái ý con. Trước ở thôn Đông có ông Phàn dạy trẻ ở phố, đưa gia đình tới thuê nhà sinh ở. Phàn có con gái tiểu tự là Giang Thành cùng tuổi với sinh, lúc ấy đều khoảng tám chín tuổi, hai đứa nhỏ hàng ngày vẫn chơi đùa với nhau. Sau Phàn dời đi, bốn năm năm không nghe tin tức. Một hôm sinh đi trong hẻm, thấy một nữ lang vô cùng xinh đẹp, có một a hoàn nhỏ sáu bảy tuổi đi theo, không dám nhìn thẳng chỉ đưa mắt liếc. Cô gái nhìn sững như muốn nói gì đó, nhìn kỹ thì té ra là Giang Thành. Hai bên đều bất ngờ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, không ai nói gì chỉ ngẩn ra hồi lâu rồi rời đi, đôi lòng bịn rịn. Sinh cố ý thả chiếc khăn đỏ xuống đất rồi đi, a hoàn nhỏ nhặt lên mừng rỡ đưa cô gái, nàng cũng lấy khăn của mình giả nói với nó rằng “Cao Tú tài không phải ai lạ, đừng lấy vật của chàng làm rơi, đuổi theo mà trả lại đi", đứa a hoàn nhỏ quả nhiên đuổi theo đưa cho sinh.

Sinh được chiếc khăn cả mừng, về thưa với mẹ xin hỏi cưới Giang Thành. Mẹ nói "Nhà ấy không có được nửa gian phòng, trôi nổi lưu lạc, đâu đáng cưới làm vợ”. Sinh nói "Tự con muốn thế, quyết không hối hận". Mẹ do dự không dám quyết, bàn tính với Trọng Hồng, Hồng nhất quyết nói là không nên, sinh nghe thế buồn rầu bỏ cả cơm cháo. Mẹ lo quá bèn nói với Cao “Họ Phàn tuy nghèo nhưng cũng không phải là hạng vô lại gian trá, để ta qua chơi nhà xem, nếu đứa con gái ấy có thể hỏi cưới được thì có hại gì", Cao bằng lòng. Mẹ sinh bèn mượn cớ đi lễ đền Hắc Đế ghé qua, thấy cô gái mắt sáng răng ngà, xinh đẹp tự nhiên thì ưa thích lắm, tặng cho tiền lụa rồi tỏ thật ý mình, bà Phàn khiêm nhượng từ chối nhưng sau cùng cũng nhận lời. Bà về kể lại mọi chuyện, sinh mới tươi cười.

Năm sau chọn ngày tốt cưới Giang Thành về, vợ chồng rất thương yêu nhau. Nhưng nàng hay giận hờn, trở mặt nhìn chồng như người lạ, miệng lưỡi đanh đá thường chao chát bên tai, sinh vì thương yêu nên cũng cố nhịn. Cha mẹ sinh hơi biết chuyện trong lòng bực bội, lén trách mắng con trai, cô gái nghe được ghét lắm, càng chửi mắng chồng nhiều hơn. Sinh dần dần cũng dằn giọng cãi lại, nàng càng giận dữ, vác gậy đánh đuổi ra ngoài phòng đóng cửa lại. Sinh co ro bên ngoài không dám gõ cửa, đành ngồi bó gối ngủ dưới mái hiên. Từ đó cô gái coi chồng như kẻ thù, ban đầu quỳ gối còn có thể phân trần, dần dần quỳ gối hết thiêng, chồng lại càng khổ. Cha mẹ chồng trách mắng vài câu thì nàng cãi lại vô cùng hỗn láo, hai ông bà tức giận bắt sinh bỏ vợ, đuổi nàng về nhà cha mẹ ruột. Phàn vừa thẹn vừa sợ, nhờ người bạn thân của Trọng Hồng tới năn nỉ xin cho Giang Thành trở lại nhưng Trọng Hồng không chịu. Hơn năm sau sinh đi đường gặp cha vợ, ông níu áo kéo mời về nhà, hết lời xin lỗi, bảo con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp. Vợ chồng gặp nhau bất giác mủi lòng, Phàn bèn mua rượu về đãi con rể, mời mọc rất niềm nở. Không bao lâu trời tối, ông cố giữ sinh ngủ lại, quét dọn phòng riêng bảo hai vợ chồng ngủ chung. Sáng ra sinh về nhà, không dám nói thật với cha mẹ, chỉ tìm lời che đậy thêu dệt cho qua chuyện. Từ đó cứ năm ba ngày sinh lại tới ngủ ở nhà cha vợ một đêm mà cha mẹ không biết.

Một hôm Phàn tự tới nhà Trọng Hồng, lúc đầu Trọng Hồng không tiếp, Phàn năn nĩ mãi mới ra mặt. Phàn quỳ gối cầu xin, Cao không nhận, nói là để con trai mình quyết định. Phàn nói "Đêm qua con rể ngủ lại nhà ta, không nghe nói gì khác cả". Cao giật mình hỏi ngủ lại từ lúc nào, Phàn bèn kể lại, Cao thẹn thùng tạ lỗi, nói “Quả là ta không biết, chứ nếu nó thương yêu thì lẽ nào ta lại một mình căm ghét". Phàn về rồi, Cao gọi con ra chửi mắng, sinh chỉ cúi đầu không nói gì. Đang lúc ấy thì Phàn đưa con gái tới, Cao nói "Ta không thể chịu lỗi thay con, phiền ông làm chứng cho ta chia nhà ra ở riêng”. Phàn khuyên lơn nhưng Cao không nghe, dọn nhà riêng cho vợ chồng con, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Hơn một tháng thấy rất yên ổn, cha mẹ sinh cũng mừng thầm. Nhưng không bao lâu cô gái lại dần dần rông càn, mặt sinh thường có vết móng tay cào cấu, cha mẹ biết rõ nhưng còn nhịn để đó không hỏi tới. Một hôm sinh không chịu nổi roi gậy, chạy qua nhà cha mẹ trốn, run rẩy như chim sẻ bị diều ó đuổi. Hai ông bà còn ngạc nhiên hỏi han thì cô gái đã cầm gậy đuổi theo vào, tới ngay cạnh ông túm lấy sinh đánh túi bụi. Ông bà quát tháo ầm ĩ nàng cũng không đếm xỉa gì tới, đánh chồng tới mấy mươi gậy mới hằm hằm bỏ đi. Cao đuổi con ra, nói “Ta muốn tránh ồn ào nên mới ở riêng, còn ngươi thích nó thì trốn đi làm gì?".

Sinh bơ vơ chẳng biết đi đâu, Cao sợ hành hạ quá thì con trai tự tử bèn cho ở riêng một chỗ, nấu cơm cho ăn. Lại gọi Phàn tới, bảo qua mà dạy con gái. Phàn vào nhà nói đủ lời để răn dạy, cô gái đã không nghe lại còn trả treo xách mé. Phàn phủi áo bỏ đi, thề dứt tình cha con. Không bao lâu, Phàn phẫn uất sinh bệnh, cùng vợ nối nhau chết. Cô gái căm hận, cũng không về đưa đám, chỉ hàng ngày cách tường chửi mắng, cố ý cho cha mẹ chồng nghe, Cao để ngoài tai không đếm xỉa gì tới. Sinh từ khi ở một mình thấy như thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, nhưng thấy hiu quạnh, lén cho tiền bà mối họ Lý dẫn gái vào phòng sách, toàn chờ lúc đêm tối ra vào. Lâu ngày cô gái nghe phong thanh bèn tới phòng sách mắng chửi, sinh hết sức phân trần là oan, chỉ trời vạch đất mà thề nàng mới về, từ đó hàng ngày rình rập chờ sinh sơ hở.
Một hôm bà Lý từ phòng sách ra thì nàng bắt gặp, gọi ầm lên. Bà ta biến sắc, cô gái càng nghi ngờ nói với bà ta "Nói thật cho ta biết bà làm những gì thì may ra ta còn tha cho, nếu giấu diếm thì ta nhổ không còn một sợi tóc đấy”. Bà Lý run rẫy nói "Nửa tháng nay chỉ có kỹ nữ Vân Nương tới đây hai lần thôi. Mới rồi công tử nói đi chơi núi Ngọc Ty gặp vợ họ Đào, thích đôi bàn chân nàng nhỏ nhắn nên dặn ta gọi tới. Nàng ta tuy lẳng lơ nhưng cũng chưa chắc chịu làm như kỹ nữ, thật không rõ có được không". Cô gái thấy bà ta thành thật nên tha cho, bà ta định đi thì nàng giữ lại. Trời sập tối nàng quát bà ta rằng "Tới phòng sách trước, tắt hết đèn đi, nói họ Đào tới rồi". Bà Lý theo lời, cô gái vào theo ngay, sinh mừng quá, kéo tay giục ngồi, tỏ lòng khát khao gặp gỡ, nàng im lặng không nói gì. Sinh mò trong bóng tối cầm bàn chân nàng nói "Từ khi lên núi được thấy dung mạo người tiên một lần, lòng cứ nhớ nhưng cái này thôi", nàng vẫn im lặng. Sinh nói "Mong ước bấy lâu nay mới toại nguyện, sao lại kề mặt mà không nhìn thấy nhau?", rồi đích thân thắp đèn lên, soi tới thì té ra là Giang Thành! Sinh sợ hãi thất sắc, đánh rơi chiếc đèn xuống đất, quỳ xuống run cầm cập như bị gươm kề cổ vậy. Cô gái nắm tai kéo về, lấy kim đâm nát hai đùi rồi bắt nằm dưới giường, lúc nào tỉnh giấc lại chửi rủa kể tội.

Sinh đã sợ nàng như cọp nên cho dù lúc nàng nguôi giận thì lúc chăn gối cũng run rẫy không ra đàn ông, nàng tát vào mặt thét đuổi xuống, càng thêm chán ghét khinh bỉ không coi là con người nữa. Sinh hàng ngày trong chốn hương xông xạ ủ mà như kẻ gian ở tù tôn kính người canh ngục vậy. Cô gái có hai chị đều lấy chồng là Chư sinh. Người chị lớn hiền lành ít nói, vẫn không hòa thuận với nàng. Chị thứ hai lấy họ Cát, là người giảo quyệt khéo nói, ưa trang điểm chải chuốt, dung mạo không bằng Giang Thành nhưng về khoản ghen tuông hung dữ thì cũng xấp xỉ. Hai chị em mà gặp nhau thì không nói sự gì khác, chỉ khoe những việc bắt nạt chồng, lấy làm đắc ý với nhau, vì thế đi lại rất thân thiết. Sinh tới nhà họ hàng nào cô gái cũng giận dữ trách mắng, duy tới nhà Cát thì nàng có biết cũng không ngăn cấm.

Một hôm sinh uống rượu ở nhà Cát, lúc đã say Cát nhạo “Sao chú sợ vợ quá thế?”, sinh cười đáp “Thiên hạ có nhiều việc không sao hiểu nổi. Ta sợ vợ ta là sợ sắc đẹp, nhưng có kẻ đẹp thua xa vợ ta mà người ta cũng sợ ngang ta, chẳng phải là quá đáng sao?". Cát thẹn quá không đáp được, đứa tỳ nữ nghe thế vào kể với vợ Cát, vợ Cát nổi giận cầm gậy sấn ra. Sinh thấy dáng vẻ hung dữ vội xỏ giày toan chạy thì gậy đã đập trúng lưng, sinh bị ba gậy ngã quỵ ba lần không dậy nổi, dập cả trán, máu tuôn như xối. Vợ Cát bỏ vào, sinh mới khập khiễng lê chân về nhà. Vợ giật mình hỏi duyên cớ, lúc đầu sinh nghĩ mình chọc giận chị vợ mà bị đòn nên không dám nói, vợ gặng hỏi mấy lần mới kể rõ đầu đuôi. Cô gái lấy lụa băng trán sinh xong, nổi giận nói "Chồng người ta ai mượn nó đánh giùm kia chứ?”, liền mặc áo ngắn tay, lận chày gỗ, dắt tỳ nữ theo. Tới nhà Cát, chị hai tươi cười ra đón, cô gái chẳng nói chẳng rằng, rút chày đánh chị ngã gục, áo xống rách nát đau đớn, dập môi gãy răng vãi cả cứt đái. Nàng về rồi chị hai vừa thẹn vừa tức sai chồng tới mách với Cao, sinh ra đón, hết lời an ủi. Cát nói riêng với sinh "Ta tới đây vì bất đắc dĩ thôi, con mụ ấy hung dữ bất nhân, may nhờ có tay dì nó trừng phạt cho, chứ hai chúng ta có thù hiềm gì với nhau đâu”. Cô gái nghe thấy lập tức sấn ra chỉ mặt Cát mắng "Quân hèn hạ kia, vợ bị đòn mà lại đi lấy lòng người ngoài à, hạng đàn ông này không đánh cho chết còn để làm gì?", rồi thét đem gậy ra, Cát hoảng sợ tông cửa chạy mất. Sinh từ đó không còn nơi nào lui tới cả.

Có hôm bạn đồng học là Vương Tử Nhã tới chơi, sinh giữ chuyện trong phòng ra đùa nhau, có hơi quá đáng. Gặp lúc cô gái ra nhìn lén khách, núp nghe rõ cả, bèn ngầm bỏ bã đậu vào canh bưng ra cho khách ăn. Giây lát Vương thượng thổ hạ tả dữ dội, thở khò khè như sắp chết. Nàng sai tỳ nữ ra hỏi "Còn dám vô lễ nữa không?", Vương mới hiểu ra là bệnh từ đâu tới bèn rên rỉ xin lỗi. Nàng đưa nước đậu xanh nấu sẵn ra, Vương uống xong thì hết, từ đó bạn bè răn nhau, không ai dám ăn uống gì ở nhà sinh nữa. Vương có quán rượu, trong quán có rất nhiều hồng mai nở, đặt tiệc mời bạn bè tới chơi, sinh lấy cớ họp văn xã trình với vợ xin cho đi dự. Đến tối lúc đã say, Vương nói "Vừa mới có một danh kỹ ở Nam Xương (tỉnh thành Giang Tây) tới lưu ngụ ở đây, có thể gọi tới cùng uống rượu”. Mọi người cả mừng, duy sinh rời tiệc lấy cớ đã say xin về. Mọi người kéo áo lại nói "Vợ ông tai mắt dẫu dài cũng không sao nghe thấy được chuyện ở đây”, rồi cùng thề giữ kín không nói lộ ra, sinh bèn ngồi xuống.

Giây lát nàng kỹ nữ tới, khoảng mười bảy mười tám tuổi, vòng ngọc leng keng, tóc mây búi cao. Hỏi tên họ, nàng xưng là họ Tạ, tiểu tự Phương Lan, nói năng trò chuyện vô cùng phong nhã, cả tiệc ai cũng say mê. Nhưng Phương Lan chỉ để ý tới sinh, mấy lần để lộ ý tứ, mọi người biết được liền kéo hai người ngồi sánh vai nhau. Phương Lan lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay sinh chữ "ngủ”, lúc ấy sinh muốn về thì không đành, muốn ở thì không dám, lòng rối như tơ vò không thể tả được. Nhưng cứ cúi đầu nghiêng tai thì thầm trò chuyện, càng say càng lả lơi phóng túng quên cả con sư tử ở nhà. Một lát nghe trống canh một, khách trong quán rượu càng thưa, nhìn ra chỉ còn một thiếu niên đẹp trai ngồi dưới bóng đèn uống rượu một mình, bên cạnh có tiểu đồng cầm khăn đứng hầu, mọi người đều thầm khen là cao nhã. Không bao lâu thiếu niên uống xong, đứng dậy đi ra, tiểu đồng ra theo rồi quay lại nói với sinh "Chủ ta chờ ông để xin thưa một câu”. Mọi người đều không biết là ai, duy sinh tái mặt không kịp cáo biệt bạn bè, vội vàng đi ra.

Thì ra thiếu niên là Giang Thành còn tiểu đồng là đứa tỳ nữ ở nhà. Sinh theo về nhà, nằm mà chịu đánh, từ đó càng bị cấm cố chặt chẽ, tuyệt hết việc đi lại với bạn bè thân thích. Quan học sứ xuống khảo thí, sinh thi rớt bị giáng xuống hạng thanh*. Một hôm sinh trò chuyện với đứa tỳ nữ, cô gái nghi là có tư tình liền lấy hũ rượu chụp lên đầu tỳ nữ đánh đòn rồi trói hai người vào nhau, lấy dao cắt thịt bụng hai người, đắp thịt của người này vào bụng người kia rồi cởi trói bảo tự băng bó lấy, hơn tháng sau miếng thịt vá ấy dính luôn vào bụng. Cô gái thường lấy chân đạp lên bánh, kế ném vào chỗ đất cát bụi bặm rồi quát bảo sinh nhặt lên mà ăn, những việc như thế rất nhiều.

*Hạng thanh: thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lần sau lại thi rớt thì bị truất về làm dân.

Mẹ sinh vì việc của con ngẫu nhiên ghé qua, thấy con gầy như que củi, trở về khóc lóc muốn chết. Đêm mơ thấy có ông già nói “Không cần phải lo phiền, đó là nhân quả kiếp trước. Giang Thành vốn là con chuột trường sinh của Hòa thượng Tĩnh Nghiệp nuôi, công tử kiếp trước là học trò, một hôm tới chơi chùa vô tình đạp chết nó, nay là quả báo không thể sức người mà làm hồi tâm được đâu. Mỗi sáng cứ thành tâm tụng niệm bài chú của Quan âm một trăm lần, tự nhiên sẽ thấy hiệu nghiệm”. Bà tỉnh dậy kể lại cho Trọng Hồng, cùng lấy làm lạ. Vợ chồng theo lời chỉ dạy, hơn hai tháng cô gái vẫn ngang ngược như cũ, lại thêm điên cuồng. Cứ nghe ngoài cửa có tiếng chiêng trống lại xõa tóc chạy ra nhìn dáo dác, hàng ngàn người chỉ trỏ bàn tán cũng mặc kệ. Ông bà thấy con dâu như thế rất hổ thẹn nhưng không sao ngăn cản, chỉ chê bai thầm mà thôi.

Chợt có nhà sư già tới trước cổng thuyết pháp, người ta đứng xem kín như bức tường. Sư thổi vào mặt trống thành tiếng kêu như trâu rống, cô gái chạy ra thấy người ta đứng dày đặc không có kẽ hở bèn gọi tỳ nữ đem ghế ra để đứng lên xem, thiên hạ đổ dồn mắt vào cũng thản nhiên như không hay biết gì. Lát sau sư giảng kinh xong, xin một bát nước trong cầm tới trước mặt cô gái đọc lớn "Chớ giận hờn, Chớ giận hờn? Kiếp trước chẳng phải giả, Kiếp này chẳng phải chân, ồ! Chuột nên co cổ chạy, Đừng để mèo bắt ăn", đọc xong ngậm nước phun vào mặt nàng, son phấn trôi nhễ nhại nhỏ xuống cả áo quần. Mọi người cả sợ, nghĩ rằng cô gái sẽ bừng bừng nổi giận, nhưng nàng im lặng lau mặt rồi vào, sư cũng bỏ đi.

Cô gái vào phòng ngồi ngẩn ra như mất hồn, cả ngày không ăn uống gì, kế dọn giường ngủ sớm. Nửa đêm chợt gọi sinh dậy, sinh ngỡ định sai phái liền bưng chậu tiểu đưa lên. Nàng đẩy chậu ra, ngầm nắm tay sinh kéo vào trong chăn, sinh vâng lệnh mà chân tay run lẩy bẩy như tiếp chiếu chỉ của vua. Cô gái cảm khái nói "Làm cho chàng đến thế này, sao đáng gọi là người?", rồi lấy tay xoa khắp người sinh, cứ tới vết dao gậy thì sụt sùi khóc lóc, lấy móng tay tự cào vào mình, hận không chết ngay tức khắc. Sinh thấy thế bất nhẫn, ra sức an ủi. Cô gái nói “Thiếp nghĩ vị hòa thượng lúc ban ngày ắt là Bồ Tát hóa thân, một chén nước lạnh mà như thay đổi cho cả gan ruột. Giờ nghĩ lại những việc mình đã làm đều như ở kiếp khác, thiếp lúc trước chắc không phải là người chăng? Có vợ chồng mà không biết âu yếm, có cha mẹ mà không biết phụng thờ, lòng dạ gì thế? Sáng mai phải dọn qua ở chung với cha mẹ để thăm nom hầu hạ”, vợ chồng nói chuyện suốt đêm như xa cách mười năm mới gặp lại.

Tảng sáng nàng lập tức trỗi dậy gói ghém quần áo vật dùng, sai tỳ nữ cầm giỏ còn mình mang gói, giục sinh đi trước gọi cửa. Mẹ ra hoảng sợ hỏi han, sinh nói ý vợ. Mẹ đang ngần ngại thì cô gái đã dắt tỳ nữ vào nhà. Mẹ vào theo, nàng quỳ mọp xuống đất khóc lóc thảm thiết, chỉ xin tha tội chết. Mẹ thấy là thật lòng cũng khóc nói "Con ta sao thay đổi mau thế?”. Sinh kể lại tỉ mỉ chuyện trước, mẹ mới hiểu ra rằng giấc mơ trước kia đã ứng nghiệm, mừng rỡ sai tôi tớ dọn dẹp gian nhà cũ cho hai vợ chồng ở. Cô gái từ đó thờ cha mẹ còn hơn cả con trai có hiếu, gặp ai cũng khép nép như cô dâu mới về nhà chồng, ai đùa nhắc lại chuyện cũ thì thẹn đỏ mặt.

Lại cần kiệm khéo buôn bán, qua ba năm cha mẹ không phải lo tới sinh kế mà nhà đã nổi tiếng giàu có cự vạn. Năm ấy sinh thi đỗ Cử nhân, cô gái thường nói “Ngày trước thiếp gặp Phương Lan một lần, nay vẫn còn nhớ nàng", sinh vì không bị hành hạ đã lấy làm mãn nguyện, không dám mơ tưởng tới chuyện cưới hầu thiếp nên chỉ dạ dạ mà thôi. Kế sinh vào kinh thi hội mấy tháng mới về, vào phòng thấy Phương Lan đang đánh cờ với Giang Thành, ngạc nhiên hỏi han, thì ra cô gái đem mấy trăm đồng vàng chuộc Phương Lan ra. Lúc ta ở vùng Thiệu Hưng Chiết Giang được quen ông Vương Tử Nhã, cả đêm kể cho nghe rất rõ ràng.

Dị Sử thị nói:Nghiệp căn của đời người, một hớp nước một miếng cơm cũng phải chịu báo ứng, nhưng chỉ những kẻ chịu báo ứng chỗ phòng khuê thì như bị ghẻ trong xương, sự thảm độc càng ghê gớm. Thường thấy trong thiên hạ những người vợ hiền chỉ có một phần còn vợ dữ tới chín phần, cũng đủ biết những người tu dưỡng nết tốt trên đời rất ít. Quan Thế âm pháp lực vô biên, sao không đem nước cam lồ trong bình ngọc rưới khắp thế gian?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 120 -
Bát Đại Vương
(Bát Đại Vương)

Phùng sinh ở huyện Lâm Thao (tỉnh Cam Túc), người thuật chuyện không nhớ tên, chỉ biết là dòng dõi thế gia đã sa sút. Có người chài lưới thiếu nợ sinh không trả nổi nên cứ bắt được ba ba là đem lại biếu. Có lần biếu con ba ba cực to, trán có đốm trắng, sinh thấy hình dạng lạ lùng liền thả ra sông. Sau sinh đi thăm con rể trở về, tới bờ sông Hằng Hà thì trời vừa tối thấy một người say có hai ba tiểu đồng theo sau ngất ngưởng đi tới, thấy sinh hỏi là ai? Sinh đáp bừa là kẻ đi đường, người say giận nói "Chẳng lẽ không có tên họ à, sao chỉ nói là kẻ đi đường?," Sinh sốt ruột lo về nên không buồn đáp, cứ đi thẳng qua mặt, người say càng giận, nắm lấy áo sinh không cho đi, mùi rượu nồng nặc. Sinh rất khó chịu mà cố sức gỡ ra không được bèn hỏi ngươi tên gì, người say lè nhè đáp “Ta là Lệnh doãn cũ ở Nam Đô, ngươi định làm gì?". Sinh nói "Thế gian có thứ Lệnh doãn như vậy, thật là chửi cả thiên hạ. May là Lệnh doãn cũ đấy, chứ nếu là Lệnh doãn mới chắc giết ráo người đi đường rồi phải không?". Người say giận lắm toan giở võ, sinh lớn tiếng nói "Phùng mỗ ta không phải là kẻ để yên cho người đánh đâu!". Người say nghe thế đổi giận làm vui, lảo đảo lạy rạp xuống nói "Té ra là ân chủ, mới rồi đường đột xin đừng bắt tội", rồi đứng dậy bảo kẻ tùy tùng về trước dọn rượu.

Sinh từ chối không được, người ấy nắm tay dắt đi vài dặm thì tới một xóm nhỏ, vào trong thấy nhà của đẹp đẽ như phủ đệ quý nhân. Người say hơi tỉnh rượu rồi, sinh mới hỏi thăm tên họ là gì, y đáp "Nói ra xin chớ kinh hãi, ta là Bát Đại vương ở sông Thao đây. Mới rồi tiên Thanh Đồng ở Tây Sơn mời đi uống rượu, không ngờ say quá nên xúc phạm tôn nhan, nghĩ rất hổ thẹn". Sinh biết là yêu quái, nhưng thấy tình ý niềm nở nên cũng không sợ sệt gì. Giây lát rượu thịt dọn lên ê hề, giục sinh ngồi vào tiệc. Bát vương uống rất hào, dốc cạn liên tiếp mấy chén, sinh sợ y say lại sinh sự bèn giả say đòi đi nằm. Bát vương hiểu ý cười nói "ông sợ ta bừa bãi sao? Xin chớ lo, phàm kẻ say vô hạnh rồi qua đêm nói rằng không nhớ đã làm những gì là nói dối thôi, bọn bợm rượu mất nết thì mười người có chín người như vậy đấy. Nhưng ta tuy không dám sánh với người tốt song nghĩ lại cũng chưa từng dám làm điều vô lại với bậc trưởng giả sao ông cự tuyệt thẳng thừng như thế?". Sinh bèn ngồi xuống nghiêm sắc mặt can rằng "Ông đã tự biết, sao không sửa đổi?", Bát vương đáp “Lão phu lúc làm Lệnh doãn thì say sưa còn quá ngày nay, từ khi làm Thượng đế tức giận bị đày ra cù lao, cố bỏ thói cũ đã hơn mười năm. Nay sắp chết mà còn lận đận không được vẫy vùng nên thói cũ lại nảy sinh mà không tự biết. Nay xin kính cẩn vâng lời ông".

Đang chuyện trò thì nghe tiếng chuông chùa xa xa, Bát vương đứng lên cầm tay sinh nói "Gặp gỡ không được lâu, nay có một vật xin tặng để đền ơn lớn. Vật này không nên mang lâu, khi nào được như nguyện rồi xin trả lại cho ta”. Rồi khạc ra một hình người bé tí dài hơn một tấc, lấy móng tay rạch vào cánh tay sinh, đau như xé ruột, đặt mau hình người lên rồi đè xuống, buông tay ra thì đã chìm hẳn vào trong thịt, vết móng tay vẫn còn mà chỗ đó gồ lên như mụn nhọt. Sinh sợ hãi hỏi, Bát vương cười không đáp, chỉ nói “ông nên đi thôi” rồi tiễn sinh ra. Bát vương trở vào, sinh ngoảnh nhìn thì xóm làng nhà cửa đều biến mất, chỉ có một con ba ba lớn đang ì ạch bò xuống nước rồi mất tăm. Sinh kinh ngạc sửng ra hồi lâu rồi tự nghĩ vật mình vừa được cho ắt là ngọc ba ba.

Từ đó mắt rất sáng, phàm nhưng nơi có châu báu, dù ở tận suối vàng cũng nhìn thấy được, ngay cả những món chưa từng biết cũng ứng khẩu gọi được đích danh, đào được mấy trăm lượng vàng chôn ngay dưói phòng ngủ, việc chi tiêu cũng đầy đủ. Sau có người bán ngôi nhà cũ, sinh nhìn thấy tiền bạc chôn giấu vô số bèn bỏ nhiểu tiền ra mua, từ đó giàu có ngang bậc vương hầu, các loại ngọc quý hiếm trên đời trong nhà đều có đủ. Lại được một tấm gương, phía sau chạm hình chim phượng đeo vòng, mây nước và Tương Phi, chiếu sáng cả dặm, có thể thấy rõ từng sợi tóc. Người đẹp mà soi vào thì hình bóng sẽ in lại, lau chùi cũng không mất được, nếu thay quần áo khác soi lại hoặc người đẹp khác soi lên thì ảnh trước mới mất đi.

Lúc bấy giờ công chúa thứ ba trong Túc vương phủ* nhan sắc tuyệt đẹp, sinh rất hâm mộ. Gặp lúc công chúa đi chơi núi Không Động, sinh tới rình trong núi chờ khi công chúa trên kiệu bước xuống lấy gương ra soi rồi mang về đặt lên bàn, nhìn kỹ thấy mỹ nhân ở trong cầm khăn mỉm cười, miệng như muốn nói, mắt như muốn liếc, mừng rỡ cất kỹ. Hơn một năm, vì vợ nói lộ ra, Túc vương nghe được cả giận, bắt giam sinh, đòi lấy tấm gương, định xử án chém. Sinh hối lộ rất nhiều cho một quý nhân trong vương phủ, nhờ tâu với Túc vương rằng "Nếu vương tha thì bao nhiêu của báu trên đời muốn có cũng dễ, nếu không thì ta cũng tới chết là cùng, mà vương thì chẳng có lợi gì cả". Vương muốn tịch biên gia sản và đày sinh đi xa, công chúa thứ ba nói "Y đã nhìn con, dù giết mười lần cũng không đủ gột rửa tiếng nhơ, chi bằng gả con cho y”. Vương không nghe.

*Túc vương phủ: tức Túc Trang vương, hoàng tử thứ mười bốn của Minh Thái tổ nhà Minh, được phong là Hán vương, năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) đổi phong là Túc vương, năm sau ra lập phủ đệ ở Cam Túc.

Công chúa đóng cửa không chịu ăn, Vương phi lo quá, cố nói với vưong, vương bèn thả sinh ra, lại sai vị quý nhân kia ngỏ ý với sinh. Sinh từ chối nói "Người vợ từ lúc hàn vi không thể bỏ, ta thà chết chứ không dám vâng lệnh, nếu vương cho chuộc tội thì dốc hết gia sản ra cũng được", vương giận lại bắt giam sinh. Vương phi triệu vợ sinh vào cung, định hạ độc giết chết. Vợ sinh vào, đem chiếc giá gương san hô làm lễ ra mắt, lời lẽ mềm mỏng dễ thương, Vương phi hài lòng, sai bái kiến công chúa thứ ba, công chúa cũng thích, bèn đính ước làm chị em rồi sai người vào ngục dụ sinh. Sinh nhắn vợ rằng "Con gái nhà vương hầu thì không thể lấy việc cưới trước cưới sau mà bàn lớn bé được đâu”. Vợ không nghe cứ về sắp đặt sính lễ đưa tới vương phủ, người đội lễ vật có tới hàng ngàn, nhiều loại châu quý ngọc lạ nhà vương cũng không biết tên.

Vương cả mừng gả công chúa cho sinh, công chúa vu quy cũng đem tấm gương về. Một đêm sinh ngủ một mình, mơ thấy Bát vương nghênh ngang vào, nói "Vật ta đã tặng nay nên trả lại. Mang nó lâu quá thì hao tổn tinh huyết, chiết giảm tuổi thọ". Sinh vâng dạ, giữ lại uống rượu, Bát vương từ chối, nói "Từ lúc nghe ông khuyên, ta bỏ dứt rượu được ba năm rồi". Rồi há miệng cắn vào cánh tay, sinh đau quá tỉnh dậy, nhìn lại thì chỗ mụn nhọt đã tiêu tan, từ đó lại như người thường.

Dị Sử thị nói:Tỉnh thì còn là người mà say rồi thì như con ba ba, những kẻ uống rượu đều như thế cả. Nhưng con ba ba kia tuy hàng ngày quen thói uống rượu bét nhè song không dám quên ơn, không dám vô lễ với bậc trưởng giả, con ba ba chẳng cũng hơn xa con người sao? Lắm kẻ tỉnh thì không bằng người, say thì không bằng con ba ba, người xưa soi gương bói rùa*, chắc là lấy con rùa để soi mình chăng? Vì vậy làm bài phú Người uống rượu. Phú rằng:

*Bói rùa: một cách bói toán thời cổ, lấy cái mai rùa hơ nóng lên rồi theo những vết nứt nẻ mà đoán hay dở xấu tốt.

Có một vật nọ, rong chơi ngon miệng, uống vào thì ngất ngất ngây ngây, tên gọi là rượu. Chủng loại rất nhiều, công lao đã lắm. Dùng để tiếp đãi tân khách, dùng để thù phụng cha anh. Dùng để vui sướng lúc một mình, dùng để hợp cẩn thành đôi lứa. Có khi làm lưỡi câu để câu hứng thơ, có khi làm cái chổi để quét phiền muộn. Cho nên chàng rượu tới thường thì người người kết bạn, làng say vào sâu thì kẻ kẻ quên sầu. Đài hèm bã đã cao, công chĩnh vò bất hủ. Một thạch ấy sức quan Tề*, năm đấu làm tên Học sĩ**. Thế nên rượu nhờ người mà nổi danh, nhưng có khi người vì rượu mà mang tiếng.

*Một thạch... quan Tề: Sử ký, Thuần Vu Khôn truyên chép vua Tề hỏi Khôn uống được bao nhiêu rượu, Khôn đáp cũng tùy nơi tùy lúc, như uống trong các yến tiệc ở triều đình, phải giữ nghi lễ thì một đấu cũng say, còn uống trong những hội lễ chốn đân gian, thả sức vui chơi thì một thạch mới say.

** Năm đấu... Học sĩ: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ thời Đường "Tiêu trục ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên" (Uống cạn năm đấu mới hứng chí, Đàm luận hùng hồn kinh bốn bên).

Kìa như Mạnh Gia rơi mũ*, Lưu Linh vác mai**, Sơn Giản say mèm***, Đào Tiềm lược rượu (4*). Say ngủ bên người đẹp, không ý tư thông (5*), nhúng đầu vào nghiên sâu, có thần giúp sức (6*). Kẻ sĩ cưỡi thuyền rơi nằm đáy giếng (7*), ông quan bộ Lại bị trói bên lò (8*). Thậm chí nếu rụt đầu (9*) mà nghịch ngợm, cũng còn chưa hại vật mà bất nhân. Tới như khi mưa chiều tuyết tối, hoa sớm trăng khuya, gió lặng bụi yên, bạn xưa gái mới, dép giày trộn lẫn, lan xạ thơm lùng, đùa trăng cợt gió, hát nhỏ chuốc vơi, điệu nhạc hay vừa mới trỗi, trên chiếu lặng tựa không người, trò chuyện giống hoa bay sáng miệng, ngâm thơ như lắc ngọc khua vàng, dẫu quá chén mà say khướt, cũng hồn trong mà ngủ yên. Nếu thế thì dù mỗi ngày mỗi uống cũng chẳng hại gì tới danh giáo. Còn như trong dục nhập nhằng, hát ca bậy bạ, đứng ngồi nhớn nhác, cười nói ồn ào, chuyện bé xé ra to, cãi vã nhiếc mắng, rướn cổ nhăn mày như uấng thuốc độc, ngã bầu rơi chén tắt nến đổ đèn, rượu ngon lênh láng, say sưa bét nhè thì phép uống rượu vốn cấm, tình ý như thế chẳng thà đừng uống.

* Mạnh Gia rơi mũ: Tấn thư, Mạnh Gia truyện chép Mạnh Gia làm Tham quân dưới trướng Hoàn ôn, nhân ngày Trùng dương Ôn hội hết các tướng lên núi Long Sơn ăn tiệc, mọi người đều mặc giáp trụ, Ôn say quá gặp cơn gió mạnh thổi rơi cả mũ mà không hay.

** Lưu Linh vác mai: Tấn thư, Lưu Linh truyện chép Lưu Linh là một trong Trúc Lâm thất hiền, tính hay rượu, đi đâu cũng mang bầu rượu theo, sai đầy tớ vác mai đi cùng, nói "Nếu ta chết thì chôn luôn tại chỗ".

*** Sơn Giản say mèm: Thế thuyết chép Sơn Giản trấn thủ Sơn Dương, ở đó có họ Tập có khu vườn đẹp, Giản thường tới uống rượu say khướt.

4* Đào Tiềm lược rượu: Tống thư chép Đào Tiềm thời Tấn ở nhà lấy khăn đội đầu lược rượu, lọc xong lại đội lên đầu. Có người láng giềng mời qua uống rượu, trong rượu có cặn, Tiềm lập tức cởi khăn ra lược.

5* Say ngủ... tư thông: Thế thuyết chép Nguyễn Tịch là một trong Trúc lâm thất hiền, cạnh nhà có người đàn bà rất đẹp mở quán bán rượu, Tịch và Vương An Phong thường cùng nàng uống rượu, có lần say nằm ngủ khoèo bên cạnh nàng. Người chồng lúc đầu rất ngờ vục, sau rình theo dõi thì thấy Tịch không có ý gì khác.

6* Nhúng đầu... giúp sức: Đường quốc sử bổ chép Trương Húc giỏi viết chữ thảo, tính hay rượu, lúc uống say rồi cứ lấy đầu làm bút nhúng vào mực viết chữ, biến hóa nhiều lối như có thần giúp.

7* Kẻ sĩ... đáy giếng: lấy ý câu trong bài Bát tiên ca của Đỗ Phủ "Tri Chương kỵ mã tự hành thuyền, Nhãn hoa lạc tỉnh thủy đê miên" (Tri Chương cưỡi ngựa ngỡ đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng ngủ say mèm).

8* ông quan... bên lò: Tấn thư, Tất Trác truyện chép Tất Trác làm Lại bộ lang, cạnh nhà có quán trọ nấu rượu, Trác nhân đêm lẻn qua uống trộm bị người nấu rượu bắt trói, sáng ra mới biết là Tất Lại bộ.

9* Rụt đầu: nguyên văn là "hiệu miết tù” (học lối miết ẩm, tù ẩm). Hoa mạn lục chép bọn Tô Vũ Khâm, Thạch Diên Niên có nhiều lối uống rượu như "quỷ ẩm", "liễu ẩm", “tù ẩm", "miết ẩm", "hạc ẩm", trong đó "tù ẩm" là để lộ đỉnh đầu đứng chung quanh bàn uống rượu như bọn tù, “miết ẩm” là lấy chăn lông quấn quanh người chỉ thò đầu ra, uống xong một chén thì rụt đầu vào trong như con ba ba.

Lại có kẻ rượu vừa nuốt xuống hơi đã bốc lên, lảm nhảm lè nhè chê chủ keo kiệt, đã không biết cư xử lại không biết uống rượu, thứ khách rượu không có phẩm giá ấy thì càng quá lắm. Thậm chí có kẻ vừa uống xong thì thôi khách sáo, trợn mày bứt tóc cởi áo xắn quần, bọt nhểu nhảo đầy mồm miệng, ói òng ọc ra áo quần, cổ rướn dài như chó sủa, tóc rối bời như ăn xin. Bụng chạm đất mà miệng kêu trời, tựa bày gan ruột, tay thì khua còn chân lại rũ, như bị phanh thây. Tài thơ phú không lời để tả, bút đan thanh khôn họa thành tranh. Cha mẹ già bị chửi, vợ con yếu khó dìu, có khi chú bác bạn bè bỗng dưng mà chịu nhục. Dùng lời nhỏ nhẹ can ngăn thì càng thêm u mê dữ tợn, đó gọi là uống rượu mất nết, không thể cứu giúp gì được. Duy có một cách để giã rượu, cách ấy ra sao? Chỉ cần lấy một cái gậy, trói tay chân lại như lối mổ heo, cứ đập vào mông đừng đánh lên dầu, hơn trăm gậy rồi chắc chắn tỉnh lại.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 121 -
Cô Gái Họ Thiệu
(Thiệu Nữ)

Sài Đình Tân người huyện Thái Bình (tỉnh An Huy), vợ là Kim thị không sinh nở được mà tính cả ghen. Sài bỏ ra trăm lượng vàng cưới thiếp, Kim đối xử rất tàn ác, qua năm sau thì người thiếp chết. Sài uất ức ngủ riêng, mấy tháng liền không đặt chân tới phòng vợ. Gặp ngày sinh nhật Sài, Kim tới ăn nói ngọt ngào làm lễ chúc thọ chồng, Sài không nỡ cự tuyệt, mới lại chuyện trò cười nói với nhau. Kim bày tiệc trong phòng mời Sài, Sài lấy cớ đã say để từ chối, Kim ăn mặc lộng lẫy tự tới phòng Sài nói "Thiếp đã hết lòng trọn ngày, dù chàng có say cũng xin uống một chén rồi về". Sài bèn vào phòng, uống rượu trò chuyện. Vợ thong thả nói "Trước kia lỡ tay giết đứa tỳ nữ, nay đã hối hận, sao chàng còn để bụng oán hờn, há không còn tình vợ chồng sao? Từ nay về sau xin cứ nạp thiếp, thiếp không dám trách móc gì chàng đâu”. Sài càng mừng, từ đó lại yêu thương vợ như trước. Kim bèn gọi người mai mối tới bảo tìm người thiếp đẹp cho chồng, nhưng ngầm dặn cứ lờ đi, còn mình làm ra vẻ thúc giục. Cứ thế hơn năm, Sài không chờ được bèn dặn khắp bạn bè thân thích nhờ tìm hỏi cho mình, được con gái nuôi của nhà họ Lâm, Kim vừa gặp đã tỏ vẻ mừng rỡ, cho cùng ăn cùng ngủ với mình, áo quần nữ trang cho tùy ý lựa dùng.
Nhưng Lâm vốn sinh ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc) nên không thạo việc nữ công, ngay việc khâu giày cũng phải có người giúp cho. Kim nói “Nhà ta vốn cần kiệm không phải như nhà vương hầu mà mua người như mua tranh để ngắm", rồi từ đó đưa cho gấm lụa bảo Lâm học cắt may như thầy dạy trò rất nghiêm khắc, ban đầu còn mắng chửi, kế thì đánh đập. Sài trong lòng xót xa không biết làm sao, mà Kim lại càng tỏ vẻ yêu thương Lâm hơn trước, cứ đích thân trang điểm cho Lâm. Nhưng gót giày hơi có vết nhăn là lấy thước sắt đánh vào hai chân, tóc hơi rối là tát vào hai má, Lâm không chịu nổi treo cổ tự tử. Sài đau lòng xốn mắt, trách móc nặng lời. Vợ giận nói "Ta thay anh dạy dỗ nàng ta thì có tội gì?”, lúc ấy Sài mới biết sự gian xảo của vợ, dứt hẳn tình vợ chồng, ngầm xây dựng phòng ốc nơi khác, nghĩ cách cưới vợ đẹp ở riêng.
Thấm thoát hơn nửa năm vẫn chưa tìm được người nào, ngẫu nhiên tới dự đám tang ở nhà bạn thấy một nữ lang khoảng mười sáu tuổi đẹp lộng lẫy, cứ sững người ra ngắm nhìn. Cô gái thấy Sài có vẻ sỗ sàng bèn liếc nhìn rồi quay người đi, Sài hỏi người ta thì biết nàng họ Thiệu. Thiệu là học trò nghèo, chỉ có một con gái là nàng. Lúc nhỏ rất thông minh, cha dạy cho học, sách vở chỉ đọc qua là hiểu, lại rất thích đọc sách thuốc và sách xem tướng. Cha rất thương yêu, có ai tới hỏi cưới thì cho nàng quyết định, nhưng kẻ giàu người nghèo gì cũng không giỏi bằng nên mười bảy tuổi vẫn chưa lấy chồng. Sài hỏi rõ được ngọn ngành biết rõ là không thể hỏi cưới được nhưng vẫn bồi hồi, lại nghĩ rằng nhà Thiệu nghèo có thể lấy lợi làm động tâm, bèn bàn với vài bà mối nhưng không ai dám nhận lời, chán nản không còn hy vọng gì nữa.
Chợt có bà mối họ Giả tới bán ngọc cho Sài, Sài tỏ ý mình rồi cho nhiều tiền, nói "Chỉ cần bà nói rõ lòng thành của ta, còn họ có ưng hay không thì ta không trách gì bà. Còn nếu vạn nhất mà việc xong, thì ngàn vàng ta cũng không tiếc đâu”. Bà Giả thấy được nhiều tiền bèn vâng dạ, tìm tới chuyện dằng dai với vợ Thiệu, nhìn thấy cô gái ngạc nhiên ca ngợi, nói "Cô nương đẹp quá, nếu tới viện Chiêu Dương thì chị em nhà họ Triệu* có đáng gì!”. Lại hỏi đã hứa gả cho ai rồi, vợ Thiệu đáp chưa, bà ta nói "Sợ gì không có bậc vương hầu làm rể quý”.

*Chị em nhà họ Triệu: tức chị em Triệu Phi Yến, Triệu Hơp Đức trong nội cung của Đường Minh Hoàng, được cho ở tại viện Chiêu Dương, rất được vua sủng ái.

Vợ Thiệu than “Nhà vương hầu thì không dám mong, chỉ cần tìm được thằng bé nào có học là tốt lắm rồi. Của nợ nhà ta cứ chọn lựa này nọ, cả chục người không ưng được một đám, thật chẳng hiểu nó muốn những gì”. Bà Giả nói "Phu nhân không cần phải trách móc, người đẹp như thế chẳng biết kiếp trước tu được bao nhiêu phúc đức mới cưới được kia. Hôm rồi có một chuyện rất buồn cười, là lang quân họ Sài nói thấy nhan sắc cô nương đây ở đám tang nhà ông Mỗ, xin dâng ngàn vàng làm sính lễ, há chẳng phải cú đói mơ sánh đôi với thiên nga sao? Già này đã mắng cho mới chịu thôi đấy!”. Vợ Thiệu cười khẽ chưa đáp, bà ta lại nói "Chỉ vì là nhà Tú tài khó mà sánh đôi, chứ nếu nhà khác thì như thế mất ít mà được nhiều, cũng nên ưng thuận". Vợ Thiệu lại cười không đáp, bà ta bèn vỗ tay nói "Phải rồi, đứng về phía già này mà nói thì làm thế là sai đấy. Hàng ngày già được phu nhân yêu thương, lên thềm còn được ngồi xếp bằng cho uống rượu, chứ phu nhân mà được ngàn vàng, ra xe ngựa vào lầu gác thì già tới cổng sẽ bị người gác cổng thét đuổi ra ngay”.
Vợ Thiệu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đứng lên vào nói chuyện với chồng, lát sau ra gọi con gái vào, lát sau ba người cùng ra. Vợ Thiệu cười nói "Con nhãi nhà ta lạ thật, bao nhiêu đám tốt đều không chịu mà nghe nói làm vợ lẽ lại ưng, chỉ sợ các bậc văn nhân cười cho". Bà Giả nói "Nếu về đó mà sinh được một tiểu ca, thì đại phu nhân mà bằng được à?". Nói xong kể lại việc Sài định ở riêng, Thiệu càng mừng rỡ bèn gọi con gái nói “Cứ thử trò chuyện với bà Giả đi, việc này là do ngươi tự chủ trương, về sau đừng có hối hận mà oán trách cha mẹ". Cô gái ngượng nghịu nói "Cha mẹ được phụng dưỡng chu đáo thì công nuôi con không uổng. Huống hồ con tự thấy mình phận bạc, nếu làm vợ chính ắt sẽ bị giảm thọ, nếu phải chịu đựng đau khổ chút ít thì cũng chưa chắc không phải là điều may. Hôm trước nhìn thấy chàng Sài, cũng có phúc tướng, con cháu ắt có kẻ làm nên".
Bà mối cả mừng chạy về báo, Sài mừng rỡ vì được quá cả lòng mong ước, lập tức đem ngàn vàng sắp xe kiệu tới cưới cô gái về ở nhà riêng, tôi tớ không ai dám nói một câu. Cô gái nói với Sài rằng “Chàng tính toán có thể nói cũng như chim én làm tổ trên rèm*, không phải là kế lâu dài. Ngậm miệng lựa lời để giữ kín chuyện liệu có được không? Chẳng bằng xin cứ về nhà cho sớm, nói thật ra ngay thì tai họa còn nhỏ". Sài lo là nàng sẽ bị đày đọa, nàng nói "Trên đời không có ai là kẻ không thể cảm hóa được, ta cứ giữ cẩn thận không có lỗi lầm thì bà ta làm sao giận được?". Sài nói "Không phải thế đâu, bà ta hung dữ phi thường, không thể nói tình lý mà cảm hóa được". Cô gái nói “Thân làm lẽ mọn thì bị hành hạ là phải thôi, nếu không chịu thế mà cứ tạm bợ cầu sống thì liệu có được lâu dài không?", Sài cho là đúng nhưng rốt lại vẫn chần chừ không dám quyết.

*Chim én làm tổ trên rèm: lấy ý lời của Quý Trát thời Xuân thu nói với Tôn Văn Tử, chỉ người tính việc trước mắt mà không nghĩ tới tai họa về lâu dài.

Một hôm Sài đi vắng, cô gái mặc áo tỳ nữ ra cửa, sai đầy tớ dắt con ngựa cái già, có một bà già ôm cái bọc đi theo tới nhà Vợ Sài ở, lạy rạp xuống đất tự bày tỏ. Vợ Sài lúc đầu nổi giận, kế nghĩ nàng tự tới thú có thể tha thứ lại thấy ăn mặc khiêm nhường hèn mọn, cũng hơi nguôi giận bèn sai tỳ nữ lấy áo gấm ra cho mặc, nói "Ta bị gả bạc bẽo kia rêu rao nói xấu với mọi người nên chịu tiếng oan, chứ thật ra đều là vì chồng bất nghĩa, bọn tỳ thiếp mất nết có chỗ mà khích bác, ngươi nghĩ xem kẻ giấu vợ cưới thiếp còn có phải là người không kia chứ? Cô gái nói "Xem kỹ thì ông ấy cũng hơi hối hận, chỉ là không chịu xuống nước đó thôi. Lời ngạn nói Người trên không chịu thua người dưới, còn theo lễ mà bàn thì vợ đối với chồng cũng như con đối với cha, vợ thứ đối với vợ cả vậy. Nếu phu nhân chịu tỏ ra vui vẻ niềm nở thì có thể làm cho ông ấy hết hờn oán". Vợ Sài nói "Tự y không chịu tới đây chứ ta có làm gì đâu?", rồi lập tức sai các tỳ nữ dọn phòng cho cô gái ở, tuy không vui lắm nhưng cũng yên lòng.
Sài nghe tin cô gái tới nhà vô cùng hoảng sợ, thầm nghĩ dê vào miệng cọp thì không sao sống nổi, vội chạy mau về thì thấy trong nhà yên ắng, mới được yên lòng. Cô gái ra cửa đón tiếp khuyên lơn, bảo tới phòng vợ cả Sài tỏ vẻ khó khăn, nàng khóc ròng, Sài mới xiêu lòng. Cô gái tới gặp vợ Sài nói "Lang quân vừa về, tự thấy xấu hổ không còn mặt mũi nào tới gặp phu nhân, xin phu nhân tới cười cho một tiếng". Vợ Sài không chịu, nàng nói "Thiếp đã nói rồi, chồng đối với vợ cũng như vợ cả đối với vợ lẽ. Mạnh Quang nâng án ngang mày* mà người ta không cho là nịnh nọt là vì sao? Vì phận sự phải như thế thôi". Vợ Sài theo lời, tới gặp Sài nói "Chàng như con thỏ khôn có ba hang, về đây làm gì?". Sài lừ mắt không đáp, cô gái lấy khuỷu tay huých ra hiệu bèn nhăn nhó cười gượng, vợ mới hơi dịu nét mặt.

*Mạnh Quang nâng án ngang mày: Hậu Hán thư, Lương Hồng truyện chép Lương Hồng lúc hàn vi có vợ là nàng Mạnh Quang, xấu người nhưng hiền đức, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn đều kính cẩn nâng mâm ngang mày (cử án tề mi).

Lúc vợ Sài ra, cô gái đẩy Sài theo, lại dặn nhà bếp làm tiệc, từ đó vợ chồng Sài lại hòa thuận. Cô gái sáng dậy sớm mặc áo xanh tới hầu vợ Sài, bưng nước rửa mặt, hầu hạ khăn lược, giữ lễ tỳ nữ rất cung kính. Sài vào phòng thì hết sức từ chối, hơn mười đêm mới cho ngủ lại một đêm, vợ Sài cũng thấy là hiền nhưng lại xấu hổ vì thấy mình không bằng nàng, thẹn thùng chuyển thành ghen ghét. Song cô gái hầu hạ cẩn thận, không có lỗi lầm nào để bới móc, có khi chửi mắng qua loa thì nàng chỉ vâng dạ. Một đêm vợ chồng có chuyện xích mích, sáng ra vợ Sài dậy trang điểm vẫn còn tức tối, cô gái bưng gương lỡ tay làm rơi vỡ, vợ Sài nắm tóc nàng trừng mắt nhìn. Cô gái sợ quá quỳ xuống cầu khẩn, vợ Sài không nguôi giận đánh luôn vài mươi roi. Sài không nhịn được nổi giận xông vào kéo nàng ra, vợ lu loa giằng lại. Sài nổi giận giật roi đánh vợ rách cả mặt mới bỏ đi, từ đó vợ chồng coi nhau như kẻ thù.
Sài cấm cô gái không được tới phòng vợ nữa nhưng nàng không nghe, sáng ra dậy sớm quỳ ngoài màn, vợ Sài đập giường chửi lớn, quát đuổi đi không cho tới trước mặt, đêm ngày mắm môi nghiến lợi, rắp tâm chờ lúc nào Sài đi vắng sẽ trút hờn lên cô gái. Sài biết ý, gác hết mọi việc, đóng cửa ở nhà không giao du với ai cả. Vợ Sài không biết làm sao, chỉ hàng ngày đánh đập bọn tỳ nữ cho hả giận, tôi tớ trong nhà đều không chịu nổi. Từ khi vợ chồng xích mích, cô gái cũng không dám cho Sài ngủ ở phòng mình, Sài từ đó ngủ một mình, vợ nghe biết cũng hơi yên lòng.
Có đứa tỳ nữ đã lớn vốn giảo hoạt, ngẫu nhiên trò chuyện với Sài, vợ Sài nghi là tư thông với nhau càng hành hạ tàn nhẫn, đứa tỳ nữ cứ lúc vắng người là căm tức chửi rủa. Một đêm tới phiên nó hầu, cô gái dặn Sài không được cho tới, nói "Mặt cô ta có sát cơ, khó lường lắm". Sài theo lời gọi tới, giả vờ hỏi tại sao làm điều ám muội, đứa tỳ nữ khiếp sợ không đáp được, Sài càng nghi ngờ, xét trong áo tìm được con dao sắc, nó không còn lời gì để nói, chỉ quỳ mọp xin tha chết. Sài muốn đánh đòn, cô gái ngăn lại nói “Sợ phu nhân nghe được thì nó không còn cách sống. Tội nó vẫn không thể tha được, nhưng chẳng bằng bán đi cho nó được toàn mạng mà ta còn được tiền". Sài cho là phải, gặp lúc có người mua tỳ thiếp vội bán đi. Vợ Sài thấy không bàn bạc gì với mình bèn trách móc chồng, lại giận lây qua cô gái, chửi mắng càng tàn tệ. Sài uất ức nhìn cô gái nói "Đây là nàng tự chuốc lấy đấy nhé, nếu trước cứ để cho nó giết đi thì làm gì có ngày hôm nay?", nói xong bỏ đi.
Vợ Sài thấy lời nói kỳ quái, hỏi khắp cả người hầu nhưng không ai biết, hỏi cô gái nàng cũng không đáp, càng bực dọc phiền muộn, túm áo nàng chửi té tát. Sài bèn quay vào nói rõ mọi chuyện, vợ Sài cả kinh dịu giọng với cô gái, nhưng lại chuyển sang giận là không nói sớm với mình. Sài cho rằng vợ đã hết hiềm khích nên không đề phòng nữa, một hôm có việc đi xa, vợ Sài bèn gọi cô gái tới hỏi tội, nói "Kẻ giết chủ thì tội không tha được, người tha nó là có ý gì?". Cô gái bị bất ngờ không đáp được, vợ Sài bèn nung đỏ sắt đốt mặt nàng, muốn phá hủy dung mạo. Đám tớ gái đều bất bình thay, nghe tiếng rú người nhà đều khóc lớn xin chịu chết thay nàng. Vợ Sài thấy thế không đốt mặt nữa, lấy kim đâm vào sườn nàng hơn hai mươi nhát mới đuổi đi.
Sài về thấy mặt cô gái bị thương, cả giận muốn qua tìm vợ, nàng nắm áo kéo lại nói “Thiếp đã biết rõ nơi đây là chậu lửa nhưng vẫn dám vào, chứ lúc lấy chàng há cho rằng nhà chàng là thiên đường hay sao? Cũng vì biết mình bạc phận nên làm thế để tạo vật bớt ghét thôi. Yên lòng nhịn nhục chịu khổ thì còn có lúc hết tai họa, chứ nếu lại làm trời tức giận, thì hố thẳm đã lấp bằng lại sụt xuống mất". Rồi lấy thuốc băng bó những chỗ bị đất, vài ngày thì hơi đỡ, chợt cầm gương soi mừng rỡ nói rằng "Hôm nay thì chàng nên chúc mừng thiếp, bà ta nung đất làm đứt hết nhữug nét mờ tối trên mặt thiếp rồi". Rồi lại sớm tới phụng sự vợ cả, chu đáo kính cẩn như xưa.

Kim trước thấy mọi người khóc lóc tự biết mình đã bị cô lập, hơi có ý hối hận, thường gọi cô gái vào cùng làm việc với mình, lời nói sắc mặt đều ôn hòa. Hơn một tháng chợt bị bệnh không ăn uống gì được, Sài giận là không chết ngay, không ngó ngàng gì tới. Vài hôm sau thì bụng Kim trướng lên to như cái trống, ngày đêm nằm rũ liệt, cô gái hầu hạ quên ăn quên ngủ, Kim càng biết ơn nàng. Cô gái nói là mình biết y lý, nhưng Kim nghĩ trước đây mình hành hạ nàng quá tàn ác, ngờ là nàng sẽ báo thù nên cố từ tạ. Kim là người coi sóc việc nhà có khuôn phép, tôi tớ đều răm rắp nghe lệnh nhưng từ khi mắc bệnh thì họ cũng bỏ bê việc nhà. Sài phải đích thân đứng ra coi sóc bận bịu vất vả nhưng gạo muối trong nhà không ăn mà tự hết, vì vậy lại có ý muốn vợ khỏe lại để coi sóc việc nhà, bèn đón thầy về cắt thuốc. Kim nói rằng mình uất ức sinh bệnh nên thầy nào bắt mạch cũng bảo là bị bệnh uất kết, đổi qua mấy thầy mà vẫn không khỏi, ngày càng nguy hơn.

Lại định sắc thuốc, cô gái bước lên nói "Loại thuốc này thì hàng trăm thang cũng vô ích, chỉ làm bệnh nặng thêm thôi”. Kim không tin, cô gái ngầm lấy thuốc riêng tráo vào, Kim uống xong, trong khoảng một bữa ăn thì đi ngoài ba lần liên tiếp, bệnh như khỏi hẳn, càng cười là cô gái nói sai, rên rỉ gọi nàng hỏi "Vị nữ Hoa Đà* kia, nay thì thế nào?”. Cô gái cùng đám tỳ nữ đều cười, Kim hỏi nguyên do, mọi người mới nói thật. Kim khóc nói "Thiếp hàng ngày vẫn đội ơn như trời che đất chở của nàng mà không biết, từ nay về sau xin tuy vẫn giữ việc gia chính nhưng được nghe nàng dạy bảo".

*Nữ Hoa Đà: Hoa Đà là một vị danh y nổi tiếng ở Trung Hoa thời Tam quốc, đây Kim thị có ý chế nhạo nên gọi cô gái họ Thiệu như vậy.

Không bao lâu Kim khỏi bệnh, Sài mở tiệc ăn mừng, cô gái cầm bầu rượu đứng hầu bên cạnh, Kim đứng dậy giật lấy cái bầu rượu, kéo nàng ngồi sánh vai với mình. Đến khuya cô gái kiếm cớ rời bàn tiệc, Kim sai hai tỳ nữ kéo trở lại ép cùng mình ngủ chung với Sài, từ đó công việc thì cùng bàn ăn uống thì cùng mâm, chị em ruột cũng không hòa thuận bằng. Không bao lâu cô gái sinh được một trai, sinh nở xong hay bị bệnh, Kim đích thân chăm sóc như hầu hạ mẹ ruột. Về sau Kim bị mắc chứng đau tim, mỗi khi lên con đau thì mặt mày tái xanh chỉ muốn chết. Cô gái vội mua mấy mũi châm bạc, khi Kim lên cơn đau như tắt thở, nàng lại theo huyệt châm cứu thì lập tức hết đau. Hơn mười ngày lại phát đau, nàng lại châm, qua sáu bảy ngày lại phát, tuy cô gái châm cứu là theo tay hết đau ngay, không tới nỗi khổ sở lắm, nhưng Kim trong lòng cứ nơm nớp sợ bệnh lại phát.

Một đêm nằm mơ thấy tới một nơi như đền miếu, tượng thần trong điện đều cử động, thần hỏi "Ngươi là Kim thị phải không? Ngươi tội ác đa đoan, lẽ ra đã tận số rồi, nhưng nghĩ ngươi biết sửa lỗi nên chỉ giáng tai họa để trừng phạt qua loa thôi. Trước đây giết hai nàng tỳ thiếp thì đó là chuyện quả báo, chứ Thiệu thị có tội gì mà tàn nhẫn đến thế? Việc ngươi đánh đập nàng thì đã có Sài sinh trừng trị rồi, cũng coi như đã xong, nhưng ngươi còn thiếu một vết nung trên mặt và hai mươi ba nhát kim đâm vào sườn nàng, nay bị đau ba lần chỉ mới đủ số lẻ, lại muốn hết hẳn bệnh kia à? Ngày mai sẽ phát lại đấy?". Kim tỉnh dậy sợ lắm, còn nghĩ rằng mộng mị không thật nhưng ăn sáng xong quả lên cơn đau, còn hơn cả mấy lần trước. Cô gái tới châm cho, cơn đau theo tay giảm ngay nhưng nàng ngờ vực nói "Bệnh này chỉ cần chữa như thế thôi mà sao gốc bệnh không dứt? Xin đốt ngãi để cứu, không thế không được, có điều sợ phu nhân không chịu nổi”. Kim nhớ lại giấc mộng nên không tỏ vẻ khó khăn, nhưng lúc cắn răng rên rỉ chịu đau lại nghĩ thầm còn mười chín vết đâm, không biết sẽ biến chứng ra những gì, chẳng bằng cứ chịu khổ luôn một hôm cho hết nợ, về sau khỏi phải chịu khổ nữa nên lúc mồi ngãi cứu cháy tàn rồi lại xin cô gái làm tiếp. Cô gái cười nói "Chuyện châm cứu chẳng lẽ cứ muốn là làm à?", Kim nói "Không cần chọn huyệt đạo gì cả, xin cứ phiền đốt cho mười chín chỗ", cô gái cười bò ra không chịu.
Kim càng nài nỉ, trở dậy quỳ trên giường lạy lục, cô gái vẫn không nỡ. Kim bèn kể thật lại giấc mộng, nàng bèn châm chước theo kinh mạch đốt cho đủ số. Từ đó Kim bình phục, quả nhiên không bị lên cơn đau nữa, tự mình ăn năn, đối xử với người dưới cũng không bao giờ có vẻ giận dữ. Đứa con trai tên là Tuấn, tuấn tú thông minh hơn người, cô gái nói "Đứa nhỏ này có tướng làm quan đây". Năm tám tuổi Tuấn nổi tiếng là thần đồng, năm mười lăm tuổi thi đỗ Tiến sĩ được trao chức Hàn lâm. Năm ấy vợ chồng Sài đều bốn mươi tuổi, Thiệu phu nhân khoảng ba mươi hai, ba mươi ba tuổi mà thôi, đem xe kiệu về thăm cha mẹ, làng xóm đều cho là vinh dự. ông Thiệu sau khi gả con gái thì nhà giàu hẳn lên nhưng các bậc văn nhân đều không muốn giao du, đến lúc ấy mới có người lui tới.

Dị Sử thị nói:Đàn bà ghen tuông xảo quyệt, đó là tính trời, nhưng kẻ làm tỳ thiếp lại khoe đẹp khoe khôn thì chỉ làm vợ cả thêm tức giận. Than ôi, tai họa là từ đó mà tới đấy. Như Thiệu thị chịu yên thân giữ phận, bị đày đọa bao nhiêu cũng không đổi lòng thì làm sao vợ lớn hành hạ thêm được! Còn như Kim thị được cứu sống mấy lần mới ăn năn tỉnh ngộ, than ôi, con người lại như thế ư! Bắt trả đủ số chứ không trị tội thêm, cũng là sự tha thứ của tạo hóa, mà lấy thuật làm nhân để trị kẻ ác, chẳng cũng điên đảo sao! Ta vẫn thấy kẻ ngu phu ngu phụ cứ đau ốm thì lập tức gọi đám đồng cốt ngu si tới mặc cho cắt da đốt thịt mà không dám rên rỉ, rất lấy làm lạ, đến nay mới hiểu.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 122 -
Vị Tiên Họ Củng
(Củng Tiên)

Đạo nhân họ Củng, không có tên tự, cũng không rõ quê quán ở đâu. Có lần tới xin ra mắt Lỗ vương nhưng người canh cổng không chịu vào báo, gặp lúc một quý nhân trong vương phủ đi ra, đạo nhân vái chào ngỏ ý. Quý nhân thấy quê mùa bèn đuổi đi, kế lại trở lại, quý nhân nổi giận sai người đuổi đánh. Tới chỗ vắng người, đạo nhân cười đưa ra trăm lượng vàng nhờ kẻ đuổi theo nói lại với quý nhân rằng “Ta cũng không cần gặp vương, chỉ nghe nói cây cỏ lâu đài trong vườn hoa sau vương phủ là danh thắng trên đời, nếu dẫn ta vào xem một phen là mãn nguyện rồi". Kế lại lấy tiền bạc ra đút lót người đuổi theo, người ấy mừng rỡ về thưa, quý nhân cũng mừng liền dẫn đạo nhân vào cửa sau, dạo xem khắp nơi rồi theo lên lầu. Quý nhân đang tựa bên cửa sổ thì đạo nhân xô một cái, chỉ thấy mình rơi ra ngoài lầu, may có sợi dây leo vướng ngang bụng nên còn treo lơ lửng trên không. Nhìn xuống thấy sâu chóng mặt mà sợi dây cứ kêu rắc rắc như sắp đứt, sợ quá la ầm lên.

Không bao lâu mấy tên thái giám chạy tới, vô cùng hoảng sợ vì thấy quý nhân cách mặt đất rất xa, lên lầu cùng xem thì thấy đầu dây buộc vào lầu Muốn cởi ra để cứu nhưng thấy dây nhỏ quá không thể dùng sức, tìm đạo nhân khắp nơi nhưng ông đã biến mất, đành bó tay hết cách về tâu với Lỗ vương. Vương tới nhìn thấy rất lấy làm lạ, sai rải cỏ khô dưới lầu, định chặt đút dây. Chuẩn bị vừa xong thì dây leo tự đứt mà chỉ cách mặt đất không đầy một thước, mọi người đều cười ngất. Vương sai hỏi xem đạo sĩ ở đâu, nghe nói ở nhờ nhà Tú tài họ Thượng bèn tới hỏi thì ông đi chơi chưa về. Kế gặp nhau giữa đường, bèn đưa về ra mắt vương.

Vương cho ngồi ăn tiệc, đòi làm trò vui, đạo sĩ thưa “Thần là người quê mùa, không có tài gì lạ, nay được thương tới xin hiến một ban nữ nhạc để chúc thọ vương gia”. Rồi lần trong tay áo lấy ra một mỹ nhân đặt xuống đất, nàng dập đầu lạy vương xong, đạo sĩ bảo diễn vở Dao Trì yến để chúc vương muôn tuổi. Mỹ nhân lên sạp hát mấy câu, đạo sĩ lại lấy ra một người nữa, tự xưng là Tây Vương Mẫu, giây lát lấy ra Đổng Song Thành, Hứa Phi Quỳnh, tất cả tiên nữ trên trời đều lần lượt ra mắt. Sau cùng là Chức Nữ tới yết kiến, dâng vương một bộ áo trời màu vàng lóng lánh chiếu sáng cả nhà. Vương nghĩ là đồ giả đòi xem, đạo sĩ vội nói không nên nhưng vương không nghe cứ giở ra xem, quả thấy áo trời liền lạc không có đường may, không phải sức người làm được. Đạo sĩ tỏ vẻ không vui, nói "Thần hết lòng thờ đại vương nên tạm mượn áo của Thiên Tôn cho xem, nay bị trọc khí nhiễm vào, làm sao trả lại cho chủ cũ?". Vương lại nghĩ những người ca hát ắt đều là tiên nữ, muốn giữ lại vài nàng nhưng nhìn kỹ lại thì đều là con hát thường ngày trong phủ. Lại ngờ khúc hát ấy thì họ chưa từng học qua, hỏi tới thì họ cũng ngơ ngác không tự biết. Đạo sĩ lấy bộ áo trời châm lửa đốt rồi cho vào trong tay áo, khám tới thì không thấy đâu nữa.
Vương vì thế rất trọng đạo sĩ, giữ ở lại trong phủ. Đạo sĩ nói “Tính quê mùa thấy cung điện như chậu lồng, không bằng ở nhà Tú tài được tự do hơn”, nên cứ đến khuya lại về nhà Thượng Tú tài. Hôm nào vương cố giữ thì cũng ngủ lại, mỗi lần có yến tiệc lại đảo lộn hoa cỏ bốn mùa làm vui. Vương hỏi "Nghe nói người tiên cũng không thể quên tình, có đúng không?” đạo sĩ đáp "Có lẽ người tiên thì đúng thế, chứ thần không phải là người tiên nên lòng như cây khô thôi”. Một đêm đạo sĩ ngủ lại trong vương phủ, vương sai một ca kỹ tới nhìn. Nàng vào phòng, gọi mấy tiếng không thấy đáp, thắp đèn soi thấy đạo sĩ nhắm mắt ngồi trên giường, lay gọi thì hé mắt một cái rồi nhắm lại, lại lay nữa thì ngáy vang lên. Xô mạnh thì ông ngã lăn ra mà vẫn ngủ say, ngáy vang như sấm. Gõ lên trán thấy cứng ngắt chồn cả ngón tay, có tiếng như gõ vào gang sắt, bèn về bẩm lại với vương. Vương sai lấy kim đâm thì đâm không vào, xô thì thấy nặng không thể lay chuyển, gọi thêm hơn chục người xúm lại khiêng ông ném xuống dưới giường, nghe như tảng đá nặng ngàn cân rơi xuống đất.
Sáng tới thấy ông vẫn ngủ dưới đất, kế tỉnh dậy cười nói "Ngủ một giấc say như chết, rơi cả xuống giường mà không biết". Sau vương sai đám con gái nhân lúc ông nằm ngồi tới cấu véo làm vui, nhưng véo cái đầu thì da thịt còn mềm, qua cái thứ hai đã cứng như sắt đá. Đạo sĩ ở nhà Thượng Tú tài, thường suốt đêm không về, Thượng khóa cửa đi ngủ, đến sáng ra mở của đã thấy đạo sĩ nằm trong phòng. Lúc trước Thượng dan díu với ca kỹ Huệ Ca, đã thể lấy nhau. Huệ phong nhã hát hay, ngón đàn nổi tiếng một thời, Lỗ vương nghe tiếng triệu nàng vào hầu hạ, vì thế đôi bên tuyệt đường đi lại, lòng thường thương nhớ nhưng không sao nhắn gởi gì được. Một đêm Thượng hỏi đạo sĩ có gặp Huệ Ca không, đạo sĩ đáp “Các ca kỹ trong phủ ta đều gặp qua nhưng không rõ là nàng nào”. Thượng tả dung mạo tuổi tác, đạo sĩ mới nhớ ra. Thượng xin nhắn giùm một câu, đạo sĩ cười nói “Ta là người tu hành, không thể đưa tin cho ông được”.
Thượng năn nỉ không thôi, đạo sĩ đưa tay áo ra nói "Nếu nhất định muốn gặp nàng một lần thì mời vào đây". Thượng nhìn vào thấy to rộng như gian nhà liền khom người chui vào, lạí thấy sáng sủa sạch sẽ, rộng bằng cái phòng khách, bàn ghế vật dùng không thiếu món nào, ở trong không hề thấy khổ cực buồn bã. Đạo sĩ vào phủ đánh cờ với Lỗ vương, chờ lúc Huệ Ca tới gần, giả phất tay áo phủi bụi, Huệ Ca bị hút vào mà chẳng ai thấy. Thượng đang ngồi một mình tơ tưởng chợt thấy có mỹ nhân từ mái hiên rơi xuống, nhìn lại thì là Huệ Ca. Hai người ngạc nhiên mừng rỡ, âu yếm nhau rất mực. Thượng nói "Duyên lạ hôm nay không thể không ghi lại, xin cùng làm thơ liên cú” rồi viết lên vách rằng "Hầu môn tự hải cửu vô tung” (Cửa hầu tựa biển mỏi mòn trông), Huệ nối theo “Thùy thúc Tiêu lang kim hựu phùng” (Ai biết người xưa lại tái phùng). Thượng viết tiếp “Tụ lý càn khôn chân cá đại” (Tay áo bao la trời đất rộng), Huệ viết “Ly nhân tư phụ tận bao dung” (Dung trai xa vợ gái thương chồng). Vừa viết xong chợt có năm người bước vào, đội mũ có góc, mạc áo đỏ nhạt, nhìn ra đều không quen biết, mà họ cũng im lặng không nói chỉ bắt Huệ Ca đi. Thượng kinh hãi không rõ vì sao, đạo sĩ về nhà gọi Thượng ra hỏi chuyện tình tự, Thượng giấu giếm không kể hết. Đạo sĩ mỉm cười cởi áo, lộn tay áo ra cho xem. Thượng nhìn kỹ thấy có tự tích lờ mờ nhỏ như chân kiến, té ra là bài thơ liên cú.

Mười mấy hôm sau lại xin vào phủ, trước sau cả thảy ba lần. Huệ Ca nói với Thượng rằng "Thiếp nghe trong bụng máy động rất lo lắng, vẫn phải lấy lụa thắt lại. Nhưng trong vương phủ tai mắt rất nhiều, thảng hoặc một sớm sinh nở thì biết tìm chỗ nào giấu được trẻ khóc. Phiền chàng bàn tính với tiên ông họ Củng, cứ thấy thiếp xoa bụng ba lần thì nhờ người ra tay cứu vớt". Thượng theo lời, trở về thấy mặt đạo sĩ liền quỳ rạp xuống không chịu đứng lên. Đạo sĩ kéo đứng lên, nói "Hai người nói với nhau những gì ta đã biết rồi, xin đừng lo lắng. Dòng giống nhà ông chỉ nhờ có một chút đó, ta đâu dám không hết lòng giúp đỡ. Nhưng từ nay không cần vào đó nữa, điều ta muốn báo đáp cho ông vốn không phải chỉ ở việc tư tình thôi đâu”. Mấy tháng sau đạo sĩ từ ngoài vào cười nói "Ta đã đưa công tử về đây rồi, mau lấy tã lót ra”.

Vợ Thượng rất hiền, hơn ba mươi tuổi sinh nở mấy lần mà chỉ nuôi được một trai, vừa sinh con gái đầy tháng thì chết, nghe Thượng nói ngạc nhiên vui mừng đích thân ra đón. Đạo sĩ thò vào tay áo lấy đứa nhỏ ra, nó im lặng như đang ngủ mà rốn còn chưa cắt, vợ Thượng đón lấy bế lên mới khóc oa oa. Đạo sĩ cởi áo nói "Máu đẻ làm dơ áo thế này là đạo môn kỵ nhất, nay vì chuyện của ông mà vật cũ hai mươi năm một sớm phải bỏ đi". Thượng đưa áo khác cho thay, đạo sĩ dặn "Cái áo cũ của ta chớ bỏ, chỉ cần xé một mảnh bằng đồng tiền đốt đi mà uống thì có thể chữa được chứng khó sinh và trụy thai", Thượng vâng lời. Lâu sau đạo sĩ chợt nói với Thượng "Chiếc áo cũ của ta nên giữ lại chút ít mà dùng, sau khi ta chết cũng đừng quên!”.

Thượng cho là lời bất tường nhưng đạo sĩ không nói gì mà ra đi, vào gặp vương nói "Thần muốn chết". Vương giật mình hỏi, đạo sĩ đáp “Đó là số trời đã định, còn nói gì được". Vương không tin cố giữ lại, đánh xong một ván cờ đạo sĩ vội đứng lên, vương lại ngăn cản, xin phép ra nhà ngoài vương bèn cho. Đạo sĩ ra đó nằm xuống, nhìn lại thì đã chết rồi. Vương sắm sửa quan tài mai táng tử tế. Thượng tới điếu tang rất đau xót, bấy giờ mới hiểu là đạo sĩ đã báo trước. Cái áo cũ của đạo sĩ để lại làm thuốc thôi sản rất hay, người tới xin nối gót ngoài cổng. Ban đầu còn cho cái tay áo vấy máu, kế cắt tới cổ áo vạt áo chỗ nào cũng hiệu nghiệm. Sau Thượng nhớ lời đạo sĩ dặn, e vợ sẽ gặp nạn khi sinh nở nên cắt một mảnh dính máu to bằng bàn tay cất kỹ. Gặp lúc Lỗ vương có nàng ái phi lâm bồn ba ngày không sinh được, các thầy thuốc đều hết cách, có người kể lại chuyện Thượng, vương lập tức triệu vào, ái phi chỉ uống một chén thuốc là sinh được ngay.

Vương cả mừng, tặng tiền bạc vải vóc rất hậu nhưng Thượng đều từ chối không nhận. Vương hỏi vậy muốn gì, Thượng đáp "Thần không dám nói", gạn hỏi mấy lần Thượng mới dập đầu thưa “Nếu được đội ơn trời thì chỉ xin ban cho nàng ca kỹ cũ Huệ Ca là đủ”. Vương triệu nàng tới hỏi tuổi, nàng thưa "Thiếp vào phủ năm mười tám tuổi, qua mười bốn năm rồi” Vương thấy nàng đã lớn tuổi bèn gọi tất cả các ca kỹ ra cho tùy thích chọn lựa nhưng Thượng không ưng ý một ai. Vương cười nói "Anh học trò này khờ quá, hay mười năm trước có đính ước với nhau rồi?". Thượng kể thật mọi chuyện, vương liền sai đem đủ xe kiệu đưa Huệ Ca về với Thượng, cho luôn nàng những tiền bạc vải vóc đã ban làm của hồi môn.

Đứa con trai Huệ sinh tên Tú Sinh, "Tú” là ẩn nghĩa chữ "Tụ” (tay áo) vậy, năm ấy đã mười một tuổi. Vợ chồng thường nhớ ơn người tiên, năm nào đến tiết Thanh minh cũng đi viếng mộ. Có người đi buôn ở Trung Châu (tỉnh Tứ Xuyên) lâu năm, gặp đạo sĩ trên đường trao cho một quyển sách, nói “Đây là sách trong phủ Lỗ vương, lúc đi vội quá chưa kịp trả lại, nhờ ông trả hộ". Người ấy về nghe tin đạo sĩ đã chết không dám tâu, Thượng bèn cầm sách vào tâu hộ. Lỗ vương mở ra xem thì đúng là sách đã cho đạo sĩ mượn, lấy làm ngờ vực sai quật mộ đạo sĩ lên xem thì chỉ thấy quan tài rỗng không. Sau con trai Thượng chết yểu, may có Tú Sinh nối dõi, càng phục lời tiên tri của tiên ông họ Củng.

Dị Sử thị nói:Càn khôn trong tay áo là lời ngụ ngôn của cổ nhân, há phải là có thật đâu, sao lại lạ lùng đến thế. Trong tay áo có trời đất, có mặt trời mặt trăng, có thể lấy vợ sinh con mà lại không bị cái khổ thúc thuế đòi lương, không bị cái phiền muộn của người đời, thì những rận rệp trong đó cũng khác gì chó gà ở cõi Đào Nguyên* đâu! Trộm mong người thường cũng được tới đó, thì chết già ở nơi ấy cũng được.

*Đào Nguyên: Đào Tiềm thời Tấn có bài Đào hoa nguyên ký kể chuyện một ngư phủ lạc vào rừng, theo dòng suối có hoa đào trôi ra ngược lên tới nguồn thì gặp một nơi có người ở, hỏi ra thì họ nói rằng tổ tiên tránh loạn thời Tần chạy vào sinh sống đã mấy trăm năm rồi, không biết việc đời bên ngoài thay đổi ra sao. Đào Nguyên đây dùng chỉ cõi thanh bình hạnh phúc ở nhân gian.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 123 - 124
Cô Gái Họ Mai
(Mai Nữ)

Phong Vân Đình người Thái Hàng (tỉnh Sơn Tây) tình cờ lên quận, ban ngày nằm ngủ trong nhà trọ. Lúc ấy Phong tuổi trẻ vừa góa vợ, lúc hiu quạnh thường hay tơ tưởng. Đang đăm đăm ngưng thần, thấy trên tường có bóng con gái rõ ràng như vẽ, tự nghĩ vì mơ tưởng nên thấy thế, nhưng hồi lâu không thấy động đậy, cũng không biến đi. Lấy làm lạ vùng dậy nhìn thì là người thật, lại gần nữa thì rõ ràng là một thiếu nữ nhăn mặt thè lưỡi, có một vòng dây thắt quanh cổ. Sinh sợ hãi nhìn không chớp, thấy cô gái động đậy muốn bước xuống, biết là ma thắt cổ nhưng đang ban ngày mà tính cũng gan dạ nên không sợ lắm, nói "Nương tử như có điều oan khuất, tiểu sinh xin hết sức" Cái bóng từ tốn bước xuống nói "Gặp gỡ thoáng qua, đâu dám vội mang việc lớn làm phiền quân tử, nhưng bộ xương khô dưới suối vàng không rút lưỡi vào được, không cắt bỏ dây được, xin chặt thanh xà ngang đốt đi, thì ơn ấy lớn như Thái Sơn”.

Sinh nhận lời, cái bóng biến mất. Sinh gọi chủ nhân tới hỏi về chuyện vừa thấy, chủ nhân nói "Mười năm trước nơi đây là nhà họ Mai, đang đêm có tên trộm lẻn vào bị Mai bắt được giải lên quan Điển sử. Điển sử nhận ba trăm bạc của tên trộm, vu cho con gái họ Mai tư thông với y, toan bắt lên tra xét, nàng nghe tin thắt cổ chết. Sau vợ chồng họ Mai nối nhau chết, ngôi nhà này mới về tay ta. Khách trọ vẫn thấy sự quái dị, nhưng không có phép gì làm cho yên". Phong đem lời ma kể lại, chủ nhân tính toán thấy phải dở nhà thay thanh xà ngang, phí tổn không ít nên có vẻ khó khăn. Phong bèn góp tiền giúp thêm, chữa xong lại vào ở. Đêm đến cô gái họ Mai tới cảm tạ, sắc mặt vui vẻ, phong thái yêu kiều, Phong thích lắm muốn cùng giao hoan. Cô gái thẹn thùng nói “Khí âm lạnh lẽo, không những đã làm hại cho chàng mà nếu làm như thế thì tiếng nhơ lúc sinh tiền dẫu nước sông Tây Giang cũng không rửa sạch được. Sẽ có lúc sum họp với nhau, nhưng nay thì chưa". Phong hỏi lúc nào, nàng chỉ cười không đáp. Phong hỏi uống rượu không, cô gái đáp không uống được.

Phong nói "Đối diện với người đẹp mà cứ giơ mắt buồn bã nhìn nhau thì còn ý vị gì?", nàng đáp “Bình sinh thiếp chỉ biét có trò đánh cờ ngựa, nay hai người ngồi buồn bã, đêm khuya lại khổ không có bàn cờ. Canh dài chẳng có gì tiêu khiển, hãy cùng chơi trò giao tuyến". Phong nghe theo ngồi bó gối xòe ngón tay, trao qua chuyền lại hồi lâu, Phong hoa cả mắt không biết manh mối đâu nữa. Cô gái cứ miệng giảng cằm hất ra hiệu, càng chơi càng biến ảo vô cùng tinh diệu, Phong cười nói "Đây là tuyệt kỹ trong khuê phòng đây”, nàng đáp "Trò này thiếp tự nghĩ ra, chỉ cần hai sợi dây là có thể chơi được, người ta không chịu để ý đấy thôi” Về khuya càng mệt mỏi, Phong ép đi ngủ, cô gái nói "Thiếp là người cõi âm không ngủ, xin chàng cứ nghỉ đi Thiếp có biết thuật xoa bóp, xin trổ hết tài giúp chàng ngon giấc" Phong theo lời, cô gái chụm hai tay xoa nhẹ một lượt từ đỉnh đầu tới gót chân, tay lướt tới đâu gân cốt tê mê tới đó. Kế lại nắm tay đấm khẽ như cầm nắm bông thúc, Phong thấy khoan khoái không sao tả được. Nàng đấm tới lưng thì mắt Phong đã ríu lại, đấm tới đùi thì dã ngủ say rồi.

Đến khi tỉnh dậy thì đã gần trưa, cảm thấy xương cốt đều nhẹ nhàng khoan khoái khác hẳn mọi hôm, lòng càng yêu mến bèn đi quanh nhà cất tiếng gọi nhưng không có một tiếng đáp lại. Chiều tối cô gái mới đến, Phong hỏi "Nàng ở chỗ nào làm ta tìm gọi khắp nơi thế?”, nàng đáp "Ma thì không có chỗ ở nhất định, chỉ là dưới đất thôi". Phong hỏi dưới đất có chỗ trống ở được à, nàng nói "Ma không có đất cũng như cá không có nước vậy". Phong nắm cổ tay nàng nói "Nếu nàng sống lại thì ta xin dốc hết cơ nghiệp để cưới", cô gái cười nói "Cần gì phải dốc hết cơ nghiệp!". Chơi đến nửa đêm, Phong hết sức nài ép, nàng nói “Chàng đừng ép thiếp, có nàng kỹ nữ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang) tên Ái Khanh vừa tới trọ ở nhà láng giềng phía bắc, dáng vẻ rất phong nhã, tối mai thiếp sẽ gọi nàng cùng tới tạm thay cho thiếp được không?”, Phong bằng lòng.

Tối hôm sau nàng dắt một thiếu phụ đến, tuổi khoảng ba mươi trở lại, mắt liếc mày đưa, có vẻ phóng đãng. Ba người ngồi ngã ngớn đánh cờ ngựa, xong ván cờ cô gái đứng lên nói “Cuộc vui đang nồng, thiếp phải đi đây", Phong định kéo lại thì nàng đã biến mất. Hai người bèn lên giường ôm nhau vui thú, Phong hỏi gia thế thì thiếu phụ cứ ậm ừ không chịu đáp, chỉ nói "Nếu chàng yêu thiếp thì cứ gõ tay lên vách tường phía bắc gọi khẽ "Hồ lô tử” là thiếp tới ngay. Nếu gọi ba lần không thấy là thiếp đang bận, đừng gọi nữa", trời sáng lách qua khe hở trên bức tường phía bắc đi mất. Hôm sau cô gái tới, Phong hỏi Ái Khanh, nàng đáp “Bị công tử họ Cao gọi đi hầu rượu nên không tới đây được". Kế thắp đèn cùng trò chuyện, cô gái như có điều muốn nói nhưng mấp máy môi lại im lặng. Phong gặng hỏi nhưng rốt lại nàng vẫn không chịu nói mà chỉ thở dài. Phong ép nàng cùng chơi đùa, đến canh tư mới đi.
Từ đó hai nàng tới luôn, cười nói rộn rã thâu đêm, phố phường đều biết cả. Có viên Điển sử Mỗ cũng là con nhà thế tộc cũ ở đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), vợ cả gian dâm với đầy tớ bị xuất, cưới tiếp người vợ kế họ Cố, rất thương yêu nhau nhưng được một tháng nàng đã chết yểu vô cùng đau xót. Nghe nói Phong có quen với ma thiêng, muốn nhờ hỏi giùm việc nhân duyên dưới âm ty bèn cưỡi ngựa tới tìm. Phong lúc đầu không nhận lời, Mỗ hết sức nài nỉ không thôi, Phong bèn bày rượu cùng ngồi, nhận lời gọi hộ nàng kỹ nữ ma. Trời sập tối bèn gõ vách gọi, chưa dứt tiếng thứ ba thì Ái Khanh đã tới, ngước nhìn thấy khách biến sắc định chạy, Phong lấy người chặn đường cản lại. Mỗ nhìn kỹ chợt nổi giận ném chén rượu vào Ái Khanh, chớp mắt nàng biến mất. Phong kinh ngạc không hiểu vì sao, đang định hỏi chợt trong góc tối có bà già bước ra mắng "Thằng giặc tham lam bỉ ổi làm hỏng cả cây tiền của ta rồi, đền ngay ba chục quan tiền đây!", rồi cầm gậy đập vào đầu Mỗ.
Mỗ ôm đầu rên rỉ, nói “Đó là Cố thị vợ ta bị chết trẻ, đang còn đau đớn thì ngờ đâu lại làm con ma bất trinh, có dính líu gì tới bà chứ?”. Bà già tức giận nói “Ngươi vốn là thằng giặc vô lại ở Giang Chiết, mới mua được sợi dây lưng gắn miếng sừng đen* được đeo thắt lưng gắn miếng sừng màu đen đã hếch mũi lên. Ngươi làm quan có kể gì đen trắng, ai có ba trăm quan thì ngươi coi là cha! Thần giận người oán, sắp tận số rồi, cha mẹ ngươi phải kêu xin dưới âm ty xin đưa nàng dâu quý vào lầu xanh để trả món nợ tham lam thay ngươi mà còn chưa biết à?", nói xong lại đánh. Mỗ lạy lục van xin, Phong sợ hãi không biết làm sao cứu. Chợt cô gái họ Mai trong phòng bưóc ra, trợn mắt lè lưỡi, vẻ mặt trông rất ghê rợn, sấn tói lấy cây trâm dài đâm vào tai Mỗ. Phong hoảng quá lấy người che đỡ cho khách, cô gái vẫn căm tức không nguôi. Phong khuyên nói “Dù y có tội nhưng nếu chết ở đây thì tiểu sinh có lỗi, xin ném chuột đừng để vỡ đến lọ quý”. Cô gái bèn kéo bà già nói "Thôi hãy tạm tha cho hắn, xin bà nể mặt ta mà nghĩ tới chàng Phong", Mỗ run sợ lủi đi, về tới công thự sợ hãi phát bệnh đau óc, nửa đêm thì chết.

*Sợi dây lưng gắn miếng sừng đen: theo quan chế triều Thanh, chức Điển sử

Đêm hôm sau cô gái hiện ra cười nói “Khoái thật, bao nhiêu uất ức đã phát tiết được cả rồi". Phong hỏi có thù oán gì với y, nàng đáp "Trước kia thiếp đã nói y ăn của đút rồi vu cho thiếp thông gian, ôm mối căm hờn đã lâu, vẫn thường định nhờ chàng rửa hờn một phen nhưng lại tự thẹn chưa có chút ơn đức gì nên cứ định nói lại thôi. Đêm qua nghe tiếng đánh chửi ầm ĩ, lén tới rình xem, không ngờ lại gặp kẻ thù”. Phong ngạc nhiên hỏi "Đó là kẻ vu cáo cho nàng à?", cô gái đáp “Y làm Điển sử ở đây đã mười tám năm, mà thiếp chết oan cũng được mười sáu mùa nóng lạnh rồi”. Phong hỏi bà già là ai, nàng đáp là một kỹ nữ già, lại hỏi tới Ái Khanh, nàng đáp rằng đang ốm. Kế nhoẻn miệng cười hỏi “Thiếp từng nói sẽ có lúc sum họp với nhau, nay quả không còn lâu nữa. Chàng vẫn nói xin dốc hết cơ nghiệp để cưới thiếp, còn nhớ không?”. Phong đáp "Nay ta vẫn muốn thế mà". Cô gái nói "Nói thật với chàng, hôm thiếp chết đã đầu thai vào nhà Hiếu liêm họ Triển ở Diên An (tỉnh thành Thiểm Tây), chỉ vì thù lớn chưa trả nên còn dùng dằng ở đây. Xin lấy vải mới làm cái túi ma để thiếp đi theo chàng, tới nhà họ Triển cầu hôn chắc xong việc". Phong lo gia thế quá chênh lệch, sợ sẽ không xong, nàng nói "Cứ đi đừng lo gì”. Phong theo lời, cô gái dặn "Dọc đường cẩn thận đừng gọi thiếp, đợi đến đêm hợp cẩn thì lấy túi trùm lên đầu cô dâu rồi gọi lớn rằng “Đừng quên! Đừng quên!".
Phong gật đầu, vừa mở túi ra cô gái đã nhảy luôn vào, Phong mang cái túi tới Diên An hỏi thăm quả có Hiếu liêm họ Triển sinh được một con gái dung mạo cực kỳ xinh đẹp nhưng mắc bệnh ngây ngốc, lại hay lè lưỡi ra ngoài miệng như chó lúc trời nóng, mười sáu tuổi vẫn chưa có ai dạm hỏi, cha mẹ rất phiền muộn. Phong tới nhà đưa danh thiếp, kể rõ gia thế, trở về nhờ mai mối tới ngỏ ý. Triển mừng giữ Phong gửi rể trong nhà, cô gái vô cùng ngây ngốc, không biết cả làm lễ, phải sai hai tỳ nữ đỡ vào phòng. Đám tỳ nữ vừa lui thì nàng phanh vạt áo để hở cả vú ra, nhìn Phong cười ngớ ngẩn. Phong trùm túi lên đầu nàng rồi gọi. Cô gái ngó sững Phong như có ý ngờ vực, Phong cười hỏi “Nàng không quen tiểu sinh à?", rồi giơ cái túi cho xem. Cô gái chợt tỉnh ra, vội khép áo lại, mừng rỡ cùng vui vẻ trò chuyện.

Sáng ra Phong vào thăm hỏi cha vợ, Triển an ủi nói "Con nhỏ ngây ngốc không biết gì, may được thương tới, nếu ông có lòng thì trong nhà không thiếu bọn tỳ nữ lanh lợi, ta xin tặng không tiếc". Phong ra sức phân trần rằng nàng không ngây ngốc, Triển rất ngờ vực. Không bao lâu cô gái tới, cử chỉ đều nết na khuôn phép, Triển vô cùng lạ lùng, nàng chỉ ngượng nghịu mỉm cười. Triển gạn hỏi, nàng thẹn thùng không nói được, Phong bèn kể qua đầu đuôi, Triển cả mừng, yêu thương nàng còn hơn lúc trước. Bèn cho Phong cùng học với con trai là Đại Thành, chu cấp rất đầy đủ. Được hơn một năm, Đại Thành dần dần đâm coi thường Phong, vì em rể anh vợ không hợp nhau nên đám gia nhân cũng bới lông tìm vết. Triển bị nói ra nói vào cũng ngấm, dần lạt lẽo với Phong. Cô gái biết chuyện, nói "Nhà cha vợ không thể ở lâu, phàm những người ở nhà cha vợ lâu đều là hạng hèn hạ. Nay chưa tới lúc quá căng thẳng, nên đi ngay". Phong cho là phải, thưa với Triển, Triển muốn giữ con gái lại, nàng không nghe. Cha và anh đều tức giận, không cho xe ngựa đưa về, cô gái bỏ tiền riêng ra mua ngựa mà về. Sau đó Triển gọi về thăm nhà nhưng cô gái từ chối, đến khi Phong thi đỗ Hiếu liêm mới qua lại với nhau.

Dị Sử thị nói:Quan càng nhỏ thì càng tham, đó cũng là chuyện thường tình chăng? Nhưng nhận ba trăm đồng mà vu cho người ta tội thông gian, thì quả không còn sợ hãi gì hình phạt tàn khốc chốn dạ đài rồi. Cho nên mới bị cướp vợ yêu bỏ vào lầu xanh, sau cùng lại làm cho chết thảm, ôi đáng sợ thay!


124. Tú Tài Họ Quách
(Quách Tú Tài)

Người học trò ở Quảng Đông là Quách Mỗ, chiều tối từ nhà bạn về, vào núi lạc đường tới một chỗ cây cối gai góc um tùm. Khoảng quá canh một nghe trên núi có tiếng cười, vội vàng lần tới, gặp hơn mười người đang ngồi dưới đất uống rượu, từ xa nhìn thấy Quách cùng ồ lên nói “Trong mâm đang thiếu một người khách, hay quá, hay quá". Quách ngồi xuống rồi, thấy một nửa trong bọn đội khăn nhà nho, bèn xin chỉ đường về. Một người cười nói "Ông thật lẩm cẩm, trăng sáng thế này không ngắm lại hỏi đường sá gì?”, rồi rót ngay một chén đưa qua.

Quách uống thấy thơm ngát, bèn dốc cạn một hơi, lại một người nghiêng bầu rót tiếp, Quách vốn hay rượu, lại vì lặn lội khát khô miệng, lại uống một hơi cạn chén, mọi người đều khen ngợi “Hào lắm, thật đáng là bạn của bọn ta". Quách vốn phóng khoáng giỏi đùa giỡn, học được tiếng các loài chim rất giống, bèn đứng lên đi tiểu, giả tiếng chim én kêu, mọi người ngờ vực nói "Nửa đêm sao lại có chim én kêu?”. Quách lại giả tiếng chim cuốc, mọi người lại càng ngờ vực. Quách trở vào ngồi xuống, chỉ cười không nói gì. Mọi người đang nhao nhao bàn tán, Quách ngoảnh ra ngoài giả tiếng chim vẹt, nói "Tú tài họ Quách say rồi, đưa y về thôi!". Mọi người kinh ngạc lắng tai thì im bặt không nghe thấy gì nữa, giây lát Quách lại làm tiếp. Đến lúc biết là Quách làm, mọi người mới cùng cười ồ, đều chúm miệng bắt chước nhưng chẳng ai làm được. Một người nói “Tiếc là Thanh Nga tử chưa tới", lại một người nói “Trung thu lại họp mặt ở đây, Quách tiên sinh thế nào cũng phải tới đấy", Quách kính cẩn vâng dạ.

Một người đứng lên nói "Khách đã có tuyệt kỹ như thế, bọn ta cũng hiến trò chồng người cho vui, được không?". Rồi đó mọi người ồn ào đứng lên, người đầu tiên đứng thẳng, lập tức có một người nhảy lên vai, cũng đứng thẳng. Cứ thế được bốn người thì cao không thể nhảy lên được nữa. Người tiếp theo vịn vào vai, đạp lên tay những người dưới như leo thang mà lên, trong giây lát hơn mười người đã chồng lên hết, nhìn thấy như sắp chạm vào mây, Quách còn đang ngạc nhiên nhìn ngó, thì cột người đổ vật xuống đất biến thành một con đường dài. Quách kinh hãi đứng ngẩn ra hồi lâu rồi theo đường ra về. Hôm sau bụng đau buốt, nôn ra nước màu xanh như rỉ đồng có thể nhuộm vải mà hôi hám không sao chịu nổi, ba ngày mới hết. Tìm tới chỗ cũ thì thấy rượu thịt vương vãi, bốn bề gai góc chẳng có đường sá gì. Đến Trung thu Quách định tới chỗ hẹn, nhưng bạn bè can ngăn nên thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 125 - 126 -
A Anh (A Anh)

Cam Ngọc tự Bích Nhân là người huyện Lô Lăng (tỉnh Giang Tây). Cha mẹ mất sớm, để lại em trai tên Giác tự Song Bích mới năm tuổi, nhờ anh nuôi nấng. Ngọc tính hữu ái, chăm nom em như con ruột, sau Giác dần dần lớn lên, diện mạo thanh tú lại thông minh học giỏi nên Ngọc càng yêu thương, thường nói "Em ta đường đường thế này không thể lấy vợ tầm thường", nhưng kén chọn quá nên rốt lại không được đám nào. Gặp lúc lên chùa núi Khuông Sơn học, gần khuya đi nằm nghe ngoài cửa sổ có tiếng con gái trò chuyện, nhìn ra thấy ba bốn nữ lang trải chiếu ngồi trên mặt đất, có mấy tỳ nữ bày rượu và thức ăn, người nào cũng xinh đẹp. Một nàng hỏi "Tần nương tử! Tần nương tử! Sao A Anh không tới?", nàng ngồi dưới đáp "Hôm qua nó từ cửa ải Hàm Cốc (tỉnh Thiểm Tây) tới bị kẻ ác làm bị thương tay phải nên không thể cùng tới chơi, thật đáng hận". Một nàng nói "Đêm trước mơ thấy một chuyện sợ quá, hôm nay còn toát mồ hôi", nàng ngồi dưới xua tay nói "Chớ nói ra, chớ nói ra! Đêm nay chị em tụ họp vui vẻ, nói tới chuyện đáng sợ sẽ mất vui". Nàng kia cười nói "Con nhãi này nhát gan quá, chẳng lẽ có cọp sói tới vồ đi à! Nếu muốn ta đừng nói thì hát một bài chuốc rượu cho chị đi”, cô gái bèn ngâm khẽ:

Trước cửa hoa đào nở tốt tươi
Lời hẹn đi chơi Thanh minh hôm qua chớ nên sai
Nhắn cô bạn láng giềng, chờ nhau một chút thôi
Mang xong giày cánh phụng sẽ lập tức tới nơi


Cô gái ngâm xong, mọi người đều khen hay. Đang lúc vui cười chợt có một người đàn ông to lớn từ ngoài đi vào, mắt trợn xanh lè, diện mạo xấu xí hung tợn. Mọi người cùng la hoảng "Yêu tinh tới đây" rồi nhao nhao chạy tứ tán như chim vỡ tổ. Duy có nàng vừa hát yếu ớt không chạy kịp nên bị bắt, kêu la thảm thiết cố gượng chống cự. Người đàn ông giận dữ gầm lên, cắn đứt lìa một ngón tay nàng nhai luôn tại chỗ, cô gái lập tức ngã nhào xuống đất như chết rồi. Ngọc thương xót không sao nhịn được liền tuốt kiếm đạp cửa xông ra chém trúng đùi người kia, bắp đùi đứt lìa, y mang vết thương bỏ chạy. Ngọc đỡ cô gái vào nhà, thấy mặt nàng xám ngoét, máu ướt sũng tay áo, xem lại thì bị đứt ngón tay cái bên phải bèn xé vải băng bó cho. Lúc ấy nàng mới rên rỉ nói “Cái ơn cứu mạng, biết lấy gì đền đáp?”. Ngọc từ lúc thấy nàng đã ngầm nghĩ tới việc của em trai bèn ngỏ ý, cô gái nói "Kẻ tật nguyền không thể lo việc nội trợ được, xin sẽ làm mai người khác cho lệnh đệ". Ngọc hỏi tên họ, nàng đáp là họ Tần. Ngọc bèn lấy chăn đắp cho nàng nằm nghỉ còn mình đem chăn chiếu qua chỗ khác ngủ. Sáng ra vào thăm thì trên giường trống không, nghĩ rằng cô gái đã tự ra về, nhưng tìm hỏi các thôn xóm gần đó thì không có ai họ ấy, nhờ các bạn bè thân thích tìm khắp nơi cũng không có tin tức gì, trở về kể lại với em, hối tiếc như mất của.

Một hôm Giác tình cờ đi chơi ngoài đổng, gặp một nữ lang khoảng mười sáu tuổi, dung mạo xinh đẹp cứ nhìn mình mỉm cười như định nói gì, kế liếc quanh bốn phía rồi hỏi "Chàng có phải là Nhị lang họ Cam không?", Giác đáp "Phải", nàng nói “Lệnh tôn từng đính ước hôn nhân cho chàng với thiếp, sao nay lại bỏ lời ước cũ mà đính ước với họ Tần?". Giác nói "Tiểu sinh mồ côi từ nhỏ nên chuyện dạm hỏi thế nào không từng hay biết, xin nàng nói rõ tên họ để về hỏi lại gia huynh". Cô gái nói "Không cần phải nói rõ, chỉ cần chàng nói một câu ưng thuận thì thiếp sẽ tự tới” Giác lấy cớ chưa có lệnh anh để từ chối, cô gái cười nói "Anh chàng ngây thơ lại sợ ông anh đến thế kia à? Đã thế thì thiếp họ Lục ở thôn Sơn Vọng tỉnh Sơn Đông, trong ba ngày nữa xin chờ tin chàng", rồi từ giã đi.

Giác về kể lại với anh chị, anh nói "Toàn là bịa đặt, lúc cha mất thì ta đã hơn hai mươi tuổi, nếu có chuyện ấy thì làm gì mà ta không biết", lại vì nàng đã đi một mình ngoài đồng mà còn bắt chuyện với đàn ông nên càng khinh bỉ. Nhân hỏi dung mạo nàng ra sao, Giác đỏ mặt không nói gì, chị dâu cười nói “Chắc là đẹp lắm". Ngọc nói "Trẻ con thì biết gì xấu đẹp mà cho dù cô ta có đẹp cũng không thể bằng họ Tần, đợi xem nếu chuyện họ Tần không xong thì tính đám này cũng chưa muộn", Giác im lặng đi ra. Qua vài hôm Ngọc đi đường thấy một cô gái thiếu nữ vừa đi vừa khóc phía trước bèn kìm ngựa liếc nhìn, thấy xinh đẹp tuyệt trần liền sai đầy tớ tới hỏi han. Cô gái nói "Ta trước kia đã đính hôn với Nhị lang nhà họ Cam, vì nhà nghèo dời đi xa, đứt tuyệt tin tức. Gần đây mới về nghe nhà họ Cam thay lòng đổi dạ bỏ lời ước cũ nên tới hỏi ông anh là Cam Bích Nhân xem tính toán cho thiếp thế nào". Ngọc vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói "Ta chính là Cam Bích Nhân đây. Gia phụ trước kia hẹn ước thế nào, thật ta không biết. Đây cách nhà ta không xa, mời cùng về bàn tính". Bèn xuống ngựa nhường cho cô gái cưỡi, đi bộ cầm dây cương dắt ngựa đưa nàng về nhà.

Cô gái tự nói tiểu tự là A Anh, không có anh em nào khác, chỉ có người chị bên ngoại là họ Tần ở chung, lúc ấy Ngọc mới hiểu ra người cô gái họ Tần nói tới chính là nàng. Ngọc muốn sai người báo tin cho nhà nàng biết nhưng nàng nhất định cản lại, cũng mừng thầm là em mình lấy được vợ đẹp nhưng sợ nàng lẳng lơ sẽ bị chê cười. Lâu ngày thấy cô gái rất đoan trang, lại mềm mỏng khéo nói, hầu hạ chị dâu như mẹ, chị dâu cũng rất yêu thương. Gặp tiết Trung thu, vợ chồng đang ăn uống thân mật, chị dâu sai gọi mãi, Giác còn phân vân thì cô gái bảo người đi gọi cứ về trước nàng sẽ tới sau, nhưng kế cứ ngồi ở nhà hồi lâu vẫn không có ý ra đi. Giác sợ chị dâu chờ, giục đi ngay nhưng nàng chỉ cười, rốt lại cũng không đi. Sáng ra nàng vừa trang điểm xong thì chị dâu tới thăm, hỏi sao đêm qua ngồi đối diện với mình mà có vẻ không vui, nàng mỉm cười. Giác thấy lạ gặng hỏi, căn vặn ồn ào. Chị dâu cả kinh nghĩ nếu nàng không phải là yêu ma thì làm sao có phép phân thân? Ngọc cũng sợ, đứng ngoài rèm nói “Nhà ta đời đời tu nhân tích đức, vốn không có oán thù gì với nhau, nếu là yêu ma thì xin đi mau, chớ giết em ta".

Nàng thẹn thùng nói "Thiếp vốn không phải là người, chỉ vì ngày xưa cha có lời đính ước nên chị Tần cứ khuyên bảo tới đây, tự biết không sinh đẻ gì được nên vẫn muốn từ biệt ra đi, sở dĩ còn bịn rịn chỉ vì anh chị đối xử tử tế mà thôi. Nay đã ngờ vực thì xin vĩnh biệt", rồi chớp mắt biến thành chim anh vũ bay mất. Trước kia khi Cam ông còn sống có nuôi một con anh vũ rất khôn, thường tự tay cho ăn. Lúc ấy Giác mới bốn năm tuổi, hỏi cho chim ăn làm gì, cha đùa nói “Để nó làm vợ ngươi”, có khi sợ chim ăn chưa no lại gọi Giác "Không đem thức ăn ra đây thì con dâu ta chết đói mất”, gia nhân cũng đều lấy đó đùa Giác, sau chim tuột dây bay mất, đến lúc ấy mới sực nghĩ ra cô gái nói lời đính ước cũ là chuyện đó. Nhưng Giác tuy biết rõ nàng không phải là người vẫn thương nhớ không khuây, chị dâu cũng nhớ nhưng cứ sớm chiều sa lệ.

Ngọc hối hận mà không biết làm sao, hai năm sau hỏi cưới con gái nhà họ Khương cho em nhưng rốt lại trong lòng vẫn áy náy. Có người anh họ làm quan Tư lý ở đất Việt (tỉnh Quảng Đông), Ngọc tới thăm khá lâu không về. Gặp lúc giặc cướp dấy loạn, xóm làng chung quanh quá nửa thành đất hoang. Giác cả sợ đưa gia đình vào lánh nạn trong hang núi, thấy trai gái lẫn lộn, không biết là những ai. Chợt nghe tiếng con gái nói nhỏ, giọng rất giống A Anh, chị dâu giục Giác tới gần xem thì quả là nàng, Giác mừng quá nắm chặt cánh tay nàng không buông ra. Cô gái nói với người cùng đi rằng "Chị cứ đi trước, ta còn đợi chị dâu”. Kế chị dâu tới thấy A Anh nghẹn ngào khóc lóc nàng an ủi mấy chặp rồi nói đây không phải là nơi yên ổn, khuyên nên về nhà. Mọi người sợ giặc tới, nàng quả quyết là không sao, bèn dắt díu nhau về. Cô gái lấy đất xoa lên cửa, dặn cứ ở bên trong không được ra ngoài, ngồi nói năm ba câu rồi quay người định đi, chị dâu vội nắm chặt cánh tay, lại sai hai tỳ nữ giữ chặt hai chân, nàng bất đắc dĩ phải ở lại. Nhưng không chịu về phòng riêng, Giác hẹn ba bốn phen nàng mới tới một lần.

Chị dâu cứ nói Khương thị không thể làm vừa lòng thúc thúc, cô gái bèn dậy sớm trang điểm cho Khương, chải tóc đánh phấn xong mọi người đều thấy xinh đẹp hẳn lên, cứ thế ba ngày thì nghiễm nhiên trở thành một mỹ nhân. Chị dâu lấy làm lạ, nhân nói “Ta không có con, vẫn muốn mua một người thiếp nhưng chưa có dịp, chẳng biết đám tỳ nữ có thể trang điểm như thế được không?". Nàng nói “Ai cũng có thể làm cho đẹp lên được, chỉ là kẻ tư chất tốt thì dễ làm hơn thôi”. Bèn xem tướng tất cả tỳ nữ trong nhà, chỉ có một người vừa đen vừa xấu là có tướng sinh con trai, liền gọi vào tắm rửa rồi lấy phấn trộn với thuốc thoa cho, như thế ba ngày thì sắc mặt dần đổi ra màu vàng, sau hai mươi tám ngày thì phấn thuốc thấm vào da thịt, trở thành dễ coi. Hàng ngày nàng chỉ đóng cửa vui cười, không nhắc gì tới việc binh lửa. Một đêm tiếng la thét nổi lên bốn bên, cả nhà không biết tính sao, kế nghe ngoài cửa có tiếng người ngựa rầm rập kéo đi. Sáng ra mới biết cả thôn bị cướp phá tan nát, bọn cướp túa ra lục soát khắp nơi, những người trốn núp trong hang hốc đều bị giết bị bắt, cả nhà càng thêm biết ơn cô gái, coi nàng như thần.

Cô gái chợt nói với chị dâu rằng "Lần này thiếp tới đây vì cảm ơn nghĩa của chị không thể quên, nên muốn chia sẻ nỗi lo ly loạn. Anh sắp về tới, thiếp ở đây cũng như lời ngạn vẫn nói ‘Nửa dơi nửa chuột, con người đáng cười’. Thiếp đi đây, lúc nào rảnh sẽ ghé thăm chị”. Chị dâu hỏi người đang đi đường liệu có yên ổn không, nàng đáp “Trên đường có nạn lớn nhưng đây không phải như chuyện người ngoài, chị Tần mang ơn nhiều ắt sẽ đền đáp, chẳng bị gì đâu”. Chị dâu giữ lại qua đêm, trời chưa sáng nàng đã ra đi. Ngọc từ Quảng Đông về, nghe tin quê nhà loạn lạc, gấp rút đi mau. Giữa đuùng gặp giặc, thầy trò bỏ ngựa, buộc tiền bạc vào lưng núp vào bụi gai rậm. Một con Tần Các Liễu bay tới đậu trên bụi gai, xòe cánh ra che, Ngọc nhìn chân thấy mất một ngón thầm lấy làm lạ. Lát sau bọn giặc bổ vây bốn phía, lùng sục khắp chốn, hai thầy trò Ngọc nín hơi không dám thở mạnh, lúc bọn giặc đã rút con chim mới bay đi. Về tới cùng vợ kể chuyện đã qua, mới biết Tần Các Liễu chính là mỹ nhân mình cứu mạng trước kia.

Về sau cứ gặp lúc Ngọc đi vắng thì tối đến A Anh lại tới ngủ lại, tính khi Ngọc sắp về thì ra đi. Giác có khi gặp nàng ở chỗ chị dâu, mời tới chỗ mình thì nàng hứa nhưng không bao giờ tới. Một đêm Ngọc đi vắng, Giác đoán rằng A Anh sẽ tới bèn núp chờ, không bao lâu quả nhiên nàng tới, Giác nhảy ra lôi kéo vào phòng mình. Nàng nói "Thiếp với chàng duyên phận đã hết, nếu cố sum họp e sẽ bị trời ghen ghét, nên giữ lại chút tình đó để thỉnh thoảng còn gặp nhau” Giác không nghe, rốt lại cùng nhau giao hoan. Sáng qua chỗ chị dâu, chị dâu lấy làm lạ, nàng cười nói "Giữa đường bị cường khấu bắt cóc, khiến chị phải nhọc lòng chờ đợi", kế trò chuyện vài câu rồi vội vàng ra đi. Không bao lâu có con mèo lớn ngậm con chim anh vũ đi ngang cửa phòng ngủ, chị dâu sợ quá, ngờ đó là A Anh, lúc ấy đang tắm cứ tạt nước gào lớn. Mọi người đổ ra đánh con mèo cướp được chim anh vũ lại, thấy cánh bên trái bết máu, hơi thở thoi thóp. Chị dâu đặt trên gối vuốt ve hồi lâu chim mới tỉnh lại, lấy mỏ rỉa cánh, giây lát bay lên vòng vòng trong phòng, gọi chị dâu nói “Xin vĩnh biệt chị, em oán Giác lắm", rồi vỗ cánh bay thẳng, không thấy trở lại nữa.


126. Ngưu Thành Chương
(Ngưu Thành Chương)

Ngưu Thành Chương là người buôn vải ở tỉnh Giang Tây, lấy vợ là Trịnh thị sinh được một trai một gái. Năm Ngưu ba mươi ba tuổi bị bệnh chết. Con trai tên Trung, năm ấy mười hai tuổi, con gái thì mới lên tám. Mẹ không thể thủ tiết, bán hết nhà cửa lấy tiền bỏ túi đi tái giá, để lại hai đứa con không biết làm sao mà sống. Có người chị dâu họ của Ngưu năm ấy đã sáu mươi tuổi, nghèo mà góa chồng bèn đem hai cháu về nuôi. Vài năm sau bà chết, nhà càng nghèo, nhưng Trung đã hơi lớn, nghĩ muốn nối nghiệp cha nhưng không có vốn. Em gái lấy chồng họ Mao, Mao vốn giàu có, cô gái năn nỉ chồng cho mượn vài mươi đồng vàng đưa anh. Trung theo người ta đi Kim Lăng, trên đường gặp cướp, tiền bạc mất sạch, bơ vơ không sao về được.

Một hôm ngẫu nhiên đi ngang cửa hiệu, thấy chủ hiệu rất giống cha mình, trở ra hỏi thăm thì tên họ cũng giống, ngạc nhiên kinh sợ nhưng không dám bắt chuyện, chỉ ngày ngày quanh quẩn gần đó để xem ý tứ, nhưng người ấy cũng không ngó gì tới. Cứ thế ba ngày, thấy tiếng cười giọng nói dáng vẻ cử chỉ đúng là cha mình nhưng không dám bắt chuyện làm quen, bèn nhờ những người làm công giới thiệu là đồng hương, xin vào làm thuê. Làm giấy tờ xong, chủ nhân nhìn tới tên họ quê quán, có vẻ giật mình, hỏi cha mẹ là ai. Trung khóc nói tên cha, chủ nhân sửng sờ như bị mất vật gì. Hồi lâu hỏi mẹ ngươi khỏe không, Trung lại không dám nói là cha đã chết bèn lựa lời đáp “Cha ta sáu năm trước đi buôn không về, mẹ đã đi lấy chồng khác ta may được bà bác nuôi nấng chăm sóc, nếu không thì chết đói lâu rồi”.

Chủ nhân thê thảm nói "Ta là cha ngươi đây", rồi nắm tay con bùi ngùi dắt vào nhà cho ra mắt mẹ kế. Mẹ kế họ Cơ, đã hơn ba mươi tuổi mà không sinh nở gì, gặp được Trung mừng lắm, bày tiệc ăn mừng. Ngưu vẫn thở than không vui, muốn về quê một lần, vợ lo cửa hiệu không có ai coi sóc cố ngăn cản. Ngưu bèn dạy con các việc buôn bán giao dịch, được ba tháng đem hết sổ sách giao cho con, thu xếp hành lý về quê. Lúc Ngưu đi rồi, Trung nói thật việc cha chết với mẹ kế, Cơ thị cả kinh nói "Ông ấy buôn bán ở đây, có nhiều người quen mới lưu lại buôn bán, cưới ta sáu năm rồi, sao lại nói là đã chết?”. Trung bèn kể rõ, hai người cùng ngờ vực không hiểu vì sao. Qua một ngày một đêm thì Ngưu đã về, dắt theo một người đàn bà đầu tóc rối bù, Trung nhìn thì là mẹ ruột của mình. Ngưu kéo tai người đàn bà chửi "Sao lại bỏ con ta?". Người đàn bà quỳ rạp xuống đất không dám động đậy, Ngưu cắn vào cổ, người đàn bà kêu Trung rằng “Con cứu mẹ với, con cứu mẹ với", Trung bất nhẫn xông vào can, lấy thân che cho mẹ. Ngưu còn giận dữ, người đàn bà đã biến mất, mọi người cả sợ la ầm lên là ma, nhìn tới Nơưu thì mặt mày trắng bệch, quần áo rơi hết xuống đất mà biến thành một làn khói đen từ từ tan mất. Mẹ con cùng kinh hãi than thở, nhặt áo mũ chôn cất. Trung thừa kế gia tài có hàng vạn lượng vàng, sau về nhà hỏi thăm thì người mẹ ruột đã đi lấy chồng chết đúng hôm ấy, cả nhà đều nhìn thấy Ngưu Thành Chương.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 127 - 128 -
Thanh Nga
(Thanh Nga)

Hoắc Hoàn tự Khuông Cửu là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây). Cha làm quan Huyện úy, mất sớm lúc sinh còn rất nhỏ. Sinh thông minh hơn người, mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, được vào học trường huyện, Nhưng mẹ thương con quá mức, cấm ra khỏi sân nhà nên mười ba tuổi vẫn không phân biệt được chú bác cô cậu. Trong làng có Bình sự họ Vũ mộ đạo thần tiên, vào núi tu luyện không về, có con gái tên Thanh Nga mười bốn tuổi nhan sắc tuyệt đẹp, thuở nhỏ đọc trộm sách vở của cha, vốn thích Hà tiên cô*. Lúc cha vào núi ở ẩn rồi nàng lập chí không lấy chồng, mẹ cũng không biết làm sao. Một hôm sinh gặp nàng ngoài cổng, trẻ con chưa biết gì chỉ thấy rất yêu mến không nói nên lời về nói thật với mẹ, xin nhờ người dạm hỏi.

*Hà tiên cô: tiên nữ duy nhất trong nhóm Bát tiên theo truyền thuyết Trung Hoa.

Mẹ biết là không xong nên ngần ngại, sinh buồn bực không vui, mẹ sợ con buồn bèn nhờ người tới ngỏ ý, quả nhiên họ Vũ từ chối, sinh đứng ngồi lo nghĩ không biết tính sao. Gặp lúc có vị đạo sĩ tới cổng, cầm cái xẻng nhỏ dài khoảng một thước, sinh mượn xem qua một lượt, hỏi dùng vào việc gì. Đạo sĩ nói "Để đào lấy thuốc, tuy nhỏ nhưng có thể đào thủng đá cứng". Sinh chưa tin lắm, đạo sĩ lập tức chém vào viên đá trên tường, viên đá theo tay rơi xuống mà nát ra như đậu phụ, sinh rất lạ lùng, cầm ngắm không nỡ rời tay. Đạo sĩ cười nói "Công tử đã thích thì ta xin tặng", sinh cả mừng lấy tiền trả ơn nhưng đạo sĩ không nhận, chào đi. Sinh cầm về chém thử vào gạch đá không gì không vỡ, bèn nghĩ dùng khoét tường thì có thể thấy được mặt mỹ nhân mà không hề biết đó là chuyện phạm pháp.

Đến khuya yên ắng bèn trèo tường ra đi, thẳng tới nhà họ Vũ, khoét qua hai lớp tường mới vào tới sân giữa. Thấy trong gian phòng nhỏ còn đèn, núp nhìn vào thấy Thanh Nga đã mặc đồ ngủ. Giây lát đèn tắt, bốn bề không một tiếng động, sinh khoét tường vào thì cô gái ngủ say. Bèn khẽ cởi giày leo lên giường, lại sợ cô gái giật mình tỉnh dậy sẽ quát mắng đuổi đi nên nằm phục xuống cạnh chiếc chăn thêu, lắng nghe hơi thở thơm ngát, tự thấy được an ủi rất nhiều. Nhưng vì suốt nửa đêm đào khoét, đã quá mệt mỏi nên vừa nhắm mắt lại bất giác đã ngủ luôn. Cô gái tỉnh dậy nghe tiếng ngáy khò khò, mở mắt ra nhìn thấy ánh sáng lọt vào chỗ vách bị khoét thủng, cả sợ choàng dậy khẽ lay đứa tỳ nữ mở cửa rón rén bước ra, gõ cửa sổ gọi bọn đàn bà trong nhà cùng thắp đuốc cầm gậy kéo tới. Thấy một cậu học trò tóc còn để chỏm ngủ say trên giường, nhìn kỹ biết là Hoắc sinh, lay gọi mới tỉnh. Sinh vùng dậy, mắt long lanh như sao băng, như cũng không sợ sệt gì lắm, chỉ thẹn thùng không nói câu nào.

Mọi người chỉ trỏ mắng là giặc cướp, quát tháo dọa dẫm, sinh mới rơi nước mắt nói “Ta không phải là giặc cướp, thật lòng chỉ vì yêu mến nương tử, muốn được gần gũi hương thơm một lần thôi". Mọi người lại ngờ việc khoét qua mấy lớp tường vách không phải sức đứa trẻ con làm được, sinh đưa cái xẻng cho họ xem, nói rõ sự lạ lùng. Họ cùng thử cũng hoảng sợ, ngạc nhiên coi là của thần cho, định cùng tới báo cho phu nhân. Cô gái cúi đầu suy nghĩ như có ý không muốn, mọi người đoán biết ý nàng bèn nói “Anh chàng này cũng là con nhà có tiếng tăm, chẳng có gì là nhục nhã, chẳng bằng cứ thả về cho để cậy mai mối lại tới vậy, còn sáng ra cứ thưa với phu nhân là có trộm vào nhà là được chứ gì?". Cô gái không đáp, mọi người bèn giục sinh đi, sinh đòi cái xẻng, họ cùng cười nói "Chú nhỏ khờ vẫn không quên cái vật hung dữ này à?". Sinh liếc thấy cạnh gối có một chiếc thoa, lén nhét vào tay áo, bị đứa tỳ nữ trông thấy mách ngay với cô gái nhưng nàng không nói gì cũng không tức giận, một bà già vỗ vào gáy sinh nói “Đừng nói tới chuyện khờ khác, chỉ cái ý ấy thôi cũng đã sai trái lắm rồi" rồi kéo ra, sinh lại qua lỗ tường thủng ra về.

Về nhà sinh không dám nói thật với mẹ, chỉ xin mẹ cậy mai mối lại tới hỏi. Mẹ không nỡ từ chối ra mặt, chỉ nhờ khắp các bà mối tìm gấp đám khác cho sinh. Thanh Nga nghe chuyện hoảng hốt, lén sai người thân tín bắn tin cho mẹ sinh, bà mừng rỡ liền nhờ người mai mối tới. Gặp lúc đứa tỳ nữ nhỏ nói lộ chuyện hôm trước ra, Vũ phu nhân lấy làm nhục nhã, vô cùng căm tức, thấy bà mụ tới càng tức giận, cầm gậy vạch đất chửi mắng sinh, nhiếc móc luôn bà mẹ. Bà mối sợ quá lủi về kể rõ tình hình, mẹ sinh cũng nổi giận nói "Thằng ranh con làm những gì thì ta đều mờ mịt, sao lại vô lễ với ta? Lúc bắt được sao không giết đôi đãng nhi dâm phụ luôn đi?", từ đó gặp họ hàng thân thuộc đều nói vung lên. Cô gái nghe chuyện xấu hổ muốn chết đi, Vũ phu nhân hết sức ăn năn nhưng không sao cấm được mẹ sinh đừng nói. Cô gái lại sai người tới năn nỉ mẹ sinh, lại thề không bao giờ lấy người khác, lời lẽ bi thiết.

Mẹ sinh cảm động, thôi không rêu rao nữa nhưng cũng bỏ luôn ý định cầu hôn. Gặp lúc ông Âu ở Tần Trung (tỉnh Thiểm Tây) tới làm Huyện lệnh ở đó, đọc văn của sinh rất quý trọng, thường gọi vào dinh chơi, đối xử rất tử tế. Một hôm ông hỏi sinh có vợ chưa, sinh đáp chưa, ông hỏi kỹ hơn, sinh đáp "Trước đã có hẹn ước với con gái quan Bình sự họ Vũ, sau vì chuyện xích mích nhỏ nên nửa đường gãy gánh”. Ông hỏi bây giờ còn muốn cưới nàng không, sinh đỏ mặt không đáp ông cười nói "Ta sẽ tác thành cho anh", rồi lập tức sai quan Huyện úy và Giáo dụ tới nộp sính lễ cho nhà họ Vũ. Vũ phu nhân mừng rỡ, hôn ước mới định. Qua năm sau cô gái về nhà chồng, vào tới phòng ném cái xẻng xuống đất nói "Đồ dùng làm giặc cướp này phải vứt đi", sinh cười nói "Đừng quên bà mối chứ”, rồi trân trọng đeo bên người không rời lúc nào. Cô gái là người nhu mì trầm mặc, mỗi ngày tới hầu mẹ chồng ba lần xong thì đóng cửa ngồi im lặng, không lưu ý lắm tới việc nhà.

Nhưng khi mẹ chồng ăn cưới điếu tang đi vắng, thì nàng coi sóc việc nhà đâu vào đấy. Hơn hai năm sau nàng sinh một trai đặt tên là Mạnh Tiên, chỉ giao cho bà vú chăm sóc như cũng không thương yêu gì lắm. Lại bốn năm năm sau, chợt nói với sinh "Tình duyên vợ chồng đã tám năm, nay thì chia ly dài lâu, sum họp ngắn ngủi, biết làm thế nào?”. Sinh cả kinh gạn hỏi, nàng chỉ im lặng, kế mặc quần áo đẹp đẽ vào lạy mẹ chồng rồi quay về phòng, sinh theo vào hỏi thì nàng đã lên giường nằm mà tắt hơi rồi. Mẹ con sinh rất đau đớn, mua quan tài chôn cất. Mẹ sinh đã già yếu, cứ bế cháu lại nhớ con dâu, ruột gan như xé, vì thế mang bệnh nằm liệt giường. Dần dần bà bỏ cả ăn uống, chỉ thèm canh cá, nhưng gần đó không có cá, phải đi xa hơn trăm dặm mới mua được. Lúc ấy tôi tớ lừa ngựa đều sai đi công việc, sinh tính chí hiếu, nóng ruột không chờ được liền mang tiền một mình ra đi, đêm ngày không nghỉ chân. Khi trở về tới giữa núi thì mặt trời đã lặn, hai chân đau nhức không bước nổi nữa. Phía sau có một ông già đi tới, hỏi "Bị phồng chân phải không?”, sinh dạ dạ. Ông già bèn kéo sinh vào vệ đường, đánh đá lấy lửa, lấy giấy gói thuốc xông hai chân sinh rồi bảo đi thử xem, sinh thấy chẳng những hết đau mà còn cứng cáp hơn, hết sức cảm tạ. Ông già hỏi có việc gì mà gấp gáp như thế, sinh nói vì mẹ bệnh, nhân kể lại nguyên cớ. Ông già hỏi sao không lấy vợ khác sinh đáp vì chưa tìm được đám nào khá. Ông già chỉ xóm núi xa xa nói "Chỗ đó có một giai nhân, nếu chịu đi theo thì lão sẽ làm mai cho ông”. Sinh từ chối nói mẹ bệnh dang chờ có cá ăn nên không được rảnh, ông già chắp tay chào, bảo ngày khác tới thôn hỏi già Vương rồi từ biệt đi.

Sinh về nhà nấu cá dâng mẹ, mẹ ăn được chút ít, vài hôm sau thì khỏi bệnh. Sinh bèn sai đầy tớ dẫn ngựa đi theo tìm ông già, tởi chỗ cũ thì không thấy xóm làng gì cả. Loanh quanh hồi lâu, bóng chiều dần buông xuống mà hang núi dày đặc không thể nhìn rõ nơi xa, bèn cùng người đầy tớ chia nhau lên đỉnh núi để tìm làng xóm. Nhưng đường núi gập ghềnh không đi ngựa được, đi bộ lên tới thì trời đã sẩm tối, nhìn ngó bốn phía chẳng thấy làng xóm nào, vừa định trở xuống thì lạc mất đường, lòng như lửa đốt. Sinh đang dò dẫm thì hụt chân rơi xuống vực, may là bên dưới mấy thước có một ngôi nhà bỏ hoang, sinh rơi lên nóc, rộng vừa đủ dung thân, nhìn xuống đen ngòm không trông thấy đáy, sợ quá không dám động đậy. Lại may là vách núi có những cây nhỏ to bằng song cửa, sinh định thần hồi lâu thấy bên chân có một cửa động nhỏ, trong lòng mừng thầm bèn dựa lưng vào đá, giật lùi chui vào, thấy hơi yên tâm, chờ trời sáng để kêu cứu.

Giây lát thấy xa xa trong động có đốm sáng như ngôi sao, đi lần vào khoảng hai ba dặm chợt thấy nhà cửa, không có đèn đuốc gì mà sáng như ban ngày, có một mỹ nhân trong phòng đi ra, nhìn ra thì là Thanh Nga. Nàng thấy sinh giật mình hỏi “Sao chàng tới được nơi đây?” Sinh không kịp tỏ bày, nắm tay nàng khóc lớn, nàng an ủi bảo nín. Hỏi thăm mẹ và con, sinh kể hết cảnh khổ, nàng cũng buồn bã. Sinh hỏi "Nàng chết đã hơn một năm rồi, đây là âm ty phải không?”, cô gái đáp "Không phải, đây là động tiên. Lúc trước thiếp chết không phải là thật đâu chàng chôn đó chỉ là một cây gậy trúc thôi. Nay chàng tới là có duyên phận thành tiên”. Rồi dẫn sinh vào chào cha, thấy một người đàn ông râu rậm ngồi trong sảnh đường, sinh rảo bước tới lạy, cô gái thưa là Hoắc lang tới, ông giật mình đứng lên cầm tay sinh trò chuyện rồi nói "Con rể tới rất hay, nên ở lại đây". Sinh chối từ là mẹ ở nhà mong đợi, không ở lâu được. Ông nói "Ta cũng biết thế, nhưng về muộn đôi ba ngày thì có hề gì", rồi bày cơm rượu thết đãi, xong sai tỳ nữ dọn giường ở phòng khách, trải nệm gấm cho sinh nghỉ.

Sinh lui về phòng, kéo cô gái ngủ chung, nàng chối từ nói "Đây là nơi nào mà đòi giở trò bậy bạ?". Sinh nắm tay nàng không chịu buông, đứa tỳ nữ cười chế nhạo, nàng càng hổ thẹn. Đang còn giằng co thì ông nhạc vào, quát nói “Quân phàm tục làm nhơ động phủ của ta, bước ngay đi". Sinh vốn nóng tính, xấu hổ không nhịn được, giận dữ đáp "Tình vợ chồng ai mà nhịn được, bậc trưởng thượng sao lại rình nhìn? Ta đi thì không khó, nhưng lệnh nữ cũng phải đi theo”. Ông không biết nói sao, đành bảo con gái đi theo rồi mở cổng sau đưa ra, nhưng lừa sinh ra rồi thì cha con đóng sập cửa lại. Sinh ngoảnh nhìn thì thấy vách đá cao ngất không có chỗ hở, bơ vơ một mình không biết về đâu, nhìn lên trời thì trăng xế sao thưa, ngậm ngùi hồi lâu, hết đau tới hận, nhìn vào vách đá kêu gào, không nghe ai lên tiếng đáp.

Sinh phẫn uất quá, rút cái xẻng trong lưng ra đục phá vách đá, vừa đục vừa chửi, trong chớp mắt đã khoét thủng ba bốn thước, nghe văng vẳng có tiếng người nói “Nghiệt chướng thay". Sinh càng ra sức đục mau, hai cánh cửa động chợt hé ra, ông nhạc đẩy Thanh Nga ra nói "Bước ngay, bước ngay!”, vách đá lại liền lại như cũ. Cô gái oán trách nói “Đã thương yêu lấy thiếp làm vợ, sao lại đối xử với ông nhạc như thế? Đạo sĩ già ở đâu cho chàng cái vật hung dữ đó, quấy nhiễu người ta muốn chết". Sinh có được cô gái rồi cũng đã mãn nguyện, không buồn tranh cãi, chỉ lo đường đi hiểm trở khó về. Cô gái liền bẻ hai nhánh cây, mỗi người cưỡi lên một nhánh, lập tức biến thành ngựa chạy rất mau, giây lát đã về tới nhà, lúc ấy sinh mất tích đã bảy ngày. Lúc đầu khi chủ tớ sinh lạc nhau, người đầy tớ tìm không được bèn về thưa lại với mẹ sinh. Bà sai gia nhân tìm khắp trong núi không thấy dấu vết gì, đang lo sợ thì nghe tin con về, mừng rỡ ra đón, ngẩng đầu nhìn thấy Thanh Nga kinh hãi suýt ngất.

Sinh thuật qua mọi chuyện, bà càng thêm vui mừng. Cô gái vì hành trạng có chỗ lạ lùng, ngại người ta lo sợ nên xin mẹ dọn nhà đi nơi khác. Mẹ sinh theo lời, vì vốn có nhà ở làng khác liền dời tới ở đó, người ta đều khôngbiết về nàng. Ăn ở với nhau mười tám năm, nàng sinh một gái, gả cho họ Lý cùng huyện. Sau bà mẹ qua đời, nàng nói với sinh “Trong ruộng nhà ta có ngôi đất Chim trĩ ấp tám quả trứng có thể chôn mẹ, cha con chàng nên đưa linh cữu mẹ về đó an táng. Con chúng ta đã lớn, cứ để nó ở lại giữ mộ, không cần trở về”. Sinh theo lời, chôn cất mẹ xong trở về một mình, hơn tháng sau Mạnh Tiên về thăm thì cha mẹ đã đi mất. Hỏi lão bộc thì thưa là đi đám tang chưa về trong lòng biết là có chuyện lạ nhưng chỉ còn cách than thở mà thôi.
Mạnh Tiên nổi tiếng văn hay nhưng lao đao chốn trường ốc đến bốn mươi tuổi vẫn chưa thi đỗ. Sau nhờ chân Cống cử vào kinh thi hội gặp một người cùng tên, thấy khoảng mười bảy mười tám tuổi, phong thái tuấn dật thích lắm. Nhìn tới quyển thi đề "Lẫm sinh Hoắc Trọng Tiên ở Thuận Thiên", giật mình kinh hãi bèn nói tên mình. Trọng Tiên cũng ngạc nhiên hỏi kỹ quê quán, Mạnh nói rõ ràng, Trọng Tiên mừng nói “Lúc đệ lên đường vào kinh, gia phụ có dặn vào trường nếu gặp người nào họ Hoắc ở Sơn Tây thì đó là họ hàng, nên cùng giao thiệp, nay quả đúng. Nhưng sao tên tự chúng ta giống nhau như thế?". Mạnh Tiên hỏi tới danh tính ông bà cha mẹ xong giật mình nói “Đó là cha mẹ ta đấy". Trọng Tiên nghĩ tuổi tác không hợp, Mạnh Tiên nói “Cha mẹ đều là người tiên, làm sao lấy dung mạo mà bàn số tuổi được”, nhân kể lại chuyện xưa, Trọng Tiên mới tin.

Thi xong hai người không màng nghỉ ngơi, sai thắng ngựa cùng về, vừa tới cổng thì gia nhân ra đón nói đêm trước Thái ông và phu nhân đi đâu mất, hai người cả kinh. Trọng Tiên chạy vào hỏi vợ, vợ đáp “Chiều hôm qua còn cùng ngồi uống rượu, mẹ nói "Vợ chồng con còn nhỏ chưa trải việc đời, ngày mai anh cả con tới thì ta không lo gì nữa”. Sáng ra vào phòng thì không thấy cha mẹ đâu cả". Anh em nghe nói dậm chân kêu khóc, Trọng Tiên muốn đi tìm nhưng Mạnh Tiên cho là vô ích mới thôi. Khoa ấy Trọng Tiên đỗ Cử nhân, vì phần mộ tổ tiên ở cả Sơn Tây nên theo anh về đó. Cũng hy vọng cha mẹ còn ở cõi trần, tìm kiếm thăm hỏi khắp nơi nhưng rốt cuộc vẫn không thấy tung tích.

Dị Sử thị nói: Khoét vách tường lên giường ngủ, tình ý quả là ngây, đào vách núi chửi cha vợ, hành vi quả là cuồng, người tiên tác hợp cho chỉ là muốn lấy việc trường sinh báo đáp lòng hiếu thảo vậy. Nhưng đã lưu vết ở nhân gian, lấy vợ sinh con, thì cứ an nhiên sống đến lúc chết cũng có gì là không được? Đây thì trong ba mươi năm mấy lần bỏ mặc con cái, sao lại cô độc như thế nhỉ? Lạ thật.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 128 - 129 -
Nha Đầu (Nha Đầu)

Chư sinh Vương Văn người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ tính thành thật. Đi chơi tới đất Sở (tỉnh Hồ Nam), qua sông Hoàng Hà, nghỉ lại ở nhà trọ, nhân rảnh rỗi dạo bước ngoài cửa. Có người đồng hương là Triệu Đông Lâu buôn bán lớn, thường mấy năm không về, gặp Vương cầm tay mừng rỡ, mời tới chỗ mình chơi. Tới nơi sinh thấy có mỹ nhân ngồi trong phòng, ngạc nhiên dừng bước. Triệu kéo vào, lại đứng ngoài cửa sổ gọi Nật Tử bảo đi chỗ khác, Vương bèn vào. Triệu dọn cơm rượu thết đãi, cùng nhau trò chuyện. Vương hỏi đây là nơi nào, Triệu đáp "Đây là một nhà chứa nhỏ, ta xa nhà lâu ngày nên tạm lấy làm nơi ngủ” Trong lúc hai người trò chuyện, Nật Tử cứ lui tới ra vào, Vương áy náy không yên, đứng dậy từ biệt, Triệu cố giữ ngồi lại. Chợt một thiếu nữ đi ngang qua cửa, nhìn thấy Vưong liếc mắt đưa tình, thấy phong tư xinh đẹp như thần tiên. Vương vốn đứng đắn, nhưng đến lúc ấy thấy say mê điên đảo, bèn hỏi người đẹp ấy là ai. Triệu đáp "Đó là con gái thứ hai của bà chủ nhà chứa này, tiểu tự là Nha Đầu, vừa mười bốn tuổi. Bọn khách chơi giàu có nhiều lần đưa tiền bạc ngỏ ý với bà mẹ nhưng nàng nhất định không chịu, đến nỗi bị bà đánh đập, nàng lấy cớ còn nhỏ tuổi xin tha, nay còn đang chờ người nộp sính lễ".
Vương nghe thế cúi đầu yên lặng tơ tưởng, trò chuyện lơ đãng cứ hỏi gà lại đáp vịt. Triệu đùa nói "Nếu anh ưng ý thì ta xin làm mai cho”. Vương bùi ngùi nói "Thật không dám có ý ấy", nhưng trời đã xế chiều vẫn không nói tới chuyện ra về. Triệu lại đùa hỏi, Vương nói "Thật rất cảm tạ lòng tốt của ông, nhưng cạn túi biết làm sao được?". Triệu biết tính nàng cứng cỏi, ắt không chịu tiếp nên hứa giúp thêm mười lượng vàng. Sinh cảm tạ về nhà trọ, dốc hết tiền bạc tới, được năm lượng bèn ép Triệu nói giùm với mụ dầu, quả nhiên mụ chê ít. Nha Đầu nói "Hàng ngày mẹ vẫn trách con không làm cây tiền cho mẹ, nay xin theo ý mẹ. Con mới học ra đời, còn nhiều dịp báo đáp ơn mẹ, xin đừng vì cái cớ nhỏ mọn mà khước từ Thần Tài". Mụ dầu thấy nàng vốn bướng bỉnh, nay đã chịu ra tiếp khách nên rất mừng rỡ bèn nhận lời, sai tỳ nữ đi mời Vương lang.

Triệu không nuốt lời được bèn lấy tiền đưa thêm. Vương cùng cô gái vui vầy rất sung sướng, kế nàng nói "Thiếp là kẻ hạ tiện chốn yên hoa, không xứng sánh đôi với chàng, nay được đội ơn thương tới rất cảm kích, nhưng chàng dốc túi mua một đêm vui, ngày mai sẽ ra sao?". Vương rơi lệ sụt sùi, cô gái nói “Chàng đừng buồn, thiếp gởi thân trong chốn phong trần song không phải thật lòng muốn thế, chỉ vì chưa gặp được người thành thật xứng đáng trao thân gởi phận như chàng mà thôi, xin nhân đêm cùng nhau trốn đi". Vương mừng rỡ vùng dậy, cô gái cũng dậy, nghe trống đã điểm canh ba, nàng vội đổi y phục giả làm con trai cùng nhau đi ngay. Sinh gõ cửa nhà trọ, vốn có hai con lừa bèn lấy cớ có việc gấp gọi đầy tớ lên đường.

Cô gái lấy bùa buộc vào chân người đầy tớ và tai lừa, thả cương chạy thật nhanh, không cho mở mắt, chỉ nghe gió rít ào ào bên tai. Sáng ra tới cửa Hán Giang (thuộc tỉnh Hồ Bắc) thuê nhà ở lại, Vương kinh ngạc vì chuyện lạ, nàng nói "Nói ra xin chàng đừng sợ, thiếp không phải là người mà là hồ thôi. Vì mẹ tham dâm nên hàng ngày bị ngược đãi, lòng vẫn oán hờn, nay may mắn thoát khỏi bể khổ, ở ngoài trăm dặm thì mẹ không thể biết được, may ra có thể yên ổn". Vương yên lòng không ngờ vực gì nữa, chỉ chậm rãi nói "Trong phòng có người đẹp như đoá phù dung mà nhà nghèo trơ bốn bức vách, thật khó yên lòng, sợ rốt lại nàng sẽ bỏ đi". Cô gái nói "Sao lại lo lắng chuyện ấy? Nay buôn bán cũng đủ sống, nhà có ba miệng ăn, sống đạm bạc cũng có thể no đủ, cứ bán con lừa lấy tiền làm vốn".

Vương theo lời, mở ngay một cửa hàng nhỏ trước cổng, cùng đầy tớ làm lụng, bán rượu và nước tương. Cô gái thì may thuê thêu mướn, hàng ngày kiếm dư tiền chợ, ăn uống cũng đầy đủ. Hơn một năm dần dần nuôi được tôi tớ, Vương từ đó không phải đích thân làm lụng nữa, chỉ đứng trông nom. Một hôm chợt cô gái buồn rầu nói “Đêm nay sẽ có nạn, biết làm thế nào?”, Vương hỏi thì nàng đáp “Mẹ đã biết tin tức của thiếp, ắt sẽ kiếm chuyện, nếu sai chị Nật tới thì chúng ta khỏi lo, chỉ sợ bà đích thân tới thôi”. Đến khuya nàng mừng rỡ nói "Không sao, là chị Nật tới". Không bao lâu Nật Tử đẩy cửa vào, nàng tươi cười ra đón, Nật Tử mắng "Con nhãi không biết nhục, bỏ trốn theo trai, mẹ sai ta trói ngươi dẫn về", rồi lấy dây ra buộc vào cổ nàng. Cô gái tức giận nói "Chỉ theo một người thì có tội gì?", Nật Tử càng tức, kéo nàng đứt cả vạt áo. Tôi tớ trong nhà cùng đổ tới, Nật Tử sợ hãi chạy đi. Cô gái nói "Chị ấy về báo ắt mẹ sẽ đích thân tới, sắp có vạ lớn, phải tính kế ngay”. Liền sắp xếp đồ đạc định dời nhà đi chợt bà mẹ sồng sộc bước vào, nét mặt hầm hầm nói “Ta đã biết con nhãi vô lễ, phải tự tới mới xong". Cô gái quỳ xuống khóc lóc năn nỉ, mụ ta không nói gì, cứ nắm tóc nàng lôi đi.

Vương tha thiết nhớ thương, bỏ cả ăn ngủ, vội tới Đại Hà định chuộc nàng về, nhưng tới nơi thì cửa nhà như cũ mà người ở khác xưa. Hỏi người ở đó thì không ai biết mụ dọn nhà đi đâu, đành đau xót trở về. Rồi đó cho hết đồ đạc, mang tiền về Sơn Đông. Vài năm sau tình cờ lên Yên Kinh, qua Viện mồ côi thấy một đứa nhỏ bảy tám tuổi, người đầy tớ lấy làm lạ vì rất giống chủ mình nên cứ quay nhìn chằm chằm. Vương hỏi sao cứ nhìn đứa nhỏ, người đầy tớ cười thưa rõ, Vương cũng cười nhìn kỹ đúa nhỏ thấy dáng vẻ hiên ngang, tự nghĩ chưa có con nối dõi, nhân thấy giống mình nên yêu mến xuất tiền ra chuộc. Hỏi tên họ, nó đáp là Vương Tư, Vương nói "Cháu bị cha mẹ bỏ rơi lúc còn trong tã, làm sao biết được tên họ?”, nó đáp “Thầy học con vẫn nói lúc nhặt được con thì thấy trước bụng có viết hàng chữ "Con của Vương Văn ở Sơn Đông"*. Vương cả sợ nói "Ta chính là Vương Văn, nhưng lấy đâu ra thằng con này, chắc là ai trùng tên đó thôi", nhưng cũng mừng thầm nên rất thương yêu.

* Con của Vương Văn ở Sơn Đông: theo lối chiết tự trong chữ Hán thì chữ Tư có thể hiểu như Văn tử (con của Văn).

Khi về tới quê, ai thấy cũng biết ngay là con của Vương không cần phải hỏi. Tư dần lớn lên, vạm vỡ khỏe mạnh, thích săn bắn chứ không lo làm ăn, thích đánh nhau ưa giết người, Vương cũng không sao kiềm chế được. Tư lại tự nói có thể nhìn thấy ma quỷ hồ tinh nhưng không ai tin, gặp lúc trong làng có nhà nọ bị hồ ám mời tới xem. Tư tới nơi chỉ vào nơi hồ trốn núp, bảo mấy người cứ theo chỗ mình chỉ mà đánh, lập tức nghe tiếng hồ kêu, lông máu ngỗn ngang, từ đó được yên ổn, vì vậy mọi người càng lấy làm lạ. Một hôm Vương đi trong chợ chợt gặp Triệu Đông Lâu, thấy khăn áo xốc xếch, mặt mũi tiều tụy, bèn sửng sốt hỏi vì sao. Triệu buồn bã xin chờ thong thả sẽ kể, Vương liền dẫn về nhà thết đãi. Triệu nói “Mụ dầu bắt được Nha Đầu về, đánh đập tàn nhẫn, khi dời nhà lên Bắc rồi lại muốn ép gả cho người ta, nhưng nàng thề không lấy hai chồng nên mụ còn nhốt để đó. Nàng sinh được một con trai, mụ vứt ra đường, nghe nói được đưa vào Viện mồ côi, nay chắc đã trưởng thành, đó là giọt máu của ông đấy".

Vương sa nước mắt nói “Nhờ trời thằng nhỏ đã về đây rồi", rồi kể lại đầu đuôi, kế hỏi "Sao ông lại tới nông nỗi này?". Triệu than "Nay mới biết không thể quá tin vào sự tử tế ở chốn lầu xanh, nhưng còn nói gì được nữa?”. Nguyên lúc mụ dầu dời nhà lên Yên Kinh, Triệu cũng nhân buôn bán đi theo, những hàng hóa nặng nề khó chở thì bán rẻ hết, dọc đường lại gánh vác sự chi tiêu, phí tổn rất lớn nên ăn vào vốn rất nhiều. Nật Tử lại đòi hỏi quá quắt nên trong mấy năm, vốn liếng hàng vạn lượng vàng hết sạch. Mụ dầu thấy Triệu hết tiền, ngày càng khinh rẻ, Nật Tử dần dần cũng đi ngủ ở các nhà giàu có, thường mấy đêm liền không về. Triệu căm tức không nhịn được nhưng không biết làm sao. Gặp lúc mụ dầu đi vắng, Nha Đầu trong cửa sổ gọi Triệu nói "Chốn lầu xanh vốn không có tình nghĩa, sở dĩ gắn bó chiều chuộng chỉ vì tiền đó thôi. Ông mà còn lưu luyến nơi này, ắt sẽ gặp họa lớn đấy"

Triệu sợ hãi như mới tỉnh mộng, lúc sắp lên đường lén tới thăm nàng, nàng đưa một lá thư nhờ chuyển tới Vương, Triệu bèn đi. Nhân kể lại tình cảnh của Nha Đầu rồi lấy thư đưa Vương, thư viết "Được biết thằng Tư đã về với chàng. Tai ách của thiếp thì ông Đông Lâu đã biết rõ, đó là cái oan nghiệt kiếp trước, còn biết nói gì! Thiếp bị giam trong phòng tối, không thấy ánh mặt trời, đòn roi nát thân, lửa đói đốt ruột, một ngày dài như một năm. Nếu chàng không quên lúc ở Hán Giang, đêm tuyết chỉ có chiếc chăn đơn, ôm nhau cho ấm thì xin nên cùng con mưu tính giải thoát cho thiếp ra khỏi tai ách. Mẹ và chị thiếp tuy tàn ác cũng là cốt nhục, xin đừng làm cho thương tổn, đó là điều thiếp mong mỏi vậy”.

Vương xem thư khóc ròng, lấy vàng lụa ra đưa chân Triệu. Lúc ấy Tư đã mười tám tuổi, Vương kể rõ đầu đuôi, nhân đưa cho xem thư mẹ. Tư tức giận trợn mắt tưởng chừng rách khóe, ngay hôm ấy lên đường vào kinh, hỏi thăm tới được nơi mụ dầu đất Ngô ở thì đang lúc ngựa xe dày đặc trước cổng. Tư xông thẳng vào, Nật Tử đang uống rượu với khách, thấy Tư cầm đao biến sắc, Tư sấn tới chém chết. Khách khứa cả sợ cho là giặc cướp, nhưng nhìn lại xác Nật Tử thì thấy đã hóa ra con chồn. Tư xách dao vào thẳng nhà trong thấy mụ dầu đang sai bảo tỳ nữ làm thức ăn, Tư xông tới gần cửa thì mụ biến mất. Tư nhìn quanh rồi rút mau cung tên bắn lên xà nhà, một con chồn bị bắn xuyên tim rơi xuống, Tư liền chặt lấy đầu. Tìm được chỗ mẹ bị giam, vác đá phá tung cửa, mẹ con cùng khóc không ra tiếng. Mẹ hỏi mụ dầu, Tư đáp đã giết rồi. Mẹ oán trách nói “Sao con không nghe lời ta?", rồi sai mang ra ngoài đồng chôn cất.

Tư giả vâng dạ nhưng lột lấy bộ da giấu đi. Kế kiểm lại rương hòm của mụ đầu, lấy hết vàng bạc rồi đưa mẹ về. Vợ chồng gặp lại nhau nửa mừng nửa tủi, kế hỏi về mụ dầu, Tư nói đang trong túi con. Giật mình hỏi lại, nó lấy hai bộ da dâng lên. Mẹ tức giận mắng "Thằng con ngỗ nghịch sao dám làm thế”, rồi gào khóc tự đánh mình, lăn lộn dưới đất muốn chết đi. Vương hết sức khuyên giải an ủi, quát bảo con đem chôn hai bộ da, Tư uất ức nói "Nay được yên vui đã quên ngay lúc bị roi vọt à?". Mẹ càng giận dữ gào khóc không thôi. Tư đi chôn hai bộ da rồi trở về thưa, mẹ mới hơi nguôi giận. Vương từ khi cô gái trở về, trong nhà càng thêm sung túc, lại nhớ ơn Triệu, báo đáp rất hậu, Triệu lúc ấy mới biết mẹ con mụ dầu đều là hồ.

Tư thờ phụng cha mẹ rất có hiếu, nhưng có ai lỡ xúc phạm thì lớn tiếng gầm thét. Cô gái nói với Vương "Con ta có sợi gân hung dữ, nếu không đâm hủy đi thì về sau thế nào cũng vì giết người mà mất nghiệp". Tối đến chờ Tư ngủ say, ngầm lấy dây trói chặt tay chân. Tư tỉnh dậy nói "Con không có tội gì”, mẹ nói “Ta định chữa bệnh cho con, đừng kêu la”. Tư gào lớn lăn lộn nhưng không vùng ra được. Cô gái lấy kim lớn đâm vào cạnh xương mắt cá chân của nó, sâu tới ba bốn phân, dùng sức ngoáy mạnh đứt nghe răng rắc, lại đâm vào khuỷu tay và sau gáy, cũng làm như vậy, kế cởi trói cho, vỗ về bảo cứ ngủ yên. Sáng ra Tư tới hầu cha mẹ, sa nước mắt nói “Con từ khuya đến sáng nhớ lại việc làm trước đây, thật đều không phải giống người”. Cha mẹ cả mừng, từ đó Tư nhu mì nhỏ nhẹ như con gái, làng xóm đều khen là hiền đức.

Dị Sử thị nói:Kỹ nữ đều là hồ, những kẻ không cho rằng có hồ làm kỹ nữ, tới chỗ hồ tìm gà mái, thú mà làm cầm thì những chuyện thương luân bại lý có gì là lạ. Nhưng tới chuyện trải trăm cay ngàn đắng, đến chết không chịu theo người khác thì loài người vẫn cho là khó mà hồ cũng làm được sao? Vua Đường vẫn nói Ngụy Trưng có vẻ yếu ớt như đàn bà* ta cũng nói về Nha Đầu như vậy.

*Vua Đường... đàn bà: Ngụy Trưng là Thừa tướng của Đường Thái tông, tính cương trực trầm tĩnh, trước mặt vua dám can gián những việc lớn, Thái tông nhiều phen nổi giận nhưng Trung cứ thản nhiên tâu bày, vua vì thế cũng nguôi dần, thường nói "Người ta vẫn nói Trưng ngạo nghễ, nhưng ta xem có vẻ yếu ớt như đàn bà". Đây ý nói nhân vật Nha Đầu bề ngoài hiền dịu nhưng trong lòng cương cường, không thể khuất phục được.

129. Dư Đức
(Dư Đức)

Doãn Đồ Nam ở Vũ Xương (tỉnh thành Hồ Bắc) có gian nhà riêng cho một vị Tú tài thuê ở, suốt nửa năm cũng chưa từng tới chơi. Một hôm gặp ngoài cổng, thấy còn rất trẻ nhưng dung nghi đẹp đẽ, phục sức sang trọng, rảo bước tới cùng trò chuyện thấy nho nhã khả ái. Lấy làm lạ về nói với vợ, vợ sai tỳ nữ tìm cớ qua hỏi han để dò xét, thấy trong nhà còn có người em gái xinh đẹp như tiên, những non bộ cây cảnh quần áo đồ chơi đều không phải là những món từng nghe thấy.

Doãn không rõ là hạng người nào, bèn tới xin yết kiến nhưng gặp lúc người ấy vắng nhà. Hôm sau người ấy tới đáp lễ, xem danh thiếp mới biết là họ Dư tên Đức. Đến lúc trò chuyện hỏi kỹ gia thế cứ trả lời quanh co, Doãn hỏi gặng thì nói "Nếu muốn qua lại với nhau thì ta không dám từ chối, nhưng ta không phải là trộm cướp đào vong, cần gì phải hỏi kỹ lai lịch?". Doãn xin lỗi, sai mang rượu ra mời, trò chuyện cười nói rất vui vẻ.

Đến tối có hai tên đầy tớ dắt ngựa cầm đèn tới đón Dư về. Hôm sau Dư gởi thư mời chủ nhân để đáp lễ, Doãn tới nhà thấy trên tường đều dán loại giấy sáng loáng trong suốt như gương, lò đồng hình sư tử đốt trầm hương, mùi thơm rất lạ. Trên bàn có bình ngọc xanh cắm hai cái lông đuôi chim phụng, hai cái lông cánh chim công, đều dài hơn hai thước, một bình pha lê cắm nhánh cây đầy hoa không biết tên gì, cũng cao khoảng hai thước, cành rủ xuống bàn, lá thưa hoa dày mà đều chưa nở, dáng như con bướm khép cánh, đài hoa như râu bướm. Trên tiệc chỉ có tám món ăn mà thơm ngon lạ thường.

Kế Dư sai tiểu đồng đánh trống giục hoa làm tửu lệnh, tiếng trống vừa nổi lên thì những nụ hoa trong bình đều run rẩy như muốn rụng xuống. Giây lát cánh hoa như cánh bướm từ từ giương ra, kế đến tiếng trống cuối cùng ầm một tiếng, những đài hoa rơi cả xuống, hoa biến thành một con bướm bay sa vào lòng Doãn. Dư cười đứng dậy mời một chén lớn, Doãn vừa uống cạn thì con bướm cũng bay mất. Lúc sau trống lại nổi, hai con bướm bay xuống đậu trên mũ Dư. Dư cười nói "Kẻ làm luật lệ hóa ra lại tự phạt mình", rồi cũng uống hai chén lớn. Hổi trống thứ ba kết thúc thì hoa rụng tơi bời dính cả vào áo vào mũ hai người, đứa tiểu đồng đánh trống cười bước lên đếm, Doãn dược chín bông, Dư được bốn bông. Doãn đã say không thể uống hết, gượng uống ba chén rồi rời tiệc bước ra, vì thế càng lấy làm lạ về Dư.

Nhưng Dư tính ít giao du, thường đóng cửa ở nhà không đi lại với người chung quanh. Doãn gặp mọi người cứ kể vung lên, những kẻ nghe chuyện lạ tranh nhau tới xin gặp Dư, mũ lọng chen chúc ở cửa, Dư không chịu được, chợt tới từ giã chủ nhân. Dư đi rồi, Doãn vào nhà thấy sân trống quét dọn sạch sẽ không vương chút bụi, sáp đèn đọng lại vun đầy dưới thềm, những giấy dán cửa sổ bị rách vẫn còn dấu tay, duy sau nhà còn sót lại một cái vò bằng đá trắng chứa khoảng một thạch, trông rất khả ái.

Doãn cầm về đổ nước vào nuôi cá vàng, hơn một năm nước vẫn trong như mới đổ vào. Sau người đầy tớ dọn dẹp nhà cửa bưng đi lỡ tay làm mẻ, nước trong vò cũng không đổ ra, nhìn thì thấy mép vò vẫn còn nguyên mà sờ lên thì thấy trống không, đưa tay vào trong thì nước theo tay rẽ ra, rút tay ra thì nước lại hợp lại, mùa đông cũng không đóng băng. Một hôm nước trong vò chợt kết lại thành khối pha lê, cá bên trong vẫn bơi lội như cũ. Doãn sợ người ta biết mang để trong phòng kín, nếu không phải là trai gái dâu rể trong nhà thì không đưa ra cho xem.

Lâu ngày tin tức đồn rộng ra, những người đòi xem vật lạ tới chen chúc ở cổng. Một đêm tháng chạp chợt cái vò tan ra thành nước ướt đầm mặt đất, cá bên trong cũng cũng biến mất nhưng mảnh vò mẻ vẫn còn nguyên như cũ. Chợt có đạo sĩ tới xin, Doãn lấy đưa cho xem, đạo sĩ nói "Đây là vật chứa nước ở Long cung". Doãn kể chuyện lạ vò mẻ mà nước không chảy ra, đạo sĩ nói “Đó là hồn của cái vò" rồi nài nỉ xin một mảnh nhỏ. Doãn hỏi dùng làm gì, đạo sĩ đáp “Lấy đó chế thuốc uống thì có thể trường sinh". Doãn lấy cho một mảnh, đạo sĩ mừng rỡ cảm tạ ra về.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển VIII - 130 -
Phong Tam Nương
(Phong Tam Nương)

Nàng Mười một họ Phạm là con gái quan Tế tửu ở Lộc Thành, lúc nhỏ đã tuyệt đẹp lại rất phong nhã. Cha mẹ vô cùng yêu quý, có ai tới dạm hỏi đều cho tự chọn lựa nhưng nàng chưa ưng đám nào. Gặp tiết Thượng nguyên, các ni cô ở chùa Thủy Nguyệt mở hội Vu Lan, hôm ấy con gái quanh miền tới lễ bái rất đông, nàng cũng tới xem. Đang lúc dạo cảnh chùa thấy có một thiếu nữ theo sát, mấy lần nhìn nàng như muốn bắt chuyện, nhìn kỹ thấy là một thiếu nữ khoảng mười sáu tuổi, nhan sắc cực đẹp trong lòng rất ưa thích cứ nhìn chăm chăm. Thiếu nữ mỉm cười hỏi "Chị có phải là cô Mười một họ Phạm không?", nàng đáp phải. Cô gái nói "Nghe danh đã lâu, quả lời đồn không sai". Nàng Mười một cũng hỏi quê quán họ tên, thiếu nữ đáp "Thiếp họ Phong, bày vai thứ ba, ở thôn gần đây". Hai người cầm tay chuyện trò vui vẻ, yêu mến nhau không muốn rời. Nàng Mười một hỏi sao chỉ đi một mình, thiếu nữ đáp "Cha mẹ thiếp mất sớm, nhà chỉ có một bà vú già phải coi nhà không di cùng được”.

Nàng Mười một sắp về, Phong nhìn sững ứa nước mắt, nàng cũng buồn rầu, liền mời Tam nương ghé chơi. Phong nói "Nhà nương tử là nơi lầu son gác tía, thiếp lại vốn không phải là họ hàng, sợ sẽ bị chê cười". Nàng Mười một cố mời, Phong hẹn hôm khác, nàng rút một cành thoa vàng đưa tặng, Phong cũng lấy chiếc trâm biếc cài trên tóc đáp lễ. Nàng Mười một về nhà tưởng nhớ thiết tha, lấy chiếc trâm Phong tặng ra xem thì không phải vàng cũng không phải ngọc, người nhà đều không ai biết là thứ gì, rất lấy làm lạ. Hàng ngày cứ mong Phong tới chơi, buồn rầu phát bệnh. Cha mẹ hỏi biết chuyện, sai người dò hỏi khắp các thôn xóm quanh vùng nhưng không ai biết. Gặp tiết Trùng dương, nàng Mười một buồn bã, gọi tỳ nữ đỡ ra vườn, trải nệm dưới giậu cúc ngồi chơi, chợt có một cô gái trèo lên tường nhìn qua, nhìn lại thì là cô gái họ Phong. Cô gái gọi "Đỡ ta với” đứa tỳ nữ chạy ra đỡ, Phong nhảy luôn xuống. Nàng Mười một ngạc nhiên mừng rỡ, đúng phắt lên kéo Phong cùng ngồi xuống nệm, trách nàng lỗi hẹn rồi hỏi từ đâu tới đây? Phong đáp "Nhà thiếp cách đây xa lắm, thỉnh thoảng tới chơi nhà cậu, trước đây nói ở thôn gần đây là nói nhà cậu thôi. Từ lúc chia tay cũng nhớ nhung lắm, nhưng kẻ nghèo hèn giao du với người sang thì chưa lên tới cổng đã thấy hổ thẹn, sợ bị gia nhân trong nhà không vừa mắt nên ngần ngại không muốn tới.

Mới rồi đi ngang ngoài tường, nghe trong này có tiếng con gái liền trèo lên nhìn, cũng mong được gặp nương tử, giờ đã thỏa nguyện". Nàng Mười một kể lý do mình bị bệnh, Phong khóc như mưa, kế nói "Chuyện thiếp tới xin giữ kín cho, chứ để thiên hạ bàn tán này kia thì khó chịu lắm”. Nàng Mười một ưng thuận, kéo về phòng mình cùng ăn ngủ, đốc hết tâm sự. Dần dần khỏi bệnh, kết làm chị em với nhau, quần áo trang sức đều dùng chung, có ai tới thì Phong lánh mặt sau màn. Qua năm sáu tháng, Phạm công và phu nhân mới biết chuyện. Một hôm hai người đang đánh cờ thì phu nhân thình lình bước vào, vừa nhìn thấy Phong kinh ngạc nói "Thật xứng là bạn của con ta?", nhân nói với nàng Mười một "Trong khuê phòng có người bạn tốt thì là điều cha mẹ vui mừng, sao con không thưa sớm". Nàng Mười một bày tỏ ý Phong, phu nhân nhìn Phong nói "Tam nương làm bạn với con ta là điều ta rất vui, sap lại phải giấu diếm?". Phong đỏ bừng cả mặt, chỉ im lặng mân mê tà áo mà thôi. Phu nhân đi rồi, Phong bèn cáo biệt, nàng Mười một cố giữ lại mới thôi.

Một đêm chợt Phong hớt hải từ ngoài chạy vào, khóc nói "Ta đã nói rằng không thể ở lại nay quả nhiên gặp chuyện vô cùng nhục nhã này!". Nàng Mười một giật mình hỏi han, nàng đáp "Vừa rồi ra thay áo bị một thiếu niên chặn đường chọc ghẹo, may mà chạy thoát, như thế thì còn mặt mũi nào ở lại nữa?". Nàng Mười một hỏi kỹ vóc dáng mặt mũi rồi tạ lỗi, nói “Xin đừng trách, đó là ông anh ngốc nghếch của em, để em thưa với mẹ đánh đòn trị tội". Phong nhất định từ biệt, nàng Mười một xin đợi đến sáng, Phong nói "Nhà ông cậu sát ngay gần đây, chỉ xin cái thang cho ta trèo qua tường thôi mà". Nàng Mười một thấy không giữ lại được liền sai hai đứa tỳ nữ cùng trèo qua tường tiễn nàng đi, được nửa dặm thì Phong từ tạ, hai tỳ nữ trở về, nàng Mười một nằm phục xuống giường khóc lóc thảm sầu như mất bạn trăm năm vậy.

Vài tháng sau, đứa tỳ nữ có việc tới thôn bên, chiều tối trở về gặp Phong giữa đường, có bà già theo sau. Đứa tỳ nữ mừng rỡ chào hỏi, Phong cũng rầu rĩ hỏi thăm sức khỏe nàng Mười một, đứa tỳ nữ kéo áo Phong nói "Cô Ba ghé lại chơi đi, cô ta trông mong gần chết". Phong nói "Ta cũng nhớ muội tử, nhưng không muốn để người nhà biết, về cứ mở sẵn cửa vườn, ta sẽ tự tới". Đứa tỳ nữ về kể lại, nàng Mười một mừng quá theo lời ra vườn thì Phong đã vào tới rồi. Hai người gặp nhau cùng kể lể tình thương nhớ, rì rầm mãi không ngủ. Phong thấy đứa tỳ nữ đã ngủ say bèn trỗi dậy qua nằm chung với nàng Mười một, nói nhỏ "Thiếp vốn biết muội tử chưa hứa hôn, nhưng lấy tài sắc dòng dõi mà bàn thì lo gì em không lấy được người chồng danh giá. Nhưng đám công tử bột thì không đáng nói tới, nếu muốn có một người chồng xứng đáng thì xin đừng kén chọn giàu nghèo". Nàng Mười một cho là phải, Phong nói "Chỗ chùa chúng ta gặp nhau trước đây nay lại mở đạo trường, ngày mai chịu khó đi một chuyến, thiếp sẽ chỉ cho một người chồng như ý. Thiếp lúc nhỏ có đọc sách xem tướng, chắc chắn không sai đâu”.

Tảng sáng Phong đi trước, hẹn gặp nhau ở chùa, lúc nàng Mười một tới thì Phong đã có ở đó rồi. Hai người dạo quanh chùa một vòng, nàng Mười một mời Phong đi cùng xe về, dắt tay nhau ra cổng thì thấy một Tú tài khoảng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo vải không trang sức nhưng dung mạo anh tuấn. Phong bấm tay nàng Mười một nói "Người này có tài Hàn lâm đấy". Nàng Mười một liếc qua, Phong từ giã nói “Muội tử cứ về, ta sẽ tới ngay". Chiều tối quả nhiên Phong tới, nói "Ta đã dò hỏi rất rõ ràng, người ấy là Mạnh An Nhân ở cùng làng này". Nàng Mười một biết chàng nhà nghèo cho là không được, Phong nói "Sao muội tử cũng sa vào thói đời như thế “Người ấy mà nghèo hèn suốt đời thì ta xin khoét mắt không xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa". Nàng Mười một hỏi “Vậy thì làm thế nào?”, Phong đáp “xin đưa một vật cho ta cầm tới đính ước". Nàng Mười một nói "Sao chị lại dễ dàng thế? Cha mẹ em đều còn sống, nếu không chịu thì sao?", Phong đáp “Thì chính vì sợ hai vị không chịu nên mới làm thế mà thôi. Nếu em quyết ý, thì sống chết cũng làm sao ép uổng được”. Nàng Mười một cho là không nên, Phong nói “Cơ nhân duyên của nương tử đã phát động nhưng ma chướng chưa tiêu tan, hôm nay ta tới để báo đáp tình nghĩa lâu nay đấy. Xin từ giã ở đây, sẽ lấy cành thoa vàng được tặng trước đây giả mệnh em tặng chàng". Nàng Mười một đang còn định bàn lại, Phong đã bước ra đi luôn.

Lúc ấy Mạnh sinh nhà nghèo nhưng học giỏi, có ý kén vợ xứng đôi nên mười tám tuổi chưa hỏi cưới ai. Hôm ấy đi chơi chùa trông thấy hai người đẹp, về nhà cứ bồi hồi tơ tưởng, vừa hết canh một thì Phong Tam nương gõ cửa bước vào. Sinh khêu đèn nhìn mặt thì ra là một trong hai người đẹp mình trông thấy lúc sáng, mừng quá hỏi han. Phong nói "Thiếp họ Phong, chị em bạn của nương tử Mười một họ Phạm". Sinh thích lắm không buồn hỏi kỹ, sấn ngay tới ôm chầm lấy, Phong đẩy ra nói "Thiếp không phải như Mao Toại đem thân tự tiến mà là Tào Khâu đưa tin mai mối thôi. Nàng Mười một họ Phạm muốn kết nhân duyên nên nhờ ta làm mai mối đây". Sinh kinh ngạc không tin, Phong bèn đưa cành thoa vàng ra, sinh mừng quá thề “Làm phiền nàng vất vả lo toan cho như thế, ta mà không cưỡi được nàng Mười một thì xin ở vậy suốt đời”, phong bèn ra đi.

Sáng ra sinh nhờ bà già láng giềng tới nói với Phạm phu nhân, phu nhân chê sinh nghèo, cũng không hỏi ý con, từ chối lập tức. Nàng Mười một nghe thấy thất vọng lắm, rất oán Phong làm lỡ mình, nhưng thoa vàng khó mà đòi lại, chỉ còn cách thề chết giữ trọn lời nguyền. Mấy hôm sau có con trai vị quan Mỗ tới cầu hôn, còn sợ không được nên nhờ quan huyện đứng ra làm mối. Lúc ấy Mỗ đang giữ chức lớn, Phạm công có ý sợ bèn hỏi nàng Mười một, nàng tỏ vẻ không vui, mẹ gạn hỏi cũng không đáp, chỉ khóc sướt mướt. Kế sai người nói riêng với phu nhân rằng ngoài Mạnh sinh ra thì đến chết không lấy ai cả. Phạm công nghe thế càng tức giận, bèn hứa hôn với người con vị quan Mỗ, lại ngờ con gái tư tình với Mạnh sinh nên càng gấp rút chọn ngày tốt làm đám cưới cho mau. Nàng Mười một phẫn uất bỏ ăn, suốt ngày chỉ nằm trong phòng. Đến đêm trước ngày cưới chợt trỗi dậy soi gương trang điểm, phu nhân mừng thầm. Giây lát tỳ nữ chạy vội tới thưa tiểu thư đã thắt cổ tự tử, cả nhà kinh hãi than khóc nhưng hối hận không kịp nữa, ba ngày sau đem chôn cất.

Mạnh sinh từ khi bà già láng giềng về kể lại, phẫn hận muốn chết nhưng vẫn dò la tin tức, mong có dịp cứu vãn tình thế. Nghe tin Phạm công hứa gả nàng Mười một, lửa hận thiêu đốt ruột gan, muôn vàn ý nghĩ đều dứt bỏ. Không bao lâu nghe tin ngọc lấp hương chôn, vô cùng đau xót, hận không được chết cùng người đẹp. Chờ tối ra cửa, định nhân lúc đêm tối tới khóc mồ nàng Mười một một lần, chợt có một người đi tới, tới gần thì ra là Phong Tam nương. Phong nhìn sinh nói "Mừng cho chàng nhân duyên đã thành". Sinh rơi nước mắt hỏi "Nàng không biết nàng Mười một đã chết à?", Phong đáp "Sở dĩ ta nói đã thành chính là vì nàng đã chết đấy. Mau gọi gia nhân đào mồ lên, ta có thuốc lạ có thể cứu nàng sống lại". Sinh theo lời, liền đào mộ phá quan tài rồi lấp huyệt lại như cũ, tự cõng cái xác cùng Tam nương về.

Về tới nơi đặt nàng Mười một lên giường đổ thuốc cho, giây lát thì sống lại. Nàng thấy Tam nương liền hỏi đây là nơi nào, Phong chỉ vào sinh nói "Đây là Mạnh An Nhân", nhân kể lại mọi việc, nàng Mười một mới chợt như tỉnh mộng. Phong sợ việc tiết lộ, bèn đưa đi cách đó mười lăm dặm, ẩn náu ở một xóm núi. Phong định từ giã ra đi, cô khóc lóc giữ lại làm bạn với mình, để ở một gian riêng. Kế đem bán những vật trang sức chôn theo để sinh sống, cũng hơi dư dật. Phong mỗi khi thấy sinh tới là vội vàng lánh mặt, nàng Mười một thong thả nói "Chị em ta còn hơn cả ruột thịt, nhưng rốt lại cũng không thể sum họp suốt đời, tính lại chẳng bằng cứ bắt chước hai chị em Nữ Anh Nga Hoàng cùng lấy vua Thuấn". Phong nói “Thiếp lúc nhỏ học được thuật lạ, thở hít có thể trường sinh nên không muốn lấy chồng". Nàng Mười một cười nói "Những thuật trường sinh trên đời vẫn truyền tụng có tới hàng đống, nhưng đã có ai học theo mà được trường sinh?". Phong đáp “Cái thuật mà thiếp học được không phải như người đời vẫn biết. Thuật người đời vẫn truyền chẳng phải là chân truyền, chỉ có Ngũ cầm đồ của Hoa Đà* là đúng. Phàm hành giả luyện công ai cũng muốn khí huyết được lưu thông, nếu bị ngưng trệ vướng mắc mà làm theo tư thế con cọp thì hết ngay, không phải là hiệu nghiệm à?”

*Ngũ cầm đồ của Hoa Đà: Hậu Hán thư, Hoa Đà truyện chép Hoa Đà là bậc danh y, có một cách tập luyện thân thể tên là "Ngũ cầm chi hý" mô phỏng tư thế, động tác của năm giống vật là cọp, hươu, gấu, vượn, chim. Ngũ cầm đồ đây có lẽ chỉ các bức vẽ hướng dẫn về cách tập luyện nói trên.

Nàng Mười một ngầm bàn mưu với sinh, bảo sinh giả có việc đi xa, đến đêm cố ép Phong uống rượu thật say cho sinh vào làm bừa. Tam nương tỉnh dậy nói "Muội tử hại ta rồi. Nếu không phá sắc giới mà tu luyện thành đạo thì có thể lên tới tầng trời thứ nhất. Nay vướng vào mưu gian, cũng là mệnh vậy”. Bèn đứng dậy từ giã, nàng Mười một bày tỏ lòng thành, năn nỉ xin tha lỗi. Phong nói “Nói thật ta là hồ, vì thấy em xinh đẹp chợt nảy lòng yêu mến, như con tằm nhả kén tự buộc lấy mình mới có chuyện ngày hôm nay. Đó là vì tình nghiệt chứ không phải sức người, còn ở lại đây thì ma chướng càng sâu, không biết tới đâu là hết. Nương tử phúc trạch còn nhiều, xin tự bảo trọng".

Dứt lời thì biến mất, vợ chồng kinh ngạc than thở hồi lâu. Qua năm sau sinh đỗ cả thi hương lẫn thi hội, làm quan tới chức Hàn lâm, đưa danh thiếp tới yết kiến Phạm công, Phạm công thẹn thùng hối hận không chịu tiếp, sinh năn nỉ mãi mới ra gặp Sinh vào lạy chào theo lễ con rể rất cung kính, Phạm công nổi giận ngờ là sinh chế nhạo. Sinh xin nói chuyện riêng rồi kể hết mọi việc, Phạm công chưa tin lắm, sai người tới nhà sinh xem mới kinh ngạc vui mừng nhưng ngầm dặn người nhà giữ kín đừng nói rộng ra vì sợ có tai biến. Hai năm sau, vị quan Mỗ phạm tội bị phát giác, cha con đều bị sung quân ở Liêu Hải, nàng Mười một mới về thăm cha mẹ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 131 - 132 -
Giấc Mộng Hồ
(Hồ Mộng)

Tất Di Am bạn ta tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm Thứ sử, nghỉ ngơi trên lầu, nghe đồn trong lầu có nhiều hồ. Tất mỗi khi đọc truyện Thanh Phượng* thường tỏ lòng hâm mộ, hận không được một lần gặp gỡ. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Tất giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói "Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm lòng mà tới". Tất nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói "Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới", dứt lời ra đi.

*Truyện Thanh Phượng: xem truyện Thanh Phượng, quyển I.

Tối hôm sau Tất đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái "Tất lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy". Tất kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói "Chàng béo vừa nặng vừa ngốc, làm người ta không sao chịu nổi”. Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói "Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi". Tất hỏi ở đâu, nàng đáp "Chị cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa". Đêm sau Tất ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái bước vào nói "Làm phiền chàng phải đợi lâu”, rồi cầm tay Tất dẫn đi.

Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, thấy tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng mới. Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo "Cô Hai tới”, kế thấy một nữ lang vào, khoảng mười tám mười chín tuổi, nhìn cô gái cười nói "Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không”. Cô gái cầm quạt đập vào lưng chị, trợn mắt nhìn, nàng Hai nói "Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra, kế giận ta, nói sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt, ta nói con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế". Nàng Cả cười nói "Chẳng trách dì Ba lại giận dỗi, rể mới đang ở đây mà ăn nói bừa bãi như thế”.

Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Chợt một cô gái nhỏ bế một con mèo tới, khoảng mười một mười hai tuổi, tóc còn chưa kết bím nhưng cốt cách đã lộ vẻ xinh đẹp. Nàng Cả nói “Em Tư cũng muốn xem mặt anh rể à? Nhưng ở đây hết chỗ rồi”, rồi bế cô nhỏ đặt ngồi lên đùi lấy bánh trái cho ăn. Lát sau lại bế đặt vào lòng nàng Hai, nói "Nó đè lên đùi ta nặng quá". Nàng Hai nói "Con nhãi to xác nặng hàng trăm cân, ta ốm yếu làm sao chịu nổi. Đã muốn xem mặt anh rể, thì anh rể vốn to lớn, đùi to dễ ngồi lắm", rồi bế xốc em đặt vào lòng Tất, Tất thấy người cô nhỏ thơm tho mềm mại mà nhẹ như không, bèn ôm lấy cho uống rượu cùng chén với mình. Nàng Cả nói “Con nhãi đừng quá chén, say rồi thất thố thì anh rể cười cho đấy!". Cô nhỏ nhoẻn miệng cười, lấy tay chọc mèo cho nó kêu lên. Nàng Cả nói "Còn không vứt đi, cứ ôm lấy nó cho lây bọ chét". Nàng Hai nói "Xin lấy con mèo làm tửu lệnh, mọi người cứ cầm đũa chuyền cho nhau, tới ai mà mèo kêu thì người ấy phải uống", mọi người theo lời. Cứ đũa tới tay Tất là mèo lại kêu, Tất vốn uống rượu rất hào, uống liền mấy chén lớn mới biết cứ đũa tới mình là cô nhỏ lại véo mèo cho kêu lên.

Mọi người cười ầm, nàng Hai nói "Thôi em đi ngủ đi, ngồi tê cả chân ông anh, không khéo chị Ba lại phiền", cô gái nhỏ bèn bế mèo đi ra. Nàng Cả thấy Tất tửu lượng cao liền gỡ cái độn tóc rót rượu mời, Tất nhìn thấy cái độn chỉ khoảng một thăng nhưng khi uống thì thấy rượu nhiều như mấy đấu, uống cạn nhìn lại thì hóa ra là tàu lá sen. Nàng Hai cũng muốn mời, Tất chối từ nói không uống nổi nữa, nàng bèn lấy ra cái hộp đựng nhẫn nhỏ như viên đạn rót rượu vào nói "Nếu không uống được nhiều thì xin uống một chút cho ta vui". Tất nhìn thấy nghĩ chỉ một hớp là hết, nhưng uống liên tiếp hàng trăm hớp vẫn không cạn. Cô gái ngồi cạnh bèn lấy cái chén hạt sen thay cái hộp đựng nhẫn, nói "Đừng để kẻ gian lừa gạt”, đặt cái hộp lên bàn thì là một cái tô lớn. Nàng Hai nói "Việc gì đến ngươi? Vợ chồng mới ba ngày mà yêu thương đến thế kia à?". Tất cầm lấy cái chén đua lên miệng dốc cạn, chợt thấy vật trong tay mềm mềm, nhìn kỹ thì không phải là chén mà là một chiếc giày thêu, đường kim mũi chỉ cục kỳ khéo léo. Nàng Hai vội giật lấy, mắng "Con nhãi đánh cắp giày người ta lúc nào thế? Chẳng trách gì chân ta cứ lạnh toát”, rồi đứng dậy vào nhà trong thay giày. Cô gái mời rượu khắp lượt rồi đứng lên từ biệt, tiễn Tất ra tới ngoài thôn, bảo cứ về một mình. Tất chợt tỉnh thì ra là giấc mộng, nhưng thấy trong miệng vẫn còn mùi rượu thơm phức, lấy làm lạ lùng.

Đến tối cô gái tới, nói “Đêm qua say rượu chưa chết à?" Tất nói vẫn đang ngờ là giấc mộng. Nàng nói "Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!". Cô gái cùng Tất đánh cờ, Tất thường thua, nàng cười nói "Chàng hàng ngày vẫn nghiện môn này, thiếp cứ nghĩ là giỏi lắm, nay xem ra cũng chỉ thường thường vậy thôi". Tất xin chỉ dạy cho, cô gái nói "Thuật chơi cờ là do người chơi tự lĩnh hội mà ngộ, thiếp làm sao giúp chàng được cứ mỗi ngày nghiền ngẫm thêm một ít thì may ra có thể khá lên". Qua vài tháng, Tất thấy đánh cờ hơi lên tay, cô gái đánh thử rồi cười nói "Còn chưa được, còn chưa được?". Tất ra ngoài chơi với các bạn cờ thì ai cũng thấy giỏi hơn hẳn, có người lấy làm lạ. Tất vốn tính ngay thẳng thành thật không quen giấu diếm bèn nói lộ ra, cô gái biết ngay, trách "Chẳng lạ gì bạn bè không chơi với gã cuồng sinh, đã dặn đi dặn lại là phải kín miệng, sao chàng còn làm như thế rồi giận dỗi bỏ đi. Tất xin lỗi mãi nàng mới hơi nguôi, nhưng từ đó tới ngủ lại thưa hơn trước.

Được hơn một năm, một đêm nàng tới ngồi im nhìn Tất, rủ đánh cờ thì không đánh, bảo đi ngủ cũng không ôi, buồn rầu hồi lâu rồi nói "Chàng xem thiếp với Thanh Phượng ai hơn?", Tất đáp "Nàng hơn nhiều chứ!". Cô gái nói "Thiếp tự thẹn là không bằng, nhưng ông Liêu Trai là bạn văn chương với chàng, nhờ chàng phiền ông viết cho một thiên tiểu truyện, chưa chắc sau ngàn năm đã không có người mong mỏi như chàng". Tất nói "Ta vốn có ý ấy, nhưng vì nhớ lời nàng dặn nên còn giữ kín". Cô gái nói "Đúng là trước kia thiếp có dặn thế thật, nhưng nay đã sắp chia tay, còn e ngại gì nữa". Tất hỏi đi đâu, nàng đáp “Thiếp và em Tư được Tây Vương Mẫu triệu làm Hoa điểu sứ, không thể tới đây được nữa". Tất xin dặn dò vài lời, nàng nói "Bỏ tức giận thì bớt lỗi lầm", rồi đứng lên cầm tay Tất nói “Chàng tiễn thiếp một đoạn”. Đi khoảng một dặm thì nhỏ lệ chia tay, nàng nói "Hai ta có lòng, biết đâu sẽ có ngày gặp lại", rồi đi.

Ngày mười chín tháng chạp năm Khang Hy thứ 21 (1682), ông Tất cùng ta nằm gác chân lên nhau trò chuyện ở Xước Nhiên Đường, kể lại tỉ mỉ chuyện lạ này. Ta nói "Có hồ như thế thì bút mục Liêu Trai cũng được vẻ vang", bèn ghi chép lại.










132. Chương A Đoan



(Chương A Đoan)






Thích sinh người huyện Vệ Huy (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ đã chín thắn, gan dạ dám nhận việc lớn. Lúc ấy có nhà đại tộc có tòa phủ đệ, giữa ban ngày thấy ma hiện hình, người nhà nối nhau chết nên xin bán rẻ. Sinh thấy rẽ bèn mua để ở, nhưng nhà rộng mà người ít, những lầu gác ở phía đông cỏ mọc như rừng, đành tạm bỏ hoang, tôi tớ cứ đêm đêm la hoảng, kêu là có ma. Hơn hai tháng thì một người tỳ nữ chết, không bao lâu thì vợ sinh đang lúc chiều tối tới khu lầu gác hoang phế, về phát bệnh vài hôm cũng chết. Gia nhân càng sợ khuyên dời đi chỗ khác, sinh không nghe, nhưng góa vợ trơ trọi một mình, trong lòng đã buồn rầu, bọn tôi tớ lại cứ đem những chuyện quái lạ trong nhà ra nói. Sinh nóỉ giận hầm hầm mang chăn gối ra ngủ một mình trong ngôi đình bỏ hoang, để đèn chờ xem sự lạ nhưng hồi lâu không thấy gì, dần dần thiếp đi.



Bỗng có người thò tay vào chăn sờ soạng vuốt ve, sinh tỉnh dậy nhìn thì là một người tỳ nữ già mặt mày nhăn nheo đầu tóc rối bù trông rất ghê tởm. Sinh biết là ma, nắm cánh tay đẩy ra cười nói "Tôn giá thì ta không thể vâng mệnh". Bà ta hổ thẹn rút tay lại, thất thểu bỏ đi. Giây lát một nữ lang từ phía tây bắc đi ra, dáng dấp xinh đẹp, sấn tới trước đèn giận dữ mắng gã học trò ngông ở đâu dám tới đây nằm, sinh trỗi dậy cười nói "Tiểu sinh là chủ nhà này, đợi nàng để đòi tiền phòng thôi", rồi vùng dậy trần truồng đuổi bắt. Cô gái vội bỏ chạy, sinh chạy tới phía tây bắc trước chặn đường, nàng cùng đường ngồi luôn xuống giường. Sinh tới gần, dưới ánh đèn thấy nàng đẹp như tiên bèn ôm vào lòng. Cô gái cười nói "Gã học trò ngông không sợ ma ư? Ta sẽ vật chết đấy". Sinh cởi tuột áo quần ra, nàng cũng không chống cự lắm, xong rồi bèn nói “Thiếp họ Chương tên A Đoan, lấy phải thằng chồng lêu lổng, tính hung ác bất nhân cứ chửi mắng đánh đập nên phẫn uất chết yểu, chôn ở đây hơn hai mươi năm rồi. Dưới nền nhà này toàn là mồ mả".




Sinh hỏi người tỳ nữ già là ai, nàng đáp “Cũng là một con ma cũ ở đây, hầu hạ cho thiếp. Có người sống ở bên trên thì ma quỷ bên dưới không yên nên mới rồi sai mụ ra đuổi chàng đi”. Sinh hỏi mụ sờ soạng để làm gì, nàng cười đáp "Mụ ta đã ba mươi năm nay chưa được gần gũi đàn ông, kể cũng đáng thương, nhưng thật không tự biết xét mình. Đại khái ai yếu bóng vía thì ma càng quấy phá, ai cứng cỏi thì ma không dám xúc phạm". Nghe chuông chùa xóm bên dứt tiếng, nàng mặc quần áo bước xuống giường nói "Nếu chàng không nghi ngờ, thì đêm thiếp sẽ lại tới". Trời tối, quả thật nàng lại tới, cùng nhau mây mưa rất hoan lạc. Sinh nói “Vợ ta chẳng may qua đời, ta thương xót không khuây, nàng có thể đưa giúp về đây được không?". Cô gái nghe thế càng thêm ngậm ngùi, nói "Thiếp chết hai mươi năm mà không có ai nghĩ nhớ tới một lần, chàng quả là người đa tình, thiếp xin cố hết sức. Nhưng nghe nói nương tử đã có chỗ đầu thai rồi, không biết còn ở dưới âm ty không”.




Qua đêm sau nàng nói với sinh rằng "Nương tử sắp được đầu thai vào nhà giàu sang nhưng vì lúc còn sống vì mất đôi hoa tai mà đánh đập đứa tỳ nữ khiến nó treo cổ tự tử, còn kiện tụng chưa xong nên chưa đi, nay đang tạm ở lại chỗ Dược Vương, có người canh giữ. Thiếp sai mụ tỳ nữ đi lo lót, có khi sắp về tới". Sinh hỏi sao nàng lại được thong thả, cô gái đáp “phàm ma quỷ chết oan nếu không tự tới khai báo thì Diêm Vương không sao biết được". Vừa hết canh hai thì người tỳ nữ già đưa vợ sinh về, sinh nắm tay vợ đau xót khóc lóc, vợ cũng rơi lệ không nói được gì. Cô gái từ giã, nói "Hai người cứ nói chuyện với nhau, đêm khác sẽ gặp lại". Sinh an ủi hỏi thăm việc đứa tỳ nữ tự tử, vợ đáp "Không hề gì, đã xử xong rồi", rồi lên giường ôm ấp yêu đương như lúc còn sống, từ đó lại ăn ở với nhau như thường. Năm ngày sau, vợ sinh chợt khóc nói "Ngày mai thiếp phải đi Sơn Đông, đến lúc vĩnh quyết rồi, biết làm thế nào?”. Sinh nghe nói rơi lệ sụt sùi, vô cùng đau đớn. Cô gái khuyên nói "Thiếp có một cách có thể giúp hai người tạm thời sum họp". Hai người cùng gạt lệ hỏi cách gì, nàng xin lấy mười xấp giấy tiền đem đốt ở dưới gốc cây hạnh trước gian nhà phía nam để hối lộ với người áp giải đi đầu thai xin hoãn lại ít lâu.




Sinh theo lời, đến tối thì vợ về nói “May nhờ có Đoan nương nên nay được sum vầy thêm mười hôm", sinh mừng rỡ không cho Đoan về mà giữ lại cùng nằm chung giường từ đêm đến sáng, chỉ sợ cuộc vui chóng tàn. Qua bảy tám ngày, thấy kỳ hạn sắp hết, vợ chồng khóc lóc suốt đêm, hỏi cô gái có kế gì không. Nàng nói "Tình thế này khó mà làm như lần trước, nhưng muốn thử thì không có trăm vạn không được”, sinh bèn đốt đủ số. Hôm sau cô gái tới mừng rỡ nói "Thiếp nhờ người nói với kẻ áp giải, lúc đầu y ra vẻ khó khăn, đến khi thấy có nhiều tiền mới xiêu lòng, giờ đã lấy con ma khác đi đầu thai thay nương tử rồi". Từ đó ban ngày cũng không về, bảo sinh đóng kín cửa, thắp đèn không lúc nào tắt. Cứ thế hơn một năm, chợt cô gái mắc bệnh, thẫn thờ buồn bã, hoảng hốt như thấy ma. Vợ sinh vỗ về nàng, nói "Đây là bệnh ma làm", sinh hỏi "Đoan nương đã là ma rồi, lại còn ma nào làm cho bệnh nữa?". Vợ sinh đáp, "Không phải, người chết thành ma, ma chết thành mị, ma sợ mị cũng như người sợ ma vậy”.




Sinh muốn mời thầy cúng, vợ nói "Bệnh của ma thì làm sao người chữa được? Bà Vương ở thôn bên đang làm thầy cúng dưới âm ty, có thể gọi tới. Nhưng từ đây tới đó đường xa mười dặm, mà thiếp chân yếu không đi bộ được, xin chàng đốt cho con ngựa giấy”. Sinh theo lời, ngựa giấy vừa cháy tàn thì tỳ nữ dắt con ngựa lông đỏ tới trước sân đưa dây cương cho vợ sinh, trong chớp mắt biến mất. Giây lát cùng một bà già cưỡi chung ngựa tới, buộc vào cột hiên. Bà già vào ngồi xuống, lắc lư lên đồng, ngã lăn xuống đất một lúc rồi bò dậy nói "Ta là Hắc Sơn đại vương đây, nương tử đây bệnh nặng lắm, may mà gặp tiểu thần, phúc trạch không kém đâu. Bệnh này là bị ma làm nhưng không sao không sao, muốn khỏi phải cúng ta thật hậu, vàng trăm nén, tiền trăm quan, cỗ bàn một tiệc, không được thiếu món nào", vợ sinh răm rắp vâng dạ.
Bà ta lại ngã xuống đất rồi tỉnh lại, nhìn vào người bệnh quát tháo rồi thôi. Kế xin về, vợ sinh tiễn ra tới sân, tặng luôn cho con ngựa, bà ta vui vẻ ra về. Vào nhìn thấy cô gái như hơi tỉnh táo, vợ chồng cả mừng vỗ về hỏi han, nàng chợt nói "Thiếp sợ không trở về nhân gian được nữa, cứ nhắm mắt là thấy oan quỷ hiện ra, cũng là số mệnh vậy", rồi khóc sướt mướt. Qua đêm sau bệnh nàng càng nặng, co quắp run rẩy như thấy vật gì, cứ kéo sinh lên nằm chung, rúc đầu vào lòng sinh như sợ bị bắt đi, sinh đứng lên đi đâu thì kinh hoảng kêu la, cứ thế luôn sáu bảy ngày, vợ chồng không biết tính sao. Gặp hôm sinh đi vắng nửa ngày mới về, nghe tiếng vợ khóc hoảng hốt vào hỏi thì Đoan nương đã chết trên giường, xác vẫn còn đó. Sinh giở chăn nhìn thấy xương trắng phau phau, thương xót gào khóc, đem tống táng như người, chôn cạnh mồ mả ông bà. Một đêm vợ sinh nằm mơ khóc thổn thức, sinh lay gọi hỏi chuyện gì thì đáp "Vừa rồi mộng thấy Đoan nương tới nói chồng nàng làm mị giận nàng chết rồi mà không giữ tiết nên tới đòi mạng, xin lập đạo tràng siêu độ cho”. Sinh đậy sớm định làm theo lời, vợ ngăn lại nói "Việc siêu độ cho ma chết thì chàng không làm được đâu”, rồi trở dậy đi, giây lát trở về nói "Ta đã sai người đi mời sư, phải đốt tiền trước cho họ làm lộ phí".




Sinh theo lời, mặt trời vừa lặn thì tăng chúng kéo cả tới, trống chiêng nạo bạt đều giống hệt như ở trần gian, vợ cứ nói ồn ào điếc cả tai nhưng sinh không nghe thấy gì cả. Cúng xong, vợ sinh lại nằm mơ thấy Đoan nương về tạ ơn, nói “Thù oán đã rửa sạch rồi, sắp đi thác sinh làm con gái Thành hoàng, nhờ nói lại cho chàng Thích biết”. Vợ sinh về nhà ba năm, gia nhân lúc đầu nghe biết rất sợ, lâu ngày dần quen, sinh đi đâu vắng thì đứng ngoài cửa sổ thưa bẩm việc nhà. Một đêm, nàng nhìn sinh khóc nói "Người lính áp giải vong hồn đi đầu thai trước đây đã để lộ việc man trá, nay âm ty lùng bắt thiếp rất gấp, e không thể sum họp lâu nữa". Mấy hôm sau quả nhiên bị bệnh, nói "Vì nặng tình chàng nên chỉ muốn chết mãi chứ không thích được thác sinh, nhưng nay sắp phải vĩnh biệt, chắc cũng là số chăng?". Sinh lo sợ hỏi có cách nào thoát không, nàng nói “Chuyện này thì không có cách gì đâu”. Sinh hỏi liệu có bị trừng phạt gì không, vợ đáp “Cũng bị trừng phạt qua loa, tham sống mới là tội to chứ tham chết chỉ là tội nhỏ". Nói xong nằm yên không động đậy, nhìn kỹ thì dung mạo thân thể dần dần biến mất. Sinh cứ ra ngủ một mình trong đình để chờ có ngày gặp lại, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm, từ đó gia nhân ở yên.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 133 -
Nàng Hoa Cô
(Hoa Cô Tử)

An Ấu Dư là Bạt cống ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), tính phung phí hay làm việc nghĩa, lại thích phóng sinh, thấy ai săn được chim muông là bỏ nhiều tiền mua rồi thả ra. Gặp lúc nhà ông cậu có tang, sinh tới giúp việc đưa đám, chiều tối trở về qua núi Hoa Nhạc, bị lạc đường trong núi, trong lòng lo sợ, chợt thấy cách khoảng một tầm tên có ánh đèn lửa bèn rảo bước tới. Được mấy bước bỗng thấy một ông già lưng còng kéo lê gậy, cắt đường đi mau tới. An dừng bước định hỏi thăm thì ông già đã hỏi trước là ai. An thưa chuyện mình lạc đường, lại nói chỗ có đèn lửa chắc là xóm núi, định tới ngủ nhờ. Ông già nói "Đó không phải là nơi yên ổn, may mà lão phu tới đây, cứ theo lão về, nhà tranh cũng có chỗ nghỉ ngơi”.

An cả mừng đi theo, khoảng một dặm thì tới một xóm nhỏ. Ông già gõ phên cửa, một bà già ra mở cửa hỏi “Ông đã về đấy à?", ông già đáp "Phải”. An vào thấy nhà thấp nhỏ thật hẹp, ông già khêu đèn giục ngồi rồi bảo bà già có gì ăn thì đem lên mời khách, lại nói "Đây không phải ai khác mà là ân nhân của ta đấy. Bà đi lại khó khăn, cứ gọi Hoa Cô dọn rượu”. Lát sau một cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm. An nhìn lại thấy mặt hoa da phấn, xinh đẹp như tiên. Ông già ngoảnh lại sai hâm rượu, trong gian phòng phía tây có lò than, cô gái bước vào nhóm lửa. An hỏi lão truựng là ai, ông già đáp "Lão phu họ Chương, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó, trong nhà ít tôi tớ, vì ông không phải là người lạ nên mới dám gọi vợ con ra bái kiến, xin đừng chê cười!". An hỏi “Nhà con rể lão trượng ở đâu?", ông già đáp còn chưa có ai.

An luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp lại chợt nghe cô gái la hoảng, chạy vào thì là rượu sôi trào ra bốc cháy. Ông già dập tắt xong, mắng “Con nhãi lớn rồi mà rượu sôi không biết à?”. Nhìn thấy cạnh lò có hình nữ thần Tử Cô bằng ruột cây quỳ còn bện chưa xong lại mắng "Tóc bồng bồng như thế mà còn như trẻ con". Bèn cầm lên cho An xem, nói "Nó tham làm cái này để kiếm ăn nên để rượu sôi trào ra, được bậc quân tử quá khen, há chẳng thẹn chết sao?". An ngắm kỹ thấy mắt mày xiêm áo làm rất khéo léo bèn khen rằng "Tuy giống như trò chơi của trẻ con nhưng cũng đủ thấy là rất sáng dạ". Chuốc chén hồi lâu, cô gái mấy lần ra rót rượu, nhoẻn miệng tươi cười không hề có vẻ ngượng nghịu. An chăm chú nhìn, thấy lòng xao xuyến. Chợt nghe tiếng bà già gọi, ông già đi vào, An thấy không có ai bèn nói với cô gái "Nhìn thấy dung mạo người tiên làm ta điên đảo, muốn nhờ mối lái dạm hỏi mà sợ không được, ý nàng thế nào?".

Cô gái cầm bầu rượu tới cạnh lò, im lặng như không nghe thấy, hỏi mấy lần không đáp, sinh bèn bước vào phòng. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói "Chàng cuồng vào phòng định làm gì?". An quỳ rạp nài nỉ, nàng đi mau tới cửa định chạy ra, An đứng bật dậy chặn đường, ôm lấy nàng hôn hít. Cô gái run rẩy kêu lên, ông già vội chạy vào, An buông tay bước ra, vô cùng thẹn thùng sợ sệt. Cô gái thong thả nói với cha "Rượu lại sôi trào, không có chàng đây chạy vào thì cả cái bầu cũng cháy luôn rồi". An nghe thế mới yên lòng, càng biết ơn nàng, thần hồn điên đảo bỏ luôn ý định mới rồi. Rồi đó giả say rời bàn, cô gái cũng bước ra, ông già trải chăn đệm xong đóng cửa đi. An không ngủ được, chưa sáng đã gọi ông già dậy chào về.

Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. An bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Chương. An thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi nàng Hoa Cô. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Hoa Cô Tử đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt.

Cô gái nghiêng đầu cười nói "Chú nhỏ ngây sao lại tới nông nỗi này?”, rồi lên giường ngồi trên đùi An, lấy hai tay day huyệt thái dương. An thấy có mùi xạ hương thơm ngát xộc vào mũi thấm tận xương. Nàng day một lúc An chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế. Nàng nói nhỏ "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh bao đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm An ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa.

Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói "Chàng ngây không tạ ơn bà lang à?". An mừng quá ôm lấy nàng cùng giao hoan, ân ái hết mực. Kế cô gái nói "Thiếp mạo hiểm chịu tiếng xấu chỉ vì báo đáp ơn lớn chứ thật không thể chung sống với nhau mãi mãi, xin chàng sớm liệu chia tay". An im lặng hồi lâu rồi hỏi "Vốn bình sinh đã quen biết gia đình nàng ở đâu, quả thật không nhớ". Cô gái không đáp, chỉ nói "Chàng tự nghĩ thì biết". Sinh nài nĩ xin được gàn bó dài lâu, nàng nói “Đêm nào cũng lén tới thì không xong, mà lấy nhau như vợ chồng cũng không được ". An nghe nói vô cùng buồn bã, cô gái bèn nói "Nếu muốn cưới nhau, đêm mai xin mời chàng tới nhà thiếp". An bèn đổi buồn làm vui, hỏi "Đường sá xa xôi, chân nàng nhỏ bé làm sao tới đây được?", cô gái đáp "Thiếp vốn chưa về nhà, bà điếc bên láng giềng là hàng dì của thiếp, vì việc chàng mà nấn ná đến nay, sợ ở nhà lo lắng”. An cùng nàng ngủ chung, chỉ thấy hơi thở da thít đều thơm ngát bèn hỏi "Nàng xông loại hương gì mà thấm cả vào da thịt thế?”, cô gái đáp “Thiếp sinh ra đã thế, không phải do xông hương đâu”, An càng lấy làm lạ.

Sáng ra nàng dậy từ biệt, An sợ lạc đường, nàng hẹn sẽ chờ trên dường. Chiều tối An phóng ngựa đi, quả thấy cô gái đứng chờ, đưa tới chỗ cũ. Hai ông bà vui vẻ đón tiếp, cơm rượu không có món nào ngon, có cả những thứ rau tạp. Kế mời khách đi nghỉ, cô gái không nhìn ngó gì tới, An càng nghi ngại. Mãi đến khuya nàng mới tới nói "Cha mẹ cứ rì rầm không ngủ khiến chàng phải chờ lâu," Hai người quấn quít cả đêm, nàng nói với An "Gặp mặt đêm nay rồi xa nhau trăm năm đấy". An ngạc nhiên hỏi, nàng đáp "Cha thấy xóm nhỏ này lẻ loi vắng vẻ nên sắp dời nhà đi xa, gặp gỡ chàng đêm nay nữa là thôi". An không nỡ buông nàng ra, ngẩng lên cúi xuống than thở, đang còn lưu luyến thì trời sáng dần, chợt ông già sấn vào mắng "Con nhãi làm nhơ nhuốc gia phong khiến ta nhục nhã muốn chết!". Cô gái tái mặt vội vàng chạy mất, ông già cũng bước ra, vừa đi vừa mắng. An sợ hãi quýnh quáng, không biết làm sao đành lẻn ra trốn về.

Mấy ngày bồi hồi, trong lòng bứt rứt không yên, nhân nghĩ đến đêm lần tới trèo tường vào xem sao, ông già đã nói ta có ơn với họ thì dù việc lộ ra chắc cũng không trách móc nặng lời. Bèn nhân đêm tối lẻn tới, lần mò trong núi, lạc lối không biết đi đường nào, sợ quá đang tìm lối về thì thấy trong hốc núi thấp thoáng có nhà cửa. Mừng rỡ đi tới thấy tường cao cổng rộng như nhà thế gia, mấy lớp cổng còn chưa đóng. Hỏi thăm nhà họ Chương thì có một người tỳ nữ ra hỏi là ai mà đang đêm hỏi thăm nhà họ Chương, An đáp "Đó là người quen với ta, ngẫu nhiên quên mất nhà". Người tỳ nữ nói "Chàng trai không phải hỏi họ Chương nữa, đây là nhà mợ nàng, Hoa Cô hiện đang ở đây, để ta vào báo". Trở vào không bao lâu thì quay ra mời An vào, vừa vào tới hành lang thì Hoa Cô đã rảo bước ra đón, nói với người tỳ nữ "Chàng An lặn lội đến nửa đêm chắc đã mệt lắm, mau sửa soạn chỗ ngủ đi!".

Lát sau dắt tay An vào màn, An hỏi sao trong nhà không có ai khác, cô gái đáp "Mợ đi vắng, để thiếp ở lại trông nhà, may được gặp chàng, há không phải là duyên số ư?", nhưng trong lúc dựa kề An lại thấy rất hôi tanh, trong lòng ngờ có điều lạ. Cô gái ôm cổ An, thè lưỡi liếm vào lỗ mũi, thấy như mũi kim đâm đau thấu tận óc. An sợ quá vội vàng giãy giụa nhưng thân thể như bị thùng lớn trói chặt, giây lát ngất đi không biết gì nữa. An không về, người nhà tìm kiếm khắp nơi, có người nói chiều tối gặp An trên đường núi. Người nhà vào núi tìm thì thấy An trần truồng nằm chết dưới vách đá cao ngất, khiếp hãi lạ lùng không hiểu vì sao. Cáng về tới nhà, cả nhà đang xúm lại than khóc thì có một nữ lang tới viếng, từ ngoài cổng gào khóc đi vào, vỗ thây day mũi An, nước mắt ròng ròng kêu lớn "Trời ơi, trời ơi, sao mà ngu dại như thế”, gào khóc khản cả tiếng lát sau mới nín, nói với người nhà "Xin để đó bảy ngày đừng liệm". Mọi người không biết là ai, toan hỏi thì cô gái không buồn chào hỏi, nuốt nước mắt đi thẳng ra, mời giữ cũng không ngoảnh lại. Đi theo thì trong chớp mắt đã biến mất, mọi người ngờ là thần bèn kính cẩn vâng lời.

Đêm nàng lại tới khóc như hôm trước, qua bảy đêm chợt An tỉnh lại trở mình rên rỉ, người nhà đều kinh hãi. Cô gái bước vào nhìn nhau nghẹn ngào, An giơ tay xua mọi người lui ra. Cô gái lấy ra một bó cỏ, nấu với một đấu nước cho uống ngay trên giường. Giây lát An nói được, thở dài nói "Giết ta lần nữa là nàng mà cứu ta lần nữa cũng là nàng", nhân kể lại những việc đã gặp. Cô gái nói "Đó là con tinh rắn giả làm thiếp, trước đây chàng lạc đường lần đầu nhìn thấy ánh đèn chính là nó đấy". An hỏi "Nàng có thể làm cho người chết sống lại, xương khô mọc thịt như thế, không phải là tiên sao?”. Cô gái đáp "Đã định nói ra từ lâu nhưng sợ chàng sợ hãi. Năm năm về trước chàng đi trong núi Hoa Sơn có mua con chương người ta săn được rồi thả ra phải không?”. An đáp "Đúng là có việc ấy". Nàng nói "Con chương ấy chính là cha thiếp, trước đây thiếp nói chàng có ơn lớn chính vì cớ đó. Hôm trước chàng đã đầu thai vào nhà Chủ chính họ Vương ở thôn Tây, thiếp cùng cha kiện với Diêm Vương nhưng Diêm Vương không nghe. Cha thiếp xin hủy đạo chết thay chàng, năn nỉ bảy ngày mới xong. Nay được gặp nhau là may mắn lắm, nhưng chàng tuy sống vẫn bị bại liệt, phải lấy được máu rắn ấy hòa với rượu mà uống thì mới khỏi”. Sinh căm hờn nghiến răng nhưng lo không có phép gì bắt được. Cô gái nói "Chuyện ấy không khó, nhưng giết nhiều sinh linh sẽ làm lụy cho thiếp trăm năm không được lên tiên thôi. Hang của nó ở sườn núi cũ, cứ chờ lúc sắp trưa chất cỏ mà đốt, bên ngoài chuẩn bị cung cứng thì sẽ bắt được yêu vật". Dứt lời cáo biệt, nói "Thiếp không thể thờ chàng trọn đời, thật rất đau lòng, nhưng vì việc của chàng mà công phu tu hành đã mất bảy phần, xin chàng thương xót cho. Một tháng nay máy động, sợ là nghiệt căn, còn là trai hay gái năm sau sẽ gởi lại thôi", rồi rơi lệ ra đi.

Qua đêm, An thấy từ thắt lung trở xuống như chết rồi, cấu véo không biết đau, bèn đem lời cô gái nói với người nhà. Người nhà tới nơi làm như lời nàng, chất lửa đốt hang thì có con rắn lớn màu trắng xông qua lửa trườn ra, bao nhiêu cung nỏ cùng châu vào bắn chết. Khi lửa tắt vào hang thì thấy mấy trăm con rắn lớn nhỏ chết thui khét lẹt. Người nhà đem về lấy máu rắn cho An uống, ba ngày thì hai chân dần dần xoay trở được, nửa năm mới đứng dậy nổi. Sau đó một mình vào núi, gặp bà già ôm mảnh chiếu cói làm tã bọc một đứa bé trao cho, nói "Con gái già gởi cho lang quân", toan hỏi thăm thì chớp mắt đã không thấy đâu, giở ra xem thì là con trai, bèn bế về nhà rồi không lấy vợ nữa.

Dị Sử thị nói:Con người không khác cầm thú bao nhiêu, lời ấy chưa hẳn đã đúng đâu. Mang ơn mà lo đền đáp, đến chết vẫn không thôi thì con người cũng có chỗ phải thẹn với cầm thú đấy. Tới như Hoa Cô lúc đầu thì gởi khôn ngoan ở chỗ ngây ngốc, sau rốt lại gởi tình cảm ở chỗ lơ là, mới biết người ngây ngốc thì rất khôn ngoan, người lơ là thì rất tình cảm. Tiên thì như thế chăng, tiên thì như thế chăng!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 134 - 135 -
Công Chúa Tây Hồ
(Tây Hồ Chủ)

Trần sinh tên Bật Giáo, tự Minh Doãn là người đất Yên (tỉnh Hà Bắc). Nhà nghèo, theo Phó tướng quân Giả Quán làm chức Ký thất, đậu thuyền trên hồ Động Đình, có con thuồng luồng nổi lên mặt nước bị Giả bắn trúng lưng. Có con cá ngậm đuôi thuồng luồng không nhả ra cũng bị bắt, kéo lên thuyền chỉ còn thoi thóp, nhưng con thuồng luồng cứ há miệng ngáp như xin cứu. Sinh động lòng trắc ẩn xin Giả tha ra, sẵn trong túi có thuốc trị thương bèn đùa lấy buộc vào vết thương rồi thả xuống nước, nó lặn hụp giây lát rồi mất tăm. Hơn năm sau sinh về bắc lại qua hồ Động Đình, bị gió lớn lật thuyền, may vớ được một cái ống tre, vật vờ cả đêm mới vướng gốc cây dừng lại, sinh bèn leo lên bờ. Có xác chết trôi theo dạt vào, nhìn xem té ra là đứa tiểu đồng, cố sức kéo lên thì đã chết cứng. Sinh đau xót buồn bã ngồi cạnh cái xác nghỉ mệt, chỉ thấy thấy núi con chồng biếc, liễu nhỏ vờn xanh, chẳng có ai qua lại mà hỏi thăm đường sá.

Từ sáng sớm đến quá giờ Thìn buồn rầu không biết đi đâu, chợt thấy xác đứa tiểu đồng khẽ động đậy, mừng rỡ vỗ gọi, giây lát nó nôn ra mấy đấu nước rồi tỉnh lại. Liền cùng nhau phơi quần áo trên tảng đá, gần trưa thì khô mặc lại được, nhưng trong bụng cồn cào đói không chịu nổi. Bèn dắt nhau vượt mau qua núi mong gặp xóm làng, vừa lên tới lưng núi thì nghe tiếng lục lạc đang lắng tai nghe thì thấy hai thiếu nữ cưỡi ngựa phóng tới vó ngựa khua ran, đều đội khăn hồng bịt trán, búi tóc cắm lông trĩ, mặc áo tía chít tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua khỏi đỉnh núi thấy mấy mươi kỵ mã đang săn bắn trong đám gai góc, đều là mỹ nữ, ăn mặc như nhau. Sinh không dám đi nữa, chợt có một người đàn ông đi bộ tới, thấy như lính chăn ngựa bèn ra hỏi thăm. Người ấy đáp "Đó là công chúa Tây Hồ lên Thủ Sơn săn bắn”. Sinh kể lại chuyện mình, nói cả việc đang đói, người lính mở túi lấy gói cơm đưa cho rồi dặn "Nên tránh cho xa, phạm giá là chết đấy”.
Sinh sợ hãi vội rảo bước xuống núi, thấy trong đám rừng rậm thấp thoáng có điện gác, cho là chùa chiền, tới gần xem thì thấy tường quét vôi trắng ngoài có khe suối chảy qua, cổng son mở hờ trong có cầu đá đi vào. Sinh vịn cánh cửa nhìn vào thấy đài tạ san sát như vườn Thượng uyển trong cung vua, lại ngờ là vườn nhà quan. Dò dẫm lần vào, thấy dây mây bò ngang, đá lạ chắn lối, mùi hoa thơm ngát. Qua mấy thỗ rẽ lại là một nơi viện gác khác, có vài mươi cây dương liễu cao chạm hiên nhà, chim núi kêu một tiếng thì hoa liễu cùng bay, gió vườn thổi thoáng qua thì lá cây tự rụng, cành vật đẹp mắt thỏa lòng khác hẳn cõi trần. Đi xuyên qua tiểu đình tới một giá đu cao tận mây xanh, nhưng dây buộc đong đưa, vắng vẻ không có ai nên ngờ là gần nơi khuê các, e ngại không dám vào nữa. Chợt nghe tiếng ngựa hí ran ngoài cổng rồi như có tiếng con gái cưỡi nói, sinh và tiểu đồng vội núp vào khóm hoa dày.
Không bao lâu tiếng cười nói tới gần, nghe một nàng nói "Hôm nay đi săn không may, chẳng săn được bao nhiêu”, lại một nàng nói "Nếu không có công chúa bắn rơi một con nhạn thì hôm nay chỉ hao tốn sức người sức ngựa vô ích". Giây lát có mấy nàng áo đỏ đỡ một nữ lang lên ngồi trong tiểu đình, mặc nhung phục chít tay, tuổi khoảng mười bốn mười lăm, tóc mượt lồng mây, lưng thon đảo gió, nhụy ngọc hoa vàng cũng không ví được. Bọn tỳ nữ dâng trà đốt hương, khói cuốn như gấm chất. Giây lát cô gái đứng lên bước xuống thềm, một tỳ nữ nói "Công chúa cưỡi ngựa mệt nhưng còn chơi du được không?", công chúa cười gật đầu, liền có kẻ đỡ vai người xốc nách, kẻ xắn quần người cầm giày đỡ nàng lên đu. Công chúa duỗi hai cánh tay trắng như ngọc nắm dây đu, nhún chân trần nhẹ nhàng như chim én lên tới mây xanh. Kế bọn tỳ nữ lại đỡ nàng xuống, cùng nói "Công chúa thật là nàng tiên", rồi cười nói râm ran đi về.
Sinh nhìn trộm hồi lâu, thần hồn điên đảo, chờ lúc tiếng cười nói đã tắt hẳn bèn bước tới dưới chiếc đu bồi hồi tơ tưởng, chợt thấy cạnh rào có chiếc khăn đỏ, biết là của người đẹp làm rơi mừng rỡ nhặt lấy cho vào tay áo. Bước lên tiểu đình thấy trên bàn có bút mục bèn đề một bài thơ vào khăn rằng "Nhã hý hà nhân nghĩ bán tiên, Phân minh Quỳnh nữ tán kim liên. Quảng Hàn đôi lý ưng tương đố, Mạc tín lăng ba tiện thượng thiên” (Trên đu mỹ lệ tựa tiên nga, Quỳnh nữ Dao đài giỡn rắc hoa, Nguyệt điện Hằng Nga ghen sắc đẹp, Đừng tin gót ngọc tới trời xa). Đề xong ngâm nga rồi đi ra, quay lại lối cũ thì mấy lớp cửa đã đóng chặt. Sinh ngần ngừ không biết tính sao bèn trở vào dạo xem gần hết các nơi lầu gác. Chợt một cô gái tới, ngạc nhiên hỏi sao vào được đây, sinh vái chào nói "Ta là kẻ lạc đường, xin ra ơn cứu cho”. Nàng hỏi có nhặt được chiếc khăn đỏ không, sinh đáp "Thưa có, nhưng đã bôi bẩn vào rồi, làm sao bây giờ?", rồi đưa chiếc khăn ra. Cô gái cả kinh nói "Ngươi chết không có đất chôn rồi. Khăn này là đồ ngự dụng của công chúa, bôi lem luốc vào thế này thì làm sao!". Sinh tái mặt năn nỉ cứu giúp cho, cô gái nói “Cái tội lén vào cung cấm dòm dỏ đã không tha được rồi, ta thấy ngươi là học trò nho nhã cũng có ý chu toàn cho, giờ lại tự gây tai vạ thì ta làm sao giúp nổi", rồi cuống quýt cầm chiếc khăn chạy đi.
Sinh lo sợ nơm nớp, hận là không có cánh mà bay đi, chỉ còn cách vươn cổ chờ chết. Hồi lâu cô gái trở lại khẽ chúc mừng nói "Chàng có cơ được sống rồi. Công chúa xem đi xem lại chiếc khăn mấy lần, không hề tỏ vẻ tức giận, có khi sẽ tha cho chàng đi. Cứ chịu khó chờ ở đây, đừng có vịn cây leo tường nhìn ngó gì, nếu bị bắt gặp sẽ không được tha đâu”. Trời đã xế chiều, lành dữ ra sao sinh không đoán chắc được, mà lửa đói thiêu đốt trong bụng thấy như sắp chết. Không bao lâu cô gái cầm đèn đi tới, có một tỳ nữ bưng hộp thức ăn và bầu rượu dọn ra cho sinh ăn. Sinh vội hỏi tin tức, nàng hỏi "Vừa rồi ta thừa dịp thưa chàng Tú tài trong vườn thả được thì thả, nếu không người ta sẽ chết đói. Công chúa ngẫm nghĩ rồi nói "Đêm hôm khuya khoắt bảo người ta đi đâu”, rồi sai đem cơm ra cho chàng ăn, thế thì không phải là điềm dữ". Sinh suốt đêm nơm nớp không sao yên tâm, đến hết giờ Thìn cô gái lại đem cơm ra cho ăn. Sinh năn nỉ nhờ xin giùm, nàng nói "Công chúa không nói giết cũng không nói tha, ta là kẻ hầu hạ đâu dám thưa gởi lằng nhằng”.
Kế mặt trời ngã về tây, sinh vẫn chờ đợi không thôi, chợt cô gái thở hổn hển chạy tới nói "Chết rồi, có người lắm lời đã nói cho vương phi biết, vương phi mở chiếc khăn xem rồi ném xuống đất, mắng ầm lên là ngông cuồng, tai họa không còn xa đâu”. Sinh cả kinh, mặt không còn sắc máu, quỳ rạp xuống đất van xin. Chợt nghe tiếng người nhao nhao kéo tới, cô gái phẩy tay tránh đi, liền có mấy người cầm dây ào ào kéo vào. Trong bọn có một tỳ nữ nhìn kỹ sinh rồi nói “Tưởng ai, té ra là Trần lang!", rồi ngăn những người cầm dây lại, nói “Hãy khoan, hãy khoan, đợi ta bẩm với vương phi đã!!. Rồi quay người chạy mau đi, giây lát trở lại nói "Vương phi mời Trần lang vào" sinh run rẩy đi theo. Qua mấy mươi lần cửa tới một nơi cung điện, rèm ngọc móc vàng, lập tức có mỹ nữ cuốn rèm xướng Trần lang đã tới. Thấy trên điện có một mỹ phụ ngồi, y phục lộng lẫy, sinh quỳ rạp xuống đất dập đầu nói "Thần lẻ loi từ vạn dặm tới đây, xin tha cho mạng sống". Vương phi vội bước tới đích thân kéo sinh đứng lên, nói "Ta không gặp bậc quân tử thì làm gì còn có ngày hôm nay. Bọn tỳ nữ không biết gì, xúc phạm tớì quý khách, biết lấy gì chuộc tội?".
Lập tức sai dọn tiệc, rót rượu bằng chén ngọc, sinh mờ mịt chẳng hiểu vì sao. Vương phi nói "Cái ơn tái tạo vẫn hận không có gì báo đáp, con gái ta được thương yêu đề thơ vào khăn cho, cũng là duyên trời, đêm nay xin sai nó theo hầu hạ". Sinh không ngờ được hơn cả lòng mong mỏi, trong lòng bàng hoàng không sao nói nên lời. Trời vừa tối, một tỳ nữ bước lên nói “Công chúa đã trang điểm xong đang chờ", rồi dẫn sinh vào trướng. Chợt nghe đàn sáo trỗi inh ỏi, dưới thềm đều rắc hoa giấy, từ nhà ngoài tới phòng trong đều treo đèn lồng, có vài mươi mỹ nữ đỡ công chúa ra làm lễ giao bái, mùi lan xạ sực nức. Kế hai người dắt nhau vào màn tình tự ân ái. Sinh hỏi "Kẻ trôi nổi tha phương bình sinh chưa từng bái kiến, bôi bẩn khăn quý được thoát rìu búa là may rồi, lại còn được ban cho mối duyên lành, thật là ngoài lòng mong mỏi". Công chúa nói "Mẹ thiếp là vương phi của Long quân hồ này, cũng là con gái Giang Dương vương, năm ngoái về thăm nhà tình cờ dạo chơi trên hồ bị tên bắn trúng. Đội ơn chàng giải cứu, lại xoa thuốc cho, cả nhà đều cảm kích, lòng hằng không quên. Chàng đừng vì khác loài mà nghi ngại, thiếp theo Long quân đã học được bí quyết trường sinh, xin cùng chàng chung hưởng".
Sinh lúc ấy mới sực hiểu ra nàng là thần nhân, bèn hỏi sao người tỳ nữ kia biết mình, công chúa đáp "Hôm ấy trong thuyền trên hồ Động Đình, chắc thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi thuồng luồng, đó là nó đấy". Sinh lại hỏi lúc bắt được mình đã không giết chết sao lại chần chừ không thả đi, nàng cười nói "Thiếp mến tài chàng nhưng không thể tự chủ nên thao thức cả đêm, người ngoài nào có ai hiểu cho?”. Sinh than “Nàng thật là người tri kỷ của ta, còn người đem cơm cho ta là ai?", nàng đáp "Đó là A Niệm, cũng là người tâm phúc của thiếp", Sinh nói "Lấy gì đền ơn cô ta?” công chúa cười nói "Sẽ có ngày nó hầu hạ chàng, lúc ấy lo đền ơn cũng chưa muộn” Sinh hỏi đại vương đang ở đâu, nàng đáp "Cha theo Quan Thánh đánh giặc Xuy Vưu chưa về". Ở đó vài hôm, sinh lo gia đình thấy bặt tin sốt ruột trông ngóng bèn viết thư báo tin bình yên, sai tiểu đồng về trước. Gia đình sinh nghe tin đắm thuyền ở hồ Động Đình, vợ con để tang đã hơn năm, đến khi tiểu đồng về tới mới biết là sinh còn sống. Nhưng tin tức xa xôi cách trở, người nhà rốt lại vẫn e rằng sinh trôi nổi khó lòng trở về.
Nửa năm sau sinh chợt trở về, áo cừu ngựa tốt, trong túi đầy châu báu. Từ đó giàu có cự vạn, hàng ngày yến ẩm ca hát vô cùng xa hoa, các nhà thế gia cũng không bằng được. Trong bảy tám năm sinh được năm con trai, ngày nào cũng mở tiệc mời khách, nhà cửa đồ dùng tiếp đãi vô cùng sang trọng. Có người hỏi tao ngộ thế nào, sinh nói thật cả không giấu diếm gì. Có người bạn chơi từ nhỏ tên Lương Tử Tuấn làm quan ở Giang Nam hơn mười năm mới về qua ngang hồ Động Đình thấy một chiếc thuyền cửa sổ sơn son, bao lơn thếp vàng, trong có tiếng đàn sáo réo rắt, dập dềnh trong khoảng khói sóng, lúc lúc lại có mỹ nhân mở cửa sổ ngắm cảnh. Lương nhìn vào thấy trong thuyền có một thiếu niên nằm gác đầu lên đùi mỹ nhân, bên cạnh có hai nàng trẻ đẹp tuổi chừng đôi tám hầu hạ đấm bóp, nghĩ chắc là một vị quý quan ở vùng Tương Sở (tỉnh Hồ Bắc) nhưng thấy rất ít tùy tùng đi theo, chú mục nhìn kỹ thì ra là Trần Minh Doãn, bất giác bước ra mạn thuyền gọi ầm lên. Sinh nghe gọi bèn sai dừng chèo, bước ra đầu thuyền mời Lương qua. Lương vào thuyền thấy món ăn thừa đầy trên bàn, mùi rượu còn sực nức. Sinh lập tức sai dẹp hết, giây lát có năm ba tỳ nữ xinh đẹp dâng trà mời rượu, các món sơn hào hải vị đều là các thứ chưa từng trông thấy. Lương kinh ngạc hỏi "Mười năm không gặp, sao ông phú quý đến mức này?", sinh cười đáp "ông cho rằng Tú tài nghèo này không phát tích được à?". Lương hỏi người cùng uống rượu vừa rồi là ai, sinh đáp "Đó là người vợ quê mùa của ta”. Lương càng lấy làm lạ, hỏi đem gia quyến đi đâu, sinh đáp đi về miền tây. Lương định hỏi nữa thì sinh vội sai ca hát chuốc rượu. Một lời vừa buông ra thì trống chiêng vang lên điếc tai, trong có tiếng đàn sáo xen vào, không nghe thấy tiếng cười nói trò chuyện nữa.
Lương thấy gái đẹp đầy trước mắt, nhân lúc say lớn tiếng nói "Ông Minh Doãn có cho ta một phen hưởng thú tiêu hồn không?", sinh cười đáp “Túc hạ say rồi, nhưng có món tiền đủ cưới một người thiếp đẹp có thể tặng cho cố nhân". Rồi sai tỳ nữ dâng lên một viên ngọc minh châu, nói "Bấy nhiêu có mua nàng Lục Châu cũng không khó, để ông hiểu cho là ta không keo cú”. Kế từ biệt, nói "Ta đang gấp chút việc nhỏ, không thể cùng cố nhân trò chuyện lâu hơn”, rồi đưa Lương về thuyền, nhổ neo chèo thuyền đi thẳng. Lương về, qua nhà sinh nghe ngóng thì sinh đang uống rượu với khách, càng thêm ngờ vực liền hỏi "Mới hôm trước còn gặp ông trên hồ Động Đình, làm sao mà về mau như thế?" Sinh đáp "Làm gì có chuyện ấy?”. Lương bèn thuật rõ mọi việc đã gặp, cả tiệc đều khiếp sợ, sinh cười nói "Ông lầm rồi, chẳng lẽ ta có thuật phân thân sao?". Mọi người đều lấy làm lạ nhưng nghĩ mãi không sao hiểu nổi. Sau sinh thọ tới tám mươi mốt tuổi thì chết, người nhà tẩn liệm xong ngạc nhiên vì thấy quan tài quá nhẹ, mở ra xem thì chỉ có quan tài trống không mà thôi.

Dị Sử thị nói: Ống trúc không chìm, khăn hồng đề vịnh, bên trong chuyện ấy đều có quỷ thần, mà cũng đều là một lần động lòng trắc ẩn làm cảm động tới trời mà thôi. Tới như cung thất thê thiếp, một mình hưởng sự thù phụng ở hai nơi thì thật không sao hiểu được. Xưa có kẻ mong được vợ hiền thiếp đẹp, con giỏi cháu hiền, lại thêm trường sinh bất tử, sinh đã được một nửa rồi vậy. Chẳng lẽ trong đám người tiên cũng có loại Phần Dương, Quý Luân* sao?

*Phần Dương, Quý Luân: Phần Dương tức Quách Tử Nghi thời Đường, có công lớn được phong là Phần Dương quận vương, giàu có quý hiển nổi tiếng một thời. Quý Luân tức Thạch Sùng thời Tấn, được phong là Vệ úy, cực kỳ giàu có, sinh hoạt rất xa xỉ.

135. Ngũ Thu Nguyệt
(Ngũ Thu Nguyệt)
Vương Đỉnh tự Tiên Hồ người đất Tần Bưu (huyện Cao Bưu tỉnh Giang Tô) tính khảng khái, có sức khỏe, giao du rộng. Năm mười tám tuổi vợ chết, mỗi lần đi chơi xa thường cả năm không về. Anh là Nại, danh sĩ đất Giang Bắc, rất thưong yêu em, thường khuyên em không nên đi xa, muốn hỏi vợ cho. Sinh không nghe, thuê thuyền tới Trấn Giang thăm bạn. Bạn đi vắng, nhân thuê một gian gác nơi quán trọ, nhìn thấy sóng nước êm đềm, núi Kim Sơn ngay trước mắt, trong lòng thích lắm. Hôm sau bạn tới mời về nhà mình ở, sinh từ chối không đi. Được hơn nửa tháng, đêm mơ thấy một nữ lang khoảng mười bốn mười lăm tuổi, dung mạo xinh đẹp lên giường cùng ngủ, tỉnh dậy thì thấy di tinh, lấy làm lạ nhưng cũng cho là ngẫu nhiên.
Đến đêm lại mơ thấy như thế, liền ba bốn đêm, trong lòng rất lạ, không dám tắt đèn, tuy nằm im trên giường mà vẫn nơm nớp đề phòng. Vừa chợp mắt đã mơ thấy cô gái lại tới, đang ôm ấp chợt giật mình tỉnh dậy, vội mở mắt nhìn thì thấy một cô gái đẹp tiên vẫn đang trong vòng tay. Cô gái thấy sinh tỉnh, có vẻ thẹn thùng sợ sệt. Sinh tuy biết nàng không phải là người nhưng trong lòng rất thích, không buồn hỏi han, cứ ra sức vần vò. Cô gái như không chịu nổi, nói "Cuồng bạo như thế chẳng lạ gì người ta không dám nói rõ”. Sinh bấy giờ mới hỏi kỹ, nàng đáp "Thiếp họ Ngũ tên Thu Nguyệt. Thân phụ là bậc danh nho, tinh thông Dịch số, rất thương yêu thiếp nhưng thường nói thiếp không thọ nên không hứa gả cho ai cả. Về sau đến năm thiếp mười lăm tuổi quả chết yểu, ông đào huyệt ở phía đông gian gác này mà chôn, không đắp mộ cũng không có bia, chỉ đặt cạnh quan tài một phiến đá đề "Con gái là Thu Nguyệt, chôn không mồ, ba mươi năm sau gả về Vương Đỉnh". Đến nay đã ba mươi năm thì chàng vừa tới, thiếp rất mừng muốn tự ra mắt nhưng còn thẹn thùng nên phải thác vào giấc mộng đó thôi”.
Vương cũng mừng, lại đòi hành sự tiếp, nàng nói "Thiếp cần một ít khí dương để mong sống lại, thật không ngại gì chuyện gỉó mưa ấy. Sau này duyên lành vô hạn, cần gì phải cứ đêm nay” rồi trở dậy ra đi. Đêm sau lại tới, ngồi đối diện cười đùa vui vẻ như quen nhau từ lâu kế tắt đèn lên giường, thấy không khác gì người sống. Có điều khi nàng trở dậy thì tinh khí chảy ra thấm ướt cả chăn nệm. Một đêm trăng sáng vằng vặc, cùng dạo bước trong sân, sinh hỏi cô gái dưới cõi âm có thành quách không, nàng đáp “Cũng như trên trần thôi. Thành phủ dưới cõi âm không ở đây mà cách độ ba bốn dặm, nhưng lấy đêm làm ngày". Sinh hỏi người sống tới xem được không, nàng đáp "Được” .Sinh xin tới xem, nàng bằng lòng, bèn nhân ánh trăng ra đi.
Cô gái nhẹ nhàng đi như gió, Vương cố sức đuổi theo, giây lát tới một nơi, nàng nói không còn xa nữa. Vương nhướng mắt nhìn mà không thấy gì, cô gái lấy nước bọt bôi lên hai mi mắt, sinh mở ra thấy sáng gấp mấy lần lúc bình thường, nhìn cảnh ban đêm mà rõ như ban ngày. Chợt thấy tường thành ẩn hiện trong mây mù, người trên đường đông đúc như đi chợ. Kế có hai tên lính trói ba bốn người giải ngang, lấy làm lạ vì người đi cuối giống hệt anh, rảo bước tới gần thì đúng là anh. Giật mình hỏi sao anh tới đây, anh thấy sinh ứa nước mắt ướt không biết có việc gì mà bị bắt giải đi. Vương tức giận nói "Anh ta là người quân tử giữ lễ sao lại bị trăng trói như vậy?” rồi xin hai tên lính cởi trói cho. Lính không chịu lại tỏ vẻ rất ngạo nghễ, sinh tức tối toan gây sự, anh ngăn lại nói "Đây là lệnh quan, phải tuân theo để giữ phép. Chỉ hiềm ta thiếu tiền chi dùng, bị họ hạch xách khổ lắm, em về nên lo tính cho".
Sinh nắm tay anh khóc thất thanh, tên lính giận kéo mạnh cái gông, anh ngã ngay xuống. Sinh thấy thế lửa giận đầy bụng không sao nhịn được liền rút ngay thanh bội đao chém đứt đầu y, tên kia thét lên, sinh lại chém luôn. Cô gái cả kinh nói "Giết sai nha của quan là tội không thể tha được, nếu chậm trễ sẽ có tai họa. Xin chàng lập tức tìm thuyền về bắc, về tới nhà đừng hạ lá phướn xuống, đóng chặt cửa không cho ai ra vào, sau bảy ngày thì không lo gì nữa". Vương bèn dắt anh đi, ngay trong đêm thuê một chiếc thuyền nhỏ vội vàng về bắc. Về thấy khách khứa tới viếng tang, biết là anh đã chết thật, liền đóng cổng cài then, vừa vào thì anh đã biến mất, vào tới phòng thì người chết đã tỉnh lại, gọi "Ta đói chết mất, đem mì lại mau!". Lúc đó anh đã chết hai ngày, người nhà đều kinh hãi, sinh bèn kể rõ mọi chuyện. Bảy ngày sau mở cửa bỏ lá phướn, người ta mới biết anh sinh đã sống lại, họ hàng bạn bè kéo tới hỏi thăm chỉ bịa đặt trả lời.

Lại nghĩ tới Thu Nguyệt, càng thêm nhưng nhớ bèn quay xuống nam. Tới gian gác cũ thắp đèn ngồi đợi rất lâu mà cô gái vẫn không tới, thiu thiu sắp ngủ thì thấy một người đàn bà tới nói "Nương tử Thu Nguyệt nhắn với lang quân rằng hôm trước vì hai tên sai nha bị giết, thủ phạm trốn mất, họ bắt dược nương tử hiện đang giam trong ngục, bọn ngục tốt nhìn thấy là hành hạ, ngày ngày trông chờ lang quân, xin nghĩ cách cứu giúp cho". Vương buồn rầu phẫn uất liền đi theo người đàn bà. Tới một tòa thành, theo cửa Tây vào, người đàn bà chỉ một cái cổng nói "Nương tử đang bị giam trong đó". Sinh vào thấy có rất nhiều phòng, tù phạm rất đông nhưng không có Thu Nguyệt. Lại vào một cửa nhỏ, thấy trong gian phòng hẹp có đèn lửa, Vương tới gần cửa sổ nhìn vào thì thấy Thu Nguyệt ngủ trên giường lấy tay áo che mặt kêu khóc, bên cạnh có hai tên ngục tốt đang vuốt má nắm chân nàng trêu chọc. Cô gái kêu khóc càng thảm thiết, một tên ôm cổ nàng nói “Đã là tội phạm mà còn giữ trinh tiết à?," Sinh nổi giận không nói không rằng, rút đao xông vào chém mỗi đứa một nhát như phát cỏ rồi cướp lấy cô gái chạy ra, may là không ai biết.
Vừa tới quán trọ thì sinh chợt tỉnh dậy, đang lạ lùng vì giấc mộng dữ thì thấy Thu Nguyệt chảy nước mắt đứng cạnh. Sinh giật mình trỗi dậy kéo nàng ngồi, kể lại giấc mộng. Cô gái nói "Đó là thật chứ không phải mộng đâu”. Sinh kinh sợ nói "Vậy thì làm sao bây giờ?”, cô gái than "Đây cũng là số phận, chờ đến ngày cuối tháng thì thiếp mới được sống lại, nhưng giờ việc đã gấp thì làm sao chờ được? Xin đào ngay chỗ chôn thiếp rồi đưa thiếp cùng về, hàng ngày cứ gọi tên thiếp thì qua ba ngày có thể sống lại. Nhưng chưa đủ thời hạn, xương mềm chân yếu không thể lo việc nhà giúp chàng thôi". Nói xong vội vàng định đi, chợt quay lại nói "Thiếp suýt nữa thì quên mất, nếu âm ty đuổi theo thì làm thế nào? Khi còn sống cha thiếp có truyền cho một đạo bùa, nói ba mươi năm sau có thể cho hai vợ chồng cùng đeo”. Rồi lấy giấy bút vẽ mau hai lá bùa, nói "Một lá thì chàng đeo, còn một lá thì dán vào lưng thiếp".
Sinh đưa nàng ra, tới chỗ nàng biến mất thì đào lên, khoảng hơn một thước thấy có chiếc quan tài đã mục nát, bên cạnh có tấm bia nhỏ như lời nàng nói. Mở quan tài xem thấy nhan sắc nàng như còn sống bèn bế vào trong phòng, xiêm y theo gió tan hết. Dán bùa xong sinh lấy chăn bọc kín lại, cõng ra bờ sông gọi thuyền ghé vào, nói thác rằng em gái ốm nặng, phải đưa về nhà. May được gió nam thổi mạnh, vừa vừa sáng đã về tới nhà, bế nàng vào đặt nằm đâu đấy xong mới nói với anh chị, cả nhà nhớn ngác nhìn nhau nhưng cũng không ai dám nói thẳng là sự huyễn hoặc. Sinh mở chăn, gọi to Thu Nguyệt, đêm thì ôm xác nàng mà ngủ. Thi thể nàng ngày càng ấm dần, ba ngày thì sống lại, bảy ngày sau thì đi lại được, bèn thay quần áo ra chào chị dâu, lãng đãng không khác gì thần tiên.

Nhưng ngoài mười bước thì phải có người đỡ cho đi, nếu không thì xiêu vẹo theo gió như muốn ngã, người ta nhìn thấy cho rằng nàng mang bệnh như thế lại càng đẹp thêm. Nàng thường khuyên sinh "Oan nghiệt của chàng rất sâu, nên tích đức tụng kinh để sám hối, nếu không sợ không sống lâu được". Sinh vốn không tin Phật, lúc ấy bèn dốc lòng quy y, về sau không việc gì cả.

Dị Sử thị nói: Ta muốn tâu với triều đình xin định luật lệ là phàm giết sai nha thì giảm tội ba bậc so với giết dân thường, vì bọn sai nha thì không ai là không có tội đáng giết cả. Cho nên kẻ giết được bọn sai nha ắt là người tốt, dù phải trừng trị chút ít cũng không nên đối xử tàn ác. Huống chi dưới âm ty không có phép tắc nhất định, giả như trong đó có kẻ xấu thì vạc dầu núi kiếm cũng không phải là tàn ác. Nếu như lòng người lấy làm vui sướng thì Diêm Vương cho là điều lành, chứ há kẻ có tội bị âm ty tróc nã mà may mắn trốn thoát được sao?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 136 - 137 -
Công Chúa Liên Hoa
(Liên Hoa Công Chúa)

Đậu Húc tự Hiểu Huy người huyện Giao Châu (tỉnh Sơn Đông), ngủ trưa mơ thấy một người mặc áo vải tới đứng cạnh giường nhìn ngó quanh quẩn như muốn nói điều gì, sinh hỏi thì đáp tướng công mời ông tới chơi. Sinh hỏi tướng công là ai, người ấy nói "Nhà cũng ở cạnh đây". Sinh theo người ấy ra đi, vòng qua tường nhà mình thì tới một nơi lầu gác trùng trùng nối nhau muôn lớp, quanh co qua lại thấy có muôn nhà ngàn cổng khác xa nhân thế. Lại thấy cung tần nữ quan đi lại nườm nượp, đều hỏi người áo vải "Đậu lang tới đó à?", người áo vải gật đầu. Chợt một vị quý quan ra đón, chào hỏi rất cung kính, vào tới sảnh đường, sinh hỏi “Trước nay chưa từng quen biết nên không tới bái kiến, nay được quá yêu đón rước khiến ta rất e ngại”. Vị quý quan đáp "Đức vua của ta thấy tiên sinh dòng dõi thanh bạch vẫn hằng hâm mộ rất muốn gặp mặt". Sinh càng sợ hãi, hỏi đại vương là ai, vị quý quan đáp lát nữa sẽ biết.

Không bao lâu có hai nữ quan tới, cầm hai lá cờ dẫn sinh đi, vào mấy lần cửa thì thấy một bậc vương giả ngồi trên điện. Vương thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Ngẩng nhìn thấy trên điện có tấm biển đề hai chữ Quế Phủ, sinh bối rối không biết nói gì. Vương nói "Là láng giềng gần gũi, tình ắt phải khắng khít, ông cứ tự nhiên đừng ngại", sinh dạ dạ. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên nhưng không có chiêng trống, âm thanh rất nhỏ. Một lát vương chợt nhìn tả hữu nói "Trẫm có một câu phiền các khanh đối: Tài nhân đăng quế phủ (Tài nhân lên phủ quế)". Cả tiệc còn đang nghĩ, sinh đối ngay “Quân tử ái liên hoa (Quân tử thích hoa sen)” Vương nói “Liên Hoa là tiểu tự của công chúa, sao lại trùng hợp như thế, há không phải là túc duyên sao. Hãy truyền gọi công chúa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, công chúa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Liên Hoa", công chúa chào xong trở vào.

Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Vương như hơi biết ý, nói "Con gái ta cũng có thể sánh đôi với ông nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?". Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân nói "Vương mời mà ông chưa thấy vương nói mà ông chưa nghe sao?". Sinh thẫn thờ đứng lên bước ra nói "Thần đội ơn lớn, không ngờ quá say thất thố, xin được tha thứ, nhưng trời đã xế, đại vương lại bận việc, thần xin cáo từ". Vương đứng dậy nói "Được gặp mặt bậc quân tử, ta rất thỏa lòng, sao lại vội cáo từ như thế? Nhưng khanh đã không muốn ở ta cũng không dám ép, nếu nghĩ tới nhau ngày khác quả nhân sẽ lại mời", rồi sai nội quan đưa sinh ra. Trên đường nội quan nói "Vừa rồi vương nói công chúa có thể sánh đôi với ông, như là có ý muốn chọn làm Phò mã, sao ông im lặng không nói gì?” Sinh giẫm chân hối hận, mỗi bước mỗi thở dài than tiếc, kế về tới nhà thì chợt tỉnh dậy, thấy mặt trời đã lặn, ngồi ngây ra nhớ lại giấc mộng rất rõ ràng.

Tối đến ra nhà học tắt đèn ngủ sớm, có ý đợi giấc mộng cũ nhưng không thấy gì, đành thở than hối tiếc mà thôi. Một đêm sinh ngủ chung với một người bạn chợt thấy viên nội quan hôm trước tới nói đại vương sai mời, sinh mừng rỡ đi theo, vào gặp vương lạy phục xuống bái yết. Vương đỡ dậy mời ngồi bên cạnh, nói "Từ khi chia tay đến nay biết khanh nhọc lòng tơ tưởng, muốn cho tiểu nữ hầu hạ áo khăn, nghĩ chắc khanh không chê bỏ", sinh lập tức lạy tạ. Vương liền sai các quan học sĩ đại thần ngồi tiếp rượu, xong tiệc cung nhân bước lên nói "Công chúa đã trang điểm xong”, liền thấy mấy mươi cung nữ đỡ công chúa ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!”.

Sáng ra sinh đùa trang điểm cho công chúa, kế lấy dây lưng đo quanh hông nàng, lại gang tay đo chân. Công chúa cười hỏi “Chàng điên à?", sinh đáp “Ta nhiều lần bị giấc mộng đánh lừa nên phải nhớ kỹ để nếu là giấc mộng cũng đủ mà nhớ nhau”. Đang đùa giỡn thì một cung nữ chạy mau vào nói "Yêu quái vào cửa cung, đại vương đã lánh ra biệt điện, tai vạ tới rồi” Sinh cả kinh vội tới gặp vương, vương cầm tay sinh khóc nói "Được quân tử không bỏ, đang muốn sum họp lâu dài, nào ngờ trời giáng tai nghiệt, vận nước sắp đổ, biết tính sao đây?". Sinh sửng sốt hỏi sao nói thế, vương lấy một bản tâu trên án trao cho, sinh mở ra đọc thấy viết rằng "Hàm Hương điện Đại học sĩ thần Hắc Dục xin tâu về việc yêu quái tai dị phi thường phải sớm dời đô để giữ vận nước. Theo lời báo của Hoàng môn quan thì ngày mùng sáu tháng năm có một con mãng xà dài ngàn trượng tới chiếm giữ ngoài cung, nuốt sống thần dân trong ngoài tất cả hơn một vạn ba ngàn tám trăm mạng, đi qua nơi nào thì lâu đài đều thành gò bãi vân vân. Thần lấy can đảm ra xem quả thấy rõ rắn tinh đầu tựa núi non, mắt như sông biển, ngẩng đầu thì nuốt hết cung điện, duỗi thân thì sụp cả lâu đài. Thật là hung dữ ngàn đời chưa thấy, tai vạ muôn kiếp không từng. Xã tắc tôn miếu nguy trong sớm tối, xin Hoàng thượng sớm đưa cung quyến dời tới nơi yên ổn".

Sinh đọc xong tái cả mặt, liền có cung nhân chạy vào cấp báo yêu quái tới, cả điện khóc lóc kêu gào vô cùng thê thảm. Vương cuống quýt không biết làm sao, chỉ khóc ngoảnh lại nói “Phiền tiên sinh lo cho tiểu nữ!". Sinh nghẹn ngào về phòng thì công chúa đang cùng tả hữu ôm đầu kêu khóc, thấy sinh vào liền nắm áo nói "Lang quân tính sao cho thiếp đây”. Sinh đau xót muốn chết, cầm tay công chúa nói “Tiểu sinh nghèo hèn thẹn không có nhà vàng, chỉ có ba gian nhà tranh, cứ cùng về đó tạm lánh được không?”. Công chúa rơi lệ nói "Việc gấp rồi còn lựa chọn gì nữa, xin dẫn thiếp đi mau!”. Sinh bèn đỡ nàng ra đi, không bao lâu về tới nhà. Công chúa nói "Nhà này rộng lớn yên ổn còn hơn nước cũ. Nhưng thiếp theo chàng tới đây còn cha mẹ thì nương tựa vào đâu, xin xây cho một gian nhà riêng để cả nước theo về ở". Sinh lấy làm khó khăn, công chúa gào khóc nói "Không cứu giúp được lúc nguy cấp, thì chàng làm được gì?" Sinh an ủi qua loa rồi vào phòng trong, công chủa nằm phục xuống giường kêu khóc thảm thiết không sao khuyên giải, sinh nóng lòng mà không có cách nào, chợt giật mình tỉnh dậy mới biết là giấc mộng.

Nhưng bên tai vẫn còn tiếng than khóc nức nở chưa dứt, nghe kỹ thì không phải là tiếng người mà là hai ba con ong bay lượn vo ve trên gối, bèn kêu to là chuyện lạ. Người bạn hỏi han, sinh kể lại giấc mộng, bạn cũng kinh ngạc lạ lùng cùng trở dậy nhìn mấy con ong thấy cứ bay đậu trên áo sinh, đuổi cũng không đi. Bạn khuyên làm tổ cho chúng ở, sinh theo lời mướn thợ về làm. Vừa dựng xong hai vách tổ đã thấy đàn ong từ ngoài tường liên tiếp bay vào, nóc tổ chưa lợp thì đã đậu đen đặc trong đó. Tìm xem chúng từ đâu bay tới thì là ở cái vườn cũ của ông già hàng xóm, trong vườn có một tổ ong đã hơn ba mươi năm, sinh đẻ rất nhiều. Có người kể việc của sinh cho ông già nghe, ông ra xem thấy tổ ong vắng ngắt. Giở vách tổ lên nhìn thấy có con rắn dài hơn một trượng liền bắt giết đi, mới biết con mãng xà ngàn trượng chính là nó. Từ ngày ong vào ở nhà sinh, sinh nở càng đông đúc hơn.

137. Cô Gái Áo Xanh
(Lục Y Nữ)

Vu sinh tên Cảnh tự Tiểu Tống là người huyện ích Đô (tỉnh Sơn Đông). Ra học ở chùa Lễ Tuyền, đêm đang đọc sách chợt một cô gái đứng ngoài cửa sổ khen "Vu tướng công chăm học thật?". Vu ngạc nhiên đứng lên nhìn, thấy nàng khoác áo xanh mặc váy dài, xinh xắn không ai bằng. Vu biết không phải là người, hỏi kỹ quê quán thì nàng nói "Chàng nhìn thiếp thì biết không phải là kẻ ăn thịt người, hỏi kỹ làm gì?”. Vu thấy yêu mến, bèn cùng đi ngủ, cởi tới chiếc áo lót mình bằng lụa thấy eo lưng nàng nhỏ chưa đầy hai chét tay. Đêm gần tàn thì cô gái trở dậy ra đi, từ đó đêm nào cũng tới.

Một đêm cùng uống rượu, lúc trò chuyện thấy nàng rất sành âm luật, Vu nói "Giọng nàng êm ái, nếu hát một khúc ắt người nghe phải tiêu hồn". Cô gái cười nói "Chẳng dám hát vì sợ chàng tiêu hồn đó thôi". Vu cố nài nỉ, nàng nói "Thiếp chẳng tiếc gì, chỉ sợ người khác nghe thấy nếu chàng đã thích thì xin phô bày cái dở, nhưng xin hát nhỏ để tỏ ý thôi đấy!". Rồi lấy hài nhè nhẹ đánh nhịp, dựa ghế hát rằng "Thụ thượng ô cựu minh, Trám nô trung dạ tán. Bất oán tú hài tư, Chỉ khủng lang vô bạn” (Trên cây quạ kêu ầm, Thiếp nửa đêm chạy tản. Chẳng oán hài ướt đầm, Chỉ e chàng không bạn). Tiếng hát nhỏ như sợi tơ, chỉ nghe được loáng thoáng, nhưng lắng nghe thì thấy uyển chuyển mượt mà làmrung động lòng Người. Cô gái hát xong, mở cửa nhìn ra, nói "Coi chừng bên ngoài có người", rồi đi quanh nhà xem xét một vòng mới quay vào. Sinh hỏi "Sao nàng lo lắng quá thế?”, nàng cười đáp "Ngạn ngữ có câu Con ma sống trộm thường sợ người, là nói tới thiếp đấy!”.

Kế cùng đi ngủ, nàng buồn bã không vui, nói "Số phận nhỏ nhoi có lẽ chấm dứt ở đây chăng?”. Vu vội hỏi han, cô gái đáp "Thiếp thấy trong lòng lo lắng, trong lòng lo lắng thì lộc số của thiếp đã hết rồi". Vu an ủi rằng "Trong lòng lo lắng hay mi mắt máy động là chuyện thường tình, sao nàng vội nói thế?”. Cô gái hơi yên lòng bèn cùng nhau ân ái. Đêm vừa tàn, cô gái khoác áo bước xuống giường, đang định mở cửa lại bồi hồi quay vào nói “Không biết có chuyện gì mà thiếp thấy sợ quá, xin tiễn thiếp ra cửa", Vu liền trở dậy đưa nàng ra tới ngoài cửa. Cô gái nói "Chàng cứ đứng đây trông cho thiếp, thiếp vượt khỏi tường rồi hãy trở vào”, Vu đáp "Được”. Thấy cô gái đã rẽ qua hành lang không thấy bóng dáng đâu nữa, đang định quay vào thì nghe tiếng nàng kêu cứu rất gấp, Vu vội chạy tới nhưng nhìn quanh không thấy đâu. Nghe tiếng kêu vọng ra từ mái hiên, ngẩng đầu nhìn kỹ thì thấy một con nhện to bằng viên đạn đang bắt một con vật nhỏ, con vật đang rên rĩ đau đớn. Vu phá mạng nhện khều xương, gỡ bỏ tơ nhện quấn quanh thì là một con ong xanh thoi thóp sắp chết. Bèn mang về phòng, đặt lên đầu bàn cho nghỉ ngơi, hồi lâu con ong mới bò được, từ từ leo lên chiếc nghiên nhúng mình vào mực, kế ra nằm mọp xuống ghế, bò thành chữ "tạ", giương cánh mấy lần rồi theo song cửa sổ bay đi từ đó không trở lại nữa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 138 - 139 -
Nàng Ba Hoa Sen
(Hà Hoa Tam Nương Tử)

Tông Sương Nhược, người đất Hồ Châu (huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang) là kẻ sĩ nhân. Một ngày mùa thu đi thăm đồng, thấy có đám lúa rậm lay động rất mạnh, lấy làm ngờ vục, lội xuống ruộng tới xem thì ra là một đôi trai gái đang ân ái với nhau, phì cười quay lên. Kế người con trai xấu hổ thắt quần hấp tấp đi thẳng, cô gái cũng đứng dậy, Tông nhìn kỹ thấy rất xinh xắn, trong lòng ưa thích cũng muốn nọ kia nhưng ngại mang tiếng suồng sã. Bèn tới cạnh phủi quần áo cho, nói "Chơi đùa trong dâu có vui không?” nàng cười không đáp. Tông đứng sát vào nàng, khẽ vén áo lên thấy da thịt nõn nà bèn vuốt ve sờ soạng từ trên tới dưới. Cô gái cười nói "Tú tài cổ hủ muốn làm gì thì cứ làm, sờ mó lung tung làm gì?". Tông hỏi họ tên, nàng đáp "Một bận gió xuân rồi thì đường ai nấy đi, cần gì hỏi rõ, định lưu tên tuổi để lập phường trinh sao?". Tông nói "Ngủ với nhau trên đồng trong cỏ là việc bọn đầy tớ chăn heo vẫn làm, chứ ta không quen. Thấy nàng xinh đẹp, cho dù hẹn hò riêng tư cũng phải tự trọng, sao lại qua quít như thế?”. Cô gái nghe thế tỏ vẻ bằng lòng, Tông nói "Nhà vắng cách đây không xa, xin mời qua chơi". Cô gái nói "Ta đi đã lâu, sợ người ta ngờ, đến khuya thì được”, kế hỏi kỹ Tông đường sá nhà cửa rồi theo đường tắt rảo bước đi luôn.

Tối đến cô gái quả tới nhà học của Tông, cùng nhau mây mưa vô cùng đằm thắm, dần dà hết ngày này tháng khác mà không ai hay biết. Gặp lúc có nhà sư Phiên nghỉ lại ở chùa trong thôn gặp Tông kinh ngạc hỏi “Người ông có tà khí, đã gặp việc gì rồi?”, Tông đáp không có gì. Qua vài hôm chợt bị bệnh, hàng đêm cô gái đều mang trái cây thức ăn tới ân cần chăm sóc như vợ chồng, nhưng đi ngủ thì cứ ép Tông phải ăn nằm với mình. Tông mắc bệnh không sao kham nổi, nghi nàng không phải là người nhưng cũng không có cách nào dứt ra được, nhân nói "Hôm trước hòa thượng nói ta bị yêu tinh mê hoặc, nay quả bị bệnh, lời ấy nghiệm rồi. Ngày mai ta sẽ mời ông tới xin bùa yểm” Cô gái biến sắc, Tông càng ngờ vực, hôm sau sai người đến kể tình thật với nhà sư. Sư nói "Đó là hồ, phép thuật còn kém, cũng dễ bắt thôi”, rồi vẽ hai đạo bùa đưa cho, dặn "Về lấy một cái vò sạch đặt cạnh giường, dán bùa vào miệng vò, đợi khi hồ bị hút vào thì úp ngay một cái chậu lên, dán bùa lên chậu rồi đổ nước vào bắc lên bếp mà đun thì có thể giết được nó".

Gia nhân làm theo lời, đến khuya cô gái mới tới, lấy quýt vàng từ tay áo ra, vừa tới cạnh giường thăm hỏi Tông, chợt nghe miệng vò kêu soạt một tiếng, cô gái đã bị hút ngay vào. Gia nhân nhảy ra bịt miệng vò dán bùa lên, đang định đem đun. Tông thấy quýt vàng tung tóe trên đất, nghĩ lại tình nghĩa chợt cảm động bèn sai thả ra. Vừa gỡ bùa mở chậu thì cô gái trong vò chui ra, run rẫy sợ sệt cúi đầu nói “Thiếp tu luyện sắp thành đại đạo mà chỉ suýt nữa hóa ra tro than. Chàng thật là người nhân đức, thiếp thề sẽ báo đền”, rồi đi. Vài ngày sau bệnh Tông càng nặng, gia nhân ra chợ mua quan tài, trên đường gặp một cô gái hỏi "Ngươi có phải người nhà của Tông Sương Nhược không?”, người gia nhân đáp phải. Cô gái nói “Tông lang là biểu huynh của ta, nghe nói bị bệnh nặng cũng định tới thăm nhưng lại gặp việc không đi được, có một thang linh dược, phiền đưa về giùm”, người gia nhân bèn nhận lấy đem về. Tông vì trong họ hàng bên ngoại không có chị em nào nên biết là hồ đền ơn. Uống thuốc xong quả nhiên đỡ hẳn, mười ngày thì bình phục, rất cám ơn hồ, ngẩng lên không khấn khứa xin được gặp lại một lần.

Một đêm Tông đang đóng cửa ngồi uống rượu một mình chợt nghe có tiếng búng tay vào cửa sổ, vội xô cửa bước ra xem thì là cô gái hồ. Tông cả mừng chắp tay cảm tạ, kéo vào cùng uống rượu. Cô gái nói “Từ khi chia tay đến nay cứ canh cánh trong lòng không biết lấy gì báo đền ơn lớn. Nay đã tìm được cho chàng một mối duyên lành, vậy đã hết tội với chàng chưa?". Tông hỏi là ai, nàng đáp "Chàng không biết được đâu. Giờ Thìn sáng mai chàng cứ tới Nam Hồ, nếu thấy cô gái hái ấu đội khăn tơ trắng thì hãy chèo thuyền đuổi mau theo. Nếu lạc mất cứ xem bên đê có bông sen nào cuống ngắn ẩn dưới tán lá thì hái mang về, hơ lửa nến vào rễ sẽ được một người vợ đẹp, lại thêm tuổi thọ". Tông nhớ kỹ lời dặn, kế cô gái cáo biệt, Tông cố níu kéo. Nàng nói "Từ khi gặp tai ách chợt ngộ ra đạo lớn, nay đâu còn tham tình chăn gối mà chuốc lấy oán thù?", rồi nghiêm nét mặt chào đi.

Tông theo lời nàng dặn, tới Nam Hồ thấy gái đẹp hái sen trong đầm rất đông, có một nàng buông rủ bím tóc, mặc áo trắng như băng, xinh đẹp tuyệt trần. Giục chèo thuyền mau theo, chợt nàng mất hút liền ghé vào đám sen ven hồ, quả có một nhánh sen hồng cao không đầy một thước liền hái lấy mang về. Tới nhà đặt lên ghế, cắm nến bên cạnh định thắp lửa lên hơ, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hóa thành một mỹ nhân. Tông vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ lạy phục xuống, cô nói “Chàng ngây kia, ta là hồ đây, sẽ ám chàng cho mà xem". Tông không tin, nàng hỏi "Ai chỉ cho chàng làm như thế?", Tông đáp "Tự tiểu sinh biết nàng, cần gì ai chỉ?" rồi nắm lấy cánh tay nàng kéo vào lòng, cô gái theo tay ngã xuống đất hóa thành hòn đá lạ cao khoảng một thước, bốn mặt lấp lánh. Tông bèn bưng đặt lên bàn, đốt hương vái lạy khấn khứa. Đến đêm đóng cửa cài then thật chặt, chỉ sợ đá biến mất. Sáng ra xem lại thì không phải là đá mà là một cái áo khoác bằng the trắng thoang thoảng mùi hương, trải ra xem thì những chỗ cổ áo vạt áo vẫn còn vết người mặc. Tông ôm vào giường đắp chăn nằm ngủ, tối trở dậy thắp đèn, quay lại thì cô gái bím tóc đã nằm trên giường. Tông mừng quá nhưng sợ nàng lại biến hóa nên năn nỉ khẩn cầu rồi mới mon men tới. Cô gái cười nói “Thật là nghiệt chướng, chẳng biết kẻ nào lắm lời lại chỉ cho gã khùng này làm chuyện chết người như thế”, rồi không chống cự nữa.

Nhưng trong lúc ân ái có lúc như không chịu nổi, nhiều lần xin thôi. Tông không nghe, nàng nói "Nếu như thế ta sẽ biến đi", Tông sợ bèn thôi. Từ đó hai ngườí rất hòa hợp, mà vàng lụa thường đầy trong rương, cũng không biết từ đâu ra. Cô gái gặp người khác chỉ dạ dạ như không thốt được thành lời, Tông cũng tránh không kể những điều kỳ lạ về nàng. Nàng mang thai hơn mười tháng, tính ngày lâm bồn thì vào phòng, dặn Tông đóng chặt cửa không cho ai vào rồi lấy dao tự rạch bụng lấy con ra, bảo Tông xé lụa băng lại, qua đêm thì lành. Được sáu bảy năm nàng nói với Tông “Thiếp đã trả hết nợ ân tình, xin từ biệt”. Tông nghe thế rơi nước mắt nói "Lúc nàng về thì ta nghèo khó không thể tự lập, nhờ nàng mới hơi được thong thả sao nỡ nói chia ly sớm như vậy? Vả lại nàng không họ hàng thân thích, sau này con không biết mẹ cũng là điều đáng hận”. Cô gái cũng buồn rầu nói "Có hợp ắt có tan, đó là lẽ thường. Con ta có phúc tướng, chàng cũng được thọ, còn mong gì nữa? Thiếp vốn họ Hà, nếu chàng thấy nhớ nhưng cứ ôm vật cũ của thiếp gọi "Nàng Ba Hoa sen" thì sẽ thấy mặt”. Dứt lời bước ra nói "Thiếp đi đây!".
Tông đang hoảng hốt quay nhìn thì nàng đã bay lên cao quá đầu người. Tông vội nhảy lên níu giữ, nắm được chiếc hài, hài tuột ra rơi xuống đất hóa thành con chim én bằng đá đỏ như son, trong ngoài trong suốt như thủy tinh, liền nhặt lấy cất đi. Kiểm lại trong hòm thấy chiếc áo khoác the trắng lúc nàng mới về vẫn còn, mỗi khi nhớ nhưng ôm lấy gọi "Nàng Ba" thì lại thấy nàng thướt tha tươi cười hiện ra như lúc bình sinh, chỉ không nói lời nào mà thôi. Bạn ta nói Hoa mà biết nói ra nhiều chuyện, Đá chẳng nên lời mới đáng người, câu thơ hay ấy của Phóng Ông* là để tả nàng đấy.

*Phóng Ông: tức Lục Du, hiệu Phóng ông, nhà thơ nổi tiếng thời Nam Tống.

139. Kim Sinh Sắc
(Kim Sinh Sắc)

Kim Sinh Sắc người đất Tấn Ninh (huyện Lâm Phần tỉnh Sơn Tây), lấy vợ người họ Mộc cùng thôn, sinh được một con trai mới một tuổi. Kim chợt mắc bệnh nặng, tự nghĩ ắt phải chết, nói với vợ rằng "Ta chết rồi nàng nên lấy chồng khác, đừng thủ tiết làm gì". Vợ nghe thế ngọt ngào thề thốt, hứa sẽ thủ tiết đến chết. Kim gọi mẹ tới nói "Con chết rồi phiền mẹ nuôi thằng bé, đừng bắt nàng phải thủ tiết", mẹ khóc gật đầu. Kế quả Kim chết, bà Mộc tới điếu tang xong nói với mẹ Kim rằng "Trời làm tai họa, con rể chết yểu, con gái ta còn trẻ, bà định làm thế nào?". Mẹ Kim đang đau đớn, nghe bà ta nói thế không kìm được giận dữ, lớn tiếng đáp "Nó phải thủ tiết", bà Mộc có vẻ thẹn thùng nín bặt. Tối đến ngủ với con gái, nói riêng với nàng rằng "Người ta ai cũng có chồng, mà con còn đủ cả chân tay, lo gì không có chồng được? Con gái nhỏ không sớm lo lấy chồng khác, cứ chăm chăm ôm bọc tã nuôi con chẳng phải ngu sao? Nếu mẹ chồng con bắt phải thủ tiết, thì không nên đối xử tư tế”, Mẹ Kim bước qua nghe được câu cuối càng thêm bực dọc, sáng hôm sau nói với bà Mộc rằng "Con trai ta có dặn lại là không nên bắt vợ nó thủ tiết, nay bà đã gấp gáp không chờ được, thì ta bắt phải thủ tiết", bà Mộc tức giận ra về.

Mẹ Kim đêm nằm mơ thấy con về sa nước mắt khuyên nhủ, trong lòng lấy làm lạ. Bèn sai người nói với họ Mộc, hẹn chôn xong thì cho vợ Kim đi lấy chồng, nhưng hỏi các thầy tướng số đều nói rằng năm nay hướng mộ như thế lấy chồng không có lợi. Vợ Kim tự nghĩ mình còn trẻ, trong lúc để tang vẫn không quên son phấn. Ở nhà chồng thì còn mặc đồ trắng, chứ lúc về thăm nhà thì ăn mặc lộng lẫy, mẹ Kim biết được rất không hài lòng, nhưng vì thấy trước sau nàng cũng lấy người khác nên phải nhịn, từ đó người đàn bà càng phóng túng.

Trong thôn có tên vô lại là Đổng Quý, thấy vợ Kim đẹp thích lắm, đưa tiền đút lót cho người đàn bà láng giềng xin tỏ ý giùm. Nửa đêm từ nhà bà ta trèo tường vào tới thẳng phòng người đàn bà rồi ngủ với nhau, đi lại suốt tuần, tiếng xấu lan ra chỉ có mẹ Kim là không biết. Phòng người đàn bà ban đêm chỉ có một đứa tớ gái nhỏ, là tâm phúc của thị. Một đêm nghe trong quan tài có tiếng động lớn như tiếng pháo nổ, đứa tớ gái ngủ ở giường ngoài thấy người chết từ sau trướng bước ra, mang kiếm vào phòng trong, kế nghe hai người khiếp sợ rú lên. Giây lát thấy Đổng trần truồng chạy vụt ra, không bao lâu thấy Kim nắm tóc vợ kéo ra, người đàn bà kêu khóc. Mẹ Kim giật mình tỉnh dậy, thấy người đàn bà trần truồng chạy ra, đang định đóng cửa, hỏi không thấy đáp, bước ra nhìn theo thì không nghe thấy gì nữa, cũng chẳng biết là đi đâu. Trở vào phòng người đàn bà thì đèn đuốc còn sáng, thấy có đôi giày đàn ông bèn gọi đứa tớ gái, nó run rẩy bước ra kể lại chuyện lạ, mẹ Kim chỉ còn run sợ ngạc nhiên mà thôi.

Đổng chạy trốn qua ngang nhà láng giềng, núp lại dưới góc tường, hồi lâu nghe tiếng người dần im mới đứng lên. Trên người không còn tấc vải mà đêm lạnh giá, vào nhà người đàn bà láng giềng định mượn quần áo. Thấy trong nhà có một gian phòng, hai cánh cửa chỉ khép hờ bèn chui vào. Mò mẫm trên giường trúng bàn chân con gái, biết là con dâu người đàn bà láng giềng, nảy lòng dâm tà bèn nhân đó hành dâm. Cô ta tỉnh dậy hỏi ngươi về rồi đấy à, Đổng đáp phải. Trước là con trai người đàn bà láng giềng có chuyện tới thôn Bắc, dặn vợ đóng cửa chờ mình về. Khi trở về nghe trong phòng có tiếng người, sinh nghi lắng nghe, cả giận vác giáo xông vào. Đổng hoảng sợ chui xuống gầm giường trốn, người kia đuổi vào đâm chết, lại muốn giết luôn vợ, vợ khóc lóc kể lại là bị lầm, y mới tha. Nhưng không hiểu người dưới gầm giường là ai, bèn gọi mẹ đốt đèn lên soi mới biết. Nhìn thấy Đổng vẫn còn thoi thóp thở, hỏi từ đâu tới, Đổng kể lại, nhưng mấy chỗ bị thương máu tuôn như suối, giây lát thì chết.

Bà mẹ sợ hãi run rẩy nói với con trai "Bắt được kẻ gian dâm mà giết có một người, ngươi thấy có được không?”, người con trai bất đắc dĩ phải giết luôn vợ. Đêm ấy ông Mộc vừa đi ngủ, chợt nghe ngoài cửa có tiếng lôi kéo, ra nhìn thì thấy lửa cháy chỗ chái nhà nhưng người đốt vẫn chưa đi. Ông Mộc kêu lớn, gia nhân đổ cả ra, may mà lửa vừa bén còn dễ dập tắt. Bèn sai người mang giáo mác đuổi bắt kẻ đốt nhà, thấy có một người leo trèo thoăn thoắt như vượn vượt qua tường đi mất. Phía ngoài tường là vườn đào của nhà ông, quanh vườn có tường rào rất chắc chắn, mấy người bắc thang leo lên nhìn thì không thấy tăm hơi gì. Duy dưới tường có một khối gì động đậy, hỏi không thấy đáp, bắn vào thấy mềm mềm. Mở cửa ra xem thì là một cô gái trần truồng nằm đó, mũi tên xuyên suốt qua bụng, thắp đèn tới nhìn kỹ thì là con gái ông Mộc tức vợ Kim. Họ hoảng sợ báo với chủ nhân, vợ chồng Mộc đau đớn muốn chết không hiểu vì sao. Cô gái nhắm mắt, sắc mặt xám như tro, hơi thở mong manh như sợi tơ, sai nhổ mũi tên nhưng không rút được phải đạp chân lên ngực mới rút ra được. Cô gái rên lên một tiếng, máu vọt ra tắt hơi luôn. ông Mộc cả sợ không biết làm sao, sáng ra kể lại tình thực với mẹ Kim, quỳ xuống van xin. Nhưng mẹ Kim không hề tức giận, chỉ kể lại nguyên do rồi bảo tự chôn cất lấy.

Kim có người anh con bác là Sinh Quang tức giận tới nhà ông Mộc chửi mắng cả những chuyện trước, ông Mộc thẹn thùng đưa tiền đút lót bảo thôi, nhưng mọi người không biết kẻ gian dâm với vợ Kim là ai. Kế con trai người đàn bà láng giềng đem xác kẻ gian tự thú bị trừng phạt qua loa rồi tha về. Nhưng anh vợ y là Mã Bưu hay thưa kiện lại kiện rằng em gái bị oan. Quan bắt người đàn bà láng giềng, bà ta sợ bèn khai thật đầu đuôi. Lại gọi mẹ Kim, mẹ Kim thác là có bệnh, nhờ Sinh Quang thay mình đối chất, trình bày mọi việc. Lúc bấy giờ chuyện giấu diếm trước đều vỡ lỡ, quan sai bắt vợ chồng ông Mộc, mọi người đều khai thật, lúc ấy mới rõ cả mọi việc. Mộc vì muốn gấp gả chồng cho con gái khiến cho nàng mắc tội gian dâm, tự mình phải chuộc tội gia sản khánh kiệt. Người đàn bà láng giềng dẫn đường cho kẻ gian dâm, bị phạt đánh trượng mà chết, cái án ấy kết thúc.

Dị Sử thị nói: Chàng họ Kim là thần chăng? Dặn cho vợ đi lấy chồng, sao mà sáng suốt thế? Không giết một người nào mà mọi mối hận đều được rửa sạch, há không đáng gọi là thần sao? Người đàn bà láng giềng dụ dỗ con dâu người ta mà rốt lại con dâu mình bị gian dâm, bà Mộc thương con gái mà rốt lại giết chết con gái. Than ôi, muốn biết nhân duyên ngày sau thì cứ nhìn việc làm lúc trước, việc báo ứng chẳng cần gì phải chờ đến kiếp sau!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 140 - 141 -
Bành Hải Thu
(Bành Hải Thu)

Chư sinh Bành Hiếu Cổ ở phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) ra học ở nhà khác cách nhà khá xa, tiết Trung thu không về, vắng vẻ không có bạn. Nghĩ trong thôn không có ai chuyện trò được chỉ có Khâu sinh là danh sĩ trong huyện, nhưng vốn có tiếng xấu, Bành thường khinh bỉ. Trăng lên càng thấy buồn, bất đắc dĩ đành viết thiếp mời Khâu. Đang uống rượu thì có người gõ cửa, tiểu đồng ra xem thì là một thư sinh muốn yết kiến chủ nhân. Bành ra mời khách vào, vái chào xong cùng ngồi xuống quanh bàn rượu. Hỏi họ tên quê quán, khách đáp “Tiểu sinh là người Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), cùng họ với ông, tự là Hải Thu. Gặp đêm trăng đẹp thế này, ở nhà trọ càng thấy buồn, nghe tiếng ông cao nhã nên tự tới ra mắt". Bành nhìn thấy người ấy áo vải sạch sẽ chỉnh tề, trò chuyện phong nhã, cả mừng nói "Té ra là người đồng tông, đêm nay là đêm gì mà gặp được khách quý thế này!", liền sai rót rượu, mời mọc như bạn thân từ lâu.

Xem ý tứ thì khách có vẻ rất khinh Khâu, Khâu ngẩng lên bắt chuyện thì ngạo mạn không đáp lễ. Bành thẹn thay cho Khâu bèn nói lảng sang chuyện khác, trước tiên xin hát một khúc dân ca giúp vui, kế ngửa mặt ho hắng rồi hát khúc Hào sĩ Phù Phong* sĩ Phù Phong: bài thơ của Lý Bạch thời Đường, cùng nhau vui cười. Khách nói "Ta không biết hát, không lấy gì đáp lại khúc Dương xuân, vậy xin nhờ người khác hát thay được không?” Bành xin vâng lời. Khách hỏi ở phủ thành Lai Châu có danh kỹ nào không, Bành đáp không. Khách im lặng hồi lâu rồi nói với tiểu đồng của Bành "Ta vừa gọi một người tới ngoài cổng, cứ ra dẫn vào đây!”. Tiểu đồng ra quả thấy một cô gái đang ngập ngùng ngoài cửa bèn dẫn vào, thấy tuổi khoảng đôi tám trở lại, xinh đẹp như tiên. Bành ngạc nhiên hết sức, kéo nàng cùng ngồi.

*Hào sĩ Phù Phong: tên bài thơ của Lý Bạch thời Đường.

Cô gái mặc áo màu lá liễu, quàng khăn màu vàng, hương thơm sực nức bốn phía. Khách an ủi nói làm phiền lặn lội ngàn dặm, cô gái mỉm cười dạ dạ. Bành lấy làm lạ gạn hỏi, khách đáp "Quý địa khổ cái không có giai nhân, ta vừa phải gọi nàng đây trên thuyền ở Tây Hồ tới đấy". Rồi nói với cô gái "Khúc Chàng bạc tình nàng vừa hát trên thuyền hay lắm, xin hát lại lần nữa". Cô gái bèn ca rằng:

Bạc hãnh lang, Khiên mã tẩy xuân chiểu.
Nhân thanh viển, mã thanh yểu, giang thiên cao, sơn nguyệt tiểu.
Điệu đầu khứ bất quy, Đình trung sinh bạch hiểu.
Bất oán biệt ly đa, Đãn sầu hoan hội thiểu.
Miên hà xứ? Vật tác tùy phong nhứ.
Tiện thị bất phong hầu, Mạc hướng Lâm Cùng khứ.
Chàng bạc tình, Tắm ngựa ao xuân nọ
Giọng người xa, tiếng ngựa khuất, trời sông cao, trăng núi nhỏ
Quay đầu đi không về, trong sân ngày rạng tỏ
Ly biệt quen không hờn, Sum vầy buồn ít có
Ngủ nơi đâu? Đừng như tơ theo gió
Cho dù chẳng phong hầu, Chớ tới Lâm Cùng đó*.


* Chớ tới Lâm Cùng đó: nguyên văn là "Mạc hướng Lâm Cùng khứ", câu trong bài Cổ biệt ly của Mạnh Giao "Dục biệt khiên lang y, Lang kim đáo hà xứ? Bất hận quy lai trì, Mạc hướng Lâm Cùng khứ" (Chia tay níu áo chàng, Đi đâu vào sương gió? Chẳng hận người lâu về, Chớ tới Lâm Cùng đó). Sử ký, Tư Mã Tương Như truyện chép Tương Như người Thành Đô nhà nghèo tới nương tựa Huyện lệnh Lâm Cùng, nhân gặp con gái Trác Vương Tôn là Văn Quân mới góa chồng bèn gãy khúc phượng cầu hoàng khêu gợi, Văn Quân bèn đang đêm trốn theo Tương Như về quê nhưng nghèo khổ quá bèn cùng trở lại Lâm Cùng mở quán bán rượu. Đây ý nói đừng bỏ mất chí khí.

Khách rút chiếc sáo ngọc trong ống giày theo khúc hát mà thổi, khúc dứt thì tiếng sáo cũng ngừng. Bành kinh ngạc khen ngợi không thôi, nói "Từ Tây Hồ tới đây đâu phải chỉ ngàn dặm, thế mà trong khoảnh khắc gọi người tới được, chẳng phải là tiên sao?". Khách đáp “Đâu dám nói là tiên, nhưng coi muôn dặm chỉ như trong sân ngoài cổng. Đêm nay gió trăng trên Tây Hồ còn đẹp hơn hôm trước, không thể không tới chơi một chuyến, ông có thể đi chơi với ta không?". Bành đang muốn xem xét việc lạ liền nhận lời nói rất may mắn. Khách hỏi đi thuyền hay ngựa, Bành nghĩ ngồi thuyền đỡ mệt hơn bèn đáp xin cho đi thuyền. Khách nói "Chỗ này gọi thuyền hơi xa, trên Thiên Hà chắc có người chở đò". Bèn giơ tay lên không vẫy gọi "Thuyền ơi xuống đây! Bọn ta muốn tới Tây Hồ, không tiếc tiền thưởng đâu”. Giây lát một chiếc thuyền kết hoa từ trên không lướt xuống, mây khói vướng vít chung quanh, mọi người cùng bước lên.

Thấy một người cầm mái chèo ngắn, đoạn cuối giắt đầy lông chim dài trông như cái quạt vừa phe phẩy thì gió mát ào ào nổi lên, thuyền dần bay vào mây xanh lướt về phía nam, đi nhanh như tên bắn. Trong khoảnh khắc thuyền đáp xuống nước, chỉ nghe đàn sáo rộn ràng, chiêng trống ầm ĩ. Bước ra mũi thuyền nhìn quanh thấy trăng in khói sóng, thuyền dạo choi đông như họp chợ, những người chân sào đều gác mái chèo để mặc thuyền tự trôi, nhìn kỹ thì đúng là Tây Hồ. Khách lấy các món ăn lạ và rượu ngon sau khoang ra vui vẻ đối ẩm. Lát sau một chiếc lâu thuyền tới gần rồi đi sát bên cạnh, nhìn qua song cửa thấy trong khoang có hai ba người đang ngồi quanh bàn cờ cười nói. Khách rót một chén rượu đưa cô gái, nói "Xin cạn chén này rồi sẽ đưa nàng về". Lúc cô gái đang nâng chén, Bành lưu luyến bồi hồi, chỉ sợ nàng đi mất, bèn khẽ đạp vào chân nàng. Cô gái đưa mắt liếc ngang, Bành càng xao xuyến, xin hẹn ngày gặp lại.

Cô gái nói “Nếu thương yêu nhau, cứ hỏi tên Quyên Nương thì ai cũng biết". Khách lập tức lấy chiếc khăn lụa của Bành trao cho nàng, nói “Ta thay ông ấy ước hẹn ba năm sau”, kế đứng lên đặt cô gái vào lòng bàn tay, nói “Tiên ư! Tiên ư!" rồi kéo cửa sổ thuyền bên cạnh đưa nàng qua, song cửa sổ chỉ rộng vài tấc mà cô gái trườn qua không có gì vướng víu. Giây lát nghe thuyền bên nói "Quyên Nương tỉnh rồi", rồi lập tức lướt đi, nhìn xa xa thấy đã ghé vào bờ, người trong thuyền nhốn nháo bước lên. Bành chợt thấy mất hứng, bèn nói với khách muốn lên bờ một lúc cùng xem qua phong cảnh. Còn đang bàn bạc thì thuyền đã tự ghé vào bờ. Bành rời thuyền lên bộ dạo quanh, đi khoảng hơn một dặm thì khách phía sau đi tới, dắt một con ngựa bảo Bành giữ rồi lập tức quay đi, dặn "Đợi ta mượn thêm hai con ngựa nữa", nhưng hồi lâu không tới. Trên đường đã vắng người, ngẩng nhìn thấy trăng xế về tây, trời đã sắp rạng mà không rõ Khâu đi đâu. Bành dắt ngựa loanh quanh không biết nên đi hay ở, bèn giong cương tới nơi thuyền đậu thì cả người lẫn thuyền đều biến mất, nghĩ tới trong túi rỗng không, càng thêm lo sợ.

Trời sáng rõ, thấy trên mình ngựa có một cái túi nhỏ, lục xem thấy có ba bốn lượng bạc, bèn mua thức ăn rồi ngẩn ngơ chờ, bất giác đã đến trưa. Nghĩ bụng cứ hỏi thăm Quyên Nương sẽ dần dần hỏi được tin Khâu, nhưng nói tới tên Quyên Nương thì không người nào biết. Bành thất vọng buồn bã, hôm sau lên đường. Con ngựa rất hay, may mà không gặp chuyện gì, nửa tháng mới về tới nhà. Lúc ba người cưỡi thuyền bay lên, đứa tiểu đồng về báo chủ nhân đã lên tiên, cả nhà đau buồn khóc lóc, nghĩ rằng sẽ không về nữa. Bành buộc ngựa vào, người nhà ngạc nhiên mừng rỡ xúm lại hỏi han, Bành mới kể hết những việc kỳ lạ, lại nghĩ chỉ có mình trở về, sợ nhà Khâu biết tin sẽ qua gạn hỏi bèn dặn người nhà giữ kín. Kế lại nói tới con ngựa ở đâu mà ra, mọi người thấy là của tiên cho bèn rủ nhau ra chuồng xem, tới nơi chẳng thấy ngựa đâu, chỉ thấy Khâu sinh bị buộc cạnh chuồng bằng dây cương cỏ, phát hoảng gọi Bành ra xem.

Thấy Khâu gục đầu dưới máng cỏ, mặt xám như tro, hỏi gì cũng không đáp, chỉ chớp chớp hai mắt mà thôi. Bành bất nhẫn sai cởi dây cương vực lên giường, thấy Khâu như người mất hồn, đổ cháo cho cũng nuốt được chút ít. Đến nửa đêm hơi tỉnh muốn ra nhà xí xốc nách đưa đi thì són ra mấy cục phân ngựa. Lại cho ăn uống qua loa mới bắt đầu nói được. Bành tới cạnh giường hỏi han, Khâu kể "Sau khi rời thuyền, y dẫn ta dạo chơi trò chuyện, tới chỗ vắng vỗ đùa vào gáy, ta liền ngã ra mê man, nằm giây lát định thần nhìn lại thấy mình đã hóa ra thân ngựa, tâm trí vẫn tỉnh táo, chỉ có không nói năng được mà thôi. Chuyện này thật vô cùng nhục nhã, không thể kể cho vợ con được, xin ông đừng nói lộ ra". Bành nhận lời, sai đầy tớ dắt ngựa đưa Khâu về.

Bành từ đó không sao quên được Quyên Nương. Ba năm sau vì người anh rể làm Phán quan ở Dương Châu, Bành nhân tới thăm. Ở đó có Lương công tử là nhà thế giao mở tiệc mời Bành tới uống rượu, trong tiệc có mấy người ca kỹ đều tới yết kiến. Công tử hỏi Quyên Nương, người nhà thưa là bị ốm. Công tử túc giận nói "Con tiện tỳ lên mặt làm cao, đem dây đi trói mang lại đây cho ta". Bành nghe tên Quyên Nương, giật mình hỏi là ai, công tử đáp "Thị là con hát số một ở Quảng Lăng, có chút danh tiếng nên đâm ra vô lễ". Bành ngờ chỉ là ngẫu nhiên trùng tên nhưng vẫn hồi hộp, chỉ mong được thấy mặt ngay. Không bao lâu Quyên Nương tới, công tử giận dữ kể tội. Bành nhìn kỹ thì đúng là người đã gặp hôm Trung thu, bèn thưa với công tử "Nàng này với ta là chỗ quen biết cũ, mong ông tha cho". Quyên Nương nhìn kỹ Bành, dường như có vẻ ngạc nhiên. Công tử chưa hỏi kỹ lại, cứ sai mời rượu. Bành hỏi còn nhớ khúc Chàng bạc tình không, Quyên Nương càng kinh hãi, nhìn Bành chằm chằm rồi mới cất tiếng hát, nghe giọng hát vẫn giống như đêm Trung thu năm trước.

Rượu tàn, công tử sai nàng hầu hạ chăn gối cho khách. Bành nắm tay nàng hỏi “Lời hẹn ba năm hôm nay mới làm được chăng?” Quyên Nương đáp “Năm trước theo người ta chơi thuyền ở Tây Hồ, thiếp uống chưa được mấy chén chợt như say, lúc mơ mơ hồ hồ bị một người nhấc lên đặt xuống một thôn, có một tiểu đồng dẫn thiếp vào nhà, thấy trên chiếu rượu có ba người mà chàng là một. Sau đó đi thuyền tới Tây Hồ, người ta đưa thiếp về thuyền cũ qua song cửa sổ, nắm tay ân cần từ biệt. Mỗi khi nhớ lại vẫn nghĩ là mộng ảo, nhưng chiếc khăn lụa sờ sờ ra đó, thiếp vẫn trân trọng cất giữ". Bành kể lại mọi việc rồi cùng nhau than thở, Quyên Nương co người rúc vào lòng Bành, nức nở nói "Người tiên đã làm mối cho nhau, xin chàng đừng cho thiếp là kẻ phong trần vứt đi mà quên người trong bể khổ". Bành đáp "Lời hẹn trên thuyền chưa từng ngày nào lãng quên, nếu nàng có lòng thì ta có phải dốc túi bán ngựa cũng không tiếc". Sáng hôm sau Bành kể với công tử, lại mượn anh rể ngàn vàng xóa sổ cho nàng rồi đưa nhau về quê. Tình cờ tới gian nhà riêng của Bành, nàng vẫn nhận ra được nơi uống rượu năm xưa.

Dị Sử thị nói:Ngựa mà là người, ắt kẻ ấy làm người cũng như là ngựa, bảo làm ngựa thì hận là không được làm người đó thôi. Voi cọp loan hạc cũng đều phải chịu thắng yên buộc cương, sao có thể nói đó không phải là lòng nhân ái của thần tiên? Nếu có ước hẹn ba năm thì cũng phải vượt qua bể khổ vậy.
 
141. Chàng Rể Mới
(Tân Lang)

Hiếu liêm Mai Ngẫu Trường người Giang Nam nói ông Tôn người cùng hương làm Huyện lệnh Đức Châu từng xử một vụ án lạ. Lúc đầu trong thôn có người cưới vợ cho con trai, ngày đón dâu thân thích láng giềng đều tới mừng. Uống rượu đến khuya, chàng rể ra, thấy cô dâu ăn mặc đẹp đẽ đi vòng ra sau nhà, sinh nghi đuổi theo. Sau nhà có khe nước dài, có chiếc cầu nhỏ bắc qua, cô dâu mới bước lên cầu đi luôn. Chàng rể càng ngờ vực, gọi thì cô dâu không đáp, chỉ lấy tay vẫy chồng, chồng vội đuổi theo, chỉ cách gang tấc mà không sao đuổi kịp. Đi vài dặm vào tới một thôn, vợ dừng lại nói "Nhà chàng vắng vẻ, ta không quen ở, xin mời chàng tạm tới ở nhà thiếp, vài ngày sẽ lại về” nói xong giơ tay gõ cửa, có đứa nữ đồng ra mở cửa, vợ bước vào trước, y bất đắc dĩ vào theo. Vào trong thấy cha mẹ vợ đều ngồi trên sảnh, nói với con rể rằng "Con gái ta lúc nhỏ được nuông chiều, chưa từng rời ra một khắc, nay một sớm rời nhà nên trong lòng nhưng nhớ. Nay cùng chồng về đây ta rất thỏa lòng, cứ ở đây vài hôm ta sẽ sai người đưa về". Rồi cắt nhà riêng cho ở, giường gối đều đầy đủ, y bèn ở lại.

Khách ở nhà thấy chàng rể lâu quá không tới đổ ra đi tìm, thấy trong phòng chỉ có cô đâu mới mà không biết là chồng đi đâu. Tìm kiếm hỏi han khắp xa gần cũng không có tin tức gì, cha mẹ rơi lệ cho rằng đã chết rồi. Được nửa năm, nhà bên vợ thương con gái không có chồng, bèn xin với cha mẹ chú rể cho con gái mình lấy chồng khác. Người cha càng đau buồn, nói "Không tìm thấy xương cốt quần áo gì, làm sao biết được con ta đã chết? Mà nếu nó chết thì chôn cất xong cũng phải một năm mới được tái giá, nay sao lại gấp gáp như vậy?", cha cô gái càng tức giận bèn kiện lên quan. Ông Tôn lấy làm lạ lùng nhưng không biết làm sao, ra lệnh phải chờ ba năm, giữ lại cái án ấy để xét sau. Chàng rể ở nhà cô gái, người nhà cũng rất chiều chuộng, thường bàn việc trở về, vợ ưng thuận nhưng cứ lần lữa không đi ngay. Được nửa năm y nóng ruột không yên tâm muốn về một mình, nhưng vợ cố giữ lại.

Một hôm cả nhà nhớn nhác như có tai họa, cha vợ vội vàng nói với con rể "Vốn định hai ba hôm sẽ đưa vợ chồng về, không ngờ quần áo tư trang còn chưa đủ, nay lại gặp tai họa, bất đắc dĩ xin đưa con về trước". Kế đưa y ra cửa rồi quay ngay vào, có vẻ rất vội vàng. Y đang tìm đường đi, quay lại nhìn thì thấy nhà cửa đều biến mất, chỉ thấy một ngôi mộ cao, cả sợ tìm đường về ngay nhà. Về tới nhà kể lại hết đầu đuôi nhân lại lên quan kể lại, ông Tôn bắt cha cô gái lên khuyên dụ lại đưa cô gái về, lúc ấy mới làm lễ hợp cẩn.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 142 - 143 -
Đảo Tiên
(Tiên Nhân Đảo)

Vương Miễn tự Mẫn Trai người đất Linh Sơn (thuộc tỉnh Quảng Đông) có văn tài, nhiều lần đỗ đầu văn trường nên tính khí kiêu ngạo, hay chửi mắng làm nhục nhiều người. Tình cờ gặp một đạo sĩ, ông nhìn Vương nói “Tướng ông rất sang, nhưng vì khinh bạc bị chiết trừ gần hết rồi. Trí tuệ như ông, nếu sửa mình tu đạo thì còn có thể được ghi tên vào sổ tiên". Vương cười khẩy nói "Phúc trạch thế nào thật không biết được, mà chẳng lẽ trên đời lại có tiên sao?". Đạo sĩ nói "Kiến thức của ông sao lại kém thế? Chẳng cần tìm đâu xa, như ta chính là tiên đây". Vương càng cười là khoác lác, đạo sĩ nói “Ta thì có gì đáng lạ, nếu chịu đi theo ta thì có thể gặp ngay vài mươi vị chân tiên”. Vương hỏi ở đâu, đạo sĩ đáp "Chỉ trong gang tấc”, rồi kẹp gậy vào giữa hai đùi, đưa một đầu cho Vương bảo cưỡi như mình, dặn Vương nhắm mắt rồi quát lớn một tiếng "Bay". Vương thấy gậy to ra hơn chiếc túi đựng năm đấu gạo bay lên không, lén sờ vào thấy vẩy cứng xếp lớp, sợ quá không dám động đậy. Giây lát đạo sĩ quát “Dừng lại!", gậy liền thu lại hạ xuống một phủ đệ lớn lầu gác nối nhau liên tiếp như nơi ở của bậc đế vương.

Có ngôi đài cao hơn trượng, trên đài có mười một tòa điện tráng lệ đẹp đẽ không đâu sánh được. Đạo sĩ dẫn Vương lên, sai tiểu đồng bày tiệc mời khách. Trên điện đặt mấy mươi bàn tiệc, bàn ghế màn trướng nhìn hoa cả mắt, đạo sĩ thay quần áo đẹp đẽ để chờ. Giây lát khách khứa từ trên không đáp xuống, người cưỡi rồng cọp, kẻ cưỡi loan phượng không như nhau, ai cũng mang theo nhạc khí, lại có người là đàn bà, có người là đàn ông, đều để chân trần. Trong đám duy có một người đẹp cưỡi chim phượng sặc sỡ, ăn mặc kiểu trong cung, có đứa thị nhi ôm một nhạc khí dài khoảng năm thước trở lại, không phải đàn cầm không phải đàn sắt, chẳng biết là đàn gì. Tiệc rượu bắt đầu, món ngon vật lạ đầy bàn, ăn vào thấy thơm ngon khác hẳn thức ăn dưới trần.

Vương ngồi im lặng, chỉ chăm chú nhìn người đẹp, trong lòng ưa người lại muốn nghe nhạc, chỉ sợ rốt lại nàng không đàn bản nào. Rượu tàn, một ông già nói lớn "Được Thôi chân nhân có nhã ý gọi tới, hôm nay có thể nói là hội lớn, nên thả sức vui vẻ. Xin những ai mang nhạc khí cùng loại thì họp thành đội để tấu nhạc". Thế là ai vào đội ấy, tiếng tơ trúc dìu dặt vang tới trời cao, duy nàng cưỡi chim phượng thì tài đàn không ai sánh kịp. Khi đàn sáo đều đã im tiếng, đứa thị nhi mới mở túi gấm lấy đàn ra đặt ngang trên ghế, cô gái rung cổ tay ngọc như gảy đàn tranh, tiếng lớn gấp bội đàn cầm, mãnh liệt đủ có thể hởi dạ, êm đềm thì có thể tiêu hồn. Đàn khoảng nửa thời gian nấu chín nồi cơm, cả điện im phăng phắc không có một tiếng ho, hết khúc thì một tiếng ngân lớn vang rền như gõ vào khánh đá. Mọi người cùng khen ngợi, nói "Bản đàn của Vân Hòa phu nhân tuyệt diệu thật", kế đều đứng lên cáo biệt, hạc kêu rồng ngâm cùng lúc tan đi cả.

Đạo sĩ bèn đặt giường ngà nệm gấm cho Vương ngủ. Vương vừa gặp người đẹp lòng đã rung động, sau khi nghe nhạc càng thêm tơ tưởng, nghĩ mình có tài năng, muốn hiển đạt công danh dễ như nhổ cỏ, khi đã được phú quý rồi muốn gì chẳng được, khoảnh khắc trong lòng ngổn ngang trăm mối. Đạo sĩ như đã biết, nói với Vương "Ông kiếp trước là bạn học với ta, sau vì không bền chí nên sa vào lưới tục. Ta vẫn không coi ông là người lạ, thật tình muốn đưa ông ra khỏi vũng nước đục. Không ngờ ông mê muội đã sâu, mờ mịt không gọi tỉnh được. Nay sẽ đưa ông về, chưa hẳn không có ngày gặp lại, nhưng muốn làm tiên trên trời thì phải đến kiếp sau”. Rồi chỉ phiến đá dài dưới thềm bảo Vương nhắm mắt ngồi lên, dặn kỹ không được nhìn. Kế lấy roi quất đá bay lên, Vương nghe tiếng gió rít ù ù bên tai, không biết đã đi được bao xa, chợt nghĩ chưa nhìn rõ cảnh vật phía dưới xem ra sao bèn lén hé mắt thì thấy biển lớn mênh mông không có bờ bến, cả sợ lập tức nhẳm mắt lại nhưng người đã theo đá cùng rơi xuống bùm một tiếng mất tăm như chim âu lặn. May là vốn ở gần biển nên hơi biết bơi, nghe có người vỗ tay reo “Hụt chân đẹp lắm!". Đang lúc nguy cấp thì có một cô gái kéo lên thuyền, nói “May mắn may mắn, Tú tài trúng nước rồi!", Vương nhìn thì thấy nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp.

Vương ra khỏi nước rét run xin đốt lửa hơ áo, cô gái nói "Theo ta về nhà sẽ có cách, nếu được vừa ý xin đừng quên nhau”. Vương nói “Sao lại nói thế? Ta là tài tử ở Trung nguyên, ngẫu nhiên gặp chuyện không may, nếu qua được con quẫn bách này xin lấy thân đền đáp, đâu chỉ không quên mà thôi". Cô gái chống sào đẩy thuyền đi nhanh như bay, chốc lát đã tới bờ, lấy bó hoa sen mới hái trong thuyền lên rồi dẫn Vương cùng đi. Đi được nửa dặm thì vào thôn, tới một ngôi nhà cánh cổng sơn son quay về hướng Nam, qua mấy lần cổng, cô gái vào trước. Lát sau một người đàn ông bước ra, khoảng hơn bốn mươi tuổi, vái chào mời lên thềm, sai người hầu lấy mũ áo giày tất cho Vương thay, kế hỏi nhà cửa quê quán. Vương đáp “Không dám dối nhau, chắc ông có nghe qua tài danh của ta. Thôi chân nhân rất yêu mến gọi lên trời, nhưng ta tự nghĩ công danh dễ như trở bàn tay nên không muốn ẩn dật”. Người đàn ông đứng lên kính cẩn nói “Nơi đây gọi là Đảo tiên, xa hẳn cõi người. Ta tên Văn Nhược họ Hoàn, mấy đời sống nơi hẻo lánh, may sao lại được gặp bậc tài danh” rồi đặt tiệc ân cần mời mọc.

Kế thong thả nói "Ta có hai con gái, đứa lớn là Phương Vân được mười sáu tuổi, đến nay chưa gặp người xứng đôi, muốn cho hầu hạ bậc cao nhân, ông thấy sao?”, Vương nghĩ là cô gái hái sen bèn đứng dậy cảm tạ. Hoàn mời vài người tuổi cao đức cả trong làng đến, nhìn quanh một lượt rồi lập tức sai gọi con gái. Không bao lâu nghe có mùi hương lạ sực núc, hơn mười tỳ nữ xinh đẹp đỡ Phương Vân ra, xinh xắn lộng lẫy như hoa sen chiếu nắng sớm. Nàng vái chào rồi ngồi xuống, các tỳ nữ đứug hầu, cô gái hái sen cũng trong số đó. Rượu được vài tuần thì một cô gái để tóc bím từ trong ra, mới hơn mười tuổi mà dáng vẻ đã xinh đẹp, tươi cười dựa vào khuỷu tay Phương Vân, ánh mắt long lanh. Hoàn nói "Con gái không ở trong phòng, ra đây làm gì?”, rồi quay ra nói “Đây là Lục Vân, con gái nhỏ của ta, cũng khá thông minh, nhớ được nhiều sách vở". Nhân bảo ngâm thơ cho khách nghe, cô gái bèn đọc ba bài Trúc chi từ, giọng ngâm êm ái dễ nghe. Hoàn cho nàng ngồi cạnh chị rồi nói “Vương lang là bậc thiên tài, văn thơ ắt nhiều lắm, có thể cho ta được nghe chỉ dạy không?". Vương hiên ngang đọc một bài thơ cận thể rồi tự đắc nhìn quanh, trong có hai câu "Một thân thừa chút râu mày đó, Nửa hớp cho tan uất hận này", ông già láng giềng đọc đi đọc lại, Phương Vân cúi đầu nói "Câu trên là Tôn Hành Giả rời động Hỏa Vân, câu dưới là Trư Bát Giới qua sông Tử Mẫu”* cả tiệc vỗ tay cười ầm.

*Câu trên... Tử Mẫu: Tây du ký thuật việc Tôn Ngộ Không tới động Hỏa Vân bị yêu ma là Hồng Hài nhi phóng lửa tam muội đốt suýt chết và việc Trư Bát Giới tới nước Tây Lương uống nước sông Tử Mẫu nên có thai, phải uống nước suối Giải thai mới khỏi, đây Phương Vân dẫn ra để xuyên tạc hai câu thơ đầy "khẩu khí anh hùng" của Vương Miễn.

Hoàn xin đọc bài khác, Vương bèn đọc bài thơ Chim nước "Đầu đầm kêu kíu kít...", chợt quên mất câu kế, còn đang nhớ lại thì Phương Vân ghé tai em thầm thì rồi che miệng cười. Lục Vân thưa với cha “Chị ấy nối câu tiếp theo cho anh rể, là Mông chó vãi bì bùm", cả tiệc lại cười ồ, Vương có vẻ thẹn. Hoàn trừng mắt nhìn Phương Vân, khi Vương đã có vẻ bình tĩnh rồi lại xin Vương đọc văn. Vương cho rằng người ngoài cõi trần không biết văn bát cổ bèn khoe bài làm được chấm hạng nhất ở trường, đầu đề là hai câu "Hiếu thay, Mẫn Tử Khiên...”, câu phá đề là "Thánh nhân khen lòng hiếu của bậc đại hiền...” Lục Vân nhìn cha nói “Thánh nhân không gọi học trò bằng tên tự, câu "Hiếu thay...” ắt là lời của kẻ khác", Vương nghe thấy cụt hứng. Hoàn cười nói "Trẻ con biết gì! Không cốt chuyện ấy, chỉ cần bàn văn thôi".

Vương bèn đọc tiếp, cứ được vài câu hai chị em lại nói khẽ vào tai nhau như bình luận nhưng thì thào nên không nghe rõ. Vương đọc đến đoạn hay, thuật lại cả lời bình của học quan rằng "Chữ chữ đều thống thiết”, Lục Vân nói với cha “Chị nói nên bỏ chữ "thiết” đi”. Mọi người đều không hiểu, Hoàn sợ con ăn nói khó nghe nên không dám gạn hỏi. Vương đọc xong lại thuật lời tổng bình, trong có câu "Trống yết đánh một tiếng thì muôn hoa đều rụng”. Phương Vân lại che miệng nói vào tai em, hai người cùng cười không ngẩng lên được. Lục Vân lại nói với cha "Chị nói trống yết phải đánh bốn tiếng", mọi người vẫn không hiểu. Lục Vân máy miệng định nói, Phương Vân nín cười quát "Con nhãi mà nói thì ta đánh chết!". Mọi người ngờ vực cứ đoán mò này nọ, Lục Vân không nhịn được bèn nói “Bỏ chữ "thiết” đi, nói “thống” tức là “bất thông”*. Đánh bốn tiếng trống là “bất thông lại bất thông" vậy”. Mọi người cười ầm, Hoàn nổi giận quát con rồi đứng lên rót rượu xin lỗi mãi.

* "Thống tức là "bất thông”: theo Đông y, nếu trên người có chỗ nào đau thì đó là vì huyết mạch không lưu thông, Phương Vân nhân đó để chê văn của Vương Miễn là bất thông.

Vương lúc đầu thị tài kiêu căng, trong mắt không coi ai ra gì, đến lúc ấy hùng khí tiêu tan, mồ hôi đầm đìa. Hoàn xin lỗi an ủi, nói "Vừa nghĩ được một câu xin mọi người cùng đối: Vương tử thân biên, vô hữu nhất điểm bất tự ngọc” (Bên cạnh chàng Vương, chẳng có điểm nào không tựa ngọc). Mọi người chưa kịp đối thì Lục Vân đọc ngay "Mẫn ông đầu thượng, tái trước bán tịch tức thành quy" (Trên đầu ông Mẫn, thêm vào tịch nữa sẽ thành rùa)”* Phương Vân cười sặc sụa véo sườn em liền mấy cái. Lục Vân giằng ra bỏ chạy, quay lại nói "Việc gì đến chị? Chỉ mắng anh ấy bao nhiêu thì không thấy là sai, người ta nói một câu lại không cho à?”. Hoàn quát nạt mới cười rồi đi. Các ông già láng giềng cáo từ xong, các tỳ nữ dẫn vợ chồng vào phòng, đèn nến giường màn đã sắp đặt tươm tất. Vương thấy trong phòng tân hôn sách vở đầy giá không thiếu loại nào, hỏi qua những chỗ khó vợ đều trả lời trôi chảy, lúc ấy mới thấy xấu hổ vì hiểu biết của mình còn nông cạn.

*Vương tử... thành rùa: đôi vế đối này là chơi chữ. Trong Hán tự chữ vương thêm một chấm bên cạnh thì thành chữ ngọc, đây ông Hoàn có ý tán tụng Vương Miễn cái gì cũng hay, còn chữ Mẫn thêm chữ tịch (đêm) thì thành chữ quy (con rùa), đây Lục Vân có ý chế nhạo Vương Miễn là đến đêm tân hôn sẽ trở thành đần độn luôn như con rùa, vì Vương Miễn tên tự là Mẫn Trai.

Phương Vân gọi Minh Đang thì cô gái hái sen chạy tới vâng dạ, nhờ vậy Vương mới biết tên nàng. Vương mấy lần bị châm chọc, e rằng trong chốn khuê phòng không được coi trọng, may là Phương Vân tuy ác khẩu nhưng trong chốn phòng the lại rất đằm thắm. Vương ở yên rảnh rỗi lại ngâm nga, vợ nói "Thiếp có lời hay, không biết chàng có chịu nghe theo không?”. Hỏi lời gì thì nàng đáp “Từ nay chàng đừng làm thơ nữa, cũng là một cách che giấu cái dở của mình đấy", Vương xấu hổ quá bèn gác bút luôn. Lâu ngày dần thân mật với Minh Đang, bèn nói với Vân rằng "Minh Đang có cái ơn cứu mạng cho tiểu sinh, xin ít nặng lời cau mặt với nàng". Phương Vân ưng thuận, cứ những lúc vợ chồng vui chơi trong phòng cũng gọi nàng, đôi bên càng ưa nhau, thường ngầm tỏ tình ý.

Phương Vân hơi biết, nhiều lần trách móc nhưng Vương cứ mồm năm miệng mười ra sức thanh minh. Một đêm cùng uống rượu, Vương cho là vắng vẻ, bảo vợ gọi Minh Đang. Phương Vân không chịu, Vương nói “Sách gì nàng cũng đọc, sao chẳng nhớ mấy chữ Độc lạc nhạc*?”. phương Vân nói "Thiếp nói chàng bất thông, nay càng nghiệm. Cách chấm câu còn chưa biết à? Mình cần thì thích người khác cũng cần, nhưng nói tới chuyện vui mà hỏi có cần không thì đáp không**", Vương phì cười bèn thôi. Gặp buổi chị em Phương Vân có hẹn với cô gái láng giềng, Vương được dịp liền dẫn Minh Đang vào, ân ái hết mực. Đến tối thấy bụng dưới hơi đau mà dương vật rụt hết vào, cả sợ nói với Phương Vân. Vân cười nói "Chắc vì báo ơn Minh Đang rồi”. Vương không dám giấu bèn khai thật, Phương Vân nói "Chàng tự chuốc họa, thật thiếp không còn cách nào. Nếu không đau ngứa thì để mặc thế cũng được”.

*Độc lạc nhạc: lấy từ câu trong Mạnh tử “Độc lạc nhạc dữ chúng lạc nhạc, thục lạc?" (Một mình vui nhạc và cùng mọi người vui nhạc, cái nào vui hơn?).

**Mình cần... đáp không: nguyên văn là "Độc yếu nãi lạc ư nhân yếu, vấn lạc thục yếu hồ, viết bất"

Mấy ngày sau không khỏi, Vương lo lắng kém vui, Phương Vân biết ý nhưng không hỏi gì, chỉ chăm chú nhìn chồng, ánh mắt như nước thu trong vắt, sáng như sao buổi sớm. Vương nói "Nàng có thể nói trong lòng ngay thẳng nên mắt sáng”, Phương Vân cười nói "Còn chàng thì có thể nói trong lòng không ngay thẳng nên mất sáng". Bởi người ta thường nói chữ mất gần như chữ mắt nên nàng lấy đó để đùa. Vương cười ngất năn nỉ xin chữa cho, nàng nói "Chàng không chịu nghe lời nói phải, trước đây chưa chắc đã không nghi là thiếp ghen chứ biết đâu là đứa tỳ nữ ấy vốn không thể gần gũi. Lúc trước thật vì yêu thương mà nói, nhưng chàng cứ như đàn khảy tai trâu nên phát ghét bỏ mặc không hỏi tới, nếu không đã chữa cho rồi. Nhưng thầy thuốc phải thăm chỗ đau trước". Rồi sờ vào dưới áo Vương niệm chú rằng "Chim vàng, chim vàng, chớ đậu cành gai", vương bất giác cười lớn, cười xong thì khỏi bệnh. Mấy tháng sau Vương vì còn cha già con nhỏ thường nhớ nhung, tỏ ý với vợ. Nàng nói "Về thì không khó, nhưng không có ngày sum họp nữa mà thôi". Vương sa nước mắt xin cùng về, nàng nghĩ đi nghĩ lại mới ưng thuận.

Ông Hoàn bày tiệc tiễn, Lục Vân cầm giỏ vào nói "Chị sắp đi xa mà không có gì tặng, chỉ sợ khi tới Hải Nam không có nhà mà ở nên đêm qua đã làm giúp chị lầu gác, xin đừng chê là sơ sài". Phương Vân cảm ơn nhận lấy, Vương tới gần xem thì là cỏ nhỏ tết làm lầu gác, ngôi lớn thì bằng quả cam, ngôi nhỏ thì bằng quả quít, khoảng hơn hai mươi gian, kèo cột rui mè đều rõ ràng, bên trong đủ cả giường nằm rèm trướng to bằng hạt vừng. Vương coi như đồ chơi của trẻ con nhưng thầm khen cô nhỏ khéo tay. Phương Vân nói “Nói thật với chàng bọn thiếp đều là địa tiên, vì có túc duyên nên được theo nhau, vốn không có ý bước tới cõi trần nhưng vì chàng còn có cha già nên không nỡ trái lời. Khi nào cha đủ tuổi trời thì phải trở lại đây" Vương kính cẩn xin vâng. Hoàn hỏi muốn đi thuyền hay đi xe, Vương sợ sóng gió nguy hiểm nên xin đi đường bộ. Ra thì thấy ngựa xe đã chờ ngoài cổng bèn từ biệt lên đường. Xe ngựa đi nhanh như bay, chốc lát tới bờ biển, Vương lo không có đường đi. Phương Vân rút ra một tấm lụa trắng ném về phía nam, tấm lụa biến thành con đê dài bề rộng vài trượng, chớp mắt xe ngựa phóng qua, đê cũng rút lại dần. Tới một chỗ nước triều tràn lên, bốn phía mênh mông, Phương Vân bảo dừng lại rồi xuống xe lấy những lầu gác bằng cỏ ra, cùng mấy người bọn Minh Đang bày biện theo thứ lớp, chớp mắt đã hóa thành một phủ đệ lớn. Mọi người cùng vào cởi bỏ hành lý ra, thấy không khác gì lúc còn trên đảo, những bàn ghế giường tủ trong phòng ngủ cũng giống hệt. Lúc ấy trời đã tối bèn ngủ đêm ở đó.

Sáng hôm sau Phương Vân bảo Vương về đón cha mẹ. Vương sai thắng ngựa phóng về làng cũ, tới nơi thì nhà cửa đã thuộc về người khác. Hỏi người làng mới biết mẹ và vợ đều đã chết, chỉ còn cha già. Con trai Vương mê cờ bạc bán sạch nhà cửa ruộng vườn, ông cháu không có chỗ ở phải thuê nhà tại thôn tây trú ngụ. Vương lúc mới trở về vẫn còn ý niệm công danh chưa dứt, khi nghe chuyện nhà như thế trong lòng đau xót, thầm nghĩ nếu được giàu sang cũng chỉ như ảo ảnh. Bèn phóng ngựa qua thôn tây thấy cha ăn mặc rách rưới, mặt mày già sọm rất thương xót, cha con gặp nhau khóc lạc cả tiếng. Hỏi tới thằng con hư đốn thì đi đánh bạc chưa về, Vương bèn chở cha đi. Phương Vân lạy chào xong, nấu nước mời cha chồng tắm rồi đưa áo gấm cho ông mặc, dọn phòng sạch cho ông nghỉ, kế lại mời các bạn già cũ tới chơi với cha, phụng dưỡng còn hơn các nhà thế tộc.

Một hôm đứa con tìm tới, Vương cấm cửa không cho vào, chỉ cho hai mươi lượng vàng, sai người nhắn rằng "Cầm về cưới vợ rồi lo làm ăn, nếu còn tới nữa thì sẽ đánh cho chết tươi”, đứa con khóc lóc mà đi. Vương từ khi trở về rất ít giao du, nhưng nếu bạn cũ tình cờ tới thăm thì tiếp dãi ân cần, khiêm nhường khác xa ngày trước. Riêng có Hoàng Tử Giới vốn là bạn học thuở trước cũng là bậc danh sĩ mà lận đận thì Vương giữ lại chơi rất lâu, thường kể chuyện kín cho nghe, biếu tặng rất hậu. Được ba bốn năm thì Vương ông mất, Vương bỏ hàng vạn quan tiền chôn cất, tống táng đủ lễ. Bấy giờ con trai Vương đã lấy vợ, vợ kiềm thúc rất chặt chẽ nên cũng bớt cờ bạc. Ngày chôn cất Vương ông nàng mới được ra mắt cha mẹ chồng, Phương Vân vừa gặp đã biết là người giỏi việc nhà bèn cho vợ chồng ba trăm lượng vàng để mua ruộng đất nhà cửa. Hôm sau Hoàng và con Vương tới thăm hỏi thì lầu gác đều biến mất không biết là ở đâu.

Dị Sử thị nói:Có người đẹp bên cạnh là điều mà người ta mong cầu cả khi ở giữa nơi địa ngục, huống chi là ở cõi hưởng thọ vô cùng sao? Địa tiên gả con gái đẹp xuống trần, chỉ sợ nơi cửa khuyết của Thượng đế sẽ vắng vẻ không còn ai nữa. Nhưng kẻ khinh bạc thì bị tước giảm lộc số, lý vốn là thế, sao người tiên lại không e ngại nhỉ? Song lời lẽ của người vợ đè nén y sao mà tai ác thế?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 143 - 144 -
Hồ Tứ Nương
(Hồ Tứ Nương)

Trình Hiếu Ân người đất Kiếm Nam (tỉnh Tứ Xuyên), lúc trẻ rất thông minh, giỏi văn chương. Cha mẹ đều mất sớm, nhà nghèo không có chút của cải, không biết làm gì để sống, tới xin làm thuê giữ việc sổ sách cho quan Thông chính ty họ Hồ. Ông Hồ sai làm văn để thử tài, rất hài lòng, nói "Người này không nghèo mãi được, có thể gả con gái cho”. Ông Hồ có ba trai bốn gái, đều đã hứa cưới gả cho các nhà đại gia ngay từ lúc mới sinh ra, chỉ có con gái út là Tứ Nương là con người thiếp, mẹ mất sớm nên đến tuổi cập kê vẫn chưa hứa gả cho ai, bèn gả cho Trình. Có kẻ chê cười cho rằng ông Hồ già nua lú lẫn, nhưng ông không hề đếm xỉa tới, cắt nhà cho sinh ở, chu cấp rất đầy đủ. Các công tử khinh bỉ không thèm ngồi ăn chung với Trình, bọn tôi tớ cũng về hùa. Sinh im lặng không so hơn kém, chỉ ra sức học hành. Bọn họ dè bỉu chê bai, Trình vẫn học hành không nghỉ, họ làm ầm ĩ cạnh chỗ học thì Trình mang sách vào phòng vợ ngồi đọc. Lúc trước khi Tứ Nương chưa lấy chồng, có người thầy bói giỏi biết số phận sang hèn xem tướng cho cả nhà đều không khen ngợi ai, chỉ khi Tứ Nương tới mới nói "Cô này đúng là bậc quý nhân". Đến khi Tứ Nương lấy Trình, các chị em đều gọi là quý nhân để chế nhạo. Nhưng Tứ Nương đoan chính cẩn trọng ít nói, cứ làm như không nghe thấy, dần dần tới bọn tớ gái cũng gọi như vậy.

Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Quế Nhi nghe thế rất bực tức, nói lớn "Biết đâu lang quân nhà ta làm nên bậc quý quan thì sao?". Người chị thứ hai của Tứ Nương nghe thấy khinh bỉ nói "Trình lang mà làm được quý quan thì khoét tròng mắt ta đi". Quế Nhi tức giận nói “Chỉ sợ lúc ấy không móc tròng mắt ra được thôi". Người chị thứ hai của Tứ Nương có đứa tỳ nữ tên Xuân Hương thấy thế nói “Nhị Nương mà nuốt lời ta sẽ móc mắt thay cho". Quế Nhi càng tức tối đập tay Xuân Hương lập lời thề, nói "Đánh cuộc hai tròng mắt đấy". Nhị Nương giận là hỗn láo tát Quế Nhi, Quế Nhi kêu gào rầm rĩ, phu nhân nghe biết chuyện nhưng không biết bênh vực ai, chỉ nhếch mép cười. Quế Nhi về kêu khóc với Tứ Nương, Tứ Nương đang kéo sợi không tức giận cũng không nói gì, chỉ bình thản kéo sợi như không nghe thấy.

Gặp ngày sinh nhật của ông Hồ, các con rể đều tới mang quà mừng thọ chất đầy sân. Đại Nương đùa hỏi Tứ Nương “Nhà ngươi mừng thọ vật gì?", Nhị Nương nói “Hai con mắt mang một cái mồm", Tứ Nương thản nhiên không hề tỏ vẻ xấu hổ, mọi người thấy nói gì nàng cũng như không hiểu, càng xúm vào chế nhạo. Chỉ có người thiếp yêu của ông Hồ là Lý thị, mẹ ruột của Tam Nương là coi trọng Tứ Nương, thường quan tâm thương xót nàng, vẫn nói với Tam Nương rằng "Tứ Nương bên trong thông minh mà bề ngoài chất phác, giữ kín khôn ngoan không để lộ ra, bọn ranh con kia đều không tự biết mình đang trong cõi bao la, huống hồ Trình lang ngày đêm ra sức học hành, há lại ở dưới người măi sao? Con đừng có học thói xấu của họ, cứ đối xử với nàng cho tốt, ngày khác còn dễ nhìn mặt nhau”, nên Tam Nương mỗi khi về thăm nhà vẫn trò chuyện vui vẻ với Tứ Nương. Năm ấy Trình nhờ ông Hồ được vào học trường huyện, năm sau quan Học sứ về khảo thí sĩ tử thì ông vừa chết, Trình cư tang như con ruột, chưa được dự thi. Kế mãn tang, Tứ Nương đưa tiền cho bảo lên đường dự thi khoa Di tài, dặn rằng "Trước nay ở đây lâu mà không bị đuổi đi là nhờ có cha già còn sống, nay thì muôn phần không được nữa, nếu chàng thi đỗ thì may ra lúc trở về mới có nhà ở thôi". Lúc Trình lên đường, Lý thị và Tam Nương tặng tiễn rất hậu. Trình vào trường ra sức nghiền ngẫm làm bài, quyết tâm thi đỗ bằng được. Nhưng không bao lâu ra bảng thì bị đánh rớt, rầu rĩ uất ức khó nỗi trở về. May là trong túi còn tiền, bèn lên đường vào kinh. Lúc ấy bên nhà vợ có nhiều người làm quan trong kinh, Trình sợ họ biết được chế nhạo mĩa mai bèn thay tên đổi họ, khai dối quê quán xin náu thân ở nhà bậc quan lớn.

Quan Ngự sử họ Lý người Đông Hải (huyện Diệm Thành tỉnh Sơn Đông) gặp Trình rất quý trọng, nhận làm môn khách, giúp cho tiền bạc học hành, nộp tiền mua cho chức Cống sinh bảo ứng thí ở phủ Thuận Thiên. Trình thi mấy kỳ đều đỗ, được trao chức Thứ Cát sĩ, lúc ấy bèn nói thật mọi chuyện. Ông Lý cho mượn ngàn lượng vàng, sai người tới Kiếm Nam mua nhà cho Trình trước. Lúc ấy Hồ Đại Lang vì cha chết nên bán những nhà đẹp ruộng tốt nhân mua lấy, sau đó sai xe ngựa tới đón Tứ Nương. Trước là khi Trình thi đỗ Tiến sĩ có người tới báo tin mừng, cả nhà nghe thấy phát ghét, lại nhìn thấy tên họ không phải là Trình bèn quát đuổi đi. Gặp hôm Tam Lang cưới vợ, khách khứa thân thích tới ăn mừng, các anh chị em đều có mặt, chỉ Tứ Nương là không được anh trai chị dâu gọi tới. Chợt có một người chạy vào dâng thư của Trình gởi Tứ Nương, các anh em mở ra xem, nhìn nhau tái mặt. Khách khứa thân thích trong tiệc đều xin gặp Tứ Nương, các chị em đều lo lắng chỉ sợ Tứ Nương căm hòn không chịu tới.

Không bao lâu thấy nàng thong thả bước vào, kẻ thì chúc mừng, kẻ thì mời ngồi, kẻ thì hỏi thăm ầm ĩ cả phòng. Ai nghe cũng nghe Tứ Nương, ai nhìn cũng nhìn Tứ Nương, ai nói cũng nhắc Tứ Nương, nhưng Tứ Nương vẫn bình thản như cũ. Mọi người thấy nàng vẫn thế cũng hơi yên tâm, rồi đó tranh nhau rót rượu mời Tứ Nương. Đang lúc ăn uống vui vẻ, chợt ngoài cửa có tiếng kêu khóc rất gấp, cả tiệc lạ lùng hỏi nhau, chợt thấy Xuân Hương chạy xộc vào, mặt mũi đầy máu. Mọi người cùng hỏi, cô ta chỉ khóc không đáp, Nhị Nương quát hỏi mới mếu máo thưa “Quế Nhi đòi móc tròng mát con, nếu không giảng ra được thì đã bị nó khoét mắt rồi". Nhị Nương sượng ngắt, mồ hôi toát ra chảy trôi hết cả son phấn, Tứ Nương vẫn im lặng. Cả tiệc im lặng không ai nói một câu, khách khứa thấy thế lục tục chào về. Tứ Nương ăn mặc đẹp đẽ, chỉ lạy chào Lý phu nhân và Tam Nương rồi lên xe đi, mọi người mới biết người mua nhà ruộng là Trình. Tứ Nương vừa về tới nhà mới, đồ dùng còn thiếu thốn, phu nhân và các công tử đều tặng đầy tớ vật dùng nhưng Tứ Nương không nhận gì cả, chỉ nhận một tỳ nữ của Lý phu nhân tặng.

Không bao lâu Trình về dự đám giỗ, xe ngựa tùy tùng đông đặc như mây, tới nhà nhạc gia vào lạy linh cữu ông Hồ, kế lạy chào Lý phu nhân, các công tử vừa đội mũ mặc áo xong ra chào thì Trình đã lên kiệu đi rồi. Ông Hồ chết, các công tử hàng ngày cứ lo tranh giành gia tài không ngó ngàng gì tới linh cữu, qua mấy năm chỗ quàn quan tài hư dột, chỉ tạm lấy nhà rộng làm lăng mộ mà thôi. Trình thấy thế đau xót, cũng không bàn bạc với các công tử, chọn ngày chôn cất, mọi nghi lễ đều lo liệu đầy đủ. Ngày tống táng mũ lọng chen chúc tới thăm viếng, xóm giềng đều ca ngợi. Hơn mười năm sau Trình làm quan lớn, phàm gặp những người làng có chuyện nguy cấp đều hết sức giúp đỡ. Kế Nhị Lang giết người bị bắt, việc đưa tới quan Tuần phương là bạn đồng khoa với Trình, tin tức rất gấp. Đại Lang nhờ cha vợ là Quan sát họ Vương viết thư nhờ vả nhưng không thấy trả lời, càng thêm sợ hãi, muốn tới nhờ em gái nhưng thấy xấu hổ. Bèn xin Lý phu nhân viết thư cầm đi, tới kinh không dám vào ngay, rình lúc Trình đi chầu mới tìm vào nhà, mong Tứ Nương nghĩ tình anh em mà quên hiềm khích cũ.
Người giữ cổng vừa báo tin, lập tức có bà vú cũ ra đưa Đại Lang vào sảnh đường, bày rượu thịt ra mời qua loa. Đại Lang ăn uống xong thì Tứ Nương ra, mặt mày tươi tắn hỏi "Đại ca nhiều việc bận rộn, sao lại ngàn dặm vất vả tới đây”. Đại Lang lạy phục xuống đất khóc lóc kể lể nguyên do, Tứ Nương đỡ đứng lên cười nói "Đại ca đường đường là đàn ông thì chuyện đó có gì là lớn sao lại làm thế. Em đây chỉ là một người đàn bà nhưng anh đã thấy kêu khóc với ai bao giờ chưa?". Đại Lang liền đưa thư của Lý phu nhân ra, Tứ Nương nói "Nương tử ở nhà các anh đều là người trời, cứ nhờ cha anh các nàng là lập tức xong việc ngay, sao lại bôn ba tới đây?”. Đại Lang không biết nói sao, chỉ năn nỉ lạy lục. Tứ Nương giận dữ nói "Ta tưởng là anh trai lặn lội tới thăm em gái, té ra là vì có tội lớn nên tới cầu xin bậc quý nhân à?", rồi phẩy tay áo bỏ vào. Đại Lang thẹn thùng uất ức ra về, tới nhà kể lại tường tận, cả nhà lớn nhỏ ai cũng chửi rủa, Lý phu nhân cũng cho rằng Tứ Nương tàn nhẫn.

Qua vài hôm Nhị Lang được tha về nhà, mọi người cả mừng, càng cười nhạo Tứ Nương chuốc lấy sự hờn oán chê bai. Chợt có người bẩm Tứ Nương sai người tới hầu. Lý phu nhân, bèn gọi vào. Người ấy dâng vàng lụa xong, nói phu nhân gởi thư về việc cậu hai, công việc gấp quá chưa có thư trả lời, xin dâng chút lễ mọn thay thư phúc đáp. Lúc ấy mọi người mới biết Nhị Lang được tha về là nhờ sức của Trình. Về sau Tam Nương dần dần sa sút, Trình giúp đỡ báo đáp rất hậu, lại vì Lý phu nhân không có con trai nên đón bà về phụng dưỡng như mẹ ruột.


144. Phép Thuật Nhà Sư
(Tăng Thuật)

Hoàng sinh là con nhà thế gia cũ, tài cao chí lớn. Ở ngôi chùa ngoài thôn có nhà sư Mỗ chơi thân với sinh. Kế sư đi vân du, hơn mười năm mới trở về, gặp Hoàng than rằng "Ta cứ nghĩ là ông đã thành đạt lâu rồi, thế mà nay vẫn là chân bạch đinh sao? Chắc là phúc mệnh mỏng Iắm. Ta xin vì ông lo lót với Diêm Vương, ông có thể lo được mười ngàn đồng không?”. Hoàng đáp không được. Sư nói "Vậy xin ông cố lo một nửa, còn bao nhiêu ta sẽ vay mượn cho ông", hẹn sau ba ngày phải có, Hoàng ưng thuận. Qua ba ngày sư quả nhiên đem năm ngàn đồng tới đưa cho Hoàng. Nhà Hoàng vốn có cái giếng rất sâu, nước không bao giờ cạn, nghe nói là thông ra với sông lớn. Sư bảo đem tiền ra đặt cạnh giếng, dặn rằng "Khoảng chừng nào ta về tới chùa rồi phải lập tức ném tiền xuống giếng, chờ khoảng nửa bữa cơm sẽ có một đồng tiền nổi lên thì vái lạy", rồi đi.

Hoàng không hiểu là thuật gì, lại nghĩ rằng chưa biết kết quả ra sao mà vứt cả mười ngàn đồng tiền xuống giếng thì rất đáng tiếc, bèn chỉ ném xuống một ngàn. Giây lát thấy bọt nước rất lớn sủi lên rồi có tiếng leng keng, liền có một đồng tiền nổi lên, to như cái bánh xe. Hoàng cả kinh vội vàng vái lạy rồi lấy bốn ngàn đồng còn lại ném xuống, trúng đồng tiền lớn kêu thành tiếng nhưng bị đồng tiền lớn cản lại nên không chìm xuống được. Chiều tối sư tới trách, nói "Sao không ném xuống hết?", Hoàng đáp đã ném xuống hết rồi. Sư nói "Sứ giả của Diêm Vương chỉ đem được một ngàn đồng về, sao dám dối trá?", Hoàng bèn thú thật. Sư than "Kẻ keo kiệt ắt không làm được chuyện lớn, đó cũng là mệnh của anh, suốt đời cũng chỉ đỗ được khoa Minh kinh, chứ không thì đã đỗ Tiến sĩ ngay rồi". Hoàng hối hận lắm, xin cầu đảo lần nữa, nhà sư chối từ bỏ đi. Hoàng nhìn xuống giếng thấy tiền vẫn còn nổi liền thả dây xuống kéo lên, đồng tiền lớn bèn chìm xuống. Năm ấy Hoàng nhờ đậu Tú tài được sung Cống cử, rốt lại đúng như lời sư nói.

Dị Sử thị nói:Chẳng lẽ dưới âm ty cũng mở khoa thi quyên tiền hay sao? Mười ngàn đồng mà được một chân Tiến sĩ thì giá cũng rẻ lắm, nhưng một ngàn mà được sung Cống cử kể cũng đắt. Những kẻ không đậu Minh kinh thật không đáng giá một đồng!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 145 - 146 -
Liễu Sinh
(Liễu Sinh)

Chu sinh là dòng dõi nhà quan ở phủ Thuận Thiên (kinh đô ở tỉnh Hà Bắc), chơi thân với Liễu sinh. Liễu được dị nhân dạy cho thuật xem tướng, thường nói với Chu rằng "Ông không có phận làm quan, còn sự giàu có muôn chung thì sức người cũng lo được, nhưng tôn phu nhân tướng bạc sợ không thể giúp ông dựng được cơ nghiệp". Không bao lâu quả vợ Chu chết, nhà cửa tiêu điều không ai coi sóc, Chu bèn tới nhà Liễu sinh nhờ bói về hôn nhân. Vào phòng khách cùng ngồi hồi lâu thì Liễu bỏ vào trong mãi không ra, gọi hai ba lần mới trở ra nói “Ta hàng ngày vẫn tìm cho ông một người vợ giỏi, hôm nay mới tìm được, mới rồi là ở nhà trong thi thố chút thuật mọn, xin Nguyệt lão xe sợi tơ hồng cho ông đấy thôi". Chu mừng rỡ hỏi han, Liễu đáp “Mới rồi có một người xách cái bị ở đây ra, ông có gặp không?". Chu nói "Có gặp, thấy rách rưới như thằng ăn mày". Liễu nói “Đó là cha vợ của ông, nên kính lễ". Chu nói "Vì thân thiết với nhau mới tới bàn chuyện riêng, sao đùa cợt nhau quá thế? Ta tuy nghèo hèn cũng là dòng dõi nhà quan, sao đến nỗi phải cưới con nhà đầu đường xó chợ”. Liễu nói "Không phải thế, con bò lang còn sinh được bê đẹp, có hại gì đâu”. Chu hỏi "Ông gặp con gái y chưa?”. Liễu đáp "Chưa, ta với y không từng quen biết, ngay cả tên họ cũng mới hỏi mà biết đây thôi". Chu cười nói “Bò lang còn chưa biết, làm sao biết được bê?", Liễu nói “Ta lấy số mệnh mà tin thôi, người ấy hung dữ mà hèn hạ nhưng ắt sinh được con gái có phúc lớn. Nhưng nếu miễn cưỡng tác hơp bừa thì ắt có nạn lớn, nên mới phải cầu đảo".
Chu về cũng chưa tin hẳn vào lời Liễu, tìm đủ cách mai mối lấy vợ, nhưng không cưới được đám nào. Một hôm Liễu chợt tới nói "Có một người khách, ta đã thay ông gởi thư mời". Chu hỏi là ai, Liễu đáp "Đừng hỏi han gì cả, cứ lo cơm nước cho mau”. Chu không hiểu chuyện gì, cứ theo lời chuẩn bị cơm rượu. Giây lát khách tới thì ra là họ Phó, làm lính trong doanh. Chu trong lòng không thích nhưng bề ngoài vẫn làm ra vẻ vồn vã trò chuyện, còn Liễu sinh thì một dạ hai thưa rất mực cung kính. Giây lát rượu thịt bày lên, có lẫn cả cỏ dại trong mâm. Liễu sinh đứng dậy nói với khách "Công tử đây hâm mộ ông đã lâu, thường nhờ ta đi mời, nhưng lần trước mới được gặp, lại nghe không mấy bữa nữa lại đi chinh phạt nơi xa nên ta lập tức mời ngay khiến chủ nhân bị bất ngờ”. Trong lúc uống rượu, Phó lo ngựa bị bệnh không cưỡi được, Liễu cũng gật gù cùng tính toán này nọ. Kế khách ra về, Liễu trách Chu “Có ngàn vàng cũng không mua được người bạn như thế, sao ông lại im lặng ngồi nhìn rồi mượn ngựa Chu để về, nhân đó giả lời Chu dắt ra cổng đưa dây cương tặng luôn cho Phó. Chu biết được bực lắm nhưng chẳng biết làm sao. Qua năm sau Chu định đi Giang Tây làm mạc khách ở ty Niết, tới nhà Liễu nhờ xem giùm một quẻ. Liễu nói chuyến này đi là đại cát, Chu cười nói “Ta không có ý gì khác, chỉ là có ít tiền định cưới người vợ đẹp, may mà lời nói trước kia của ông không nghiệm, thì có được không?”. Liễu nói "Tất cả đều như ông muốn mà".

Chu tới Giang Tây thì vừa gặp lúc có bọn giặc lớn nổi loạn, ba năm không về được. Sau mới hơi yên bèn chọn ngày lên đường về, giữa đường bị bọn cướp bắt, bảy tám người cùng gặp nạn bị cướp hết tiền rồi thả ra, duy Chu bị giải về tận sào huyệt của bọn cướp. Tên đầu đảng hỏi kỹ gia thế của Chu rồi nói "Ta có đứa con gái muốn dâng ông lo việc hầu hạ quét dọn, xin đừng chối từ". Chu không đáp, tên cướp tức giận liền sai đem Chu ra chém. Chu sữ, nghĩ rằng cứ tạm vâng lời y rồi thong thả sẽ tìm cách trốn đi, bèn nói "Sở dĩ tiểu sinh còn chần chừ vì thấy mình là học trò yếu ớt không thể theo việc binh, chỉ e càng làm lụy cho trượng nhân thôi. Chứ nếu được cho vợ chồng dắt nhau đi khỏi nơi này, thì còn ơn đức nào lớn bằng". Tên cướp nói "Ta đang lo con gái làm phiền lụy, chuyện đó có gì mà không nghe theo được". Bèn dẫn Chu vào trong, cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra gặp, thấy nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, xinh đẹp như tiên. Ngay đêm ấy làm lễ hợp cẩn, nàng đằm thắm hơn cả lòng Chu mong mỏi, hỏi kỹ họ tên mới biết cha nàng chính là người xách cái bị ở nhà Liễu sinh năm trước. Nhân thuật lại lời Liễu cho nàng nghe, hai người cùng than thở.

Qua bốn hôm, tên cướp định đưa hai người đi, chợt đại quân bất ngờ kéo tới, cả nhà đều bị bắt trói. Có ba vị quan tướng giám trảm, đem cha vợ Chu ra chém xong, lần lượt tới Chu, Chu đã nghĩ phen này ắt phải chết thì một viên tướng nhìn kỹ nói "Có phải Chu mỗ không?", té ra đó là người lính họ Phó nhờ có quân công đã được thăng tới chức Phó tướng quân. Phó nói với hai người kia rằng "Đây là danh sĩ dòng dõi thế gia ở quê ta, lẽ nào lại đi làm giặc?", rồi cởi trói cho Chu, hỏi từ đâu tới. Chu bịa đặt nói "Vừa ở ty Niết tỉnh Giang Tây cưới vợ về, không ngờ bị bọn cướp bắt, may được ông cứu vớt cho, ơn tái sinh lớn như trời đất, nhưng vợ chồng chia lìa, xin nhờ oai lớn giúp cho được ngói lành". Phó liền sai giải hết tù nhân ra cho Chu nhận mặt vợ. Chu tìm được cô gái rồi, Phó cho ăn uống, giúp đỡ tiền bạc, nói "Trước đây nhờ cái ơn cho ngựa, sớm tối vẫn không quên, nhưng việc quân bận rộn không rảnh rỗi tới tham kiến đươc, nay xin giúp ông hai cỗ ngựa tất, năm mươi lượng vàng để về quê", lại sai hai tên quân kỵ đi hộ tống.

Trên đường cô gái nói với Chu "Cha ngu dại không chịu nghe lời nói thẳng, mẹ lúc chết đã biết có ngày hôm nay lâu rồi. Sở dĩ còn nương náu sớm tối vì lúc nhỏ từng được ông thầy tướng xem cho, nói rằng ngày sau có thể thu lượm được hài cốt của cha mẹ mà thôi. Chỗ ấy có số tiền lớn chôn giấu, có thể đào lên chuộc xác cha, còn thừa đem về cũng đủ mưu sinh". Bèn dặn hai tên quân kỵ đợi trên đường, hai người quay về chỗ cũ, thấy nhà cửa đã cháy sạch, lấy bội đao đào đống tro, xương dưới một thước quả được vàng, gói vào hành lý rồi quay trở lại. Đem một trăm lượng đút lót hai tên quân kỵ nhờ họ chôn cất xác cha cô gái, nàng lại đưa Chu tới lạy trước mộ mẹ xong mới lên đường. Tới địa giới tỉnh Trực Lệ, hai người thưởng cho hai tên quân kỵ rất hậu rồi chia tay.

Chu lâu ngày không về, gia nhân đều cho rằng đã chết, thả sức trộm cắp, thóc gạo vải lụa vật dùng trong nhà không còn chút gì. Đến lúc nghe chủ nhân về, sợ hãi kéo nhau trốn sạch, chỉ còn một bà già, một người tỳ nữ và một lão bộc ở lại. Chu vì ra khỏi chỗ chết được sống mà trở về nên cũng không hỏi gì tới, qua thăm Liễu thì không rõ đã đi đâu mất rồi. Cô gái coi sóc việc nhà còn hơn cả đàn ông, chọn những người thành thật siêng năng đưa vốn cho buôn bán, lời lãi chia đôi. Mỗi khi các bạn buôn họp nhau tính toán ở nhà, nàng buông rèm ngồi trong lắng nghe, ai lầm một con số là chỉ ngay ra chỗ sai, vì thế trong ngoài không ai dám lừa dối. Vài năm có tới hàng trăm bạn buôn, nhà giàu có hàng mấy mươi vạn lượng vàng, mới sai người bốc mộ cha mẹ đem về hậu táng.


Dị Sử thị nói:Nguyệt lão cũng có thể đút lót, nên không lạ gì mà những kẻ mai mối cũng giống như người buôn bán. Nhưng tên cướp kia lại có người con gái như thế sao? Gò đất nhỏ không có tùng bách lớn, đó là lời luận bàn của kẻ quê mùa dốt nát mà thôi. Đàn bà con gái mà còn để mất, huống hồ đem kiến thức ấy xem xét kẻ sĩ trong thiên hạ ư?







146. Nhiếp Chính
(Nhiếp Chính)

Lộ vương ở Hoài Khánh (tỉnh Hà Nam) có đức tối, cứ dạo chơi ra dân gian thấy con gái đẹp là bắt về. Có vợ Vương sinh bị vương nhìn thấy, sai xe ngựa vào tới tận nhà bắt đi. Cô gái khóc lóc kêu gào, bị bắt lên kiệu khiêng ra. Vương bỏ chạy, núp sau mộ Nhiếp Chính chờ vợ đi qua để vĩnh biệt. Không bao lâu vợ tới, nhìn thấy chồng khóc lớn gieo mình xuống đất. Vương trong lòng đau đớn bất giác khóc thất thanh, bọn gia nhân của vương biết là Vương sinh bèn túm lấy đánh đập túi bụi. Chợt trong mộ có người đàn ông bước ra, tay cầm đao sắc, khí thế rất oai mãnh, lớn tiếng quát “Ta là Nhiếp Chính đây, sao các ngươi dám bắt ép con gái nhà lương dân. Nghĩ bọn ngươi chỉ là kẻ thừa lệnh nên tạm tha cho lần này, về nhắn với ông chủ vô đạo của các ngươi rằng nếu không sửa nết xấu thì có ngày ta sẽ lấy đầu đấy”. Đám gia nhân nhà vương hoảng sợ bỏ xe kiệu chạy, người đàn ông lại bước thẳng vào mộ biến mất. Vợ chồng Vương tới lạy trước mộ rồi về, vẫn còn sợ là vương lại tới nhưng hơn mười ngày cũng không thấy gì mới yên lòng. Từ đó vương cũng bớt dâm đãng hống hách.

Dị Sử thị nói:Ta thường đọc Truyện Thích khách chỉ khâm phục có người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ* mà thôi. Xả thân để báo đáp tri kỷ thì nghĩa khí như Dự Nhượng** giữa ban ngày giết chết khanh tướng thì vũ dũng như Chuyên Chư*** bằng đầu gối tới trước mặt Liêu, lấy tay xé đôi con cá ra, rút ngọn chủy thủ giấu sẵn trong bụng cá đâm chết Liêu, lột da mặt hủy hình dung tự tử để không làm liên lụy tới người thân thì mưu trí như Tào Mạt (4*). Còn như Kinh Kha không đủ sức để ám sát vua Tần mà lại dứt áo ra đi, tự chuốc lấy diệt vong, khinh suất mượn cái đầu của Phàn tướng quân (5*) gặp Tần Thủy Hoàng nhưng đâm không trúng, bị giết chết, biết ngày nào mới trả lại được, đó là mối hận của ngàn đời, chắc bị Nhiếp Chính chê cười. Đọc dã sử thấy nói mộ Kinh Kha bị hồn ma của Dương Giác Ai, Tả Bá Đào quật lên (6*) nếu quả thế thì Kinh Kha sống không thành danh, chết còn mất nghĩa, so với Nhiếp Chính ôm lòng nghĩa mà trừng trị kẻ hoang dâm thì hay dở khác nhau ra sao? Ôi, Nhiếp Chính là người hiền, xem chuyện này lại càng tin là đúng.

* Người ở làng Thâm Tỉnh đất Chỉ: tức Nhiếp Chính, người nước Hàn thời Chiến quốc, giết người nên dắt mẹ và chị qua trốn tránh ở nước Tề. Quan khanh nước Hàn là Nghiêm Trọng Tử có thù oán với Tướng quốc Hiệp Lũy nên tìm người báo thù, tới Tề nghe tiếng Chính là người dũng cảm bèn đem lễ vật rất hậu tới ra mắt, nhưng Chính không nhận. Sau bà mẹ chết, Chính chôn cất xong bèn tới gặp Trọng Tử hỏi han rồi không nhận xe ngựa tráng sĩ giúp đỡ, một mình lên đường vào thẳng phủ Tướng quốc lên tận thềm giết chết Hiệp Lũy, kế tự lột da mặt khoét tròng mắt, mổ bụng móc ruột tự tử để khỏi liên lụy tới người chị.

**Dự Nhượng: người nước Tấn thời Xuân thu, theo họ Phạm Trung Hàng nhưng không được biết tới, bèn bỏ theo Trí Bá, rất được Trí Bá coi trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương Tử diệt, Nhượng trốn vào núi, nói “Kẻ sĩ xả thân cho người biết mình, đàn bà điểm trang cho người yêu mình, nay Trí Bá biết ta, nếu vì báo thù cho Trí Bá mà chết thì hồn phách ta cũng không thẹn", bèn đổi tên họ cải trang để ám sát Tương Tử nhưng bị bắt, Tương Tử khen là nghĩa khí nên tha cho. Nhượng lại sơn mặt nuốt than thay đổi diện mạo thanh âm núp dưới cầu chờ Tương Tử đi qua mà đâm nhưng lại bị bắt, bèn xin cái áo của Tương Tử tuốt kiếm nhảy lên đâm vào ba lần rồi tự sát.

*** Chuyên Chư người nước Ngô thời Xuân thu, có tiếng là dũng sĩ, được Ngữ Tử Tư tiến cử cho Công tử Quang (tức vua Ngô Hạp Lư). Lúc ấy Quang muốn giết Ngô vương Liêu là anh con bác để giành ngôi, dò biết Liêu thích ăn chả cá bèn sai Chư tới Thái Hồ học làm món chả cá. Kế mở tiệc mời Liêu, nửa chừng giả đau chân vào nhà trong băng lại sai Chư đem chả cá lên dâng. Giáp sĩ của Liêu lục soát trong người Chư không thấy gì lạ bèn cho vào, Chư bưng mâm chả cá đi...

4* Tào Mạt: người nước Lỗ thời Xuân thu, tướng của Lỗ Trang công. Tề Hoàn công đánh Lỗ, nước Lỗ thua liền mấy trận bèn xin giảng hòa. Tề Hoàn công buộc Lỗ Trang công phải tới hội minh, cắt đất cho Tề. Tào Mạt theo Lỗ Trang công tới hội minh, sấn lên đài rút chủy thủ uy hiếp bắt Tề Hoàn công phải trả hết những đất đai của nước Lỗ, Hoàn công sợ hãi ưng thuận, Mạt buông chủy thủ lui xuống đứng lại vào chỗ các quan nước Lỗ, sắc mặt vẫn không thay đổi.

5* Kinh Kha... Phàn tướng quân: Kinh Kha là người đất Vệ thời Chiến quốc nổi tiếng can đảm, kiếm thuật tuyệt luân, được thái tử Đan nước Yên mời về làm thượng khách, nhờ đi ám sát Tần Thủy hoàng. Lúc bấy giờ có Phàn Ư Kỳ là phản tướng nước Tần chạy qua nước Yên, gia quyến đều bị Tần Thủy Hoàng giết, Kinh Kha tới gặp Ư Kỳ nói nếu có được đầu Ư Kỳ thì có thể tới gần vua Tần để nhân cơ hội ám sát báo thù cho Ư Kỳ. Ư Kỳ khảng khái tự chặt đầu đưa cho Kinh Kha. Sau Kinh Kha qua Tần, vào điện...

6*Mộ Kinh Kha... quật lên: Quan Trung lưu ngụ chí chép Tả Bá Đào ở Tây Khương nghe tiếng Sở Nguyên vương hiền bèn cùng bạn là Dương Giác Ai tìm tới. Tới núi Lương Sơn gặp tuyết lớn, không đủ lương thực áo rét cho cả hai người, Bá Đào bèn cởi áo trút lương cho Giác Ai đi tiếp còn mình thì vào rừng chịu chết. Giác Ai tới Sở, được phong làm Trung Đại phu, sau về quê mơ thấy Bá Đào nói "Mộ ta gần mộ Kinh Kha, cùng với y có thù hằn, ông nên bó cỏ làm hình người cho cầm binh khí đốt trước mộ ta". Giác Ai theo lời, hôm sau mơ thấy Bá Đào tới nói "Đám quân sĩ ông đốt cho đều vô dụng, Kinh Kha rất hung hãn, lại có Cao Tiệm Ly giúp đỡ, không bao lâu nữa ta sẽ bị họ quật mộ". Giác Ai bèn tự sát, người làng chôn cạnh mộ Bá Đào. Đêm hôm sau trời nổi mưa to gió lớn, sấm sét vang dội, ở khu mộ Bá Đào có tiếng đánh nhau vang xa mấy mươi dặm. Đến sáng người làng ra xem, thấy mộ Kinh Kha bị quật lên, xương trắng rải khắp mặt đất.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 147 - 148 -
Anh Em Họ Thương
(Nhị Thương)

Có nhà họ Thương ở huyện Lữ (tỉnh Sơn Đông), anh giàu mà em nghèo, ở liền vách nhau. Trong niên hiệu Khang Hy (1662-1722) mất mùa lớn, người em sớm tối không lo được hai bữa. Một hôm trời đã trưa mà chưa nổi lửa nấu cơm, bụng đói sôi òng ọc, không biết làm sao. Vợ bảo tới nói với anh, Thương đáp "Vô ích, nếu anh thương ta nghèo thì đã sớm có cách giúp đỡ rồi". Vợ ép mãi, Thương sai con đi, giây lát tay không quay về, Thương nói "Thế nào nào?". Vợ hỏi lại con cho rõ, đứa con nói "Bác ngần ngừ rồi nhìn bác gái, bác gái nói Anh em đã ở riêng thì cơm ai nấy ăn, ai mà lo cho nhau được". Vợ chồng im lặng đem những bát mẻ giường nát cầm bán đổi chút tấm cám sống qua ngày. Trong làng có ba bốn gã vô lại, thấy Thương anh giàu có trèo tường vào cướp, vợ chồng Thương anh giật mình tỉnh dậy đập nồi đập chảo kêu gào nhưng người làng đều ghét không ai tới cứu. Bất đắc dĩ phải gọi em, Thương nghe tiếng chị dâu kêu cứu muốn xông qua ngay, vợ ngăn lại, lớn tiếng nói vọng qua "Anh em đã ở riêng thì họa ai nấy chịu, ai mà lo cho nhau được".

Kế bọn cướp phá cửa bắt vợ chồng Thương anh đốt thịt tra tấn, hai người kêu gào thảm thiết. Thương nói "Tuy anh không có tình nghĩa nhlmg chẳng lẽ ta lại ngồi yên nhìn anh chết mà không cứu sao!", rồi dắt con nhảy tường qua lớn tiếng quát tháo. Cha con Thương vốn khỏe mạnh, người ta đều sợ, bọn cướp lại sợ có người khác cùng tới cứu bèn tháo chạy. Thương nhìn tới anh chị thì hai vế đều bị đốt cháy sém, bèn đỡ lên giường, gọi bọn gia nhân tới trông coi rồi về. Thương anh tuy bị thương nhưng của cải không mất mát tí gì, bèn nói với vợ “Nay mà còn được của cải là nhờ chú nó, phải chia ra giúp đỡ cho chú ấy". Vợ nói "Nếu anh có anh em tốt thì đã không phải chịu khổ như thế”, Thương anh cũng im lặng. Thương trong nhà hết cả cái ăn, nghĩ rằng ắt anh sẽ báo đáp chút ít nhưng lâu quá vẫn không thấy tăm hơi gì. Vợ không chờ được, sai con mang túi qua vay, mang được một đấu gạo về, vợ Thương tức giận muốn đem trả, Thương cản lại.

Qua hai tháng thì nghèo túng không còn cách nào xoay xở nữa, Thương nói "Nay không còn cách nào mưu sinh, chẳng bằng bán nhà cho anh, anh sợ ta đi chỗ khác có khi không nhận giấy tờ mà cấp cho tiền gạo chưa biết chừng. Còn nếu không thế thì được chút ít tiền cũng còn sống được". Vợ cho là đúng, sai con cầm giấy tờ nhà qua nói với Thưong anh, Thương anh nói với vợ "Cho dù chú nó bất nhân thì cũng là anh em của ta, chú ấy đi thì ta còn một mình, chẳng bằng trả lại giấy tờ nhà mà giúp đỡ cho chú ấy”. Vợ nói "Không phải thế, chú ấy nói đi là để dọa ta thôi, mà nếu đi thật thì chẳng lẽ những kẻ không có anh em trên đời đều chết ráo à? Ta cứ đắp tường cho cao cho chắc để tự giữ, chẳng bằng cứ nhận giấy tờ nhà, cho chú ấy muốn đi đâu thì đi, cũng có thể mở rộng thêm nhà cửa". Bàn định xong, bảo Thương làm giấy bán nhà rồi đưa tiền cho đi, từ đó Thương dời qua ở nơi khác.
Có bọn vô lại nghe tin Thương đã đi lại tới cướp nhà Thương anh, tra tấn đủ cách vô cùng thê thảm, có bao nhiêu tiền bạc đều phải dốc cả ra để chuộc mạng. Bọn cướp ra, mở kho thóc gọi những nhà nghèo trong thôn tới xúc, trong khoảnh khắc đã hết sạch. Hôm sau Thương mới nghe tin, chạy về xem thì anh đã hôn mê không nói gì được nữa, lát sau mở mắt nhìn em, lấy tay cào lên chiếu rồi tắt thở. Thương phẫn uất thưa lên quan huyện nhưng bọn cướp đã trốn mất không thể truy tìm, những người cướp thóc thì có tới hàng trăm mà đều là nhà nghèo trong làng, quan cũng không biết làm sao. Thương anh còn để lại một đứa con trai năm tuổi, lúc nhà đã nghèo thường tự tìm qua nhà chú ở, mấy ngày liền không chịu về, đưa về thì khóc ròng. Vợ Thương rất không ưa, Thương nói “Cha mẹ nó bất nghĩa, chứ thằng nhỏ có tội gì?", rồi mua cho vài cái bánh chưng dắt nó về. Vài hôm sau lại lén giấu vợ con mang gạo đem cho chị dâu nuôi cháu, dần dần thành lệ thường. Vài năm sau chị dâu bán nhà cũ của Thương anh được tiền cũng đủ sống nên Thương không lui tới nữa. Sau gặp năm mất mùa, người ta chết đói đầy đường, nhà Thương lại thêm đông người nên không thể giúp đỡ ai được. Năm ấy đứa cháu mười lăm tuổi, yếu ớt không làm ăn gì được, Thương sai xách giỏ theo anh bán bánh gai.

Một hôm Thương nằm mơ thấy anh tới, vẻ mặt thê thảm nói "Ta bị đàn bà mê hoặc làm mất tình anh em, mà em không nghĩ tới oán cũ khiến ta càng thêm xấu hổ. Ngôi nhà cũ đã bán nay vẫn còn gian bên trái, em nên về đó ở, phía sau nhà có đám cỏ gai, bên dưới có hố vàng chôn, đào lên cũng đủ làm nhà giàu nhỏ. Cho con ta theo sống với em, còn con mụ lắm điều kia thì ta rất ghét, đừng ngó ngàng gì tới". Thương tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn đem món tiền lớn tới nói với chủ nhà xin thuê ở, đào hố vàng chôn lên quả được năm trăm lượng, từ đó bỏ nghề nghiệp thấp hèn, sai cháu và con mở cửa hiệu buôn bán. Đứa cháu rất thông minh, tính toán sổ sách không bao giờ lầm lẫn, tính lại thật thà phàm thu chi thì một đồng cũng thưa rõ, Thương càng thêm yêu mến. Một hôm cháu vào khóc xin gạo cho mẹ, vợ Thương định không cho, Thương thấy cháu có hiếu bèn cấp gạo cho hàng tháng. Vài năm nhà càng giàu lên, vợ Thương anh bị bệnh chết, Thương cũng già bèn chia gia sản làm đôi, cho cháu một nửa.

Dị Sử thị nói:Nghe nói Thương anh không khinh suất nhận một chút gì của kẻ khác, cũng là người trong sạch giữ mình vậy. Nhưng vợ nói gì nghe nấy, líu ríu không dám cãi lại một câu, nhẫn tâm dứt tình anh em, rốt lại vì keo kiệt mà chết. Than ôi cũng có gì lạ đâu! Thương em thì trước nghèo sau giàu, cũng có phải là người có tài cán gì đâu, chỉ là nhờ không quá nghe lời vợ đó thôi. Than ôi, chỉ một việc làm không như nhau mà nhân phẩm liền khác hẳn.


148. Số Hưởng Lộc
(Lộc Số)

Mỗ giàu sang, thường làm những việc vô đạo. Vợ thường lấy chuyện quả báo để khuyên can nhưng vẫn không nghe. Gặp lúc có người thầy bói có thể biết số hưởng lộc của người, bèn tới gặp. Người thầy bói nhìn kỹ rồi nói “Ông còn được ăn hai mươi thạch gạo, hai mươi thạch miến nữa thì hết lộc trời cho". Y về nói với vợ, tính ra mỗi người một năm chỉ ăn hết hai thạch miến, mình còn được hai mươi năm hưởng lộc trời cho, há vì làm điều không tốt mà dứt được sao? Rồi vẫn bậy bạ như cũ. Được hơn một năm chợt mắc bệnh tiêu khát, ăn rất nhiều mà vẫn đói, một ngày ăn cả chục bữa cơm, chưa đầy một năm thì chết.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển IX - 149 -
Anh Em Họ Thương
(Nhị Thương)

An Đại Nghiệp người Lư Long (huyện Vĩnh Bình tỉnh Hà Bắc), sinh ra đã biết nói, mẹ phải đổ máu chó cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai chẳng ai bằng, lại thông minh học giỏi, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Lúc đầu mẹ nằm mộng thấy thần báo “Con bà sẽ lấy công chúa", rất tin. Nhưng khi An đã mười lăm mừơi sáu tuổi vẫn chưa thấy linh nghiệm, bà dần dần ăn năn mình tin mộng mị quàng xiên. Một hôm, An đang ngồi một mình, chợt nghe thấy mùi huơng lạ, kế có một tỳ nữ xinh đẹp chạy vào nói "Công chúa tới". Rồi lập tức trải thảm trên đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà tới cạnh giường sinh ngồi. An còn kinh ngạc hốt hoảng, đã thấy một nữ lang vịn vai tỳ nữ bước vào, y phục dung nhan sáng rực cả nhà. Người tỳ nữ lót gối thêu nệm gấm lên giường rồi đỡ nữ lang ngồi xuống. An kinh hoàng không biết làm sao, khom lưng nói "Người là thần tiên nơi nào giáng lâm?". Nữ lang mỉm cười lấy tay áo che miệng không đáp, người thị nữ nói "Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh hậu. Vì Thánh hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự tới xem nhà cửa đó".

An vừa mừng vừa sợ không biết nói gì, nữ lang cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau im lặng. An vốn thích đánh cờ vây, bàn cờ thường để bên cạnh. Một tỳ nữ lấy khăn hồng lau bụi, đặt lên bàn nói "Thường ngày công chúa thích trò chơi này, không biết so với Phò mã thì ai hơn?”. An dời ghế tới gần bàn. Công chúa cười ưng thuận, đi được độ ba chục nuớc, tỳ nữ xóa bàn cờ nói “Thôi Phò mã thua rồi”. Rồi nhặt con cờ cất vào hộp, nói "Phò mã đúng là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ nhường được sáu con thôi”. Liền bỏ sáu con cờ đen ra khỏi bàn, công chúa cũng ưng thuận. Lúc công chúa ngồi đánh cờ, sai tỳ nữ ngồi dưới đưa lưng cho nàng gác chân, chân trái thòng xuống đất thì một tỳ nữ khác phục xuống đỡ, lại có hai a hoàn nhỏ đứng hầu. Lúc An ngẫm nghĩ nước cờ thì nàng co tay gác lên vai ngồi đợi. Ván cờ chưa phân thắng phụ, a hoàn nhỏ cười nói “Phò mã thua một con". Người tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã mệt, nên nghỉ thôi”.

Công chúa nghiêng mình ghé vào tai tỳ nữ nói nhỏ, tỳ nữ bước ra, chốc lát quay vào, đặt ngàn đồng vàng lên giường nói với sinh rằng "Mới rồi Công chúa nói nhà cửa ẩm thấp chật chội, phiền lang quân dùng số tiền mọn này sửa sang, lúc nào xong sẽ gặp nhau”. Một tỳ nữ nói “Tháng này phạm vào sao Thiên hình, không nên xây cất, tháng sau thì tốt". Công chúa đứng dậy, sinh ngăn lại đóng cổng, tỳ nữ lấy ra một vật như cái túi bằng da, đặt xuống đất gõ vào, chợt có hơi mây tỏa ra, trong khoảnh khắc tụ lại che kín bốn bề không nhìn thấy gì cả, khi tan thì mọi người đã biến mất. Mẹ sinh biết chuyện, ngờ là yêu quái. Nhưng sinh mơ tuởng không khuây, vội lo sửa sang nhà cửa không nề việc kiêng kỵ, thúc giục ngày đêm, phòng ốc cổng nẽo mới hẳn.

Trước đó có người học trò ở huyện Loan Châu (tỉnh Hà Bắc) tên Viên Đại Dụng tối ngụ ở xóm bên, đưa danh thiếp tới nhà xin ra mắt. Sinh vốn ít giao du nên nói thác là đi vắng, lại chờ lúc Viên không có ở nhà trọ qua thăm đáp lễ. Hơn tháng sau, tình cờ gặp nhau ngoài cổng, thấy là một thiếu niên hơn haì muơi tuổi, áo mỏng giày đen, phong thái nhàn nhã. An trò chuyện qua loa, thấy ôn hòa lễ độ thích lắm bèn mời vào nhà chơi cờ, ván được ván thua. Kế dọn rượu giữ chân, trò chuyện rất vui vẻ. Hôm sau Viên mời sinh tới chỗ mình trọ, dọn đủ thức ngon vật lạ, tiếp đãi ân cần, có đứa tiểu đồng khoảng mười hai muời ba tuổi gõ nhịp ca hát và nhảy múa giúp vui Sinh say quá đi không nổi, Viên sai nó cõng về. Sinh cho rằng nó nhỏ yếu, sợ không cõng nổi, nhưng Viên cứ ép bảo để nó cõng, quả nhiên nó cõng sinh về tới nhà rất nhẹ nhàng. Sinh lấy làm lạ, hôm sau đem tiền qua thuởng, nó từ chối mấy lần mới nhận.

Từ đó An cùng Viên ngày càng thân thiết, vài ngày lại gặp nhau một lần. Viên là người giản dị kín đáo nhưng khẳng khái thích giúp người. Ở chợ có kẻ thiếu tiền phải đem con gái gán nợ, Viên trút túi trả thay không chút tiếc rẻ, sinh vì thế càng thêm kính trọng. Vài hôm sau, Viên tới từ giã sinh, tặng cho các loại đũa ngà chén ngọc, tất cả hơn mười món, lại thêm năm trăm đồng vàng giúp vào việc sửa nhà. Sinh trả vàng nhận vật, rồi đưa vải lụa tặng lại. Hơn tháng sau, huyện Lạc Đình (tỉnh Hà Bắc) có người làm quan về hưu mang theo rất nhiều tiền của, nửa đêm bị cướp vào nhà bắt trói, nung sắt tra khảo cướp sạch cả. Nguời nhà biết là Viên, báo quan phát lệnh đi khắp nơi tróc nã. Láng giềng có họ Đồ vốn xích mích với nhà sinh, thấy sinh xây nhà dựng cửa, bụng thầm ghen tức. Nhân có đứa tiểu đồng của sinh lấy trộm đũa ngà đem tới bán, y biết là vật của Viên tặng liền báo quan huyện. Quan huyện sai lính về vây gặp lúc chủ tớ sinh đều vắng nhà, bèn trói mẹ sinh giải đi. Bà mẹ đã già yếu lại bị cơn hoảng sợ, chỉ còn thở thoi thóp, hai ba ngày liền không ăn uống gì, quan bèn thả về. Sinh nghe tin vội về nhà thì bệnh mẹ đã trở nặng, qua đêm thì mất. Vừa liệm xác xong thì sai dịch đã tới bắt sinh đi.

Quan huyện thấy sinh tuổi trẻ văn nhã, thầm nghĩ là bị vu oan, bèn cố ý quát nạt, sinh cũng thật tình khai hết đầu đuôi chuyện kết bạn với Viên. Quan hỏi tại sao đột nhiên trở nên giàu có, sinh đáp "Mẹ ta có ít nhiều tiền của chôn giấu, nay ta sắp lấy vợ nên xây nhà để làm đám cưới thôi". Quan huyện tin lời, viết tờ bẩm sai giải sinh lên quận. Gã họ Đồ biết là sinh sẽ vô sự, đem nhiều tiền đút lót cho lính áp giải để chúng giết sinh trên đường đi. Đường lên quận phải qua núi vắng, chúng kéo sinh tới bờ vực sâu toan xô xuống. Đang lúc nguy cấp chợt có một con cọp trong bụi rậm nhảy ra, vồ chết hai tên lính rồi tha sinh đi. Tới một nơi lâu đài nguy nga, cọp đem sinh vào đặt xuống, thấy công chúa Vân La vịn vai thị nữ ra đón, buồn rầu an ủi, nói "Thiếp muốn giữ chàng ở lại nhưng việc tang lễ của mẹ chưa xong, chàng nên đem tờ bẩm lên quận tự nộp mình, chắc chắn là vô sự". Rồi cầm lấy sợi đai lưng trước bụng sinh, thắt lại hơn mười nút, dặn "Lúc gặp quan, cứ nắm lấy những cái nút này mở ra, tai nạn sẽ tiêu tan". Sinh theo lời, tới quận nộp mình. Quan Thái thú vui vì sinh thành tín, lại xem tờ bẩm, biết là bị oan, bèn tha cho sinh về.

Sinh về được nửa đường thì gặp Viên, xuống ngựa cầm tay, kể lể tình cảnh, Viên nổi giận biến sắc im lặng không nói câu nào. Sinh nói "Phong thái như ông sao lại tự làm chuyện nhơ danh như vậy?". Viên đáp "Ta giết toàn là hạng bất nhân, ta cướp toàn là của phi nghĩa, nếu không thì dù là tiền rơi trên đường cũng không nhặt đâu. Lời ông dạy ta đó vốn rất hay, nhưng hạng người như gã hàng xóm của ông há lại có thể để cho sống trên đời sao?", nói xong lên ngựa đi thẳng. Sinh về chôn cất mẹ xong, đóng cửa tạ khách. Bỗng một đêm cướp vào nhà hàng xóm, giết sạch hơn mười cha con, chỉ chừa lại một người tớ gái, lấy hết tiền của, chia cho đứa tiểu đồng cùng xách. Lúc ra đi còn cầm đèn nói với người tớ gái "Ngươi nhìn cho rõ nhé! Kẻ giết người là ta đây, không dính líu gì tới ai cả”. Rồi không mở cửa, phi thân nhảy lên mái nhà, vượt qua tường đi mất. Hôm sau tin báo lên quan, quan ngờ sinh biết chuyện, lại bắt lên quát tháo căn vặn rất dữ tợn. Sinh ra trước công đường nắm lấy sợi đai lưng thắt nút, vừa phân trần vừa mở nút ra, quan không vặn vẹo được gì, lại tha cho về. Về tới nhà sinh lại càng náu hơi kín tiếng, cứ ở nhà đọc sách không ra khỏi cửa, chỉ có một bà già khập khiễng lo việc cơm nước mà thôi. Mãn tang xong, ngày ngày sinh quét dọn nhà cửa để đợi tin vui.

Một hôm, nghe có mùi hương lạ thơm ngát cả nhà, lên gác xem thì thấy trong ngoài đều trần thiết rực rỡ, cuốn rèm lên thì công chúa đã trang điểm lộng lẫy ngồi đó rồi. Sinh vộỉ vái chào, nàng giữ tay lại nói "Chàng không tin số mệnh, khiến việc xây nhà gây ra tai vạ, lại thêm tang mẹ, làm trễ duyên cầm sắt của chúng ta mất ba năm, đó là gấp gáp lại phải muộn màng, việc đời đại để đều như thế”. Sinh toan lấy tiền đi chợ, nàng nói "Không cần đâu”. Thị nữ lấy trân hào mỹ tửu trong rương ra bày lên, thức ăn còn nóng như vừa nấu nướng xong, rượu cũng thơm lừng nóng hổi. Uống rượu một lúc thì trời tốì, đám thị nữ hầu hạ đều lui ra hết. Nàng nằm soãi hết tay chân, đong đưa vế đùi, như không che đậy gì cả, sinh liền ôm lấy nàng. Nàng nói “Chàng buông tay ra đã. Bây giờ có hai cách, tùy chàng chọn lựa". Sinh ôm cổ nàng hỏi hai cách nào, nàng đáp "Nếu hai ta làm bạn chén rượu cuộc cờ thì được sum vầy ba mươi năm, còn nếu vui thú chăn loan gối phụng thì chỉ được sum họp sáu năm thôi, chàng chọn cách nào?”. Sinh đáp "Sáu năm nữa sẽ bàn tiếp". Nàng im lặng, rồi cùng sinh vui thú. Nàng nói “Thiếp vốn biết chàng không thể tránh được thói trần tục, cũng là số vậy".

Rồi bảo sinh nuôi thêm vú già tớ gái, cho ở riêng gian nhà phía nam, nấu cơm hầu chủ, dệt vải nuôi thân. Trong gian nhà phía bắc tịnh không bếp núc, chỉ có bàn cờ bình rượu, cửa thường đóng kín. Sinh đẩy thì tự mở, người khác thì không vào được. Những người ở gian nhà phía nam siêng năng lười nhác ra sao nàng đều biết rõ, mỗi khi bảo sinh qua quở trách thì ai cũng phải nhận lỗi. Nàng không nói nhiều lời, không cười lớn tiếng, cùng sinh nói chuyện chỉ cúi đầu cười khẽ, những khi cùng ngồi, thì thích dựa vào sinh. Có lần sinh bế nàng đặt lên đầu gối, thấy nhẹ như trẻ nít, bèn nói "Nàng nhẹ thế này, có thể đứng trên bàn tay mà múa được". Nàng đáp "Chuyện đó có gì khó, có điều chỉ là việc của đám gái hầu, thiếp không thèm làm thôi. Như Phi Yến* nguyên là thị nữ của chị Chín thiếp, hay lẳng lơ mà có tội, bị đày xuống trần gian, lại không giữ trinh tiết, nên hiện đang bị giam trong ngục tối”.

*Phi Yến: tức Triệu Phi Yến, mỹ nhân trong hậu cung của Đường Minh hoàng, vóc ngườí nhỏ nhắn mềm mại, tương truyền có thể đứng trên bàn tay người ta mà múa.

Trên gác trải đầy đệm gấm, mùa đông không mấy lạnh, mùa hè chẳng mấy nóng, cô gái thì ngay giữa mùa đông lạnh buốt cũng mặc áo nhẹ. Sinh may áo mới ép nàng mặc thì chốc lát lại cởi ra, nói "Vật phàm ô trọc, mặc nữa thì đè vào xương thành bệnh lao mất". Một hôm sinh bế nàng lên gối thấy nặng khác hẳn mọi khi, lấy làm lạ. Nàng cười chỉ vào bụng nói "Trong này có giống phàm tục rồi". Cách mấy hôm sau, nàng cau mày bỏ ăn, nói “Gần đây trong người khó chịu, cứ thèm những thức nấu nướng". Sinh bèn tìm những thức ngon về, từ đó nàng ăn uống không khác gì người thường. Một hôm nàng nói “Thiếp vốn yếu ớt, không thể sinh nở, con thị nữ Phàn Anh khỏe mạnh, vậy để nó thay". Rồi cởi áo lót mặc cho Phàn Anh, đẩy vào phòng. Giây lát nghe tiếng trẻ con khóc mở cửa vào xem thì là con trai, mừng nói “Thằng nhỏ này có phúc tướng, là vật quý đây” nhân đó đặt tên là Đại Khí.
Nàng trao cho sinh bế, bảo đưa người tỳ nữ về ở chung với bà vú ở gian nhà phía nam. Nàng sinh nở xong, eo lưng lại nhỏ lại như trước, không ăn những thức nấu nướng nữa. Bỗng từ biệt sinh về thăm nhà, hỏi đi bao lâu, nàng đáp ba ngày, rồi gõ vào cái túi da tuôn mây biến mất như lần trước. Đến kỳ hẹn không thấy về, hơn năm liền bặt luôn tin tức, sinh đã tuyệt vọng, bèn đóng cửa đọc sách, kế thi đỗ Cử nhân nhưng vẫn không chịu lấy vợ, hàng đêm vẫn ngủ một mình ở gian nhà phía bắc, ôm ấp hương thừa. Một đêm đang trằn trọc trên giường chợt có ánh đèn soi qua cửa sổ, cửa phòng cũng tự mở, bọn thị nữ xúm xít đỡ công chúa vào. Sinh mừng rỡ vùng dậy trách móc sai hẹn, nàng nói "Thiếp còn chưa đến hẹn đâu, mới ở trên trời có hai ngày rưỡi thôi". Sinh đắc ý khoe chuyện thi đỗ, cho rằng công chúa ắt mừng, nhưng nàng buồn bã nói “Cái danh vọng thoảng qua đó thì có đáng gì? Chẳng đủ bàn chuyện nhục vinh mà còn làm người ta tổn thọ”. Mới ba ngày không gặp mà chàng đã sa vào tục lụy sâu thêm một tầng nữa rồi", sinh vì thế không thi cử gì nữa.

Vài tháng sau nàng lại định về thăm nhà, sinh buồn rầu không muốn, nàng nói "Chuyến này nhất định thiếp sẽ về sớm, không để chàng phải mỏi mắt trông chờ đâu. Vả lại kiếp người tan hợp đều có định số, tính toán thì thấy dài, lơ là thì thấy ngắn thôi”. Rồi đi, hơn một tháng trở về, từ đó cứ sáu tháng một năm lại đi một lần, vài tháng lại về, sinh quen lệ cũng không thấy lạ nữa. Kế nàng lại sinh thêm một đứa con trai, bế lên nhìn, nói "Thằng này sài lang", bảo nên vứt đi lập tức, nhưng vì sinh không nỡ nên vẫn giữ lại nuôi, đặt tên là Khả Khí. Vừa mới đầy năm nàng đã vội tìm hỏi vợ cho nó, các bà mai mối lui tới nườm nượp, nhung nàng hỏi ngày sinh tháng đẻ đều cho là không hợp, nói "Ta muốn làm sẵn một cái chuồng sắt cho thằng con sài lang này mà không được, phải để nó ăn tàn phá hại sáu bảy năm, âu cũng là số". Rồi dặn sinh rằng “Chàng nhớ bốn năm nữa họ Hầu sẽ sinh một đứa con gái, sườn bên trái có cái bớt nhỏ thì đúng là vợ của thằng nhỏ này đấy, phải hỏi cưới cho nó, đừng so đo chuyện môn đăng hộ đối gì cả", nói xong bắt viết ngay vào giấy cho khỏi quên.

Sau nàng về thăm nhà, đi luôn không trở lại nữa. Sinh thường đem lời vợ dặn cậy nhờ bạn bè thân thích dò hỏi, quả có đứa con gái họ Hầu sinh ra đã có cái bớt ở sườn, họ Hầu là người hèn hạ mà hành vi xấu xa, mọi người đều coi thường, nhưng sinh vẫn nhờ người mối lái hỏi cưới đứa con gái ấy cho Khả Khí. Đại Khí mười bảy tuổi đã thi đỗ, cưới vợ họ Vân, vợ chồng đều hiếu hạnh, cha rất yêu thuơng. Còn Khả Khí thì lớn lên không thích học hành, chỉ lén lút dong chơi cờ bạc với bọn vô lại, dần dà lấy trộm cả đồ vật đem bán để chơi bời. Cha giận đánh nhưng vẫn không chừa, bèn dặn ngườì nhà để ý giữ gìn, Khả Khí không lấy gì được bèn nửa đêm ra khỏi nhà trộm cắp lặt vặt, bị chủ nhà bắt trói dẫn lên huyện. Quan huyện hỏi họ tên, viết danh thiếp cho về nhà, cha và anh cùng trói lại, cha đánh cho một trận gần chết, anh phải lạy lục năn nỉ hộ mới được tha. Cha tức giận sinh bệnh, ăn không thấy ngon, bèn làm giấy tờ chia của cho hai con, những nhà lầu ruộng tốt đều về phần Đại Khí.

Khả Khí căm tức nửa đêm cầm dao vào phòng toan giết anh, nhưng chém lầm phải chị dâu. Trước công chúa có để lại chiếc áo rất nhẹ và mềm, Vân thị lấy làm áo ngủ, Khả Khí chém trúng nảy lửa tung tóe nên hoảng sợ bỏ chạy. Cha biết chuyện, bệnh càng nặng thêm, vài tháng thì chết. Khả Khí nghe tin cha mất mới mò về, anh vẫn đối xử rất tốt nhưng Khả Khí ngày càng buông thả, hơn một năm ruộng vườn nhà cửa được chia cho đã phá tán gần hết, rồi lên phủ kiện anh. Quan hỏi biết là người ra sao nên đuổi về, anh em từ đó dứt hết tình nghĩa. Được hơn năm, Khả Khí hai mươi ba tuổi, con gái họ Hầu thì mười lăm. Anh nhớ lời mẹ, muốn cưới gấp cho em, liền gọi Khả Khí tới cắt gian nhà đẹp cho ở. Khi đón dâu về, lại đem tất cả văn tự những ruộng tốt cha để lại giao cho, nói "Mấy đám ruộng xấu này, bấy lâu ta sống chết cố giữ cho thím, nay giao cả cho đấy. Em ta mất nết, cho nó một cọng cỏ cũng uổng phí. Từ nay về sau, nên hư là do em dâu. Nếu giúp nó sửa nết được thì không lo gì đói rét, bằng không thì anh cũng không thể nào lấp đầy cái vực sâu không đáy kia được”.

Hầu nữ tuy là con nhà hèn mọn, nhưng thông minh có sắc. Khả Khí vừa yêu vừa sợ, nàng bảo làm gì cũng không dám trái ý, đi đâu về không đúng giờ thì nàng nhiếc mắng, không thèm ngồi ăn chung, Khả Khí vì vậy cũng bớt lêu lổng. Hơn một năm sinh được một trai, vợ nói “Từ nay chẳng phải cầu cạnh gì ai nữa. Có mấy đám ruộng tốt, mẹ con lo gì không no ấm, không có chồng cũng chẳng sao”. Có lần Khả Khí trộm lúa đi đánh bạc, vợ biết được, cầm cung tên chận ở cổng. Khả Khí sợ quá núp trốn, rình lúc vợ vào nhà rồi, lại mon men trở vào. Vợ vung dao xông ra, Khả Khí bỏ chạy, vợ đuổi theo chém trúng mông, máu tuôn ướt cả giày tất, uất quá tới mách anh, nhưng anh tỏ vẻ khinh bỉ, đành hổ thẹn tức tối đi ra. Qua đêm lại tới, quỳ trước mặt chị dâu khóc lóc, nhờ nói giùm với vợ, nhung vợ vân nhất định không cho vào nhà. Khả Khí nổi giận đòi giết vợ, anh im lặng, Khả Khí uất ức chồm dậy xách mác đi thẳng ra cửa. Chị dâu sững sờ, định đuổỉ theo ngăn lại, nhưng anh đưa mắt ra hiệu bảo đừng, chờ đi khuất mới nói "Nó làm ra vẻ thế thôi, chứ thật ra không dám về đâu”.

Sai người theo xem thì Khả Khí đã vào cổng rồi. Anh hơi biến sắc, vội chạy mau theo thì Khả Khí đã lặng ngắt đi ra. Té ra Khả Khí vào tới nhà thì vợ đang đùa với con, nhìn thấy chồng liền thảy con xuống giường, vớ con dao bổ củi lao ra. Khả Khí sợ hãi kéo lê ngọn mác bỏ chạy, vợ đuổi ra tới ngoài ngõ mới quay vào. Anh biết rõ sự tình nhưng vẫn cố ý hỏi han, Khả Khí chỉ quay đi mà khóc, hai mắt sưng húp. Anh động lòng thương, tự dắt Khả Khí vào nhà, vợ mới chịu cho vào ở. Chờ anh về rồi, phạt Khả Khí phải quỳ, bắt phải thề độc rồi bắt ăn cơm bằng tô sành, từ đó mới bỏ nết cũ làm điều lành. Vợ lại biết tính toán làm ăn, trong nhà ngày càng dư dật, Khả Khí chỉ có việc ngổi ăn mà thôi. Về sau đến năm bảy muơi tuổi, con cháu đầy nhà mà có khi vợ vẫn nắm râu bắt quỳ.

Dị Sử thị nói:Gặp phải thứ vợ hung dữ ghen tuông thì như có ghẻ trong xương, chết rồi mới hết nợ, thứ đó há không độc sao? Nhưng Thạch tín là vị thuốc độc nhất trên đời mà dùng đúng bệnh thì Nhân sâm Phục linh cũng không bằng được. Có điều nếu không phải là người tiên nhìn thấu gan ruột, thì lại dám lưu thuốc độc lại cho con cháu ư?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 150 - 151 -
Chân Hậu
(Chân Hậu)

Lưu Trung Kham ở huyện Lạc Thành (tỉnh Hà Nam) lúc trẻ ngu độn nhưng say mê sách vở, thường đóng cửa học tập, không giao thiệp với người ngoài. Một hôm đang đọc sách, chợt ngửi thấy mùi hương lạ thơm nức cả phòng, kế có tiếng vòng ngọc khua rất gấp, giật mình ngoảnh nhìn thì thấy một mỹ nhân bước vào, trâm vòng sáng rỡ, nguời theo hầu đều ăn mặc lối cung nữ. Lưu hoảng sợ lạy phục xuống đất, mỹ nhân đỡ lên nói “Tại sao chàng lại trước khinh nhờn mà sau cung kính?". Lưu càng sợ hãi, nói "Người là thiên tiên ở đâu ta còn chưa được biết, vậy trước đây ta xúc phạm lúc nào?”. Mỹ nhân cười nói “Chia tay đã được bao lâu? Kẻ bỉ cách chức mải miết ngồi cao mài gạch* không phải là chàng sao?”. Rồi mở túi gấm lấy rượu quỳnh tuơng ra bày tiệc, giục Lưu ngồi xuống đối ẩm, cùng bàn chuyện kim cổ, thông tuệ phi thường. Lưu mờ mịt không biết đối đáp ra sao, mỹ nhân nói “Ta chỉ tới dự tiệc ở Dao Trì có một lúc mà chàng đã trảí qua mấy kiếp, hết cả thông minh rồi”. Bèn sai người hầu lấy nước nóng hoà với cao Thủy Xương dâng lên, Lưu nhận lấy uống cạn, chợt thấy tâm thần nhẹ nhõm, đầu óc sáng láng.

*Mài gạch: dịch chữ “ma chuyên”, lấy từ tích “Lưu Trinh ma thạch" (Lưu Trinh mài đá). Lưu Trinh là người thời Tam quốc, thông minh mẫn tiệp, học rộng biết nhiều, làm Tùng sự cho Thế tử Tào Phi, con Tào Tháo. Trước đó Phi theo Tháo đi đánh Viên Thiệu, bát được vợ Viên Hy tức con dâu Thiệu là Chân thị, dung mạo rất xinh đẹp bèn mang về nạp làm Chính phi. Sau Phi cướp ngôi nhà Hán lên làm vua, phong Chân thị làm Hoàng hậu. Khi Phi còn là Thế tử có lần uống rượu cùng các quan say rồi gọi Chân thị ra chào tân khách, mọi người đều quỳ rạp không ai dám ngẩng nhìn, chỉ nêng Lưu Trinh vẫn nghiễm nhiên ngồi ngó. Hôm sau Phi tỉnh rượu nhớ lại, giận Trinh vô lễ bèn cách chức bắt ra quán Thượng Phương mài đá.

Lát sau trời tối, người theo hầu tản đi hết, mỹ nhân tắt đèn cởi áo, cùng Lưu vui thú. Trời chưa sáng, đám gái hầu đã tới tụ tập, mỹ nhân trở dậy ăn vận như cũ, riêng đầu tóc vẫn tề chỉnh không phải chải lại. Lưu nằn nì hỏi họ tên, mỹ nhân đáp "Nói ra cũng không hề gì, chỉ e chàng thêm ngờ sợ mà thôi. Thiếp là Chân hậu, chàng là hậu thân của Công Cán. Ngày trước chàng vì thiếp mà bị tội, nên trong lòng thiếp thấy bất nhẫn. Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng tạm gọi là để báo đáp mối tình si vậy". Lưu hỏi Ngụy Văn* hiện ở đâu, mỹ nhân đáp "Tào Phi chẳng qua chỉ là đứa con tầm thường của lão cha làm giặc, thiếp ngẫu nhiên gặp kẻ phú quý thì theo chơi đùa vài năm, chuyện qua rồi cũng chẳng lưu luyến gì. Trước đây y vì việc của A Man** nên bị giam cầm lâu ngày dưới U minh, hiện nay không rõ ra sao. Nhung Trần Tư*** thì giữ chức coi sổ sách cho Thượng đế, thỉnh thoảng thiếp cũng có gặp". Kế có cỗ kiệu rồng tới dừng trong sân, mỹ nhân bèn rút chiếc nhẫn ngọc tặng Lưu rồi từ giã lên kiệu, mây đưa mù cuốn mà đi. Lưu từ đó học hành tấn tới nhưng nhớ nhung người đẹp, thẫn thờ như ngây.

*Ngụy Văn: tức Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán dựng ra nhà Ngụy thời Tam quốc, được nhà Ngụy tôn là Ngụy Văn đế.

**A Man: tên tự của Tào Tháo lúc nhỏ, đây dùng với ý khinh bỉ.

***Trần Tư tức Tào Thực, em Tào Phi, rất thông minh tài giỏi. Khi Tào Phi lên ngôi vương thay cha là Tào Tháo, ghét tài Thục nên phong làm Trần Tư vương, bắt phải đi xa kinh đô.

Vài tháng sau thì héo hon như sắp chết, mẹ không biết vì sao, lấy làm lo lắng. Chợt có một bà già trong nhà hỏi Lưu “Lang quân đang nhớ nhung ai lắm phải không?". Lưu thấy lời nói hơi đúng, không giấu được nên ậm ừ. Bà già nói “Lang quân cứ viết một phong thư, ta có thể mời tới cho". Lưu vừa sợ vừa mừng, nói "Bà có thuật lạ mà trước nay cứ bị vùi chôn giữa đám người tầm thường, nếu quả mời được tới đây thì ta không dám quên ơn”. Bèn viết thư đưa, bà già ra đi, nửa đêm trở về nói với Lưu "May mà không hỏng việc. Ta vừa tới cổng, người gác cho là yêu quái định bắt trói. Ta bèn đưa thư của lang quân ra, y cầm vào rồi lát sau ra gọi ta vào trong. Phu nhân cũng ngậm ngùi than thở, nói rằng không thể gặp lại, cũng định viết thư trả lời, nhưng ta thưa rằng lang quân ốm nặng, không phải một lá thư mà chữa khỏi được. Phu nhân nghĩ ngợi một lúc rồi buông bút nói “Vậy xin phiền báo trước với chàng Lưu rằng ta sẽ đưa ngay tới cho chàng một người vợ đẹp". Lúc ta ra về lại dặn dò rằng đây là việc trăm năm, không được nói lộ ra mới có thể sống với nhau lâu dài".

Lưu mừng rỡ hứa sẽ theo lời. Sáng hôm sau quả có bà lão dắt một cô gái dung nhan tuyệt đẹp tới gặp mẹ Lưu, tự xưng là họ Trần, cô gái là con ruột, tên Tư Hương, xin đem gả cho Lưu. Mẹ Lưu rất thích cô gái, bàn việc sính lễ, nhưng họ Trần không đòi hỏi tiền bạc gì cả, qua đám cưới là đi. Lưu ngầm biết là việc lạ hỏi riêng cô gái là có quan hệ thế nào với phu nhân. Nàng đáp "Thiếp là con hát cũ ở đài Đồng Tước*”. Lưu ngờ là ma, nàng nói “Không phải đâu. Thiếp và phu nhân đều có tên trong sổ tiên, nhưng vô tình mắc tội cùng bị đày xuống nhân gian. Phu nhân đã về ngôi cũ, thiếp thì chưa hết hạn bị phạt nhưng phu nhân xin với Thiên tào cho thiếp theo để sai phái, mọi việc đều chỉ phải theo lệnh của phu nhân, vì vậy cũng thường được gần gũi hầu hạ người".

*Đài Đồng Tước: cuối thời Hán, Tào Tháo nắm quyền Thừa tướng, khuynh loát triều đình. Có người đào được con chim sẽ bằng đồng dâng lên, Tháo cho là điềm lành nên sai dựng một ngôi đài cao, gọi là đài Đồng Tước, đưa các tỳ thiếp về đó ở. Trước khi chết, Tháo đem những hương liệu quý cất riêng ra chia cho họ làm vốn, dặn là hãy làm nghề khâu giày mà sống, có ý muốn họ không đi lấy chồng khác, giữ lòng chung thủy với mình.

Một hôm có bà già mù dắt con chó vàng tới nhà xin ăn, gõ phách ca hát. Cô gái vừa bước ra xem thì con chó giật đứt dây xông vào cắn. Nàng hoảng sợ bỏ chạy thì tà áo đã bị cắn đứt. Lưu vác gậy đuổi theo đập, con chó càng giận dữ nhai xé manh áo dứt được, trong chớp mắt đã nát vụn ra. Bà già mù nắm lông gáy nó rồi buộc lại dắt đi. Lưu vào thăm thấy cô gái vẫn còn đầy vẻ sợ sệt, bèn nói “Nàng là người tiên, sao còn sợ chó?". Nàng đáp “Chàng không biết, chứ con chó ấy là lão A Man hóa thân, giận thiếp không tuân theo lời dặn lúc chia hương đấy”. Lưu định mua con chó để đập chết, nàng nói “Không được đâu. Thượng đế phạt y như vậy, đâu được giết càn". Được hai nãm, ai gặp cô gái cũng kinh ngạc vì thấy nàng quá đẹp, mà hỏi tới lai lịch thì rất mơ hồ, nên đều ngờ nàng là yêu quái. Mẹ hỏi, Lưu cũng nói qua loa về chuyện lạ. Mẹ cả bảo phải bỏ vợ nhưng Lưu không nghe. Mẹ bèn ngầm mời thuật sĩ tới làm phép ở sân, vừa chỉ đất dựng đàn thì cô gái đà buồn bã nói “Vốn hẹn ước sống với nhau đến lúc bạc đầu, nay mẹ già đã ngờ vực thì tự rõ đã hết tình nghĩa rồi. Có điều muốn thiếp tự đi cũng không khó, chứ loại bùa chú ấy mà sai khiến nổi thiếp à!". Rồi bó củi châm lửa ném xuống dưới bậc thềm, trong chớp mắt khói mù toả ra che kín cả phòng ốc, đối diện không nhìn thấy mặt nhau. Kế có tiếng nổ ầm ầm như sấm sét, rồi màn khói tan đi nhìn lại thì thuật sĩ đã bảy khiếu đổ máu chết rồi. Vào phòng tìm thì cô gái đã biến mất, gọi bà già lên hỏi cũng không rõ đã đi đâu rồi. Lúc ấy Lưu mới kể lại cho mẹ biết rằng bà ta là hồ.

Dị Sử thị nói:Buổi đầu lấy chồng họ Viên, sau về làm vợ họ Tào, cuối cùng lại có tình vơi Công Cán, ngươi tiên lẽ ra không nên như thế. Song bình tâm mà bàn thì đứa con soán ngôi của A Man mà lại có được người vợ trinh tiết sao? Còn con chó nhân thấy người con hát cũ lẽ ra phải hiểu lời dặn thêu giày lúc chia hương là ngu muộí mới đúng, chứ lại còn ghen tuông à! Than ôi, kẻ gian hùng không biết tự thương xót mình, khiến người sau phải thương xót vậy.







151. Hoạn Nương
(Hoạn Nương)

Ôn Như Xuân là con nhà thế gia ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây, lúc nhỏ say mê đàn cầm, dù đi xa nhà cũng không rời tay. Có lần tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), đi ngang một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng vào nghỉ chân. Vào trong thì thấy có một vị đạo nhân mặc áo vải ngồi xổm ở hành lang, dựng cây gậy trúc vào vách, đeo một chiếc túi đựng đàn bằng vải bông thêu. Ôn thấy đúng sở thích, nhân hỏi “Đạo sĩ cũng giỏi đàn cầm sao?”. Đạo nhân đáp "Thật rất không giỏi, chỉ mong gặp người giỏi để học thôi". Rồi mở túi lấy đàn ra trao cho Ôn, Ôn nhìn thì thấy vân gỗ rất đẹp, dạo thử một câu thấy tiếng trong vang lạ thường, thích thú đàn luôn một khúc ngắn. Đạo sĩ cười khẽ như có ý chê là chưa giỏi, Ôn bèn trổ hết tài nghệ. Đạo nhân nhếch mép nói “Cũng hay, cũng hay, nhưng chưa đủ để làm thầy của bần đạo”. Ôn cho là có ý khoa trương, bèn trao lại đàn xin được nghe thử. Đạo nhân tiếp lấy đàn đặt lên đầu gối, vừa mới bật vài tiếng đã thấy gió mát thoảng tới, giây lát thì hàng trăm loài chim tới tụ họp, đậu kín trên cây trước sân chùa. Ôn vô cùng kinh ngạc, sụp lạy xin theo học. Đạo nhân đàn lại ba lần, Ôn chăm chú lắng nghe, bắt đầu hiểu được tiết tấu. Đạo nhân bảo đàn lại thử, chỉ thêm những chỗ sai rồi nói "Bấy nhiêu là ở trần gian không ai bằng rồi đấy!".

Ôn từ đó chuyên tâm tập luyện, nổi tiếng là tuyệt kỹ. Sau Ôn trở về đất Tần, còn cách nhà vài mươi dặm thì trời tối mưa to, không có chỗ nào nghỉ đêm. Thấy cạnh đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, thấy một cái cổng thì bước thẳng vào, tới tận trong nhà vẫn thấy im ắng như không có người. Giây lát có một nữ lang bước ra, khoảng mười bảy mườí tám tuổi, đẹp như thiên tiên, ngẩng đầu thấy khách thì hoảng sợ chạy trở vào. Ôn lúc ấy chưa có vợ, vừa nhìn thấy nàng đã say mê. Lát sau một bà lão ra hỏi chuyện, Ôn xưng tên họ rồi xin cho ngủ trọ qua đêm. Bà lão nói “Ngủ trọ cũng được, chỉ hiềm nhà thiếu giường chõng, nếu khách không ngại thì xin trải đệm xuống đất mời nghỉ tạm”. Rồi thắp đèn mang ra, đem cỏ khô rải xuống đất, ý tứ rất ân cần. Ôn hỏi họ tên, bà đáp "Già họ Tiêu”. Ôn lại hỏi nữ lang là ai, bà đáp “Đó là Hoạn Nương, con nuôi của già". Ôn nói :Nếu không chê nghèo hèn, thì ta muốn hỏi cưới có được không?”. Bà cau mày đáp “Chuyện đó thì già không thể vâng mệnh được”. Ôn hỏi vì sao, bà chỉ đáp là khó nói rồi im lặng. Bà già vào nhà trong, Ôn nhìn tới bó cỏ trải đệm thì vừa ướt vừa mục không sao nằm được, đành ngồi suông gảy đàn qua đêm, chờ tạnh mưa rồi ra về.

Trong huyện có quan Bộ lang đã về hưu họ Cát, rất thích kẻ văn nhân. Ôn ngẫu nhiên tới chơi, vâng lệnh gảy đàn cầm, thấy sau rèm thấp thoáng có bóng phụ nữ nghe trộm. Chợt có cơn gió thổi vẹt bức rèm, thấy là một thiếu nữ đang tuổi cập kê, dung nhan tuyệt thế. Đó là con gái Cát, tiểu tự là Lương Công, giỏi từ phú, nổi tiếng nhan sắc. Ôn động lòng, về thưa với mẹ nhờ người tới hỏi, nhưng Cát chê nhà Ôn nghèo khổ không chịu gả. Nhưng cô gái sau khi nghe tiếng đàn đã thầm hâm mộ, chỉ mong ước được nghe nữa. Song Ôn vì chuyện dạm hỏi không thành nên ý chán tình buồn không lui tới nhà họ Cát nữa. Một hôm cô gái ra vườn chơi, nhặt được một tờ giấy cũ, trên có bài từ theo điệu Tiếc xuân thừa như sau:

Nhân hận thành si, chuyển tư tác tưởng, nhật nhật vị tình điên đảo.
Hai đường đới túy, dương liễu thương xuân, đồng thị nhất ban hoài bão
Thậm đắc tân sầu cựu sầu, tiễn tận hoàn sinh, tiện như thanh thảo
Tự biệt ly, chỉ tại nại hà thiên lý, độ tương hôn hiểu.
Kim nhật cá túc tổn xuân sơn, vọng xuyên thu thủy, đạo khí dĩ phan khí liễu.
Phương khâm đố mộng, ngọc lậu kinh hồn, yếu thụy hà năng thụy hảo.
Mạn thuyết trường tiêu tự niên, nùng thị nhất niên, ty canh do thiểu.
Quá tam canh dĩ thị tam niên, cánh hữu hà nhân bất lão.

(Vì hận thành ngây, nhớ nhớ thương thương, ngày tháng vì tình bối rối.
Hải đường say ngủ, dương liễu đau xuân, ấy cũng một lòng tiếc nuối.
Đến nỗi sầu xưa sầu nay, cắt rồi lại sinh, cứ như cỏ bãi.
Từ chia ly, ở nơi không biết làm sao, bao phen sớm tối.
Hôm nay cau mặt non xuân, nhìn suốt nước thu, nói bỏ cũng liều để nói.
Chăn thơm ghét mộng, giọt lậu bay hồn, muốn ngủ làm sao ngủ nổi.
Nghe nói đêm dài như một nãm, ta thấy một năm, so một canh còn ngắn ngủi.
Qua canh ba là đã ba năm, thử hỏi ai người không mỏi)

Cô gái ngâm ngợi ba bốn lần, trong lòng thích lắm, đem về lấy giấy văn gấm chép một bản khác đặt ở bàn, nhưng lát sau tìm tới đã không thấy đâu nữa, nghĩ rằng gió thổi bay mất. Gặp lúc Cát đi ngang cửa phòng nhặt được, cho là Lương Công làm ra, rất ghét vì lời lẽ lẳng lơ bèn đốt đi nhưng chưa nỡ nói ra, định bụng sẽ gã chồng cho con sớm. Vừa lúc ấy có công tử con quan Phương bá họ Lưu ở huyện Lâm (tỉnh Sơn Đông) chongười tới dạm hỏi, Cát mừng rỡ, nhưng còn muốn gặp mặt công tử một lần. Công tử bèn ăn mặc sang trọng tới ra mắt, phong tư đẹp đẽ, Cát rất vui lòng, bày tiệc khoản đãi ân cần. Kế công tử chào về, trên chỗ ngồi rớt lại một chiếc giày con gái. Cát cho rằng tính nết đàng điếm, ghét lắm liền gọi người mai mối tới kể rõ. Công tử ra sức biện bạch rằng oan, nhưng Cát không nghe, nhất quyết tuyệt hôn.

Trước đó họ Cát có loại hoa cúc xanh, giữ không cho ai nhân giống, Lương Công đem trồng trong phòng riêng. Vườn cúc nhà Ôn chợt nảy ra hai giò màu xanh, bạn bè nghe thấy đồn đại nhau kéo tới xem, Ôn cũng rất nâng niu quý báu. Sáng sớm ra xem nhặt được bên luống hoa một tờ giấy chép bài từ Tiếc xuân thừa, đọc đi đọc lại, không biết từ đâu tới, thấy trong bài có chữ Xuân là tên mình, càng thêm cảm xúc, đem vào bàn bình phẩm nọ kia, lòi lẽ bậy bạ. Lúc ấy Cát nghe nói cúc nhà họ ôn biến ra màu xanh ngạc nhiên tới xem, vào phòng sách nhìn thấy bài từ bèn cầm lên đọc. Ôn vì lời bình của mình sỗ sàng, vộỉ giằng lại vò nát. Cát chỉ kịp đọc được một hai câu, thì đúng là bài từ đã nhặt được trước phòng con gái, vô cùng nghi ngờ, lại cho rằng cả giống cúc xanh cũng là do Lương Công tặng. Về nhà nói với vợ, bảo căn vặn Lương Công, Lương Công khóc lóc đòi tự tử. Mà việc lại không có chứng cớ gì, không thể biết rõ hư thực, phu nhân sợ tai tiếng đồn ra bèn bàn chẳng bằng cứ gả con gái luôn cho Ôn. Cát cho là phải liền bán tin cho Ôn. Ôn mừng quá, hôm ấy lập tức mời bè bạn tới uống rượu ngắm cúc xanh, đốt trầm gảy đàn đến khuya mới tan.

Ôn vào phòng ngủ rồi, đứa tiểu đồng coi phòng sách nghe thấy tiếng đàn tự nhiên vang lên, lúc đầu còn tưởng bọn tôi tớ trong nhà nghịch ngợm, sau thấy không có ai mới vào thưa với Ôn. Ôn đích thân tới xem quả đúng, nghe tiếng đàn ngập ngừng như bắt chước mình mà chưa được, đánh lửa xộc vào thì không thấy ai. Ôn đem đàn đi, từ đó cả đêm yên ắng. Vì thế ngờ là hồ, nghĩ rằng nó muốn học đàn, nên cứ mỗi buổi tối gảy một khúc rồi để đàn lại đấy cho mặc ý tập, như là thầy dạy đàn vậy. Đêm đêm rình nghe, qua sáu bảy đêm tiếng đàn đã đúng khúc điệu, nghe động lòng người. Ôn làm đám cưới xong, vợ chồng cùng kể lại chuyện bài từ mới biết đầu mối nhân duyên là đó, nhưng vẫn không rõ là từ đâu ra. Lương Công nghe chuyện lạ tiếng đàn tự nhiên kêu, tới nghe rồi nói “Đây không phải là hồ đâu. Âm điệu não nùng ai oán lắm, như là tiếng đàn ma". Ôn chưa tin lắm, Lương Công nhân đó nói nhà mình có chiếc gương cổ có thể soi thấy ma quỷ.

Hôm sau sai người về lấy, chờ tiếng đàn vang lên liền cầm gương sấn vào thắp đèn lên, quả có một cô gái đang run rẫy trong góc phòng không trốn núp được, nhìn kỹ thì chính là Hoạn Nương nhà họ Triệu. Ôn cả sợ gặng hỏi, nàng sa nước mắt đáp “Thiếp làm mai mối cho chàng, đâu phải không có ơn đức, sao nỡ bức báth nhau quá vậy?”. Ôn xin cất gương nhưng hẹn đừug biến đi, Hoạn Nương ưng thuận, Ôn bèn cất gương. Cô gái ngồi xa xa, nói “Thiếp là con gái quan Thái thú, chết đã trăm năm nay. Lúc còn nhỏ rất thích đàn cầm, đàn tranh, đàn tranh thì đã tạm biết, còn đàn cầm thì chưa được chân truyền nên vẫn ấm ức chốn suối vàng. Khi chàng có lòng ghé lại nhà, được nghe âm điệu cao nhã đã rất hâm mộ. Chỉ hờn mình khác loài không thể theo sửa túi nâng khăn, nên đã ngấm ngầm tìm cách giúp chàng cưới người giai ngẫu để đền đáp tình thương mến. Chiếc giày công tử họ Lưu để rơi, bài từ Tiếc xuân thừa bay tới, đều là do thiếp làm ra, tạ ơn thầy học như thế không phải không vất vả đâu”. Vợ chồng cảm động lạy tạ, Hoạn Nương nói "Ngón đàn của chàng thiếp đã hiểu được quá nửa, nhưng chưa thấu triệt chỗ tinh thần, xin gảy cho thiếp được nghe một lần nữa”.

Xuân theo lời, lại gảy đàn để chỉ rõ cách thức. Hoạn Nương cả mừng, nói "Thiếp đã hiểu cả rồi", rồi đứng lên từ biệt. Lương Công vốn giỏi đàn tranh, nghe Hoạn Nương cũng sở trường môn này, xin gảy cho nghe một lần. Hoạn Nương không từ chối, tiếng đàn khúc nhạc đều không phải là người trần sánh kịp. Lương Công khen ngợi, xin dạy lại cho mình. Hoạn Nương lấy bút ghi lại bản đàn, gồm mười tám chương, rồi đứng lên từ biệt. Vợ chồng cố giữ lại, Hoạn Nương buồn bã nói “Chàng được sắt cầm hòa hiệp, vợ chồng mà cũng là tri âm, kẻ bạc phận làm sao có được phúc ấy? Nếu có duyên phận, thì kiếp sau sẽ được gặp nhau”. Rồi lấy ra một cuộn giấy đưa cho Ôn, nói “Đây là chân dung của thiếp, nếu không quên bà mối thì xin đem treo trong phòng ngủ, lúc nào vui vẻ cứ đốt một lò trầm, gảy một khúc đàn, thì là thiếp được hưởng vậy". Nói xong bước ra cửa biến mất.


Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 152 -
A Tú (A Tú)

Lưu Tử Cố ở huyện Hải Châu (tỉnh Giang Tô), lúc mười lăm tuổi tới đất Cái thăm cậu, gặp một cô gái trong chợ bán tạp hóa, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, bước vào vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi cha, người cha ra, Lưu cụt hứng, cố tình trả giá rẻ rồi bỏ đi. Đứng xa thấy người cha đi nơi khác, liền quay lại, cô gái định tìm gọi cha, Lưu ngăn lại, nói "Không cần, cứ nói giá, ta không trả rẻ đâu”. Cô gái theo lời, cố ý nói giá thật cao, Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại tới, lại như hôm trước, đi được vài bước, cô gái gọi theo "Trở lại đã! Vừa rồi ta nói dối thôi, giá ấy quá đắt”. Rồi trả lại nửa tiền, Lưu càng mến là thành thật, cứ rảnh là tìm tới, vì thế ngày càng quen thuộc. Cô gái hỏi chàng ở đâu, Lưu nói thật, hỏi lại thì cô gái tự nói họ Diêu. Lúc ra về, nàng lấy giấy gói những vật Lưu mua lại cẩn thận, rồi liếm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động tới, sợ mất vết lưỡi của nàng.
Được nửa tháng, người đầy tớ rình biết, ngầm bàn với cậu bắt phải về. Lưu buồn bực không vui, đem các thứ khăn hương phấn sáp đã mua giấu vào một cái tráp, lúc vắng người lại đóng cửa kiểm lại một lượt, giở tới là ngẩn ngơ. Năm sau lại tới đất Cái, vừa buông hành lý xuống là tìm ngay tới chỗ cô gái, tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt. Thất vọng trở về, cứ nghĩ rằng nàng đi vắng chưa về. Sáng sớm hôm sau lại tới thì cửa vẫn đóng như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết họ Diêu vốn là người huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Đông), vì buôn bán không lời lãi bao nhiêu nên tạm về quê, cũng không biết lúc nào sẽ trở lại. Lưu buồn rầu, ở lại vài ngày rồi chán nản ra về. Bàn tới chuyện lấy vợ thì mấy lần đều không chịu nghe lời mẹ, mẹ vừa tức giận vừa kỳ quái, người đầy tớ liền lén kể chuyện năm trước cho mẹ biết, mẹ càng ráo riết ngăn cấm, không cho lui tới đất Cái nữa.

Lưu chợt trở nên rầu rĩ, giảm ăn bỏ học, mẹ lo lắng không biết làm sao, nghĩ thôi chẳng bằng theo ý con, liền lập tức sắm sửa hành trang cho Lưu tới đất Cái, lại dặn nhắn với cậu nhờ làm mối giùm. Cậu theo lời, qua nhà họ Diêu, lát sau trở về nói “Việc không xong rồi. A Tú đã gả cho một người ở Quảng Ninh!". Lưu cúi đầu thẫn thờ, lòng như tro lạnh, hết cả hy vọng. Về nhà rồi, cứ ôm cái tráp rơi lệ, bồi hồi tưởng nhớ, chỉ mong trên đời có người giống như thế. Lúc ấy có người mối tới, khen con gái họ Hoàng ở huyện Phục Châu (tỉnh Liêu Ninh) tuyệt đẹp. Lưu sợ không đúng, sai đánh xe tới đất Phục. Vào cửa tây huyện thành, thấy phía bắc có một gian nhà, hai cánh cổng khép hờ, có một cô gái rất giống A Tú. Lại chú mục nhìn theo, thấy cô gái vừa đi vừa ngoảnh lại mà vào, đích thị không sai. Lưu rất ngờ vực, bèn thuê nhà ở liền bên đông, hỏi dò thì đó là nhà họ Lý, nghĩ đi nghĩ lại, chẳng lẽ trên đời lại có người giống nhau đến thế sao?

Ở đó mấy hôm, không nhờ ai được, chỉ ngày ngày trông ngóng ngoài cổng, chờ dịp cô gái đi ra. Một hôm, mặt trời vừa xế, cô gái quả ra, chợt thấy Lưu, liền quay vào đóng cửa, lấy tay chỉ ra phía sau, để bàn tay lên ngang trán rồi vào. Lưu rất mừng nhưng không hiểu ý, ngẫm nghĩ hồi lâu, rảo bước ra sau nhà, thấy vườn hoang vắng vẻ, phía tây có một bức tường thấp khoảng ngang vai, chợt hiểu ra liền ngồi xuống núp trong đám cỏ sương. Hồi lâu có người sau tường thò đầu ra hỏi khẽ “Tới chưa?", Lưu lên tiếng rồi đứng dậy, nhìn kỹ thì đúng là A Tú, bật khóc lớn, nước mắt chảy ròng ròng. Cô gái cách tường đưa tay vuốt ve Lưu, lấy khăn lau nước mắt cho, ân cần an ủi. Lưu nói "Tìm đủ cách mà không được gặp, tự nghĩ kiếp này thế là thôi, ngờ đâu lại có đêm nay, nhưng nàng vì sao lại tới đây?”, cô gái đáp "Họ Lý là chú bên ngoại của thiếp”. Lưu xin leo qua tường, cô gái nói "Chàng cứ về trước, bảo người hầu đi ngủ chỗ khác, thiếp sẽ tự tới”. Lưu theo lời ngồi đợi, giây lát cô gái lặng lẽ bước vào, ãn mặc không lộng lẫy lắm, vẫn quần áo ngày trước.

Lưu kéo ngồi xuống, kể lễ nỗi khổ, rồi hỏi “Nghe nói nàng đã nhận sính lễ của người ta, sao chưa cưới?". Cô gái đáp “Nói thiếp đã nhận sính lễ là nói sai đấy. Cha thiếp thấy đường sá xa xôi, không muốn gả thiếp cho công tử, có lẽ đó là cậu nói thác ra để chàng hết mong tưởng mà thôi". Rồi đó cùng lên giường ngủ, thương yêu đằm thắm không sao nói xiết. Đến canh tư, nàng trở dậy trèo qua tường mà về. Lưu từ đó quên cả ý định tới nhà họ Hoàng, trọ lại luôn nửa tháng, tuyệt nhiên không nói tới việc trở về. Một đêm người đầy tớ dậy cho ngựa ăn, thấy trong phòng còn sáng đèn, nhìn vào thấy A Tú sợ lắm nhưng không dám hỏi chủ, chỉ ra chợ hỏi thăm, rồi mới về hỏi Lưu “Người đêm đêm vẫn đi lại với công tử là ai thế?”.

Lưu ban đầu còn giấu diếm, người đầy tớ nói “Nhà này vắng vẻ, là nơi quỷ hồ tụ tập, công tử nên giữ gìn. Cô gái nhà họ Diêu kia làm gì mà tới đây?". Lưu mới ngượng nghịu đáp “Nhà hàng xóm phía tây là chú bên ngoại của nàng, có gì mà ngừ vực". Người đầy tớ nói "Ta đã hỏi kỹ rồi, nhà bên đông chỉ có một bà già cô đơn, nhà bên tây chỉ có một người con trai còn nhỏ, chẳng ai có họ hàng thân thích. Người công tử gặp kia ắt là ma quỷ, không thì lẽ nào cái áo mấy năm vẫn không thay, vả lại da mặt quá trắng, hai má lại hơi gầy, lúc cười không thấy lúm đồng tiền, không đẹp bằng A Tú”. Lưu nghĩ lại phát hoảng, nói “Vậy thì làm sao?”. Người đầy tớ bàn đợi cô gái đến, cầm binh khí xông vào đánh. Tối cô gái tới, nói với Lưu rằng "Biết chàng sinh lòng ngờ vực, nhưng thiếp cũng không có ý gì khác, chẳng qua cho trọn duyên phận với nhau thôi". Chưa dứt lời thì người đầy tớ đạp cửa xông vào, cô gái quát "Bỏ ngay binh khí xuống, mang rượu ra đây mau, để ta từ biệt chủ nhân". Người đầy tớ tự nhiên ném dao xuống như bị cướp mất. Lưu càng sợ, gượng gạo ngồi tiếp rượu, còn cô gái vẫn cười nói như thường, nói với Lưu rằng "Biết tâm sự chàng, vẫn định tìm cách giúp cho chút ít, vất vả đề phòng nhau làm gì? Thiếp tuy không phải A Tú, nhưng cũng thấy mình không kém, chàng nhìn kỹ xem có phải không nào?".

Lưu toàn thân nổi gai ốc, ú ớ không đáp đươc. Cô gái thấy đã sang canh ba, cầm chén rượu uống một hớp rồi đứng lên nói "Ta cứ đi đã, đợi sau đêm động phòng hoa chúc sẽ lại tới so sánh với mỹ nhân nhà chàng xem ai hơn kém”, kế quay người biến mất. Lưu tin lời hồ, lại sang đất Cái, giận cậu lừa mình nên không tới ở nhà cậu mà trọ ở gần nhà họ Diêu, nhờ người qua làm mối, đút cho nhiều tiền. Vợ Diêu nói "Chú nó định gả chồng cho cháu ở Quảng Ninh nên cha nó tới đó, việc thành hay không chưa thể biết, phải đợi ông ấy về mới bàn được". Lưu nghe nói bàng hoàng không biết làm sao, chỉ còn cách cố đợi. Qua hơn mười ngày, chợt nghe có loạn, ban đầu còn ngờ là đồn nhảm, ít lâu sau tin càng gấp, bèn thu xếp ra đi. Giữa đường gặp giặc, chủ tớ lạc nhau, Lưu bị đội tiền tiêu bắt. Thấy Lưu là học trò yếu đuối nên chúng canh phòng lơ là, Lưu liền trộm ngựa trốn đi.

Tới ranh giới Hải Châu, thấy một cô gái đầu tóc rối bù mặt mũi nhem nhuốc, bước cao bước thấp khập khiễng trên đường. Lưu dong ngựa vượt qua, cô gái gọi "Người cưỡi ngựa có phải là chàng Lưu không?". Lưu kìm ngựa nhìn kỹ thì ra là A Tú, trong lòng còn ngại là hồ, bèn hỏi "Nàng đúng là A Tú chứ?”. Cô gái hỏi tại sao lại nói thế, Lưu kể lại chuyện mình đã gặp. Cô gái nói “Thiếp là A Tú thật đây, không phải là kẻ mạo danh đâu. Cha dắt thiếp từ Quảng Ninh về, gặp loạn bị bắt, họ đưa ngựa cho cưỡi nhưng ngã lên ngã xuống. Chợt có một cô gái nắm cổ tay thiếp kéo đi, quanh co giữa đám quân cũng không có ai hỏi. Nàng đi nhanh như bay, thiếp kiệt sức vẫn không theo kịp, được trăm bước đã tụt lại sau mấy lần. Hồi lâu nghe tiếng người ngựa xa dần, nàng mới buông tay thiếp ra nói "Xin chào, đường phía trước đều yên ổn, cứ thong thả mà đi, người yêu của nàng sẽ tới, nên theo chàng cùng về". Lưu biết đó là hồ, rất cảm kích, nhân kể rõ vì sao mình lưu lại đất Cái. Cô gái nói chú định gả nàng cho họ Phương, chưa kịp ăn hỏi thì gặp loạn, Lưu mới biết lời cậu nói không phải là dối trá. Bèn đỡ nàng lên ngựa cùng về, tới cổng nghe nói mẹ già vẫn khoẻ mạnh, cả mừng buộc ngựa vào nhà, kể lại mọi chuyện.

Mẹ cũng mừng, bèn sửa soạn cho cô gái tắm gội, nàng trang điểm xong lên ra mắt, dung quang lộng lẫy, mẹ càng vui vẻ nói “Chẳng trách thằng nhỏ ngây kia nằm mơ cũng không quên". Bèn sắp xếp chăn nệm cho nàng ngủ cùng phòng với mình, rồi sai người tới đất Cái báo tin cho họ Diêu. Không bao lâu vợ chồng họ Diêu cùng tới, chọn ngày lành làm lễ cưới cho con gái rồi về. Cái tráp Lưu cất giữ còn nguyên dấu niêm phong, nhưng có hộp phấn mở ra thì toàn là đất đỏ. Lưu lấy làm lạ, cô gái che miệng cười nói "Vụ lừa gạt mấy nãm trước nay bị lộ rồi. Lúc ấy thấy chàng để mặc thiếp gói hàng, không xem lại thật giả, nên làm thế để đùa giỡn thôi”. Đang lúc cười đùa, chợt một người vén rèm bước vào nói "Vui vẻ như thế thì phải tạ ơn bà mối chứ!”. Lưu nhìn thì lại là một A Tú nữa. Vội vàng gọi mẹ, mẹ và người nhà đổ tới mà không ai phân biệt được. Lưu vừa ngoảnh đi cũng lẫn luôn, chăm chú nhìn hồi lâu mới nhận ra, chắp tay vái tạ. Cô gái cầm gương tự soi rồi thẹn thùng rảo bước ra, tìm theo thì đã biến mất.

Vợ chồng cảm nghĩa lập bài vị thờ trong phòng. Một đêm Lưu say rượu về phòng thấy tối tăm không có ai, đang thắp đèn thì A Tú tới. Lưu kéo lại hỏi đi đâu, nàng cười nói “Hơi rượu sặc sụa chẳng ai chịu được mà còn tra hỏi này nọ. Đã ai đi ngoại tình đâu chứ!". Lưu cười ôm má nàng, cô gái hỏi "Chàng trông thiếp với chị hồ ai đẹp hon?”. Lưu nói "Nàng đẹp hơn, nhưng chỉ biết xem bề ngoài thì không phân biệt được". Kế khép cửa phòng ôm nhau đùa giỡn, lát sau có tiếng gõ cửa, cô gái đứng dậy cười nói “Chàng cũng chỉ là kẻ biết xem bề ngoài mà thôi". Lưu không hiểu, ra mở cửa thì A Tú bước vào, rất ngạc nhiên, mới biết người cùng chuyện trò vừa rồi là hồ. Trong bóng tối lại nghe thấy tiếng cười, hai vợ chồng ngẩng lên không khấn khứa, xin nàng hiện hình. Hồ nói "Ta không muốn gặp A Tú”. Hỏi sao không hóa ra dung mạo khác, hồ đáp "Ta không làm được". Hỏi sao không làm được, hồ đáp "A Tú là em gái ta, kiếp trước không may chết yểu. Khi còn sống, cùng ta theo mẹ lên thiên cung ra mắt Tây Vương Mẫu, lấy làm hâm mộ, lúc về cố gắng bắt chước. Em ta thông tuệ hơn, chỉ một tháng là bắt chước giống hệt, ta bắt chước tới ba năm mới giống mà vẫn không bằng. Nay đã qua kiếp khác, tụ nghĩ đã hơn, không ngờ vẫn như xưa. Ta cam lòng thành của hai người, nên thỉnh thoảng sẽ tới thăm, bây giờ thì đi đây", rồi không nghe tiếng nói nữa.

Từ đó cứ năm ba ngày lại tới một lần, trong nhà có việc gì khó khãn trở ngại đều quyết cho cả. Khi A Tú về thăm cha mẹ thì tới ở luôn vài ngày không đi, tôi tớ đều sợ hãi lánh mặt. Nhà có mất gì thì lại ăn mặc đẹp đẽ, cài chiếc trâm đồi mồi dài mấy tấc, gọi tôi tớ lên nghiêm giọng bảo ai lấy trộm vật ấy đêm nay phải đem tới để vào chỗ ấy chỗ ấy, nếu không sẽ bị đau buốt óc thì đừng trách không nói trước, sáng ra quả lấy lại được đúng chỗ nàng đã nói. Ba năm sau không thấy tới nữa, nhưng nếu trong nhà có mất tiền lụa, A Tú bắt chước ăn mặc như nàng để dọa tôi tớ cũng thường lấy lại được.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 153 -
Tiểu Thúy
(Tiểu Thúy)

Thái thường họ Vương người đất Việt (Chiết Giang), lúc còn là trẻ con có lần nằm ngủ ban ngày trên giường, bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, có con vật to hơn con mèo tới nằm nép bên cạnh, quanh quẩn không rời. Hồi lâu trời tạnh, con vật bỏ đi, nhìn lại thì không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở phòng bên. Anh nghe kể, mừng nói “Em ắt sẽ quý hiển to, đó là hồ tới núp trốn sấm sét đấy". Sau quả Vương tuổi trẻ đã thi đỗ Tiến sĩ, rồi từ chức Tri huyện về kinh làm Thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong rất ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết phân biệt con cái với con đực, quanh vùng vì vậy không ai chịu gả con gái cho, Vương rất lo lắng. Chợt có người đàn bà dắt một cô gái tới nhà xin gả cho Nguyên Phong. Nhìn tới cô gái, thấy nhoẻn miệng tươi cười, xinh đẹp như tiên. Vương mừng rỡ hỏi họ tên, người đàn bà tự nói họ Ngu, con gái tên Tiểu Thúy, vừa mười sáu tuổi. Bàn tới sính lễ, bà ta nói “Trước nay nó ở với ta rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân vào chốn nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa ý mà ta cũng được thỏa lòng, có phải bán rau đâu mà nói giá!". Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu.

Người đàn bà liền bảo cô gái lạy Vương và phu nhân, dặn "Đây là cha chồng, mẹ chồng của ngươi, phải hầu hạ cẩn thận. Ta vội lắm phải đi, vài ba hôm nữa sẽ trở lại". Vương sai đầy tớ thắng ngựa đưa về, bà ta nói làng xóm không xa, không dám làm phiền rồi ra cửa đi. Tiểu Thúy cũng không hề buồn nhớ, lập tức trút đồ trang sức trong rương ra khoe, phu nhân cũng thấy thích. Mấy hôm sau không thấy người đàn bà tới, hỏi quê quán thì nàng cũng ngẩn ngơ không nói rõ được đường sá thế nào. Bèn sắp đặt một khu nhà riêng cho vợ chồng làm lễ thành hôn. Họ hàng nghe Vương cưới bừa con nhà bần tiện làm dâu ai cũng chê cười, nhưng lúc nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc, từ đó mới thôi dè bỉu. Cô gái lại rất thông minh, biết dò ý tứ mừng giận của cha mẹ chồng. Vợ chồng Vương quý dâu quá thói thường, lại áy náy chỉ sợ cô gái chê con mình ngây, song nàng vẫn vui vẻ không hề bận tâm. ở nhà rất hay đùa giỡn, lấy vải khâu thành quả cầu đá chơi, mang đôi hài da nhỏ đá ra xa vài mươi bước cho công tử chạy theo nhặt, công tử và thị tỳ thường toát mồ hôi gọi nhau.

Một hôm Vương tình cờ đi qua, quả cầu bay tới trúng bốp giữa mặt, cô gái và thị tỳ đều chạy trốn còn công tử vẫn nhảy nhót đuổi theo. Vương nổi giận lấy đá ném, công tử mới lăn ra đất gào khóc. Vương kể với vợ, phu nhân qua mắng cô gái, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười, lấy tay xoa mép giường, phu nhân về rồi lại đùa nghịch như cũ. Có lần lấy son phấn vẽ mặt công tử vằn vện như quỷ, phu nhân nhìn thấy giận lắm, gọi nàng tới nhiếc móc, nàng chỉ dựa vào bàn mân mê giải lưng, không sợ hãi cũng không nói gì. Phu nhân không biết làm sao, bèn lấy gậy đánh con trai. Nguyên Phong kêu ầm lên, cô gái mới biến sắc quỳ xuống xin tha. Phu nhân nguôi giận ngay, vứt gậy bỏ về. Cô gái cười kéo công tử vào nhà, phủi bụi trên quần áo cho, lau nước mắt, xoa những chỗ bị đánh, lấy táo và hạt dẻ cho ăn, công tử lại nín khóc vui ngay. Cô gái đóng cửa, lấy mũ áo thắng bộ cho công tử đóng vai Bá Vương*, làm người ngoài sa mạc, còn mình thì trang điểm, bó lưng lại, đóng vai Ngu mỹ nhân, rồi lả lướt múa may dưới màn. Hoặc cắm lông đuôi chim trĩ lên tóc, gảy đàn tỳ bà, bập bùng tình tang, cười đùa ầm ĩ cả nhà, ngày nào cũng thế.

*Bá Vương: tức Tây Sở Bá vương Hạng Vũ thời Hán Sở tranh hùng, có người thiếp là Ngu mỹ nhân, tức Ngu Cơ.

Vương vì con mình ngây không nỡ trách dâu, dù thoảng nghe thấy cũng bỏ qua. Cùng ngõ có nhà quan Cấp gián họ Vương, cách hơn mười căn, nhưng vốn không đi lại với nhau. Gặp lúc triều đình theo lệ ba năm xét công quan lại, Cấp gián ghét ông giữ ấn đạo Hà Nam, rắp tâm hãm hại. Ông biết ý, lo lắm mà không biết làm sao. Một đêm ông đi nằm sớm, cô gái đội mũ đeo đai như Tể tướng, cắt tơ trắng làm râu rậm, lại bắt hai tỳ nữ cải trang như quan hầu, lén lấy ngựa trong tàu ra cưỡi đi, nói đùa rằng tới thăm Vương tiên sinh. Tới cổng nhà Cấp gián lại lấy roi đánh người hầu, nói "Ta tới thăm Thị ngự họ Vương chứ có tới thăm Cấp gián họ Vương đâu, rồi dong ngựa trở về. Tới nhà, người gác cổng tưởng thật chạy vào báo, ông vùng dậy ra nghênh tiếp mới biết là con dâu đùa, giận lắm nói với phu nhân "Người ta đang tìm chuyện bới móc mình, mà mình lại tự đem cái xấu trong phòng khuê tới tận cổng nhà người ta báo thì tai họa không xa đâu!". Phu nhân giận, qua ngay phòng cô gái mắng nhiếc, nàng chỉ ngu ngơ cười không cãi lại một câu, đánh thì không nỡ mà đuổi thì nàng không cửa không nhà, vợ chồng buồn bực cả đêm không ngủ.

Lúc ấy ông Mỗ làm Tể tướng, uy thế lừng lẫy, nghi vệ phong thái xiêm áo quan hầu không khác gì với những cái cô gái giả trang. Cấp gián họ Vương cũng lầm tưởng là thật, mấy lần sai người tới rình ở cổng nhà Vương, đến nửa đêm vẫn chưa thấy khách ra, ngờ rằng Tể tướng với Vương có mưu ngầm. Hôm sau vào chầu sớm gặp nhau bèn hỏi “Đêm qua tuớng công đến nhà ông à?". Vương ngờ là y nói mỉa, ngượng ngùng dạ dạ không trả lời. Cấp gián càng nghi hoặc, bèn bỏ ý trước, từ đó lại cố lấy lòng ông. Ông dò biết sự tình, mừng thầm nhưng ngầm dặn phu nhân khuyên cô gái đừng làm những việc như thế nữa, nàng cười vâng dạ. Qua năm sau, Tể tướng bị bãi chức, kế có thư riêng gởi ông, lại đưa lầm vào nhà Cấp gián. Cấp gián cả mừng, trước tiên nhờ người quen ông tới hỏi mượn một vạn lượng vàng, ông từ chối. Cấp gián đích thân tới, ông tìm khăn áo mãi mà không thấy. Cấp gián đợi lâu, giận ông xấc xược, tức tối toan ra về. Bỗng thấy công tử mặc áo cổn đội mũ miện bị một cô gái từ trong cửa xô ra, giật mình hoảng sợ rồi cười, vỗ về công tử, lột lấy áo cổn mũ miện mang đi.

Ông vội ra thì khách đã về rồi, nghe chuyện sợ tái mặt, khóc lớn nói "Đây là cái họa nàng dâu đây, không mấy ngày sẽ chết cả họ thôi!". Liền cùng phu nhân vác gậy chạy qua. Cô gái đã biết trước, đóng chặt cửa mặc cho chửi mắng. Ông giận, lấy búa phá cửa, cô gái trong phòng cười nụ nói "Cha đừng giận. Có con ở đây, bao nhiêu đao kiếm búa rìu con cũng xin chịu, quyết không để lụy cho cha mẹ. Cha muốn giết dâu để bịt miệng nhân chúng à?", ông bèn thôi. Cấp gián về, quả dâng sớ tâu Vương mưu phản, dâng mũ miện áo cổn làm bằng chứng. Hoàng thượng giật mình, xét nghiệm lại thì ra mũ miện làm bằng lõi cây cao lương, áo cổn khâu bằng vải nát lấy ở khăn bao vàng, giận Cấp gián vu cáo, lại cho triệu Nguyên Phong đến, thấy dáng vẻ ngây ngô lộ rõ, phì cười nói “Thế này mà cũng làm vua được à?", bèn giao cho Pháp ty xét. Cấp gián lại kiện nhà ông có yêu quái, Pháp ty tra hỏi cả những con cái của tôi tớ trong nhà, đều nói không có ai, chỉ có nàng dâu điên và đứa con ngây, suốt ngày cười đùa. Láng giềng cũng không khai gì khác, án mới định, Cấp gián bị sung làm lính ở Vân Nam.

Vương từ đó cho cô gái là người lạ, lại vì mẹ nàng lâu không thấy tới, ngờ không phải là người trần. Bảo phu nhân hỏi dò, nàng chỉ cười không đáp, gặng mãi thì che miệng đáp “Con là con gái Ngọc Hoàng, mẹ không biết sao?”. Không bao lâu, ông được thăng làm quan khanh, đã hơn năm mươi tuổi nên thường lo không có cháu nội. Cô gái ở đó ba năm mà đêm đêm vẫn không ngủ chung với công tử như chưa từng chung chạ gì. Phu nhân sai khiêng giường đi, dặn công tử ngủ chung với vợ. Được vài hôm, công tử nói với mẹ “Mượn giường của con sao lâu không trả? Tiểu Thúy cứ đêm đêm gác chân lên bụng, thở không được, lại quen tay, cứ cấu vào đùi người ta nữa!”. Đám tớ gái đều phì cười, phu nhân quát, đánh đuổi đi. Một hôm cô gái tắm trong phòng, công tử nhìn thấy đòi tắm chung, nàng cười ngăn lại, bảo chờ một lúc. Tắm xong sai thay nước nóng, cởi hết quần áo cho, gọi thị tỳ cùng đỡ công tử vào thùng tắm. Công tử thấy ngột ngạt khó chịu kêu to đòi ra, cô gái không cho, lấy chăn trùm kín lên. Giây lát không nghe kêu nữa, mở ra xem thì đã tắt thở.

Nàng vẫn thản nhiên cười nói không sợ hãi gì, kéo công tử ra đặt lên giường, lau khô mình mẩy, đắp thêm chăn cho. Phu nhân nghe tin, khóc lóc đi vào mắng "Con điên kia, sao lại giết con ta?". Cô gái tươi cười đáp "Con ngây như thế thì thà không có". Phu nhân càng giận, lao vào húc nàng, bọn tỳ nữ xô vào kéo ra khuyên can. Đang giằng co ồn ào thì một tỳ nữ nói “Công tử rên được rồi”, phu nhân gạt lệ tới vỗ về con, thấy hơi thở nhè nhẹ mà mồ hôi như tắm, ướt cả chăn chiếu. Khoảng xong bữa cơm thì mồ hôi không chảy nữa, chợt mở mắt nhìn quanh, ngó khắp gia nhân như không biết ai cả, nói “Bây giờ ta nhớ lại những việc trước đây thấy cứ như nằm mơ, sao thế nhỉ?". Phu nhân thấy lời nói không hề ngây ngô vô cùng lạ lùng, dắt qua chào cha. Hỏi thử mấy lần, quả không còn ngây, mừng rỡ như bắt được của báu, bèn sai khiêng trả giường về chỗ cũ, sắp sửa chăn gối để xem sao.
Công tử vào phòng, đuổi hết thị tỳ đi, sáng nhìn tới thì giường vẫn bỏ không. Từ đó không ngây không điên nữa, mà sắt cầm hòa hợp quấn quít như hình với bóng. Được hơn năm, ông lại bị bè đảng Cấp gián hặc tội đòi cách chức, chuyện cũng hơi lôi thôi. Ông có cái bình ngọc quý của quan Trung thừa* Quảng Tây trước đây tặng cho, giá đáng ngàn vàng, định đem đút lót quan trên. Cô gái thích cầm lên ngắm, lỡ tay làm rơi vỡ nát, xấu hổ tới tự nhận lỗi. Vợ chồng ông đang buồn về việc bị cách chức, nghe thế tức giận, cùng nhiếc mắng thậm tệ. Nàng uất ức bỏ ra, nói với công tử "Ta ở nhà anh, những cái giữ gìn được không phải chỉ là một cái bình, sao không giữ gìn thể diện cho nhau một chút? Nói thật với ông ta không phải là người, vì mẹ ta gặp nạn sấm sét, được đội ơn cha che chở, lại vì hai ta có năm năm duyên phận nên ta tới đây để đền ơn xưa và trọn duyên trước thôi. Ta bị mắng chửi đã nhiều, nhổ tóc mà tính cũng không đủ, sở dĩ không đi ngay là vì cái tình năm năm chưa hết, giờ đây thì còn làm sao nấn ná được nữa”. Rồi giận dữ bước ra, đuổi theo thì đã biến mất.

*Trung thừa: tức Tuần phủ đứng đầu một tỉnh theo quan chế thời Thanh.

Ông ngẩn người biết mình lỡ lời nhưng hối hận đã không kịp nữa. Công tử vào phòng, nhìn phấn thừa thoa cũ, khóc rống đòi chết, ăn ngủ không ngon, ngày càng tiều tụy. Ông lo lắm, vội lo cưới vợ khác cho con khuây khỏa, nhưng công tử không thích, chỉ tìm thợ giỏi vẽ tranh Tiểu Thúy, ngày đêm thắp hương rưới rượu khấn vái. Gần hai năm sau, công tử tình cờ có việc đi nơi khác trở về, trăng sáng vằng vặc, ngoài thôn có một khu vườn cảnh của nhà, vừa cưỡi ngựa đi qua bỗng nghe bên trong tường có tiếng cười liền dừng cương, sai mã phu nắm hàm thiếc rồi đứng lên yên nhìn vào, thì ra có hai nữ lang đang chơi đùa ở trong. Vì bóng trăng bị mây phủ mờ mờ, không nhìn thấy rõ, chỉ nghe một nàng áo xanh nói "Con nhãi này đáng bị đuổi ra khỏi cổng!", một nàng áo đỏ nói “Ngươi đang trong vườn nhà ta, lại còn đòi đuổi ai?”. Nàng áo xanh nói "Con nhãi thật không biết thẹn, làm vợ không nên thân, bị người ta đuổi đi, còn dám nhận bừa sản nghiệp của người ta à?”. Nàng áo đỏ nói "Còn hơn con nhãi già không ai thèm ngó tới!". Công tử nghe giọng nói giống hệt Tiểu Thúy, vội gọi lớn. Nàng áo xanh bỏ đi, nói "Ta không cãi vã với ngươi nữa, ông chồng ngươi tới rồi kìa". Kế nàng áo đỏ đi tới, quả là Tiểu Thúy, công tử mừng lắm.
Cô gái bảo trèo lên tường để mình đỡ xuống, nói “Hai năm không gặp mà chỉ còn có một nắm xương thôi!”. Công tử cầm tay rơi nước mắt, kể nỗi nhớ nhung. Cô gái nói “Thiếp cũng biết thế, nhưng chẳng còn mặt mũi nào quay lại nữa. Hôm nay cùng chị cả chơi đùa, tình cờ lại gặp nhau, mới biết duyên số không thể trốn được”. Công tử nài cùng về, nàng không chịu, xin cứ ở lại trong vườn thì nàng bằng lòng, bèn sai đầy tớ chạy về bẩm với phu nhân. Phu nhân giật mình đứng lên sai thắng kiệu tới ngay, mở khóa vào đình. Cô gái rảo bước ra đón, sụp xuống lạy. Phu nhân nắm cánh tay nàng sa nước mắt nhận hết lỗi trước, như không tha thứ được cho mình, nói "Nếu con không chấp chuyện cũ thì xin cùng về cho mẹ vui tuổi già”, nàng cương quyết nói không được. Phu nhân lo đình tạ hoang vắng, định cho nhiều người ra hầu hạ. Cô gái nói “Con không muốn gặp ai cả, duy chỉ có hai đứa thị tỳ cũ theo hầu sớm tối, không thể không thương mến. Ngoài ra chỉ xin một lão bộc gác cổng, chứ không cần gì khác!”. Phu nhân đều theo lời, lại nói thác rằng công tử dưỡng bệnh trong vườn, hàng ngày sai mang thức ăn vật dùng ra mà thôi.
Cô gái thường khuyên công tử lấy vợ khác, công tử không nghe, hơn một năm sau thì nét mặt giọng nói của nàng dần dần đổi khác, lấy bức tranh ra so thấy khác hẳn như là hai người, vô cùng lạ lùng. Nàng hỏi “Trông thiếp bây giờ có đẹp như trước không?”. Công tử đáp “Bây giờ đẹp thì vẫn đẹp, nhưng so với trước thì hình như không bằng”. Nàng nói "Chắc thiếp già rồi". Công tử nói "Người hơn hai mươi tuổi, làm gì mà già mau thế?”. Nàng cười đốt bức tranh, giật lại thì đã cháy hết. Một hôm nàng nói với công tử “Lúc trước còn ở nhà, cha thiếp vẫn nói thiếp đến chết cũng không mang thai được. Nay cha mẹ đã già, chàng có một mình, thiếp thật không sinh nở được, sợ lỡ việc nối dõi của chàng. Xin cưới vợ về nhà để sớm tối hầu hạ cha mẹ, còn chàng qua lại hai nơi, cũng không có gì không tiện. Công tử cho là đúng, liền dạm hỏi con gái Thái sử họ Chung. Gần đến ngày cưới, cô gái đích thân may áo khâu giày cho cô dâu, sai đưa về chỗ phu nhân. Ngày cưới, cô dâu vào nhà thì giọng nói nét mặt, dáng điệu cử chỉ đều giống hệt Tiểu Thúy, công tử rất lấy làm lạ. Trở lại khu vườn thì không thấy nàng đâu, hỏi hai tỳ nữ, họ đưa ra một chiếc khăn hồng, nói "Nương tử tạm về thăm nhà, để lại vật này cho công tử”. Mở khăn xem, thấy có buộc cái vòng quyết bằng ngọc, biết nàng không trở lại nữa, bèn đưa hai tỳ nữ cùng về, tuy trong phút chốc không quên được Tiểu Thúy nhưng may mà đối diện với vợ mới cũng như nhìn thấy người xưa. Mới chợt hiểu rằng cô gái đã biết trước duyên phận giữa công tử với cô gái họ Chung nên thay đổi nét mặt của nàng trước để khuây nỗi nhớ cho chàng ngày sau.

Dị Sử thị nói:Một con hồ chỉ chịu cái ơn lúc vô tâm mà còn lo báo đáp, thế mà kẻ kia đuợc hưỡng ơn tái tạo lại la thét khản tiếng vì bị vỡ cái bình, sao mà bỏn sẻn đến thế! Còn trăng khuyết lại tròn, thung dung ra đi, mới biết cái tình của người tiên cũng sâu hơn thế tục nhiều.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 154 -
Tế Liễu
(Tế Liễu)

Tế Liễu là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc, không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói "Giả như trên đời không có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?". Nàng thưa "Thật tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công, cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ". Lúc ấy có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ. Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi*.

*Trường Hỗ... mà thôi: trường hỗ (nương tựa 1âu dài) đây 1ấy ý câu trong kinh Thi Tiểu nhã, Lục nga "Vô phụ hà hỗ” (Không có cha thì nương tựa vào ai). Đây Tế Liễu biết truớc chồng sẽ chết sớm nên đặt tên con như vậy để tỏ ý mong chồng sống lâu.

Cô gái về việc nữ công rất vụng về, cũng ít khi để ý tới, nhưng ruộng nương ở đâu, thuế má bao nhiêu thì cứ theo sổ sách mà hỏi, chỉ sợ là không biết rõ. Ít lâu nói với sinh rằng "Việc trong nhà xin chàng đừng nhìn tới nữa, để thiếp lo cho, xem có coi sóc nổi việc nhà không?". Sinh theo lời, được nửa năm thì trong nhà không có việc gì bê trễ, cũng cho vợ là giỏi. Một hôm sinh đi uống rượu ở xóm bên, có kẻ đi thúc thuế thiếu đập cửa hỏi, nàng sai đầy tớ ra nài nỉ xin khất nhưng y không chịu, phải sai trẻ đi gọỉ sinh về. Người thúc thuế đi rồi, Sinh cười nói "Tế Liễu nay đã biết đàn bà khôn không bằng đàn ông ngu chưa?". Cô gái nghe thế cúi đầu bật khóc, sinh hoảng sợ vội tìm lời an ủi nhưng rốt lại nàng vẫn không vui. Sinh không nỡ để nàng phải khó nhọc vì việc nhà, muốn tự mình cáng đáng như cũ nhưng nàng không chịu. Từ đó nàng thức khuya dậy sớm chăm chỉ lo toan, cứ cuối năm là lo sẵn tiền thuế của năm sau, nhờ vậy cả năm ít khi thấy nha lại tới nhà đòi thuế thiếu.

Về tiền bạc chi tiêu trong nhà nàng cũng làm theo cách ấy, nhờ vậy chi dùng có chừng mục mà của cải ngày thêm nhiều. Sinh vì thế càng yêu mến, có lần nói đùa với nàng rằng "Tế Liễu mới nhỏ sao? Nét mày nhỏ, eo lưng nhỏ, bàn chân nhỏ, lại mến tâm tư càng tinh tế", nàng đối lại rằng "Cao lang thật cao vậy! Nhân phẩm cao, chí khí cao, văn chương cao, chỉ mong tuổi thọ lại càng cao"*. Trong làng có người bán chiếc quan tài bằng gỗ tốt, nàng không tiếc mang món tiền lớn tới hỏi mua, nhưng giá cao quá không đủ tiền, lại tìm đủ cách vay muợn thân thích láng giềng mua bằng được. Sinh cho rằng đó không phải vật cần gấp, cố ngăn cản nhưng nàng không nghe. Mua về hơn năm thì trong làng có người chết, người nhà mang tiền tới xin mua lại với giá gấp đôi, sinh thấy có lãi bèn bàn bán đi, nàng không chịu. Sinh hỏi nguyên cớ, nàng không đáp, lại hỏi nữa thì nàng rơm rớm nước mắt, sinh lấy làm lạ nhưng không nỡ làm nàng buồn, bèn thôi việc ấy.

* “Tế Liễu... càng cao”: đôi câu đối này nguyên văn là "Tế Liễu hà tế tai? Mi tế yêu tế lăng ba tế, thả hỉ tâm tư cánh tế, Cao lang thành cao hĩ! Phẩm cao chí cao văn tự cao, đãn nguyện thọ số vưu cao", có chỗ chơi chữ không dịch được vì chữ “tế” ở vế đầu vừa có nghĩa là nhỏ bé, vừa có nghĩa là tỉ mỉ, tinh tế.

Lại hơn một năm nữa, sinh vừa hai mươi lăm tuổi, nàng không cho đi xa, mà đi đâu về hơi muộn thì nàng sai đầy tớ nối nhau đi mời gọi về, bạn bè sinh vì vậy có người lấy đó để đùa cợt chế diễu. Một hôm sinh tới nhà bạn uống rượu, thấy trong người mỏi mệt nên ra về, giữa đường ngã ngựa chết. Lúc ấy mới đầu mùa hè, may mà quan tài vải liệm đã chuẩn bị đầy đủ cả, người làng mới bắt đầu khâm phục Tế Liễu. Phúc lên mười tuổi thì bắt đầu đi học, nhưng sau khi cha chết lại đâm ra biếng nhác không chịu đọc sách cứ trốn học đi chơi với đám trẻ chăn trâu. Nàng trách mắng cũng không chừa, kế đánh đòn mà vẫn bướng bỉnh chứng nào tật ấy như cũ. Nàng không biết làm sao, bèn gọi vào răn dạy, nói “Nếu ngươi không muốn học chữ thì làm sao ép được. Nhưng nhà ta nghèo, không ai được ngồi ăn không. Ngươi phải thay quần áo, theo bọn đầy tớ làm lụng, nếu không thì ta đánh đòn đừng trách". Rồi bắt mặc áo rách, sai đi chăn heo, về tới nhà thì phải xách nước nấu cơm, ăn uống như đám tôi tớ.

Được vài hôm Phúc thấy khổ quá, tới quỳ trước sân khóc lóc, xin lại đi học. Nàng quay mặt vào vách im lặng như không nghe thấy, Phúc bất đắc dĩ cầm roi khóc lóc đi ra. Đến cuối thu Phúc hết đường xoay xở, mình không áo, thân không giày, mưa lạnh thấu xương, đầu bù tóc rối như ăn mày. Người làng ai thấy cũng thương hại, những kẻ lấy vợ kế đều lấy việc Tế Liễu làm răn, chê bai dè bỉu đủ điều, nàng cũng nghe biết song vẫn thản nhiên không hề để ý. Phúc khổ quá chịu không nổi, bỏ heo trốn đi, nàng cũng mặc kệ không hỏi gì tới. Được vài tháng Phúc không có chỗ nào cho ăn, tiều tụy tự tìm về nhưng không dám vào nhà, năn nỉ người đàn bà láng giềng qua nói giúp với mẹ. Nàng nói “Nếu chịu nổi một trăm gậy thì vào đây gặp ta, còn nếu không thì cứ đi đi cho sớm”, Phúc nghe thế chạy mau vào nhà, khóc rống lên xin chịu đòn. Nàng hỏi "Nay ngươi đã hối lỗi rồi sao?”, Phúc thưa "Con hối lỗi rồi". Nàng nói “Đã biết hối lỗi rồi thì không cần đánh nữa, cứ về yên phận chăn heo, nếu tái phạm sẽ không tha". Phúc khóc lớn thưa "Xin mẹ cứ đánh một trăm gậy nhưng cho con được đi học lại". Nàng không nghe, người đàn bà láng giềng khuyên giải mãi mới ưng thuận. Bèn sai Phúc tắm rửa, cho mặc áo mớì, bắt đi học chung với em là Hỗ, từ đó ra sức học hành, khác hẳn ngày trước.

Được vài năm Phúc vào học ở trường tỉnh, có quan Tuần phủ là Dương công đọc thấy văn bài cho là có tài, hàng tháng cấp thêm tiền gạo giúp đỡ việc học. Hỗ thì rất ngu độn, đi học mấy năm vẫn không viết được tên họ. Mẹ bắt bỏ học về làm ruộng, nhưng Hỗ quen sung sướng ngại cực khổ. Mẹ giận nói “Bốn dân ai cũng phải làm việc, ngươi đã không thể học lại không muốn cày, há chẳng chết đói nơi ngòi rãnh à?”. Lập tức đánh cho một trận, từ đó bắt theo đám tôi tớ làm ruộng, sáng nào dậy muộn thì bị chửi mắng. Đồ mặc thức ăn có thứ đẹp cái ngon thì mẹ chọn dành cho anh, Hỗ không dám nói ra nhưng lòng vẫn tức tối. Hết mùa làm ruộng, mẹ xuất tiền đưa cho sai theo học buôn bán, Hỗ lại say mê cờ bạc, có bao nhiêu tiền nướng sạch cả, rồi về đặt điều là gặp phải trộm cướp, đổ cho số phận để đánh lừa mẹ. Mẹ biết, đánh cho một trận gần chết, Phúc bò rạp xuống năn nỉ xin chịu đòn thay em, Tế Liễu mới nguôi giận.

Từ đó mỗi khi Hỗ ra khỏi nhà là mẹ sai người theo dõi gắt gao, nên dần dần cũng tiêu pha dè sẻn hơn, có điều chỉ là bất đắc dĩ chừ không phải thật lòng muốn như vậy. Một hôm xin mẹ cho theo bạn buôn tới huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) buôn bán, thật ra là mượn cớ đi xa để mặc sức chơi bời, nhưng trong lòng lo lắng chỉ sợ mẹ không chịu. Mẹ nghe nói thản nhiên chẳng nghĩ ngợi gì, đưa ngay cho ba mươi lượng vàng vụn để làm vốn, rồi đưa thêm một đĩnh vàng lớn, nói "Đây là của ông nội ngươi dành dụm lúc làm quan để lại, không được tiêu mất, đưa ngươi dằn túi để phòng lúc cần kíp thôi. Vả lại ngươi mới học đi buôn, ta cũng chẳng dám mong lãi nhiều, chỉ cần không bị hụt vào ba mươi lượng vàng này là được rồi". Lúc Hỗ lên đường còn dặn đi dặn lại, Hỗ dạ dạ ra đi, vui vẻ đắc ý lắm.

Tới đất Lạc, Hỗ từ biệt hết các bạn buôn, tới ở nhà ca kỹ họ Lý, chỉ qua hơn mười đêm đã gần hết ba mươi lượng vàng. Nhưng nghĩ trong túi còn đỉnh vàng lớn nên đầu tiên chưa lo lắng gì, đến lúc chặt ra trả tiền mới biết chỉ là vàng giả, hoảng sợ tái cả mặt. Mụ chủ thấy thế buông lời châm chọc mai mỉa, Hỗ vô cùng lo lắng nhưng túi rỗng không biết xoay xở vào đâu, song nàng ca kỹ còn nghĩ tới tình nghĩa chưa trở mặt ngay. Giây lát có hai người mang dây sấn vào trói nghiến Hỗ, Hỗ hoảng sợ không biết vì sao, van vỉ hỏi thăm mới rõ rằng nàng ca kỹ đã ngầm lấy đĩnh vàng giả sai người đem báo quan. Tới công đường, quan không buồn nghe thưa bẩm gì cả, cứ sai cùm kẹp Hỗ chết đi sống lại mấy lần rồi hạ ngục. Hỗ không có tiền bạc gì nên bị bọn ngục tốt đối xử tàn tệ, phải xin cơm của các bạn tù ăn mới không chết đói.

Hôm Hỗ lên đường, mẹ nói với Phúc rằng “Nhớ là hai mươi ngày nữa ta sẽ sai ngươi tới đất Lạc, ta nhiều việc chỉ sợ quên mất!”. Phúc hỏi đi để làm gì thì nàng im lặng buồn rầu nên không dám hỏi nữa, lặng lẽ lui ra. Sau hai mươi ngày, Phúc tới hỏi, mẹ than "Em ngươi bê tha ngày nay cũng như ngươi bỏ học ngày trước vậy, ta mà không chịu tiếng xấu thì làm sao ngươi được như ngày nay? Mọi người đều nói rằng ta nhẫn tâm, nhưng việc nước mắt đẫm gối thì họ không biết đó thôi”. Rồi bật khóc, Phúc chĩ kính cẩn đứng im lặng, không dám hỏi han gì. Mẹ khóc xong mới nói "Em ngươi chưa bỏ thói xấu nên ta đưa vàng giả để nó phải chịu khốn khổ, nay chắc đã bị bắt rồi. Quan Tuần phủ đối xử với ngươi rất tốt, ngươi tới cầu khẩn thì nó có thể được thoát chết để sống mà hối lỗi”.

Phúc lập tức lên đường, tới đất Lạc thì em đã bị giam ba ngày rồi. Vội vào ngục tìm, thấy Hỗ mặt mũi nhọ nhem như quỷ, gặp anh rơi nước mắt không dám ngước nhìn, Phúc cũng khóc. Lúc ấy Phúc được quan Tuần phủ đối xử rất thân ái, xa gần đều biết tiếng, quan huyện Lạc Thành biết là anh Hỗ, vội tha Hỗ ra. Hỗ về tới nhà sợ mẹ giận, đi bằng đầu gối vào gặp. Mẹ ngoảnh lại hỏi “Ngươi thỏa nguyện rồi chứ?”. Hỗ rơi nước mắt không dám lên tiếng. Phúc cũng quỳ xuống, mẹ mới quát bảo đứng dậy. Từ đó Hỗ dốc lòng tu tỉnh, chăm chỉ việc nhà, nếu có lúc nào bê trễ mẹ cũng không trách hỏi gì tới. Suốt mấy tháng không nói tới chuyện đi buôn, cũng muốn xin với mẹ nhưng không dám, bèn nhờ anh nói hộ. Mẹ nghe thế mừng rỡ, đem hết tiền bạc giao cho, Hỗ đi buôn nửa năm đã lãi gấp hai. Năm ấy Phúc thi hương đỗ Cử nhân, ba năm sau lại đỗ Tiến sĩ, em thì buôn bán trở nên giàu có ức vạn. Trong huyện có người tới đất Lạc, gặp được Thái phu nhân, thấy tuổi đã tứ tuần mà dung mạo chỉ như mới hơn ba mươi, ăn mặc giản dị như nhà thường dân mà thôi.

Dị Sử thị nói:Sách Hắc tâm phù ra đời thì áo hoa lau thay đổi*, xưa nay đều giống nhau, thật đáng buồn vậy. Nhưng mẹ kế sợ bị chê bai thì lại nuông chiều con chồng quá mức, đến nỗi cứ mặc kệ con cái phóng túng không hỏi tới một câu, nên đã có biết bao nhiêu người bị con chồng ngược đãi rồi! Nếu chỉ đánh đập con ruột thì người ngoài không cho là ác độc, nhưng đánh con chồng thì lập tức bị chê trách ngay. Như Tế Liễu không chỉ tàn nhẫn với con chồng mà còn khiến con ruột mình trở thành người giỏi, nhưng làm sao mà đem tấm lòng ấy giải bày với người đời, nên không sợ điều tỵ hiềm, không tránh tiếng ác, rốt lại dạy được hai con trở nên một đứa sang một đứa giàu, rỡ mặt với đời, cứng rắn ngay thẳng như thế thì so ra chẳng kém gì đàn ông, chứ đừng nói so với đàn bà.

*Sách Hắc tâm phù... thay đổi: Thanh di lục chép "Trưởng sử Lai Châu là Vu Nghĩa Phương có làm một quyển Hắc tâm phù để truyền lại cho đời sau”. Tâm phù là từ dùng chỉ người mẹ kế có đức, nên Hắc tâm phù đây chỉ người mẹ kế tàn ác với con chồng. Áo hoa lau chỉ việc Mẫn Tử Khiên bị mẹ kế ngược đãi, mùa đông cho hai con mình mặc áo bông, cho con chồng là Mẫn Tử Khiên mặc áo hoa lau. Đây ý nói khi chuyện mẹ kế tàn ác với con chồng bị dư luận lên án, thì những bà mẹ kế tàn ác cũng thay đổi thủ đoạn để đối phó với dư luận.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 155 - 156
Chung Sinh
(Chung Sinh)



Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cuỡng trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói "Ông đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính". Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện, nhân hỏi "Có phải ông muốn biết tương lai không?”, sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói "Phúc mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa”. Chung vốn có hiếu, nghe thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói "Nếu bỏ thi lần này thì không bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa”, sinh đáp "Mẹ mất không được thấy mặt, thật không đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?". Đạo sĩ nói "Kiếp trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ".

Rồi lấy thuốc trao cho, nói "Cứ sai người ngày đêm đi gấp về dâng cho lệnh đường, thuốc này uống vào có thể sống thêm bảy hôm, ông thi xong trở về mẹ con vẫn còn kịp nhìn thấy mặt nhau”. Sinh nhận thuốc, vội vàng ra về, lòng dạ rối bời, nghĩ rằng sống chết có ngày giờ, mình về sớm được một ngày thì phụng dưỡng mẹ nhiều thêm một ngày, liền gọi đầy tớ thuê ngựa tức khắc lên đường trở về Liêu Đông. Đi được vài dặm bỗng con ngựa quay đầu chạy ngược lại, đánh thì nó đứng ỳ ra, thúc bàn đạp thì nó khuỵu xuống, sinh toát cả mồ hôi cũng không làm sao được. Người đầy tớ bèn khuyên sinh ở lại, sinh không nghe, nhưng thuê con ngựa khác cưỡi thì cũng thế, đến tận chiều tối vẫn không đi được. Người đầy tớ lại khuyên "Ngày mai là thi xong, có gấp gì một ngày một buổi? Ta xin đi ngay mang thuốc về trước thay chủ nhân, thế thì đôi đàng đểu trọn vẹn", sinh bất đắc dĩ đành nghe theo. Hôm sau vào thi, sinh làm bài qua loa cho xong rồi lập tức lên đường trở về ngày đêm không nghỉ. Về tới nhà thì biết bệnh mẹ đang ngặt nghèo nhưng uống thuốc xong cũng hơi giảm. Sinh vào đứng trước giường rơi nước mắt, mẹ ra hiệu bảo nín khóc, rồi cầm tay sinh vui vẻ nói ”Mẹ vừa nằm mộng thấy xuống tới âm ty thấy Diêm Vương nét mặt ôn hòa nói rằng: Xét ngươi bình sinh không phạm tội gì lớn, nghĩ tới con ngươi chí hiếu nên cho ngươi sống thêm một kỷ (mười hai năm) nữa".

Sinh cũng mừng, vài ngày sau quả nhiên thấy mẹ khỏe mạnh lại như cũ. Không bao lâu lại có tin báo thi đỗ, sinh chào mẹ tới đất Tế (tức vùng Sơn Đông), đút tiền cho quan Nội giám trong vương phủ xin gặp đạo sĩ. Đạo sĩ vui vẻ ra gặp, sinh bèn lạy tạ. Đạo sĩ nói "ông vừa đậu cao, Thái phu nhân lại được tăng thêm tuổi thọ, đó đều là nhờ ông có đức tốt, chứ bần đạo có tài cán gì đâu?". Sinh càng phục tài tiên tri, lại xin hỏi việc chung thân. Đạo sĩ đáp “Ông không quý hiển lớn được, song được sống lâu là đủ rồi. Kiếp trước ông là đạo hữu với ta, có lần lấy đá ném con chó, lỡ tay giết chết nó, nay nó đã đầu thai làm ngựa rồi. Theo số mệnh mà bàn thì lẽ ra ông phải chết sớm, nhung nhờ lòng chí hiếu làm cảm động tới thần minh nên đã được giải tinh nhập hạn, chắc sẽ không hề gì. Nhưng phu nhân kiếp trước là đàn bà không giữ trinh tiết, lẽ ra kiếp này phải góa chồng sớm, nay ông nhờ có đức được kéo dài tuổi thọ thì lại không xứng đôi nữa, e rằng sang năm đài gương phải đổ”. Sinh bùi ngùi hồi lâu rồi hỏi vợ kế của mình ở đâu, đạo sĩ đáp "Ở Trung Châu (thuộc tỉnh Hà Nam), năm nay được mười bốn tuổi". Khi chia tay lại dặn sinh “Nếu gặp tai họa thì cứ chạy mau về phía đông nam".

Hơn năm sau, quả nhiên vợ sinh mắc bệnh chết. Sinh có người cậu làm Huyện lệnh Tây Giang (tỉnh Quảng Đông), mẹ sai đi thăm. Lúc về tiện đường sinh ghé qua Trung Châu xem lời tiên đoán của đạo sĩ về người vợ kế có nghiệm không. Ngẫu nhiên tới một thôn đang có đám diễn tuồng cạnh bờ sông, trai gái chen chúc đứng xem đông nghẹt, sinh vừa thả cương cho ngựa chậm rãi đi vòng qua thì bỗng có con ngựa đực đứt cương đuổi theo làm ngựa của sinh vọt chạy. Sinh ngoảnh lại lấy roi đánh vào đầu con ngựa đực, nó hoảng sợ lồng lên. Lúc ấy thế tử trong vương phủ mới được sáu bảy tuổi, người vú đang bế ngồi chơi trên đê, con ngựa đực xông về phía đó, đám tùy tùng đều không kịp chặn lại nên vương tủ bị xô ngã xuống sông. Đám tùy tùng quát tháo ầm ĩ tranh nhau đuổi bắt, sinh giục ngựa chạy bán sống bán chết, chợt nhớ lời đạo sĩ dặn bèn ra sức chạy về phía đông nam. Được hơn hai mươi dặm thì vào tới một thôn, thấy có ông già đúng trước cổng nhà nọ liền xuống ngựa vái chào. Ông già mời vào, tự xưng là họ Phương rồi hỏi khách từ đâu tới. Sinh quỳ rạp xuấng đất kể lại sự tình, ông già nói "Không hề gì, xin cứ nghỉ lại đây" rồi sai người đi nghe ngóng.

Đến tối được tin mới biết là thế tử trong vương phủ, cả sợ nói "Nhà ai khác thì ta còn có thể giúp, chứ cục cưng này thì không làm thế nào được”. Sinh năn nỉ mãi, ông già ngẫm nghĩ rồi nói "Quả thật là không giúp được, nhưng mời khách cứ nghỉ lại qua đêm nay ở đây, nghe ngóng xem tình thế ra sao mới tính tiếp được". Sinh buổn rầu lo lắng, cả đêm không chợp mắt. Hôm sau nghe tin đã có trát nã bắt sinh, ai chứa chấp cũng sẽ bị xử tử. Ông già có vẻ lo lắng im lặng trở vào, sinh nửa sợ nửa ngờ không sao trấn tĩnh được. Nửa đêm, ông già qua gõ cửa phòng, vào ngồi một lúc rồi hỏi vợ sinh bao nhiêu tuổi. Sinh nói là góa vợ, ông già mừng rỡ nói "Kế ta ắt xong!! . Sinh hỏi kế thế nào, ông đáp “Anh rể ta mộ đạo Phật, vào núi Nam Sơn tu hành, chị ta nay đã qua đời, để lại một đứa con gái được người lão bộc chăm sóc cũng khá thông minh, xin gả cho ông, có đưọc không?”. Sinh mừng vì hợp với lời đạo sĩ, lại thành có kẻ thân thích ở nơi xa, có thể thoát nạn, bèn nói "Tiểu sinh thật rất may mắn, nhưng đang là kẻ có tội ở xa nhà, rất sợ làm lụy cả cha vợ”. Ông già nói “Như thế là tính kế cho ông đấy. Anh rể ta đạo thuật thông thần nhưng lâu lắm không hỏi tới việc đời rồi. Có điều đám cưới xong ông cứ bàn với cháu ta, thế nào cũng có cách mà". Sinh càng mừng, liền qua nhà cô gái làm lễ cưới.

Cô gái đã mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng, nhưng sinh cứ thấy mặt lại thở dài Cô gái hỏi "Thiếp dù quê mùa xấu xí, nhung chẳng lẽ chàng lại ghét bỏ sao?". Sinh tạ lỗi đáp "Nương tử là người tiên, ta được cưới làm vợ là may lắm, chỉ vì đang có tai họa nên sợ sẽ có chuyện ngang trái cho nhau”, rồi kể thật hết sự tình. Cô gái oán cậu không phải là giống người, tai họa tày trời như vậy mà đã không bàn trước cũng chẳng nói rõ, làm mình sa hầm sẩy hang. Sinh quỳ rạp xuống nói "Đây là vì tiểu sinh cố chết lạy lục cầu khẩn, nên cậu nhân từ nhưng hết cách giúp, chỉ biết nàng có thể cứu sống người đã chết, đắp thịt cho xương khô thôi. Ta thật không xứng đáng sánh duyên với nàng, nhưng may mà nhà cửa cũng không đến nỗi nào, nếu được sống sót thì ngày sau xin lấy hương hoa thờ phụng". Cô gái than "Chuyện đã tới nước này thì còn nói gì nữa! Nhưng cha đã lập chùa để tu, dứt hết lòng yêu thương con cái của người đời, có điều không còn cách nào thì phải cùng tới đó cầu khẩn, sợ là phải quỳ một phen cực khổ đây". Rồi đó nàng thức trắng đêm lấy nệm dày khâu làm đệm độn vào đầu gối cho hai người, lấy áo dài mặc phủ ra bên ngoài, rồi sai gọi kiệu lên núi.
Vào Nam Sơn hơn mười dặm thì núi cao đường dốc, quanh co hiểm trở không sao đi kiệu nữa, phải xuống đi bộ. Cô gái đi rất khó khăn, sinh kéo tay dìu đỡ, vất vả hồi lâu mới lên tới trên núi. Thấy cổng chùa không còn xa, bèn cùng ngồi xuống nghỉ chân. Cô gái thở hổn hển, mồ hôi ròng ròng, son phấn trôi hết, sinh thấy thế thương xót nói "Vì ta mà nàng phải chịu khổ tới nỗi này". Cô gái vừa thở vừa đáp “Chỉ sợ bấy nhiêu còn chưa phải là khốn khổ đâu”. Hai người nghỉ giây lát rồi đưa nhau vào chùa, lạy Phật rồi vào trong, quanh co một lúc thì tới thiền đường. Thấy một nhà sư già ngồi xếp bằng, mắt nhắm nghiền như người mù, có một tiểu đồng cầm phất trần đứng hầu. Trong phương trượng quét dọn rất sạch sẽ, nhưng trước chỗ sư ngồi lại bày đầy đá sỏi, la liệt như sao trên trời. Cô gáỉ không dám chọn lựa gì, bước tới quỳ ngay xuống, sinh cũng quỳ xuống phía sau. Sư hé mắt nhìn rồi nhắm ngay lại cô gái làm lễ ra mắt rồi nói “Lâu rồi không tới thăm cha, nay con vừa lấy chồng, nên đưa chồng con tới chào". Hồi lâu nhà sư mới mở mắt nói “Con vãi con này chỉ làm khổ ta", rồi lại im lặng. Vợ chồng quỳ hồi lâu chồn cả chân, đá sỏi nghiến vào đầu gối, đau không chịu nổi. Lại một hồi lâu sư mới hỏi “Đã dắt ngựa lại chưa?", cô gái thưa chưa. Sư nói "Vợ chồng về mau đi, dắt nó tới đây ngay". Hai người lạy rồi đứng lên, khập khiễng dìu nhau đi, về tới nhà lập tức cho dắt con ngựa của sinh vào núi, nhưng chỉ làm đúng theo lời sư dặn chứ không rõ ông có ý tứ gì.

Vài hôm sau nghe đồn là đã bắt được tội nhân làm vương tử rơi xuống sông đem chém, vợ chồng mừng lắm. Liền sau đó trong núi sai tiểu đồng tới, đưa sinh một đoạn gậy trúc bị chặt đứt, nói "Kẻ chết thay là ông này đấy”, rồi bảo sinh cúng tế để giải oan cho cây trúc. Sinh nhìn thì thấy chỗ bị chặt có vết máu, bèn khấn khứa rồi chôn cất: Nhưng vợ chồng cũng không dám ở đó lâu, nên ngay trong đêm đưa nhau về Liêu Dương.

156. Mơ Thấy Chó Sói
(Mộng Lang)

Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau Đinh chỉ một cái cổng nói "Cháu ông ở trong ấy đấy". Lúc ấy ông có đứa cháu con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi "Sao nó lại ở đây?". Đinh đáp "Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết". Ông vào, quả thấy cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói “Còn nha môn của công tử cách đây cũng không xa, ông có muốn tới xem không?", ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa nhà, Đinh bảo "Ông vào đây!". Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ quá không dám bước tới, Đinh lại nói "Ông cứ vào đây!". Qua một lần cổng nữa thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi vào.

Công tử Giáp vừa từ nhà trong ra, thấy cha và Đinh mừng lắm, mời ngồi rồi gọi người hầu sửa soạn cơm rượu. Chợt có con sói lớn ngoạm một xác người chết vào. Ông run bần bật đứng lên hỏi "Cái đó dùng làm gì?", Giáp đáp “Để làm cơm". Ông vội ngăn cản, lòng hoảng hốt không yên, cáo từ định đi ra nhưng bị đàn sói cản lại. Đang còn chưa quyết lui tới ra sao chợt thấy lũ sói kêu gào chạy tứ tán, con chui vào gầm giường, con rúc xuống dưới ghế, ngạc nhiên không rõ vì sao. Giây lát có hai lục sĩ mặc giáp vàng trợn mắt bước vào, rút dây sắt ra trói Giáp, Giáp ngã lăn xuống đất hóa thành con cọp, răng nhe lởm chởm. Một người tuốt kiếm sắc toan chặt đầu, người kia ngăn lại nói “Khoan đã, khoan đã! Đó là việc tháng tư năm sau, cứ tạm bẻ răng nó trước”. Rồi rút ngọn chùy lớn ra đập, răng cọp gảy rơi xuống đất, cọp đau quá rống vang. Ông khiếp sợ, chợt tỉnh dậy mới biết là mình nằm mơ, lấy làm lạ cho người mời Đinh nhưng Đinh từ chối không tới.

Ông bèn ghi lại giấc mơ, sai con thứ đưa thư tới cho Giáp, răn bảo thống thiết. Người em tới nơi, thấy răng cửa của anh gảy hết, sợ hãi hỏi thăm, thì ra vì say rượu ngã ngựa. Hỏi lại thời gian thì đúng ngày cha nằm mơ, càng sợ hãi, đưa thư của cha ra. Giáp đọc thư tái mặt, một lúc mới nói "Đó là ảo mộng ngẫu nhiên phù hợp, có gì lạ". Lúc ấy Giáp đang hối lộ quan trên để được tiến cử nên không để bụng về giấc mộng gở của cha. Người em ở lại vài hôm thấy lũ nha lại sâu mọt đầy công đường, kẻ hối lộ người chạy chọt nườm nượp ra vào đến khuya vẫn không ngớt, rơi nước mắt can anh. Giáp nói "Em ở nhà quê nên không biết điều cốt yếu của việc làm quan. Quyền thăng hay truất mình là ở quan trên chứ không phải trăm họ, nên cứ quan trên vui lòng tức là quan tốt chứ thương yêu trăm họ thì làm sao cho quan trên vui lòng được?". Người em biết không thể can ngăn được bèn trở về kể hết cho cha. ông Bạch nghe thế khóc lớn, không biết làm sao, chỉ còn cách bỏ tiền bạc ra giúp người nghèo, hàng ngày cầu khấn thần linh, chỉ xin nếu thằng con ngỗ nghịch bị báo oán thì đừng làm lụy cả vợ con.

Năm sau, có tin báo Giáp được tiến cử về bộ Lại, người chúc mừng tới chật cổng. Ông chỉ than thở nằm bẹp, thác bệnh không ra tiếp một ai. Không bao lâu nghe tin con trai về kinh gặp cướp, thầy tớ đều bị giết. Ông trở dậy nói với mọi người “Cơn giận của quỷ thần chỉ dành cho riêng nó, ơn che chở cho nhà ta như vậy không phải không sâu nặng đâu”, rồi thắp hương lạy tạ. Người tới an ủi đều cho rằng đó chỉ là tin đồn thất thiệt trên đường, riêng ông tin chắc không hề nghi ngờ, cứ định ngày xây mộ. Nhưng Giáp vốn chưa chết. Trước là tháng tư Giáp thôi chức lên đường, vừa ra khỏi huyện liền gặp cướp, dốc hết rương hòm ra nộp nhưng chúng nói "Bọn ta tới đây để rửa nỗi căm tức của dân cả một huyện, đâu phải chỉ vì bấy nhiêu!", rồi chém đầu Giáp. Lại hỏi đám gia nhân rằng Tư Đại Thành là ai? Tư vốn là tay chân tâm phúc của Giáp, giúp kẻ dữ làm điều ác. Đám gia nhân đều chỉ vào y, bọn cướp cũng chém luôn. Lại có bốn tên nha lại sâu mọt là tay sai vơ vét tiền bạc cho Giáp, được Giáp đưa theo về kinh cũng bị lôi ra chém chết. Bấy giờ bọn cướp mới chia của cải, chất lên ngựa phóng đi.

Hồn Giáp nằm bên đường, thấy một vị quan lớn đi ngang hỏi người bị giết là ai, toán quân mở đường bẩm “Là Tri huyện họ Bạch ở huyện mỗ". Vị quan nói "Đó là con họ Bạch, không nên để y cuối đời phải nhìn thấy cảnh thảm khốc này, cứ chắp đầu lại cho hắn”. Lập tức có một người nhặt đầu Giáp đặt lên cổ, nói "Kẻ gian tà không cần chắp cho ngay ngắn, cứ cho vai đỡ cằm là được", rồi bỏ đi. Lát sau Giáp sống lại, vợ con tới nhặt xác thấy còn thoi thóp bèn chở về, từ từ đổ nước cháo cho, cũng uống được nhưng phải sống nhờ ở quán trọ vì nghèo quá không về được. Khoảng nửa năm, ông Bạch được tin đích xác, sai con thứ tới đón về. Giáp tuy sống lại nhưng mắt nhìn thấy lưng, không giống con người nữa. Con trai người chị ông Bạch thì làm quan có tiếng tốt, năm ấy được tiến cử làm Ngự sử, đều đúng như ông mơ thấy.

Dị Sử thị nói:Trộm than rằng trong thiên hạ quan là cọp mà lại là sói, ở đâu cũng vậy. Cho dù quan không phải là cọp thì nha lại cũng sẽ là sói, huống hồ kẻ làm quan còn dữ hơn cả cọp sao? Phàm điều người ta lo là không thể nhìn thấy phía sau mà thôi, đây cho sống lại mà lại còn làm cho nhìn thấy được phía sau, bài học của quỷ thần mới sâu xa làm sao!
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 157 - 158 -
Cung Trời
(Thiên Cung)

Quách sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười nói "Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay", rồi bỏ đi. Sinh mở bình ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chọt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách, bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái “Nàng là thần gì?", nàng đáp “Ta không phải là thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu tiện". Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mục không biết ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói "Ngày không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?". Cô gái cười nói "Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn đuốc?".

Ở vài hôm, Quách vô cùng buồn chán, mấy lần xin về. Cô gái nói “Đêm mai cùng chàng lên Thiên cung chơi một lần rồi sẽ chia tay". Hôm sau chợt có a hoàn nhỏ cầm đèn lồng vào nóí "Nương tử chờ chàng đã lâu”. Quách theo ra, dưới ánh sao đêm vằng vặc chỉ thấy vô số lầu gác. Qua mấy đoạn hành lang chạm vẽ tới một nơi trên thềm treo rèm châu, đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bước vào thì thấy một mỹ nhân trang điểm lộng lẫy ngồi quay mặt về hướng nam, tuổi khoảng hai mươi, áo gấm lóa mắt, đầu đính minh châu rủ xuống bốn phía, dưới đất bày đầy đuốc ngắn soi rõ cả gấu quần, đúng là người trời. Quách hoang mang váng vất, bất giác quỳ xuống, cô gái sai tỳ nữ đỡ dậy dìu vào ghế. Phút chốc các món bát trân bày lên la liệt cô gái rót rượu nói "Uống chén này để đưa chàng về”. Quách khom người thưa “Trước giáp mặt mà không biết người tiên, thật rất thẹn thùng, nếu cho chuộc lỗi, xin làm kẻ bầy tôi trung thành suốt đời". Cô gái quay nhìn tỳ nữ mỉm cười rồi sai dọn tiệc vào phòng ngủ. Trong phòng cũng màn gấm tua thêu, chăn là thơm phức, nàng bảo Quách ngồi lên giường. Uống thêm một lúc, mấy lần nói "Chàng xa nhà đã lâu, nay tạm về cũng không sao". Hết canh một Quách vẫn chưa cáo từ, cô gái gọi tỳ nữ cầm đèn lổng tiễn ra. Quách im lặng, giả say lăn ra giường, lay gọi gì cũng không động, nàng bèn sai các tỳ nữ đỡ dậy cỡi quần áo ra, một nàng vuốt chỗ kín của Quách nói “Gã trai này mặt mũi ôn nhã mà sao cái này chẳng có chút gì văn vẻ!", đặt Quách xuống giường rồi cùng cười rộ đi ra.

Cô gái cũng lên nằm, Quách trở mình, nàng hỏi "Say lắm không?", Quách đáp "Tiểu sinh có say đâu! Chỉ là mới nhìn thấy người tiên tâm thần đã điên đảo đó thôi”. Cô gái nói "Đây là Thiên cung, trời chưa sáng đã phải ra, nếu vào động phủ thấy buồn chán thì chẳng bằng sớm từ biệt”, Quách nói “Nay có người ban đêm nhặt được đóa hoa, mò cánh ngửi mùi mà không có đèn đuốc, tình cảnh ấy làm sao chịu được?". Nàng cười, sai lấy thêm đèn đuốc. Vừa sang canh tư đã gọi tỳ nữ cầm đèn ôm áo đưa Quách ra. Vào động phủ thấy trần thiết tinh xảo, chỗ ngủ lót nệm da, trải thảm lông dày cả tấc. Quách đã cởi giày khoác chăn mà người tỳ nữ còn bịn rịn chưa đi, để ý nhìn kỹ thấy dung mạo xinh xắn bèn đùa hỏi "Người chê ta không văn vẻ là nàng phải không?". Cô ta cười đá vào cái gối nói "Chàng cứ nằm uỡn ra đi, đừng có lắm lời" Nhìn chiếc giày của cô ta thấy đính viên ngọc trai to bằng hạt đậu lớn, Quách nắm lấy kéo cô ta vào lòng, ôm ấp vuốt ve, cô ta không kìm được cứ rên lên. Quách hỏi bao nhiêu tuổi, đáp mười bảy. Hỏi "Xử nữ cũng biết tình sao?”, đáp “Thiếp không còn là xử nữ, nhưng hoang vắng đã ba năm rồi". Quách hỏi dò tên họ quê quán thứ bậc người tiên, cô ta nói "Đừng hỏi! Đây dù không phải thượng giới cũng là cõi trần hiếm có, nếu cứ muốn biết rõ e không có đất mà chôn đâu”, Quách nghe thế không dám hỏi nữa.

Đêm sau cô gái quả mang đèn tới cùng nhau ăn ngủ, ngày nào cũng vậy. Một đêm nàng vào nói “Vẫn mong cùng nhau vui vầy mãi mãi, không ngờ tình người ngăn trở, nay phải quét dọn thiên cung, không thể lưu chàng ở đây được nữa, xin cùng chuốc chén từ biệt”. Quách rơi nước mắt, xin cho chiếc áo lót làm kỷ vật. Cô gái không cho, chỉ tặng một cân vàng ròng, trăm hạt ngọc châu. Uống cạn ba chén, Quách bỗng say lịm. Khi tỉnh dậy thấy tay chân như bị trói chặt, không duỗi chân được, cũng không ngóc đầu lên được. Gắng sức lăn lộn thì nhào xuống giường, mò mẫm thấy mình bị nhét vào cái túi gấm, ngoài có dây buộc chặt. Ngồi lên ngẫm nghĩ, thấy cái giường mờ mờ mới biết đang trong phòng sách nhà mình. Lúc ấy Quách rời nhà đã ba tháng, người nhà đều cho là đã chết. Quách lúc đầu không dám kể rõ chuyện, sợ bị tiên trừng phạt, nhưng lòng vẫn lạ lùng ngờ vực, thỉnh thoảng lại lén kể cho bạn bè, nhưng không ai biết duyên cớ do đâu. Cái túi chăn vẫn để ở đầu giường, mùi hương ngát phòng, xem kỹ thì là loại vải Hồ Châu tẩm hương liệu, trân trọng cất đi.

Sau có quan lớn Mỗ nghe chuyện, hỏi kỹ rồi cười nói "Đó là người quen của Giả hậu*, chứ người tiên nào lại làm thế. Nhưng nên giữ kín chuyện này, lộ ra thì chết cả họ đấy". Có người thầy đồng vẫn ra vào các nhà quyền quý nói rằng hình dáng lầu gác như thế thì rất giống dinh Nghiêm Đông**. Quách nghe thế khiếp đảm, đưa cả gia đình đi biệt xứ, không bao lâu Nghiêm bị giết mới trỡ về.

*Người quen của Gia hậu: Tấn thư chép vợ Tấn Huệ đế 1à Giả thị hoang dâm, thường bắt cóc đàn ông con trai đẹp trai khỏe mạnh trong dân gian về để hành lạc, nói với họ rằng mình là thần tiên.
** Nghiêm Đông: tức Nghiêm Thế Phồn, quyền thần triều Minh, nổi tiếng độc ác xa hoa.

Dị Sử thị nói:Gác cao sáng rỡ, hương nức màn thêu, tỳ nữ trẻ đẹp, giày đính minh châu, nếu không phải nhà quyền gian phóng túng, hào quý kiêu xa thì sao được như vậy? Thẻ tính dâm vừa ném, nhà vàng biến thành lãnh cung, ống nhổ thơm chưa khô, ruộng tình đã tràn cỏ dại*. Giường không não ruột, đuốc tắt tiêu hồn, mày cau trước đài vàng, mắt mờ trong trướng gấm. Khiến cho kẻ kia nhân nhờ chén rượu, thẳng lối cung tiên, giữa làng ôn nhu, ngỡ người tiên tử. Mắng kẻ sang dâm loạn, chẳng đủ thẹn người nhưng ruộng tốt bỏ hoang**, cũng đủ tự răn vậy.

* Thẻ tính dâm... cỏ dại: thẻ tính dâm dịch chữ "dâm trù”, ống nhổ thơm dịch chữ "thóa hồ" tức "hương thóa hồ". Sử chép Nghiêm Thế Phồn mỗi lần ngủ với đám tỳ thiếp xong thì lấy khăn lau mồ hôi bằng the trắng lau chùi rồi xếp lại cất ở đầu giường, cuối năm mang ra đếm, gọi là "thẻ tính dâm". Lại khi khạc nhổ thì bắt các tỳ nữ lấy miệng hứng, cứ ho hắng thì đám tỳ thiếp xinh đẹp xúm lại há miệng ra chờ, nhân gọi đó là “ống nhổ thơm". Cả câu ý nói được người giàu sang yêu thương không bao lâu đã bị bỏ rơi không đoái hoài tới nữa.

** Ruộng tốt bỏ hoang: chỉ người đàn bà đẹp phải lẻ loi một mình. Câu này ý nói mỹ nhân bắt Quách là một nàng hầu xinh đẹp bị bỏ rơi.
 
158. Bản Án Oan Khuất
(Oan Ngục)

Chu sinh người huyện Dương Cốc (tỉnh Sơn Đông), tuổi trẻ tính hời hợt, ưa đùa cợt. Vì vợ chết nên tới gặp bà mối, nhân thấy vợ người láng giềng của bà ta xinh đẹp bèn nói đùa “Quý hàng xóm đẹp quá, nếu ta cưới được thì hay lắm”. Bà mối cũng đùa rằng "Cứ giết chồng người ta đi, thì ta sẽ tính giùm cho". Sinh cười nói "Được thôi”. Hơn tháng sau, chồng người ấy đi đòi nợ bị giết ngoài đồng. Quan huyện sai bắt chức dịch trong làng, đánh đập tóe máu nhưng rốt lại vẫn không có manh mối gì. Chỉ có bà mối kể lại chuyện sinh nói đùa, quan vì thế nghi là Chu sinh, sai bắt tới hỏi thì nhất quyết không nhận. Quan huyện lại ngờ rằng người đàn bà tư thông với sinh, sai bắt luôn, tra tấn rất tàn khốc, người đàn bà không chịu nổi bèn nhận bừa. Quan lại tra hỏi Chu, Chu nói "Đàn bà yếu ớt không chịu đau nổi nên nhận bừa, có điều đã chết oan còn mang thêm tiếng xấu bất trinh, giả như quỷ thần vô tri thì ta cũng không nỡ. Thôi để ta khai thật, đúng đấy, ta muốn giết chồng để lấy người vợ, chuyện này đều do ta làm, nàng ta không biết gì đâu”.

Hỏi có chứng cớ gì không, sinh đáp là có chiếc áo vấy máu làm bằng. Quan sai tới nhà lục soát thì không thấy, lại tra tấn, Chu chết đi sống lại mấy lần bèn nói "Đây là vì mẹ ta không nỡ đưa ra để ta phải chết thôi, để ta tự đi lấy". Quan cho giải về nhà, sinh nói với mẹ "Đưa áo con ra thì con phải chết, mà không đưa ra thì con cũng chết. Đàng nào con cũng chết, thôi mẹ đưa ngay ra đây đi". Bà mẹ khóc đi vào phòng, lát sau cầm tấm áo đưa ra. Quan khám nghiệm thấy đúng là có vết máu, kết án xử chém sinh, bàn đi xét lại nhiều lần không ai nói gì khác, được hơn một năm thì định ngày hành quyết. Hôm ấy quan huyện vừa mới điểm danh phạm nhân chợt có một người đi thẳng vào công đường, trợn mắt nhìn quan huyện mắng lớn "Ngươi mù mờ như thế làm sao coi việc dân?”. Bọn nha dịch mấy mươi người xúm vào bắt, người ấy gạt tay một cái, cả đám ngã dúi dụi. Quan huyện khiếp sợ toan chạy, người ấy nói lớn "Ta là Chu Tướng quân dưới trướng Quan Đế* đây! Tên quan ngu xuẩn kia mà nhúc nhích thì ta giết chết tươi đấy!". Quan huyện run sợ đứng im, người ấy nói "Kẻ giết người là Cung Tiêu, chứ họ Chu có dính líu gì tới?". Nói xong ngã lăn xuống đất ngất đi, lát sau tỉnh lại, mặt không còn chút máu, hỏi tên họ thì là Cung Tiêu.

*Chu tướng quân... Quan Đế. tức Chu Thương, cận tướng của Quan Vũ nhà Thục Hán, khi Quan Vũ bị Đông Ngô giết thì tự tử chết theo, về sau cũng được thờ cúng chung với Quan Vũ, là người mặt đen cầm thanh long đao đứng hầu vẫn thường được vẽ trong các bức tranh Quan Vũ đọc kinh Xuân thu trước nay.

Bắt lấy tra hỏi thì y nhận hết tội. Té ra Cung vốn là kẻ liều lĩnh, biết là người kia đi đòi nợ về, cho rằng có mang nhiều tiền trong người bèn giết chết, nhưng chẳng được đồng nào. Nghe Chu sinh nhận tội bừa, trong lòng ngầm lấy làm may mắn, nhưng hôm ấy bỗng tự đi vào công đường mà không biết gì cả. Quan huyện hỏi Chu lấy chiếc áo vấy máu ở đâu ra, Chu cũng không rõ, gọi mẹ Chu lên hỏi, thì ra là bà cắt cánh tay lấy máu bôi vào, khám tới cánh tay trái của bà thì thấy có vết dao cắt vào còn chưa lành hẳn. Quan huyện cũng kinh ngạc, sau đó bị hặc tội vì vụ này, kế bị cách chức giam cầm rồi chết. Hơn năm sau mẹ người đàn bà muốn gả chồng cho con, nàng cảm nghĩa của Chu, bèn lấy Chu.

Dị Sử thị nói:Xét án là phận sự hàng đầu của kẻ làm quan, vun bồi âm đức hay vùi lấp lẽ trời đều là ở đó nên không thể không cẩn thận vậy. Nóng nảy dữ tợn, làm trái đức hòa thì không những làm việc xét án kéo dài mà còn khiến cho sinh dân thương tổn. Một kẻ đi kiện thì mấy người bỏ ruộng nương, một vụ xử xong thì mười nhà tan cơ nghiệp, há lại coi là chuyện nhỏ sao! Ta thường nói kẻ làm quan không nhận xử kiện nhiều tức là có đức tốt mà không phải chuyện trọng đại thì chẳng cần tra xét, không phải việc khó khăn thì bất tất lưu tâm. Như có bọn dân quê trên núi trong làng, vì ngẫu nhiên tranh nhau con vịt con gà mà đi thưa đi kiện, thì chẳng qua chỉ cần một câu nói của quan trên là đủ thu xếp yên chuyện thôi. Thế mà không chịu chu toàn cho người ta, đòi cả bên nguyên bên bị tới, lập tức đánh đập tra khảo, tới nỗi roi hèo gãy hết, như vậy đâu phải là quan huyện thần minh? Vẫn thấy có ông quan huyện xử kiện vừa phát trát đòi đi thì hầu như đã quên bẵng, mà kẻ sai dịch đi bắt người túi chưa đầy thì không cho thấy trát quan, kẻ thư lại xếp lịch xử tiền chưa cầm thì không chịu trình án kiện, che giấu dằng dai, kéo dài ngày tháng, dân đen chưa kịp ra tới công đường thì xương thịt đã tan nát cả rồi.

Thế mà kẻ nghiễm nhiên làm cha mẹ dân cứ ngủ kỹ trên giường như là vô sự, nào biết rằng trong chốn ngục tù nguy ngập có vô số oan hồn đang thoi thóp dài cổ trông chờ được cứu ra đâu? Nếu đúng kẻ gian ác bất lương, thật không đáng tiếc, nhưng là người thiện lương vô tội, chịu vậy sao kham? Huống chi trong những kẻ bị liên can thì thường kẻ gian ác ít, người lương thiện nhiều, mà người lương thiện lại thường bị hại nhiều gấp bội kẻ gian ác. Tại sao lại như thế? Vì kẻ gian ác thì khó hành hạ, mà người lương thiện thì dễ khinh khi vậy. Cho nên sai dịch chửi mắng, thư lại vòi tiền, đều nhằm vào người lương thiện mà trút lòng tham bạo. Thường dân đen bước vào cửa công như đi trên lửa đỏ, xử án sớm được một ngày là sống yên sớm được một ngày, nên có chuyện gì lớn thì nhìn lên công đường thẫn thờ như người chết rồi, chỉ lo không đủ tiền để lấp đầy túi tham, đành nghĩ muốn yên thân còn phải nhiều ngày tháng. Như thế thì tuy quan trên không tàn bạo nhưng thật ra cũng có tội ngang bọn sai dịch thư lại vậy. Thường thấy trong các đơn kiện thì kẻ cần phải đòi tới chẳng qua chỉ có vài ba người, còn lại đều là dân đen vô tội bị thêu dệt vu cáo mà thôi. Có khi vì ngày thường hiềm khích nên thành oán thù, có khi là trong nhà có của nên bị ghen ghét, bên nguyên đối với kẻ bị kiện chính thì mới ra sức làm sao cho bị khép tội, chứ đối với số còn lại thì chỉ là để trả thù vặt. Nhưng người bị thưa kiện thì tựa hồ bị ung nhọt trong xương, chịu đủ tội ở cửa công cũng phải muôn ngàn đau đớn, người ta quỳ cũng quỳ, tựa chim theo lũ, người ta bước cũng bước, như khỉ bị xiềng. Nhưng xét lại thì quan trên không hỏi, thư lại không tra, thật ra đều hoàn toàn vô dụng trong việc xét xử, có điều bấy nhiêu cũng đủ khuynh gia bại sản mà nuôi béo lũ thư lại tham lam, bán vợ đợ con để thỏa dạ bọn tiểu nhân thù vặt rồi. Rất mong nhũng người làm quan gặp việc kiện tụng thì xét sơ qua một lượt đã, kẻ cần bắt thì ra lệnh bắt, kẻ không cần bắt thì thôi. Chẳng qua chỉ rung quản bút, động cổ tay mà đã là bảo toàn cho ít nhiều gia đình, bồi bổ vào ít nhiều nguyên khí trong thiên hạ rồi. Người làm chính sự đã không nghĩ tới việc ấy, lại còn chăm chăm dùng gông cùm đao kiếm, để giết người sao?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 159 - 160 -
Phu Nhân Nhà Họ Lưu
(Lưu Phu Nhân)

Liêm sinh người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ ham học nhưng mồ côi sớm, nhà rất nghèo. Một hôm đi khỏi nhà, tối về lạc đừơng vào một thôn nọ, gặp một bà già đi tới nói "Liêm công tử đi đâu thế, trời tối lắm rồi". Sinh đang lo lắng nên cũng không kịp hỏi là ai, chỉ xin ngủ nhờ. Bà già dẫn sinh đi tới một phủ đệ lớn, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa một người đàn bà ra, thấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, cử chỉ phong thái ra dáng đại gia. Bà già bước lên thưa "Liêm công tử đã tới," Sinh vội rảo bước tới làm lễ, người đàn bà vui vẻ nói "Công tử tuấn tú lắm, đâu phải chỉ là một phú ông". Lập tức bày tiệc đón tiếp, ngồi bên cạnh mời mọc rất ân cần, nhưng riêng mình nâng chén không mấy khi uống, cầm đũa không mấy khi gắp.
Sinh ngại ngùng áy náy, mấy lần hỏi thăm gia thế, bà cười đáp "Cứ uống cạn ba chén lớn ta sẽ nói cho chàng biết". Sinh uống xong, bà nói "Chồng ta họ Lưu, làm khách ở Giang Tả (vùng Giang Tây) gặp tai biến chết rồi. Ta góa bụa sống một mình ở nơi vắng vẻ này, nhà cửa ngày càng sa sút. Tuy có hai đứa cháu nội nhưng nếu không phải lũ ăn tàn phá hại thì cũng là hạng bất tài vô dụng. Công tử tuy khác họ nhưng kiếp trước là ruột thịt, vả lại tính tình thuần hậu cẩn thận nên ta mới ra mặt gặp gỡ. Cũng chẳng có chuyện gì phiền, chỉ là ta có một ít vàng chôn giấu, muốn gởi công tử đem đi buôn bán, có lời thì chia, cũng không tới nỗi chết già không được ai biết". Liêm từ chối, lấy cớ tuổi còn trẻ lại chỉ là kẻ học trò khờ khạo, sợ phụ sự ủy thác lớn lao.

Bà nói "Đọc sách trước hết là để mưu sinh, công tử lại vốn thông minh, chuyện gì mà không làm được”. Rồi sai tỳ nữ mang vàng ra giao, tất cả hơn tám trăm lượng, sinh lo sợ cố từ chối. Bà nói “Ta cũng biết công tử chưa quen giao thiệp buôn bán, nhưng cứ thử xem, chắc chắn không thua lỗ đâu”. Sinh lo rằng số vốn lớn như thế thì một người không đủ sức coi sóc nên bàn họp bạn đi buôn chung. Bà nói “Không cần đâu, chỉ cần tìm một người thành thật tháo vát theo giúp công tử là đủ” lại bấm đốt tay tính toán, nói “Được người họ Ngũ thì rất tốt". Rồi sai đầy tớ thắng ngựa chở vàng đưa sinh về, nói "Đến cuối năm xin chờ làm tiệc tẩy trần", lại ngoảnh lại dặn người đầy tớ rằng "Con ngựa này thuần, có thể cưỡi được, vậy tặng luôn cho công tử, khỏi cần dắt về". Sinh về tới nhà thì đã canh tư người đầy tớ buộc ngựa rồi chào về. Hôm sau sinh đi khắp nơi tìm người giúp việc, quả được một người họ Ngũ, bèn trả công hậu để thuê. Ngũ già đời trong việc đi xa, lại là người ngu tối vụng về song cẩn thận, sinh đưa hết tiền bạc cho giữ, cùng nhau qua lại buôn bán ở Kinh Tương (vùng Hồ Nam).

Cuối năm trở về, tính lại thì vốn đã tăng gấp ba lần, sinh cho rằng nhờ sức của Ngũ nhiều, nên ngoài công xá còn thưởng thêm cho rất hậu, định là không cho chủ nhân biết. Vừa về tới nơi, người đàn bà đã sai người ra đón, hai người cùng vào. Thấy trên sảnh đã bày tiệc sẵn, người đàn bà bước ra, hết lời khen ngợi an ủi. Sinh nộp cả tiền bạc, tính hết sổ sách, nhưng bà không ngó ngàng gì tới. Giây lát mời vào tiệc, có cả ban hát ca múa nhộn nhịp, Ngũ cũng được mời tiệc riêng ở nhà ngoài, say khướt mới về. Sinh thì vì chưa có vợ nên ở lại ăn Tết luôn. Hôm sau lại xin tính toán sổ sách, người đàn bà cười nói "Sau này không cần làm thế nữa, ta đã biên chép từ lâu rồi". Rồi giở sổ cho sinh xem, thấy ghi chép rất rành mạch, ngay cả khoản thưởng thêm cho Ngũ cũng thấy có trong đó, sinh kinh ngạc nói "Phu nhân quả là người thần”. Qua mấy hôm, cho ăn ở rất chu tất, đãi sinh như con cháu trong nhà. Một hôm bày tiệc trên sảnh, đặt một ghế chủ một ghế khách dưới thềm cũng bày một bàn, nói với sinh rằng "Ngày mai là ngày Tài tinh lâm chiếu, đúng dịp nên lên đường, hôm nay ta bày tiệc tiễn chủ tớ công tử cho thêm phần khởi sắc”. Ngũ cũng được gọi tới, cho ngồi ở bàn dưới thềm. Một lát thì ban hát ra diễn, chiêng trống vang tai, người của ban hát bước lên trình danh sách các vở tuồng. Sinh bảo diễn vở Đào Chu giàu có*, người đàn bà cười nói "Đó là điềm báo trước đấy, chắc công tử sẽ được Tây Thi làm nội trợ”.

*Đào Chu giàu có: Đào Chu tức Phạm Lãi, người thời Xuân Thu, theo giúp Việt Vương Câu Tiễn, sai mỹ nhân là Tây Thi qua dùng sắc đẹp để quyến rũ Ngô vương Phù Sai, ly gián triều dình, làm rối triều chính nước Ngô. Sau khi Câu Tiễn diệt Ngu, Phạm Lãi bỏ quan, đưa Tây Thi rời nước Việt, thay tên đổi họ đi buôn bán khắp nơi, trở thành cự phú, sau cùng ở lại nước Tề, tự xưng là Đào Chu công.

Tan tiệc lấy toàn bộ số vàng đưa sinh, nói "Lần này đi không kể ngày tháng, nếu không thu được vạn lượng vàng xin đừng về. Ta với công tử nương dựa nhau do phúc mệnh, tin cậy nhau như gan ruột, đừng nhọc công làm sổ sách làm gì. Việc bán buôn lời lỗ ở phương xa thế nào tự ta có thể biết được”, sinh vâng dạ lui về. Rồi lên đường tới đất Hoài Thương (huyện Hoài ân tỉnh Giang Tô) xin làm thầu buôn muối, hơn một năm thì vốn đã tăng gấp mấy lần. Nhưng sinh ham học, ngoài những lúc tính toán buôn bán vẫn không quên sách vở, bạn bè cùng giao du đều là kẻ văn sĩ. Lại thấy đã có nhiều tiền nên thầm muốn nghỉ buôn bán, dần dần giao hết công việc cho Ngũ. Sinh chơi thân với Tiết sinh ở huyện Đào Nguyên (tỉnh Hồ Nam), nhân đi ngang ghé thăm, nhưng cả nhà đều đang ở chỗ khác. Trời đã tối không sao gọi về, người giữ cổng giữ sinh lại, dọn giường nấu cơm tiếp đãi. Sinh hỏi kỹ về chủ nhân, thì ra đại để lúc ấy người ta đồn nhảm rằng triều đình muốn tuyển con gái nhà lương dân làm lễ vật hoà thân để yên biên cuơng, dân gian náo động, nghe nói ai trẻ tuổi chưa vợ thì không cần mai mối, cứ đưa con gái tới tận nhà gả cho, tới nỗi có người trong một đêm cưới luôn được hai vợ.

Tiết cũng vừa cưới một người vợ con nhà vọng tộc, nhưng sợ xe ngựa rầm rập quan huyện biết được nên dời về ở trong làng. Gần hết canh một, sinh vừa đi nằm chợt nghe tiếng mấy người gọi cổng vào nhà, không rõ người giữ cổng nói gì, chỉ nghe một người hỏi “Quan nhân đã không có nhà, vậy ai thắp đèn trong kia?". Người giữ cổng đáp là Liêm công tử, khách từ xa tới. Giây lát người vừa hỏi bước vào, áo mũ đẹp đẽ, vừa chào xong đã hỏi ngay tên họ quê quán. Sinh đáp xong, người ấy mừng rỡ nói "Té ra là đồng hương với ta, vậy nhạc gia là ai thế”. Sinh đáp còn chưa có vợ, người ấy càng vui mừng, rảo bước ra gọi một thiếu niên cùng vào, làm lễ chào hỏi rất cung kính rồi nói “Thưa thật với công tử, bọn ta họ Mộ, đêm nay tới đây là đưa cô em tới gả cho Tiết quan nhân, gặp tình cảnh thế này đang không biết làm sao, tiến lui đều khó, lại gặp được công tử há chẳng phải là số phận ư?".

Sinh vì chưa biết họ là ai nên còn ngần ngừ chưa dám ưng thuận, Mộ lại mặc kệ lời từ chối, cứ gọi người đưa cô dâu vào. Phút chốc có hai bà già đưa một cô gái vào ngồi trên giường, sinh liếc nhìn thấy khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xinh đẹp không ai bằng. Sinh mừng rỡ, sửa mũ áo tạ ơn Mộ, lại bảo ngươi giữ cổng dọn rượu tiếp đãi, cùng nhau trò chuyện rất vui vẻ. Mộ nói "Tổ tiên bọn ta vốn là người huyện Chương Đức, dòng họ bên mẹ cũng là thế gia nhưng nay đã sa sút. Nghe nói ông bà ngoại còn có hai người cháu nội, không rõ tình cảnh ra sao". Sinh hỏi họ tên, Mộ đáp "Ông ngoại bọn ta họ Lưu tên Huy Nhược, nghe nói cư ngụ cách huyện thành ba mươi dặm về phía bắc". Sinh nói “Nhà ta ở phía đông nam huyện thành, cách nơi ấy khá xa, lại tuổi còn nhỏ nên giao thiệp chưa nhiều, quen biết cũng ít. Trong huyện có rất nhiều người họ ấy, nhưng nghe nói phía bắc huyện thành có Lưu Kinh Khanh, cũng là bậc văn sĩ nhưng không rõ có đúng không, có điều nhà thì nghèo". Mộ nói "Mồ mả tổ tiên bọn ta vẫn còn ở huyện Chương Đức, vẫn muốn đưa quan tài cha mẹ về ở quê cũ nhưng vì chưa lo đủ tiền bạc nên còn lần lữa. Nay em gái bọn ta được theo công tử về, bọn ta càng quyết ý về quê". Sinh nghe thế, khẳng khái nhận sẽ thu xếp. Hai người họ Mộ rất vui mừng, uống vài chén rượu rồi chào về. Sinh bảo người hầu thay đèn đi ngủ, đêm ấy vợ chồng yêu thương nhau rất đằm thắm.

Hôm sau Tiết nghe tin vội trở vào thành, xây một dãy nhà riêng cho sinh ở. Sinh trở lại đất Hoài, tính toán tiền bạc xong, lưu Ngũ ở lại rồi mang hành trang tiền bạc về lại Đào Nguyên, cùng hai người họ Mộ đưa quan tài cha mẹ và cả hai gia đình về quê. Về tới nhà, sinh thu xếp đâu đó xong, đem tiền bạc tới chỗ chủ nhân thì thấy ngùoi đầy tớ dắt ngựa trước kia đã đứng đón trên đường đưa vào nhà. Người đàn bà ra đón, vui vẻ nói "Đào Chu công đưa được Tây Thi về rồi. Hôm trước là khách, chứ hôm nay là cháu rể của ta rồi đấy nhé". Rồi bày tiệc đón mừng, đối xử càng thêm thân thiết. Sinh khâm phục là có tài biết trước, bèn hỏi phu nhân cùng mẹ vợ mình có họ hàng xa gần thế nào, bà đáp đừng hỏi, về sau sẽ tự biết thôi. Rồi chất vàng lên bàn, chia làm năm phần, tự mình lấy hai phần, nói "Ta thì chẳng dùng gì tới, chỉ giữ lại để cho cháu đích tôn thôi". Sinh thấy phần mình quá nhiều, chối từ không nhận. Bà buồn rầu nói "Nhà ta sa sút, cây cối trong sân bị người ta chặt làm củi, cháu nội lại ở xa quá, cửa nẻo ngày càng tiêu điều, phiền công tử lo giùm". Sinh vâng dạ, nhưng xin chỉ nhận một nửa số vàng. Bà ép cầm cả rồi tiễn sinh ra cổng, gạt lệ quay vào. Sinh lấy làm lạ lùng ngờ vực, ngoảnh lại nhìn toà phủ đệ thì là ngôi mộ lớn, mới hiểu ra rằng phu nhân chính là bà ngoại vợ mình. Về tới nhà bèn xuất tiền mua một khoảnh ruộng quanh mộ, tu bổ dọn dẹp rất đẹp đẽ tươm tất.
Họ Lưu có hai cháu nội, lớn tức Kinh Khanh còn thứ tên Ngọc Khanh, là kẻ rượu chè cờ bạc lêu lổng, cả hai đều nghèo. Hai anh em tới nhà sinh tạ ơn, sinh đều tặng cho rất hậu, từ đó thường qua lại với nhau. Sinh kể đầu đuôi việc mình đi buôn, Ngọc Khanh nghĩ thầm rằng trong mộ ắt có vàng, đêm tối rủ mấy tên cờ bạc tới đào mộ tìm, phá vỡ quan tài phơi cả xương cốt ra nhưng không được chút gì, thất vọng tan đi. Sinh được tin mộ bị phá, báo cho Kinh Khanh, Kinh Khanh tới gặp sinh rồi cùng đi xem. Vào tới huyệt mộ thì thấy số vàng phu nhân giữ lại trước đây vẫn chồng chất trên án, Kinh Khanh muốn chia đôi với sinh. Sinh nói "Phu nhân giữ số vàng này lại vốn là để chờ dịp cho huynh thôi mà", Kinh Khanh bèn chở cả về. Kế báo lên huyện, quan tư lùng bắt rất gấp, sau bắt đước người bán một chiếc trâm ngọc trong mộ, tra hỏi mới biết Ngọc Khanh là kẻ chủ mưu. Quan huyện muốn trị tội Ngọc Khanh thật nặng, Kinh Khanh hết sức kêu xin cho mới được khỏi tội chết. Cả hai nhà cùng ra sức sửa sang trong ngoài ngôi mộ, so ra còn bền chắc đẹp đẽ hơn lúc trước. Từ đó Liêm Lưu cùng giàu có, duy Ngọc Khanh vẫn nghèo như cũ. Sinh và Kinh Khanh thường chu cấp cho, song rốt lại vẫn không đủ cho y cờ bạc. Một đêm có bọn cướp vào nhà sinh trói người khảo của, sinh chôn vàng cứ một ngàn năm trăm lượng vàng là một vò, bèn chỉ chỗ cho chúng đào, bọn cướp lấy được hai vò. Lúc ấy chỉ có con ngựa ma trong tàu, chúng bèn thắng cương vào chở vàng đi, lại bắt sinh theo, ra tới ngoài đồng mới thả cho về.

Người trong thôn thấy ánh đèn đuốc của bọn cướp còn chưa xa lắm, hò hét đuổi theo, chúng hoảng hốt bỏ chạy. Mọi người đuổi tới chỗ ngôi mộ thì thấy vàng rơi tung toé trên đường mà con ngựa thì biến thành tro giấy, mới biết con ngựa cũng là ma. Đêm ấy nhà sinh chỉ mất có một chiếc vòng vàng mà thôi. Vốn trước đó bọn cướp bắt vợ sinh, thấy nàng xinh đẹp toan cưỡng hiếp, nhưng có một tên đeo mặt nạ quát thét bảo thôi, giọng nói giống như Ngọc Khanh. Bọn cướp bèn tha vợ sinh, chỉ lột chiếc vòng vàng nàng đeo ở tay. Sinh vì vậy ngờ đó là Ngọc Khanh, nhưng cũng thầm cám ơn y. Sau bọn cướp bán chiếc vòng vàng đánh bạc, bị công sai bắt được, tra hỏi bè đảng thì quả trong đó có Ngọc Khanh. Quan huyện tức giận, dùng trọng hình trị tội. Kinh Khanh bàn với sinh định đem nhiều tiền lo lót để cứu, nhung chưa kịp làm gì thì Ngọc Khanh đã chết trong ngục, từ đó sinh vẫn cấp dưỡng cho vợ con y. Về sau sinh thi đỗ Cử nhân, con cháu mấy đời đều giàu có. Than ôi, tự dạng chữ “tham" ngang sổ chấm phết rất giống chữ "bần", hạng người như Ngọc Khanh đủ để làm điều răn vậy.







160. Gái Thần



(Thần Nữ)




Mễ sinh là ngươi đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), người kể chuyện quên mất tự hiệu quận ấp. Vào quận thành chơi, say đi ngoài phố, nghe trong một tòa nhà lớn có tiếng đàn sáo ầm ĩ, hỏi người ở quanh thì họ đáp nhà ấy mở tiệc mừng thọ, song ngoài cổng trong sân lại rất vắng vẻ. Lắng tai nghe thấy tiếng sênh phách vang lừng, sinh đang say lấy làm ưa thích, không hỏi là nhà ai, cứ ra đầu phố mua lễ vật chúc mừng rồi đưa thiếp vào, xưng là vãn sinh. Có người thấy sinh ăn mặc tầm thường bèn hỏi có họ hàng thế nào với ông già kia, sinh đáp không có. Người ấy nói nhà ấy là người nơi khác tới đây ngụ cư, không rõ là quan gì nhưng rất kiêu kỳ, không phải là họ hàng thì gặp làm gì? Sinh nghe thấy hối hận, nhưng danh thiếp đã đưa vào rồi. Phút chốc có hai thiếu niên ra đón khách, trang phục rực rỡ, dáng điệu phong nhã, vái chào sinh rồi mời vào. Thấy một ông già ngồi quay mặt về hướng nam, hai bên bày mấy bàn tiệc, khách có sáu bảy người đều như bậc quý quan, thấy sinh vào đều đứng lên làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy.
Sinh đứng hồi lâu đợi đón khách mà ông vẫn không rời khỏi chỗ. Hai thiếu niên đỡ lời, nói "Phụ thân già yếu, vái chào khó khăn, anh em bọn ta xin thay mặt tạ ơn bậc cao hiền hạ cố”. Sinh khiêm tốn đáp tạ xong, họ mời vào một bàn phía trên, bên cạnh ông già. Giây lát ban nhạc ra múa hát ở dưới, sau tiệc bày bình phong lưu ly che đám phụ nữ trong nhà. Tiếng đàn sáo ầm ĩ, khách khứa không thể chuyện trò gì nữa. Sắp tan tiệc, hai thiếu niên đứng lên, đều rót chén lớn mời khách, chén đựng khoảng ba đấu. Sinh ngần ngại nhưng thấy khách nhận cũng nhận. Giây lát nhìn quanh thấy chủ khách đều đã cạn chén, bất đắc dĩ cũng phải cố uống. Thiếu niên lại rót, sinh thấy mệt quá đứng lên cáo lui, thiếu niên nắm áo giữ lại. Sinh say quá gục xuống đất, thấy có người lấy nước lạnh rưới vào mặt, chợt tỉnh dậy nhìn thì khách khứa đã về hết, chỉ còn một thiếu niên xốc cánh tay đưa ra, bèn chào về. Sau đó lại qua ngang cổng, thì thấy đã dời đi ở chỗ khác.




Sinh từ quận về, tới ngang chợ có một người trong quán bước ra mời vào uống rượu. Nhìn thì không quen nhưng cũng theo vào, thấy trong bàn đã có người làng là Bão Trang ngồi trước. Hỏi người đó thì là họ Chư, làm nghề mài gương trong chợ. Hỏi sao biết mình, Chư nói "Ông có biết người khao thọ hôm trước là ai không?". Sinh đáp không biết, Chư nói "Ta ra vào nhà ấy nhiều lần, ông già họ Phó, nhưng không rõ quê quán quan tước. Lúc tiên sinh vào mừng thọ, ta đang ở dưới thềm nên biết mặt". Chiều tối tan tiệc chia tay về, đêm Bão Trang chết trên đường. Cha Bão không biết Chư, cứ tên sinh mà kiện. Khám thấy xác Bão Trang có vết thương nặng, sinh bị kết án mưu sát, khép vào tội chết, chịu đủ mùi gông cùm nhưng vì chưa bắt được Chư, không đủ chứng cớ nên còn để đấy.




Hơn năm, quan Trực chỉ đi tuần tra các nơi, xét biết bị oan tha sinh ra. Nhà cửa ruộng vườn đã mất hết mà mũ áo nho sinh cũng bị lột, nhưng sinh nghĩ có thể xin lấy lại được nên lại xách khăn gói lên quận. Trời xế chân mỏi ngồi nghỉ cạnh đường, thấy một chiếc kiệu nhỏ từ xa đi tới, có hai tỳ nữ áo xanh đi kèm hai bên. Kiệu đã đi qua bỗng dừng lại, không biết bên trong nói gì, giây lát một tỳ nữ áo xanh tới hỏi sinh có phải chàng họ Mễ không? Sinh giật mình đứng dậy nói phải. Hỏi sao nghèo túng tới mức này, sinh kể lại duyên do. Lại hỏi đi đâu, sinh lại trả lời. Tỳ nữ áo xanh quay về chiếc kiệu nói chuyện với bên trong, lát sau trở lại mời sinh tới trước kiệu. Trong kiệu có một bàn tay búp măng vén rèm lên, liếc nhìn thì là một giai nhân tuyệt thế. Nàng nói với sinh "Chàng không may gặp chuyện rủi ro, nghe thấy mà buồn. Ngày nay dinh Học sứ không phải là nơi ra vào tay không được, nhưng giữa đường không có gì tặng”. Bèn rút một cành hoa khảm ngọc cài trên tóc đưa sinh, nói "Vật này có thể bán được một trăm đồng vàng, xin cầm lấy”. Sinh lạy tạ, toan hỏi lai lịch thì kiệu đi rất nhanh đã ra xa rồi, không rõ là ai nữa. Cầm cành hoa ngắm nghía thấy trên khảm ngọc trai, không phải vật tầm thường, liền cất kỹ rồi lên đường.




Tới quận đưa đơn, trên dưới vòi vĩnh hạch sách rất khổ, giở cành hoa ra ngắm, không nỡ bán bèn quay về. Trở về không có nhà ở, phải nương tựa anh trai và chị dâu. May được anh hiền, lo lắng chăm sóc cho nên nghèo mà vẫn không phải bỏ học. Năm sau sinh lên quận thi khoa Đồng tử, lầm đường lạc vào núi sâu. Lúc ấy đang tiết Thanh minh, người du xuân rất đông, có mấy cô gái cưỡi ngựa đi tới, trong có một nàng, chính là người ngồi trong kiệu năm trước. Thấy sinh nàng dùng cương hỏi đi đâu, sinh trả lời. Cô gái giật mình hỏi "Chàng vẫn chưa lấy lại được khăn áo nho sinh à?”. Sinh thẹn, rút cành hoa khảm ngọc trong áo ra, nói "Không nỡ bỏ vật này nên vẫn còn là Đồng tử". Cô gái đỏ bừng cả mặt, dặn ngồi đợi ở góc đường, dong ngựa chậm rãi đi. Hồi lâu, một tỳ nữ ruổi ngựa tới đưa sinh một cái gói, nói "Nương tử nói ngày nay cửa quan Học sứ như cái chợ, xin tặng hai trăm lượng bạc làm vốn tiến thủ”. Sinh từ chối, nói "Nương tử làm ơn cho ta đã nhiều rồi! Tự nghĩ thi đỗ không phải là khó, không dám nhận món tiền lớn này. Chỉ xin được biết họ tên để vẽ một bức hình, đốt hương tưởng bái nương tử là đủ, Tỳ nữ không nghe, đặt gói tiền xuống đất rồi đi. Từ đó sinh chi dùng đầy đủ, nhưng rốt lại vẫn không thèm cầu cạnh, sau đỗ đầu vào trường huyện. Đưa cả tiền cho anh, anh khéo buôn bán nên trong ba năm khôi phục được hết cơ nghiệp cũ.




Lúc ấy Tuần phủ Phúc Kiến là học trò ông nội sinh, giúp đỡ rất nhiều nên anh em trở nên giàu có. Nhưng sinh vốn là ngươi trong sạch ngay thẳng nên tuy quen thân với quan lớn mà không lần nào tới nhờ vả. Một hôm có khách mặc áo cừu cưỡi ngựa tới cổng, cả nhà đều không biết là ai. Sinh ra xem thì là công tử họ Phó, bèn vái chào mời vào, thăm hỏi trò chuyện, bày rượu khoản đãi. Khách lấy cớ bận từ chối, nhưng cũng không nói tới chuyện ra về. Khi cơm rượu bày lên, công tử đứng dậy xin nói chuyện riêng, mời vào nhà trong thì lạy sụp xuống đất. Sinh kinh ngạc hỏi có chuyện gì, công tử buồn bã nói "Phụ thân mắc vạ lớn có điều muốn nhờ quan Tuần phủ, không phải anh thì không ai nói giúp được". Sinh từ chối, nói "Ông ta tuy là chỗ quen biết lâu đời nhưng trước nay ta chưa bao giờ vì việc riêng mà cầu cạnh xin xỏ ai cả". Công tử phục xuống đất khóc lóc năn nỉ, sinh nghiêm sắc mặt nói "Tiểu sinh với công tử chẳng qua chỉ nhân một bữa tiệc mà quen nhau, sao lại đem chuyện mất danh tiết ép buộc nhau thế?". Công tử thẹn quá, đứng dậy từ biệt rồi đi.




Hôm sau sinh đang ngồi một mình thì có một người áo xanh bước vào, nhìn ra thì là tỳ nữ đưa tiền tặng trong núi trước kia. Sinh giật mình đúng dậy, người ấy hỏi "Chàng quên cành hoa khảm ngọc rồi sao?”, sinh đáp ”Dạ dạ, không dám quên". Người ấy nói “Công tử hôm qua là anh ruột của nướng tử đấy". Sinh nghe thế mừng thầm, vờ nói "Chuyện đó khó tin lắm, nếu được nương tử thân hành tới đây nói cho một câu, thì dù là vạc dầu sôi cũng xin nhảy vào, nếu không thì thật không dám vâng lệnh". Tỳ nữ ra lên ngựa đi, đến khuya trở lại gõ cửa bước vào nói “Nương tử tới rồi". Chưa dứt lời thì cô gái rầu rĩ bước vào, ngoảnh mặt vào vách mà khóc, không nói một câu. Sinh vái lạy nói "Tiểu sinh không có nàng thì làm sao có ngày nay, nếu có điều gì sai bảo, dám đâu không vâng lời?". Cô gái nói "Kẻ được cầu cạnh thường khinh người, kẻ đi cầu cạnh thường sợ người. Nửa đêm lặn lội, trước nay nào biết tới cái khổ này, chỉ vì sợ người đấy thôi, còn nói gì nữa?". Sinh an ủi, nói "Sở dĩ tiểu sinh không nhận lời ngay là vì sợ xong việc rồi khó được gặp nhau lần nữa thôi. Khiến nàng phải đêm hôm lặn lội sương gió, ta biết tội rồi". Nhân cầm tay áo cô gái vuốt khẽ, nàng nói "Ông thật là người tệ, không nghĩ tới ơn nghĩa trước lại toan nhân lúc người ta nguy cấp. Ta lầm rồi, ta lầm rồi?", rồi tức giận bỏ ra, lên kiệu toan đi. Sinh đuổi theo tạ lỗi quỳ xuống chặn đường. Người tỳ nữ cũng khuyên giải, nàng như nguôi giận, ngồi trong kiệu nói với sinh "Nói thật với chàng, thiếp không phải là người mà là thần nữ. Phụ thân làm Đô lý ty ở Nam Nhạc, vô tình thất lễ với địa quan, sắp bị tâu lên Thượng đế, nếu không có ấn tín của quan đầu hạt đây thì không sao gỡ được. Nếu chàng không quên nghĩa cũ, thì lấy một tờ giấy vàng xin đóng ấn cho thiếp", rồi giục kiệu đi.




Sinh quay vào run sợ mãi, rồi thác chuyện trừ ma lên xin. Tuần phủ cho là việc mê tín nhảm nhí không cho, sinh đem nhiều tiền đút cho ngươi tâm phúc của ông ta, y nhận lời nhưng tìm được cơ hội. Về nhà thì người tỳ nữ đã chờ ở cổng, sinh kể lại mọi chuyện, cô ta im lặng đi ra như giận sinh không hết lòng. Sinh đuổi theo tiễn, nói "Xin về thưa với nương tử rằng nếu việc không xong thì ta sẽ liểu mạng chết theo”. Quay vào trằn trọc cả đêm không nghĩ ra được kế gì, gặp lúc trong dinh có người thiếp yêu của Tuần phủ muốn mua ngọc, bèn lấy cành hoa khảm ngọc lên biếu, nàng ta thích lắm, liền trộm ấn đóng cho sinh. Mang về tới nhà thì người tỳ nữ cũng vừa tới. Sinh cười nói "May mà không nhục mệnh, nhưng vật mấy năm nghèo khổ xin ăn không nỡ bán nay đã phải bỏ vì chủ nhân của nó rồi!". Kế kể lại mọi chuyện, nói "Vàng ròng vứt đi ta cũng không tiếc, nhưng nhờ nhắn với nương tử rằng cành hoa khảm ngọc thì phải đền đấy”. Qua mấy hôm, Phó công tử tới tạ ơn, biếu một trăm lượng vàng. Sinh sầm mặt nói “Sở dĩ ta làm thế là vì lệnh muội đã ban ơn cho ta không cầu báo đáp thôi, nếu không thì dù vạn lượng vàng cũng há đủ thay đổi danh tiết sao!". Cố ép thì sinh lời lẽ sắc mặt càng giận dữ, công tử thẹn thùng ra về, nói "Chuyện này chưa xong được". Hôm sau người tỳ nữ vâng mệnh cô gái đem biếu một trăm viên ngọc, hỏi “Bấy nhiêu đủ đền cành hoa khảm ngọc rồi chứ?”, sinh đáp "Ta trọng cành hoa ấy không phải vì quý ngọc trai, nếu không vật báu vạn dật tặng cho ngày trước ta đã bán đi để làm một anh nhà giàu rồi, còn nâng niu giữ gìn cam chịu nghèo khó làm gì? Nương tử là người thần, tiểu sinh nào dám mong gì khác. Nay may đã báo đáp được chút ơn lớn, chết cũng không ân hận". Người tỳ nữ đặt ngọc lên án, sinh vái tạ rồi trả lại.




Qua mấy hôm, công tử lại tới sinh cho bày tiệc khoản đãi, công tử cũng sai người hầu xuống nấu nướng. Hai người đối diện cạn chén, vui vẻ như người nhà. Vừa gặp lúc có ngươi biếu rượu nếp đắng, công tử khen ngon, uống luôn trăm chén, mặt đã hơi đỏ, nói với sinh rằng "Ông ngay thẳng thanh cao mà hai anh em ta đều mờ tối không biết sớm, thật vô cùng xấu hổ với kẻ quần thoa. Cha ta cảm đức lớn, không biết lấy gì báo đáp, muốn cho em gái ta kết duyên với ông, chỉ sợ ông hiềm u minh khác nẻo”. Sinh mừng mùng sợ sợ không biết trả lời thế nào. Công tử từ biệt ra về, nói “Đêm mai là mồng chín tháng bảy, lúc trăng vừa lên, có cô cháu gái Thiên tôn lấy chồng, đó là giờ tốt, nên sửa soạn phòng hoa”. Đêm sau quả đưa cô gái đến, mọi cái không khác gì người thường.




Sau ba ngày, cô gái đối với người trong nhà từ anh chị tới tôi tớ lớn nhỏ đều có quà tặng. Lại rất hiền thục, thờ chị dâu như mẹ chồng. Mấy năm không sinh nở, khuyên chồng lấy vợ lẽ nhưng sinh không nghe. Gặp lúc anh đi buôn ở Giang Hoài mua về cho một người thiếp trẻ tuổi họ Cố tên Bác Sĩ, dung mạo cũng xinh xắn, vợ chồng đều mừng. Chợt thấy trên tóc nàng có cài cành hoa khảm ngọc rất giống vật cũ năm trước, rút xuống xem quả đúng, lấy làm lạ hỏi. Nàng đáp "Trước có người vợ của quan Tuần phủ chết, tỳ nữ của bà ta ăn cắp đem bán ở chợ, cha thiếp mua luôn đem về, thiếp rất thích. Cha thiếp không có con trai, chỉ sinh được một mình thiếp, nên xin gì cũng được. Sau cha thiếp mất, nhà cửa sa sút, thiếp phải sống nhờ ở nhà bà họ Cố. Bà Cố là vai dì của thiếp, thấy ngọc trai nhiều lần muốn đem bán, vì thiếp nhảy xuống giếng tự tử nên đến nay mới còn”. Vợ chồng mừng nói "Vật qua mười năm lại về chủ cũ, chẳng phải là số sao?". Cô gái lấy ra một cành hoa khảm ngọc khác, nói "Vật này không có đôi lâu lắm rồi!", nhân ban luôn cho ngươi thiếp, tự tay cài lên tóc cho.




Người thiếp lui ra, hỏi gia thế cô gái rất kỹ nhưng người nhà đều không dám nói, bèn lén nói với sinh rằng "Thiếp trông nương nữ không phải là người trần. Trong khoảng mắt và mày có thần khí, hôm qua cài cành hoa cho, thiếp được nhìn gần, thấy vẻ đẹp từ trong da thịt toát ra, không phải như người thường chỉ hơn nhau ở chỗ xấu dẹp trắng đen thôi đâu”. Sinh cười, nàng nói "Xin chàng đừng nói gì để thiếp thử xem. Nếu là thần thì mình muốn gì cứ nhân lúc vắng người thắp hương cầu khấn thì họ sẽ biết". Cô gái có đôi tất thêu rất đẹp, Bác Sĩ thích nhưng chưa dám nói, lập tức thắp hương cầu khấn trong phòng. Sáng ra cô gái dậy sớm, chợt mở rương lấy đôi tất sai tỳ nữ đem cho Bác Sĩ. Sinh thấy thế bật cười, cô gái hỏi duyên cớ, bèn kể lại chuyện, nàng nói “Con nhãi mới ranh làm sao!". Nhân thấy Bác Sĩ thông minh càng yêu thưong, mà Bác Sĩ càng cung kính, cứ mờ sáng là tắm gội tới hầu. Sau Bác Sĩ sinh một lần được hai trai, hai người chia nhau nuôi. Năm sinh tám mươi tuổi, diện mạo cô gái vẫn như lúc chưa lấy chồng. Sinh mắc bệnh, nàng thuê thợ đóng quan tài, bảo làm to gấp đôi bình thường. Lúc sinh chết nàng không khóc, các con vùa ra ngoài thì nàng nằm vào áo quan mà chết, vì vậy cùng chôn chung, đến nay vẫn truyền tụng là Ngôi mộ quan tài to.




Dị Sử thị nói: Cô gái là thần mà Bác Sĩ biết được, là dùng thuật gì vậy? Mà nàng biết được người khác thông minh, thật còn thiêng hơn cả thần nữa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 161 - 162 -
Tương Quần
(Tương Quần)

Án Trọng là người huyện Diên An tỉnh Thiểm Tây, ở chung với anh là Bá, anh em rất thương yêu nhau. Bá được ba mươi tuổi thì chết, kế đó vợ cũng chết. Trọng rất đau đớn, thường nghĩ nếu có hai con trai sẽ để một đứa làm con nuôi lo việc hương hỏa cho anh. Nhưng vừa sinh được một trai thì vợ Trọng chết. Trọng lo vợ kế không thương con mình nên chỉ định cưới thiếp. Thôn bên có người bán tỳ nữ, Trọng qua xem mặt nhưng không vừa ý, trong lòng chán nản lại bị bạn bè giữ lại uống rượu nên say khướt mới về. Dọc đường gặp bạn học cũ là Lương sinh, Lương nắm tay mời mọc về nhà bằng được, Trọng say quá cũng quên bẵng bạn đã chết nên đi theo. Vào cổng thấy không phải là căn nhà ngày trước, lấy làm lạ hỏi thì bạn đáp mới dời nhà về đây. Vào tới nhà, Lương định lấy rượu ra mời thì rượu trong nhà đã hết, bèn dặn Trọng ngồi đợi rồi xách vò đi mua.

Trọng ra cổng đứng ngóng, thấy một người đàn bà cưỡi ngựa đi qua, có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi theo sau, mặt mũi dáng vẻ giống hệt anh mình, thấy chạnh lòng bèn rảo bước theo. Hỏi đứa nhỏ họ gì, nó đáp là họ Án. Trọng càng kinh ngạc, lại hỏi cha cháu tên gì, nó cười đáp là không biết. Trò chuyện tới đó thì tới nhà, người đàn bà xuống ngựa vào trong. Trọng cầm tay đứa nhỏ hỏi "Vào xem cha cháu có nhà không", nó dạ dạ rồi vào. Giây lát có một người đàn bà bước ra nhìn, thì đúng là chị dâu Trọng. Chị dâu ngạc nhiên hỏi sao chú lạỉ tới đây, Trọng buồn bã theo vào, thấy nhà cửa cũng cao ráo sạch sẽ. Hỏi anh đi đâu, chị dâu đáp "Đi đòi nợ chưa về", lại hỏi người đàn bà cưỡi ngựa là ai, đáp "Đó là thiếp của anh chú, họ Cam, sinh được hai trai. Đứa lớn là A Đại, đi bán hàng chưa về, đứa chú gặp là A Tiểu”. Trọng ngồi một lúc lâu, đỡ say mới biết rằng mình gặp đây toàn là ma, nhưng vì anh em vốn thương yêu nhau nên cũng không sợ hãi gì.

Chị dâu hâm rượu dọn cơm, Trọng nóng ruột muốn gặp anh nên giục A Tiểu đi tìm. Lát sau nó khóc lóc trở vể, nói “Nhà họ Lý thiếu nợ không chịu trả, lại đánh nhau với cha". Trọng nghe thế vội cùng A Tiểu chạy tới nhà họ Lý, thấy hai người đang đè anh xuống đất đấm dá. Trọng tức giận xông vào đánh túi bụi khiến bọn kia dạt cả ra, cứu được anh đứng dậy. Bọn kia đều bỏ chạy, Trọng đuổi theo túm được một người, đánh cho bò lê bò càng. Rồi đứng lên cầm tay anh khóc ròng, anh cũng khóc. Về tới nhà, mọi người kéo lên hỏi han, rồi bày rượu dọn cơm, anh em cùng uống với nhau. Lát sau có một thiếu niên bước vào, khoảng mười sáu mười bảy tuổi, Bá gọi là A Đại, bảo tới chào chú. Trọng kéo nó tới gần rồi nhìn anh khóc, nói "Đại ca dưới suối vàng có được hai trai nhưng phần mộ trên kia không ai quét dọn, con em thì còn nhỏ lại mồ côi mẹ, biết làm thế nào?” Bá cũng bùi ngùi, chị dâu Trọng bèn nói “Hay là cứ cho A Tiểu đi theo chú?". A Tiểu nghe thế cứ nép vào nách Trọng, có vẻ quyến luyến không muốn rời ra. Trọng vỗ về nó, lòng càng thêm chua xót, hỏi có thích theo chú không? Nó thưa là thích, Trọng nghĩ tuy nó là ma không phải người, nhưng có nó bên cạnh cũng được an ủi hơn không, mới thấy vui vẻ.

Bá nói “Theo chú lên trần gian thì không được lười biếng, cứ ăn nhiều thịt vào, ban ngày phải ra ngoài nắng đến trưa thì thôi. Con mới sáu bảy tuổi, qua xuân sang hạ thì sẽ mọc xương thịt như người, có thể lấy vợ sinh con, chỉ duy không được thọ thôi". Đang khi trò chuyện, thấy ngoài cửa có một cô gái đứng nghe, ý tứ rất đằm thắm. Trọng nghĩ là con gái anh bèn hỏi, anh đáp “Cô ấy tên Tương Quần, là em gái người thiếp của anh, mồ côi cả cha mẹ, ở đây đã mười năm nay". Trọng hỏi có chồng chưa, Bá đáp chưa, nhưng mới rồi có người mai mối tới hỏi cho một nhà làm ruộng ở thôn Đông. Cô gái nói khe khẽ ngoài cửa “Ta không lấy chồng chăn trâu ở nhà quê đâu”. Trọng chợt thấy yêu mến, nhung chưa tiện nói ra. Cơm xong Bá vào dọn giường trong phòng sách, giữ Trọng ngủ lại. Trọng vốn không muốn ở lại nhưng có ý quyến luyến Tương Quần, định tìm cách dò ý anh, nên chào Bá rồi vào phòng.
Lúc ấy mới đầu mùa xuân, khí trời còn lạnh, mà trong phòng chẳng có chút than lửa nào, Trọng lạnh run cầm cập ngồi một mình trước đèn, thầm muốn có chút rượu uống. Bỗng A Tiểu đẩy cửa bước vào, đặt một bát canh, một đấu rượu lên bàn. Trọng mừng quá, hỏi ai nấu, nó đáp là dì Tương. Trọng uống rượu xong, nó lại bưng chậu than vào khơi tro thổi lửa đặt xuống dưới giùong. Trọng hỏi "Cha mẹ cháu ngủ chưa?", nó đáp “Ngủ lâu rồi". Lại hỏi "Cháu ngủ ở đâu?", nó đáp “Ngủ chung với dì Tương", rồi chờ chú nhắm mắt mới khép cửa đi. Trọng nghĩ Tương Quần thông minh hiểu ý mình, càng thêm yêu mến, lại thấy nàng chăm sóc được A Tiểu, nên càng quyết ý cưới bằng được, trằn trọc thâu đêm không hề chợp mắt. Sáng ra nói với anh rằng "Em lẻ loi không có vợ, phiền đại ca lưu ý cho”. Bá nói "Nhà ta chẳng phải nghèo khó gì, có tiền thì cưới được vợ, chứ dưới cõi âm này dẫu có ngươi đẹp cũng e chẳng ích lợi gì cho em". Trọng nói "Người xưa cũng có vợ ma, có hại gì đâu , Bá có vẻ hiểu ý, liền nói "Tương Quần cũng đẹp, vả lại nếu lấy chiếc kim lớn đâm vào người mà máu chảy không thôi thì cũng có thể làm vợ người sống, cần gì phải gấp?". Trọng nói “Có Tương Quần chăm sóc cho A Tiểu thì cũng được”. Bá lại lắc đầu Trọng năn nĩ mãi. Chị dâu Trọng nói "Nếu thế thì bắt lấy Tương Quần thử xem, nếu không được thì thôi”. Rồi cầm kim bước ra, gặp Tương Quần ngoài cửa vội chụp lấy cổ tay nàng thì đã thấy có vết máu rõ ràng, té ra nàng nghe Bá nói đã tự đâm kim vào tay để thử rồi, chị dâu Trọng phì cười buông tay nàng ra.

Người thiếp của Bá nghe thế nổi giận sấn tới trước mặt Tương Quần, dí tay vào trán nàng xỉa xói, mắng "Con đĩ không biết thẹn, muốn trốn theo chú nó à? Ta nói cho ngươi biết là đừng có mơ”. Tương Quần vừa thẹn vừa uất, chạy đi định tự tử cả nhà náo loạn. Trọng ngượng quá vội chào anh chị, dắt A Tiểu đi. Anh dặn “Em cứ về đi, đùng đưa A Tiểu xuống đây nữa, sợ làm tổn hại sinh khí của nó”, Trọng vâng dạ. Về tới nhà, nói dốỉ tăng tuổi của A Tiểu lên, bịa chuyện rằng anh có cưới người thiếp, đứa nhỏ này là đứa con của anh, mồ côi từ lúc còn trong bụng mẹ. Mọi người thấy nó giống Bá như đúc, đều tin là thật. Trọng dạy A Tiểu học, bắt cứ mang sách ra nắng ngồi đọc, ban đầu nó khổ lắm, sau dần dần quen. Đến giữa tháng sáu thì bàn ghế cũng nóng như thiêu mà đứa nhỏ vẫn nô đùa đọc sách, không hề kêu ca. Đứa nhỏ lại rất thông minh, đêm đêm nằm với chú gác chân lên nhau, đọc bài thuộc làu làu Trọng được an ủi rất nhiều, lại vì không quên được Tương Quần nên cũng không nghĩ gì tới việc cưới thiếp nữa.
Một hôm có hai bà mối tới bàn chuyện hỏi vợ cho A Tiểu, nhưng trong nhà không có ai lo chuyện cơm nước mời khách, Trọng ngồi mà lòng như lửa đốt. Chợt người chị dâu họ Cam từ ngoài đi vào nói "Chú đừng trách, ta đưa Tương Quần tới cho chú đây. Hôm trước vì nó không biết thẹn nên ta mới chửi cho, chứ người đường đường như chú mà không chịu theo thì còn muốn theo ai!". Trọng thấy Tương Quần đứng phía sau, vô cùng mừng rỡ, mời chị dâu ngồi, nói rõ việc có khách ở nhà trước rồi bước vội ra. Giây lát quay vào thì Cam thị đã đi. Tương Quần xắn tay áo vào bếp, dao thớt khua ran, phút chốc thức ăn dọn lên la liệt, món nào cũng ngon lành. Khách về rồi, Trọng vào thì Tương Quần đã ăn mặc đẹp đẽ ngồi ngay ngắn trong phòng, hai ngươi bèn làm lễ giao bái. Đến tối, nàng muốn ngủ chung với A Tiểu như trước, Trọng nói "Ta lấy khí dương để ủ ấm cho nó, không thể rời ra được". Vì vậy để nàng ở một phòng riêng, chỉ khi chiều tối cùng nhau ăn uống mới cho A Tiểu tới gặp thôi.

Tương Quần chăm sóc con Trọng như con đẻ, Trọng càng khen ngợi nàng là hiền. Một đêm vợ chồng nằm chung, Trọng hỏi đùa rằng cõi âm có người đẹp không. Tương Quần nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp "Chưa thấy, nhưng có cô gái láng giềng là Uy Linh Tiên, nhiều người cho là đẹp, có điều mặt mũi cũng như mọi người nhưng trang điểm khéo lắm. Thiếp quen chị ta đã lâu, nhưng vẫn khinh bỉ là kẻ lẳng lơ. Nếu muốn thì trong chớp mắt là gặp được ngay, nhưng hạng người ấy không đáng mời mọc". Trọng nóng ruột muốn gặp một lần, nàng cầm bút như định viết thư, kế lại buông xuống nói "Không được, không được?". Trọng ép mấy lần, nàng nói "Đừng để bị thị quyến rũ đấy!”, Trọng hứa sẽ theo lời Tương Quần liền vạch mấy nét lên giấy như vẽ bùa rồi đem ra ngoài cửa đốt. Giây lát có tiếng rèm khua rồi tiếng cười khanh khách, nàng ra đón Uy Linh Tiên vào, thấy tóc búi cao, dung mạo như tranh vẽ. Tương Quần kéo cùng ngồi xuống giường, uống rượu trò chuyện. Uy Linh Tiên mới gặp Trọng thì lấy tay áo che miệng, không chịu nói chuyện với chàng, nhưng uống vài chén rồi thì cười đùa ngả ngớn chẳng e ngại gì. Trọng trong lòng mê mẩn như bị hớp hồn, nhưng lại ngại có Tương Quần trước mặt, mà Tương Quần cũng ra sức đề phòng, không lúc nào rời chàng. Chợt Uy Linh Tiên đứug lên, vén rèm bước ra. Tương Quần bước theo, Trọng cũng bước theo, Uy Linh Tiên dắt tay Trọng bước mau vào phòng khác.

Tương Quần hận lắm nhưng không biết làm thế nào, chỉ uất ức quay vào phòng nghe ngóng mà thôi. Lát sau Trọng trở vào, Tương Quần trách "Chàng không nghe lời thiếp, sợ là sắp tới không khước từ được thị đâư . Trọng ngờ là nàng ghen tuông, bực bội quay ra. Đêm sau Uy Linh Tiên không được mời cũng tự tới, Tương Quần tỏ vẻ hằn học, đối xử chẳng có chút gì lễ phép, Tiên lại cùng Trọng đưa nhau qua chỗ khác. Mấy đêm liền như thế, Tương Quần cứ thấy Tiên tới là mắng chửi nhưng cũng không sao ngăn cấm thị được. Hơn tháng thì Trọng ngã bệnh không dậy nổi, rất hối hận bèn gọi Tương Quần qua ngủ cùng phòng để canh chừng. Gần sáng Tương Quần mệt mỏi hơi lơ là, thì người và ma đã lại hành lạc với nhau rồi. Tương Quần vác gậy tới đánh Uy Linh Tiên, con ma căm tức đánh trả, Tương Quần yếu ớt nên tay chân đều bị thương tích.

Trọng bệnh cứ ngày một nặng, Tương Quần khóc nói “Thiếp còn mặt mũi nào nhìn thấy chị thiếp nữa?". Vài hôm sau Trọng mê man rồi chết, vừa nhìn thấy hai người lính lệ cầm trát bước vào, bất giác theo ra. Trên đường đi sợ không có tiền bạc gì, năn nỉ hai người lính lệ tiện đường ghé vào nhà anh. Anh nhìn thấy hoảng sợ tái mặt, hỏi em gần đây đã làm việc gì? Trọng đáp “Có làm gì đâu, chỉ là cái bệnh bị ma làm thôi”, rồi kể thật mọi chuyện. Anh nói "Ra thế", rồi đưa một túi bạc ra nói với hai người lính lệ rằng "Xin cảm phiền cầm cho, tội của em ta không tới nỗi phải chết, xin cứ tha ra, ta sẽ sai thằng con ta đi theo hai vị, chắc chắnkhông có chuyện gì đâu”. Rồi gọi A Đại sai tiếp đãi hai người, trở vào nhà trong kể lại chuyện cho vợ nghe, bảo Cam thị gõ vách gọi Uy Linh Tiên qua. Giây lát Tiên qua, nhìn thấy Trọng định chạy trốn, bị Bá túm lấy tóc mắng “Đồ con đĩ. Sống làm đàn bà bất trinh, chết làm con ma mất nết, đã trăm đứa cưỡi vạn đứa đè rồi lại còn ám em ta à?”. Rồi đánh cho tóc mây rối bù, mặt hoa bầm tím. Hồi lâu có một bà già vào nhà, lạy phục xuống đất năn nỉ. Bá lại trách bà để cho con gái buông tuồng, nhiếc móc một hồi mới bảo đưa con gái về.

Rồi Bá đưa Trọng về, chớp mắt đã tới nhà, vào thẳng trong phòng, Trọng chợt tỉnh dậy mới biết vừa rổi là mình đã chết. Bá trách Tương Quần "Ta với chị cô cho rằng cô hiền thục đảm đang mới sai theo em ta, nay lại muốn giục cho nó chóng chết à? Nếu không hiềm danh phận anh chồng em dâu, thì ta đã đánh cho một trận rồi đấy!". Tương Quần sợ sệt thẹn thùng khóc thút thít, lạy Bá tạ lỗi. Bá quay nhìn A Tiểu mừng rỡ nói "Con đã đúng là người sống rồi”. Tương Quần định đi làm cơm, Bá từ chối nói “Chuyện của em ta còn chưa xong, ta không rảnh được”. A Tiểu năm ấy được mười ba tuổi, đã hơi lớn nên biết quyến luyến cha, thấy cha ra đi, rơi nước mắt đi theo. Bá nói "Theo chú sướng lắm, cha đi rồi sẽ trở lại mà", rồi chớp mắt đã biến mất, từ đó không gặp nhau nữa. Sau A Tiểu cưới vợ sinh dược một con trai, đến ba mươi tuổi thì chết, Trọng chăm chút đứa nhỏ như chăm nom cháu ngày trước. Năm Trọng hơn tám mươi tuổi thì nó hơn hai mươi tuổi, mới cho ra ở nêng. Tương Quần không sinh nở lần nào, một hôm nói với Trọng rằng "Thiếp về nhà trước đuổi chuột được chứ?”, rồi ăn mặc đẹp đẽ vào giường nằm mà chết. Trọng cũng chẳng đau xót gì, nửa năm sau cũng chết.

Dị Sử thị nói:Kẻ thương yêu anh em như Trọng trong thiên hạ có được mấy người? Cho nên mới không chết mà còn được tăng thêm tuổi thọ đấy. Lúc sống không có con mà khi chết có người nối dõi, đó đều là nhờ tấm lòng thương xót người anh đã chết làm cảm động tới thần minh, nên việc người thì không có lý ấy, nhưng việc trời thì chắc phải có phận ấy chứ. Những kẻ dưới cõi âm sinh được con, mong nó nối theo nghiệp trước của mình hẳn cũng không ít, chỉ sợ các anh em ruột thịt được hưởng cả gia tài không chịu nhận về nuôi nấng mà thôi.







162. La Tổ



(La Tổ)




La Tổ người huyện Túc Mặc (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ nghèo khổ nhưng thích bay nhảy. Năm ấy trong họ phải cắt một người đi lính thú ngoài biên, bèn cho La đi. La ở ngoài biên vài năm, sinh được một trai, lại được viên Thủ bị chỉ huy yêu mến. Kế viên Thủ bị được thăng làm Tham tướng Thiểm Tây, muốn đem La cùng đi. La bèn gởi gắm vợ con cho người bạn là Lý Mỗ rồi lên đường, suốt ba năm không có dịp về thăm. Gặp lúc Tham tướng muốn gởi thư lên biên ải phía bắc, La thưa xin cầm thư đi để nhân tiện đường ghé thăm vợ con, Tham tướng ưng thuận. La về tới nhà, thấy vợ con đều khoẻ mạnh, cũng được yên lòng, nhưng nhìn thấy dưới gầm giường có đôi giày đàn ông, trong lòng ngờ vực. Kế qua nhà Lý cám ơn, Lý bày rượu khoản đãi rất ân cần, vợ cũng nói Lý giúp đỡ đối xử tử tế, La cảm động lắm. Hôm sau nói với vợ rằng "Ta phải đi đưa thư cho chủ, chắc tối không về kịp đâu, nàng đừng chờ". Rồi ra cửa lên ngựa đi nhưng ngầm núp lại gần đó, đến khuya quay về thì nghe tiếng vợ và Lý uống rượu chuyện trò, nổi giận phá cửa vào. Hai người sợ hãi quỳ xuống van lạy. La đã tuốt đao nhưng lại tra vào vỏ, nói với Lý rằng "Ta vẫn coi ngươi là con người, nay lại như thế này, nếu giết đi chỉ làm bẩn đao của ta thôi. Vậy ta giao hẹn với ngươi, ngươi nhận lấy vợ con ta thì cũng phải ghi tên làm lính thay ta, ngựa nghẽo khí giới ta để cả lại đây cho ngươi, ta đi đây”, rồi bỏ đi.




Người làng cùng báo lên quan, quan phạt đánh trượng Lý. Lý bẩm thật mọi chuyện, nhưng việc không có gì làm bằng nên không tra xét được, sai tìm La khắp nơi vẫn không nghe tin tức gì. Quan ngờ rằng Lý tư thông với vợ nên giết chồng, càng giam cầm Lý và vợ La nghiêm ngặt, hơn một năm thì hai người đều chết trong ngục, quan sai lấy ngựa trạm đưa con La về Túc Mặc. Về sau ở dinh Thạch Hạp có dân vào núi kiếm củi gặp một đạo sĩ ngồi trong hang, không thấy ăn uống gì. Mọi người đều lấy làm lạ, đem thức ăn dâng, có người nhận biết nói đó là La. Cơm gạo chất đầy trong hang mà rốt lại La vẫn không ăn, lại tỏ vẻ ghét sự ồn ào, vì thế mọi người cũng dần dần ít tới đó. Vài năm sau ngoài cửa hang cỏ mọc như rừng, có kẻ tới nhòm trộm vào thấy La vẫn ngồi yên chỗ cũ không hề di chuyển. Lại khá lâu sau, người ta thấy La ra khỏi hang đi dạo trên núi, cho là đã bỏ đi, nhung tới nhìn vào hang thì thấy trên áo La vẫn đầy bụi như cũ, càng lấy làm lạ. Vài ngày sau lại tới xem thì thấy da thịt rã xuống, té ra đã tọa hóa từ lâu rồi. Dân vùng ấy lập miếu thờ, cứ cách ba tháng lại thắp hương đất vàng khấn khứa ngoài cổng. Sau con La tới đó, người ta đều gọi là "La Tổ nhỏ” giao hết tiền đèn hương cho. Đến nay con cháu vẫn mỗi năm tới đó một lần thu tiền đèn hương. Lưu Tông Ngọc ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) kể cho ta nghe chuyện này rất rõ ràng, ta cười nói “Những người mộ đạo Phật trên đời hiện nay không mong làm thánh hiền mà chỉ mong thành Phật tổ, xin nói với tất cả bọn họ rằng nếu muốn thành Phật ngay lập tức thì cứ buông đao xuống đất thôi".

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 163 - 168 -
Cây Quýt
(Quất Thụ)

Ông Lưu người Thiểm Tây làm Huyện lệnh Hưng Hóa (tỉnh Giang Tô). Có người đạo sĩ tới hiến một chậu cây cảnh, nhìn ra thì là một cây quýt nhỏ, thân cây vừa bằng ngón tay, ông từ chối không nhận. Nhung ông có cô con gái nhỏ mới sáu bảy tuổi, hôm ấy gặp ngày sinh nhật, đạo sĩ nói "Vật này không đáng biếu đại nhân thưởng ngoạn, chỉ là để chúc tiểu thư được phúc thọ thôi", ông bèn nhận. Cô gái vừa nhìn thấy cây quýt thì mừng quýnh, đem đặt trong phòng ngủ, sớm tối chăm sóc, chỉ sợ nó bị thương tổn. Năm ông Lưu thôi giữ chức Huyện lệnh, cây quýt đã lớn, bắt đầu kết trái. Khi ông thu xếp hành trang lên đường, thấy nó nặng nề cồng kềnh, bèn bỏ lại. Cô gái ôm cây quýt kêu khóc, người nhà nói dối rằng “Chỉ đi một thời gian sẽ trở lại mà", cô gái tưởng thật mới nín khóc. Nhung lại sợ có người khoẻ mạnh vác đi mất, bèn sai người nhà dời ra trồng dưới thềm rồi mới chịu lên đường. Cô gái về nhà, sau được gả cho họ Trang.

Năm Bính tuất Trang thi đỗ Tiến sĩ, được cử làm Huyện lệnh Hưng Hóa. Phu nhân rất mừng, song thầm nghĩ đã hơn mười năm, cây quýt chắc không còn. Tới nơi thì cây quýt đã lớn hơn mười ôm, trái kết từng chùm từng chùm, kể tới hàng ngàn. Hỏi thăm những người sai dịch cũ, họ đều nói sau khi ông Lưu đi, cây quýt rất tươi tốt nhưng không kết trái, đây là lần đầu tiên có trái, phu nhân lấy làm lạ lùng. Trang giữ chức ba năm, cây quýt ra trái rất sai, đến năm thứ tư thì xơ xác không có một cái hoa nhỏ. Phu nhân nói "Chàng không làm quan ở đây lâu nữa đâu”, đến mùa thu quả nhiên Trang được giải nhiệm.

Dị Sử thị nói:Cây quýt có túc duyên với cô gái chăng? Sao mà tao ngộ khéo như vậy? Kết trái tựa cảm ơn xưa, không hoa như đau ly biệt. Cây cỏ còn như vậy, huống là con người sao?


164. Người Đẹp Bằng Gỗ
(Mộc Điêu Mỹ Nhân)

Nhà buôn Bạch Hữu Công kể lúc ở sông Lạc (huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thấy một người mang cái giỏ tre, dắt hai con chó lớn, lấy trong giỏ ra một người đẹp bằng gỗ cao hơn một thước, tay chân có thể cử động được, xinh đẹp như người sống. Kế lấy chiếc nệm gấm nhỏ phủ lên lưng chó, đặt người đẹp bằng gỗ ngồi lên, rồi quát chó chạy mau. Người đẹp bằng gỗ tự cử động, dong ngựa diễn kịch, đứng lên bàn đạp rồi nằm rạp xuống, ưỡn lưng ngã người tựa lên đuôi ngựa, vái lạy đứng ngồi vô cùng linh hoạt. Lại diễn vở Chiêu Quân xuất tái*, lấy ra thêm một người gỗ khác, đội mũ gắn lông trĩ, mặc áo bằng da dê cưỡi chó theo sau, Chiêu Quân cứ nấn ná quay nhìn thì người mặc áo da dê vung roi thúc đi mau, giống hệt như người sống vậy.

*Chiêu Quân xuất tái: Chiêu Quân ra ải. Chiêu Quân là cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị triều đình gả cho chúa Thiền Vu để hòa thân, lúc ra cửa ải vào đất Thiền Vu nàng có gảy khúc đàn tỏ lòng nhớ nước.

165. Kim Vĩnh Niên
(Kim Vĩnh Niên)

Kim Vĩnh Niên người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) tám mươi hai tuổi không có con, vợ thì bảy mươi tám tuổi, tự nghĩ đã hết hy vọng. Chợt nằm mộng thấy thần nói "Lẽ ra ngươi phải tuyệt tự nhưng nghĩ tới ngươi buôn bán lương thiện nên cho một đứa con trai". Kim tỉnh dậy kể với vợ, vợ nói “Thật là mơ mộng hão huyền, hai người đều đã sắp vào quan tài cả rồi, con ở đâu ra?". Không bao lâu người vợ thấy bụng máy động, mười tháng sau sinh được một con trai.

166. Hiếu Tử
(Con Hiếu)

Trước núi Đông Hương ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) có Chu Thuận Đình thờ mẹ rất có hiếu. Mẹ bị cái nhọt lớn ở đùi, đau không chịu nổi, đêm ngày rên rỉ. Chu bưng cơm sắc thuốc hầu hạ quên ăn quên ngủ mà mấy tháng mẹ vẫn không khỏi. Chu lo lắng không biết làm sao, nằm mơ thấy cha về nói “Mẹ con bị bệnh may nhờ được con có hiếu, nhưng bệnh này không có mỡ người thoa vào thì không khỏi được, con vất vả tội nghiệp quá". Tỉnh dậy lấy làm lạ, liển trở dậy lấy dao cắt thịt ở sườn, thịt đứt ra nhưng không đau lắm, vội lấy vải bó quanh bụng, cũng không thấy chảy máu. Rồi rán thịt lấy mỡ thoa cho mẹ, lập tức hết đau ngay. Mẹ mừng rỡ hỏi thuốc gì mà hay thế, Chu tìm lời nói dối. Bệnh mẹ dần dần bớt, Chu vẫn giấu kín vết thương chỗ cắt thịt, vợ con cũng không biết. Đến khi lành hẳn, có cái sẹo to bằng bàn tay, vợ hỏi mới rõ sự tình.

Dị Sử thị nói:Cắt thịt mình là việc làm thương tổn sự sống, người quân tử không coi là hay, nhưng người dân ngu dại nào biết rằng làm thương tổn thân mình không phải là hiếu đâu? Đó cũng là làm theo tấm lòng không lo cho mình mà thôi, có người như thế mới hay hạng con hiếu thật sự là do trời sinh. Những người coi việc phong tục giáo hóa lắm việc quan trọng, bận rộn không thể biểu dương cho họ, thì phải cậy tới cõi u minh làm rõ điều tốt kín đáo của kẻ kiếm củi hái rau vậy.

167. Sư Tử
(Sư Tử)

Nước Tiêm La cống sư tử, tới đâu cũng có người đón xem đông nghẹt. Nhìn hình dáng thì khác hẳn lời đồn hay tranh vẽ, lông đen ánh vàng dài khoảng vài tấc. Có người ném cho con gà nó giơ vuốt chụp lấy rồi thổi, thổi một hơi thì lông gà rụng sạch, về lý kể cũng lạ.


168. Cái Thẻ Tử Chàng
(Tử Chàng Lệnh)

Tiến sĩ Thường Đại Trung là người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây). Tới kinh đô chờ bổ nhiệm, đêm nằm mơ thấy Văn Xương đế quân tới gặp, rút thẻ bói thì được cái thẻ Tử Chàng*, lấy làm lạ. Sau Thường có đại tang trở về, hết tang trở lên kinh chờ bổ nhiệm, lại nằm mơ giống lần trước, tự nghĩ hay là mình đước bổ làm Tri huyện Tử Chàng chăng? Sau quả nhiên đúng thế.

* Văn Xương... Tử Chàng: Văn Xương đế quân theo truyền thuyết 1à họ Trương, sống vào thời Đường, giỏi văn học, chết làm thần coi việc khoa cử công danh. Tử Chàng là tên huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi ở của Văn Xương đế quân nên người ta còn gọi vị thần này là Tử Chàng đế quân. Cái thẻ Tử Chàng dịch chữ "Tử Chàng lệnh", chữ “lệnh" đây còn có nghĩa là quan Tri huyện.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển X - 169 - 170 -
Giả Phụng Trĩ
(Giả Phụng Trĩ)

Giả Phụng Trĩ người huyện Bình Lương (tỉnh Cam Túc) tài danh đứng đầu một thời nhưng cứ đi thi là rớt. Một hôm đi đường gặp người Tú tài tự xưng là họ Lang, phong thái tiêu sái, nói chuyện đâu vào đấy nên mời cùng về nhà, đưa văn bài ra nhờ sửa cho. Lang đọc xong, không khen ngợi lắm, nói “Văn chương của túc hạ thi khảo khóa thì đỗ đầu có thừa, mà vào trường thi thì đội bảng cũng thiếu”. Giả nói "Vậy thì làm thế nào!", Lang đáp “Chuyện đời nhìn lên thì khó, cúi xuống thì dễ, cần gì ta phải nói nữa", rổi chỉ ra vài bài văn của vài người làm mực thước. Đó đều là những kẻ Giả vốn khinh bỉ, nên nghe thế cười đáp “Kẻ học lập ngôn quý ở chỗ được lời bất hủ, như thức ăn ngon sánh với bát trân mà thiên hạ không cho là xa xỉ chứ ăn cắp công danh như thế thì dẫu có làm tới khanh tướng cũng vẫn hèn hạ”. Lang nói "Không phải thế. Văn chương dẫu hay mà thân phận hèn hạ cũng không được lưu truyền, nếu ông muốn ôm sách vở đến chết thì được, bằng không thì các quan chấm thi đều tiến thân bằng thứ văn chương tầm thường ấy cả, sợ không đọc nổi văn ông thì không lọt được vào mắt họ đâu”. Giả vẫn khăng khăng giữ ý mình, Lang đứng dậy cười nói "Kẻ thiếu niên hào hùng thật!", rồi chào đi.

Mùa thu năm ấy Giả thi hương lại rớt, sầu muộn bất đắc chí, chợt nhớ lời Lang nói bèn tìm những bài văn Lang đã chỉ cho miễn cưỡng đọc. Chưa hết bài thì buồn ngủ díp mắt, trong lòng ngờ vực không rõ là vì sao. Lại qua ba năm, sắp đến kỳ thi thì Lang lại tới, gặp nhau rất vui vẻ, nhân đưa bảy đề bài mình nghĩ ra bảo Giả làm. Qua hôm sau đòi xem, cho là không được, bảo làm lại, làm xong lại chê. Giả đùa, bèn xào xáo những câu văn sáo rỗng không ai nghe được trong các bài thi rớt ghép lại thành bài, chờ Lang tới đưa cho xem. Lang mừng nói “Thế này thì được rồi!", rổi bảo phải học thuộc lòng, dặn đi dặn lại bảo đừng có quên. Giả cười nói "Nói thật với ông, nhũng bài này không phải ta thật lòng viết ra, chớp mắt là quên ngay, có đánh đòn cũng không nhớ nối đâu” Lang ngổi ở đầu bàn, nói cứ cố đọc lại một lượt, kế bảo Giả vén áo lên, lấy bút vẽ một đạo bùa trên lưng rồi đi, nói "Bấy nhiêu là đủ rồi, đọc sách cho lắm cũng chỉ vô dụng". Giả xem lại đạo bùa thì rửa đi không sạch, thấm luôn vào thịt rồi.
Đến khi vào trường thi thì bảy đề bài đều đúng như của Lang, Giả nhớ lại các bài đã làm thì đều quên sạch, chỉ có những bài chắp vá để đùa là nhớ rõ mồn một. Nhưng đặt bút xuống lại thấy xấu hổ, cũng muốn sửa đổi một ít, song nghĩ nát óc mà không thay được chữ nào, mặt trời đã xế đành chép đúng rồi nộp quyển mà ra. Lang chờ đã lâu, hỏi sao muộn thế, Giả kể thật lại rồi xin xóa lá bùa, nhưng nhìn lại thì đã mờ hết. Nhớ lại lúc làm bài trong trường thi, thấy như là sống kiếp khác, vô cùng lạ lùng. Nhân hỏi Lang sao không dùng cách ấy để đi thi, Lang cười đáp "Chỉ vì ta không nghĩ tới việc thi ấy nên cũng không đọc nổi loại văn ấy". Rồi hẹn Giả ngày mai qua chỗ mình chơi, Giả ưng thuận. Lang đi rồi, Giả đem bản thảo bài làm ra xem lại, thấy khác hẳn lòng mình, lấy làm ấy náy, cũng chẳng qua thăm Lang, chán nản về nhà.
Không bao lâu ra bảng, quả Giả đỗ đầu. Lại lấy bản thảo cũ ra xem, đọc tới đâu toát mồ hôi tới đó, đọc xong thì áo ướt đẫm, tự nhủ "Văn chương này mà truyền ra thì làm sao dám gặp kẻ sĩ trong thiên hạ nữa?". Còn đang hổ thẹn thì Lang chợt tới, nói "Muốn thi đỗ thì đã thi đỗ rồi, còn buồn gì nữa?". Giả đáp “Ta đang nghĩ đúng là mâm vàng chén ngọc lại đem đựng phân chó, thật không còn mặt mũi nào gặp người quen, định sẽ vào núi gò mai danh ẩn tích, vĩnh viễn cắt đứt với thế tục đây!". Lang nói "Như thế thì rất cao thượng, chỉ e rằng không làm được thôi. Nếu làm được ta xin đưa ông tới gặp một người, có thể được trường sinh thì cái danh thơm ngàn thuở cũng không đáng tiếc, huống hồ là chuyện giàu sang thoảng qua ư?”. Giả mừng giữ Lang ngủ lại, nói "Cho ta nghĩ kỹ lại đã". Sáng ra nói với Lang rằng "Ý ta đã quyết rồi". Rồi không nói gì với vợ con, theo Lang nhẹ nhàng ra đi, dần dần vào núi sâu, tới một tòa động phủ, bên trong như một cõi trời đất riêng biệt. Thấy có một ông già ngồi trong sảnh đường, Lang dẫn Giả vào ra mắt, gọi là thầy. Ông già hỏi “Sao về sớm thế?", Lang thưa "Ngươi này lòng đạo đã bền, xin thầy thu nạp". Ông già nói “Ngươi đã tới đây, thì phải đặt thân mình ra ngoài thế tục mới đắc đạo được", Giả dạ dạ vâng lời.
Lang đưa tới một phòng, sắp xếp chỗ ngủ rồi, lại đem cơm tới mới đi. Phòng cũng sạch sẽ, có điều cửa lớn không có cánh cửa, cửa sổ không có chấn song, bên trong chỉ có một chiếc giường và một cái bàn. Giả cởi giày lên giường, trăng đã lên chiếu vào phòng. Thấy hơi đói bèn lấy cơm ra ăn, ngon ngọt khác thường. Thầm nghĩ chắc Lang sẽ lại tới, nhưng ngồi chờ hồi lâu vẫn im ắng, chẳng có tiếng động nào, chỉ thấy mùi hương man mác khắp phòng, tâm thần nhẹ nhõm, cảm nhận được cả khí huyết đang vận hành. Chợt có tiếng động lớn như mèo gãi sồn sột, hé mắt nhìn ra thấy có con cọp ngồi dưới thềm, thoáng hoảng sợ nhưng nhớ tới lời thầy dặn, lập tức trấn tĩnh ngồi yên. Cọp như biết có người, dần dần vào tới gần giường, thở khìn khịt ngửi chân Giả. Giây lát trong sân lại có tiếng phành phạch như gà bị trói giãy giụa, con cọp lập tức chạy đi. Giả ngồi một lúc nữa thì có mỹ nhân bước vào, hương thơm sực nức, im lặng lên giường ghé tai Giả nói nhỏ “Thiếp tới rồi đây!”, lúc nói nghe hơi thở cũng thơm phức. Giả vẫn thản nhiên không động đậy, mỹ nhân lại hạ giọng hỏi "Ngủ rồi à?", giọng nói rất giống vợ nhà. Giả hơi động lòng, mở mắt nhìn kỹ thì đúng là vợ mình. Hỏi làm sao tới được đây, vợ đáp ”Lang sinh sợ chàng thấy hiu quạnh muốn về, sai một bà già đưa thiếp tới”.
Vừa nói xong thì nghe tiếng ông già quát tháo, dần dần tới gần phòng, vợ Giả vội vùng dậy nhưng không có chỗ nào trốn núp, bèn leo qua chỗ tường thấp chạy ra ngoài. Giây lát Lang theo ông già vào, ông già cầm trượng đánh Lang ngay trước mặt Giả, rồi sai đuổi khách đi. Lang cũng đưa Giả theo chỗ tường thấp ra ngoài, nói “Ta mong mỏi còn ông viễn vông, không khỏi có chỗ hấp tấp, nhưng không ngờ ông lại chưa dứt được tình duyên làm ta bị trách phạt. Bây giờ hãy tạm về đi, sau này sẽ có ngày gặp lại” Bèn chỉ đường cho về, vái chào rồi chia tay. Giả nhìn xuống núi thấy quê nhà đã trước mắt, nghĩ rằng vợ chân yếu chắc còn trên đường, bèn rảo bước đi, hơn một dặm thì tới cổng nhà. Nhưng thấy tường vách tiêu điều khác hẳn cảnh ngày trước, già trẻ trong thôn chẳng thấy có ai quen, bắt đầu khiếp sợ.
Chợt nhớ đến tình cảnh Lưu Nguyễn từ Thiên Thai trở về cũng đúng như thế này nên không dám vào nhà, ngồi đợi trước cửa nhà đối diện. Hồi lâu trong nhà có ông già chống gậy bước ra, Giả vái chào rồi hỏi nhà Giả Mỗ ở đâu, ông già chỉ đáp "Đúng là nhà ấy đấy, có phải khách muốn hỏi chuyện lạ không? Ta biết rõ lắm. Nghe đồn rằng ông ta được tin thi đỗ thì bỏ trốn, lúc ấy con trai mới bảy tám tuổi, đến năm mười lăm tuổi thì bà mẹ chợt ngủ mãi không tỉnh dậy. Lúc người con còn sống thì hàng ngày vẫn thay áo đổi nệm cho mẹ, khi chết rồi hai người cháu nghèo khổ, phòng ốc hư dột chỉ lấy cành lá che tạm thôi. Tháng trước phu nhân chợt tỉnh dậy, tính lại thì đã hơn trăm năm rồi. Gần xa nghe chuyện lạ tới hỏi thăm nườm nượp, đến nay mới hơi thưa đấy".
Giả chợt hiểu ra, nói "Ông không biết đấy, chứ ta là Giả Phụng Trĩ đây” ông già cả kinh, chạy qua nhà Giả báo tin. Lúc ấy cháu nội đích tôn của Giả đã chết, cháu thứ hai tên Tường đã hơn năm mươi tuổi, thấy Giả mặt mũi còn trẻ ngờ là bịa đặt. Lát sau phu nhân ra mới nhận biết Giả, ứa lệ gọi cùng vào nhà. Khổ nỗi nhà không có phòng ốc gì, mới vào tạm nhà cháu nội, thấy trai gái lớn nhỏ chạy vào xúm xít đầy nhà, đều là chắt chít, tất cả đều nghèo hèn ít học. Cháu dâu trưởng là Ngô thị dọn cơm mời Giả, thức ăn chỉ có rau, lại bảo con thứ hai là Quả cùng vợ qua ở chung phòng với mình, nhường phòng lại cho ông bà. Giả vào nhà cháu nội ở thấy bụi bặm bẩn thỉu, đông đúc ồn ào, mới có vài ngày đã thấy không sao chịu nổi. Nhà hai cháu nội chia nhau đem cơm nước cho ông bà, nhưng nấu nướng rất không vừa miệng. Người làng thấy Giả mới về, ngày ngày còn mời đi uống rướu, chứ phu nhân thì thường không ngày nào được ăn no. Ngô thị vốn là con gái nhà sĩ nhân, được dạy dỗ có khuôn phép nên còn kính trọng ông bà, chứ nhà Tường thì việc cơm nước ngày càng tệ, có hôm còn gọi qua ăn cùng.
Giả nổi giận dắt phu nhân đi, mở trường dạy học ở thôn Đông, thường nói với phu nhân rằng "Ta rất hối hận đã trở về, nhưng không kịp nữa. Nên bất đắc dĩ phải theo nghiệp cũ, nếu trong lòng không có gì xấu hổ thì giàu sang cũng chẳng khó". Như thế hơn năm, Ngô thị vẫn thường cung đốn tiền gạo chứ cha con Tường thì bặt tăm. Năm ấy Giả thi đỗ vào trường huyện, quan huyện trọng văn tài nên tặng cho rất hậu, nhờ vậy trong nhà cũng được dư dật. Tường mon men tới thăm, Giả gọi vào bảo tính hết phí tổn cho mình trước đây, lấy tiền đưa trả rồi cấm cửa không cho gặp nữa. Kế mua nhà mới, gọi Ngô thị về cùng ở. Ngô thị có hai con trai, con lớn vẫn giữ nghề làm ruộng, con thứ là Quả rất thông minh, Giả bảo theo học chung với học trò mình. Giả từ lúc trong núi về, đầu óc càng minh mẫn, không bao lâu liên tiếp thi đỗ Cử nhân rồi Tiến sĩ. Vài năm sau được lấy hàm Thị ngự ra làm Tuần phủ Chiết Giang, oai danh lừng lẫy, trong nhà lầu gác đài tạ, dưới thềm yến ẩm đàn ca, nổi tiếng một thời.

Giả là người cứng cỏi, không sợ kẻ quyền quý nên đụng chạm tới nhiều quan lón trong triều, bèn dâng sớ xin về hưu nhưng chưa có chỉ dụ thì đã gặp tai họa. Nguyên Tường có sáu con trai, đều là hạng vô lại, tuy Giả đã cấm cửa không cho lui tới nhưng vẫn mượn danh Giả tác oai tác phúc, chiếm đoạt nhà cửa ruộng vườn của dân, người làng đều sợ. Có tên Ất vừa cưới vợ, bị con thứ của Tường cướp làm thiếp. Ất vốn là người trí trá nên người làng giúp tiền cho y đi kiện, chuyện tới tai trlều đình, các quan đểu dâng sớ hặc tội Giả. Giả không có cách nào biện hộ nên bị bắt giam. Được một năm thì Tường và đứa con thứ chết trong ngục, Giả được chỉ sung quân ở huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh). Năm ấy Quả vào học trường tỉnh đã lâu, tính rất nhân hậu, nổi tiếng tài giỏi. Phu nhân sinh được một con, năm ấy mười sáu tuổi, gởi gắm cho Giả rồi dắt một lão bộc, một bà già đi với chồng. Giả nói "Giàu sang hơn mười năm cũng không lâu bằng một giấc mộng, nay mới biết trường vinh hoa đều là một cõi địa nguc, hối hận vì Lưu Nguyễn lại gây ra thêm một cái án oan nghiệt vậy”.

Vàỉ hôm tới bờ biển xuống thuyền, thấy xa xa có một chiếc thuyền lớn chèo tới, đàn sáo rộn rã, bọn người hầu đều như thần tiên. Thuyền tới gần thì có một ngừữi bước ra, tươi cười mời quan Thị ngự qua trò chuyện một lúc Giả nhìn thấy người ấy vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nhảy luôn qua thuyền lớn, bọn lính áp giải không dám ngăn cản. Phu nhân vội vàng bước theo nhưng thuyền lớn đã rời xa, uất ức nhảy luôn xuống biển. Loi ngoi được vài bước thì có một người thả tấm lụa xuống cứu lên. Bọn lính áp giải bảo nhà thuyền chèo mau đuổi theo, vừa đuổi vừa quát tháo. Chợt nghe có tiếng trống thúc vang vang như sấm hòa vào với tiếng sóng ầm ầm, trong chớp mắt thì chiếc thuyền kia biến mất. Người lão bộc của Giả nhận ra người trên thuyền, nói đó là Lang sinh.

Dị Sử thị nói:Nghe dồn Trần Đại Sĩ* đi thi, viết xong bài rồi, đọc đi đọc lại mấy lần, than rằng “Ai cũng viết được thế này”, bèn bỏ đi viết bài khác nên không đủ mực viết bài thi. Giả sinh xấu hổ bỏ trốn, cũng là có tiên cốt, nhưng lại quay về nhân gian rồi vì miếng cơm manh áo mà tự hạ mình, thật là bần tiện làm sao!

*Trần Đại Sĩ: bản Hương Cảng chú nhân vật này 1à người thời Minh, thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp tuất niên hiệu Sùng Trinh (1634).

170. Ba Kiếp
(Tam Sinh)

Anh Mỗ ở Hồ Nam nhớ được chuyện ba kiếp trước. Kiếp đầu làm quan huyện, được cử làm khảo quan kỳ thi hương. Có danh sĩ tên Hưng Vu Đường bị đánh rớt uất ức mà chết, cầm quyển thi tới âm ty kiện. Đơn kiện vừa đưa lên, những sĩ tử thi rớt mà chết kéo tới hàng vạn người, tôn Hưng đứng đầu, lúc tan lúc họp. Mỗ bị bắt tới đối chất với Hưng, Diêm Vương hỏi Mỗ coi việc cân nhắc văn chương, tại sao lại đánh rớt người tài sĩ mà lấy đỗ kẻ tầm thường. Mỗ phân trần rằng ở trên còn có quan Chủ khảo, mình chẳng qua chỉ là kẻ thừa lệnh mà thôi. Diêm Vương lập tức phát thẻ bài sai đi bắt viên Chủ khảo, hồi lâu giải tới, Diêm Vương thuật lại lới Mỗ, viên Chủ khảo nói “Ta chẳng qua chỉ là người xem lại lần cuối, nếu các quan Giám khảo không đưa bài lên thì làm sao ta đọc được?". Diêm Vương nói “Không được đổ lỗi cho nhau như thế, hai ngươi đều không làm tròn phận sự như nhau thôi", vừa sắp phạt đánh đòn hai người thì Hưng không vừa lòng bước ra gào lớn, đám ma đứng dưới thềm cũng la hét phụ họa.

Hưng nói trừng phạt như vậy quá nhẹ, phải khoét cả hai mắt để trị tội không biết đọc văn. Diêm Vương không chịu, đám ma càng la hét tợn, Diêm Vương nói "Tội của họ không phải là không muốn được văn hay, chỉ là ngu dốt thôi". Đám ma lại xin mổ tim, Diêm Vương bất đắc dĩ sai lột áo hai người, lấy dao bén rạch bụng, hai người đổ máu kêu la, đám ma vô cùng vui sướng, đều nói "Bọn ta uất ức dưới suối vàng chưa lần nào được phát tiết nỗi hận, nay nhờ Hưng tiên sinh mới được hả giận”, vui vẻ tan đi. Mỗ chịu tội mổ bụng xong, bị giải tới Thiểm Tây đầu thai làm con nhà thường dân. Năm hai mươi tuổi thì trong vùng có bọn giặc lớn gây loạn, Mỗ bị ép theo. Quan quân đánh dẹp phá tan, bắt được rất nhiều, Mỗ cũng bị bắt nhưng nghĩ mình bị ép chứ không phải thật lòng làm giặc, còn có thể phân trần được.

Đến khi ra mắt quan trên, thấy cũng chỉ hơn hai mươi tuổi, Mỗ nhìn kỹ thì ra là Hưng, sợ hãi nói "Chắc ta chết rồi". Kế đó Hưng cho tha hết những kẻ bị bắt, duy có Mỗ tới sau thì không cho phân trần gì, sai đem xử chém. Mỗ tới âm ty đưa đơn kiện Hưng, Diêm Vương không cho bắt ngay để chờ Hưng hướng hết lộc số. Ba mươi năm sau Hưng mới tới đối chất, Diêm Vương thấy coi thường mạng người nên phạt làm súc vật. Lại xét lại việc làm của Mỗ thấy lúc trước từng đánh đập cha mẹ, cũng phạt như Hưng. Mỗ sợ kiếp sau Hưng báo thù, nên xin làm con vật lớn. Diêm Vương bèn phạt Mỗ làm chó lớn, Hưng làm chó nhỏ. Mỗ thác sinh ở chợ phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc), một hôm đang nằm ở đầu đường thấy có người khách từ Nam lên, dắt theo một con chó lông vàng to bằng con mèo, nhìn lại thì ra là Hưng. Mỗ khinh là nhỏ xông vào cắn, bị con chó nhỏ táp vào cổ họng, đeo dính như cái lục lạc. Con chó lớn rẫy ra rồi đè con chó nhỏ xuống cắn, người trong chợ xúm lại giằng ra không được. Lát sau cả hai cùng chết, lại xuống âm ty tranh cãi với nhau. Diêm Vương nói "Oan oan tương báo đến bao giờ mới thôi được, nay ta sẽ cởi mối thù oán cho các ngươi", rồi phán kiếp sau Hưng sẽ làm con rể Mỗ.

Mỗ sinh ra tên Khánh Vân, năm hai mươi tám tuổi thi đỗ Cử nhân. Sinh được một gái đoan trang đẹp đẽ, các nhà thế tộc tranh nhau nhờ người tới hỏi, Mỗ đều chối từ. Ngẫu nhiên qua chơi quận bên, gặp lúc quan Học sứ xếp hạng các Chư sinh, người đứng đầu là họ Lý, thật ra là Hưng. Mỗ đưa về nơi trọ, đối xử rất ân cần, hỏi tới gia đình thì chưa có vợ, bèn hứa gả con gái cho. Mọi người đều cho rằng Mỗ quý kẻ có tài, chứ không biết thật ra là số phận. Kế đó Lý cưới con gái Mỗ, vợ chồng rất hòa hợp nhưng chàng rể cậy tài coi thường cha vợ, cả năm không tới thăm một lần, cha vợ cũng nhịn. Sau chàng rể trung niên lận đận, lao đao mãi vẫn không thi đỗ, Mỗ tìm đủ cách giúp đỡ cho mới được đắc chí ở khoa danh, từ đó hai người thương yêu nhau như cha con ruột vậy.

Dị Sử thị nói:Bị đánh rớt một lần mà ba kiếp chưa hết thù oán, căm hận đến thế thật là quá đáng. Diêm Vương thu xếp vốn rất hay, nhưng dưới thềm có hàng ngàn hàng vạn kẻ chen chúc như Hưng, chẳng lẽ những rể hiền trong thiên hạ đều là con ma kêu gào khóc lóc dưới âm ty sao!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 171 -
Trường Đình
(Trường Đình)

Thạch Đại Phác người Thái Sơn (huyện Thái An tỉnh Sơn Đông) thích thuật nhương quỷ trừ tà. Có vị đạo sĩ gặp mặt khen là thông minh, nhận làm đệ tử, mở tráp lấy hai quyển sách, quyển thượng dạy trừ hồ, quyển hạ dạy trừ ma, đưa quyển hạ cho Thạch, nói “Cứ giữ kỹ sách này sẽ có cơm ngon vợ đẹp". Thạch hỏi tên họ, đạo sĩ đáp "Ta là Vương Xích Thành ở quán Nguyên Đế thôn Bắc Biện Thành (tỉnh thành Hà Nam)", rồi ở lại vài ngày dạy hết cho các ấn quyết. Thạch từ đó rất giỏi bùa phép, những kẻ mang lễ vật nhờ trừ tà ếm quỷ nối nhau tới mời. Một hôm có ông già tới, tự xưng là họ ông, bày đầy tiền lụa ra bàn nói có con gái bị bệnh ma làm gần chết, xin Thạch tới xem. Thạch nghe bệnh đã nguy, chối từ không nhận lễ vật, chỉ tạm tới để xem ra sao. Đi hơn mười dặm vào thôn trong núi, tới nhà thấy phòng ốc hành lang đều hoa lệ đẹp đẽ. Vào phòng thấy cô gái nằm trong màn the, tỳ nữ vén màn lên, Thạch nhìn thấy nàng khoảng mười bốn mười lăm tuổi, thoi thóp trên giường, hình dung khô héo. Tới gần xem, chợt nàng mở mắt ra nói "Thầy giỏi đã tới!"

Cả nhà mừng rỡ cho biết rằng nàng đã không nói năng gì đã mấy ngày rồi. Thạch ra ngoài hỏi bệnh tình, ông già đáp cứ tối đến lại thấy một thiếu niên vào ngủ chung với nàng, đuổi bắt thì biến mất, lát sau lại xuất hiện, ngờ là ma. Thạch nói "Nếu là ma thì đuổi không khó, chỉ sợ là hồ thì thật không phải chuyện ta dám biết”. Ông già nói “Không phải đâu, không phải đâu”, Thạch bèn vẽ bùa đưa cho. Đêm ấy Thạch ngủ lại đó khuya thấy một thiếu niên áo mũ chỉnh tề đi vào. Thạch nghĩ là người trong gia đình chủ nhân, bước ra hỏi, thiếu niên đáp “Ta là ma đây, cả nhà họ ông đều là hồ, ta thích nàng Hồng Đình nên tới đây. Ma mà ám hồ thì không hại gì tới âm đức, việc gì ông phải giúp họ chia rẽ nhân duyên của ta? Chị nàng là Trường Đình còn đẹp hơn nhiều, ta xin kính cẩn để lại nguyên vẹn cho bậc cao hiền. Nếu họ hứa gả cho ông thì ông hãy giúp họ, ông cưới xong ta sẽ không tới đây nữa”, Thạch ưng thuận.

Đêm ấy thiếu niên không vào, cô gái hơi khỏe hơn. Sáng ra ông già mừng rỡ kể với Thạch, mời Thạch vào xem bệnh. Thạch đốt lá bùa đi rồi ngồi thăm bệnh, thấy sau tấm màn thêu có một nữ lang xinh đẹp như thiên tiên, biết đó là Trường Đình. Xem bệnh xong bèn đòi nước rửa phòng, nữ lang vội xách nước vào lúc lui tới cùng dọn dẹp, Thạch ngây ngất ngẩn ngơ, chẳng còn nghĩ gì tới việc trừ tà ếm quỷ cả. Thạch ra từ biệt ông già, lấy cớ về nhà chế thuốc, mấy ngày không trở lại. Ma càng lộng hành, trừ Trường Đình ra thì cả nhà từ con dâu tới tỳ nữ đều bị hành dâm. ông già lại sai đầy tớ mang ngựa tới đón, Thạch thác bệnh không đi. Hôm sau ông già tự tới, Thạch giả đau chân chống gậy bước ra. ông già chào xong hỏi thăm, Thạch đáp "Đây là cái khổ của kẻ góa vợ đây. Đêm qua đứa tớ gái dọn giường vấp ngã làm cái lò sưởi rơi vào chân ta". Ông già hỏi sao đã lâu mà không cưới vợ khác, Thạch đáp “Chỉ hận là không gặp được nhà nào thanh cao như nhà ông”.

Ông già im lặng bước ra, Thạch theo tiễn chân, nói "Lúc nào đỡ bệnh sẽ tự tới, đừng nhọc công dời gót ngọc tới đây làm gì". Vài hôm sau ông già lại tới, Thạch khập khiễng ra đón. Ông già hỏi han đôi ba câu rồi nói "Vừa rồi ta bàn với chuyết thê, nếu ông đuổi được ma cho cả nhà yên ổn, thì có tiểu nữ Trường Đình được mười bảy tuổi, xin sai tới phụng sự bậc quân tử". Thạch mừng rỡ lạy phục ngay xuống, rồi nói nếu ông già có nhã ý như vậy thì đâu dám có bệnh mà chần chừ. Lập tức lên đường, cùng cưỡi ngựa đi. Vào nhà xem qua hết những người bị ma làm rồi, lại sợ xong việc bị họ nuốt lời, xin bàn rõ với vợ chồng ông già. Bà già bước ra nói “Tiên sinh còn ngờ sao?", lập tức lấy chiếc trâm cài đầu của Trường Đình đưa Thạch làm tin. Thạch vái lạy xong liền tập hợp tất cả người nhà lại làm phép nhương trừ, riêng Trường Đình không bị gì thì vẽ một tấm bùa sai người nhà đưa tặng cho nàng đeo. Đêm ấy yên ắng, ma quỷ bặt tăm, chỉ có Hồng Đình còn rên rỉ không thôi. Thạch làm nước phép vào rảy cho nàng, bệnh tật lập tức tiêu tan gần hết. Thạch định chào về, ông già níu kéo giữ lại, đến xế chiều dọn rượu thịt lên la liệt, mời mọc rất ân cần, canh hai chủ nhân mới chào khách đi nghỉ.

Thạch vừa đi nằm thì nghe tiếng gõ của rất gấp, trở dậy mở cửa thì Trường Đình bước vào, dáng vẻ hớt hãi, nói là nhà thiếp mài dao muốn giết chàng, nên trốn ngay đi, nói xong vội quay ra. Thạch hoảng sợ không còn hồn vía nào, vội leo qua tường bỏ chạy, thấy xa xa có ánh lửa vội chạy tới, thì ra là người làng đi săn đêm. Thạch chờ họ săn xong cùng về, trong lòng căm túc không biết trút vào đâù, định tới đất Biện tìm Xích Thành nhưng nhà có cha già mắc bệnh đã lâu, nghĩ ngợi đêm ngày chưa biết tính bề nào. Một hôm có hai chiếc kiệu tới dừng ở cửa, thì là bà vợ ông già đưa Trường Đình tới, hỏi Thạch rằng "Đêm trước về rồi sao không tính kế?”. Thạch thấy mặt Trường Đình thì nỗi căm tức đều tiêu tan nên cũng không nói ra chuyện mình tính toán. Bà già giục hai người làm lễ giao bái ngay tại sân, xong rồi Thạch định làm cơm mời, bà nói "Ta đang bận rộn, không thể ngồi yên ăn ngon. Lão già nhà ta đầu óc tối tăm, nếu có gì không phải xin chàng vì Trường Đình mà nghĩ tới già này một chút thì may lắm", rồi lên kiệu đi.

Té ra ông già định giết con rể thì bà già không hay, đến lúc ông ta đuổi theo Thạch không kịp trở về thì bà mới biết, rất lấy làm bất bình, ngày nào cũng cãi vã với chồng. Trường Đình cũng khóc lóc không chịu ăn uống, bà già bèn ép đưa con gái tới cho Thạch, chứ họ ông không muốn. Trường Đình vào nhà rồi, Thạch hỏi han mới rõ sự tình. Được hai ba tháng, họ ông gọi con gái về thăm nhà, nhưng Thạch cho rằng nàng sẽ không được trở lại nên không cho đi, từ đó thỉnh thoảng Trường Đình lại rơi lệ. Hơn một năm nàng sinh con trai, đặt tên là Tuệ Nhi, thuê vú nuôi cho bú nhưng đứa nhỏ hay khóc, đêm nào cũng phải trả về ngủ với mẹ. Một hôm nhà họ ông lại mang kiệú tới, nói bà già nhớ con gái lắm. Trường Đình càng buồn bã, Thạch không nỡ giữ nên để nàng đi.

Nàng định bế con theo nhưng Thạch không cho, nàng bèn về một mình. Lúc ra đi hẹn một tháng sẽ quay về, nhưng nửa năm liền vẫn không có tin tức gì, Thạch cho người đến hỏi dò tin túc thì nhà cũ bỏ không không có ai ở. Được hai năm Thạch không mong đợi nữa, nhưng đứa con nhớ mẹ đêm nào cũng khóc ngằn ngặt, lòng như dao cắt. Kế cha bệnh mất, Thạch càng thêm thương tâm nên thành bệnh nằm liệt giường, việc tang lễ gác đó không sao tiếp đón khách khứa tới viếng. Đang lúc bối rối chợt nghe tiếng đàn bà khóc lóc đi vào, nhìn ra thì là Trường Đình mặc tang phục. Thạch đau lòng quá kêu lên một tiếng rồi ngất đi, người hầu gáỉ hoảng sợ la lớn, Trường Đình mới nín khóc vào chăm sóc. Hồi lâu Thạch mới tỉnh, nghĩ rằng mình đã chết, nói có lẽ đang gặp nhau ở suối vàng. Nàng nói “Không phải đâu. Thiếp bất hiếu không được lòng cha, bị giữ lại ba năm, thành ra phụ lòng chàng.

Gặp lúc dời nhà đi Hải Đông đi ngang đây, nghe tin cha chàng mất, thiếp tuân lệnh cha phải dứt tình nhi nữ nhưng không dám vâng lời sai mà bỏ lễ cha chồng con dâu. Thiếp về đây mẹ biết chứ cha không biết đâu”. Đang nói thì đứa nhỏ tới sà vào lòng, dứt lời nàng vỗ về con, khóc nói "Ta có cha nên con không có mẹ", đứa nhỏ cũng òa khóc, cả nhà đều rơi lệ. Nàng bước ra coi việc nhà, thức ăn mang lên cúng trước linh cửu đều đầy đủ sạch sẽ. Thạch được an ủi rất nhiều, nhung mắc bệnh đã lâu, nhất thời gấp rút không sao đứng dậy, Trường Đình bèn mời người anh họ ngoại của Thạch ra tiếp khách thay. Chôn cất xong Thạch mới đứng dậy được, chống gậy lo việc cúng trăm ngày. Kế Trường Đình từ biệt về để chịu tội trái lệnh cha, nhưng chồng níu con gào đành ẩn nhẫn ở lại.

Không bao lâu có người tới nói bà già mắc bệnh, nàng nói "Thiếp vì cha chàng mà tới, chàng lại không vì mẹ thiếp bị bệnh mà cho thiếp đi sao?", Thạch ưng thuận. Trường Đình bảo người vú bế con đi chơi rồi rơi lệ ra cửa lên đường, suốt mấy năm không trở về, cha con Thạch cũng dần dần quên đi. Một hôm sáng sớm vừa mở cửa thì Trường Đình nhẹ nhàng bước vào, Thạch hoảng sợ hỏi, nàng rầu rĩ ngồi xuống giường than “Thiếp sinh trưởng nơi khuê các, coi một dặm đã là xa, nay chỉ một ngày một đêm mà phải đi cả ngàn dặm, mệt gần chết". Thạch hỏi kỹ, nàng muốn đáp lại thôi, hỏi mãi mới khóc nói "Nay nói ra cho chàng hay, chỉ sợ điều làm thiếp đau lòng lại làm chàng khoái ý thôi. Năm rồi bên nhà tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), ngụ trong nhà thân hào họ Triệu. Chủ khách giao du thân mật, cha mới gả Hồng Đình cho công tử nhà ấy. Công tử vốn phóng đãng, gia đình không yên ấm, em thiếp về kể với cha, cha bèn giữ lại nửa năm không cho về. Công tử tử giận, chẳng biết mời được người ác ở đâu tới, sai thần tướng xiềng khóa cha già giải đi, cả nhà hoảng sợ trong chớp mắt bỏ chạy tứ tán” Thạch nghe thấy không kìm được bật cười ha hả, Trường Đình tức giận nói "Người ta tuy bất nhân cũng vẫn là cha thiếp, thiếp làm vợ chàng mấy năm chỉ có vui vẻ không có hờn oán, nay người mất nhà tan, trăm miệng lưu ly, dẫu chàng không thương cha cũng phải xót cho thiếp chứ. Thế mà nghe chuyện lại vui sướng múa lên, chẳng có lấy nửa lời an ủi, sao mà bất nghĩa đến thế?". Rồi phất tay áo bỏ ra, Thạch chạy theo tạ lỗi thì đã đi xa rồi, nghĩ lại thấy ân hận, trách mình nhẫn tâm.
Qua hai ba hôm thì bà già và con gái cùng tới. Thạch mừng rỡ hỏi thăm an ủi thì mẹ con cùng lạy phục xuống đất. Thạch hoảng sợ hỏi, hai người đều khóc, Trường Đình nói “Thiếp nổi giận bỏ đi, nay lại không thể giữ ý lại định nhờ người, còn mặt mũi nào nữa?". Thạch nói "Tuy cha bất nhân nhưng ơn của mẹ, tình của nàng thì ta không bao giờ quên. Vả lại nghe tai họa mà vui cũng là thói thường của con người, sao nàng không nhịn ta một chút?” Nàng nói “Mới rồi gặp mẹ trên đường, mới biết người bắt cha chính là thầy của chàng”. Thạch nói "Nếu đúng như thế thì cũng rất dễ, có điều nếu cha nàng không về thì cha con nàng chia lìa, nhưng e nếu cha nàng về thì chồng nàng khóc, con nàng khổ mà thôi". Bà già bèn thề độc, Trường Đình cũng thề nhất định sẽ đền ơn. Thạch bèn khăn gói lên đường tới đất Biện, hỏi đường tới quán Nguyên Đế thì Xích Thành mới trở về chưa lâu, bèn vào ra mắt. Xích Thành hỏi sao lại tới đây, Thạch nhìn xuống bếp thấy một con hồ già bị trói hai chân trước treo lên, cười nói "Đệ tử tới đây lần này chỉ vì con quỷ già kia". Xích Thành hỏi, Thành thưa “Đó là cha vợ của con đấy", rồi kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ cho rằng hồ gian trá xảo quyệt không thể khinh suất tha ra, Thạch nài nỉ mãi mới ưng thuận. Nhân lại kể rõ các thủ đoạn gian trá của hồ, hồ nghe thấy nép mình rúc vào lồng, có vẻ hổ thẹn.

Đạo sĩ cười nói "Té ra nó cũng còn biết xấu hổ". Thạch vào bếp xách ra, lấy dao cứa dây, hồ đau quá nghiến răng kèn kẹt. Thạch cứ ỡm ờ không chịu cắt cho đứt hẳn, cười hỏi "Cha đau lắm thì phải, thôi không cắt nữa được không ạ?". Hồ trừng trừng nhìn Thạch, vẻ rất căm hờn, kế được thả, vẫy đuôi ra khỏi quán đi luôn. Thạch chào thầy ra về, thì ba ngày trước đã có người tới báo tin ông già được thả, bà già liền về trước để con gái ở lại chờ Thạch. Thạch về tới, nàng ra đón lạy phục xuống đất, Thạch kéo đứng lên nói "Nếu nàng không quên tình nghĩa vợ chồng thì đừng cám ơn". Nàng nói “Từ nay trở đi bên nhà lại về ở chỗ cũ, làng xóm gần đây tin tức dễ dàng, thiếp muốn về thăm cha, ba ngày sẽ trở lại chàng có tin không?” Thạch đáp "Con sinh ra không có mẹ cũng chưa hề sứt mẻ, ta hàng ngày vắng bóng vợ đã trở thành quen nếp, thế mà không làm như Triệu công tử lại lấy ơn báo oán, như thế là đã hết lòng với nàng rồi. Nếu nàng không trở lại thì đó là bởi nàng phụ nghĩa, nhưng dẫu đạo lý như vậy vẫn không cần nói rõ, có gì mà không tin". Hôm sau Trường Đình đi, hai ngày thì trở về, Thạch hỏi sao đi mau thế, nàng đáp "Cha vì chuyện chàng chọc ghẹo ở đất Biện, tức tối không quên, cứ lải nhải nói mãi, thiếp không muốn nghe nữa nên về sớm” Từ đó hai mẹ con qua lại với nhau luôn, nhưng cha vợ chàng rể vẫn không hề thăm viếng gì nhau.

Dị Sử thị nói:Tính hồ phản phúc, xảo trá quá lắm, việc hối hôn hai con gái đều theo một kiểu, sự giả trá thế nào có thể biết được. Nhưng vì có chuyện cần mà gả con, thì cái ý hối hôn đã nảy sinh ngay từ lúc hứa hôn rồi. Còn chàng rể vì yêu con gái mà cứu ngươi cha, lẽ ra nên bỏ oán thù cũ để lấy lòng nhân đức mà cảm hóa, thế mà lại chọc ghẹo lúc đang nguy cấp, thì trách gì cha vợ đến chết cũng không quên! Nhưng cha vợ chàng rể trong thiên hạ không dung được nhau, đều như thế cả thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 172 -
Tịch Phương Bình
(Tịch Phương Bình)

Tịch Phương Bình là người huyện Đông An (tỉnh Hà Bắc). Cha tên Liêm, thẳng tính nhưng nóng nảy, vì vậy có hiềm khích với nhà giàu họ Dương trong làng. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, nói với mọi người rằng "Lão Dương nay đang lo lót để âm ty sai người bắt ta”, giây lát toàn thân tấy đỏ lên, gào thét rồi chết. Tịch buồn thảm bỏ ăn, nói "Cha ta thật thà chất phác, nay bị quỷ dữ lấn hiếp, ta phải xuống âm phủ rửa hờn cho cha mới được”. Từ lúc ấy không nói năng gì cả, lúc ngồi lúc đứng, dáng vẻ như kẻ ngây ngốc, thì ra hồn đã lìa khỏi xác. Ban đầu Tịch ra khỏi cửa, không biết đi đâu, nhưng thấy trên đường có người bèn hỏi thành ấp. Lát sau vào tới thành, thì cha đã bị hạ ngục. Tới cửa ngục, xa thấy cha đang nằm dưới thềm, có vẻ rất khổ sở, ngước lên thấy con, nước mắt trào ra, kế nói "Bọn ngục lại đều ăn hối lộ, được dặn dò nên ngày đêm đánh đập tra khảo cha, đùi vế dập nát cả rồi". Tịch tức giận mắng bọn ngục tốt "Nếu cha ta có tội cũng đã có phép vua, bọn quỷ chết dịch chúng bay há lại được ngang ngược như thế à?”. Rồi trở ra tìm bút viết đơn, gặp lúc Thành hoàng ra phiên hầu buổi sáng, bèn đệ đơn kêu oan.
Họ Dương sợ, đút lót cả trong ngoài mới ra đối chất. Thành hoàng cho rằng lời tố cáo của Tịch không có bằng cứ, không thèm xét xử. Tịch uất ức mà không có chỗ giãi bày, mò mẫm tới hơn trăm dặm thì tới quận, đem việc quan lại chức dịch riêng tư túi trình với Quận thú, dây dưa nửa tháng mới được xử. Quận thú sai đánh Tịch một trận, phê đơn cho như Thành hoàng đã xét. Tịch về huyện, nếm đủ mùi gông cùm, đau đớn oan ức không sao hả giận. Thành hoàng sợ lại thưa kiện, sai nha dịch giải về nhà, nha dịch đưa tới cổng rồi đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống điện Diêm Vương, tố cáo Quận thú Huyện lệnh tham tàn. Diêm Vương lập tức cho bắt tới đối chất, hai người mật sai kẻ tâm phúc tới thương lượng, hứa biếu ngàn vàng, nhưng Tịch không chịu. Vài hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch "Ông ngang quá, quan trên đã năn nỉ mà còn cố chấp không chịu. Nay nghe đâu ai cũng đều có thư gởi gắm cho Diêm Vương, sợ việc hỏng mất". Tịch cho là lời đồn vu vơ cũng chưa tin lắm. Lát sau có người mặc áo đen gọi vào hầu, lên tới công đường thấy Diêm Vương có vẻ tức giận, không cho nói năng gì, sai đánh ngay hai mươi gậy.
Tịch lớn tiếng hỏi “Tiểu nhân có tội gì?", Diêm Vương im lặng như không nghe thấy. Tịch bị đánh kêu lớn “Bị đòn là đáng lắm! Ai bảo ta không có tiền!". Diêm Vương càng giận, sai đặt lên giường lửa. Bọn quỷ tốt lôi Tịch xuống, nhìn sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt đốt lửa ở dưới, mặt giường đỏ rục. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, đặt nằm lên giường lăn qua lật lại, vô cùng đau đớn, xương thịt cháy đen, khổ vì không chết được . Khoảng hơn một giờ, quỷ nói “Đủ rồi!” rồi đỡ dậy, bảo xuống giường mặc áo, may là còn gượng đi được, lại trở lại trước thềm. Diêm Vương hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp "Oan lớn còn chưa giải thì tấc lòng vẫn chưa thôi, nếu nói không kiện nữa thì là lừa dối đại vương mất, nhất định sẽ kiện nữa!". Lại hỏi lấy lời lẽ gì mà kiện, Tịch đáp "Những điều thân mình phải chịu đây đều là lời lẽ rồi". Diêm Vương lại nổi giận, sai dùng cưa xẻ thân ra, hai tên quỷ tốt liền kéo Tịch đi, thấy một cây gỗ dựng đứng cao hơn tám chín thước, dưới có hai tấm ván đặt ngửa, máu me bê bết từ trên tới dưới. Đang sắp chịu trói, chợt trên thềm có tiếng kêu lớn gọi họ Tịch, hai tên quỷ tốt lập tức điệu trở lại. Diêm Vương lại hỏi còn dám kiện nữa không, Tịch đáp nhất định sẽ kiện nữa, Diêm Vương sai bắt ra cưa mau.
Tới nơi bọn quỷ tốt lấy hai tấm ván kẹp Tịch lại rồi trói vào cây gỗ, lưỡi cưa vừa kéo xuống đã thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không chịu nổi nhưng cũng cố nhịn không kêu lên, bọn quỷ tốt nói "Gã trai này mạnh mẽ thật!” Lưỡi cưa ken két kéo xuống dần tới ngực, nghe một tên quỷ tốt nói “Người này chí hiếu vô tội, kéo chệch lưỡi cưa một chút, đừng làm thương tổn quả tim của y", liền cảm thấy lưỡi cưa vòng vèo kéo xương, còn đau gấp đôi. Giây lát nửa người tách ra, cởi dây buộc ván ra thì hai mảnh thân đều đổ xuống. Quỷ tốt lên thềm cao giọng trình báo, trên thềm sai chắp thân thể lại rồi giải lên gặp. Hai tên quỷ tốt lập tức xô hai mảnh thân dính lại, Tịch cảm thấy chỗ vết cưa đã liền còn đau rát như muốn xé ra, đi được nửa bước đã quỵ xuống. Một tên quỷ tốt rút sợi dây lưng bằng tơ ra đưa cho Tịch, nói “Tặng cho cái này để đền đáp lòng hiếu của ngươi”. Tịch cầm lấy buộc vào lưng chợt thấy khỏe lại, hết cả đau đớn, bèn lên thềm sụp lạy. Diêm Vương lại hỏi như trước, Tịch sợ lại phải chịu cực hình tàn độc, bèn đáp không kiện nữa, Diêm Vương lập tức sai đưa về dương gian. Lính lệ đưa ra cửa bắc, chỉ đường về rồi quay đi.
Tịch nghĩ âm ty lại còn ám muội hơn trần thế, nhưng không có đường nào để kêu với Thượng đế thì biết làm sao. Thế gian vẫn truyền thần Nhị Lang ở Quán Khẩu là họ hàng bên ngoại của Thượng đế, thông minh chính trực, tới kêu với ông ắt linh ứng phi thường. Thầm mừng vì hai tên lính lệ đã đi, bèn xoay người đi về phía nam. Đang lúc rong ruổi chợt có hai người đuổi tới, nói "Đại vương ngờ rằng ngươi không chịu về, quả đúng". Rồi bắt đưa về gặp Diêm Vương, Tịch nghĩ thắc Diêm Vương sẽ tức giận hơn, tai họa lại càng thảm khốc, nhưng Diêm Vương không hề có sắc giận, nói với Tịch rằng "Ngươi quả thành thực hiếu thảo, nhưug nỗi oan của cha ngươi ta đã rữa sạch cho rồi, nay đã đầu thai vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi phải kêu nài nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi sản nghiệp ngàn vàng, lại cho thêm tuổi thọ, ngươi thỏa nguyện chưa?". Rồi ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, cho nhìn tận mắt.

Tịch tạ ơn lui xuống, quỷ tốt cũng cùng ra, tới đường xua đi, mắng “Thằng giặc gian hoạt cứ tráo trở khiến người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết! Nếu còn giở trò sẽ bắt bỏ vào cối lớn nghiền cho nát vụn ra". Tịch trừng mắt quát “Thằng quỷ định làm gì? Tính ta chịu được dao cưa nhưng không chịu được roi vọt đâu. Cứ quay lại gặp đại vương, nếu ông cho ta tự về thì cần gì ai vất vả đưa tiễn?", rồi quay ngoắt trở lại. Hai tên quỷ tốt sợ ngọt ngào khuyên về, Tịch cố ý đi chậm rãi, cứ được vài bước lại ngồi xuống nghỉ cạnh đường, chúng nuốt giận không dám nói gì nữa. Khoảng nửa ngày thì tới một thôn, có ngôi nhà cánh cổng khép hờ, quỷ tốt kéo vào ngồi nghỉ, Tịch nhân ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ tốt nhân lúc không đề phòng, xô Tịch vào trong cửa, định thần nhìn lại thấy mình đã là đứa trẻ sơ sinh, phẫn uất kêu khóc không chịu bú, ba ngày thì chết, hồn ở nơi xa xôi vẫn chăm chăm tìm về Quán Khẩu.

Đi được vài ngàn dặm chợt gặp một chiếc xe cắm lọng lông chim đi tới, cờ quạt kiếm kích chắn ngang bèn băng qua đường để tránh, đụng vào hàng lỗ bộ nên bị đội kỵ mã dẹp đường bắt trói, giải tới trước xe. Ngẩng nhìn thấy trong xe có một thiếu niên tướng mạo khôi vĩ, hỏi Tịch là ai. Tịch đang lúc lòng đầy oán hờn không nơi phát tiết, lại nghĩ đây ắt là quan lớn, hoặc giả có thể ra oai làm phúc, bèn kể hết nỗi oan khổ. Người trong xe truyền lệnh cởi trói cho, bảo đi theo xe. Giây lát tới một nơi, có hơn mười viên quan ra đón bên đường. Người ngồi trong xe chào hỏi tất cả rồi chỉ Tịch nói với một viên “Đây là người dưới âm ty, đang muốn tới tố cáo, nên xét rõ trắng đen ngay". Tịch hỏi đám tùy tùng mới biết người ngồi trong xe là Cửu Vương Điện hạ, con thứ chín của Thượng đế, còn người đước dặn dò chính là thần Nhị Lang. Tịch nhìn Nhị Lang thấy mình cao râu rậm, không như thế gian vẫn đồn. Cửu Vương đi rồi, Tịch theo Nhị Lang tới một công thự, thấy cha và họ Dương cùng đám nha lại đều đã có mặt. Phút chốc trong xe lại có tù nhân bước ra, thì là Diêm Vương, quận thú và Thành hoàng. Lập tức lên thềm tra hỏi đối chất, thì lời Tịch khai không có chỗ nào gian dối. Ba viên quan run rẫy như chuột bò mọp dưới đất. Nhị Lang cầm bút phê bản án, giây lát sai đưa xuống cho những kẻ can án cùng xem. Lời phê như sau:

“Kẻ làm vua cõi U minh kia: tước tới bậc vương, chịu ơn Thượng đế. Lẽ ra phải giữ mình trong sạch mà thống lĩnh quần thần, chứ không nên nảy ý gian tham để chuốc lời chê trách. Nhưng lại cờ giong lọng mở, khoe mẽ chức quyền, dê độc lang tham, làm nhơ danh tiết. Búa rìu vạc đẽo, thịt da mấy kẻ được còn, kình ngạc nuốt ăn, sâu kiến muôn dân đáng xót. Phải múc nước Tây Giang, cho nước rửa ruột* đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò**.

* Múc nước Tây Giang, cho ngươi rửa ruột: Ngũ đại sử chép Vương Nhân Dụ nhà Chu mơ thấy có người tự mổ bụng lấy nước Tây Giang gột rửa. Đây ý nói trị tội cho bỏ thói xấu cũ.

** Đốt giường Đông Bích, mời bác vào vò: Tư trị thông giám chép Kim ngô đại tướng quân Khưu Thần Tích có tội bị giết. Có người tố cáo Hữu Thừa tướng Chu Hưng cũng thông mưu với Thần Tích, Thái hậu sai Lai Tuấn Thần hỏi cung. Tuấn Thần và Hưng vừa hỏi cung xong, cùng ăn cơm, Tuấn Thần hỏi “Tù nhân nhiều kẻ không nhận tội, nên làm thế nào?", Hưng nói "Lấy vò lón đặt than chung quanh đốt lên, cho tù nhân vào thì chuyện gì mà không nhận". Tuấn Thần bèn sai đốt vò như Hưng nói, rồi nói với Hưng "Có người tố cáo ông, mời ông vào vò”. Hưng khiếp sợ nhận tội. Đây ý nói dùng cách của kẻ làm quan ác để trị tội họ.

Thành hoàng, Quận thú là cha mẹ con dân, bề tôi Thượng đế. Tuy rằng chức quan không lớn, nhưng kẻ hết lòng không ngại cong lưng, có khi thượng cấp bất công, thì người có chí cũng cần cứng cổ. Thế mà trên dưới phóng tay tàn ác, mặc cho dân chúng khốn cùng, lại cứ ngang tàng thỏa ý gian tham, chẳng kể quỷ ma ốm đói. Vì của đút mà trái phép, thật dạ thú mà mặt người. Phải rửa tủy nhổ lông, theo phép âm ty chịu tội, kế lột da đổi lốt, bắt lên dương thế đầu thai.

Bọn sai nha thì đã ở âm tào, khác xa nhân thế. Lẽ ra phải cửa công rèn tính hạnh, chờ lúc hoàn sinh, sao dám làm bể khổ nổi ba đào, gây thêm tội nghiệt? Ngông nghênh giày xéo, mặt chó ra vẻ lầm lỳ, nhảy nhót thét gào, oai cọp chặn đường hống hách. Lộng quyền ra oai dữ, để U minh biết lính ngục là to, theo đóm để ăn tàn, giúp quan ác giết dân đen cho sướng. Phải đem ra pháp trường, chân tay chặt hết, bỏ vào vạc nóng, gân cốt luộc nhừ.

Họ Dương kia giàu có bất nhân, tinh ma lắm chước. ánh vàng chói đất, khiến điện Diêm La tăm tối mây mù, hơi đồng ngút trời, làm thành Uổng tử mịt mờ nhật nguyệt. Hơi tanh thừa còn sai được quỷ, sức bạc mạnh thông cả tới thần. Nên tịch thu gia sản họ Dương, để ban thướng hiếu tâm chàng Tịch".

Lập tức sai áp giải cả bọn ra núi Đông Nhạc hành quyết. Lại nói "Tịch Liêm, nghĩ tới con ngươi hiếu nghĩa, tính ngươi hiền lành, cho tăng tuổi thọ thêm ba kỷ nữa", rồi sai hai người đưa về làng. Tịch bèn sao lại bản án, dọc đường hai cha con cùng đọc. Về tới nhà Tịch tỉnh lại trước, bảo người nhà mở quan tài xem thì thấy xác cha còn cứng đờ lạnh ngắt, chờ trọn ngày mới ấm dần lên rồi sống lại, tìm tới tờ sao bản án thì không thấy đâu nữa. Từ đó ngày càng giàu có, trong khoảng ba năm ruộng tốt khắp nơi, mà con cháu họ Dương thì trở nên nghèo khổ, bao nhiêu nhà cửa ruộng vườn đều thành của họ Tịch. Trong làng có người mua ruộng nhà ấy, đêm ngủ mơ thấy thần quát "Đó là của họ Tịch, ngươi làm sao có được?". Trước chưa tin lắm, đến khi trồng trọt thì cả năm không thu hoạch được một đấu thóc, vì thế phải bán lại cho Tịch. Cha Tịch sống đến hơn chín mươi tuổi mới mất.

Dị Sử thị nói:Người ta đều nói tới sự giải thoát sau khi chết, mà không biết qua kiếp khác rồi thì ý niệm kiếp trước đều quên, vả lại đã không biết mình từ đâu tới thì làm sao biết mình sẽ về đâu, huống chi là kẻ chết rồi lại chết, sinh rồi lại sinh ư? Dốc lòng trung hiếu, gian khó không sờn, kỳ lạ thay Tịch sinh, sao mà hùng tráng như vậy!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 173 -
Tố Thu
(Tố Thu)

Du Thận tự Cẩn Am là con nhà thế gia cũ ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc). Lên kinh ứng thí, trọ ở ngoài thành, thường gặp một thiếu niên ở nhà đối diện, thấy hình dung đẹp đẽ, trong lòng rất thích. Lân la làm quen, chuyện trò thấy phong thái càng hơn người, cả mừng nắm tay đưa về chỗ mình trọ, bày tiệc thết đãi. Hỏi tới tên họ, thiếu niên tự xưng là người Kim Lăng (tỉnh Giang Tô), họ Du tên Sĩ Thầm, tự Tuân Cửu. Công tử nghe nói cùng họ với mình càng thêm quý mến, nhân kết làm anh em. Thiếu niên bèn giảm một chữ trong tên, đổi tên là Thầm. Hôm sau công tử tới thăm, thấy nhà cửa sáng sủa sạch sẽ nhưng vắng vẻ không có người hầu. Thiếu niên đưa công tử vào nhà trong, gọi em gái ra chào, thấy khoảng mười ba mười bốn tuổi, da dẻ mịn mà, bạch ngọc cũng không trắng bằng. Giây lát nàng bưng trà ra mời khách, như là trong nhà không có cả tỳ nữ. Công tử lấy làm lạ, trò chuyện vài câu rồi về, từ đó thương yêu họ như em ruột.

Tuân Cửu ngày nào cũng tới nhà công tử trọ chơi, nhưng nếu giữ lại ngủ thì lấy cớ em gái ở nhà một mình từ chối. Công tử nói “Em làm khách ngoài ngàn dặm, nhà lại không có trẻ sai vặt, hai anh em đều yếu ớt, làm sao mà sống. Tính lại chẳng bằng cứ về chỗ ta, cũng có gian phòng hẹp ở được, em thấy sao?". Tuân Cửu mừng rỡ, hẹn để sau khi công tử thi xong. Hôm công tử thi xong, Tuân Cửu tới mời, nói “Đêm Trung thu trăng sáng như gương, cô em Tố Thu có chén rượu nhạt mời, xin anh đừng làm nó buồn". Rồi kéo vào nhà trong, Tố Thu ra chào, hỏi thăm vài câu rồi trở vào nhà trong buông rèm nấu nướng. Giây lát tự bưng mâm ra, công tử đứng dậy nói "Muội tử vất vả quá, ta thật không đành lòng". Tố Thu cười quay vào, lát sau rèm vén lên, một tỳ nữ áo xanh mang bầu rượu ra, kế lại có một bà già mang cá lên. Công tử kinh ngạc hỏi “Bọn này ở đâu ra thế? Tại sao không ra hầu sớm để làm phiền tới muội tử”. Tuân Cửu mỉm cười nói “Tố Thu lại giở trò ma rồi", chỉ nghe sau rèm có tiếng cười khanh khách, công tử không hiểu đầu đuôi ra sao.

Kế tan tiệc, người tỳ nữ và bà già dọn dẹp mâm chén, công tử bật ho văng nước bọt trúng áo người tỳ nữ, cô ta ngã lăn xuống đất, bát chén vỡ nát. Nhìn lại thì là một hình nhân bằng vải cắt ra, cao chừng bốn tấc. Tuân Cửu phá lên cười, Tố Thu cũng cười bước ra dọn dẹp dưới đất rồi quay vào, lát sau người tỳ nữ lại trở ra, đi lại hầu hạ như cũ. Công tử vô cùng kinh ngạc, Tuân Cửu nói "Đó chẳng qua thuật mọn mời thần Tử Cô* muội tử học được lúc nhỏ đó thôi” Công tử nhân dịp hỏi sao hai em đều đã lớn khôn mà chưa cưới vợ lấy chồng, Tuân Cửu đáp vì sau khi cha mẹ mất hai anh em lưu lạc nay đây mai đó, chưa có chỗ ở nhất định nên mới để chậm như vậy. Rồi bàn bạc định ngày lên đường, kế bán nhà dắt em gái theo về quê công tử. Về tới nhà, công tử dành chỗ cho hai người ở, sai một tỳ nữ qua hầu hạ. Vợ công tử là con gái quan Thị lang họ Hàn, rất yêu thương Tố Thu, ăn uống gì cũng có nhau, công tử với Tuân Cửu cũng thế.

*Tử Cô: nữ thần trong tín ngưỡng dân gian Trung Hoa, tục truyền có thể nhập vào các hình nhân bằng vải hay bằng giấy.

Tuân Cửu rất thông minh, đọc sách chỉ đưa mắt qua là được mười hàng, làm văn thì ngay cả các bậc lão thành cũng không bằng được. Công tử khuyên dự thi khoa Đồng tử*, Tuân Cửu nói "Nếu theo đuổi nghiệp khoa cử thì cũng khổ như anh thôi. Tự xét mình phúc mỏng không kham nổi việc công danh, vả lại theo nghiệp ấy thì phải lo lắng về sự được mất nên không muốn”. Ba năm sau công tử lại thi rớt, Tuân Cửu tức giận hăng hái nói "Thi đỗ thì có gì mà khó đến như vậy? Em lúc đầu không muốn mê đắm trong chuyện thành bại nên cam phận ở yên thôi. Nay thấy đại ca thi không đỗ, bất giác nổi nóng, Đồng tử già mười chín tuổi cũng phải thi mới được". Công tử mừng rỡ, đến kỳ thi đưa Tuân Cửu vào trường, ba kỳ thi ở huyện, ở phủ, ở tỉnh đều đỗ đầu, lại càng ra sức cùng công tử đóng cửa đọc sách. Qua năm sau khảo thí, cả hai đều đứng đầu phủ huyện. Tuân Cửu rất có tiếng tăm, xa gần tranh nhau gả con gái cho nhưng đều chối từ.

* Khoa Đồng tử một loại khoa thi sát hạch những người có học trước khi đi thi hương, dành cho người từ 15 tuổi trở xuống, tương tự kỳ thi "thông kinh" ở Việt Nam ngày trước.

Công tử ra sức khuyên nên lấy vợ, bèn hứa là thi hương xong sẽ ưng. Thi xong, những ngướỉ hâm mộ tranh nhau chép văn bài của Tuân Cửu truyền tay đọc, Tuân Cửu cũng tự cho rằng mình không thể đỗ tới thứ hai. Đến khi ra bảng, thì cả hai anh em đều rớt. Lúc bấy giờ đang uống rượu, công tử nghe tin còn gắng gượng cười nói, nhưng Tuân Cửu thì tái mặt đánh rơi luôn chén rượu ngã gục ngay xuống bàn. Đỡ lên giường thì bệnh đã thành nguy kịch rồi. Vội gọi em gái tới, mở to mắt nhìn công tử nói “Hai người chúng ta tình như anh em nhưng thật ra không phải đồng tộc. Nay em tự biết mình có tên trong sổ ma rồi, Tố Thu đã trưởng thành, mong anh thương yêu đùm bọc cho, cưới làm thiếp cũng được". Công tử biến sắc nói "Em ta mê sảng nói bậy rồi đấy, định coi ta là hạng mặt người dạ thú sao?". Tuân Cửu khóc ròng, công tử lập tức bỏ món tiền lớn ra mua quan tài gỗ tốt cho. Tuân Cửu bảo đỡ mình đứng dậy, gắng gượng bước vào nằm trong quan tài, dặn em gái rằng "Ta chết rồi thì đóng ngay nắp lại, đừng để bất cứ ai mở ra nhìn”, công tử còn định hỏi han thì đã tắt thở.

Công tử đau xót như anh em ruột chết, nhưng thầm ngờ về lời trối lạ lùng bèn tìm cớ sai Tố Thu ra ngoài rổi mở quan tài xem. Thấy trong quan tài chỉ có quần áo như xác ve lột, khều lên nhìn thì thấy có con mọt sách dài hơn thước nằm chết cứng ở giữa. Đang lúc hoảng sợ chợt Tố Thu trở vào thê thảm nói "Đã là anh em sao còn ngờ sợ nhau? Đúng là như anh thấy, không dám giấu diếm, nhưng nếu chuyện này mà đồn rộng ra thì thiếp không dám ở đây lâu nữa đâu”. Công tử nói "Lễ là bởi tình mà đặt ra, đã có tình với nhau thì khác loài cũng thế thôi. Chẳng lẽ muội tử không biết lòng ta sao? Cho dù là vợ ta ta cũng không nói đâu, xin đừng lo lắng". Rồi vội chọn ngày lành tháng tốt chôn cất tử tế. Trước kia công tử bàn gả Tố Thu cho nhà thế gia nhưng Tuân Cửu không muốn, khi Tuân Cửu chết rồi công tử lại bàn với Tố Thu, nàng cũng không chịu. Công tử nói "Muội tử nay đã hai mươi tuổi, lớn rồi mà không lấy chồng, mọi người sẽ nói ta thế nào?". Nàng đáp “Nếu thế thì xin tùy ý anh, nhung tự xét mình không có phúc, không muốn lấy chồng giàu sang, học trò nghèo thì được". Công tử nói "Được”.

Không mấy ngày sau, người mai mối nối nhau tới nhưng không có đám nào được như Tố Thu muốn. Trước có Hàn Thuyên là em vợ công tử tới điếu tang Tuân Cửu, nhìn thấy Tố Thu trong lòng yêu thích, muốn hỏi cưới làm thiếp, bàn với chị, chị vội bảo đừng nói ra, sợ công tử biết. Hàn về không sao quên Tố Thu bèn nhờ mai mối bắn tin, hứa sẽ giúp công tử làm quen với quan Chủ khảo kỳ thi hương sắp tới. Công tử nghe nói cả giận, đánh người nhắn tin một trận rồi đuổi ra, từ đó không hề đi lại với Hàn. Gặp lúc có cháu nội quan Thượng thư cũ là Giáp, sắp cưới vợ thì vợ bỗng chết cũng sai người mai mối tới Công tử vốn biết nhà Giáp giàu sang nhưng muốn gặp gỡ một lần, nhân hẹn với người mối, bảo Giáp đích thân tới gặp.

Đến ngày hẹn công tử cho buông rèm phía sau, bảo Tố Thu tự xem mặt. Giáp tới, bọn người hầu mặc áo cừu cưỡi ngựa béo sáng rỡ cả đường làng, nhìn tới người thì thanh tú đẹp đẽ như con gái. Công tử cả mừng, mọi người cũng đều khen ngợi, chỉ có Tố Thu là không vui. Công tử không nghe, thuận cho cưới, sắm sửa nhiều nữ trang, tốn kém bao nhiêu cũng không tiếc. Tố Thu cố ngăn, chỉ xin cho dắt theo một tỳ nữ già để hầu hạ thôi nhưng công tử không chịu, vẫn tặng cho nàng rất nhiều. Đám cưới xong, vợ chồng rất hòa thuận, nhưng anh và chị dâu thường nhớ nhung nên cứ mỗi tháng nàng lại về thăm một lần. Lần nào về thì trâm vòng nữ trang mang theo cũng lấy cớ đưa chị dâu cất giùm, chị dâu không biết ý nên cũng nhận giữ. Giáp lúc nhỏ mồ côi, mẹ ở góa nuôi con nên vô cùng thương yêu chiều chuộng. Hàng ngày lại giao du gần gũi với kẻ xấu nên bị chúng dụ dỗ trai gái cờ bạc, những cổ vật gia truyền trong nhà đều lấy trộm mang bán để lấy tiền chơi bời.
Hàn Thuyên cùng Giáp có họ hàng, mời Giáp tới uống rượu để dò xét, xin đưa hai người thiếp và năm trăm lượng vàng để đổi lấy Tố Thu. Ban đầu Giáp không chịu, nhung Hàn nài nỉ mãi, Giáp xiêu lòng song cũng sợ công tử không chịu nhịn. Hàn nói "Ta với y rất gần gũi, vả lại Tố Thu không phải là em ruột của y, nếu việc đã rồi thì y cũng thẳng làm sao được. Vạn nhất có thuyện gì ta xin chịu cả, cha ta còn đó, lại sợ một Du Cẩn Am à?". Rồi sai hai người thiếp ăn mặc đẹp đẽ ra hầu rượu, lại nói "Nếu làm được như lời ước thì hai nàng là người của ông đấy". Giáp bị mê hoặc, hẹn ngày đổi vợ rồi ra về. Đến ngày hẹn, Giáp sợ Hàn lừa gạt, tối ra chờ trên đường, quả nhiên có cỗ kiệu tới, mở rèm ra nhìn thì đúng có hai người thiếp của Hàn, liền đưa về giấu trong phòng sách. Đầy tớ của Hàn giao đủ năm trăm lượng vàng xong, Giáp chạy vào nhà trong bịa rằng công tử bệnh thình lình, gọi Tố Thu về. Tố Thu chưa kịp trang điểm gì, vội vàng lên đường.

Kiệu ra khỏi nhà thì đêm đã khuya, lạc đường không biết chỗ nào, đi mãi hồi lâu vẫn không thấy tới. Chợt thấy có hai ngọn đuốc lớn đi tới mọi người mừng rỡ thầm nghĩ có thể hỏi đường. Không bao lâu tới trước mặt, té ra là con mãng xà lớn, hai mắt sáng như đèn. Mọi người phát hoảng bỏ chạy tán loạn, vút chiếc kiệu lại bên đường. Trời gần sáng mới tụ họp nhau quay lại thì chỉ còn có chiếc kiệu không, đều cho rằng Tố Thu đã bị mãng xà nuốt rồi. Quay về báo với chủ nhân, Hàn chỉ còn cách cúi đầu thở dài tíếc rẻ mà thôi. Vài hôm sau, công tử sai người qua thăm em gái, mới biết đã bị người ác cướp đi mất. Ban đầu cũng không ngờ là em rể bịa đặt, đến khi dắt người tỳ nữ trở về, hỏi rõ tình trạng mới biết là có chuyện, vô cùng tức giận lên báo cả phủ huyện. Giáp sợ qua gặp Hàn cầu cứu, nhưng Hàn vì mất cả chì lẫn chài đang buồn bã hối tiếc nên từ chối không giúp.

Giáp thẫn thờ không biết làm sao, trát đòi của phủ huyện gởi đến tới tấp, chỉ còn cách hối lộ cho bọn công sai xin khất lần. Hơn một tháng thì vàng bạc, quần áo cầm bán sạch, công tử lại lên các quan trên đòi tra xét rất gấp, quan huyện cũng tuân lệnh, Giáp biết không thể che giấu được nữa mới ra đầu thú. Lên tới công đường, Giáp khai thật mọi chuyện, xin quan trên bắt Hàn tới đối chất. Hàn sợ, thú thật với cha, lúc ấy cha Hàn vừa về trí sĩ, giận con làm việc phạm pháp, sai trói giải lên quan. Lên tới quan, Hàn nói việc gặp mãng xà, các quan đều cho là bịa đặt vu vơ, bọn gia nhân đi đón Tố Thu đều bị tra tấn. Giáp cũng bị đánh mấy trận, may là mẹ bán cả vườn ruộng lo lót hết cả trên dưới nên bị đòn nhẹ, không tới nỗi chết, còn bọn gia nhân của Hàn đều chết trong ngục. Hàn bị giam giữ lâu ngày trong ngục nên tình nguyện giúp Giáp ngàn lượng vàng hối lộ cho công tử xin bãi nại, công tử không chịu.

Mẹ Giáp lại xin đưa thêm cả hai người thiếp, chỉ xin cứ để vụ án lại để dò tìm Tố Thu. Vợ công tử cũng nghe lời thím dâu, ngày đêm nài nỉ công tử mới ưng thuận. Nhà Giáp sa sút, phải bán nhà cửa để lo tiền, nhưng lúc gấp rút chưa bán được nên đưa hai người thiếp qua trước, xin đưa tiền qua sau. Qua vài hôm, giữa khuya công tử đang ngồi trong phòng sách, chợt Tố Thu dắt một bà già thình lình bước vào. Công tử hoảng sợ hỏi "Muội tử vẫn không sao chứ?”, nàng đáp “Con mãng xà kia là em dùng thuật nhỏ biến ra. Đêm ấy em chạy vào nhà một vị Tú tài, xin mẹ y cho nương tựa. Y nói là có quen anh, hiện đang đứng ngoài cổng, xin anh cho vào". Công tử vội vàng xỏ ngước giày chạy ra, thắp đèn lên nhìn thì không không phải ai khác mà là Chu sinh, danh sĩ ở huyện Uyển Bình (tỉnh Hà Bắc), vốn chơi thân với nhau từ lâu. Bèn nắm tay kéo vào, khoản đãi nồng hậu, trò chuyện hồi lâu mới biết đầu đuôi sự tình. Lúc đầu Tố Thu hớt hãi chạy tới nhà sinh, bà mẹ cho vào nương náu, hỏi thăm biết là em gái công tử đã định qua báo tin ngay nhưng nàng ngăn lại nhân ở chung với bà.

Thấy nàng thông minh hiểu được ý mình bà thích lắm, lấy việc con trai chưa có vợ ra nói riêng với Tố Thu, ngõ ý muốn cưới nàng làm dâu. Tố Thu chối từ nói chưa được lệnh của anh, sinh vì chơi thân với công tử cũng không chịu cưới vợ không có người mai mối. Nên vẫn ngày ngày nghe ngóng, biết chuyện kiện tụng đã xong Tố Thu chào mẹ sinh về, bà sai sinh dắt một bà già đưa nàng vể, nhờ bà ta làm mối luôn. Công tử thấy Tố Thu ở nhà sinh đã lâu chắc có tình ý mà chưa nói ra, nên nghe bà già thưa chuyện rất vui mừng, lập tức đính ước với sinh. Tố Thu trở về giữa khuya là có ý muốn chờ công tử nhận vàng xong mới cho mọi người biết, nhưng công tử không chịu, nói “Trước đây ta căm tức không sao phát tiết, nên mới đòi vàng cho họ nghèo mạt luôn cho bỏ ghét, nay đã gặp lại được muội tử, vạn dật vàng cũng đâu đổi được!”. Rồi sai người báo với hai nhà Giáp và Hàn là thôi không kiện nữa, khỏi đưa vàng qua. Lại nghĩ Chu sinh vốn không giàu có gì, nhà thì xa xôi rước dâu cực khổ, bèn sai đón mẹ sinh dời tới, ở trong nhà cũ của Tuân Cửu. Sinh cũng sắm sửa đủ tiền lụa lễ vật, làm lễ thành hôn.
Một hôm chị dâu đùa hỏi Tố Thu "Nay có chồng mới còn nhớ người chung chăn gối yêu thương nhau mấy năm trước không?”. Tố Thu ngoảnh lại hỏi người tỳ nũ "Còn nhớ không?” Chị dâu không hiểu cứ hỏi mãi, thì ra ba năm làm vợ Giáp nàng đều để người tỳ nữ làm chuyện chăn gối thay mình. Cứ đến đêm nàng lại lấy bút vẽ lại lông mày cho rồi bảo đi, người tỳ nữ có ngồi đối diện trước đèn Giáp cũng tưởng là Tố Thu. Chị dâu càng lạ lùng, xin dạy cho thuật ấy nhưng nàng chỉ cười không đáp. Năm sau tới kỳ thi, Chu sinh định đi cùng với công tử, Tố Thu nói là không cần nhưng công tử cứ ép sinh cùng đi. Khoa ấy công tử đỗ Cử nhân còn sinh trượt, trở về ngầm có ý chán ngán công danh, năm sau mẹ chết, nên từ đó không nhắc tới chuyện khoa cử nữa. Một hôm Tố Thu nói với chị dâu “Trước đây chị muốn học phép thuật, nhưng em không muốn người ta nghe thấy đâm ra ngờ sợ nên mới giữ kín. Nay sắp vĩnh biệt, gần đến ngày lên đường rồi, xin ngầm truyền lại cho chị, cũng tránh được nạn binh lửa”.

Chị dâu hoảng sợ hỏi, nàng đáp "Ba năm nữa chốn này sẽ không còn làng xóm, em yếu ớt không không kham nổi sự lo sợ nên định ra ẩn nơi bờ biển. Đại ca là người trong trường phú quý không thể đi cùng em được, nên xin từ biệt, rồi dạy phép thuật cho chị dâu. Vài hôm sau tới chào công tử, công tử giữ lại không được, chảy nước mắt hỏi đi đâu nhưng nàng không nói. Sáng ra vợ chồng dậy sớm, dắt một người hầu tóc bạc, đem hai cỗ kiệu lên đường. Công tử sai người ngầm theo sau hộ tống, đi tới địa giới huyện Giao phủ Lai Châu (tỉnh Sơn Đông) chợt có làn hơi mù bốc lên che khuất cả ánh sảng mặt trời, mù tan rồi thì không thấy ba người nữa, không rõ đi về đâu.

Ba năm sau, giặc Sấm* nổi loạn, làng xóm thành đất hoang, Hàn phu nhân cắt vải làm hình nhân đặt trong cửa. Bọn giặc kéo tới thấy có thần Vi Đà đửng giữa đám mây cuồn cuộn, thân cao hơn trượng, khiếp sợ bỏ chạy, gia đình công tử nhờ vậy được yên ổn. Về sau có người đi buôn tới vùng bờ biển, gặp một ông già rất giống người hầu tóc bạc nhưng râu tóc đều đen nhánh nên làm ngơ không dám chào. Ông già dừng chân cười nói “Công tử nhà ta vẫn mạnh khỏe chứ. Nhờ nhắn lại giùm là cô Thu vẫn được yên vui". Ngươi ấy hỏi Tố Thu ở đâu, ông già đáp “Xa lắm, xa lắm!" rồi thoăn thoắt bước đi. Công tử nghe kể lại, sai người tới đó hỏi thăm khắp cả nhưng rốt lại không có manh mối gì.

*Giặc Sấm: tức Lý Sấm (Lý Tự Thành), lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối thời Minh.

Dị Sử thị nói: Ngòi bút không có tướng được ăn thịt* xưa nay vẫn thế. Kẻ kia lúc đầu suy nghĩ rất sáng suốt, nhưng lại không giữ bền chí được, không biết rằng đám quan trường gà mờ chỉ chấm mệnh không chấm văn sao? Ra đòn một lần không trúng thì căm tức mà chết, sự ngây ngốc của con mọt sách kia thật đáng thương vậy. Con trống bay lại không bằng con mái nằm, thật đau xót thay!

*Ngòi bút... ăn thịt: nguyên văn là "Quản Thành tử vô thực nhục tướng", câu trong thơ của Hoàng Đình Kiên, đây dùng chỉ kẻ không may trong việc thi cử công danh.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 174 -
Kiều Nữ
(Kiều Nữ)

Kiều sinh ở huyện Bình Nguyên (tỉnh Sơn Đông) có người con gái đen đúa xấu xí, sút mũi thọt chân, hăm lăm hăm sáu tuổi chưa ai dạm hỏi. Ở huyện có Mục sinh hơn bốn mươi tuổi, góa vợ mà nghèo quá không cưới được ai mới hỏi cưới nàng. Sau ba năm nàng sinh một trai, không bao lâu Mục sinh chết, nhà càng nghèo túng, khốn quẫn quá thì về xin mẹ cho ăn. Mẹ không lo nổi, nàng cũng tức giận không về nữa, dệt thuê sinh sống qua ngày. Có Mạnh sinh vợ chết để lại con trai là Ô Đầu mới đầy năm, không có người chăm sóc con nên nóng lòng muốn cưới vợ khác, nhưng người mối chỉ cho mấy đám vẫn chưa vừa ý. Chợt gặp Kiều thị mừng lắm, nhờ người đánh tiếng. Nàng từ chối, nói "Đói rét thế này, nếu theo quan nhân sẽ được ấm no, lẽ nào không muốn. Nhưng tật nguyền xấu xí không được như người ta, chỉ còn tự tin ở chỗ có đức thôi, nếu thờ hai chồng thì quan nhân còn yêu thương chỗ nào?". Mạnh càng cho là hiền, lại thêm mến mộ, nhờ người mối đem tiền bạc vải lụa tới nói với bà mẹ. Bà mừng rỡ tới nhà con gái cố khuyên nhủ, nhưng nàng thề không lấy chồng khác.

Bà hổ thẹn, xin gả con gái út cho Mạnh, người nhà đều mừng nhưng Mạnh không chịu. Không bao lâu Mạnh bất ngờ bị bệnh chết, Kiều thị tới viếng tang, khóc lóc hết sức thảm thiết. Mạnh vốn không có thân thích nên chết rồi thì bọn vô lại trong thôn đều làm càn, lấy hết cả vật dụng trong nhà, lại toan chia nhau chiếm đoạt ruộng vườn nhà cửa, tôi tớ cũng đều trộm cắp lặt vặt bỏ trốn, chỉ còn một bà vu bế đứa nhỏ khóc lóc trong phòng. Kiều thị hỏi biết chuyện rất bất bình, nghe Lâm sinh chơi thân với Mạnh bèn tới nhà nói "Vợ chồng bè bạn là giềng mối lớn của con người, thiếp vì quá xấu xí nên bị coi rẻ, chỉ có Mạnh sinh biết, trước đây tuy cố từ thối nhưng trong lòng đã ưng thuận. Nay người đã chết mà con còn nhỏ, tự nghĩ mình phải đền đáp ơn tri kỷ. Nhưng nuôi đứa con côi còn dễ chứ chống bọn cướp ngày mới khó, nếu thấy không có cha mẹ anh em mà ngồi nhìn con chết nhà tan không giúp thì trong ngũ luân không còn có bạn bè nữa. Thiếp không mong ông làm gì nhiều, chỉ cần làm một lá đơn thưa lên quan, còn việc chăm sóc đứa con côi thì thiếp không dám từ chối".

Lâm nói "Vâng", nàng chào vể. Lâm định làm theo lời nàng, bọn vô lại căm tức toan giết. Lâm sợ quá, đóng cửa không dám ra khỏi nhà. Kiều thị đợi mấy ngày không thấy tin tức gì, khi tới hỏi thì gia sản của họ Mạnh đã bị cướp sạch. Nàng giận quá xăm xăm lên thưa với quan, quan hỏi nàng là người thế nào với Mạnh, nàng đáp "Ông là quan coi một huyện, cứ dựa vào lý thôi, nếu nói sai thì kẻ thân thích cũng không thể chối tội, nếu nói đúng thì dù là người qua đường cũng phải nghe". Quan giận lời lẽ ngang tàng, thét đuổi ra, nàng căm giận không có nơi giãi bày, khóc lóc tố cáo với một vị thân sĩ. Tiên sinh Mỗ nghe chuyện cho là có nghĩa khí, nói giúp với quan huyện, quan tra xét quả đúng, liền trị tội bọn vô lại, trả hết tài sản lại cho nhà họ Mạnh. Có người bàn khuyên Kiều thị ở lại nhà Mạnh chăm sóc đứa con mồ côi nhưng nàng không chịu, khóa cửa nhà Mạnh, bảo bà vú bế Ô Đầu về nhà mình, cho ở riêng một gian. Những khoản chi dùng cho Ô Đầu thì đều cùng bà vú tới nhà Mạnh mở cửa lấy thóc bán, còn mình không hề đụng tới chút gì vẫn nghèo khổ nuôi con như trước.

Vài năm sau Ô Đầu lớn lên, nàng mời thầy về dạy học, còn con mình thì bắt tập làm lụng. Bà vú khuyên cho hai đứa cùng học, nàng nói "Ô Đầu học hành tốn kém là tiền của nó, còn nếu ta làm hao tốn tiền bạc của người cho con mình học thì làm sao tỏ rõ được lòng này?". Lại mấy năm nữa, nàng dành dụm cho Ô Đầu được mấy trăm thùng thóc, liền hỏi cưới con gái nhà thế tộc cho, sửa sang nhà Mạnh bảo về mà ở. Ô Đầu khóc xin nàng về ở cùng, nàng cũng nghe theo nhưng vẫn dệt thuê kiếm sống như trước. Vợ chồng Ô Đầu giằng lấy khung cửi con thoi mang cả đi, nàng nói "Mẹ con ta chỉ ngồi ăn không thì làm sao yên lòng được?”. Rồi sớm tối coi sóc việc trong nhà, sai con trai ra canh ruộng nhà Ô Đầu như kẻ làm thuê vậy. Nhưng vợ chồng Ô Đầu có chút lỗi lầm là nàng trách mắng không hề bỏ qua, mà nếu hơi có vẻ bỏ ngoài tai thì nàng buồn rầu muốn đi, vợ chồng quỳ xuống ăn năn mới chịu ở lại.

Không bao lâu Ô Đầu vào học ở trường quận, nàng từ biệt đòi về, Ô Đầu không cho, lại góp tiền cưới vợ cho con Mục. Nàng bảo con về nhà riêng ở, Ô Đầu giữ lại không được bèn sai người ngầm mua một trăm mẫu đất ở thôn bên cạnh, sau đó tặng cho. Sau Kiều thị bị bệnh đòi về, Ô Đầu không chịu, lúc bệnh nặng dặn "Thế nào cũng phải đưa ta về chôn ở nhà". Ô Đầu vâng dạ nhưng khi nàng chết lại đem vàng nói với con Mục xin cho hợp táng với Mạnh sinh. Lúc chôn cất, quan tài chợt nặng chình chịch, ba mươi người không nhấc lên nổi, còn con Mục chợt ngã lăn ra đất, bảy khiếu đổ máu, tự nói "Thằng con mất nết kia, tại sao lại bán mẹ ngươi như thế hả!". Ô Đầu sợ, vào lạy lục khấn khứa con Mục mới khỏi. Rồi hoãn việc chôn cất lại vài hôm, sửa sang phần mộ Mục sinh hợp táng nàng vào đó.

Dị Sử thị nói:Cảm nghĩa kẻ tri kỷ mà hiến cả thân mình, đó là việc làm của bậc nam tử nghĩa liệt. Nhưng người đàn bà kia có hiểu biết gì đâu mà việc làm cao cả lạ lùng như thế, nếu Cửu Phương Cao gặp được ắt sẽ nói là ngựa đực*.

* Nếu Cửu Phương Cao... ngựa đực: Liệt tử chép Tần Mục công nói với Bá Nhạc “Ngươi giỏi xem tướng ngựa nhưng đã già rồi, trong họ hàng có ai thay ngươi được không", Nhạc nói có Cửu Phương Cao. Mục công sai Cao đi tìm ngựa hay, Cao đi ba tháng trở về nói đã tìm được, ở Sa Khâu, là ngựa cái màu vàng, đến khi sai nguời dắt về thì là ngựa đực màu đen. Mục công trách Bá Nhạc tiến cử một kẻ không phân biệt được cả ngựa cái với ngựa đực, Bá Nhạc nói "Cao xem tướng ngựa là xem chỗ thiên phú, coi trọng cái tinh mà bỏ qua cái thô, cốt ở thần chứ không ở hình”, sau quả đó là con ngựa hay. Đây ý nói nếu xét về tinh thần thì Kiều thị cũng hào hùng như kẻ trượng phu.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 175 -
Mã Giới Phủ
(Mã Giới Phủ)

Dương Vạn Thạch là Chư sinh ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), bình sinh có tật sợ vợ. Vợ là Doãn thị, tính hung dữ lạ thường, cứ có chuyện gì trái ý là đánh đập nguời ăn kẻ ở trong nhà. Cha Dương hơn sáu mươi tuổi lại góa vợ, Doãn thị coi như đầy tớ. Dương và em là Vạn Chung thường lén mang thức ăn cho cha không dám để Doãn thị biết, song quần áo cha rách nát, sợ bị chê cười nên không cho ông gặp mặt khách khứa. Vạn Thạch bốn mươi tuổi vẫn không có con trai, cưới thiếp là Vương thị nhưng cả ngày không dám trò chuyện với nàng một câu. Hai anh em lên quận thi gặp một thiếu niên tướng mạo thanh tú, trang phục phong nhã, cùng trò chuyện thích lắm, hỏi tới họ tên thì tự xưng là Giới Phủ, họ Mã. Từ đó giao du với nhau ngày càng thân thiết, kết nghĩa làm anh em. Đến khi chia tay, hẹn nửa năm sau sẽ gặp lại, nhưng Mã chợt dắt tiểu đồng tới nhà Vương. Gặp Dương ông đang cởi áo bắt rận ngoài cổng, Mã tưởng là đầy tớ bèn xưng tên họ nhờ vào thưa với chủ nhân. Dương ông khoác áo rách đi vào, có nguời nói cho Mã biết đó là cha Dương. Mã đang giật mình ngạc nhiên thì anh em Dương để đầu trần ra đón, vào tới sảnh đường vái chào nhau xong, Mã xin ra mắt cha. Vạn Thạch từ chối nói cha vừa ngẫu nhiên bị bệnh, giục ngồi xuống cùng trò chuyện vui vẻ, chiều tối lúc nào cũng không hay.

Vạn Thạch mấy lần ra bảo dọn cơm nhưng mãi chẳng thấy mang lên, hai anh em thay nhau ra vào gọi mãi mới có một người đầy tớ gầy ốm mang bầu rượu vào. Trong chốc lát ba người uống hết rượu, ngồi chờ một lúc lâu, Vạn Thạch đứng lên gọi mấy lần, toát cả mồ hôi trán, người đầy tớ mới bưng mâm lên, thức ăn còn chưa chín mà cũng chẳng có món nào ngon lành. Ăn xong, Vạn Thạch vội vã trở vào, Vạn Chung mang chăn ra ngủ chung với khách. Mã trách nói "Trước đây ngờ hai ông là bậc cao nghĩa mới kết làm anh em, nay thấy cha già không được ăn no mặc ấm, người ngoài cũng phải xấu hổ". Vạn Chung sa nước mắt đáp "Chuyện đau lòng này rất khó nói ra. Nhà ta không may gặp phải người chị dâu hung dữ, cha anh đều nhu nhược, có khi cũng bị đánh đập mắng nhiếc. Nếu không phải là anh em kết nghĩa, thật ta không dám nói ra chuyện xấu xa này đâu”. Mã than thở hồi lâu rồi nói "Lúc đầu ta tính ở chơi vài hôm rồi đi, nay nghe chuyện lạ lùng này thật không thể không mắt thấy tai nghe cho rõ. Vậy ông xếp một gian phòng trống cho ở, cơm nước ta sẽ tự lo". Vạn Chung nghe lời, lập tức nhường phòng mình cho Mã ở. Khuya tới lén đem cơm sang mời khách mà còn sợ Doãn thị biết. Mã biết ý, hết sức từ chối không ăn, lại xin mời Dương ông tới cùng ăn ở với mình. Hôm sau ra chợ mua vải may áo quần cho Dương ông, cha con anh em đều cảm kích rơi nước mắt.
Vạn Chung có đứa con tên Hỷ Nhi mới bảy tuổi, đến ngủ với ông nội. Mã vỗ về nó, nói “Đứa nhỏ này phúc thọ nhiều hơn cha, nhưng phải mồ côi khổ cực sớm đây". Doãn thị nghe Dương ông được ăn no mặc ấm cả giận chửi mắng, nói Mã vô cớ dây vào chuyện nhà người khác. Ban đầu còn rủa lằm bằm trong phòng, sau dần dần tới gần phòng Mã mắng lớn tiếng cho Mã nghe. Anh em họ Dương sợ toát mồ hôi không biết làm sao ngăn cản, song Mã vẫn làm như không nghe thấy gì. Người thiếp Vương thị có thai được năm tháng Doãn thị mới biết, lột áo quần đánh đập tàn nhẫn rồi bắt Vạn Thạch quỳ xuống đội khăn buộc yếm đàn bà vào người, lấy roi đánh đuổi đi. Lúc ấy Mã đang có mặt ngoài cổng, Vạn Thạch xấu hổ không chịu ra, sau bị đánh đau quá phải chạy ra, Doãn thị cũng đuổi theo, xoa tay giẫm chân chửi rủa, người ta xúm lại xem đông nghịt. Mã chỉ vào Doãn thị quát "Đi ngay", thị lập tức quay người chạy mau trở lại như bị ma đuổi, bỏ cả giày tất, tụt cả vải bó chân trên đường, chạy chân trần vào nhà, mặt không còn chút máu. Lát sau lại hồn, tỳ nữ đưa giày tất tới, mang vào xong chợt khóc nức nở, gia nhân không ai dám hỏi.
Mã giục Vạn Thạch cởi khăn yếm ra, Vạn Thạch co người nín thở như sợ khăn yếm rơi xuống, Mã phải ép cởi ra cho mà vẫn lo lắng không yên, sợ mắc tội tự cởi. Nghe ngóng chờ vợ nín khóc mới dám vào nhà, rón rén tới trước mặt, vợ lại không nói câu nào, đứng lên đi vào phòng ngủ. Vạn Thạch lúc ấy mới đỡ lo lắng, cùng em thầm lấy làm lạ lùng. Gia nhân cũng đều cho là chuyện kỳ quái, họp nhau xì xào bàn tán, Doãn thị nghe loáng thoáng càng xấu hổ tức tối, lại vác roi đánh đầy tớ suốt lượt. Gọi tới người thiếp, người thiếp bị thương nặng không dậy nổi, Doãn thị cho là giả vờ, tới tận giường đánh đập mắng nhiếc, người thiếp băng huyết trụy thai. Vạn Thạch nhân lúc không người khóc lóc kể với Mã, Mã an ủi khuyên nhủ rồi bảo tiểu dồng bày rượu thịt cùng uống tới khuya, không cho Vạn Thạch về phòng. Doãn thị trong phòng, giận chồng không về, đang lúc căm tức chợt nghe có tiếng lay khung cửa, vội gọi tỳ nữ thì cửa phòng đã bật tung, một người to lớn bước vào, bóng che trùm cả phòng, mặt mũi hung ác như quỷ. Kế lại có vài người theo vào, ai cũng cầm dao sắc. Doãn thị hoảng sợ suýt ngất, định la lên thì người to lớn kề dao vào cổ nói “La lên thì ta giết ngay”. Doãn thị vội vàng đưa tiền lụa ra xin chuộc mạng, người to lớn nói "Ta là sứ giả của âm ty, không cần lấy tiền, chỉ muốn lấy quả tim của mụ đàn bà hung dữ thôi", Doãn thị càng sợ. Người to lớn bèn lấy dao sắc rạch ngực Doãn thị, vừa kể vừa hỏi "Như chuyện này có đáng giết không?", mỗi việc lại rạch một nhát. Tất cả những việc hung ác đều kể ra mà rạch, không dưới vài mươi nhát, sau cùng lại nói “Người thiếp có con trai cũng là nối dõi cho ngươi, sao lại nhẫn tâm đánh cho tới trụy thai? Chuyện này thì không tha được". Rồi gọi mấy người kia tiếp tay để mổ bụng xem gan ruột của mụ đàn bà ác độc, Doãn thị dập đầu xin tha mạng, chỉ nói là đã biết tội rồi. Chợt nghe cửa giữa mớ toang, có tiếng nói “Dương Vạn Thạch tới rồi, nếu đã biết tội thì tạm tha cho một lần", rồi ào ào tan đi.

Giây lát Vạn Thạch vào, thấy vợ bị cởi trần trói thúc ké, trước ngực bị dao rạch ngang dọc nát bét, vội cởi trói hỏi. Biết nguyên do cả sợ, ngờ là do Mã. Hôm sau kể lại với Mã, Mã cũng sợ. Từ đó Doãn thị hơi bớt hung dữ, suốt mấy tháng không dám chửi mắng một câu. Vạn Thạch cả mừng nói với Mã, Mã nói "Nói thật với ông nhưng xin đừng để lộ ra, chuyện hôm trước là ta dùng thuật mọn để dọa đấy, nay gia đình đã yên ấm, xin tạm chia tay”, rồi chào đi. Doãn thị cứ đến chiều tối là giữ Vạn Thạch làm bạn, cười nói rất vui vẻ. Vạn Thạch bình sinh không đưọc hưởng thú vui như vậy nên lại lấy làm ngượng nghịu không biết ngồi đứng thế nào. Một đêm Doãn thị nhớ lại diện mạo người to lón, lấy làm run sợ, Vạn Thạch muốn lấy lòng vợ bèn hơi lộ ra đó là giả. Người đàn bà lập tức vùng dậy căn vặn đầu đuôi, Vạn Thạch biết đã lỡ lời nhưng hối không kịp đành phải kể thật hết. Doãn thị đùng đùng nổi giận chửi lón, Vạn Thạch sợ quá quỳ rạp dười giường, người đàn bà không ngó ngàng gì tới. Vạn Thạch lạy lục năn nỉ đến canh ba, Doãn thị nói "Muốn tha thì phải rạch dao vào ngực đủ số, hận này mới tiêu tan được". Rồi vùng dậy vào bếp xách dao lên, Vạn Thạch cả sợ bỏ chạy, người đàn bà đuổi theo, chó sủa gà kêu náo động, tôi tớ đều thức dậy đổ ra. Vạn Chung không biết chuyện gì vội lấy thân mình che cho anh. Người đàn bà đang chửi mắng chợt thấy Dương ông tới, nhìn tới quần áo càng sôi giận lập tức sấn tới xé nát quần áo mới của ông, tát vào mặt rồi nắm râu giật. Vạn Chung thấy thế nổi giận, vớ đá ném trúng trán Doãn thị, Doãn thị ngã lăn ra chết ngất. Vạn Chung nói "Ta chết mà cha và anh ta được sống, thì có tiếc gì!", rồi nhảy xuống giếng tự tử, vớt lên thì đã chết. Lát sau ngữời đàn bà tỉnh lại, nghe nói Vạn Chung đã chết cũng hả giận. Chôn cất xong, người em dâu thương con thề không lấy chồng khác, Doãn thị chửi mắng không cho ăn uống, gọi người gả đi. Còn lại đứa con mồ côi sớm tối bị đánh đập, phải theo tôi tớ xin cơm thừa canh cặn mà ăn, qua vài năm gầy guộc võ vàng, hơi thở thoi thóp.

Một hôm Mã chợt tới, Vạn Thạch dặn gia nhân không được nói cho Doãn thị biết. Mã thấy Dương ông rách rưới như cũ, vô cùng kinh ngạc, lại nghe nói Vạn Chung đã chết, giẫm chân than thở. Đứa con Vạn Chung nghe Mã tới ra chào, đầu tiên gọi là chú Mã, Mã không biết là ai, nhìn kỹ mới nhận ra, hoảng sợ nói "Sao cháu lại tiều tụy đến thế này?", Dương ông bèn úp mở kể lại mọi chuyện. Mã căm tức nói với Vạn Thạch “Trước đây ta vẫn nói ngươi không phải con người, quả không sai. Nhân duyên hai người chỉ có bấy nhiêu, giết đi thì đã làm sao?”. Vạn Thạch không đáp, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc lóc. Vừa ngồi trò chuyện được một lúc thì Doãn thị biết Mã tới, không dám ra đuổi khách, chỉ gọi Vạn Thạch vào, tát tai bắt phải tuyệt giao với Mã. Vạn Thạch rưng rưng nước mắt trở ra, trên mặt còn vết tát rõ ràng, Mã nổi giận nói "Ngươi đã không thể ra oai, cũng không thể dứt tình đuổi đi à? Người ta đánh cha giết em mà còn nhịn nhục, sao đáng gọi là người?”. Vạn Thạch co người lại như chạnh lòng, Mã lại nói khích "Nếu như không đuổi đi thì cũng phải dằn mặt, nếu có chết cũng không sợ. Ta có vài người bạn thân đều làm quan lớn, nhất định sẽ ra sức giúp đỡ, chắc chắn không việc gì đâu”. Vạn Thạch nghe theo hùng hổ rảo bước vào trong, nhưng vợ vừa quát định làm gì thì cả kinh thất sắc, quỳ rạp chống tay xuống đất nói "Mã sinh bảo ta bỏ". Người đàn bà càng căm tức, ngoái nhìn quanh tìm dao gậy, Vạn Thạch hoảng sợ lại chạy ra. Mã thóa mạ, nói "Ngươi thật là hết dạy đưọc rồi", rồi mở tráp lấy thuốc ra hòa vào nước đưa Vạn Thạch uống, nói "Đây là Trượng phu tái tạo tán, không thể khinh suất mà dùng, vì có thể làm người ta bị bệnh, nhưng nay bất đắc dĩ phải cho ông dùng thử”. Vạn Thạch uống xong, giây lát thấy khí tức đầy bụng như lửa cháy bùng bừng không thể nhịn được thêm một phút, xăm xăm đi vào phòng vợ, quát tháo như sấm. Doãn thị chưa kịp hỏi, Vạn Thạch đã đá cho ngã lăn ra rồi đấm túi bụi. Người đàn bà thân thể không còn chỗ nào lành lặn nhưng đầu tiên còn chửi bới. Vạn Thạch rút dao trong lưng ra, người đàn bà hỏi "Người rút dao có dám giết ta không?", Vạn Thạch không đáp, cắt một miếng thịt trên đùi vợ ném xuống đất, vừa định cắt thêm miếng nữa, người đàn bà kêu khóc xin tha. Vạn Thạch không nghe, lại cắt nữa. Tôi tớ thấy Vạn Thạch hung dữ quá vội xúm vào liều mạng giật dao kéo ra ngoài. Mã đứng lên đón, cầm tay khen ngọi, Vạn Thạch còn chưa hết giận, mấy lần lại định xông vào nhà trong, Mã phải ngăn lại, giây lát dược lực tan dần mới ngồi rũ ra như sắp chết.

Mã dặn "ông đừng lo, làm chồng chỉ cần ra oai một lần như thế thôi. Phu nhân khiếp sợ rồi, không phải là sớm tối lại dám xử sự như trước đâu, cũng như trước thì chết mà nay được sống, từ nay về sau thế nào cũng bỏ cũ đổi mới, nếu ông lại sợ sệt một lần nữa thôi thì không làm thế nào được đâu”. Rồi bảo Vạn Thạch vào nhà trong xem, vợ run sợ nhịn đau bảo tỳ nữ đỡ dậy định bò tới lạy, ngăn lại mới thôi. Ra nói lại với Mã, cha con cùng chúc mừng nhau, Mã chào đi, hai cha con cùng giữ lại. Mã nói "Ta có việc đi qua Đông Hải, lúc nào trở về sẽ gặp nhau”. Hơn một tháng sau Doãn thị gượng dậy được, thờ chồng rất kính cẩn, nhưng lâu ngày biết chồng không có tài gì khác dần khinh nhờn, dần cười nhạo, dần mắng chửi, thói cũ lại bộc lộ. Dương ông không chịu nổi, nhân đêm trốn tới Hà Nam, vào miếu làm đạo sĩ, Vạn Thạch cũng không dám đi tìm về. Hơn một năm Mã tới, biết chuyện ngậm ngùi trách móc, lập tức gọi đứa con Vạn Chung ra đặt lên lưng ngựa chở đi. Từ đó người làng đều không nể trọng gì Vạn Thạch, quan Học sứ về khảo xét vì thế truất bỏ chức Chư sinh của Vạn Thạch. Lại bốn năm năm sau, nhà bị cháy, tiền bạc trong nhà đều thành tro, lửa bén qua nhà láng giềng, người trong thôn lên quận kiện cáo, quan lại phạt bắt Vạn Thạch phải đền tiền. Từ đó gia sản khánh kiệt, đến nỗi không có nhà mà ở, người quanh vùng bảo nhau đừng cho Vạn Thạch ở nhờ.

Anh em Doãn thị ghét người đàn bà hung dữ, cũng từ chối không giúp đỡ. Vạn Thạch cùng khốn bán thiếp cho nhà giàu, dắt vợ xuống nam, tới địa giới Hà Nam thì hết tiền ăn đường, vợ không chịu theo, lải nhải đòi tái giá, gặp lúc có người đồ tể vừa chết vợ bỏ ra ba trăm đồng mua về. Vạn Thạch còn một mình, ăn xin quanh quẩn vùng ấy, tới cổng một nhà giàu bị người gác quát tháo đuổi đi không cho đứng trước cổng. Giây lát có một vị quan nhân bước ra, Vạn Thạch quỳ rạp xuống đất khóc lóc năn nỉ, vị quan nhân nhìn kỹ hồi lâu rồi hỏi qua tên họ, kinh ngạc nói "Là bác đây mà, tại sao lại nghèo tới mức này?". Vạn Thạch nhìn kỹ lại thì ra là Hỷ Nhi, bất giác khóc rống lên rồi theo vào nhà, thấy trong sảnh đường vàng ngọc lóa mắt. Giây lát tiểu đồng đỡ Dương ông ra, gặp nhau mừng mừng tủi tủi, Vạn Thạch mới thuật lại hết nhũng việc đã qua. Đầu tiên Mã dắt Hỷ Nhi tới đó, vài hôm ra tìm Dương ông về cho ông cháu ở chung, lại rước thầy dạy Hỷ Nhi học, đến năm mười lăm tuổi được vào trường huyện, năm sau thi đỗ Cử nhân, vừa lấy vợ xong thì Mã từ biệt muốn đi ông cháu cùng khóc lóc giữ lại, Mã nói "Ta không phải là người mà là hồ tiên thôi, các bạn đồng đạo chờ đã lâu rồi", rồi đi.

Hỷ Nhi nói tới đó bất giác rơi lệ, nhân nghĩ tới người thiếp của Vạn Thạch trước đây cũng bị hành hạ như mình, càng thêm thương xót, bèn lấy xe kiệu mang tiền đi chuộc Vương thị về cho Vạn Thạch, hơn một năm sinh được một con trai, vì thế coi là vợ đích. Doãn thị theo người đồ tể nửa năm, lại hung hăng dữ tợn như trước, chồng tức giận lấy dao mổ heo đâm xuyên qua vế, xỏ dây vào treo lên xà nhà, thịt cứ toác ra. Doãn thị kêu gào đứt hơi láng giềng mới hay, qua đỡ xuống rút dây ra, rút tới đâu đau đớn la thét tới đó, bốn bên láng giềng đều nghe. Từ đó cứ thấy mặt người đồ tể là run lẩy bẩy, về sau vết thương lành lại nhưng chỗ ấy bị mất thịt, đi đứng rất khó khăn, chỉ biết sớm tối hầu hạ, không dám hó hé. Người đồ tể lại càng hung dữ, cứ uống rượu say về là đánh đập chửi mắng, lúc ấy Doãn thị mới biết nỗi khổ của nhũng người bị mình hành hạ trước kia. Một hôm, Dương phu nhân cùng bà bác lên dâng hương ở chùa Phổ Đà, nhũng phụ nữ nhà thường dân ở quanh đó đều tới làm lễ ra mắt chào hỏi, Doãn thị cũng có trong đám nhưng cứ núp phía sau không dám bước lên. Vương thị cố ý hỏi người ấy là ai, gia nhân bước lên thưa là vợ đồ tể họ Trương, nhân quát gọi bước lên bảo lạy Thái phu nhân.

Vương thị cười nói "Người đàn bà này làm vợ đồ tể thì lẽ ra không thiếu thịt ăn, sao lại bị xẻo một miếng thế?”. Doãn thị vừa thẹn vừa tức, về nhà định treo cổ tự tử nhưng dây đứt không chết, người đồ tể vì vậy càng ghét. Hơn một năm người đồ tể chết, Doãn thị đi trên đường gặp Vạn Thạch, từ xa nhìn thấy đã quỳ xuống, nước mắt ròng ròng, Vạn Thạch vì có gia nhân nên không dám nói câu nào, trở về nói với cháu, muốn đón về lại nhưng cháu nhất định không chịu. Người đàn bà bị dân làng khinh ghét nên lâu không có ai lấy, phải theo bọn ăn mày kiếm sống. Vạn Thạch có lần hẹn gặp trong chùa, cháu biết được, cho là nhục nhã bèn ngầm xúi bọn ăn mày phá đám, Vạn Thạch bèn thôi. Chuyện này ta không biết kết cục ra sao, đoạn đưới đây là do ông Tất soạn.

Dị Sử thị nói:Thiên hạ có kẻ thế này người thế khác, nhưng không ngờ trong khoảng trời đất lại có chàng Dương, há chẳng phải là lạ lùng sao! Ta từng làm một bài Tục Diệu âm kinh, xin chép phụ vào đây để mua một trận cười.
Trộm nghĩ: Trời đất hóa sinh muôn vật, vẫn cậy đạo Khôn, nam nhi chí ở bốn phương, càng cần có vợ. Cùng sướng mà riêng khổ, mệt sao mười tháng nặng nề, lúc ướt lại khi khô, khổ lắm ba năm vất vả. Nghĩ muốn nối dài dòng giống, nên quân tử phải cầu duyên, toan lo thu xếp gia đình, mà cổ nhân đành cưới vợ. Ban đầu lời lẽ không hay, vợ chửi chồng còn chồng nhịn vợ, kế tới kính cung như khách, chồng trọng vợ mà vợ khinh chồng. Chỉ vì nhi nữ tình sâu, đến nỗi anh hùng râu quặp. Đầu giường Dạ Xoa chễm chệ, dẫu Kim Cương cũng phải cụp mày, trong nồi khói độc tuôn hơi, tuy La Hán khó lòng cứng cổ. Chày giặt áo mùa thu mà nắm, thì không đập áo đêm trăng, tay Ma Cô móng sắc mà quào, thì chẳng vuốt sen bến nước.
Roi cố chịu mà gậy thì chạy, quả là thay mẹ Mạnh tử ném thoi, vợ đã nói thì chồng liền nghe, kể cũng đúng vợ Chu công định lễ. Múa may dức lác, người xem bao kẻ đông dầy, xỉa xói thét gào, đầy tớ cả bầy nháo nhác. Ác làm sao! chỉ trời vạch đất, thoắt vào xõa tóc thét bên giường, xấu thật đấy! đưa mắt nghiêng đầu, kế lại thắt vòng tròng lấy cổ. Gặp những lúc ấy thì dưới đất lắm người mất mật, bên trời có kẻ bay hồn. Bắc Cung Ảo chưa chắc không chuồn, Mạnh Thi Xá* dễ gì chẳng trốn. Tướng quân oai ran sấm sét, vào tới sân là lạc phách bay hồn, đại nhân mặt lạnh băng sương, bước vào cửa cũng im hơi lặng tiếng. Chẳng lẽ son phấn không nổi nóng mà oai, sao lại mày râu lúc thái bình mà sợ.


*Bắc Cung ảo, Mạnh Thi Xá: tên hai dũng sĩ thời cổ, nổi tiếng khỏe mạnh can đảm.

Việc còn có chỗ nói được, thì ma nữ cài trâm chơi dưới nguyệt, có ngại gì cúi lạy quy y, sự dẫu mười phần oan đi, nhưng quỷ bà xõa tóc xuống trần gian, cũng hãy cứ nhang đèn cung kính. Nghe sư tử gầm gào dữ tợn, thì hai mũi hếch trời, thấy gà mái phành phạch gáy vang, thì tứ chi rạp đất. Kẻ hiếu sắc đam mê quên nhục nhã, điệu Hồi ba* thương xót bị chê cười. Giả như làm rể công hầu, nhà họ hiển vinh, thì lạy lục nàng còn có cớ, hoặc cưới con nhà giàu có, thân trai hèn kém, thôi nịnh nọt vợ cũng chẳng sao. Ấy quỷ nghèo tự biết chẳng oai phong, đành mặc cho túm đầu tóc giật vành tai, chỉ mong rủ lòng tha thứ, nhưng thần tiền vẫn khoe thừa sức mạnh, mà nếu lỡ vuốt râu hùm sờ dái ngựa, cũng khó dựa thế cậy nhờ.

*Điệu Hồi ba: tức "Hồi ba từ", tên một điệu từ khúc, đây 1ấy ý bài Hồi ba từ của Thù nhu Tang Phụng thời Đường trêu ghẹo Trung tông bạc nhược nên bị vợ là Vi Hoàng hậu lấn lướt.

Đem hẻm núi để trói lòng du tử, mượn Hồng Câu làm nhụt chí Bá Vương*. Nhưng chết cùng huyệt sống cùng chăn, đâu từng thấy ngâm thơ Bạch thủ (**), mà mây buổi sáng mưa buổi tối, lại muốn riêng chiếm cõi Vu Sơn (***). Hận bấy "Nước ao trong", để lỡ đàn vàng phách ngọc (4*) gậy vào gáy, rèm màn rơi xuống làm tắt hết đèn đuốc, Thân hoảng sợ chui vào gầm giường trốn, về sau bạn bè đùa gọi Thân là "Nước ao trong". Đây ý nói vợ dữ ngăn cấm chồng chơi bời, thương sao "Phận thiếp mỏng", luống đau đêm vắng canh dài (5*).

*Mượn Hồng Câu... Bá vương: lấy tích thời Hán Sở tranh hùng, Tây Sở Bá vương Hạng Vũ bị Hán vương Lưu Bang đánh bại phải giảng hòa, lấy Hồng Câu làm ranh giới giữa đôi bên. Đây ý nói vợ dữ khiến chồng phải “giữ phận".

**Thơ Bạch thủ: tức bài Bạch đầu ngâm của Trác Văn Quân tỏ ý trách chồng là Tư Mã Tương Như không chung thủy. Đây ý nói người vợ dữ không nghĩ gì tới việc vợ chồng còn phải chung sống với nhau lâu dài.

***Mây buổi sáng... Vu Sơn: lời tựa bài Cao Đường phú của Tống Ngọc viết vua nước Sở ra chơi đầm Vân Mộng, nằm mơ thấy một cô gái tới xin hầu chăn gối, khi chia tay nói “Thiếp là thần nữ ở Vu Sơn, sáng làm mây tối làm mưa, sáng sáng chiều chiều ở dưới Dương Đài”, người sau nhân đó dùng chữ “mây mưa" để chỉ việc ái ân trai gái. Đây ý nói vợ dữ muốn giữ chồng không cho ăn nằm với tỳ thiếp.

4* Hận bấy... phách ngọc: 1ấy tích Hàn Thân thích rượu chè cờ bạc bỏ nhà đi chơi cả năm trời, một hôm cùng đám bạn cờ bạc vào thanh lâu uống rượu ca hát, vợ dắt con gái và đầy tớ tới cầm gậy rình trong góc tối. Thân đang cao giọng hát bài "Trì thủy thanh” (Nước ao trong) thì bất ngờ bị đánh một

5* Thương sao... canh dài: Ý nói vợ lớn ghen tuông làm đám tỳ thiếp phải chịu phòng không gối chiếc.

Ve sầu thoát xác, cò lẻ vượt ghềnh, mừng nỗi ly long đang ngủ*, đầy tớ dong xe, phất trần đánh ngựa, hờn vì ngựa yếu không phi**. Thấy người ngủ với chồng, tới đánh mới hay anh ruột***, buộc chân chồng vào cửa, kéo ra đã hóa dê xồm (4*). Thương mà tử tế chỉ một lúc, ác mà hành hạ thật không bờ. Gây tội nghiệt mua vui ở lầu xanh, Thái Giáp ắt rằng khó tránh, chịu oan uổng cụp tai theo ý vợ, Lý Dương cũng nói không nên (5*) chỉ ta mà cả Lý Dưong cũng nói là nàng không nên làm thế", Quách sợ hãi mới bớt vơ vét. Đây ý nói vợ dữ làm chồng phải lo sợ thay cho... Gió ghen nóng rát, ý xuân trên lầu gác vụt tàn, bể giấm mênh mông, ánh trăng dưới cầu Lam đã lấp. Lại có khi dịp tốt gặp nhau, bạn thân đầy tiệc, mà đấu rượu giấu chẳng đưa ra thết, lá thư đuổi khách viết trong phòng, nên bạn cũ tránh không tìm tới chơi, bài luận Tuyệt giao truyền khắp chốn.

*Ve sầu... đang ngủ: Ve sầu... vượt ghềnh nguyên văn 1à "Thiền xác vụ than" tức "Kim thiền thoát xác” và “Vụ lộ đạp than", đây chỉ việc trốn đi. Ly long đang ngủ lấy điển trong Trang tử, Nam hoa kinh, Liệt Ngự Khấu chép có người làm nghề câu cá, đứa con lặn xuống vực mò được viên ngọc giá đáng ngàn vàng, ý nói "Đây là viên ngọc dưới hàm con ly long, ngươi lấy được là nhờ gặp lúc nó đang ngủ đấy thôi”. Cả câu ý nói sở dĩ chồng trốn qua được với tỳ thiếp là nhờ vợ cả đang ngủ.

** Đầy tớ... không phi: Đố ký chép Vương Đạo có vợ là Tào phu nhân tính hay ghen, Đạo sợ nên bí mật cho xây một căn nhà riêng, đem hết các tỳ thiếp về đó ở. Tào phu nhân biết được, sai đầy tớ sắp sẵn xe ngựa, chờ Đạo vừa ra đi thì lên xe đuổi theo, đích thân cầm cái phất trần đánh ngựa giúp người dong xe, vượt qua ngựa Đạo tới chỗ ấy trước. Đây ý nói vợ ghen theo dõi để bắt quả tang chồng.

***Thấy người ngủ... anh ruột: lấy tích Vũ Tử có vợ cả ghen, Vũ Tử gọi anh vợ tới cùng ngủ chung, lấy một cái xiêm đàn bà màu đỏ máng lên bình phong. Vợ thấy thế hùng hổ vác dao vào định đánh ghen, tốc chăn ra thì thấy anh ruột, xấu hổ lui ra.

4*Buộc chân chồng... dê xồm: lấy tích sĩ nhân họ Tế có vợ rất hung dữ, chồng làm điều gì trái ý, nhỏ thì chửi bới, lớn thì đánh đập, thường lấy dây dài buộc chân chồng. Tế bàn với một bà đồng buộc sẵn con dê ngoài tường, đang đêm nhân lúc vợ đi tiểu Tế leo ra tường trốn, cởi dây buộc vào con dê rồi ném đầu dây vào trong. Vợ trở vào thấy mất Tế vội nắm đầu dây kéo thì được con dê, cả sợ gọi bà đồng tới hỏi, bà ta đáp vì nương tử làm nhiều điều ác nên cha ông trừng trị, biến lang quân thành dê.

5*Lý Dương cũng nói không nên: Thế thuyết chép vợ Vương Di Phủ 1à Quách thị tính tham lam, cậy chồng làm quan vơ vét rất nhiều tiền bạc. Di Phủ lo lắng can ngăn mà vợ không nghe. Lúc ấy Thứ sử U Châu Lý Dương là người cùng làng nổi tiếng là bậc hiệp khách, Quách vẫn sợ. Di Phủ nhân đó nói "Không

Thậm chí khiến anh em rẽ lối, cây gai khô trước cửa ngậm ngùi*, cầm sắt tục huyền, áo lau mỏng trong lòng tê tái**. Cho nên Dương Thành uống rượu, khắp một nhà chỉ có anh em***lạt lẽo nên ta không nỡ”, em cảm động, cũng không lấy vợ. Thành khi làm Gián nghị Đại phu khi gặp việc lớn thì dám thẳng thừng can gián, nhưng lúc bình thời thì cả ngày chỉ uống rượu, Thương tử thổi tiêu, bảy mươi tuổi không thành gia thất (4*). Than ôi! Trăm năm duyên số, lại trở thành mụn ghẻ trong xương, năm lượng lộc bì (5*), hóa chuốc lấy nỗi đau trên gối. Râu cứng tựa kích đều như thế, mật lớn như đấu có mấy người? Đã chẳng dám chôn vợ nơi chuồng ngựa (6*), để dứt mầm tai, nào ai liều thiến dái tại phòng tằm (7*), mà trừ gốc nghiệt! Quân nương tử kiêu rông bạo ngược, hết cách diệt trừ, cọp phấn son tàn hại sinh linh, ai người tế độ? Hương trời đêm rớt, cho yên sóng dậy trong nồi, mưa nhỏ sáng rơi, dập tắt lửa nồng dưới chiếu. Cõi cực lạc xây đôi tòa gác đẹp, lưỡi đa đoan bàn một cuống sen xanh (8*). Diệt khổ não cho kiếp người, dựng đạo trường bên bến ái. Ôi! Mong vài chương kinh văn lá bối, làm một phen giọt nước cành dương...

* Anh em... ngậm ngùi: Tục Tề hài ký chép ở kinh đô có ba anh em họ Điền chia đều gia sản cha mẹ để lại làm ba phần, nhưng còn một cây gai trước sân không sao chia được, bàn đốn xuống chia ba, sáng ra mang búa tới định chặt thì cây gai đã chết khô rồi. Đây ý nói vì vợ dữ mà anh em ruột phải chia lìa.

** Cầm sắt... tê tái. lấy tích cha Mẫn Tử Khiên góa vợ tục huyền, sinh thêm được hai con trai. Mẹ kế thương con mình ghét con chồng nên mùa đông cho con mình mặc áo độn bông, bắt Mẫn Tử Khiên mặc áo độn hoa lau. Đây ý nói vì vợ kế dữ mà con cái bị hành hạ.

*** Dương Thành... anh em: Trác hạnh truyện chép Dương Thành thời Đường và em trai ở ẩn trong núi Trung Điều, không chịu lấy vợ, nói với em rằng "Ta và em mồ côi nuôi nhau, nếu lấy vợ thì bị người ngoài ngăn cách, tuy có ở chung tình nghĩa cũng

4* Thương tử... gia thất: Liệt tiên truyện chép Khưu Tử Tư thời Thương thích chăn heo thổi sáo, bảy mươi tuổi vẫn không lấy vợ.

5* Lộc bì: tức da hươu, thời cổ dùng làm tiền, nên cũng dùng làm lễ vật cưới hỏi.

6* Chôn vợ nơi chuồng ngựa: Tề sách chép mẹ Khuông Chương hỗn láo, cha Chương bèn giết chết chôn dưới chuồng ngựa.

7* Thiến dái tại phòng tằm: ngày xưa những người bị tội cung hình (thiến) hay các hoạn quan tình nguyện tự thiến để vào phục vụ trong nội cung sau khi thiến xong được đưa vào phòng nuôi tằm (tàm thất) cho kín gió để chờ lành hẳn.

8* Lưỡi đa đoan ... sen xanh: lưỡi đa đoan nguyên văn là "Trường thiệt chi đoan (mối lưỡi dài), ý nói lắm chuyện, đây chỉ phụ nữ. Một cuống sen xanh nguyên văn là "Thanh liên tịnh đế" (Hai đóa sen có chung một cuống) lấy tích trong Tình sử kể chuyện vợ chồng Tào Bích ôm nhau chết đuối trong ao, về sau trong ao nảy ra hai đóa sen có chung một cuống. Câu này ý nói mong muốn sao cho phụ nữ chỉ bàn tới việc vợ chồng thương yêu nhau.

Hiếu liêm họ Lý ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) tính thích đi xa, lúc trẻ lại phóng túng không chịu bị trói buộc, các môn đàn hát đều giỏi. Hai anh đều đã thi đỗ Tiến sĩ mà Lý vẫn còn lông bông. Lấy phu nhân là họ Tạ, dần dần bị kìm chế bèn bỏ đi ba năm không về, tìm kiếm khắp nơi không thấy. Mãi về sau mới tìm được trong một kỹ viện ở huyện Lâm Thanh (tỉnh Sơn Đông), người nhà vào thấy Lý đang ngồi quay mặt về phía nam, có mười mấy kỹ nữ trẻ đẹp đứng hầu hai bên, té ra họ nhờ Lý dạy đàn sáo cho. Lúc lên đường về, từ quần áo tới tiền ăn đường đều là của các kỹ nữ tặng. Về tới nhà, phu nhân nhốt vào một gian phòng, đặt sách đầy bàn, lấy dây dài buộc vào chân giường thòng một đầu ra chỗ then cửa, treo cái lục lạc lớn để gọi nhà bếp, cần gì thì giật dây, dây động lục lạc rung sẽ có người hầu hạ. Phu nhân tự mở gian hàng, buông rèm định giá, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm quản bút, đầy tớ chỉ đi lại dọn dẹp. Nhờ thế nhà dần dần giàu lên nhưng phu nhân vẫn lấy làm nhục không được sang như các chị dâu. Lý bị nhốt kín ba năm, đi thi đỗ Cử nhân, phu nhân mừng nói "Ba quả trứng có hai đã nở, ta cho rằng ông là trứng ung, nay cũng nở được à?"

Tiến sĩ Cảnh Tung Sinh cũng là người huyện Chương Khâu, phu nhân thường thắp đèn kéo sợi giúp chồng đọc sách, người kéo sợi không nghỉ, người dọc sách cũng không dám thôi. Nếu có bạn chồng tới chơi thì rình nghe trộm, nếu bàn chuyện văn chương thì lo trà rượu cơm nước tiếp đãi tử tế, còn nếu nói chuyện chơi bời thì ra quát tháo đuổi khách. Lần nào Cảnh đi khảo thí được hạng trung bình thì không dám vào phòng, được hạng cao vợ mới tươi cười ra cổng đón. Cảnh đi dạy học được bao nhiêu tiền đưa cả cho vợ, không dám giấu diếm một đồng. Nhà chủ cung đốn trả lương thì tính toán chi ly, có người chê cười nhưng không biết Cảnh phải tính toán lại với vợ. Sau cha vợ mời về dạy cho em vợ, ngay năm ấy người em vợ thi đỗ vào trường quận, cha vợ tạ mười lượng vàng, Cảnh nhận cái hộp mà trả lại vàng. Phu nhân biết chuyện trách "Bên nhà tuy là rất thân thiết, nhưng dạy học để làm gì nào?", rồi bảo tới nhà cha mình nhận lại vàng. Cảnh không dám cãi nhưng trong lòng thấy xấu hổ, nghĩ cách lén trả lại. Từ đó hàng năm dạy học được tiền cứ giấu lại một ít, tích cóp hai năm đã gần đủ số. Một đêm chợt mơ thấy một người tới nói “Ngày mai cứ lên chỗ cao sẽ được đủ tiền". Hôm sau Cảnh lên chỗ cao nhìn thử, quả nhiên nhặt được tiền người ta đánh rơi, vừa đủ chỗ còn thiếu, bèn đem về đưa lại cho cha vợ. Sau Cảnh đỗ Tiến sĩ, phu nhân vẫn còn la mắng, Cảnh nói "Nay ta đã làm quan, sao có thể nghe lời bà được?”. Phu nhân đáp "Lời ngạn có câu Nước lên thì thuyền cũng lên, cho dù ông làm Tể tướng cũng đã là lớn à?".

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 176 -
Vân Thúy Tiên
(Vân Thúy Tiên)

Lương Hữu Tài vốn là người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), lưu lạc tới đất Tế (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán hàng rong, không có vợ con điền sản, theo người trong thôn lên Thái Sơn chơi. Lúc ấy đang tháng tư, người ta lên núi dâng hương rất đông, lại có nhiều tăng ni dắt hàng chục hàng trăm đệ tử quỳ la liệt trước bàn thờ thần, cứ theo nén hương cháy làm cỡ, gọi là quỳ hương. Tài thấy trong đó có một nữ lang xinh đẹp khoảng mười bảy mười tám tuổi, thích lắm bèn giả làm khách dâng hương tới quỳ bên cạnh. Lại làm ra vẻ quỳ lâu mỏi gối, vịn tay vào chân nàng. Cô gái giận dữ quay nhìn rồi xích ra. Tài lại xích tới gần, lát sau lại làm như trước. Cô gái đứng phắt lên không quỳ nữa bỏ ra, Tài cũng đứng lên theo chân nhưng không biết nàng đi đàng nào, thất vọng buồn bực ra về. Dọc đường thấy cô gái đi theo một bà già, hình như là mẹ, vội rảo bước theo. Mẹ con vừa đi vừa nói chuyện, bà già nói "Con đi lễ Bà là hay lắm. Con không có em trai em gái, chỉ cần Bà phù hộ cho lấy được người chồng tốt miễn hiếu thuận là được, chẳng cần gì phải là con vua cháu chúa". Tài mừng thầm, mon men bắt chuyện hỏi thăm, bà già nói mình họ Vân, cô gái là con ruột, tên Thúy Tiên, nhà ở phía tây núi, cách bốn mươi dặm. Tài nói "Đường núi gập ghềnh mà bác thì già yếu, em thì ẻo lả thế này làm sao về kịp?", bà đáp "Trời đã xế, mẹ con ta định ghé nhà cậu cháu ngủ nhờ". Tài nói “Lúc nãy nghe bác nói kén rể không kể nghèo hèn, vậy cháu chưa có vợ, bác thấy được không?". Bà hỏi cô gái, nàng im lặng, hỏi mấy lần mới nói "Y ít phúc, lại phóng đãng vô hạnh, tâm tính khinh bạc mà hay tráo trở, con không thể làm vợ một gã vô lại được". Tài nghe thế vội tỏ ra chân thành, chỉ trời thề thốt.
Bà già mừng rỡ nhận lời, cô gái thì không thích, tỏ vẻ vùng vằng, bà mẹ phải cố làm cho nàng vui lên. Tài ân cần xách hộ hành lý, tìm hai chiếc kiệu núi cho hai mẹ con, mình thì đi bộ theo như người hầu, cứ tới đoạn đường nào gập ghềnh lại quát tháo bọn phu kiệu bảo phải cẩn thận không được lắc mạnh, lo lắng ân cần lắm. Không bao lâu tới một xóm, bà già bảo Tài cùng vào. Có ông bà già ra đón, là anh trai và chị dâu bà Vân, bà nói Tài là con rể, vừa đúng ngày tốt không cần chọn lựa nữa, cho làm lễ cưới luôn đêm nay. ông cậu cũng vui vẻ, dọn cơm rượu mời Tài, kế cho Thúy Tiên ăn mặc đẹp đẽ ra làm lễ rồi dọn giường giục đi ngủ. Cô gái nói "Ta vốn biết ngươi bất nghĩa, nhưng bị mẹ ép buộc nên phải theo, nếu ngươi ăn ở tử tế thì chẳng lo gì đói rét", Tài vâng dạ. Sáng hôm sau thức dậy, bà mẹ bảo Tài cứ về trước, mình và con gái sẽ tới ngay. Tài về quét dọn nhà cửa xong thì bà già đưa con gái tới. Vào nhà thấy trống trơn bèn nói “Thế này thì lấy gì mà sống? Ta sẽ trở lại ngay, giúp thêm chút ít cho đỡ khổ", rồi ra đi.
Hôm sau có mấy người gia nhân trai gái mang dủ thứ áo quần chén bát tới xếp đầy nhà rồi đi ngay không ở lại ăn cơm, chỉ lưu lại một người tỳ nữ hầu hạ. Tài từ đó chỉ ngồi không ăn sẵn, hàng ngày cứ theo bọn vô lại rượu chè cờ bạc, dần dà ăn cắp cả nữ trang của vợ để chơi bời. Cô gái khuyên nhiều lần không được, hết cách chỉ còn biết giữ kỹ lưỡng hòm như đề phòng giặc cướp. Một hôm đám cờ bạc tới thăm Tài, nhìn thấy cô gái đều kinh ngạc tấm tắc khen ngợi, nói đùa với Tài "Ông giàu có lớn, lo gì nghèo khó?", Tài hỏi sao nói thế, chúng đáp “Mới rồi thấy mặt phu nhân, thật là người tiên, lại gặp lúc gia đình không hòa thuận, nếu đem bán làm vợ lẽ phải được trăm lượng vàng còn bán cho nhà chứa phải được ngàn lượng, có ngàn lượng vàng trong nhà thì lo gì không tiền uống rượu đánh bạc?”. Tài không đáp nhưng thầm cho là đúng. Về nhà cứ nhìn vợ thở dài, lúc lúc lại than nghèo quá không biết làm sao sống. Cô gái làm như không nghe, Tài cau có đập bàn ném bát, chửi mắng tỳ nữ, làm đủ trò gây gổ. Một đêm cô gái mua rượu cùng uống, chợt nói "Chàng vì nghèo túng mà lo nghĩ ngày đêm, thiếp cũng chẳng có cách gì lo toan để chia sẻ, há không hổ thẹn, nhưng không có vật gì đáng giá, chỉ có con hầu này, đem bán đi cũng đủ vốn buôn bán lặt vặt”. Tài lắc đầu nói "Nó thì đáng bao nhiêu!". Uống thêm một lúc, nàng nói ! Thiếp có tiếc gì với chàng đâu, khổ cái là đã kiệt lực rồi. Nghĩ lại thấy cứ nghèo túng thế này, cho dù theo nhau tới chết chẳng qua cũng chỉ là khổ sở suốt đời, làm sao mở mày mở mặt được. Không bằng cứ đem thiếp bán cho nhà giàu thì hai người đều có lợi, chắc được giá hơn con hầu nhiều”.
Tài làm ra vẻ kinh ngạc, nói làm gì phải tới nỗi như vậy nhưng nàng cứ nói mãi, vẻ mặt rất nghiêm trang. Tài mừng nói "Để ta tính lại". Liền đánh tiếng với một vị quan lớn đang mua ca kỹ làm con hát, vị quan đích thân tới nhà Tài, thấy cô gái rất thích, sợ không mua được ngay, bèn làm giao kèo mua tám trăm quan, việc thế là xong. Cô gái nói “Mẹ thường ngày thấy nhà rể nghèo vẫn lo lắng cho, nay đã dứt hết tình nghĩa, thiếp phải về thăm một lần. Vả lại chàng đoạn tuyệt với thiếp thì cũng phải nói cho mẹ biết chứ". Tài lo bà mẹ cản trở, nàng nói "Đây vốn là do thiếp muốn, cam đoan không có việc gì đâu”, Tài bèn theo nàng đi. Gần nửa đêm mới tới nhà mẹ vợ, gõ cổng vào thấy lầu gác hoa lệ, đầy tớ đi lại tấp nập. Tài thường ngày ở với vợ vẫn muốn tới thăm mẹ nhưng cô gái cứ ngăn cản nên làm rể hơn một năm vẫn chưa lần nào tới nhà bà nhạc, lúc ấy cả sợ nghĩ rằng con gái nhà giàu có như thế này ắt không chịu làm nàng hầu con hát. Cô gái dẫn Tài lên lầu, bà già kinh ngạc hỏi "Sao vợ chồng lại tới đây?”, nàng oán hờn nói "Con vẫn nói y bất nghĩa, nay quả đúng". Rồi lấy trong túi ra hai nén vàng đặt lên bàn, nói "May mà không bị đứa tiểu nhân lừa lấy, nay xin trả cho mẹ".
Mẹ kinh ngạc hỏi duyên cớ, nàng đáp "Y muốn bán con đi, có giữ vàng cũng vô dụng”, rồi chỉ mặt Tài mắng “Đồ chó, ngày trước ngươi gánh hàng bán rong, mặt mũi lem luốc như ma, lúc đầu gần ta mồ hôi còn chua loét, cáu ghét rơi ra muốn sập giường, tay chân thì chai cộm cả tấc khiến người ta suốt đêm lợm mửa, từ khi lấy ta chỉ ngồi ăn không mới lột được lớp da quỷ sứ đi. Có mẹ ở đây, ta có đặt chuyện cho ngươi không?". Tài cúi đầu không dám hó hé, nàng lại nói “Ta biết mình không có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành để làm vợ bậc quý nhân, chứ với hạng đàn ông như ngươi thì dám nói là xứng đôi vừa lứa, mà ta không làm gì lầm lỗi sao ngươi nỡ dứt cả nghĩa vợ chồng không nghĩ tới chút tình hương lửa. Ta há không đủ sức làm nhà lầu mua ruộng tốt sao, chỉ vì thấy ngươi là kẻ ít phúc phận, có tướng ăn mày, không thể sống với nhau trọn đời được thôi”. Nàng nói xong, bọn tớ gái kéo tới vây đặc chung quanh thóa mạ, đều nói cứ giết đi, cần gì phải nói này nọ. Tài khiếp sợ quỳ mọp dưới đất, nói đã ăn năn rồi.
Cô gái càng tức giận, nói "Bán vợ con đã là đại ác, sao ngươi còn nỡ lòng coi rẻ người bạn đầu gối tay ấp đem bán đi làm đĩ chứ?”. Nàng chưa dứt câu, mọi người đều sôi máu, kẻ rút trâm tóc, người vớ kéo may xúm vào đâm túi bụi. Tài kêu la xin tha mạng, cô gái ngăn mọi người lại, nói "Thôi tạm tha cho hắn, y bất nhân nhưng ta không nỡ thấy y khiếp sợ như thế", rồi dắt mọi người xuống lầu. Tài ngồi nghe ngóng một lúc, thấy không có tiếng người, toan bỏ trốn. Chợt ngẩng nhìn trời thấy sao đêm lặn hết, phương đông đã hừng sáng, trời đất mênh mang. Kế đèn lửa cũng tắt hết, nhìn lại thấy không có nhà cửa gì cả mà mình thì đang ngồi trên vách đá cheo leo, cúi xuống thấy ở dưới là vực sâu thăm thẳm, khiếp đảm sợ rơi xuống. Vừa nhúc nhích thì ầm một tiếng, tảng đá đang ngồi lở ra rơi luôn xuống vực. May vách núi có cây khô đâm ngang nên Tài vướng lại không rơi xuống, nằm vắt bụng trên thân cây, tay chân chẳng có chỗ nào bấu víu, nhìn xương vực thấy mờ mịt không biết sâu bao nhiêu trượng, không dám động đậy. Sợ muốn tắt thở, toàn thân đẫm máu, kiệt sức mê mụ ngất đi luôn. Mặt trời lên cao mới có người tiều phu nhìn thấy, tìm dây dòng xuống cứu lên, đặt trên sườn núi, thấy hơi thở thoi thóp bèn khiêng cho về nhà.
Về tới thấy cửa mở toang, trong nhà trống trơn như ngôi chùa nát, giường chiếu vật dùng đều biến mất, chỉ còn chiếc võng rách và cái bàn mục là vật cũ của mình, lê lết lên nằm, hàng ngày đói bụng lại qua các nhà láng giềng xin ăn. Kế mắc bệnh lở loét, toàn thân máu mủ bê bết, người làng ghét tính nết khinh bạc đều khạc nhổ đuổi đi. Tài hết cách sống, bán nhà vào ở trong hang núi, hàng ngày ra đường xin ăn, luôn giắt theo lưỡi dao trong mình. Có người bảo đổi dao lấy thức ăn, Tài không chịu, nói "Ở trong núi phòng hùm beo, phải có dao để tự vệ". Sau gặp kẻ khuyên mình bán vợ trên đường, bèn tới gần kể lể rồi rút dao đâm chết. Quan xét biết rõ sự tình nên cũng không nỡ cùm kẹp tra tấn, chỉ giam lại trong ngục, kế đói rét mà chết.

Dị Sử thị nói:Được người đẹp ở núi xa về ở cùng, khác gì được làm vua? Mình đã không ra gì lại oán thù thằng bạn xấu, kẻ làm bạn không thể không biết điều đó để làm răn. Phàm kẻ xấu xa rủ rê người ta rượu chè cờ bạc, làm điều bất nghĩa thì dẫu cho việc thành không bị oán cũng không được biết ơn, nói gì tới cảnh họ thân không quần, vợ không khố, ngàn người đàm tiếu, không bệnh mà chết. Cái đau bần cùng lúc nào cũng day dứt, cái hận bần cùng lúc nào cũng sục sôi, đêm lạnh ổ rơm trằn trọc không ngủ. Kế nhớ tới tình cảnh lúc mình chưa nghèo, nhớ tới tình cảnh khi mình đã nghèo, rồi nghĩ tới nông nỗi vì sao mình nghèo, rồi lại nghĩ tới người gây ra nông nỗi ấy, thì kẻ hiền lành vùng dậy khoác chăn rách ngồi rủa, kẻ hung dữ chịu rét xoay trần ra thắp lửa tìm dao mài xoèn xoẹt không chờ trời sáng. Cho nên lấy điều lành khuyên người như tặng quả trám, đắng trước mà ngọt sau, còn lấy điều xấu dụ người như biếu thịt thiu, ăn xong là mắc bệnh, người nghe vốn nên tự xét, mà kẻ nói lại dám không sợ sao!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 177 -
Nhan Thị
(Nhan Thị)

Mỗ sinh ở phủ Thuận Thiên (tỉnh Hà Bắc) nhà nghèo, gặp năm mất mùa theo cha tới đất Lạc (tỉnh Hà Nam) sinh sống. Tính ngu độn, năm mười bảy tuổi mới viết chữ được thẳng hàng nhưng diện mạo tuấn tú, pha trò giỏi, viết thư tài nên không ai biết là trong bụng rỗng tuếch. Được ít lâu cha mẹ nối nhau qua đời, còn trơ trọi một mình, dạy học cho trẻ con ở đất Lạc để sinh sống. Lúc ấy trong thôn có cô gái mồ côi họ Nhan là con một bậc danh sĩ, thông minh từ nhỏ. Khi cha còn sống thường dạy cho học, chỉ đọc qua một lần là nhớ không quên, hơn mười tuổi đã làm được thơ, cha nói "Nhà ta có nữ học sĩ, chỉ tiếc là không được đội mũ thôi”, vì vậy rất yêu quý, muốn tìm rể sang. Cha mất, mẹ nàng vẫn theo ý ấy nhưng ba năm chưa thỏa nguyện, kế cũng mất. Có người khuyên nên lấy học trò giỏi, nàng cho là phải nhưng chưa gặp được ai. Gặp khi người đàn bà hàng xóm qua chơi trò chuyện, có cầm một tờ giấy viết chữ gói chỉ thêu, nàng mở ra xem thì là thư của Mỗ sinh gởi cho chồng chị ta. Cô gái xem đi xem lại, khen chữ viết đẹp, chị ta biết ý nói nhỏ "Người ấy trẻ tuổi đẹp trai, mồ côi giống cô, tuổi cũng xấp xỉ, nếu bằng lòng thì ta dặn chồng ta nói cho là xong”, nàng im lặng không đáp.

Chị ta về nói với chồng, y vốn chơi thân với sinh bèn kể lại, sinh mừng lắm, nhân có chiếc nhẫn vàng của mẹ để lại bèn nhờ đưa tới làm sính lễ. Rồi chọn ngày cưới luôn, vợ chồng rất hòa hợp, đến lúc đọc thấy văn sinh, nàng cười nói "Văn với chàng tựa hồ như hai ngườí, thế này thì chừng nào mới thi đỗ được?”. Từ đó sóm hôm đốc thúc chàng học hành, nghiêm khắc như thầy trò, buổi tối thì thắp đèn ngồi vào bàn ngâm nga trước cho chồng đọc theo, đến canh ba mới nghỉ. Cứ thế hơn một năm, sinh đã thạo lối văn trường ốc nhưng thi mấy lần đều rớt, nghĩ lại thân danh lận đận, sinh sống khổ cực, tình cảnh buồn tênh, hu hu khóc lóc. Cô gái mắng "Chàng không phải là đàn ông, đội mũ thật uổng. Nếu ta bỏ khăn yếm đổi làm đàn ông thì đoạt công danh dễ như nhổ cỏ vậy". Sinh đang buồn bực, nghe vợ nói quắc mắt giận dữ đáp “Đàn bà chưa vào trường thi cử lần nào, cứ tưởng đoạt công danh phú quý dễ như đun nước nấu cháo trong bếp. Nếu được làm đàn ông, thì cũng như người ta thôi!". Nàng cười nói “Chàng đừng giận, chờ đến kỳ thi thiếp xin cải trang thay chàng vào trường, nếu cũng thi rớt như chàng thì xin không dám coi thường danh sĩ trong thiên hạ nữa". Sinh cũng cười nói "Nàng vẫn chưa biết nỗi cay cực đâu, xin cứ nếm thử cho biết mùi thi cử, chỉ sợ lộ ra bị láng giềng cười cho thôi”. Nàng nói "Thiếp không nói đùa đâu. Chàng thường nói còn gian nhà cũ ở đất Yên (tỉnh Hà Bắc), thiếp xin cải trang làm em trai theo chàng về đó ở. Chàng xa quê từ nhỏ, ai biết là giả?”, sinh ưng thuận.
Nàng vào phòng đội khăn mặc áo đàn ông rồi bước ra hỏi "Nhìn xem thiếp có làm con trai được không?". Sinh nhìn quả thật là một thiếu niên đẹp trai, mừng rỡ từ biệt làng xóm, được các bạn thân tặng tiễn cho ít nhiều bèn mua một con ngựa đỡ chân, đưa vợ về quê. Người anh con bác của sinh còn sống, thấy hai em tuấn tú rất vui mừng, sớm hôm chăm nom giúp đỡ. Lại thấy thức khuya dậy sớm chăm chỉ học hành, càng thêm yêu quý, thuê cho một đứa nhỏ để sai vặt, nhưng cứ chiều tối là hai người bảo nó về. Trong làng có đám cưới đám giỗ thì anh tới thăm hỏi chứ em chỉ ngồi nhà học, về làng nửa năm mà ít người thấy mặt, có ai xin gặp thì anh từ chối giùm. Đọc tới văn bài của em ai cũng kinh lạ, có người xô cửa vào gặp thì vái chào qua loa rồi tránh mặt ngay. Khách khứa thấy phong tư lại càng hâm mộ, vì thế rất nổi tiếng, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Người anh con bác bàn tới chuyện ấy thì nhoẻn miệng cười, ép lấy vợ thì nói đã thề quyết chí lập công danh, không thi đỗ thì không lấy vợ.

Gặp lúc quan Học sứ mở kỳ khảo hạch, hai anh em cùng đi thi, anh lại trượt, em đỗ đầu rồi thi hương đỗ Cử nhân thứ tư, qua năm sau thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm Tri huyện Đồng Thành (tỉnh An Huy), làm quan có tiếng tốt nên dần được thăng làm Chưởng ấn Ngự sử Hà Nam, giàu có ngang bậc vương hầu. Sau thác bệnh xin nghỉ, được cho về trí sĩ. Khách khứa tới thăm chật cổng, đều từ tạ không tiếp một ai. Từ lúc là Chư sinh đến khi làm quan không hề nói tới chuyện cưới vợ, ai cũng lấy làm lạ. Sau khi trí sĩ mới có tỳ nữ, người ta ngờ có ăn ngủ với họ nhưng người chị dâu để ý dò xét thì không có gì bậy bạ. Nhà Minh mất, thiên hạ đại loạn, mới nói với chị dâu "Nói thật với chị, em là vợ Tiểu lang, vì thấy đàn ông bết bát không lập thân nổi nên tức giận làm cho biết tay, chỉ sợ lộ ra, nhà vua triệu vào tra hỏi bị thiên hạ cười thôi". Chị dâu không tin, cô gái cởi giày đưa bàn chân cho xem, chị mới kinh ngạc, nhìn chiếc giày thấy trong độn đầy vải vụn. Từ đó nàng bảo sinh nhận lấy chức hàm, mình thì đóng cửa trở lại làm đàn bà.

Nhưng bình sinh không chửa đẻ, nên bỏ tiền ra cưới vợ lẽ cho sinh, nói “Người ta làm quan lớn thì mua hầu cưới thiếp tự cung phụng mình, mà ta làm quan mười năm chỉ ở một mình, chàng có phúc trạch gì mà ngồi không hưởng hầu non gái đẹp?". Sinh đáp “Có ba mươi người đẹp trai*, tùy nàng lựa chọn!", người ta kể cho nhau mà cười Lúc ấy cha mẹ sinh đã được phong tặng mấy lần, thân hào nhân sĩ tới thăm viếng đều coi sinh như quan Thị ngự. Sinh thẹn về sự tập tước của vợ nên chỉ yên phận Chư sinh, suốt đời đi đâu cũng không dùng võng lọng.

*Có ba mươi người đẹp trai: Sơn Âm công chúa em gái Tống Phế đế thời Nam triều được anh yêu quý, có lần đi cùng kiệu, hỏi vua rằng "Trong sáu cung của bệ hạ có hàng vạn người mà thiếp chỉ có một Phò mã, sao không công bằng quá thế?”. Vua bèn chọn ra ba mươi người đẹp trai cho nàng tùy ý chọn lựa.

Dị Sử thị nói:Cha mẹ chồng nhờ con dâu mà được phong tặng, có thể nói là việc lạ lùng vậy. Song quan Thị ngự có phu nhân thì đời nào chẳng có, chứ phu nhân làm quan Thị ngự như thế thì ít lắm, những kẻ đội mũ nhà nho, xưng là đàn ông trong thiên hạ đều phải thẹn chết đi được.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 178 -
Tiểu Tạ
(Tiểu Tạ)

Nhà quan Bộ lang họ Khương ở Vị Nam (tỉnh Thiểm Tây) có nhiều ma quỷ hay dọa người nên phải dọn đi, để lại một người tớ già trông coi. Người ấy chết, thay mấy người khác cũng đều chết, nhà đành bỏ hoang. Trong làng có Đào sinh tên Vọng Tam, tính phong lưu thích gặp gỡ đám ca kỹ, nhưng cứ hơi say thì bỏ về. Bạn bè bảo kỹ nữ đuổi theo kéo lại cũng cười không cưỡng nhưng cả đêm không đụng chạm gì tới. Thường ở trong nhà Bộ lang, nửa đêm có người tỳ nữ tới khêu gợi nhưng sinh kiên quyết cự tuyệt không làm việc trái lễ, Bộ lang vì vậy rất nể trọng. Nhà Đào vốn nghèo, lại góa vợ, có mấy gian nhà tranh ẩm thấp nóng nực không sao chịu nổi, nên xin Bộ lang cho ở nhờ ngôi nhà bỏ hoang. Bộ lang vì nhà có ma nên từ chối, sinh bèn làm bài Tục Vô quỷ luận* đưa xem, lại nói "Ma thì còn làm gì được?", Bộ lang thấy xin mãi đành bằng lòng.

*Tục Vô quỷ 1uận: tức dựa theo nhan đề các bài Vô quỷ 1uận của Nguyễn Chiêm thời Tấn và Lâm Uẩn thời Đường.

Sinh tới quét dọn gian chính sảnh vào ở, chập tối để quyển sách ở đó về lấy đồ dùng, khi trở lại thì không thấy đâu, lấy làm lạ bèn lên giường nằm ngửa im lặng chờ xem động tĩnh. Khoảng ăn xong bữa cơm nghe có tiếng giày dép, hé mắt nhìn thấy hai cô gái ở phòng trong đi ra, đặt trả quyển sách bị mất lên bàn. Một nàng khoảng hai mươi tuổi, một nàng khoảng mười bảy mười tám tuổi, đều rất xinh đẹp, cứ quanh quẩn cạnh giường nhìn nhau cười, sinh vẫn im lặng không động đậy. Nàng lớn nhấc một chân đặt lên bụng sinh, nàng nhỏ bưng miệng cười, sinh thấy tâm thần rạo rục như không kìm được, nhưng lập tức đè nén tà niệm, không đếm xỉa gì tới. Nàng lớn lại tay trái vuốt râu, tay phải tát nhẹ chanh chách vào mặt sinh, nàng nhỏ cười bò ra. Sinh vùng dậy quát "Lũ quỷ dám hỗn thế à?", hai cô gái hoảng sợ bỏ chạy biến mất. Sinh sợ phải khổ sở suốt đêm, định về nhà ngủ nhưng lại xấu hổ vì nói một đàng làm nột nẻo bèn khêu đèn ngồi đọc sách, trong góc tối vẫn có bóng ma chập chờn nhưng không hề đếm xỉa.

Gần nửa đêm để đèn đi nằm, vừa chợp mắt đã có người lấy vật gì nho nhỏ ngoáy vào lỗ mũi rất ngứa ngáy, hắt hơi ầm lên, chỉ nghe trong góc tối có tiếng cười khúc khích. Sinh không nói gì, vờ ngủ chờ xem tiếp, giây lát thấy nàng nhỏ vê tờ giấy vào vế, rón rén bước tới gần. Sinh vùng dậy quát lại lủi trốn, vừa chợp mắt lại bị ngoáy vào tai, bị quấy nhiễu suốt đêm không sao chịu nổi, đến lúc gà gáy thì yên ắng, sinh mới được ngủ yên. Cả ngày không nghe thấy gì nhưng mặt trời vừa lặn lại hiện hình, sinh bèn nấu cơm ban đêm để thức luôn đến sáng. Đêm ấy nàng lớn ngồi bó gối trên ghế nhìn sinh đọc một lúc rồi đưa tay che sách, sinh tức giận nắm lấy thì vụt biến mất, giây lát lại giật lấy sách, sinh phải lấy tay đè lên sách mà đọc. Nàng nhỏ thì lẻn ra phía sau lấy hai tay bịt mắt sinh rồi dang ra xa đứng cười. Sinh chỉ tay mắng "Đồ quỷ con! Ta mà bắt được sẽ giết hết”, hai nàng không hề tỏ vẻ sợ hãi. Sinh thấy thế đùa nói "Chuyện gối chăn nghiêng ngửa ta không thích, chọc ghẹo làm gì vô ích". Hai nàng mỉm cười quay vào bếp chẻ củi vo gạo nấu cơm cho sinh. Sinh nhìn vào khen "Hai nàng làm thế chẳng hơn nhảy nhót nghịch ngợm sao?". Phút chốc cơm chín lại tranh nhau lấy đũa bát dọn cơm ra bàn, sinh nói "Cảm ơn hai nàng giúp đỡ, không biết lấy gì báo đáp". Hai nàng cười nói "Trong cơm có trộn thuốc độc đấy". Sinh đáp "Ta với hai nàng không có oán thù, làm gì tới nỗi hại nhau như vậy". Ăn hết bát này hai nàng lại tranh nhau qua lại đơm bát khác, sinh vui vẻ, dần dần thành lệ. Lúc đã thân mật cùng nhau trò chuyện, sinh hỏi họ tên, nàng lớn nói "Thiếp họ Kiều tên Thu Dung, nó họ Nguyễn tên Tiểu Tạ". Lại hỏi từ đâu tới đây ở, Tiểu Tạ cười đáp "Chàng ngốc còn chưa dám để lộ thân thể ra một lần thì ai cần anh hỏi nhà cửa, định hỏi cưới à?". Sinh nghiêm trang đáp “Đối diện với người đẹp làm sao vô tình được, nhưng âm khí mà người trần vương phải ắt chết, nếu không thích ở chung thì ta đi nơi khác cũng được, nếu thích thì ai yên phận nấy. Nếu không yêu thương thì ta đâu dám xúc phạm hai người đẹp, nếu yêu thương thì cần gì giết một gã cuồng sinh?". Hai nàng đổi sắc mặt nhìn nhau, từ đó không đùa nghịch quá quắt nữa, mà nếu thỉnh thoảng thọc tay vào bụng sinh tụt quần xuống đất, sinh cũng không giận.

Một hôm sinh chép bài chưa xong có việc phải ra ngoài, quay vào thấy Tiểu Tạ đang nằm bò ra bàn cầm bút chép thay, thấy sinh thì buông bút ngượng nghịu cười. Tới gần xem, thấy tuy chưa ra chữ nhưng cũng ngay hàng thẳng lối khen rằng "Nàng có khiếu lắm, nếu thích môn này ta sẽ dạy cho”. Rồi ôm nàng vào lòng, cầm cổ tay dạy viết. Thu Dung từ ngoài vào thấy thế biến sắc như có ý ghen, Tiểu Tạ cười nói “Lúc nhỏ thường được cha dạy cho nhưng bỏ lâu rồi, nay cầm bút thấy cứ mơ mơ màng màng”. Thu Dung không nói gì, sinh hiểu ý nhưng làm như không biết, cũng ôm nàng vào lòng, đưa bút cho cầm, nói "Ta xem thử nàng có viết được không", viết vài chữ rồi đứng lên nói "Nét chữ nàng Thu cứng cáp lắm", Thu Dung mới vui vẻ. Sinh liền rọc giấy cho tập viết phóng, bảo hai nàng viết theo còn mình thắp một ngọn đèn riêng ngồi học, mừng thầm vì ai cũng có việc để làm không quấy nhiễu nữa. Viết xong, hai nàng mang tới đứng trước bàn chờ sinh chấm điểm, Thu Dung chưa được đi học nên nguệch ngoạc chưa ra chữ, sinh chấm xong nói không bằng Tiểu Tạ thì có vẻ thẹn, sinh an ủi khích lệ mới mới lấy lại vẻ mặt bình thường.

Từ đó hai cô gái coi sinh như thầy, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp chân, chẳng những không dám khinh nhờn mà còn tranh nhau chiều chuộng. Hơn tháng sau chữ viết của Tiểu Tạ đã ngay ngắn đẹp đẽ, sinh vô tình khen ngợi, Thu Dung xấu hổ nước mắt ròng ròng, sinh tìm đủ cách an ủi mới nguôi. Kế dạy cho học, cả hai đều thông minh lạ thường, nói qua một lần là hiểu, không bao giờ phải hỏi lại, thường cùng sinh đọc sách suốt đêm. Tiểu Tạ lại dẫn em trai là Tam lang tới xin theo học, khoảng mười lăm mười sáu tuổi, dung mạo tuấn tú, đem cái như ý bằng vàng làm lễ ra mắt, sinh bảo cùng học với Thu Dung, tiếng đọc sách râm ran, sinh từ đó thành ra mở trường dạy ma. Bộ lang nghe tin rất mừng, thỉnh thoảng cấp gạo củi cho sinh. Được vài tháng Thu Dung và Tam lang đã biết làm thơ, thường xướng họa với nhau. Tiểu Tạ ngầm dặn đừng dạy Thu Dung, sinh ừ, Thu Dung dặn đừng dạy Tiểu Tạ, sinh cũng ừ. Một hôm sinh sắp đi thi, hai cô gái khóc lóc đưa tiễn. Tam lang nói "Chuyến này nên cáo ốm đừng đi, nếu không e gặp chuyện không hay". Sinh cho rằng cáo ốm trốn thi là nhục nên cứ đi.

Vốn trước đó sinh hay làm thơ mỉa mai thời thế, các nhà quyền quý trong huyện ghét lắm, ngày đêm nghĩ cách hãm hại, lúc ấy ngầm hối lộ quan học chính vu cáo là hạnh kiểm không tốt, bắt sinh bỏ ngục. Sinh hết cả tiền, phải xin ăn các bạn tù, tự nghĩ là đã hết đường sống. Chợt có một người lãng đãng bước vào, thì ra là Thu Dung đem cơm vào cho. Nàng nhìn sinh khóc nức nở, nói "Tam lang lo chàng gặp chuyện không lành, nay quả không sai. Tam lang cùng tới đây với thiếp, đang kêu oan ở nha môn", kế nói thêm vài câu rồi quay ra, không ai trông thấy. Hôm sau quan pháp ty ra đường, Tam lang đón kiệu kêu oan, quan nhận đơn, Thu Dung vào ngục báo cho sinh rồi trở ra nghe ngóng tin túc, ba ngày không thấy vào Sinh lòng buồn bụng đói, thấy một ngày dài như một năm. Chợt Tiểu Tạ tới, buồn bã hốc hác như sắp chết, nói "Thu Dung về ngang miếu Thành hoàng bị viên Phán quan mặt đen ở chái tây bắt vào ép làm vợ lẽ. Thu Dung không chịu, hiện đang bị nhốt trong ngục tối. Thiếp lặn lội cả trăm dặm, mỏi mệt gần chết, tới cổng bắc lại bị gai già đâm vào gan bàn chân đau thấu xương, e rằng không thể tới đây được nữa", rồi đưa chân cho xem, máu chảy ròng ròng, kế đưa sinh ba lượng vàng rồi khập khiễng bước ra biến mất.

Quan pháp ty xét việc Tam lang khiếu nại, cho rằng Tam lang không có họ hàng thân thích gì mà kêu oan cho sinh, định đánh đòn thì Tam lang ngã xuống đất biến mất. Quan lấy làm lạ, xem tới đơn thấy lời lẽ bi thiết, cho giải sinh ra lấy cung, hỏi Tam lang là ai. Sinh giả không biết, quan hiểu là oan bèn tha cho về. Sinh về thì nhà vắng ngắt không có ai, khuya Tiểu Tạ mới tới, buồn rầu nói “Tam lang ở nha môn ra bị thần ở đó bắt giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy có nghĩa khí nên đã cho đầu thai làm con nhà giàu. Thu Dung thì vẫn còn bị giam, thiếp đưa đơn kêu với Thành hoàng lại bị ngăn trở không vào được, làm sao bây giờ?". Sinh tức giận nói "Thằng quỷ già mặt đen, sao dám như thế? Ngày mai ta sẽ xô đổ tượng nó xuống, đạp nát ra thành bùn đất, rồi rạch mặt Thành hoàng hỏi tội tại sao để cho thuộc hạ hoành hành như vậy, y đang ngủ mơ à?". Hai người buồn rầu căm tức ngồi với nhau, bất giác gần hết canh tư, chợt Thu Dung lãng đãng bước vào, hai người vừa mừng vừa sợ vội vàng hỏi han. Thu Dung khóc nói "Nay vì chàng mà phải muôn vàn cay đắng, Phán quan hàng ngày cứ đem dao gậy ra bức bách, đêm nay chợt tha thiếp về nói: Ta làm thế này chỉ vì thường yêu nàng, nay nàng không muốn thì ta cũng không ép buộc, xin nói với quan Hình bộ họ Đào đừng khiển trách ta”, sinh nghe cũng hơi hả dạ, nhân muốn ngủ chung, nói "Hôm nay xin chết vì hai nàng". Hai cô gái buồn rầu nói "Lâu nay được dạy bảo cũng hơi biết nghĩa lý, nỡ nào vì yêu chàng mà giết chàng sao?", nhất định không chịu, nhưng đều ôm đầu bá cổ sinh như vợ chồng, mà hai nàng vì cùng trải qua hoạn nạn nên không còn ghen tức gì nhau nữa.

Gặp lúc có vị đạo sĩ gặp sinh trên đường, nói trên người sinh có tà khí. Sinh thấy lời nói lạ lùng bèn kể lại mọi chuyện. Đạo sĩ nói "Ma ấy tốt lắm, không nên phụ họ", rồi vẽ hai lá bùa trao cho sinh, dặn "Về đưa cho hai nàng ấy rồi chờ xem phúc mệnh. Nếu nghe ngoài cổng có tiếng khóc thương con gái chết thì nuốt lá bùa chạy mau ra, ai tới trước sẽ được sống lại". Sinh lạy tạ nhận lấy về đưa hai nàng, kể lại lời đạo sĩ dặn. Hơn tháng sau quả nghe có tiếng khóc thương con gái chết, hai nàng tranh nhau chạy ra, Tiểu Tạ vội vàng quên nuốt lá bùa, thấy có chiếc xe tang đi ngang, Thu Dung bước thẳng lên chui luôn vào quan tài biến mất. Tiểu Tạ không vào được, khóc lớn trở về, sinh ra nhìn thì là đám tang con gái phú ông họ Hác. Mọi người đều thấy có một cô gái chui vào quan tài, đang ngờ sợ thì nghe bên trong có tiếng động vội dừng lại mở ra xem thì thấy cô gái đã thoi thóp thở, bèn xin nghỉ lại ngoài phòng học của sinh để săn sóc. Chợt nàng mở mắt hỏi Đào sinh, Hác gặng hỏi, nàng đáp "Ta không phải là con gái ông đâu”, rồi kể rõ sự tình. Hác chưa tin lắm, muốn khiêng về, nàng không chịu, chạy luôn vào phòng học của sinh nằm không ra nữa, Hác bèn nhận sinh làm con rể rồi về. Sinh vào nhìn thấy dung mạo tuy khác nhưng xinh đẹp không kém Thu Dung, mừng là còn hơn cả điều mình mong muốn, cùng nhắc chuyện cũ. Chợt nghe tiếng ma nức nở, thì ra Tiểu Tạ đang khóc trong góc tối, rất thương xót vội cầm đèn tới, hết lời an ủi nhưng nàng vẫn đau đớn khóc ròng, áo xiêm đẫm lệ, gần sáng mới biến đi.

Sáng ra họ Hác sai tớ gái mang rương hòm của con gái qua chỗ sinh, đối xử như cha vợ chàng rể vậy. Đến tối sinh vào phòng thì Tiểu Tạ lại khóc lóc, cứ thế sáu bảy đêm, vợ chồng đều mủi lòng không sao làm lễ hợp cẩn được. Sinh lo nghĩ nhưng không tìm ra cách nào, Thu Dung nói "Đạo sĩ là người tiên, tìm tới cầu xin lần nữa may ra ông thương mà giúp cho". Sinh cho là phải, tìm tới nơi đạo sĩ ở, lạy lục bày tỏ chuyện mình, nhưng đạo sĩ khăng khăng nói rằng không có phép thuật nào. Sinh van nài mãi, đạo sĩ cười nói "Chàng ngây này làm phiển người ta quá, thôi vì ta có duyên với ông, xin đem hết phép thuật ra vậy”. Rồi theo sinh về, đòi một gian phòng tĩnh mịch, đóng cửa ngồi trong, dặn không được gọi hỏi gì, hơn mười ngày không ăn không uống, lén nhìn vào thì thấy nhắm mắt như đang ngủ. Một hôm vừa rạng sáng, có cô gái trẻ vén rèm bước vào, mắt long lanh răng trắng muốt, kiều diễm rực rỡ, khẽ cười nói "Lặn lội suốt đêm mệt quá, bị các người đeo đẳng quấy rầy phải bôn ba hơn trăm dặm mới tìm được một ngôi nhà tốt, bần đạo mang theo về đây, chờ cô ta nhập hồn vào giao lại là xong”. Chập tối Tiểu Tạ tới, cô gái đứng lên ôm chầm lấy, hòa vào nhau thành một rồi ngã lăn xuống đất nằm cứng đờ. Đạo sĩ trong phòng bước ra, chắp tay chào rồi đi. Sinh vái lạy tiễn chân, trở vào thì cô gái đã tỉnh, đỡ lên giường thấy hơi thở đều đặn, trong người khỏe khoắn nhưng còn ôm chân kêu đau, vài hôm mới đi lại được.

Sau sinh thi đỗ làm quan, có người bạn cùng khoa là Sái Tử Kinh có việc ghé qua nhà sinh, ở lại vài ngày. Tiểu Tạ từ hàng xóm về, Sái nhìn thấy vội đuổi theo sát gót, Tiểu Tạ nép người lánh đi, thầm tức giận là kẻ khinh bạc. Sái nói với sinh "Có một việc vô cùng kỳ quái, không biết nói ra được không?". Sinh hỏi, Sái đáp "Ba năm trước em gái ta chết yểu, qua hai đêm thì thi thể biến mất, đến nay vẫn còn lấy làm ngờ vực. Mới rồi nhìn thấy phu nhân, sao giống em ta quá”, Sinh cười nói "Vợ ta quê mùa, làm sao giống được lệnh muội, nhưng đã là bạn đồng khoa với nhau, tình nghĩa thân thiết, ngại gì không để ra chào". Liền vào trong bảo Tiểu Tạ mặc bộ quần áo liệm ngày trước ra chào khách, Sái cả kinh nói “Đúng là em gái ta mà” rồi khóc ròng. Sinh bèn kể lại đầu đuôi, Sái mừng nói "Vậy thì như em gái chưa chết, ta phải về ngay báo tin mừng cho cha mẹ mới được” rồi ra về. Sau vài hôm cả nhà kéo qua, về sau cũng thường đi lại thăm hỏi như họ Hác vậy.

Dị Sử thị nói:Bậc giai nhân tuyệt thế, cầu được một người đã là khó, nói gì tới việc được hai người! Chuyện này quả là ngàn năm mới thấy một lần, nhưng nhờ không lang chạ mới cưới được hai nàng đấy thôi. Còn đạo sĩ là tiên chăng, sao mà có phép thuật thần diệu như vậy? Nếu có phép thuật ấy thì có thể giao du với đám ma xấu xí được.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 179 - 180 -
Huệ Phương
(Huệ Phương)

Mã Nhị Hỗn ở trong cửa đông phủ thành Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán mì, nhà nghèo không có vợ, cùng mẹ vất vả làm ăn. Một hôm bà già ở nhà một mình, chợt có cô gái đẹp tới, tuổi khoảng mười bảy, mười tám, quần áo mộc mạc nhưng dung nhan lộng lẫy. Bà già hoảng sợ căn vặn, nàng cười nói “Con thấy hiền lang thành thật chăm chỉ, nên xin gởi thân vào nhà mẹ". Bà già càng sợ, nói "Nương tử là người tiên mà nói câu ấy, làm mẹ con ta giảm thọ mấy năm". Cô gái cứ nài nỉ, bà già cho rằng là nàng hầu vợ lẽ của nhà quyền quý trốn đi nên càng ra sức cự tuyệt, cô gái bèn đi. Ba ngày sau lại tới, quanh quẫn mãi không chịu đi. Hỏi họ tên, nàng đáp "Mẹ chịu cho ở thì con mới nói, nếu không thì không cần phải hỏi”. Bà già nói "Con trai ta nghèo thấu xương, được người vợ như thế này nếu không xứng đôi cũng là điều không hay". Cô gái cười ngồi xuống cạnh giường, ngọt ngào năn nỉ. Bà già khước từ, nói xin nương tử đi ngay cho, đùng gieo họa cho nhau. Cô gái bèn đi ra, bà già nhìn theo thấy đi về phía tây.

Lại vài ngày sau, có bà Lữ ở hẻm phía tây tới, nói với Mã rằng "Cô gái láng giềng của ta là Đổng Huệ Phương mồ côi không nơi nương tụa, tình nguyện làm vợ hiền lang, sao lại không chịu?”. Mã nói thật điều mình nghi ngờ lo lắng, bà Lữ nói "Làm gì có chuyện đó? Nếu có gì rắc rối cứ bắt tội già này”. Mã mừng rỡ ưng thuận. Bà Lữ đi rồi, mẹ Mã quét nhà dọn giường để chờ con dâu tới làm lễ. Chiều tối cô gái phiêu hốt tự tới, vào nhà lạy mẹ theo đúng nghi lễ rồi nói với bà già rằng "Con có hai tỳ nữ, chưa được lệnh mẹ nên không dám gọi tới". Bà già nói "Mẹ con ta nghèo khó không biết sai khiến tôi tớ, hàng ngày chỉ kiếm được chút lời đủ sống, nay thêm một nàng dâu xinh đẹp yếu ớt chỉ biết ngồi không đã sợ không đủ ăn, còn thêm hai tỳ nữ thì hít gió mà sống à?". Cô gái cười nói "Bọn tỳ nữ tới đây thì không làm phiền mẹ phải nuôi đâu, tự chúng có cái ăn mà". Hỏi tỳ nữ ở đâu, nàng bèn gọi Thu Nguyệt, Thu Tùng, chưa dứt tiếng thì hai tỳ nữ đã như chim én bay rơi xuống đứng ngay trước mặt, nàng sai quỳ xuống lạy ra mắt mẹ. Kế Mã về, mẹ ra đón kể chuyện, Mã mừng rỡ vào nhà thấy rường chạm cột vẽ lộng lẫy như cung điện, trong thì bàn ghế bình phong rèm màn rực rỡ lóa mắt, sợ hãi không dám vào. Cô gái tươi cười đứng dậy chào đón, Mã thấy như là thiên tiên càng sợ muốn lui ra. Cô gái kéo ngồi xuống dịu dàng trò chuyện, Mã mừng rằng còn quá cả điều mong ước, lúng túng không biết làm sao, bèn đứng lên định ra dọn rượn. Cô gái ngăn lại nói không cần, rồi sai hai tỳ nữ bày tiệc. Thu Nguyệt liền lấy một cái túi da cầm bước ra sau cửa đập bồm bộp rồi luồn tay vào trong lấy rượu thịt ra, đều còn nóng hổi ngon lành. Kế đi ngủ thì gối hoa nệm gấm, mềm mại ấm áp phi thường. Sáng dậy ra cửa thì vẫn là nhà tranh như cũ, hai mẹ con đều lạ lùng.

Bà già định tới chỗ bà Lữ hỏi thăm về cô gái, vào nhà rồi trước tiên tạ ơn làm mối. Bà Lữ ngạc nhiên nói "Lâu lắm không tới thăm bà, làm gì có chuyện cô gái hàng xóm nào nhờ vả làm mối?”. Bà già càng ngờ vực, kể lại hết đầu đuôi câu chuyện. Bà Lữ cả sợ, lập tức cùng bà già tới gặp cô gái. Nàng cười ra đón, hết sức cảm tạ về việc tác hợp cho mình. Bà Lữ thấy nàng xinh đẹp thông tuệ kinh ngạc trợn mắt há miệng hồi lâu, cũng chẳng tranh cãi gì, chỉ vâng vâng dạ dạ mà thôi. Cô gái tặng một cái như ý bằng gỗ trắng, nói "Không có gì để cảm tạ, chỉ xin dâng vật này để bà bác gãi lưng thôi". Bà Lữ nhận lấy ra về, nhìn lại thì là một chiếc trâm bằng bạc. Mã từ khi có vợ càng mở mang nghề cũ, nhà cửa đều đổi mới. Trong tủ có vô số gấm vóc lụa là cho Mã tùy ý lấy, nhưng ra khỏi nhà cũng chỉ mặc áo vải cốt nhẹ nhàng ấm áp mà thôi, cô gái cũng để cho mặc ý. Được bốn năm năm, chợt nói "Thiếp bị đày xuống trần gian hơn mười năm, vì có duyên với chàng nên tạm lưu lại ở đây, nay xin chia tay". Mã cố giữ lại, nàng nóí "Xin chàng cưới vợ khác để có con nối dõi, hàng năm thiếp sẽ tới" rồi biến mất.

Mã bèn cưới con gái họ Tần. Ba nàm sau, vào đêm Thất tịch, vợ chồng đang trò chuyện thì cô gái chợt bước vào cười nói "Có vợ mới vui vẻ không nhớ người xưa à?”. Mã kinh ngạc đứng dậy bùi ngùi kéo nàng ngồi chuyện trò hỏi han. Cô gái nói "Thiếp đang đưa Chúc nữ qua sông Ngân, nhân lúc rảnh tới thăm một chút". Hai người ngồi dựa vào nhau chuyện trò không ngớt. Chợt trên không có tiếng người gọỉ “Huệ Phương” cô gái vội đứng lên từ biệt. Mã hỏi ai gọi, nàng đáp “Đó là người chị em bạn của thiếp tới, chị ấy không chịu chờ lâu đâu”. Mã tiễn ra cửa, cô gái nói “Chàng thọ được tám mươi tuổi, đến lúc chết thiếp sẽ tới chôn chàng", nói xong biến mất. Nay Mã hơn sáu mươi tuổi, cũng chỉ là người thành thật chất phác không có gì nổi bật.

Dị Sử thị nói:Mã sinh tên Hỗn*, nghề nghiệp thì thấp hèn, Huệ Phương yêu mến được chỗ nào nhỉ? Từ đó mới thấy người tiên rất quý người chất phác thành thật vậy. Ta vẫn nói với bạn bè rằng như ta và các anh thì hồ quỷ cũng chê, than rằng kẻ không thẹn với người tiên thật chỉ có Hỗn mà thôi.

* Hỗn: nghĩa đen là lộn xộn, không chia rõ trắng đen trong đục, triết học phương Đông xưa dùng chỉ trạng thái nguyên thủy tự nhiên buổi đầu của thế giới. Đây ý nói Mã thành thật chất phác tự nhiên, không biết ác không biết thiện.

180. Cô Tiêu Thứ Bảy
(Tiêu Thất)

Từ Kế Tường là người huyện Lâm Truy (tỉnh Sơn Đông), ngụ ở trang Ma Phòng tại phía đông huyện thành, theo việc học hành nhưng chưa thi đỗ thì bỏ học làm thư lại. Một hôm đi thăm nhà vợ, đường đi qua khu mộ họ Vu, chiều tối say về, qua ngang thấy lầu chạm gác trổ, có ông già ngồi trước cổng. Từ say rượu khát nước, vái chào ông già xin nước, ông già đứng lên mời khách vào. Vào tới sảnh đường đưa trà ra mời, Từ uống xong, ông già nói "Trời tối khó đi, cứ tạm nghỉ lại đây, sáng mai hãy về được chứ?”. Từ cũng thấy mệt mỏi, vui vẻ nghe theo. ông già bèn sai người nhà dọn rượu đãi khách, rồi nói với Từ “Lão phu có một câu mong ông đừng cho là đường đột. Ông là con nhà gia giáo, có thể lấy thêm vợ lẽ. Ta có đứa con gái nhỏ chưa chồng, muốn cho về hầu hạ phu nhân, mong ông rủ lòng ưng thuận”. Từ đang ngượng nghịu không biết trả lời ra sao, ông già đã sai người báo với họ hàng, lại vào bảo con gái trang điểm. Giây lát có bốn năm bọn ăn mặc đẹp đẽ nối nhau kéo vào, cô gái cũng trang điểm lộng lẫy bước ra, dung nhan tuyệt thế, cùng ngồi vào tiệc. Từ tâm thần điên đảo, chỉ muốn vào ngủ cho mau, rượu được vài tuần đã nằng nặc từ chối không nhận lời mời của ai nữa, ông già bèn sai a hoàn dẫn vợ chồng vào phòng.

Từ hỏi họ tên, cô gái đáp là họ Tiêu, thứ bảy, lại hỏi kỹ gia thế lai lịch, nàng nói "Thiếp tuy hèn mọn nhưng lấy chồng là thư lại thì cũng không làm ai phải xấu hổ, cần gì vất vả dò xét tới ngọn nguồn?". Từ say mê nhan sắc, nàng lại rất mực ngọt ngào nên không ngờ vực gì nữa. Cô gáì nói “Nơi đây không thể ở được, thiếp thấy chị nhà hiền hậu, chắc không cản trở đâu, chàng về ngăn cho một gian phòng riêng, thiếp sẽ tự tới", Từ ưng thuận. Rổi ôm choàng lấy nàng dìu lên giường, khi tỉnh dậy thì vòng tay ôm trống không, khi trời sáng hẳn chỉ thấy bóng thông che rợp ánh nắng, dưới mình toàn là rơm rạ dày cả thước, sợ hãi than thở về kể lại cho vợ. Vợ đùa ngăn ra một phòng riêng, đặt giường vào rồi khép cửa bước ra nói "Đêm nay cô dâu mới sẽ tới đấy”, hai vợ chồng cùng cười. Chập tối, vợ đùa kéo Từ tới mở cửa, nói “Chẳng lẽ cô dâu mới chưa có trong này sao?", vào tới thì mỹ nhân ăn vận lộng lẫy đã ngồi trên giường, thấy hai người vào đứng lên đón, vợ chồng rất ngạc nhiên. Cô gái che miệng cười khúc khích, vái chào rất kính cẩn, vợ Từ líền bày tiệc hợp hoan cho hai người.

Cô gái hàng ngày dậy sớm làm việc nhà không chờ sai bảo, một hôm nói với Từ rằng bọn chị em đều muốn tới nhà ta chơi một lần. Từ lo lúc vội vàng không có gì đãi khách, nàng nói “Các chị em đều biết nhà ta không giàu, định đưa thức ăn tới trước, chỉ phiền nhờ chị nhà nấu nướng cho thôi". Từ nói với vợ, vợ bằng lòng. Ăn sáng xong quả có người mang rượu thịt tới, đặt gánh xuống đó rổi đi, vợ Từ liền vào bếp nấu nướng. Sập tối có sáu bảy nữ lang tới, người lớn nhất chỉ khoảng bốn mươi tuổi trở lại, cùng ngồi quanh bàn ăn uống, cười nói râm ran cả phòng. Vợ Từ núp ngoài cửa sổ lén nhìn, chỉ thấy chồng và cô Bảy ngồi đối diện với nhau còn bao nhiêu khách khứa đều không thấy hình bóng, đến mãi gần khuya mới vui vẻ ra về. Cô gái đưa khách chưa trở vào, vợ Từ vào nhìn lên bàn thấy mâm chén đều sạch nhẵn, cười nói "Chắc đám nhãi con này đều đói, nên ăn cứ như chó liếm thớt!". Lát sau cô gái trở vào, hết lời cảm ơn, giằng lấy bát đĩa đem rửa, giục chị đi nghỉ.
Vợ Từ nói "Khách tới chơi nhà mình lại để tự họ chuẩn bị thức ăn, thật là chuyện buồn cười, mai này phải lo liệu mời “Một bữa”. Mấy hôm sau Từ theo lời vợ, bảo cô gái lại mời khách. Khách tới ăn uống rất tự nhiên nhưng chừa lại bốn đĩa không hề động tới, Từ hỏi thì cả bọn cười rộ đáp "Lần trước phu nhân chê bọn ta xấu tính, nên dành lại cho người vất vả nấu nướng". Trong bọn có một nàng khoảng mười tám mười chín tuổi, hai lần đều mặc xiêm áo trắng, thấy nói vừa góa chồng, cô gái gọi là chị Sáu, dáng vẻ kiều mỵ, khéo nói hay cười, có vẻ thích Từ, cứ tìm lời nói đùa để trêu ghẹo. Rồi đặt tửu lệnh, cử Từ làm giám tửu, cấm không được trêu chọc nhau. Cô Sáu phạm lỗi nhiều lần, phải uống hơn chục chén liên tiếp, bắt đầu chuếnh choáng, vóc ngọc nghiêng ngã khó lòng ngồi vững. Không bao lâu bỏ ra, Từ thắp đèn vào tìm thì thấy say ngủ trong màn tối, ghé mặt lại gần kề sát vào môi vẫn không hay biết gì, lấy tay sờ dưới quần thấy chỗ kín gồ lên, lòng đang xao xuyến thì trong tiệc nhao nhao gọi Từ lang, vội kéo lại áo cho nàng, thấy trong tay áo có chiếc khăn là, bèn lấy trộm bước ra.

Đến khuya mọi người đều đã rời bàn mà chị Sáu vẫn chưa tỉnh, cô Bảy vào lay gọi mới ngáp dài đứng dậy, sửa quần vuốt tóc theo mọi người về. Từ canh cánh nhớ nhung không sao khuây khỏa, tìm tới chỗ vắng người định lấy chiếc khăn ra ngắm thì đã biến mất, ngờ rằng đánh rơi lúc tiễn khách bèn cầm đèn soi kỹ nhưng trong nhà dưới thềm đều không có, lấy làm bứt rứt. Cô gái hỏi, Từ nói trớ qua chuyện khác, nàng cười nói "Đừng nói dối, chủ cái khăn đã lấy đi rồi, tìm kiếm làm gì cho vất vả". Từ kinh ngạc kể lại tình thật, lại nói là rất tưởng nhớ. Cô gái nói "Chị ấy với chàng không có túc phận, duyên số chỉ có bấy nhiêu thôi". Từ hỏi duyên cớ, nàng đáp "Kiếp trước chị ấy là ca kỹ, chàng là sĩ nhân, gặp chị ấy thích lắm nhưng bị cha mẹ ngăn trở, không được toại nguyện nên lâm bệnh nguy kịch, sai người nhắn với chị ấy rằng: Ta không dậy được nữa, chỉ mong nàng tới cho sờ vào da thịt một cái thì chết cũng không tiếc hận gì. Chị ấy chiều theo lời, nhưng thình lình bận việc không đi ngay được, đến tối mới tới thì người bệnh đã chết, nên kiếp trước chị ấy với chàng có duyên được sờ một cái là thế, còn hơn nửa thì đừng có mong".

Sau Từ lại làm tiệc mời các chị em cô gái, riêng chị Sáu không tới, Từ nghi nàng ghen nên oán giận lắm. Một hôm cô gái nói với Từ "Nếu thiếp cản trở chàng với chị Sáu thì đúng là có lỗi, nhưng thật ra chị ấy không chịu tới thì trách gì thiếp chứ?”. Nay cái duyên ân ái tám năm sắp hết, xin hết sức vì chàng mưu tính một phen để chàng hết nghi ngờ. Tuy chị ấy không tới nhưng ai cấm ta sang, cứ vào tận nhà mà gặp, biết đâu nhân định thắng thiên cũng chưa biết chừng". Từ mừng rỡ nghe theo, cô gái nắm tay phơi phới lướt đi như bay trên không, khoảnh khắc đã tới nhà, thấy ngói vàng sảnh rộng, cổng nẻo quanh co chẳng khác gì lần trước. Cha mẹ vợ cùng ra nói "Có đứa con gái vụng về được con đùm bọc đã lâu, nhưng bọn ta tuổi già sức yếu không tới thăm được, chắc con không trách chứ?”. Rồi lập tức bày tiệc thết đãi, cô gái hỏi các chị em dâu, bà mẹ nói đều đã lấy chồng, chỉ còn con Sáu ở đây thôi. Cô gái lập tức sai tỳ nữ đi mời, lâu quá không thấy tới, nàng vào trong kéo ra. Cô Sáu ra tớỉ chỉ cúi đầu im lặng, không cười đùa như trước kia. Giây lát ông bà già cáo từ vào nghỉ, cô gái nói với cô Sáu "Chị quá tự trọng, làm người ta oán em". Cô Sáu cười khẽ nói "Người khinh bạc như y làm sao gần gữi được?". Cô gái cầm hai chén rượu của hai người đổi cho nhau ép phải uống rồi nói "Môi đã chạm nhau rồi, còn giả vờ làm gì?". Giây lát cô Bảy cũng bỏ đi, trong phòng chỉ còn hai người.

Từ bèn đứng lên định ép buộc, cô Sáu dịu dàng chống cự. Từ níu vạt áo nàng quỳ xuống nài nỉ, nàng dần dần xiêu lòng, đưa nhau vào phòng. Vừa mở dây lưng, chợt nghe tiếng reo hò vang dậy, ánh lửa chiếu vào khe cửa đỏ rực. Cô Sáu cả kinh xô Từ ra đứng dậy nói "Tai họa tới thình lình, làm sao bây giờ?". Từ đang luống cuống không biết làm gì thì nàng đã trốn mất không thấy đâu nữa. Từ ngậm ngùi ngồi lại một lúc thì nhà cửa đều biến mất, có hơn mười người thợ săn mang ưng cầm đao tràn tới, ngạc nhiên hỏi "Ai mà ban đêm lại núp ở đây?". Từ nói dối là lạc đường rồi xưng tên họ. Một người hỏi "Vừa đuổi theo một con chồn, có thấy không?”, Từ đáp không thấy. Nhìn kỹ chỗ ấy, té ra là khu mộ họ Vu, vội đứng lên ra. về, lòng vẫn mong cô Bảy lại tìm đến. Ngày trông điềm thước, đêm bói hoa đèn, mà không thấy tăm hơi đâu cả. Chuyện này là do Đổng Ngọc Huyền kể lại.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 181 - 184 -
Cố Sinh
(Cố Sinh)

Cố sinh người Giang Nam, làm khách ở huyện Tắc Hạ (tỉnh Sơn Đông) bị đau mắt, ngày đêm rên rỉ, không thuốc men nào chữa được. Hơn mười hôm thì đỡ đau, nhưng cứ nhắm mắt lại là thấy một tòa phủ đệ lớn, bốn năm lần tới chỉ thấy cổng khép hờ, sâu bên trong có người qua lại nhưng nhìn từ xa không thấy rõ gì cả. Một hôm đang chăm chú nhìn ngó chợt thấy mình đã lọt vào bên trong, qua ba lần cửa vẫn không gặp một ai. Có tòa sảnh đường lớn dưới trải thảm lông màu đỏ, nhìn vào thấy bên trong toàn là trẻ con, đứa thì ngồi, đứa thì đứng, đứa thì bò, không biết bao nhiêu mà kể. Đang khi ngạc nhiên thì một người từ nhà trong đi ra nhìn sinh nói "Tiểu vương tử vừa nói có khách xa tới, quả đúng", rồi mời vào.

Cố ngần ngại không dám, người ấy ép mãi mới vào. Hỏi đây là đâu, người ấy đáp "Phủ đệ của vương thế tử thứ chín, thế tử bị sốt rét mới khỏi, hôm nay tân khách tới mừng, tiên sinh thật là có duyên", chưa dứt lời lại có người từ trong chạy ra giục vào mau. Phút chốc tới một nơi đình đài chạm trổ, lan can sơn son, có một ngôi điện quay mặt về hướng bắc, thềm gồm chín bậc, lên tới nơi thì khách đã đông đủ. Thấy một thiếu niên ngồi ngoảnh mặt về phía bắc, Cố biết là vương tử bèn sụp lạy, khách khứa đều đứng cả dậy, vương tử kéo Cố vào dãy bàn phía đông. Uống được vài chén thì đàn sáo trổi lên, các ca kỹ lên thềm diễn vở Hoa Phong chúc*.

* Hoa Phong chúc: sử chép có người đất Hoa Phong tới chúc thọ vua Nghiêu, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc thọ vương tử.

Mới được ba màn thì chủ quán trọ và đầy tớ đưa cơm trưa vào, tới đầu giường gọi, Cố nghe thấy rất rõ ràng, sợ vương tử biết song chẳng ai nghe thấy cả. Bèn nói thác là thay áo bước ra, ngước nhìn thì mặt trời đã xế, thấy đầy tớ đứng ngay đầu giường mới sực hiểu là chưa từng rời khỏi quán trọ. Lòng áy náy muốn quay lại ngay, bèn bảo người đầy tớ đóng cửa ra ngoài. Vừa nhắm mắt lại thì thấy cung điện nhà cửa như cũ, vội vàng theo đường cũ trở vào, tới chỗ đám trẻ con lúc nãy thì không thấy đứa nào nữa mà chỉ có vài mươi người tóc rối lưng gù nằm ngồi bên trong, thấy Cố cùng cất tiếng chửi mắng "Đồ vô lại ở đâu vào đây nhòm ngó thế”. Cố hoảng sợ không dám phân trần, rảo bước ra phía sau, lên điện ngồi lại chỗ cũ, thấy trên cằm vương tử đã mọc thêm bộ râu. Vương tử cười hỏi đi đâu, tuồng đã diễn tới màn bảy rồi, rồi lấy chén lớn ra phạt.
Giây lát diễn xong, đám ca kỹ lại trình danh sách các vở tuồng lên, Cố chấm vở Bành Tổ lấy vợ*. Bọn ca kỹ lập tức lấy chén gáo dừa dâng rượu, phải tới năm đấu. Cố rời chiếu từ tạ, nói thần bị đau mắt, không dám uống say. Vương tử nói "Ông đau mắt thì có quan Thái y ở đây, cứ nhờ khám cho". Trong dãy bàn phía đông lập tức có một người bước tới lấy hai ngón tay vạch mí mắt Cố ra, rồi lấy trâm ngọc chấm thuốc mỡ trắng tra vào, bảo nhắm mắt ngủ một lúc. Vương tử sai tiểu đồng dắt Cố vào phòng trong bảo nằm, thấy chăn nệm êm ấm thơm tho nên ngủ quên luôn. Không bao lâu chợt nghe tiếng chiêng khua ran, giật mình tỉnh dậy, ngờ là bên ngoài còn đang diễn tuồng, mở mắt nhìn thì ra là con chó trong quán trọ đang liếm dầu trong chảo, mà mắt dường như đã khỏi đau hẳn. Vội nhắm mắt lại nhưng không thấy gì nữa cả.

*Bành Tố cưới vợ: Sử ký của Tư Mã Thiên chép Bành Tổ thọ tám trăm tuổi, sống qua ba đời vua, cưới bốn mươi chín người vợ, có năm mươi bốn con trai, người sau lấy tích này diễn thành kịch. Đây có ý chúc tụng vương tử sống lâu, có nhiều con nối dõi.


182. Chu Khắc Xương
(Chu Khắc Xương)

Cống sĩ ở đất Hoài Thượng là Chu Thuận Nghĩa tuổi đã năm mươi chỉ sinh được một con trai tên Khắc Xương, rất yêu thương. Năm Xương mười ba mười bốn tuổi, phong tư rất đẹp đẽ nhưng không thích học hành, thường trốn học đi chơi với bọn trẻ con, có khi cả ngày không về, Chu cũng biết. Một hôm đã tối mịt vẫn chưa thấy về, vội đi tìm thì không thấy đâu, vợ chồng kêu khóc cơ hồ không muốn sống nữa. Hơn một năm Xương chợt tự về, nói là bị người đạo sĩ bỏ thuốc mê bắt đi, may mà không làm hại, nhân lúc ông ta đi vắng bèn trốn về. Chu mừng quá cũng chẳng hỏi han gì nhiều, đến khi dạy cho học thì Xương còn thông minh gấp đôi ngày trước. Qua năm sau, Xương học hành càng tấn tới, kế thi đỗ vào trường phủ, tiếng tăm lừng lẫy, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho nhưng Xương không muốn lấy vợ. Có con gái Tiến sĩ họ Tnệu có sắc đẹp, Chu ép con cưới về, nàng ấy về rồi thì vợ chồng cười nói với nhau rất vui vẻ, nhưng Xương vẫn ngủ một mình.

Hơn năm sau, Xương thi hương đậu Cử nhân, Chu càng thỏa dạ, nhưng tuổi ngày càng lớn càng mong có cháu nội để bế nên thường nói móc để chọc ghẹo Xương, nhưng Xương vẫn lờ đi như không hiểu. Bà mẹ thì không nhịn được, cứ sớm tối ngầy ngà, Xương biến sắc bỏ ra, nói "Ta đã muốn bỏ đi lâu rồi, nhưng chưa đi ngay vì nhớ tới ơn cha mẹ chăm sóc nuôi nấng thôi. Chứ thật ta không sao lấy vợ sinh con để thỏa ý cha mẹ đâu. Bây giờ thì xin đi, còn nàng ta xin tùy ý, muốn về nhà thì về". Bà mẹ đuổi theo kéo lại thì Xương đã ngã xuống, chỉ còn mũ áo không như xác ve lột, cả sợ ngờ là Xương đã chết, đó chỉ là hồn ma trở vể, đành ngậm ngùi đau xót mà thôi. Hôm sau, chợt Xương cưỡi ngựa dắt đầy tớ trở về, cả nhà khiếp sợ, tới gần hỏi han thì nói là bị người ác bắt đi bán cho nhà phú thương, phú thương không có con nên coi như con đẻ. Sau khi có Xương chợt sinh được một con trai, thấy Xương nhớ nhà nên cho đưa về.

Hỏi tới chữ nghĩa thì vẫn ngu độn như trước, mới biết đây đúng là xương, còn người vào trường phủ đỗ thi hương chỉ là ma giả làm Xương mà thôi. Nhưng trộm mừng là việc chưa bị tiết lộ, bèn bảo Xương nhận luôn danh hiệu Cử nhân. Vào phòng ngủ thì vợ mơn trớn đùa cợt như rất quen thuộc, mà Xương thì thẹn thò như mới cưới vậy, hơn năm thì sinh được một con trai.

Dị Sử thị nói: Người xưa nói hạng người tầm thường có phúc thì trong khoảng mũi miệng mắt mày khí sắc đều tầm thường, nhưng về sau phúc tới thì tinh quang rục rỡ, ma quỷ gì cũng phải bỏ đi. Đây thì vẻ tầm thường còn đó mà Cử nhân không thi cũng đỗ, vợ đẹp không cưới cũng có, huống hồ kẻ hơi có học hành, cố gắng thêm một chút sao!

183. Thần ở Hồ Phiên Dương (Phiên Dương Thần)

Hoắc Trạm Trì làm Tư lý huyện Nhiêu Châu (tỉnh Giang Tây), đi ngang hồ Phiên Dương, thấy trên hồ có đền thờ thần, dừng lại vào viếng. Trong đền có pho tượng Đinh Tấn Lang bằng gỗ mà nhà họ Hoắc vẫn cho là một vị thần đặt ở sau cùng. Hoắc nói "Đây là bậc tôn quý trong họ ta, sao lại đặt ở sau cùng?", bèn đưa lên ngôi vị phía trên. Kế lên thuyền đi, gặp trận gió lớn thổi gãy cột buồm, thuyền bị đắm, cả nhà kêu khóc. Chợt có một chiếc thuyền nhỏ lướt sóng tới, vòng cạnh thuyền quan kéo nhanh Hoắc lên, kế người nhà đều cùng leo lên, thấy người kia giống hệt vị thần của nhà họ Hoắc. Không bao lâu sóng lặng, nhìn lại thì người ấy đã biến mất.


184. Tiền Chảy
(Tiền Lưu)

Lưu Tông Ngọc người huyện Nghi Thủy (tỉnh Son Đông), có đầy tớ là Đỗ Hòa ngẫu nhiên di trong vườn, thấy tiền chảy như dòng nước, sâu rộng hai ba thước. Đỗ vừa sợ vừa mừng, lấy tay vốc một vốc, rồi nằm đè lên trên. Khi cúi xuống lần nữa thì dòng tiền đã biến mất, nhưng vốc tiền trong tay vẫn còn.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 185 - 190 -
Mắt Dương Sẹo

(Dương Ba Nhãn)

Một người thợ săn đêm vào trong núi, thấy một người lùn cao khoảng hai thước nhảy nhót đi dưới khe. Lúc sau lại một người nữa tới, cũng cao như thế, gặp nhau cùng trò chuyện, hỏi nhau đi đâu. Người tới trước nói "Ta định đi xem mắt Dương sẹo, lần trước gặp thấy khí sắc tối tăm, dữ nhiều lành ít". Người tới sau nói "Ta cũng nghĩ thế, ngươi nói không sai". Người thợ săn biết không phải là người bèn quát lớn, hai người lập tức biến mất. Đêm ấy săn được một con chồn, mắt bên trái có một cái sẹo lớn, to bằng đồng tiền.

186. Rồng Giả Nhện
(Long Hý Thù)

Từ công làm Huyện lệnh Tế Đông (tỉnh Sơn Đông), trong công thự có ngôi lầu, dùng để chứa thức ăn, liên tiếp bị ăn vụng, vung vãi cả ra trên đất, bọn gia nhân nhiều lần bị quở trách, bèn rình bắt. Thấy một con nhện to bằng cái đấu, sợ hãi chạy đi báo với ông, ông lấy làm lạ, bèn sai bọn thị tỳ hàng ngày vứt mồi cho ăn. Con nhện quen dần, lúc đói thì ra tìm người, ăn no thì bỏ đi. Hơn mấy năm, ông ngẫu nhiên đang duyệt văn án, con nhện chợt đến nằm mọp dưới bàn. ông cho rằng nó đói, vừa mới sai người nhà mang mồi cho ăn, đã thấy hai con rắn nhỏ bằng chiếc đũa nằm cạnh con nhện, con nhện co chân rút bụng, dáng vẻ rất sợ hãi. Trong chớp mắt rắn to ra bằng quả trứng ông sợ hãi bỏ chạy. Chợt một tiếng sấm lớn vang lên, cửa nẻo đổ sập, ông ngất đi, phu nhân và tôi tớ hoảng sợ chết mất bảy người, ông cũng bệnh hơn tháng thì chết. Ông là người liêm chính thương dân, ngày chôn cất, nhân dân tới phúng điếu khóc than đầy đường.

Dị Sử thị nói: Rồng giả làm nhện, thường nghĩ rằng là lời đồn đại ngoa truyền trong dân gian, chẳng lẽ lại có thật sao? Nghe nói sấm sét nổ vang là để đánh kẻ hung dữ, sao lại đánh vào người làm quan thanh liêm, thảm độc tới mức ấy, trời kia sao quá huyền bí như thế?

187. Sai Khiến Ma Quỷ
(Dịch Quỷ)

Thầy thuốc họ Dương ở Sơn Tây giỏi thuật châm cứu, lại có thể sai khiến ma quỷ, mỗi lần ra khỏi nhà thì cưỡi lừa cầm roi, đều là ma quỷ. Một đêm cùng bạn đi từ nơi khác về, trên đường gặp hai người to lớn dị thường, bạn cả kinh. Dương hỏi ai, hai người nói là Vương chân dài, Lý đầu to ra đón chủ nhân. Dương nói "Đi lên trước dẫn đường!", hai người cung cúc đi lên trước, Dương đi chậm thì đứng lại chờ, như là nô lệ vậy.

188. Nguyên 1ão Ba Triều
(Tam Triều Nguyên Lão)


I.
Quan Tể tướng nọ vốn làm quan triều Minh, từng hàng giặc, sĩ phu đều chê cười. Lúc già về nhà, dựng miếu thờ tổ tiên, có mấy người ghé vào ngủ đêm ở đó. Sáng ra, thấy trong miếu có một tấm biển đề “Nguyên lão ba triều” và một đôi câu đối viết "Một hai ba bốn năm sáu bảy, Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm", không biết treo lúc nào, lấy làm lạ nhưng không hiểu ý nghĩa. Có người đoán rằng "Vế đầu ngầm ý là Vương Bát. vế sau ngầm nói là vô sỉ"*, có lẽ đúng thế.

* Vế đầu vô sĩ: Ở đây có chỗ chơi chữ, vì vế đầu chỉ đếm tới số bảy, vế sau còn thiếu chữ "sỉ" (Hiếu đễ trung tín lễ nghĩa liêm sỉ). Vương Bát nguyên văn là “vong bát", nhưng trong Hán ngữ chữ "vong" (quên) được coi là đồng âm với chữ "vương" (họ Vương). Người Trung Quốc xưa hay dùng từ Vương Bát với ý nghĩa như quân khốn khiếp.


II.
Quan Kinh lược họ Hồng đánh phương nam khải hoàn, về ngang Kim Lăng, lập đàn tế tướng sĩ chết trận. Có người môn nhân cũ tới yết kiến, lạy xong xin trình bài văn tế. Hồng vốn ghét văn chương, lấy cớ mắt kém từ chối. Người ấy nói vậy xin cảm phiền cố nghe cho ta được đọc qua một lượt. Rồi rút bài văn tế trong tay áo ra cất giọng sang sảng đọc lớn, thì ra là bài văn của vua Sùng Trinh triều Minh cũ ngự chế tế Kinh lược họ Hồng*. Đọc xong khóc lớn bỏ đi.

*Kinh lược họ Hồng: tức Hồng Thừa Trù, cuối đời vua Sùng Trinh nhà Minh làm Tổng đốc Hà Bắc Liêu Dưong, đánh nhau với quân Thanh ở Tùng Sơn thua trận đầu hàng, sau giúp nhà Thanh đàn áp phong trào phản Thanh phục Minh, làm tới chức Vũ Anh điện Đại học sĩ của triểu Thanh. Sau trận Tùng Sơn có lời ngoa truyền Hồng đã tử trận nên vua Sùng Trinh đích thân làm bài văn tế Hồng.

189. Ánh Sáng Nửa Khuya
(Dạ Minh)

Có người khách buôn đi buôn ở Nam Hải, nửa đêm trong thuyền chợt sáng rực, trở dậy xem thì thấy có một con vật to lớn, nửa người nhô lên khỏi mặt nước sừng sững như núi, mắt như hai vầng dương mới mọc, ánh sáng soi khắp bốn phía, cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày. Y hoảng sợ hỏi nhà thuyền, không ai biết là gì, đều nằm rạp xuống nhìn trộm. Giây lát con vật ấy từ từ lặn xuống nước. Về sau y tới Mân Trung (vùng Phúc Kiến) người ở đó nói đêm ấy trời chợt sáng bừng rồi tối lại ai cũng cho là lạ lùng, tính lại thì đúng vào đêm y thấy sự quái lạ trên thuyền.

190. Tiếng Chim
(Điểu Ngữ)

Ở Trung Châu có đạo sĩ đi xin ăn trong làng xóm, ăn no rồi nghe tiếng quạ kêu, bèn nói với chủ nhân coi chừng cháy nhà. Chủ nhân hỏi duyên do, đáp “Chim vừa nói Cháy nhà khó cứu, sợ lắm!”. Mọi người đều cười, không ai đề phòng. Hôm sau, quả nhiên bị cháy, lan ra luôn mấy nhà, mới phục ông ta là thần. Có người hiếu sự theo hỏi, gọi ông ta là tiên. Đạo sĩ nói "Ta bất quá là nghe hiểu được tiếng chim thôi, đâu phải là tiên”. Lúc ấy có con chim sẻ kêu trên cây, mọi người hỏi nó nói gì, đạo sĩ đáp "Chim sẻ nói: Mừng sáu nuôi mừng sáu nuôi, mười bốn mười sáu thì chôn. Chắc là nhà nào có con sinh đôi, hôm nay là mùng mười, không quá năm sáu ngày nữa thì đều chết". Hỏi ra quả có hai đứa bé tự nhiên mà chết, ngày tháng đều đúng. Quan huyện nghe chuyện lạ, gọi đạo sĩ tới, đãi làm khách.
Gặp lúc có bầy vịt đi ngang sân, quan hỏi chúng nói gì, đạo sĩ đáp "Nội thất của minh công ắt đang có chuyện tranh cãi, vịt nói Bãi bãi, hỏi ông ta, hỏi ông ta". Quan huyện rất phục, đại khái vì thê thiếp cãi nhau, ông ta bực mình nên bỏ ra ngoài. Một hôm khác đang ngồi, bầy vịt lại đi ngang, quan huyện lại hỏi. Đạo sĩ đáp "Lời nói hôm nay khác với hôm trước, đại khái là chuyện minh công đang tính toán thôi". Hỏi tính toán chuyện gì, đáp “Chúng nói Sáp một trăm tám, tiền một ngàn tám”. Quan huyện thẹn, ngờ là đạo sĩ nói mỉa, đạo sĩ xin đi, quan huyện không cho. Qua mấy ngày, quan huyện tiếp khách chợt nghe tiếng chim cuốc kêu, khách hỏi, đạo sĩ đáp "Nó nói là Bãi quan về bãi quan về". Mọi người đều ngạc nhiên biến sắc, quan huyện cả giận, đuổi đạo sĩ đi. Không bao lâu, quả nhiên việc quan huyện ăn hối lộ bị phát giác. Than ôi, vị tiên kia đã răn trước rồi, mà tiếc cho người tham lam không chịu tỉnh ngộ!
Tục đất Tế (tỉnh Sơn Đông) gọi ve là “Sảo thiên", loại màu xanh là "Đô liễu”.Trong huyện ta có hai cha con, cùng là học trò hạng thanh xã* đi khảo khóa hàng năm. Chợt có con ve bay tới đậu vào áo, người cha mừng nói "Sảo thiên là điềm tốt". Một đứa nhỏ thấy thế cãi "Sảo thiên đâu mà sảo thiên, đô liễu đấy". Hai cha con không vui, kế quả nhiên đều thi rớt, bị truất về làm dân**.
* Hạng thanh xã: Học chính toàn thư chép thời Thanh có lệ khảo khóa học trò hàng năm, chia làm sáu hạng mà thăng giáng, hạng thứ năm và thứ sáu gọi là thanh và xã, nếu lại thi rớt sẽ bị truất làm dân.
** Quả nhiên... làm dân: ở đây có chỗ chơi chữ. “Sảo thiên” nghĩa đen là hơi khác đi, nên người cha mới mừng, cho là điềm thi đỗ, sẽ được lên hạng, nhưng “Đô liễu” nghĩa đen là đều thôi rồi, đây ý nói đó là điềm báo cả hai cha con cùng bị truất.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển XI - 191 - 193-
Lăng Giác
(Lăng Giác)

Hồ Đại Thành là người đất Sở (tỉnh Hồ Nam). Mẹ vốn thờ Phật, trên đường Thành đi học tới trường có miếu thờ Quan âm, mẹ dặn đi qua là phải vào làm lễ. Một hôm vào miếu, thấy có cô gái dắt theo đứa nhỏ đùa giỡn bên trong, tóc xõa che hết trán nhưng phong thái rất yêu kiều. Năm ấy Thành mười bốn tuổi, trong lòng ưa thích bèn hỏi tên họ, cô gái đáp "Ta là con gái của người thợ vẽ họ Tiêu nhà ở phía tây miếu này, tên Lăng Giác. Anh hỏi làm gì vậy?". Thành lại hỏi đã có chồng chưa, cô gái bẽn lẽn đáp "Chưa". Thành hỏi “Ta làm rể nhà em có được không?", cô gái thẹn thùng nói "Chuyện đó ta không làm chủ được" nhưng đưa mắt long lanh nhìn Thành từ trên xuống dưới, có ý vui mừng, Thành bèn trở ra. Cô gái theo sau dặn với "Cha ta vốn quý trọng ông Thôi Nhĩ Thành, cứ nhờ ông mai mối chắc là được". Thành đáp "Được rồi". Vì thấy nàng thông minh lại đa tình nên càng hâm mộ, về nói hết với mẹ. Mẹ chỉ có Thành là con nên ít khi trái ý, lập tức nhờ ông Thôi làm mai. Nhưng họ Tiêu đòi sính lễ nhiều nên việc không thành, Thôi ra sức thuyết phục rằng Thành là con nhà tử tế lại có tài, Tiêu mới ưng thuận.

Thành có ông bác già mà không con, làm học quan ở Hồ Bắc, vợ chết tại nhiệm sở, mẹ Thành sai con tới giúp việc tang. Mấy tháng sau Thành định về thì ông bác lại chết, phải ở lại ít lâu nữa. Gặp lúc có toán giặc lớn cướp phá Hồ Nam, tin nhà đứt hẳn. Thành trốn lánh trong dân gian, sống thui thủi một mình một bóng mà thôi. Một hôm có bà già khoảng bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi tới đi quanh làng đến tận trưa, nói rằng gặp lúc loạn lạc không có nhà cửa mà về, định tự bán mình. Có người hỏi giá, bà đáp "Không thèm làm đầy tớ, cũng không muốn làm thê thiếp, chỉ cần có kẻ chịu nhận làm mẹ thì ta sẽ theo về không cần giá cả", ai nghe thấy cũng cười. Thành tới nhìn diện mạo thì thấy có hai ba phần giống mẹ mình, động lòng thương xót. Lại thầm nghĩ rằng mình lẻ loi một thân, không ai may vá cho bèn đón về, đối xử như kẻ làm con. Bà già vui mừng, từ đó nấu cơm khâu giày cho Thành, ân cần như mẹ, Thành làm việc gì trái ý thì trách mắng, song hơi có điều gì buồn khổ thì vỗ về an ủi như con đẻ.

Một hôm chợt nói với Thành "Sống ở đây yên ổn nhưng may mắn mà không được vui vẻ, có điều con đã lớn, dẫu là ở nơi đất khách quê người nhưng nhân luân không thể bỏ phế. Hai ba ngày nữa mẹ sẽ cưới vợ cho con". Thành khóc nói "Con đã có vợ rồi, chỉ là nam bắc đôi nơi cách trở thôi". Bà già nói “Thời loạn ly thì việc người cũng đổi thay, làm sao chờ được?". Thành lại khóc nói “Chưa nói tới việc vợ chồng đã hẹn ước với nhau thì không thể phụ bạc, cứ nghĩ xem ai lại đem con gái cưng gả cho kẻ rày đây mai đó?". Bà già không đáp, chỉ lo may sắm rèm màn chăn gối, chuẩn bị rất đầy đủ chu đáo, Thành cũng không biết vợ ở đâu ra. Một hôm trời vừa tối, bà dặn Thành "Ở nhà một mình đừng có ngủ, để mẹ đi xem cô dâu mới tới chưa”, rồi ra cửa đi. Đến hết canh ba vẫn chưa về, Thành rất đỗi ngờ vực lo lắng, chợt nghe ngoài cửa có tiếng ồn ào, ra nhìn thì thấy có một cô gái ngồi trong sân, tóc tai rối bời đang khóc nức nở.

Thành ngạc nhiên hỏi han nhưng cô ta không đáp, hồi lâu mới nói "Anh cưới ta về đây không phải là điều may đâu, ta chỉ có chết thôi". Thành hoảng sợ không biết chuyện gì, cô gái nói "Ta lúc trẻ đã lấy Hồ Đại Thành, không ngờ chàng đi Hồ Bắc không có tin tức gì, cha mẹ ép ta về với anh, thân ta thì còn bắt về được chứ lòng ta thì không bắt theo được đâu”. Thành nghe thấy òa khóc, nói "Ta là Hồ Đại Thành đây, nàng là Lăng Giác đấy ư?". Cô gái hoảng sợ nín bặt, đầu tiên còn không tin, kế theo vào nhà thắp đèn nhìn kỹ mới nói "Không phải là nằm mơ chứ?". Rồi đổi buồn làm vui, cùng nhau kể lễ nỗi niềm xa cách nhớ nhung. Vốn trước đó trong cơn loạn lạc thì đất Hồ Nam hàng trăm dặm không có bóng người, họ Tiêu dắt gia đình chạy tới phía đông Trường Sa (tỉnh thành Hồ Nam), lại hứa gả con gáỉ cho Chu sinh, nhưng đang loạn lạc không thể làm đám cưới nên đên ấy đưa con gái tới nhà Chu. Cô gái khóc không chịu sửa soạn gì cả, người nhà cứ ép đẩy lên kiệu, trên đường đi cô gái lăn ra khỏi kiệu rơi xuống đất, chợt có bốn người khiêng kiệu tới nói là người của nhà họ Chu đón dâu, đỡ nàng lên kiệu, đi nhanh như bay, tới đây mới dừng. Có một bà già kéo vào sân nói "Đây là nhà chồng cô, cứ vào đừng có khóc, mẹ chồng cô thì vài hôm nữa sẽ gặp thôi", rồi đi mất.

Thành hỏi rõ mọi việc mới biết bà già là thần, hai vợ chồng bèn thắp hương cùng khấn khứu xin cho mẹ con được đoàn tụ. Mẹ Thành từ khi binh lửa dấy lên, cùng các bạn bè phụ nữ chạy vào hang núi ẩn náu. Một đêm nghe đồn ầm lên là giặc tới, mọi người kinh hoàng chạy trốn tứ tán. Chợt có một đồng tử đưa ngựa cho mẹ Thành cưỡi, đang lúc gấp rút bà cũng không kịp hỏi là ai. Đồng tử đỡ bà lên ngựa, ngựa phi rất nhanh, chớp mắt đã tới bên hồ*. Ngựa đạp trên mặt nước phóng như bay, dưới vó không hề nổi sóng. Không bao lâu đồng tử đỡ bà xuống, chỉ một căn nhà nói "Trong đó ở được đấy". Mẹ Thành lạy tạ, ngẩng đầu nhìn thì thấy ngựa đã biến thành con Kim mao hẩu** cao hơn trượng, đồng tử nhảy lên dong đi. Mẹ Thành vừa gõ cổng thì thấy cánh cổng đã mở, có người bước ra hỏi, nghe giọng nói quen thuộc lấy làm lạ, nhìn kỹ thì té ra là Thành. Mẹ con ôm nhau khóc, vợ Thành cũng kinh ngạc choàng dậy, cả nhà vô cùng mừng rỡ. Ngờ rằng bà già là Quan âm đại sĩ*** hiện thân, vì vậy càng chuyên cần tụng kinh Quan âm, từ đó ở luôn lại Hồ Bắc, dựng nhà làm ruộng ở đó.

* Hồ: tức hồ Động Đình, ngăn cách hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc.

**Kim mao hẩu: thần thú lông vàng, vẫn được gọi là sư tử lông vàng. Chữ "hẩu” theo âm Việt Hán là "khổng", đây đọc theo Thanh âm. Ở nhiều chùa chiền và trong các lễ hội của người Nam Bộ thường có thờ cúng và nghi lễ "múa hẩu”, chính là xuất phát từ các truyện tích về con Kim mao hẩu này.

***Quan âm đại sĩ: tức Quan Thế âm Bồ tát.

192. Hình Tử Nghi
(Hình Tử Nghi)

Huyện Đằng (tỉnh Sơn Đông) có Dương Mỗ theo đảng Bạch Liên giáo học được phép thuật tả đạo. Sau khi Từ Hồng Nho bị giết Dương may mắn lọt lưới, bèn đem phép thuật ngao du khắp nơi, trong nhà thì vườn ruộng lầu gác đủ cả, nổi tiếng giàu có. Tới nhà thân hào ở Tứ Thượng (thuộc tỉnh Sơn Đông), dùng ảo thuật làm trò vui, đàn bà con gái trong nhà đều ra xem, Dương liếc thấy con gái nhà ấy xinh đẹp, khi về nhà mưu bắt cóc. Vợ kế Dương là Chu thị cũng phong vận, Dương bèn cho nàng ăn mặc lộng lẫy giả làm tiên nữ, đưa cho con chim gỗ dạy cách sử dụng, rồi dắt lên lầu đẩy ra. Chu thấy thân thể nhẹ như chiếc lá lãng đãng theo mây bay đi, không bao lâu đám mây dừng lại không bay nữa, biết là đã tới nơi. Đêm ấy trăng sáng vằng vạc, từ trên nhìn xuống thấy rõ cả, Chu bèn cầm con chim gỗ ném xuống, con chim xòe cánh bay thẳng tới phòng cô gái. Cô gái thấy con chim màu sặc sỡ bay vào, gọi tỳ nữ bắt lấy thì nó đã tung rèm cửa lướt ra ngoài. Cô gái đuổi theo, con chim rơi xuống đất đập cánh phành phạch, vừa tới gần thì nó vọt lên đũng quần, giãy giụa rồi đội cô gái bay lên, xông thẳng vào trong mây. Cô gái kêu gào, Chu đứng trong mây nói "Người hạ giới đừng sợ, ta là Hằng Nga trong Nguyệt điện đây. Ngươi là con gái thứ chín của Vương mẫu ngẫu nhiên bị đày xuống trần, Vương mẫu hàng ngày nhớ nhưng nên tạm gọi lên gặp một lần, rồi sẽ đưa về ngay thôi", rồi buộc tay áo vào nhau mà đi.

Vừa tới địa giới huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) thì gặp người ta bắn pháo hoa trúng cánh chim, con chim hoảng sợ sa xuống kéo cả Chu theo, rơi vào nhà một người Tú tài. Người Tú tài tên Hình Tử Nghi, nhà rất nghèo nhưng tính cương trục. Có người đàn bà láng giềng đang đêm qua khêu gợi, Hình cự tuyệt không cho vào, người đàn bà căm tức bỏ đi, đặt điều với chồng là Hình dụ dỗ. Ngươì chồng vốn là kẻ vô lại, sáng chiều tới trước cổng chửi mắng, Hình vì vậy bán nhà qua ở thôn khác. Nghe nói có thầy tướng họ Cố giỏi đoán phúc thọ của người, bèn tới gặp. Cố vừa nhìn thấy cười nói “Ông giàu có ngàn chung, sao lại mặc áo rách tới gặp người, định nói ta có mắt không tròng sao?". Hình chê nói sai, Cố nhìn kỹ rồi nói "Đúng thế, tuy còn nghèo khổ nhưng hầm vàng không còn xa đâu”. Hình lại chê nói sai, Cố nói “Không những hoạnh tài giàu có mà còn được vợ đẹp nữa kia". Hình vẫn không tin, Cố đẩy ra cửa nói "Cứ đi đi, cứ đi đi, khi nghiệm rồi ta mới tới lấy tiền tạ on mà”. Đêm ấy Hình ngồi một mình dưới trăng, chợt có hai cô gái trên không rơi xuống, nhìn thấy đều xinh đẹp, sợ hãi cho là yêu quái bèn gặng hỏi.

Ban đầu họ không chịu nói, Hình toan kêu lớn gọi láng giềng tới, Chu sợ mới nói thật, lại xin đừng lộ chuyện ra, hứa sẽ theo hầu hạ suốt đời. Hình nghĩ con gái nhà thế gia không cùng loại với với vợ kẻ yêu nhân bèn sai người báo cho gia đình cô gái. Cha mẹ cô gái từ khi con gái bay đi cùng khóc lóc lo sợ, chợt được thư báo tin, mừng rỡ quá đỗi, lập tức sắp sửa xe kiệu tới ngay, tạ ơn Hình trăm lượng vàng rồi đưa con gái về. Hình được vợ đẹp đang lo nhà nghèo chỉ có bốn bức vách, được vàng rất khoan khoái, qua tạ ơn Cố, Cố lại nhìn mặt nói “Chưa phải đâu, chưa phải đâu, vận may đã tới, trăm lượng vàng có đáng gì?”, rồi không nhận tiền tạ ơn. Vốn là họ Thân về rồi bèn xin quan trên bắt Dương, Dương đoán biết nên đã bỏ trốn không biết đi đâu, quan bèn tịch biên gia sản, phát lệnh bắt Chu. Chu sợ hãi kéo áo Hình khóc lóc, Hình cũng hết cách, chỉ tạm hối lộ cho đám công sai rồi thuê xe kiệu chở Chu tới nhà Thân năn nỉ xin cứu giúp. Thân cảm vì có nghĩa nên hết sức chạy chọt, được nộp tiền chuộc tội cho Chu, bèn giữ cả hai vợ chồng ở lại trong nhà, vui vẻ như thân thích.

Con gái Thân lúc nhỏ đã nhận sính lễ của họ Lưu, Lưu nhất thời làm quan vinh hiển, nghe nói cô gái từng ngủ lại nhà Hình, cho là nhục nhã bèn gởi thư tuyệt hôn. Thân bàn gả cho người khác, cô gái nói với cha mẹ thề theo Hình. Hình nghe rất mừng, Chu cũng mừng, tình ngưyện xin làm vợ lẽ, nhưng Thân còn lo là Hình nghèo khổ. Lúc ấy nhà cửa của Dưong được quan dem bán đấu giá, Hình mua rồi hai vợ chồng cùng về, bỏ tiền túi ra mua đồ đạc thuê tôi tớ, trong mươi ngày đã hết sạch tiền, chỉ mong cô gái tới để được Thân giúp đỡ. Một đêm Chu nói với Hình rằng “Người chồng tội lỗi của thiếp là Dương Mỗ có chôn ngàn lượng vàng dưới lầu, chỉ có thiếp biết, mới rồi ra chỗ đó xem thấy gạch đá vẫn còn nguyên, có khi hầm vàng chôn cất vẫn còn nguyên chưa biết chừng". Bèn cùng nhau tới đó đào lên, quả tìm được vàng, vì thế tin Cố xem tướng hay, tạ ơn rất hậu. Sau đó cô gái vu quy, mang về rất nhiều tiền bạc, chỉ trong vài năm Hình trở nên giàu có đứng đầu một quận.

Dị Sử thị nói:Bạch Liên bị diệt mà họ Dương không chết, lại còn giàu lên làm người ta suýt cho rằng lưới trời lồng lộng kia thưa nên gần lọt, nhưng nào biết sở dĩ trời lưu Dương lại chỉ là vì Hình. Nếu không thì Hình tuy bỉ cực thái lai nhưng làm sao trong chớp mắt xây lầu gác, có ngàn vàng được? Không yêu một người đẹp mà trời đền đáp cho hai người, than ôi, tạo vật không nói gì, nhưng ý tứ có thể thấy được vậy.

193. Lục Áp Quan
(Lục Áp Quan)

Ông Triệu ở huyện Vũ Lăng tỉnh Hồ Quảng làm quan tới chức Cung chiêm thì trí sĩ về nhà, chợt có một thiếu niên tới cổng xin giúp việc giấy tờ. Ông cho gọi vào, thấy nho nhã như học trò, hỏi họ tên thì nói là Lục áp Quan, không cần tiền công, ông bèn giữ lại. Lục thông tuệ hơn đám tôi tớ bình thường, thư từ của ông gởi đi đều cho y tùy ý mà viết, lá nào cũng văn hoa. Lại những lúc chủ nhân chơi cờ với khách, Lục liếc qua rồi chỉ nước là thắng, Triệu vì thế càng yêu mến. Bọn tôi tớ thấy y được chủ nhân coi trọng, hùa nhau trêu chọc, đòi phải mời tiệc. Áp Quan ưng thuận, nhân hỏi tất cả có bao nhiêu người, vừa lúc tá điền các nơi về tính sổ, khoảng hơn ba mươi người, họ tính luôn cả vào để làm khó. Áp Quan nói "Bấy nhiêu thì rất dễ, nhưng khách đông, lúc bất ngờ không lo liệu kịp, xin mời ra quán rượu”. Rồi mời tất cả ra quán rượu ngoài phố.

Ngồi yên xong, rượn vừa bày ra, có người cầm bầu đứng lên nói "Các anh khoan hãy rót. Xin hỏi hôm nay ai đứng ra mời? Nên đưa tiền ra làm tin trước mới có thể yên tâm nhậu nhẹt, nếu không uống một hồi vài ngàn chén rồi tan về thì lấy đâu mà trả?". Mọi người đều nhìn Áp Quan, Áp Quan cười nói "Các vị nói ta không có tiền chắc? Ta có đủ đây!”, rồi đứng lên vói vào mâm nắm lấy một vắt mì ướt bằng nắm tay, ngắt ra ném lên bàn, đều biến thành chuột nhắt chạy rối rít đầy bàn. Áp Quan chụp bừa một con xé làm đôi, kêu chóe một tiếng thì bụng toác ra, lấy được một thỏi vàng nhỏ. Bắt tiếp con nào cũng thế, phút chốc hết chuột thì vàng vụn chất đầy trước mặt, rồi nói “Bấy nhiêu mà không đủ cho bọn mình uống rượu à!”, mọi người đều kinh lạ, kế cùng nhau uống thả sức.

Tan tiệc, tính ra hơn ba lượng vàng, mọi người đem cân mớ vàng vụn thì vừa đủ số. Có kẻ định bẩm lại chuyện lạ cho chủ nhân biết nên xin một mẩu nhỏ bỏ túi, về tới nhà kể lại cho Triệu nghe, Triệu bảo đưa mẩu vàng cho xem, tìm lại thì đã mất. Quay lại hỏi chủ quán thì vàng đều hóa ra gai góc, về bẩm với Triệu. Triệu căn vặn, Áp Quan nói “Anh em bạn đòi ta phải đãi tiệc, nhưng thật tình túi rỗng không tiền, lúc nhỏ học được trò mua vui, nên làm thử thôi”. Mọi người lại bắt trả tiền rượu, Áp Quan nói "Ta không phải là kẻ ăn quịt đâu ở thôn Mỗ có mớ rơm đem ra đập lại có thể được hai thạch lúa mì, thừa sức trả tiền rượu”, rồi mượn một người đi theo. Sẵn dịp người tá điền thôn ấy về, bèn đi cùng. Tới nơi thấy lúa mì đã giê sạch, đổ đống trên sân tới mấy hộc, mọi người vì vậy càng lấy làm lạ lùng. Một hôm Triệu tới nhà bạn dự tiệc, thấy giữa phòng có chậu lan rất tươi tốt thích lắm, về nhà cứ khen ngợi mãi. Áp Quan nói "Nếu quả thật ông thích thứ lan ấy thì cũng không khó!".

Triệu còn chưa tin, sáng sớm vào phòng sách chọt ngửi thấy mùi hương lạ thơm phức, nhìn lại thì có một chậu lan, cành lá chỗ thưa chỗ dày đều giống hệt như chậu lan mình đã thấy, nghi là y ăn cắp về bèn căn vặn. Áp Quan nói "Hoa cỏ nhà ta gom trồng có hàng trăm hàng ngàn loại, cần gì phải ăn cắp!", Triệu cho là y nói dối, vừa gặp lúc người bạn kia tới chơi, nhìn thấy chậu lan, giật mình nói "Sao mà giống hệt chậu lan nhà ta!". Triệu nói "Ta vừa mua được, nhưng cũng không biết vì sao họ có mà bán, mà lúc ra khỏi nhà, ông còn nhìn thấy chậu lan không?". Người bạn đáp "Ta không vào phòng sách nên không biết là còn hay mất, nhưng làm sao mà nó tới đây được!" Triệu nhìn Áp Quan, Áp Quan nói "Chuyện này không có gì khó, cái chậu nhà ông bị vỡ, có vá một chỗ, còn cái chậu này thì lành", kế xem lại mới tin là đúng.

Tối đến Áp Quan nói với chủ rằng “Trước nay ta nói ở nhà ta có nhiều hoa cỏ ai cũng ngờ là dối trá, nay phiền ông dời gót ngọc, nhân lúc sáng trăng tới xem một chuyến, nhưng mọi người đều không ai theo được, duy A Áp thì không sao”. Áp vốn là tiểu đồng của Triệu, ông bèn theo lời. Ra khỏi nhà đã có bốn người khiêng kiệu chờ bên đường, Triệu bước lên thấy đi nhanh hơn ngựa phi, phút chốc vào tới núi sâu, chỉ ngửi thấy mùi hương lạ thấm vào tận xương tủy. Không bao lâu tới một tòa động phủ, thấy nhà cửa cao ráo sáng sủa khác hẳn nhân gian, nơi nào cũng đặt đá trồng hoa, chậu bồn xinh xắn ngời sáng tỏa hương, loại lan nào cũng có vài mươi chậu, thảy đều tươi tốt đẹp đẽ, Triệu xem xong Áp Quan lại sai kiệu đưa về. Áp Quan theo Triệu hơn mười năm, sau Triệu không bệnh mà chết, Áp Quan bèn dắt A Áp ra cửa không biết là đi đâu.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 194 -
Trần Tích Cửu
(Trần Tích Củu)

Trần Tích Cửu là người huyện Phì (thuộc tỉnh Giang Tô). Cha là Tử Ngôn, là bậc danh sĩ trong huyện, có nhà giàu họ Chu thấy có tiếng tăm bèn đính ước làm thông gia. Trần thi mấy lần không đỗ mà nhà lại nghèo, bèn du học tới đất Tần (tỉnh Thiểm Tây) mấy năm không có tin tức gì. Chu vì vậy ngầm có ý hối hôn, lại gặp lúc gả con gái út làm vợ kế Hiếu liêm họ Vương, thấy Vương nộp sính lễ rất hậu, người mạnh ngựa khỏe nên càng chán ghét Tích Cửu nghèo hèn, quyết ý tuyệt hôn. Hỏi con gái thì nàng không chịu, Chu tức giận cho ăn mặc xấu xí đưa tới gả cho Tích Cửu, tám chín ngày bếp không nổi lửa, Chu cũng không thương xót gì lắm. Một hôm sai bà già làm thuê mang thức ăn tới cho cô gái, vào nhà nhìn mẹ Tích Cửu nói "Ông chủ sai ta tới xem cô nhà chết đói chưa". Cô gái sợ mẹ chồng xấu hổ, gượng cười nói át đi, nhân dọn thức ăn ra trước mặt mẹ. Bà già kia ngăn lại nói "Không cần làm thế, từ khi cô về đây chưa từng uống qua một chén nước suông của nhà họ, thức ăn của nhà ta chắc lão lão đây không mặt mũi nào mà ăn đâu" Bà mẹ tức xanh cả mặt lạc cả giọng, bà già cũng không sợ, lớn tiếng xỉa xói, đang lúc ầm ĩ thì Tích Cửu từ ngoài vào, hỏi biết chuyện nổi giận túm tóc người đàn bà vả vào mặt rồi tống ra khỏi cửa.
Hôm sau Chu tới đón con gái, nàng không chịu về, hôm sau nữa Chu lại tới, dắt thêm nhiều người chửi bới rầm rĩ như định gây sự đánh nhau, bà mẹ gượng khuyên cô gái về, nàng gạt lệ lạy mẹ rồi lên kiệu đi. Vài hôm sau Chu lại sai người tới bắt Tích Cửu làm tờ tình nguyện ly hôn, mẹ ép Tích Cửu viết, chỉ mong Tử Ngôn trở về sẽ tính cách khác. Họ hàng Chu có người từ Tây An (tỉnh thành Thiểm Tây) tới, biết Tử Ngôn đã chết từ lâu, bà Trần đau thương uất ức thành bệnh rồi chết. Trần lúc tang gia bối rối đợi vợ về nhưng mãi không thấy, càng thêm bi phẫn, có mấy mẫu ruộng xấu bèn đem cầm bán làm đám tang. Chôn cất xong Tích Cửu lên đường, vừa đi vừa xin ăn, tới đất Tần mong tìm hài cốt của cha.

Tới Tây An hỏi thăm khắp nơi, có người nói vài năm trước có một thư sinh chết ở quán trọ, người ta chôn ngoài cửa đông, nay mồ mả đã mất dấu. Tích Cửu không biết làm sao, chỉ còn cách sáng ra chợ ăn xin, tối vào chùa ngủ nhờ để chờ tìm người biết chỗ. Một tối đi ngang đám mả hoang gặp mấy người ra chặn đường đòi trả tiền cơm, Tích Cửu nói "Ta là người xứ khác, ăn xin ở đây, thiếu tiền cơm các vị lúc nào?". Bọn kia cùng nổi giận xúm lại đè Tích cửu xuống đất, lấy cái áo rách của trẻ con chôn ở đó nhét vào miệng rồi đấm đá. Tích Cửu kiệt sức khản tiếng, dần dần nguy cấp, chợt cả bọn hoảng sợ nói “Quan nha ở đâu tới thế này” rồi bỏ Tích Cửu ra biến mất. Giây lát có xe ngựa kéo tới sai xem người nằm là ai, lập tức có mấy người đỡ Tích Cửu lên dắt tới trước xe. Người trong xe nói “Con ta đây mà, lũ quỷ mất dạy kia sao dám thế! Đuổi ngay theo trói chúng nó lại, không được để đứa nào chạy thoát".

Tích Cửu thấy có người rút nắm giẻ nhét miệng ra, định thần nhìn kỹ thì đúng là cha mình, khóc lớn nói "Con tìm hài cốt cha khổ quá, nay cha vẫn còn sống sao?". Cha nói "Ta không phải là người mà là Tổng quản Thái Hàng, chuyến này tới đây cũng vì con đấy". Tích Cửu càng khóc lóc thảm thiết, cha dịu ngọt an ủi, Tích Cửu vừa khóc vừa kể chuyện nhạc gia hối hôn. Cha nói "Đừng lo, nay vợ con đang ở chỗ mẹ, mẹ nhớ con lắm, cứ tạm tới đó một lúc đã". Bèn bảo lên xe cùng ngồi đi như mưa bay gió cuốn, khoảnh khắc tới một nơi công thự, xuống xe vào mấy lần cửa thì thấy mẹ ở đó. Tích Cửu sụt sùi khóc nghe dạy, thấy vợ đứng gần mẹ bèn hỏi "Vợ con ở đây thì cũng đã chết rồi sao?". Mẹ đáp "Không phải, đây là cha con đón tới, chờ con về rồi sẽ đưa đi ngay". Tích Cửu nói “Con xin ở lại hầu hạ cha mẹ chứ không muốn về”. Mẹ nói "Con cay đắng lặn lội tới đây chỉ vì tìm hài cốt của cha, nay nếu không về thì chí trước thế nào? Vả lại con hiếu hạnh đã thấu tới Thiên đế, người đã cho con giàu có muôn lượng vàng, vợ chồng còn được huởng nhiều lắm, sao lại nói không về?".

Tích Cửu sa nước mắt, cha hối thúc mấy lần, Tích Cửu khóc lạc cả tiếng, cha tức giận hỏi "Ngươi không đi phải không?”. Tích Cửu sợ hãi nín khóc, mới hỏi mộ cha ở đâu, cha kéo đi nói “Ngươi đi thì ta sẽ nói cho, cứ ra khỏi đám mả hoang hơn trăm thước, có hai cây bạch du một lớn một nhỏ là đúng", rồi kéo đi rất gấp, cũng không kịp từ biệt mẹ. Ngoài cửa có người đầy tớ khỏe mạnh dắt ngựa đứng chờ, Cửu lên ngựa rồi cha dặn thêm "Chỗ con nằm ngủ mọi khi có chút ít tiền đi đường, phải mau mau thu xếp về ngay, tới chỗ ông nhạc đòi vợ lại, chưa đòi được thì đừng thôi". Tích Cửu vâng dạ lên đường, ngựa đi rất mau, lúc gà gáy thì tới Tây An, người đầy tớ đỡ xuống ngựa, Tích Cửu còn đang vái chào nhờ cám ơn cha mẹ thì người ngựa đã biến mất. Bèn lần về chỗ ngủ mọi hôm, dựa vào vách ngồi nghỉ chờ sáng, thấy chỗ ngồi có hòn đá to bằng nắm tay cấn vào đùi, trời sáng nhìn lại thì là một nén bạc. Liền mua quan tài thuê xe tới chỗ hai cây bạch du tìm được hài cốt cha, bốc mộ quay về.

Hợp táng với mẹ xong thì nhà không còn gì, may mà người làng thương là có hiếu đều cho ăn uống. Định đi đòi vợ nhưng tự liệu là không đủ sức đánh nhau, bèn rủ người anh họ là Thập Cửu cùng đi. Tới nhà Chu người giữ cổng chặn lại đuổi đi, Thập Cửu vốn là kẻ vô lại bèn chửi mắng ầm ĩ. Chu sai người ra khuyên Tích Cửu về, hứa sẽ đưa con gái tới ngay, Tích Cửu bèn trở về. Lúc trước cô gái về nhà, Chu trước mặt nàng cứ chửi bới con rể và bà thông gia, cô gái không nói gì chỉ quay vào vách sa nước mắt. Bà Trần chết Chu cũng không cho nàng biết, khi được tờ tình nguyện ly hôn còn ném trước mặt nàng nói “Nhà họ Trần đuổi ngươi rồi đây!". Cô gái nói "Con chưa từng hung dữ ngỗ ngược, sao họ lại đuổi con?", rồi muốn trở về hỏi cho ra lẽ, nhưng Chu cấm cản không cho đi. Sau đó Tích Cửu đi Tây An, Chu lại phao tin Tích Cửu đã chết để con gái hết trông đợi nữa. Chuyện ấy vừa đồn ra, có quan Trung hàn họ Đỗ tới hỏi cưới Chu ưng thuận, sắp tới ngày cưới cô gái mới biết, khóc lóc bỏ ăn, lấy khăn phủ lên mặt, hơi thở chỉ còn như sợi tơ.

Chu đang lúc không biết làm sao thì thấy Tích Cửu tới cổng chửi bới không nể nang gì, nghĩ rằng con gái ắt sẽ chết bèn đưa nàng tới nhà Tích Cửu, định là con gái chết rồi sẽ ra tay cho hả giận. Tích Cửu về tới nhà thì bọn người đưa cô gái cũng tới, còn sợ Tích Cửu thấy nàng bệnh nặng không chịu nhận vào, bèn khiêng vào cửa đặt xuống đó rồi ra về ngay. Láng giềng lo lắng thay, đều bàn táng trả lại cho Chu nhưng Tích Cửu không chịu, đỡ nàng lên giường thì đã tắt hơi, mới cả sợ. Đang lính quýnh thì con Chu dắt mấy người vác khí giới xông vào đập phá hết nhà cửa Tích Cửu chạy trốn, bọn kia lùng sục khắp nơi. Láng giềng ai cũng bất bình, Thập Cửu bèn họp hơn mười người xông vào đánh cứu, anh em con họ Chu đều bị đánh sứt đầu mẻ trán phải bỏ chạy. Chu càng tức giận, kiện lên quan, quan sai bắt bọn Tích Cửu Thập Cửu. Tích Cửu lúc sắp lên quan, nhờ láng giềng trông nom giúp xác vợ, chợt nghe trên giường như có tiếng thở tới gần xem thì nàng đã mở mắt ra, giây lát thì đã xoay người lại được. Tích Cửu mừng quá, lên quan phân trần, quan huyên giận Chu vu cáo, Chu sợ, phải đút lót rất hậu mới khỏi tội.

Tích Cửu trở về, vợ chồng nhìn nhau vừa mừng vừa tủi. Trước là lúc cô gái bỏ ăn nằm yên, đã định bụng quyết chết, chợt có người vào kéo dậy nói "Ta là gia nhân họ Trần đây, mau mau đi theo ta thì vợ chồng được gặp nhau, nếu không thì không kịp đâu”. Nàng bất giác thấy mình đã ra ngoài cổng, có hai người đỡ lên kiệu, khoảnh khắc đã tới một nơi công thự, thấy cha mẹ chồng đều ở đó. Nàng hỏi đây là nơi nào, mẹ chồng đáp “Không cần hỏi, rồi sẽ đưa con về”. Một hôm thấy Tích Cửu tới đã mừng thầm, nhưng vừa gặp đã chia tay, trong lòng lạ lùng ngờ vực. Cha chồng thì không rõ làm việc gì mà mấy ngày không về nhà, đêm sau chợt về nói "Ta ở núi Vũ Di (thuộc huyện Sùng An tỉnh Phúc Kiến) về muộn mất hai hôm, khó lòng giữ gìn cho con trai, phải đưa con dâu về ngay". Rồi lấy xe kiệu đưa cô gái về, nàng chợt thấy nhà cửa, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng. Cô gái và Tích Cửu cùng kể lại việc đã qua, đều ngạc nhiên mừng rỡ, từ đó vợ chồng lại được sum họp, nhưng sớm tối không biết lấy gì mà ăn.

Tích Cửu bèn mở trường dạy trẻ trong thôn, lại ra sức học hành, thường tự nhủ "Cha nói trời cho nhiều tiền lắm, nay thì nhà trơ bốn bức vách, chẳng lẽ dạy trẻ con mà phát tích được sao?". Một hôm từ trường về, gặp hai người hỏi "Ông là Trần Mỗ phải không?". Tích Cửu đáp phải, hai người lập tức rút xích sắt ra xiềng lại, Tích Cửu không hiểu vì sao. Giây lát người làng xúm lại hỏi han, mới biết là bị bọn cướp trên quận khai gian. Mọi người thương là oan, gúp tiền đút lót cho hai người công sai, nhờ thế dọc đường Tích Cửu cũng không bị hành hạ. Tới quận ra mắt Thái thú, Tích Cửu kể lại gia thế, Thái thú ngạc nhiên nói "Đây là con bậc danh sĩ, dáng vẻ nho nhã như thế đời nào lại làm giặc", rồi sai tháo xiềng cho Tích Cửu giải bọn cướp lên tra tấn thật tàn nhẫn, chúng mới cùng khai là do Chu cho tiền dặn làm thế. Tích Cửu thuật lại đầu đuôi chuyện cha vợ chàng rể trở mặt vói nhau, Thái thú càng giận dữ, lập tức ra lệnh bắt Chu rồi bày tlệc mời Tích Cửu, nói chuyện thân thuộc, té ra Thái thú là con Tri huyện cũ đất Phì là Hàn công, từng là học trò của Tử Ngôn.

Kế tặng Tích Cửu một trăm lượng vàng làm tiền nghiên bút, lại đưa hai con ngựa đỡ chân, rồi vì Tích Cửu bất chợt lên quận nên hỏi lấy văn bài gởi tới các quan trên, tán tụng lòng hiếu của Tích Cửu, từ chức Tổng chế trở xuống ai cũng có quà tặng. Tích Cửu từ quận rủng rỉnh tiền bạc trở về, vợ chồng đều được an ủi rất nhiều. Một hôm vợ Chu khóc lóc tới, gặp con gái quỳ rạp xuống không đứng lên, cô gái hốt hoảng hỏi han mới biết là Chu đã bị đóng gông giam vào ngục. Cô gái khóc than tự quy tội về mình, chỉ muốn tìm cái chết. Tích Cửu bất đắc dĩ phải lên quận nài nỉ xin tha cho Chu, Thái thú bèn ra lệnh cho tự chuộc tội, phạt thêm một trăm thạch gạo, phê "Thưởng cho người con hiếu Trần Tích Cửu”. Chu về tới nhà, mở kho xúc gạo lẫn cả trấu chở qua, Tích Cửu nói với cô gái “Cha nàng thật là lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân tử, chẳng lẽ cho rằng ta sẽ nhận nên trộn trấu vào gạo à?" rồi cười từ chối không lấy.

Tích Cửu nhà tuy hơi dư dật nhưng tường cũ rào thưa, một đêm có bọn trộm vào nhà, người đầy tớ chợt tỉnh giấc la lớn nên chỉ bị mất hai con ngựa. Hơn nửa năm sau, Tích Cửu đang đêm ngồi đọc sách nghe có tiếng đập cửa, hỏi thì không thấy ai đáp, bèn gọi đầy tớ dậy cùng ra xem, vừa mở cửa thì có hai con ngựa phóng vào, chính là hai con ngựa bị mất trước đó. Hai con ngựa chạy thẳng vào tàu thở phì phì, mồ hôi ròng ròng, đốt đuốc vào soi thấy mỗi con chở một cái túi da, mở ra xem thì toàn là bạc nén trắng xóa, vô cùng kinh ngạc không biết ở đâu ra. Về sau nghe nói đêm ấy có bọn cướp lớn đến cướp nhà Chu, vơ vét đầy túi trở ra thì gặp quan quân đuổi theo rất gấp nên nhảy lên những con ngựa chở nhẹ bỏ chạy, hai con ngựa này thì nhớ nhà chủ cũ nên phóng về.

Chu từ lúc trong ngục trở về, những vết đòn tra tấn ngày càng nặng thêm, lại bị đánh cướp nên bệnh nặng rồi chết. Cô gái đêm nằm mơ thấy cha mang xiềng xích tới nói "Những việc ta làm lúc bình sinh nay hối không kịp nữa, nay bị hình phạt dưới âm ty, không phải cha chồng con thì không ai cứu được, con hãy vì ta mà xin chồng con gởi một lá thư”. Nàng tỉnh dậy kêu khóc, Tích Cửu hỏi han mới biết chuyện, nhưng từ lâu cũng định tới Thái Hàng một chuyến nên ngay hôm ấy lập tức lên đường. Tới nơi sắm sửa đủ lễ vật tam sinh cúng cha, lập tức có mua sương rơi xuống chỗ ấy, chờ xem còn thấy gì nữa không thì suốt đêm yên ắng, bèn trở về. Chu chết, vợ con càng nghèo thêm, toàn nhờ con rể út chu cấp, nhưng Hiếu liêm họ Vương gặp đợt khảo xét quan huyện mắc tội tham nhũng, cả nhà bị đày đi Thẩm Dương (tỉnh Liêu Ninh) nên càng không biết nhờ cậy ai, Tích Cửu vẫn thường chu cấp cho.

Dị Sử thị nói: Điều thiện không gì lớn bằng hiếu, có thể thấu tới cả quỷ thần, lý đương nhiên là phải thế. Chứ dù kẻ đạt nhân có đức tốt mà có khi cũng nghèo khổ trọn đời, huống chi kẻ còn kém họ thì làm sao nói ráng nhất định sẽ khá được? Cũng có kẻ đem con gái cưng gả cho ông già đầu bạc mà vênh váo nói "Ông quan lớn ấy là rể ta đấy". Than ôi, trông vẫn xinh xẻo nõn nà mà khi ông chồng quan lớn chết đi cũng đã thê thảm lắm rồi, huống hồ là đàn bà trẻ theo chồng đi sung quân sao!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 195 -
Vu Khử Ác
(Vu Khử Ác)

Đào Thánh Dụ ở huyện Bắc Bình (tỉnh Hà Bắc) là kẻ sĩ có tài Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) lên kinh ứng thí, ở trọ ngoài thành. Tình cờ ra ngoài thấy một người mang tráp sách cứ quanh quẩn như chưa tìm được chỗ ở, hỏi han thì cũng là học trò, trò chuyện thấy có phong thái danh sĩ. Đào thích lắm mời về ở cùng. Khách cả mừng, mang túi vào nhà, từ đó ở chung. Khách tự nói là người phủ Thuận Thiên, họ Vu tên Khử ác, vì Đào lớn hơn nên coi như anh. Tính Vu ưa nhàn nhã, thường ở một mình trong phòng, trên bàn không có quyển sách nào, Đào mà không trò chuyện thì chỉ nằm im lặng mà thôi. Đào ngờ vực, lục lọi rương tráp thấy ngoài nghiên bút ra chẳng có gì đáng giá lấy làm lạ bèn hỏi. Vu cười đáp "Chúng ta là người đọc sách, chẳng lẽ đến lúc khát nước mới lo đào giếng sao!". Một hôm hỏi mượn sách của Đào, về phòng đóng cửa chép rất nhanh, hết ngày được năm mươi tờ. Đào rình xem thấy cứ chép xong bài nào là đốt bỏ bài ấy, càng lấy làm kỳ quái. Hỏi nguyên cớ thì Vu đáp "Ta làm thế để khỏi đọc thôi mà", bảo đọc lại nhũng sách đã sao thì đọc vanh vách một lúc vài thiên, không sai một chữ. Đào thích lắm, muốn học thuật ấy, Vu nói không được, Đào ngờ là bủn xỉn, giận dỗi trách móc.

Vu nói "Ông thật không thể tất cho ta chút nào cả! Nếu không nói ra thì không hả lòng, mà nói ra e ông ngờ sợ, làm sao bây giờ”. Đào bảo cứ nói không hề gì, Vu nói "Ta không phải là người mà chỉ là ma thôi. Nay dưới âm ty cũng theo khoa mục mà trao chức quan, ngày mười bốn tháng bảy vâng chiếu khảo xét quan trường, ngày mười lăm sĩ tử vào trường, cuối tháng ra bảng! . Đào hỏi khảo xét quan trường để làm gì, Vu đáp "Đó là ý thận trọng của Thượng đế, bất kể là quan lại tốt xấu đều phải khảo xét tất, người có văn học thì cho chấm thi, người không hiểu văn chương thì không cho dự vào. Đại khái các thần dưới âm cũng như các quan trên trần, các vị đắc chí có người không đọc kinh sử, chẳng qua chỉ là lúc còn trẻ mượn văn học để cầu công danh, trộm được chút công danh rồi thì bỏ bê việc học, giữ chức mười mấy năm thì những kẻ sĩ văn học còn chữ nghĩa gì trong bụng nữa? Cho nên trên trần gian những kẻ ít học thừa thế hãnh tiến mà kẻ anh hùng lại thất chí, chỉ vì thiếu một lần khảo xét như vậy đấy”.

Đào cho là rất đúng, vì vậy càng kính sợ Vu. Một hôm Vu từ ngoài vào, có vẻ lo lắng, than rằng "Ta sinh ra nghèo hèn, tự nghĩ sau khi chết sẽ khá hơn, không ngờ xuống suối vàng vẫn còn lận đận”. Đào hỏi nguyên do, Vu đáp "Nay Văn Xương* đã được phong làm Đô La quốc vương, việc khảo xét quan lại cũng bỏ luôn, thần linh trôi nổi, ma quỷ xiêu dạt mấy mươi năm đều được chấm văn, bọn ta còn trông mong gì được nữa?”. Đào hỏi đám ấy là những ai, Vu đáp "Có nói ra thì ông cũng không biết, nhưng nêu qua một hai người thì cũng rõ được đại khái, như quan coi nhạc Sư Khoáng, quan giữ kho Hòa Kiểu** vậy. Ta tự nghĩ rằng mình số không thể dựa, tài không thể cậy, chẳng bằng bỏ quách không thi cho xong". Nói xong có vẻ ấm ức, định thu xếp hành lý lên đường, Đào kéo lại an ủi bèn thôi.

*Văn Xương: tức Văn Xương Đế quân, vị thần coi việc văn học khoa cử trong truyền thuyết Trung Hoa.

** Quan coi nhạc... Hòa Kiểu: Sư Khoáng là nhạc quan nước Tấn thời Xuân thu, mù mắt nhưng thẩm âm rất giỏi. Hòa Kiểu là người thời Tấn, nhà giàu nhưng tính rất keo kiệt, làm quan giữ kho của triều đình, bị Đỗ Dự chê là kẻ mê tiền. Sư Khoáng, Hòa Kiểu đây chỉ những kẻ không có đại tài đại chí nên không có độ lượng dung người.

Đến đêm rằm tháng bảy Vu nói với Đào "Ta sắp vào trường thi, phiền ông lúc sáng tinh mơ ra thắp hương ngoài cửa phía đông thành, gọi Khứ ác ba lần, ta sẽ tới", rồi ra cửa đi. Đào mua rượu nấu thức ăn chờ, khi trời vừa sáng làm theo lời dặn. Không bao lâu Vu dắt một thiếu niên tới, Đào hỏi tên họ, Vu đáp "Đây là Phương Tử Tấn, là bạn thân của ta, tình cờ gặp nhau trong trường thi, y nghe tiếng ông rất muốn làm quen". Bèn cùng nhau về chỗ Đào trọ, thắp đèn chào hỏi, thiếu niên phong thái như cây ngọc, thái độ lại rất nhu mì khiêm tốn, Đào rất yêu thích, nhân nói "Bài thi của Tử Tấn chắc rất đắc ý". Vu nói "Nói ra thì buồn cười, chứ trong trường ra bảy đề y đã làm được quá nửa, nhưng khi hỏi tới tên quan Chủ khảo bèn vứt hết bỏ ra, thật là kỳ nhân". Đào quạt lò hâm rượu bày lên, nhân hỏi "Đề thi trong trường ra sao? Khử Ác chắc đỗ đầu chứ?". Vu đáp "Thư nghệ, kinh luận mỗi thứ một đề, ai có khả năng thì làm thêm bài sách vấn”. Từ xưa rất nhiều người ngăn lấp đường tà mà phong tục đến nay đã thành xấu xa tệ hại không thể gọi tên được, không phải chỉ mười tám tầng địa ngục mà đủ trừng trị, mà mười tám tầng địa ngục không đủ để trừng trị thì còn có cách nào để trừng trị? Có kẻ nói nên đặt thêm một hai ngục nữa, nhưng như thế rất trái với ý hiếu sinh của Thượng đế, vậy thì nên thêm hay không? Hay có cách nào khác để làm trong sạch ngay từ cội nguồn không? Kẻ sĩ các ngươi cứ nói hết đừng giấu diếm", bài ta làm tuy không hay nhưng được một phen khoái ý. Bài biểu thì theo đề Tạ ơn nhân dịp diệt sạch Thiên ma, ban cho các bầy tôi long mã và thiên y khác nhau. Kế là bài thơ theo đề Dao Đài ứng chế, bài phú Hoa đào ở Tây trì, ba đề ấy thì ta cho rằng trong cả trường không có bài thứ hai".

Nói xong vỗ tay, Phương cười nói "Bây giờ thì cứ để ông tha hồ khoái trá, vài hôm nữa mà không khóc ròng thì mới thật là đàn ông đấy". Trời sáng Phương muốn chào đi, Đào giữ lại ở cùng, Phương không chịu, hẹn tối sẽ tới nhưng ba ngày không thấy đâu. Đào bảo Vu đi tìm, Vu nói "Không cần, Tử Tấn là người đường đường chứ không phải là kẻ vô tâm". Mặt trời vừa xế, quả nhiên Phương tới, đưa cho Đào một quyển sách, nói "Thất hứa ba ngày là để sao lại các bài làm cũ của ta, tất cả hơn trăm bài kính nhờ ông phẩm bình". Đào mở ra đọc thích lắm, đọc một câu là khen một câu, được một hai bài thì cất vào tráp. Trò chuyện cùng nhau đến khuya, Phương bèn ở lại, ngủ cùng giường với Vu. Từ đó thành lệ, đêm nào Phương cũng tới, Đào cũng không có Phương thì không vui. Một đêm Phương hớt hải bước vào nói với Đào "Bảng đã ra, Vu Ngữ huynh trượt rồi". Vu đang nằm nghe thế hoảng sợ vùng dậy, nước mắt giàn giụa, hai người hết sức an ủi mới thôi khóc nhưng chỉ nhìn nhau im lặng, không khí nặng nề không sao chịu nổi. Phương nói "Nghe nói Đại Tuần hoàn Trương Hoàn hầu* sắp tới tuần sát, e những kẻ thi rớt sẽ đặt vè này nọ, nếu không thì văn trường sẽ có chuyện thay đổi".

*Trương Hoàn hầu: tức Trương Phi. Xem truyện Hoàn hầu.

Vu nghe có vẻ mừng rỡ, Đào hỏi nguyên cớ, Vu đáp "Hoàn hầu Dục Đức cứ ba mươi năm một lần đi tuần sát âm ty, ba mươi lăm năm một lần đi tuần sát dương thế, hai nơi ấy có điều gì bất bình cứ đợi ông ta tới là xong hết". Rồi đứng lên kéo Phương cùng đi, qua hai đêm mới trở về. Phương nói với Đào rằng "Ông không chúc mừng Vu Ngữ huynh sao? Đêm rồi Hoàn hầu tới xé nát bảng cũ, những người có tên trên bảng ba phần chỉ còn có một, lại duyệt cả lại những quyển bị chấm rớt, tìm được Vu Ngũ huynh mừng lắm, tiến cử làm Tuần hải sứ Giao Nam, chỉ sớm tối là có xe ngựa tới đón thôi”. Đào mừng rỡ đặt tiệc chúc mừng, uống được vài chén, Vu hỏi Đào “Nhà ông có chỗ trống không?”. Đào hỏi để làm gì, Vu đáp "Tử Tấn cô đơn không nhà cửa, lại không nỡ rời ông nên tiểu đệ muốn mượn chỗ cho y nương dựa”. Đào mừng rỡ nói "Nếu thế thì quá may mắn, mà cho dù nhà cửa không rộng rãi thì ở chung phòng cũng có hề gì? Có điều nhà còn có cha già, nên ta còn phải thưa trước”. Vu nói “Vốn biết tôn đại nhân nhân từ phúc hậu có thể nương dựa, ông sắp đến ngày vào trường, nếu Tử Tấn không chờ được thì về trước được không?”. Đào bảo Phương cứ ở lại làm bạn ở đất khách, chờ mình thi xong sẽ cùng về.

Hôm sau trời vừa tối thì có xe ngựa tới cổng đón Vu lên đường phó nhiệm. Vu đứng lên nắm tay Đào nói "Từ nay xin vĩnh biệt, có một câu muốn nói nhưng sợ ông nhụt chí tiến thủ”. Hỏi câu gì, Vu đáp "Số ông lận đận sinh không gặp thời, khoa này mười phần chỉ có một phần đỗ, khoa sau Hoàn hầu đi tuần sát dương thế, công đạo bắt đầu sáng tỏ thì mười phần có ba phần đỗ, đến khoa thứ ba mới có hy vọng". Đào nghe thế muốn thôi không thi nữa, Vu nói "Không phải đâu, đó đều là số trời, cho dù không thể biết rõ nhưng số đã khổ thì phải chịu cho hết thôi". Kế nhìn Phương nói "Đừng chần chừ nữa, sáng mai giờ ngày tháng năm đều tốt, xin đem xe lọng đưa ông về, ta cưỡi ngựa đi cũng được". Phương vui vẻ từ biệt, Đào trong lòng rối loạn mờ mịt không hiểu Vu dặn dò Phương những gì, chỉ gạt lệ đưa tiễn, thấy xe ngựa chia đường, trong chớp mắt đã đi hết, mới hối hận là Tử Tấn ra đi chưa có một lời gởi gắm, nhưng đã không kịp nữa. Thi xong ba kỳ không được như ý lắm, lặn lội trở về, vào cổng hỏi Tử Tấn thì trong nhà không ai biết cả. Nhân kể lại với cha, cha mừng rỡ nói "Nếu thế thì khách tới lâu rồi".

Trước là ông Đào ngủ trưa, nằm mơ thấy có xe lọng ngừng ở cổng, một thiếu niên đẹp trai trong xe bước ra, lên thềm vái lạy. Ông kinh ngạc hỏi có việc gì thiếu niên đáp "Đại ca hứa cho ở nhờ nhưng phải vào thi không về cùng được nên con tới trước". Nói xong xin vào lạy mẹ, ông đang ngần ngại chối từ thì bà vú trong nhà ra nói "Phu nhân sinh được công tử", giật mình tỉnh dậy lấy làm lạ. Hôm ấy Đào kể lại chuyện đều khớp với giấc mộng, mới biết đứa nhỏ chính là hậu thân của Tử Tấn, hai cha con cùng mừng rỡ đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Tấn. Đứa nhỏ sinh ra rất hay khóc đêm, mẹ khổ quá, Đào nói "Nếu đúng là Tử Tấn thì thấy con vào phải nín khóc". Vì phong tục kiêng cho trẻ mới sinh thấy người lạ nên không cho Đào gặp, nhưng mẹ vì đứa nhỏ khóc không biết làm sao bèn gọi Đào vào. Đào gọi đứa nhỏ nói "Tử Tấn đừng khóc nữa, ta tới rồi đây”. Đứa nhỏ đang khóc ngằn ngặt, nghe thế chợt im bặt, mở mắt nhìn Đào chằm chằm như ngắm người quen, Đào xoa đầu nó rồi bước ra, từ đó nó không khóc đêm nữa. Mấy tháng sau thì Đào không dám gặp, vì cứ thấy Đào là nó giơ tay đòi bế, bỏ đi thì khóc không chịu nín, Đào cũng phải bế nó đùa giỡn. Năm bốn tuổi đứa nhỏ rời mẹ, cứ sang ngủ chung với anh, anh đi đâu thì nằm thức đợi đến lúc về. Anh nằm dạy đọc Mao thi*, em trên gối líu lo đọc theo, một đêm thuộc hơn bốn mươi câu. Đào lấy quyển văn cũ của Tử Tấn dạy cho, đứa nhỏ vui thích học theo, đọc qua là nhớ thuộc lòng, nhưng lấy văn người khác cho đọc thử thì không thuộc ngay được.

* Mao thi: tức kinh Thi.

Lên tám chín tuổi thì mặt mày sáng láng, rõ ra là Tử Tấn. Đào hai lần đi thi hương đều rớt, đến khoa năm Đinh dậu chuyện trường thi vỡ lỡ*, các quan Giám khảo nhiều người bị trị tội, đường tiến thân của sĩ tử bắt đầu mở rộng, đó là nhờ Trương Tuần sát. Đào khoa sau thi đỗ Tú tài, kế đi thi hội nhưng nguội lạnh chí tiến thủ nên ở ẩn dạy em, thường nói với mọi người rằng "Ta có niềm vui này, quan chức cũng không thèm đổi”.

*Khoa năm Đinh dậu... vỡ lỡ: theo nội dung câu chuyện thì có lẽ là năm Đinh dậu 1657 trong đời vua Thuận Trị nhà Thanh. Chưa rõ về sự kiện này.

Dị Sử thị nói:Ta thường tới miếu Trương Hoàn hầu chiêm nguỡng dung mạo, thấy lẫm liệt có sinh khí, lại lúc bình sinh thì ăn nói quát tháo như sấm sét, vung mâu thúc ngựa tới đâu cũng làm người ta ngạc nhiên vui thích. Đời cho rằng tướng quân vũ dũng nên chỉ xếp vào hàng Giáng Quán*, đâu biết Văn Xương lắm việc, phải cậy rất nhiều vào người! Than ôi, ba mươi lăm năm mới tới một lần, sao mà muộn thế!

*Giáng Quán: tức Giáng hầu Chu Bột và Quán Anh, võ thần của Hán Cao tổ Lưu Bang, đều là bậc khai quốc công thần của nhà Hán.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 196 -
Phượng Tiên
(Phượng Tiên)

Lưu Xích Thủy người huyện Bình Lạc (tỉnh Quảng Tây), còn nhỏ đã thông minh đẹp trai, mười lăm tuổi đã vào học trường huyện. Cha mẹ mất sớm đâm ra chơi bời bỏ học. Nhà không dư dật mà ưa chải chuốt, quần áo chăn nệm đều là thứ tốt đẹp. Một tối được người ta mời uống rượu, lúc đi quên tắt đèn, uống được vài chén sực nhớ ra vội quay về. Nghe trong phòng có tiếng trò chuyện khe khẽ, núp nhìn vào thấy một thiếu niên ôm một cô gái đẹp nằm trên giường. Nhà Lưu xây trên phủ đệ của một nhà quyền quý bỏ hoang, thường có nhiều chuyện quái dị nên biết ngay là hồ nhưng cũng không sợ, sấn vào quát "Giường ta cho các ngươi nằm ngáy đấy à?”. Hai người hoảng hốt vơ quần áo trần truồng bỏ chạy, trên giường còn sót một cái quần lụa tía, trên dải có đính cái túi con. Lưu thích lắm nhưng sợ bị lấy trộm lại, liền giấu vào trong chăn rồi ôm chặt. Giây lát có một tỳ nữ đầu tóc rối bù bước vào, xin Lưu trả lại, Lưu cười đòi phải báo đáp. Tỳ nữ xin đổi rượu, Lưu không chịu, xin tặng vàng, cũng không chịu, bèn cười quay ra. Lát sau trở lại nói “Cô cả ta nói nếu cho xin lại thì xin đền ơn bằng một người vợ đẹp". Lưu hỏi là ai, đáp "Nhà ta họ Bì, cô cả là Bát Tiên, người cùng nằm lúc nãy là chàng họ Hồ. Cô hai là Thủy Tiên đã gả cho quan nhân họ Đinh ở huyện Phú Xuyên (tỉnh Quảng Tây). Cô ba là Phượng Tiên còn đẹp hơn hai cô lớn nhiều, chắc chắn chàng sẽ vừa lòng”. Lưu sợ nuốt lời, nói xin ngồi chờ tin hay, tỳ nữ đi hồi lâu rồi quay lại nói "Cô cả ta nhắn với quan nhân đây là chuyện tốt lành làm sao vội vã được. Cô ta vừa nói xong thì bị cô Ba chửi mắng, phải chờ vài hôm, chứ nhà bọn ta không phải loại hứa bừa rồi nuốt lời đâu”. Lưu bèn trả lại cái quần.
Qua mấy hôm vẫn không thấy tin tức gì, chập tối Lưu đi chơi về, vừa đóng cửa ngồi xuống chợt hai cánh cổng tự mở toang, có hai người lấy chăn khiêng một nữ lang, nắm lấy bốn góc chăn bước vào nói "Đưa dâu tới rồi đây!", cười đặt lên giường mà đi. Lưu tới nhìn, thấy nàng còn say chưa tỉnh, mùi rượu nồng nặc, mặt mũi đỏ hồng, xinh đẹp tuyệt trần. Lưu mừng quá, cầm chân cởi tất rồi ôm lấy nàng cởi áo xiêm ra. Cô gái hơi tỉnh hé mắt thấy Lưu nhưng không vùng vẫy gì được, chỉ tức tối nói "Con đĩ Bát Tiên bán ta rồi!". Lưu ôm ấp vuốt ve, cô gái thấy người Lưu lạnh quá, cười khẽ đọc "Đêm nay là đêm gì, Gặp chàng trai lạnh giá", Lưu nói “Cứ chờ xem nàng ơi, Thế này mà lạnh hả?", rồi ân ái với nàng. Xong rồi cô gái nói "Con nhãi vô sỉ làm bẩn giường người ta rồi đem thiếp đổi lấy cái quần à! Thế nào cũng phải trả thù”.

Từ đó đêm nào cũng tới, gối chăn rất đằm thắm. Một hôm lấy cái xuyến vàng trong tay áo ra nói với Lưu "Cái này là của Bát Tiên", mấy hôm sau lại đem tới một đôi giày thêu gấm khảm ngọc cực kỳ tinh xảo, dặn Lưu cứ khoe ầm lên. Lưu đem khoe với khắp bạn bè, ai tới xem cũng tặng tiền biếu rượu, Lưu từ đó thành ra có món hàng lạ. Một đêm cô gái tới, chợt nói xin từ giã, Lưu lấy làm lạ hỏi, nàng đáp “Bà chị vì việc đôi giày mà giận thiếp, định dọn nhà đi xa để chia cách hai ta”. Lưu lo lắng xin trả lại đôi giày. Cô gái nói “Không cần phải thế. Bà ấy đang định làm như vậy để ép thiếp, nếu trả lại là trúng kế đấy". Lưu hỏi sao không ở lại một mình, nàng đáp “Cha mẹ đi xa, một nhà hơn mười miệng ăn đều trông vào anh Hồ xoay xở, nếu thiếp không đi theo, sợ con mụ lắm mồm ấy lại bịa đặt này nọ". Từ đó không tới nữa.

Qua hai năm, Lưu nhung nhớ không khuây, tình cờ đi đường gặp một nữ lang cưỡỉ ngựa thong thả đi, có người lão bộc cầm dây cương chen qua sát người, qua rồi lại nhấc tấm khăn che mặt ngoảnh nhìn Lưu, phong tư vô cùng xinh đẹp. Giây lát lại có một thiếu niên phía sau vượt lên, Lưu nói "Không biết nàng ấy là ai mà đẹp quá?", rồi khen nức nở. Thiếu niên chắp tay cười nói "Ông quá lời rồi, đó là người vợ quê của ta đấy". Lưu hoảng hốt ngượng ngùng xin lỗi, thiếu niên đáp "Có gì đâu. Nhưng Nam Dương có ba ông Cát thì ông chiếm được rồng* rồi, ta thì tầm thường có gì đáng nói". Lưu nghe câu nói lấy làm ngờ, thiếu niên lại hỏi "Anh không nhận ra kẻ nằm trộm trên giường sao?", Lưu mới biết đó là chàng họ Hồ, anh em bạn rể với mình, bèn chuyện trò chọc ghẹo nhau rất vui vẻ. Thiếu niên nói “Cha mẹ mới về, ta định tới thăm, ông đi cùng không?". Lưu mừng rỡ, theo vào núi Oanh Sơn trên núi vốn có nhà dân trong huyện lánh nạn tới ở.

*Nam Dương... được rồng: thời Tam quốc anh em Gia Cát Cẩn, Gia Cát Lượng và em họ là Gia Cát Đản ẩn cư ở Nam Dương, đều có tiếng tài giỏi, trong đó Lượng tức Khổng Minh giỏi nhất, có hiệu là Ngọa Long. Sau Cẩn theo giúp Ngô, Lượng theo giúp Thục, Đản theo giúp Ngụy, người ta vì thế có câu "Thục được rồng, Ngô được hổ, Ngụy được chó”. Đây ý nói Lưu lấy được người đẹp nhất trong ba chị em Bát Tiên.

Cô gái xuống ngựa vào, lát sau có mấy người ra đón, nói “Lưu quan nhân cũng tới rồi!”. Vào ra mắt ông bà nhạc thấy một thiếu niên áo giày sang trọng ngồi trước ở đó, ông già nói "Đây là anh rể họ Đinh ở Phú Xuyên", mọi người vái chào nhau rồi cùng ngồi. Lát sau rượu thịt bày lên la liệt, mọi người cười nói râm ran, ông già nói “Hôm nay cả ba chàng rể cùng tới chơi, có thể nói là cuộc gặp gỡ hay đẹp, lại không có người ngoài, cứ gọi cả bọn trẻ ra làm một bữa tiệc đoàn viên”. Giây lát ba chị em kéo nhau ra, ông già sai lấy thêm ghế cùng cho ngồi cạnh chồng. Bát Tiên thấy Lưu cứ che miệng cười. Phượng Tiên cũng theo đà mà đùa giỡn chọc ghẹo, Thủy Tiên thì dung mạo hơi kém hơn hai người, nhưng có vẻ nghiêm trang đường bệ, cả bàn cười nói ầm ĩ mà nàng chỉ cầm chén rượu cười nụ. Rồi đó giày dép lẫn lộn, lan xạ thơm lừng, cùng nhau uống rượu vô cùng vui vẻ.

Lưu nhìn thấy ở đầu giường bày đủ nhạc cụ bèn cầm chiếc sáo ngọc xin thổi chúc thọ ông già. Ông mừng rỡ, bảo ai rành loại nào thì chơi loại ấy, mọi người tranh nhau chọn, chỉ trừ Đinh và Phượng Tiên. Bát Tiên nói "Đinh lang không rành thì thôi, chứ ngươi sao không chịu động đậy gì cả?", rồi cầm cái phách ném vào lòng Phượng Tiên, tìếng tơ trúc đan vào nhau dìu dặt. Ông già vui vẻ nói “Người nhà ta giỏi nhạc lắm! Các con đều biết múa hát, sao không trổ tài”. Bát Tiên kéo Thủy Tiên đứng lên, nói “Trước nay Phượng Tiên vẫn là giọng vàng tiếng ngọc, không dám làm phiền nó vất vả, còn hai chị em ta có thể hát khúc Lạc Phi". Hai người múa hát vừa xong thì tỳ nữ bưng lên một cái mâm vàng đựng trái cây, không ai biết là trái gì. ông già nói "Đây là từ Chân Lạp đem qua, gọi là trái Điều Bà La", rồi cầm mấy trái đưa cho Đinh.
Phượng Tiên không vui, nói "Chẳng lẽ cha lại thương rể giàu ghét rể nghèo à?”. Ông già nhếch mép chưa trả lời, Bát Tiên đã nói "Vì cha thấy Đinh lang ở huyện khác nên coi như khách đấy thôi, chứ nếu bàn về lớn nhỏ thì đâu phải chỉ em Phượng mới có chồng nghèo”. Phượng Tiên vẫn không vui, cởi áo đẹp ra, đưa trống phách cho tỳ nữ rồi hát một khúc Phá dao, vừa hát vừa sa nước mắt, hát xong phất tay áo bỏ ra, mọi người đều mất vui. Bát Tiên nói "Con nhãi vẫn cao ngạo như xưa”, bèn đuổi theo nhưng thấy đâu. Lưu xấu hổ cũng chào ra về, đi được nửa đường thấy Phượng Tiên ngồi bên vệ đường, gọi cùng ngồi xuống nói "Chàng là đàn ông mà không giúp vợ hả giận được à? Trong sách tự có nhà vàng, xin chàng làm được như thế", rồi đưa chân ra nói "Ra cổng đi mau, gai đâm nát cả giày rồi, vật thiếp tặng có mang theo không?". Lưu lấy ra đưa cho cô gái thay, rồi xin lại đôi đã rách.
Nàng nhoẻn miệng cười nói "Chàng cũng chảng ra sao, mấy lần thấy giữ cả những đồ dùng khi chăn gối. Nếu thương yêu nhau thì xin tặng cho vật này", rồi đưa Lưu một tấm gương, nói "Muốn thấy thiếp thì lúc nào đọc sách mỏi mệt cứ lấy ra nhìn, không thì không bao giờ thấy nhau đâu”. Nói xong biến mất. Lưu buồn rầu trở về, nhìn vào gương thấy Phượng Tiên đứng quay lưng như đi xa ra hàng trăm bước, nhớ lời nàng dặn bèn tạ khách buông màn học hành. Một hôm thấy người trong gương đã quay mặt lại, chúm chím như sắp cười, càng quý tấm gương, lúc không có ai lại lấy ra ngắm nghía. Hơn tháng thì bắt đầu chán nản, đi chơi quên cả giờ về. Trở về nhìn bóng người trong gương thấy vẻ mặt rầu rĩ như muốn khóc, hôm sau lại nhìn thì thấy quay lưng lại như lúc đầu, mới hiểu ra là vì mình bỏ bê việc học hành.
Bèn đóng cửa ra sức dùi mài kinh sử ngày đêm không nghỉ, hơn tháng thì người trong gương quay mặt trở ra. Từ đó nghiệm thấy cứ lúc nào học hành bê trễ thì tỏ vẻ buồn bã, mấy ngày sau chăm chỉ lại thì tỏ vẻ vui mừng, vì vậy treo luôn tấm gương trước mặt như đang đối diện với thầy học vậy. Như thế liền hai năm, Lưu đi thi một lần đỗ ngay, mừng rỡ nói "Nay thì có thể gặp Phượng Tiên của ta rồi". Lấy tấm gương ra nhìn, thấy mày ngài cong cong, răng ngà he hé, dáng vẻ mừng rỡ hiển hiện trước mảt, nhớ quá cứ nhìn chằm chằm không chớp mắt. Chợt người trong gương nhoẻn miệng cười nói "Bây giờ mới biết thế nào là người yêu giữa bóng gương, tình nhân trong bức vẽ". Lưu mừng rỡ nhìn quanh thì Phượng Tiên đã đứng sau ghế, liền nắm tay hỏi thăm ông bà nhạc. Nàng đáp "Sau hôm chia tay thiếp không về nhà lần nào, cứ náu thân trong hang núi, từ xa chia sẻ nỗi vất vả với chàng".
Lưu đi dự tiệc mừng ở quận, cô gái xin cùng đi, cùng ngồi một xe mà không ai thấy nàng. Lúc sắp trở về, nàng bàn với Lưu giả như vừa cưới nàng ở quận, về tới nhà mới hiện thân tiếp khách, coi sóc việc nhà, mọi người đều kinh ngạc vì nàng quá đẹp chứ không biết là hồ. Lưu được cử làm việc dưới quyền quan huyện Phú Xuyên, tới đó yết kiến nên gặp Đinh, Đinh kéo về nhà khoản đãi rất trọng hậu, nói "Cha mẹ mới dời nhà qua chỗ khác, vợ ta tới thăm sắp về rồi, phải gởi thư báo để tất cả cùng tới mừng".

Lưu ban đầu tưởng Đinh cũng là hồ, đến khi hỏi kỹ họ hàng quê quán mới biết là một nhà buôn lớn ở Phú Xuyên. Nguyên một hôm Đinh từ nhà khác trở về, gặp Thủy Tiên đi một mình, thấy nàng đẹp liếc nhìn, nàng xin đi nhờ ngựa, Đinh mừng đưa về phòng sách ăn ở với nhau, thấy lách được qua song cửa vào phòng mới biết là hồ. Nhưng nàng nói "Chàng chớ ngờ vực, thiếp thấy chàng là người thành thực nên nguyện theo nương tựa", Đinh yêu quý nên không lấy ai nữa. Lưu về thuê một căn nhà rộng của nhà quyền quý, sắp đặt nơi ăn chốn ở cho khách, đã quét dọn sạch sẽ nhưng chưa có đủ bàn ghế vật dùng, qua đêm thì thấy phòng ốc đã được bày biện lộng lẫy. Mấy hôm sau quả có hơn ba mươi người giương cờ chở lễ vật tới, xe ngựa đông đúc chật đường. Lưu vái chào rồi đưa ông nhạc cùng Đinh, Hồ vào nhà khách, Phượng Tiên đón mẹ và hai chị vào nhà trong.

Bát Tiên nói "Con nhãi nay đã lên bà rồi, không oán bà mối nữa chứ. Xuyến với giày của ta còn không?”. Phượng Tiên tìm đưa trả, nói "Giày thì còn đây, nhưng hàng ngàn người đã nhìn nát ra rồi". Bát Tiên cầm giày đập vào lưng Phượng, nói "Đánh cái này để gởi cho Lưu lang?". Rồi ném đôi giày vào lửa, khấn rằng:

Lúc mới như hoa tươi
Khi cũ như hoa rã
Nâng niu chưa dám dùng
Hằng Nga đà mượn đỡ

Thủy Tiên cũng khấn thay rằng:
Từng lồng búp măng ngọc
Bước ra muôn người khen
Nếu để Hằng Nga thấy
Thương bóng nguyệt không tròn

Phượng Tiên cời tro đọc tiếp:
Tối tối lên trời xanh
Một sớm rời nơi cũ
Lưu lại bóng nho nhỏ
Cho cả thế gian nhìn


Rồi vun tro vào mâm, cao hơn mười phân, thấy Lưu bước vào bưng đưa, nói là Bát Tiên tặng, thấy toàn là giày thêu, hệt như đôi trước. Bát Tiên vội bước ra hất cái mâm xuống đất, chi còn lại một hai chiếc nguyên lành, lại cúi xuống thổi mới tan hết không còn dấu tích. Mấy hôm sau Đinh vì nhà ở xa nên cùng Thủy Tiên về trước, Bát Tiên còn ham đùa giỡn với em gái, ông già và Hồ thúc giục mấy lần, mãi đến trưa mới cùng mọi người ra về. Lúc họ mới tới, xe kiệu rầm rộ, người ra xem đông như chợ, có hai tên cướp nhìn thấy người đẹp chết mê chết mệt nên mưu chặn đường cướp lấy, lúc ấy theo dõi thấy họ đã ra khỏi thôn bèn đuổi theo, nhưng chỉ cách có một tầm tên mà giục ngựa phóng nhanh vẫn không theo kịp. Đến một chỗ đường hẹp, hai bên là vách núi, kiệu đi chậm lạỉ, chúng đuổi kịp vung đao hò hét, mọi người bỏ kiệu chạy tứ tán. Một tên xuống ngựa mở rèm thì bên trong chỉ có một bà già, ngờ là bắt lầm bà mẹ, vừa quay nhìn chung quanh thì bị chém vào tay phải rồi bị trói nghiến lại, định thần nhìn lại thấy không phải là đường núi mà là cổng phủ thành Bình Lạc, còn bà già trong kiệu là mẹ Tiến sĩ họ Lý dưới quê lên. Tên cướp tớì sau cũng bị chém chân ngựa bắt trói tại cổng thành. Lý bắt giải nộp quan Thái thú, vừa tra hỏi đã nhận tội. Lúc ấy có một tên cướp khét tiếng đang bị truy nã, hỏi ra thì chính là y. Mùa xuâu năm sau Lưu thi đỗ Tiến sĩ. Phượng Tiên cũng sợ chuốc họa nên từ chối không cho bạn bè thân thích tới chúc mừng. Lưu cũng không lấy vợ khác, lúc làm quan tới chức Thị lang mới nạp thiếp, sinh được hai trai.

Dị Sử thị nói: Than ôi, thói đời ấm lạnh, người tiên kẻ tục cũng không khác nhau sao? Lúc trẻ không gắng sức, khi già lại đau lòng, tiếc vì không có giai nhân hiếu thắng làm bóng người vui buồn trong gương vậy! Ta mong hằng hà sa số người tiên đều sai con gái cùng xuống lấy người trần cho trong cái biển bần cùng ít đi những chúng sinh khổ sở.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 197 - 198 -
Người Khách Họ Đồng
(Đồng Khách)

Đổng sinh là người Từ Châu (tỉnh Giang Tô), thích kiếm thuật, hay khoe khoang tự phụ. Tình cờ đi đường gặp một người khách, sinh trò chuyện, toàn thở ra giọng anh hùng. Hỏi tên họ, khách nói là họ Đồng người huyện Liêu Dương (tỉnh Liêu Ninh), lại hỏi đi đâu, đáp "Ta xa nhà đã hai mươi năm, nay vừa từ hải ngoại về! . Đổng nói "Ông ngao du bốn biển, quen biết nhiều người, có thấy ai là bậc dị nhân không?". Đồng hỏi loại dị nhân nào, Đổng bèn nói rõ sở thích của mình, lấy làm hận không được bậc dị nhân nào truyền thụ cho. Đồng nói "Ở đâu mà không có dị nhân, nhưng phải là tôi trung con hiếu thì mới được truyền thụ cho thuật ấy". Đổng hăng hái tự nói mình sẽ làm được như thế, rồi rút ngay kiếm ra, vỗ vào mà hát, lại chém đứt một cây nhỏ bên đường để khoe kiếm sắc. Đồng vuốt râu mỉm cười, nhân mượn xem, Đổng bèn đưa cho. Đồng xem qua một lượt, nói "Đây là loại thép làm áo giáp đúc ra, còn ám mồ hôi, chỉ là hạng chót. Ta tuy chưa học kiếm thuật nhưng cũng có một thanh dùng được”, rồi rút trong áo ra một thanh đoản kiếm dài khoảng một thước, cầm gọt gươm của Đổng như cắt rau dưa, cắt tới đâu sắt vụn rơi lả tả tới đó. Đổng khiếp quá, cũng xin cầm xem, múa may đâm chém mấy nhát rồi trả lại, mời Đồng ghé lại nhà, khẩn khoản mời ngủ lại, lạy lục xin học kiếm pháp.

Đồng tạ từ nói không biết, Đổng vỗ gối hứa hẹn hùng hồn, Đồng chỉ kính cẩn ngồi nghe. Đến khuya chợt ở nhà bên có tiếng quát tháo đánh trói ầm ỉ. Nhà bên là nơi cha Đổng ở, Đổng giật mình tới bên vách nghe ngóng, chỉ nghe có giọng giận dữ nói "Gọi con ngươi ra mau, ta sẽ tha cho". Giây lát lại có tiếng đánh đập, tiếng rên rỉ không dứt, đúng là tiếng của cha. Đổng cầm ngọn mác muốn xông qua, Đồng cản lại nói "Qua đó sợ không sống được đâu, xin ông nghĩ cách vạn toàn! . Đổng hoảng sợ xin chỉ giáo, Đồng nói "Bọn cướp gọi đích danh thì đã rắp tâm giết ông. ông không có anh em gì khác, hãy trối trăn cho vợ con đã. Ta sẽ mở của giúp ông dọn dẹp đám thối tha này”. Đổng theo lời vào nói với vợ, vợ níu áo khóc, Đổng bao nhiêu hùng tâm chợt tiêu tan, bèn cùng nhau lên lầu, tìm cung kiếm tên đề phòng bọn cướp đánh qua. Còn đang luống cuống thì nghe tiếng Đồng trên nóc lầu cười nói “May là bọn cướp chạy rồi!". Đốt đuốc soi thì khách đã biến mất, rón rén qua xem thì cha uống rượu ở nhà hàng xóm vừa cầm đuốc về tới, mà trước sân chỉ toàn là cọng rơm cháy dở, mới biết Đồng là bậc dị nhân.

Dị Sử thị nói:Trung hiếu là tính người, mà những kẻ làm ta con không thể xả thân vì vua cha xưa nay, buổi đầu há không có lúc hăng hái cầm mác toan xông ra đâu, chỉ vì xoay chuyển ý nghĩ một lần mà thành lầm lạc đó thôi. Xưa Giải Đại Thân đã thề cùng chết với Phương Hiếu Nhu* mà sau lại nuốt lời, có lẽ sau khi thề thốt về nhà lại nghe tiếng vợ kêu khóc ở đầu giường cũng chưa biết chừng? Trong huyện có tên lính trạm là Mỗ, thường cứ đi mấy ngày mới về, vợ tư thông với một gã vô lại trong thôn. Một hôm Mỗ vừa về tới thì gặp một thiếu niên trong phòng vợ đi ra, vô cùng ngờ vực, căn vặn thì vợ khăng khăng chối. Kế tìm được đồ vật của thiếu niên để quên ở đầu giường, vợ cứng họng không sao chối được nữa, chỉ quỳ lạy xin tha tội. Mỗ giận quá, vứt cho cuộn dây bắt tự thắt cổ, vợ xin trang điểm rồi chết, Mỗ ưng thuận. Vợ bèn vào phòng trang điểm, Mỗ ngồi ngoài uống rượn chờ, chủi mắng thúc giục. Lát sau vợ ăn mặc lộng lẫy bước ra, sa lệ lạy nói ! Chàng quả nhẫn tâm bắt em chết sao?", Mỗ làm ra vẻ giận dữ quát tháo, vợ quay vào đang thắt dây thì Mỗ dằn chén gọi “Thôi ra đây, một thằng đội khăn xanh** chắc không thể bắt người khác chết được!", rồi lại ăn ở với nhau như cũ. Đó cũng là loại người như Đại Thân, nghĩ cũng buồn cười.

*Giải Đại Thân... Phương Hiếu Nhu: tức Giải Tấn và Phương Hiếu Nhu thời Minh, đều nổi tiếng văn chương, làm quan dưới triều Huệ đế. Lúc Yên vương (sau là Minh Thành tổ) dấy quân đánh Huệ đế, hai người cùng Chu Thục Tử, Vương Lương, Ngô Bạc, Hồ Hoàng hẹn cùng sống chết giúp Huệ đế. Kế Giải sai người tới nghe ngóng xem Hồ Hoàng động tĩnh ra sao, nghe Hồ hỏi người nhà cho heo ăn chưa. Giải nghe thế cười nói "Một con heo còn không chịu bỏ thì làm sao chịu bỏ tính mạng”, rồi không nghĩ gì tới lời hứa nữa. Sau Yên vương đánh chiếm Nam Kinh, Phương Hiếu Nhu bị bắt không chịu đầu hàng, bị giết cả mười họ giữa chợ, chỉ có Vương Lương đóng cửa kêu khóc rồi uống thuốc độc chết theo, còn còn những người kia đều nuốt lời ra làm quan với Minh Thành tổ.

**Đội khăn xanh: thời Xuân thu có hạng đàn ông cho vợ và con gái làm đĩ, gọi là "xướng phu”, phải đội khăn xanh để phân biệt với người khác.


198. Ái Nô
(Ái Nô)

Từ sinh người huyện Hà Gian (tỉnh Hà Bắc), tới dạy học ở huyện Ân (tỉnh Sơn Đông), đầu tháng chạp về nhà. Trên đường gặp một ông già nhìn kỹ rồi hỏi "Từ tiên sinh nghỉ dạy rồi à, sang năm sẽ mở lớp ở đâu?". Sinh cười đáp "Vẫn chỗ cũ”. Ông già nói "Ta tên Kính Nghiệp họ Thi, có đứa cháu gọi bằng cậu đang tìm thầy giỏi, vừa nhờ người tới Đông Chàng mời ông Lữ Tử Liêm, nhưng ông ta đã nhận tiền dạy ở Tắc Môn (tỉnh Sơn Đông). Nếu tiên sinh nhận dạy cho, thì số lương xin trả gấp đôi ở huyện Ân". Từ lấy cớ đã hứa với chỗ cũ từ chối, ông già nói “Thủ tín như thế thật là quân tử, nhưng từ nay đến năm mới cũng còn khá lâu, xin dâng một lượng vàng bái kiến, mong tiên sinh tạm lưu lại dạy cho cháu, sang năm sẽ bàn lại, được không?” Từ bằng lòng. Ông già xuống ngựa dâng phong bao lễ vật rồi nói "Nhà ta không xa lắm, có điều hơi chật hẹp, khó chứa súc vật. Xin tiên sinh cho ngựa với đầy tớ về, đi bộ với ta cũng hay". Từ nghe theo, đem hành chất lên ngựa của ông già, đi ba bốn dặm, trời sập tối mới tới nhà, thấy cửa đóng đinh đồng nổi, tay nắm chạm thú, rõ ràng là nhà thế gia. Ông già gọi cháu ra vái chào, là một đồng tử khoảng mười ba mười bốn tuổi. Ông già nói "Em rể ta là Tưởng Nam Xuyên, lúc sống làm Chỉ huy sứ, chỉ để lại có đứa con này, cũng không phải ngu độn, chỉ là quen tật lười biếng thôi, nay được tiên sinh đạy đỗ cho một tháng thì hơn học mười năm”.

Không bao lâu dọn tiệc mời rất linh đình, nhưng lên xuống phục dịch toàn là tớ gái, có một tỳ nữ cầm hồ rượu đứng chầu chực, tuổi khoảng mười lăm mười sáu trở lại, rất mực phong vận, khiến Từ thấy xao xuyến. Tiệc tan, ông già sai thu xếp chỗ ngủ cho Từ xong mới cáo từ đi ra. Trời chưa sáng đứa nhỏ đã tới phòng học, Từ vừa dậy đã có tỳ nữ tới hầu khăn lược, chính là nàng cầm hồ rượu tối qua. Ngày ba bữa cơm đều do nàng mang lên, tối đến lại tới dọn giường. Từ hỏi sao không có tớ trai, chỉ cười không đáp, trải nệm xong là đi. Hôm sau lại tới, Từ theo vào trêu cợt, nàng cười không chống cự, rồi ôm ấp nhau, nhân nói "Nhà này không có đàn ông, những việc bên ngoài thì nhờ cậu Thi. Thiếp tên ái Nô, phu nhân kính mến tiên sinh, sợ đám tớ gái không được sạch sẽ nên cho thiếp lại hầu. Nay phải giữ kín việc này, nếu để lộ ra thì cả hai sẽ mất mặt đấy". Một đêm nằm chung rồi ngủ quên đến sáng, bị công tử bắt gặp.

Từ xấu hổ, trong dạ bất an, đến tối, Ái Nô tới nói "May là phu nhân trọng chàng, nếu không thì hỏng cả rồi. Công tử vào kể, phu nhân vội bịt miệng không cho nói, như là sợ chàng nghe được, mà cũng chỉ dặn thiếp đừng ở lâu trong phòng học thôi", nói xong đi ngay. Từ vô cùng biết ơn phu nhân. Nhưng công tử không chăm học, Từ quở trách thì phu nhân cứ tìm cách xin cho, lúc đầu còn sai tỳ nữ, dần dần đích thân ra đứng ngoài cửa nói với thầy, vừa nói vừa khóc, mà cứ tối đến lại hỏi con về bài vở ban ngày. Từ chịu không nổi, tức giận nói "Đã dung túng cho con lười biếng, lại hối thúc ép con siêng năng, làm thầy loại học trò ấy thì ta không quen, xin phép cáo từ". Phu nhân sai tỳ nữ tới tạ lỗi, Từ mới thôi. Từ ngày vào dạy, lần nào muốn ra ngoài ngắm cảnh cũng thấy cửa nẻo khóa chặt, một hôm uống rượu say thấy bực tức gọi tỳ nữ hỏi nguyên cớ, nàng đáp "Không có gì khác đâu, chỉ vì sợ công tử bỏ bê việc học thôi. Nếu tiên sinh nhất định muốn ra ngoài, xin chờ lúc ban đêm”. Từ nổi giận nói "Nhận vài đồng vàng rồi phải chịu cấm cố đến chết à? Bảo ta ban đêm trốn ra, là đi đâu? Lâu nay vẫn xấu hổ vì chỉ ăn không, tiền lương vẫn còn trong túi đây". Bèn lấy vàng ra đặt lên bàn, thu xếp hành trang định đi. Phu nhân bước ra, im lặng không nói câu nào, chỉ lấy tay áo che mặt nghẹn ngào, sai tỳ nữ đưa lại vàng, mở khóa tiễn ra. Từ thấy cửa nẻo chật chội, nghiêng mình lách ra đi vài bước chợt có ánh nắng soi tới, té ra mình vừa dưới mộ chui lên. Nhìn bốn phía thấy hoang vắng tiêu điều, thì là một ngôi mộ cũ, cả sợ nhưng lại cảm vì có nghĩa, bèn bán vàng đắp mộ cao lên, trồng cây chung quanh rồi đi.

Năm sau Từ lại qua ngang chỗ ấy, ghé vào lễ bái rồi lên đường, thấy ông Thi từ xa tới cười nói thăm hỏi rồi khẩn khoản mời mọc. Từ biết là ma nhưng muốn nhân dịp hỏi thăm phu nhân nên theo vào thôn, vào quán gọi rượu cùng uống, trời tối lúc nào không biết. Ông già đứng lên trả tiền rượu rồi nói "Nhà ta không xa mấy, em gái ta cũng vừa về thăm nhà, mong tiên sinh dời gót ngọc tới chơi, để quét sạch rủi ro giùm lão phu”. Ra khỏi làng vài chặng lại có một dãy nhà, ông già gõ cửa vào, cầm đèn dẫn khách vào. Một lát Tưởng phu nhân ra chào, lúc ấy Từ mới nhìn kỹ, thì là một người đẹp khoảng bốn mươi tuổi. Phu nhân lạy tạ nói "Dòng họ sa sút, nhà cửa tiêu điều, ơn đức của tiên sinh thấm tận xương khô, thật không biết lấy gì báo đáp”. Nói xong khóc ròng, kế gọi Ái Nô ra, nhìn Từ nói “Thiếp vốn yên mến đứa tỳ nữ này, nay xin đưa tặng để tiên sinh đỡ vắng vẻ nơi đất khách, mà có cần gì nó cũng hơi biết đón ý", Từ dạ dạ. Lát sau hai anh em đi ra, để Ái Nô ở lại hầu hạ. Gà vừa gáy ông già đã tới đưa tiễn, phu nhân cũng ra dặn tỳ nữ phụng sự tiên sinh cho chu đáo, lại nói với Từ "Từ nay trở đi càng nên kín đáo, chuyện hai người gặp gỡ nhau quá lạ lùng, e những kẻ hiếu sự lại đặt điều nọ kia". Từ dạ rồi cáo từ, cùng Ái Nô cưỡi chung ngựa. Tới nơi dạy chỉ ở một phòng, ăn ngủ với nhau, lúc có khách nàng không tránh đi mà người ta cũng không nhìn thấy. Từ vừa hơi muốn gì là nàng đã làm ngay, lại giỏi môn đồng cốt, bị bệnh gì chỉ xoa bóp một lần là khỏi.

Đến tiết Thanh minh hai người cùng về khu mộ, nàng chào bước xuống, Từ dặn cho gởi lời cám ơn phu nhân, nàng vâng dạ rồi biến mất. Mấy hôm sau Từ quay lại, đang định tìm quanh mộ thì đã thấy nàng ăn mặc lộng lẫy ngồi dưới gốc cây, bèn cùng lên đường, cả năm thường đi lại như thế. Từ muốn cùng nhau về quê, nàng nhất quyết không chịu. Cuối năm từ biệt nơi dạy về đó, hẹn ngày gặp lại, nàng đưa tới chỗ ngồi hôm trước, chỉ đống đá nói "Đây là mộ của thiếp. Lúc phu nhân chưa xuất giá, thiếp đã theo hầu hạ, chết yểu chôn ở đây. Nếu chàng qua ngang, cứ thắp cho một nén hương, sẽ gặp lại nhau”. Sau khi chia tay về quê, Từ vô cùng nhớ nhung, tới đó khấn khứa nhưng tuyệt không thấy tăm hơi, bèn mua hòm quật mộ định mang hài cốt nàng về quê để ghi nhớ một thời yêu dấu. Huyệt vừa mở ra, Từ tự bước xuống, thấy nàng nhan sắc vẫn như còn sống nhưng tuy thịt da chưa nát mà y phục đã mủn ra như tro, trâm ngọc xuyến vàng đều còn mới, lại nhìn tới thắt lưng thấy có cái gói bọc mấy nén vàng bèn cuốn lại giắt vào lưng. Rồi cởi áo ngoài đắp lên xác nàng, ôm đặt vào quan tài, thuê xe chở về mang vào một gian nhà riêng, mặc xiêm áo thêu cho, một mình ăn ngủ bên cạnh để chờ linh ứng.

Bỗng Ái Nô từ ngoài vào cười nói “Tên giặc cướp mộ ở đây à?", Từ ngạc nhiên mừng rỡ hỏi thăm, nàng nói “Hôm trước thiếp theo phu nhân qua phủ Đông Xương (tỉnh Sơn Đông) ba ngày, trở về thì nhà cửa đã trống không. Nhiều lần bảo cùng về vẫn không nghe là vì thiếp chịu ơn phu nhân từ nhỏ nên không nỡ xa lìa mà thôi. Nay đã cướp xác về đây xin chôn cất sớm cho thiếp được đội ơn sâu”. Từ hỏi "Xưa có người chết đã trăm năm vẫn sống lại được, nay xác nàng còn nguyên, sao không làm theo như thế?”. Nàng than rằng "Chuyện đó là có định số, chứ những sự linh dị mà thế gian đồn đại quá nửa là huyễn hoặc. Nếu thiếp muốn đứng lên đi lại cũng chẳng có gì khó, chỉ hiềm không thể giống như người sống nên không làm thôi”. Rồi mở quan tài bước vào, cái xác liền đứng dậy, rỡ ràng khả ái, nhưng sờ vào người thì thấy lạnh như băng.

Nàng toan nằm lại vào quan tài, Từ cố ngăn cản thì nói "Thiếp được phu nhân yêu mến rất mực, chủ nhân đi làm ăn xa về có mấy vạn lượng vàng, thiếp lấy trộm một ít cũng không tra hỏi ráo nết. Sau lúc ốm nặng sắp chết, lại không có ai là thân thích bèn giấu kỹ trong người để cùng chôn một chỗ. Phu nhân thương thiếp chết yểu, lại liệm thêm nhiều châu báu nên sở dĩ xác thân chưa nát chẳng qua là nhờ chút hơi thừa của vàng bạc châu báu thôi, nếu hiện thân sống ở đời thì làm sao lâu dài được? Như chàng nhất quyết muốn thế thì xin đừng ép thiếp ăn uống, nếu làm linh khí tan mất thì du hồn cũng phải tiêu tan", Từ bèn dựng một gian tịnh xá để ở với nhau. Nàng cười nói như người thường nhưng không ăn không ngủ, không gặp người lạ. Hơn năm sau Từ uống rượu hơi say, cầm chén ép đổ cho nàng, nàng lập tức ngã lăn xuống đất, máu trong miệng chảy ra đầm đìa, hết ngày thì thân xác tan rã. Từ hối hận thì việc đã rồi, bèn chôn cất thật hậu.

Di Sử thị nói:Phu nhân dạy con chẳng khác gì người trần, nhưng đối xử với thầy sao mà hậu như vậy? Há chẳng cũng hiền sao? Ta vẫn nói nhà giàu sang không bằng ma phong nhã, nhưng lại gởi gắm lầm cho gã tục tử thô mãng, để đến nỗi vật linh không sống được lâu dài, tiếc thay!

Chu sinh ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) vốn ngang tàng, dạy học ở nhà Cống sĩ Mỗ. Cứ mỗi lần trách phạt học trò thì người mẹ lại sai tớ gái tới xin tha, nhưng sinh không nghe. Một hôm tự tới ngoài cửa nói với thầy, Chu nổi giận vớ lấy thước mắng lớn xông ra, người đàn bà hoảng sợ bỏ chạy, Chu đuổi theo đánh với trúng vào mông nghe bồm bộp, nghĩ mà buồn cười.
Mỗ ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) mỗi năm rước thầy thì giao hẹn đến cuối năm mới tính toán công xá một lần, cả năm thì tính từng ngày, ngày nào thầy đi vắng đều ghi rõ để cuối năm trừ lại. Mã sinh dạy ở đó, lúc đầu thấy y mang bàn tính tới, biết nguyên do rất sợ, sau nghĩ ra một kế bèn đổi giận làm lành, cứ nghe y tính toán, không cãi vã thêm bớt gì cả. Y vì thế vui lắm, cứ nhất định mời sang năm lại tới dạy, Mã lấy cớ phải về quê để từ chối. Nhưng có Mỗ sinh hiệu là Quai Mậu, Mã giới thiệu dạy thay mình. Mỗ tới dạy thì động một tí lại chửi mắng, y không bỉết làm sao đành cố nhịn. Cuối năm mang bàn tính tới, sinh bừng bừng nổi gỉận nhưng cũng cố nhịn ngồi nghe tính toán. Y tính cả những ngày đi đường cho thầy, sinh không nghe, bắt nhà chủ phải chịu. Hai bên cãi nhau không ai chịu ai, vác gậy đánh nhau, cả hai đều sứt đầu mẻ trán, dắt nhau lên quan thưa kiện.


Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 199 - 200 -
Tiểu Mai
(Tiểu Mai)

Vương Mộng Trinh ở huyện Mông Âm (tỉnh Sơn Đông) là con nhà thế gia, tình cờ đi chơi Chiết Giang thấy một bà già ngồi khóc trên đường. Hỏi han, bà đáp "Chồng ta đã chết chỉ để lại có một đứa con trai, nay nó phạm tội tử hình, ai mà cứu được?" Vương vốn khẳng khái bèn ghi nhớ họ tên rồi bỏ tiền túi lo lót, kế được tha tội. Người kia ra khỏi ngục nghe nói là Vương cứu mình, ngỡ ngàng không hiểu vì sao, tìm tới nhà trọ khóc lạy tạ rồi hỏi. Vương đáp "Không có gì khác, chỉ là vì ta thương mẹ ngươi già cả mà thôi". Người kia cả sợ, nói mẹ mình đã chết lâu rồi, Vương cũng lấy làm lạ. Đến tối bà già tới tạ ơn, Vương trách là lừa dối, bà nói "Nói thật ta là con hồ già ở Đông Sơn, hai mươi năm trước có gặp gỡ cha thằng bé một đêm, nên không nỡ để người đã chết đau khổ". Vương rợn người đứng lên tỏ vẻ kính trọng, định hỏi thêm cho rõ thì bà già biến mất.

Trước đó vợ Vương vốn hiền thục, mộ đạo Phật, không uống rượu. Trong nhà dành riêng ra một gian phòng sạch sẽ treo hình Quan âm để cầu con trai nối dõi, hàng ngày thắp hương khấn khứa. Mà Thần Phật lại rất linh thiêng, thường báo mộng dạy những điều cần tránh, nhờ vậy mọi việc trong nhà đều theo dó mà làm. Sau vợ Vương mắc bệnh nặng bèn sai dời giường vào gian thờ, lại đặt riêng một chiếc nệm gấm trong phòng mà thường đóng kín cửa như giấu diếm điều gì. Vương cho là tin nhảm nhưng lại nghĩ rằng vợ bệnh nặng mê sảng nên không nỡ trái ý. Vợ Vương mắc bệnh hai năm, rất ghét tiếng ồn, thường che màn nằm một mình, lắng nghe thì như đang nói chuyện với người nào nhưng mở cửa nhìn thì không có ai. Lúc nằm bệnh không lo lắng điều gì, duy có đứa con gái mười bốn tuổi, chỉ ngày ngày lo sửa soạn quần áo cưới bảo lấy chồng. Con gái lấy chồng rồi, nàng gọi Vương tới cạnh giường cầm tay nói "Nay xin vĩnh biệt. Khi thiếp vừa mắc bệnh, Bồ Tát đã báo mộng nói không còn sống lâu được, nhưng niệm tình còn có chuyện chưa làm xong nên ban cho ít thuốc kéo dài hơi tàn đợi đến lúc gả chồng cho con. Năm ngoái Bồ Tát trở về Nam Hải, lưu lại thị nữ Tiểu Mai săn sóc cho thiếp. Nay sắp chết, người bạc phận không sinh nở được, thiếp rất thương Bảo Nhi, sợ chàng lấy phải vợ ghen thì mẹ con mất nơi nương tựa. Tiểu Mai xinh đẹp lại hiền thục, chàng nên cưới làm vợ kế".

Vương vốn có người thiếp sinh được một trai đặt tên là Bảo Nhi, lúc ấy cho lời vợ là hoang đường, bèn hỏi "Nàng vẫn thờ kính Thần Phật, nay nói những lời như thế, chẳng cũng bất kính ư?". Vợ đáp “Tiểu Mai săn sóc thiếp hơn một năm nay không nề vất vả, thiếp đã nài nỉ khẩn cầu rồi". Hỏi Tiểu Mai đâu, vợ nói "Không có trong phòng sao?", Vương định hỏi nữa thì nàng nhắm mắt tắt thở. Đêm ấy Vương thức giữ linh cữu, nghe trong phòng có tiếng nức nở, cả sợ ngờ là ma, gọi đám tớ gái mở khóa vào xem thì thấy là một cô gái xinh đẹp khoảng mười sáu tuổi mặc áo tang. Mọi người cho là thần cùng cúi lạy, cô gái lau nước mắt đỡ dậy. Vương chăm chú nhìn, nàng chỉ cúi đầu. Vương nói “Nếu lời trối của người đã khuất là đúng thì mời nàng lên nhà trên cho con trẻ, đầy tớ trong nhà lạy chào, nếu không thì ta cũng không dám vọng tưởng để mắc phải tội lỗi". Nàng đỏ mặt bước ra, cùng lên nhà trên, Vương sai tớ gái trải chiếu rồi bước vào lạy trước, cô gái cũng lạy trả, kế tới mọi người trong nhà theo thứ tự lớn nhỏ ra vái lạy. Nàng nghiêm trang ngồi nhận lễ, duy đến lượt người thiếp thì đứng lên đỡ dậy.

Từ khi vợ Vương mắc bệnh nằm liệt giường kẻ ăn người làm sinh thói lười biếng ăn cắp, việc nhà đã lâu không có ai coi sóc. Mọi người làm lễ ra mắt xong, xếp hàng đứng hầu, cô gái nói "Ta cảm lòng thành của phu nhân nên lưu lại trần gian, lại được ủy thác cho việc lớn. Các ngươi đều nên tự mình sửa đổi, gắng sức cho chủ, những lỗi lầm trước đây ta không hỏi tới, nếu không thì đừng nói trong nhà không có người". Mọi người cùng nhìn lên thấy nàng giống hệt bức tranh Quan âm lay động lúc có làn gió thổi qua, nghe thế run sợ đều dạ ran. Nàng cắt đặt mọi người lo việc tang đâu vào đấy, từ đó lớn nhỏ trong nhà không ai dám trễ nải. Cô gái cả ngày lo toan công việc trong ngoài, Vương định làm gì cũng hỏi qua nàng mới làm. Tuy một ngày gặp nhau mấy lần, nhưng không nói một câu riêng tư. Sau tang lễ Vương muốn nhắc lời vợ dặn nhưng không dám nói thẳng bèn nhờ người thiếp ngỏ ý. Cô gái nói "Ta đã nhận lời phu nhân dặn dò cặn kẽ, không thể từ chối, nhưng hôn phối là việc lớn, không thể quấy quá. Hoàng tiên sinh là vai bác, ngôi cao đức lớn, xin mời ông làm chủ hôn thì ta xin vâng mệnh".

Lúc bấy giờ quan Thái bộc họ Hoàng ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) đã về trí sĩ, là bạn của cha Vương, vẫn đi lại thân thiết với nhau. Vương lập tức tới thăm kể rõ mọi việc, Hoàng lấy làm lạ bèn cùng tới nhà Vương, cô gái nghe báo liền ra lạy chào. Hoàng vừa trông thấy, kinh ngạc cho là người tiên, không dám nhận lễ, kế tặng quà rất hậu, làm đám cưới xong rồi về. Cô gái đưa tặng gối êm giày ấm, chu đáo như thờ cha mẹ chồng, từ đó hai nhà càng thêm thân thiết. Sau lễ hơp cẩn, Vương vẫn coi nàng là thần nên trong lúc yêu đương vẫn có phần cung kính, thỉnh thoảng lại dò hỏi về việc Bồ Tát ăn ở ra sao. Cô gái cười nói "Chàng thật ngốc quá, làm gì có chuyện thần thánh nào lấy người trần thế?”. Vương lại căn vặn nàng từ đâu tới, nàng đáp “Không cần phải hỏi kỹ, nếu cho là thần thì cứ sớm tối thờ phụng, sẽ không mắc tội”. Cô gái với người dưới thường khoan dung, lúc nào nói cũng cười nhưng đám tớ gái đang đùa giỡn với nhau vừa thấy bóng nàng là im bặt. Nàng cười bảo "Chẳng lẽ các ngươi còn cho ta là thần sao? Ta mà là thần thánh gì, thật ra là em phu nhân, nhưng ít khi đi lại, chị ta ốm nhớ em nên ngầm nhờ bà Vương ở thôn nam gọi ta tới, ở đây sợ ngày đêm gần gũi anh rể có điều không tiện nên nói thác là thần, ở kín trong phòng chứ thật ra có phải là thần thánh gì đâu!”. Mọi người vẫn chưa tin lắm nhưng hàng ngày hầu hạ bên cạnh thấy nàng chẳng khác gì người thường nên những lời bàn tán cũng hết dần.

Nhưng với đám tôi tớ ngu si bướng bỉnh mà Vương đánh mắng vẫn không dạy dỗ được, nàng chỉ nói một câu là ai cũng ngoan ngoãn vâng lời, đều nói “Không rõ vì sao, chứ thật ra không sợ hãi gì nhưng cứ thấy mặt nàng là mềm lòng, không nỡ làm điều gì trái ý". Từ đó mọi việc trong nhà đều tốt đẹp lên, trong vài năm mà ruộng tốt liền bờ, kho thóc đầy ắp. Vài năm sau người thiếp sinh một gái, nàng cũng sinh một trai, đứa nhỏ mới sinh ra đã có một nốt ruồi son trên cánh tay phải, nhân đặt tên là Tiểu Hồng. Lúc đầy tháng, cô gái bảo Vương làm tiệc lớn mời Hoàng, Hoàng gởi quà mừng rất hậu nhưng từ tạ không tới vì già yếu không đi xa được, nàng sai hai bà già qua nài nĩ Hoàng mới tới. Nàng bế đứa nhỏ ra vạch tay trái để giải thích tên con, lại hỏi đi hỏi lại rằng nốt ruồi ấy là tốt hay xấu. Hoàng cười đáp "Đo như thế là tốt, nên thêm một chữ vào tên, gọi là Hỷ Hồng". Nàng mừng lắm bước ra lạy tạ.
Hôm ấy đàn sáo vang nhà, thân thích tới mừng đông nghẹt, Hoàng ở chơi ba ngày mới về. Chợt ngoài cổng có xe ngựa tới đón cô gái về thăm nhà, mọi người vì suốt mười năm không hề thấy nàng có họ hàng gì lui tới nên đều xôn xao bàn tán. Nhưng cô gái làm như không nghe thấy, cứ sửa soạn hành trang bế con đi, bảo Vương theo tiễn. Vương đi theo, được khoảng hai ba mươi dặm tới một chỗ vắng, cô gái dừng xe gọi Vương xương ngựa lên buông rèm trò chuyện, nói “Vương lang, Vương lang! Sum họp ngắn ngủi, chia ly lâu dài, chàng có đau lòng không?” Vương hoảng sợ hỏi nguyên do, nàng nói "Chàng biết thiếp là ai không?”. Vương đáp không biết, nàng hỏi “Trước đây chàng có cứu một người bị tội chết ở Giang Nam, đúng không?”, Vương đáp có. Cô gái nói "Bà già khóc trên đường ấy là mẹ thiếp, vì cảm nghĩa của chàng nên nghĩ cách báo đáp, mới nhân việc phu nhân mộ đạo Phật bảo thiếp giả làm thần, thật ra là để đem thiếp báo ơn chàng. Nay may mắn sinh được đứa con này, thế là toại nguyện. Thiếp thấy chàng sắp đến vận xấu, nếu để đứa nhỏ này ở nhà e không nuôi được, nên phải mang theo để tránh tai ách cho con. Chàng nhớ là lúc nào trong nhà có ai chết thì cứ lúc gà gáy canh đầu phải tới rặng liễu trên bờ đê Tây Hà, chờ người cầm đèn lồng hoa quỳ tới đón đường cầu khẩn mới có thể thoát nạn". Vương hứa sẽ nhớ, lại hỏi ngày trở lại, nàng đáp "Không thể tính trước, nhưng chỉ cần chàng nhớ kỹ lời thiếp thì ngày tái ngộ cũng không xa lắm đâu”. Lúc lên đường cầm tay Vương khóc ròng, kế lên xe đi nhanh như bay, Vương nhìn theo đến khi khuất bóng mới quay về.

Sáu bảy năm sau Tiểu Mai vẫn bặt tăm, chợt bệch dịch lan tràn khắp nơi, người chết như rạ. Một người tớ gái trong nhà bị bệnh ba ngày rồi chết, Vương vẫn nhớ lời cô gái dặn nhưng hôm ấy có khách, uống rượu say ngủ quên, tỉnh dậy nghe tiếng gà gáy vội tìm ra rặng liễu trên đê, thấy có ánh đèn le lói song đã xa rồi, vội đuổi theo nhưng đi được một bước thì thấy xa thêm trăm bước, càng duổi theo thì ánh đèn càng xa, dần dần không thấy đâu nữa. Vương buồn rầu trở về, vài hôm sau mắc bệnh nặng rồi chết. Họ hàng Vương có nhiều kẻ vô lại, thấy thế cùng ức hiếp con côi vợ góa, lúa ruộng trái vườn công nhiên gặt hái, nhà cửa ngày càng sa sút. Qua năm sau Bảo Nhi lại chết, trong nhà không có ai là chủ, bọn chúng càng ngang ngược, chiếm hết ruộng vườn, bắt hết trâu ngựa. Lại muốn chia nhau cả nhà cửa, vì người thiếp của Vương còn ở đó bèn dắt mấy người tới bắt ép đem bán. Người thiếp thương đứa con gái nhỏ, mẹ con bịn rịn khóc lóc, láng giềng đều thương xót.

Đang lúc nguy cấp chợt nghe ngoài cổng có tiếng xe ngựa đỗ lại, mọi người nhìn ra thì Tiểu Mai dắt con trai bước xuống. Nàng nhìn quanh thấy mọi người đang nhao nhao như cái chợ, bèn hỏi đó là ai, người thiếp khóc lóc kể lại. Cô gái biến sắc mặt, lập tức sai người theo hầu đóng cổng khóa lại. Bọn kia toan chống cự nhưng tay chân tự nhiên nhũn ra, cô gái ra lệnh trói tất cả lại vào cột nhà, mỗi ngày cho ăn ba bát cháo loãng, sai một lão bộc tới báo ngay cho ông Hoàng, kế vào nhà khóc lóc thảm thiết rồi nói với người thiếp rằng "Đó là số trời, ta đã định về từ tháng trước lại vì mẹ ta ốm nặng nên chần chừ đến nay, không ngờ trong chớp mắt chàng đã thành người thiên cổ!". Lại hỏi tới các tôi tớ cũ thì đều bị người trong họ cướp đi, càng thêm thương cảm.

Hôm sau tôi tớ nghe tin nàng tới đều trốn về, gặp lại nhau đều sa nước mắt. Bọn người trong họ bị trói cùng kêu rằng đứa nhỏ kia không phải là con Mộ Trinh, cô gái cũng không thèm tranh cãi. Kế ông Hoàng tới, nàng dẫn con ra đón, Hoàng cầm tay đứa nhỏ kéo tay áo bên trái lên thì nốt ruồi son vẫn còn đó, bèn chỉ cho mọi người thấy chứng cứ đích xác. Liền hỏi kỹ về những vật đã mất, những người đã lấy, biên hết vào sổ báo lên quan huyện. Quan bắt tất cả bọn vô lại lên đánh mỗi tên bốn chục roi giam lại rồi lục soát nhà cửa, ruộng đất trâu ngựa đều trở về chủ cũ. Hoàng sắp về cô gái dắt con ra khóc lạy rồi nói "Thiếp không phải là người trần, chú đã biết rổi. Nay xin đem đứa con côi này gởi gắm cho chú”. Hoàng đáp "Lão phu còn một hơi thở cũng cố lo lắng cho nó”. Hoàng về rồi, cô gái xếp đặt việc nhà xong, gởi con cho người thiếp rồi mang lễ vật ra mộ cúng chồng, nửa ngày không về, ra xem thấy mâm bàn rượu thịt vẫn còn đó mà người đã biến mất.

Dị Sử thị nói: Không để người phải tuyệt tự thì người cũng không để mình phải tuyệt tự, đó là việc người nhưng thật ra cũng là đạo trời. Còn tới như trên tiệc có bạn hiền, áo cừu xe nhẹ có thể cùng hưởng mà lúc nấm mồ xanh cỏ, vợ con sa sút thì người trong xe thản nhiên nhìn qua rồi đi thôi. Bạn chết không nỡ quên, cảm ơn nghĩa thì nghĩ cách báo đáp, có phải chỉ riêng con người đâu. Hồ ơi, nếu ngươi có nhiều tiền bạc thì ta sẽ làm quản gia cho ngươi!




200. Cô Gái Đánh Sợi



(Tích Nữ)




Huyện Thiệu Hưng (tỉnh Chiết Giang) có người quả phụ đêm ngồỉ đánh sợi, chọt có một cô gái đẩy cửa bước vào cười nói “Bà không mệt sao?", nhìn ra thấy khoảng mười tám mười chín tuổi dung nhan đẹp đẽ, áo xiêm lộng lẫy. Bà già kinh ngạc hỏi “Cô ở đâu tới đây?”, cô gái đáp "Thương bà ở một mình, nên tới làm bạn”. Bà già ngờ là thê thiếp nhà giàu sang trốn đi, cứ căn vặn mãi. Cô gái nói “Bà đừng sợ, thiếp dù là hồ, cũng giống bà thôi. Thiếp mến bà là người trong sạch nên tới ở chung, cả hai đều đỡ vắng vẻ, thế không tốt sao?". Bà già lại ngờ là hồ, trầm ngâm do dự, cô gái bèn lên giường đánh sợi giúp, nói "Bà đừng lo việc kiếm sống thế này thiếp giỏi bậc nhất, quyết không làm phiền nhau về cái ăn cái uống đâu”. Bà già thấy nàng dịu dàng khả ái nên bằng lòng. Đến khuya nàng nói với bà già "Có gói chăn gốỉ mang theo còn để ngoài cổng, lúc nào nghỉ phiền bà cầm vào giùm”. Bà già ra, quả thấy một gói y phục liền đem vào cô gái mở ra bày trên giường, không biết là loại gấm lụa gì mà thơm phức mịn màng không gì sánh kịp. Bà già cũng trải chăn đệm ra cùng nàng ngủ chung một giường, nàng vừa cởi quần áo ngoài ra thì có mùi hương lạ thơm nức cả phòng.




Lúc đi nằm, bà già thầm nghĩ gặp người đẹp thế này mà tiếc rằng mình không phải là đàn ông, cô gái đang nằm cười nói “Bà đã bảy mươi tuổi mà còn vọng tưởng à?”. Bà già đáp "Đâu có", nàng nói "Đã không vọng tưởng, sao lại muốn làm đàn ông?". Bà già càng biết chắc là hồ, cả sợ, cô gái lại cười nói "Muốn làm đàn ông để làm gì, sao còn sợ ta chứ?”. Bà già càng khiếp sợ, run bần bật lay động cả giường. Cô gái nói "Mật chỉ lớn có bấy nhiêu mà lại muốn làm đàn ông. Nói thật ta chính là người tiên nhưng không phải là loại gái gây tai họa đâu, chỉ cần bà kín miệng thì tự nhiên đủ cái ăn cái mặc". Sáng ra bà già dậy sớm sụp lạy bên giường, cô gái kéo đứng lên, tay mịn như mỡ đông, tỏa mùi hương ấm, da thịt chạm tới là thấy rạo rực. Bà già động tâm lại suy nghĩ vẩn vơ, cô gái mỉm cười nói “Bà già vừa mới run bần bật đây mà lại nghĩ ngợi gì thế? Nếu bà là đàn ông, chắc sẽ chết vì tình". Bà già nói "Nếu ta là đàn ông thì đêm qua làm sao sống được?".




Từ đó hai người hòa hơp, hàng ngày cùng làm việc, nhìn thấy sợi cô gái đánh ra mịn đều óng ánh, đem dệt thành vải thì sáng ngời như gấm, bán được giá gấp ba. Bà già đi đâu thì đóng cửa, có ai tới thăm thì bà tiếp đãi ở phòng khác, cô gái ở đó nửa năm mà không ai biết. Về sau bà già dần dần nói lộ ra cho láng giềng biết, đám chị em quen biết kéo nhau tới nhờ nói giùm xin cho được gặp cô gái. Nàng trách móc, nói "Bà không giữ gìn lời nói, thì ta không ở đây lâu được đâu”. Bà già hối hận vì đã lỡ lời, vô cùng ăn năn, nhưng những kẻ xin cho được gặp cô gái ngày càng đông, có người còn toan lấy quyền thế ép buộc. Bà già khóc lóc bày tỏ, cô gái nói "Nếu là chị em bạn gái thì gặp mặt cũng không hại gì, sợ đám đàn ông khinh bạc tới gặp rồi giở trò suồng sã". Bà già lại năn nỉ, nàng mới ưng thuận.




Hôm sau đám đàn bà già trẻ cầm hương đèn chen nhau đầy cổng, cô gái ghét phiền rộn nên bất kể là sang hèn đều không trò chuyện, chỉ im lặng ngồi thẳng nghe họ chào hỏi mà thôi. Bọn thiếu niên trong làng nghe đồn nàng đẹp, thần hồn điên đảo nhưng bà già đều cự tuyệt không cho gặp. Có Phí sinh là danh sĩ trong huyện, dốc hết gia sản đem món tiền lớn tới mua chuộc bà già, bà nhận lời xin cho. Cô gái đã biết trước, trách "Bà bán ta à?", bà già quỳ rạp xuống đất tự thú. Cô gái nói “Bà thì tham tiền đút lót, ta thì cảm mối si tình, có thể cho gặp một lần, nhưng thế là hết duyên phận rồi đấy”. Bà già lại dập đầu năn nỉ, nàng bèn hẹn hôm sau.




Sinh nghe tin mừng rỡ, sắm đủ hương đèn tới, vào cửa chắp tay vái dài. Cô gái ngồi trong rèm tiếp chuyện, hỏi "Chàng phá tán gia sản để gặp nhau, có điều gì dạy bảo thiếp?". Sinh đáp "Thật không dám có ý gì khác, chỉ là nghe tiếng Mao Tường, Tây Tử* mà thôi. Nếu không chê là ngu tối ngang bướng, cho được mở rộng tầm mắt một lần thì kẻ hèn này đã thỏa nguyện rồi. Còn chuyện lành dữ đã có số trời, không cần nói tới". Chợt thấy sau tấm rèm vải dung nhan tỏa sáng chiếu ra, mày biếc môi son đều nhìn thấy rõ tựa hồ không bị rèm màn ngăn cách. Sinh ý động thần dao, bất giác lạy sụp xuống. Lạy xong đứng lên thì tấm rèm như dày nặng hơn, chỉ nghe tiếng mà không thấy gì nữa. Đang ngậm ngùi trộm tiếc chưa nhìn thấy được phần dưới bỗng dưới tấm rèm nhô ra hai chiếc hài thêu cong mũi xinh xắn không dài hơn ngón tay. Sinh lại cúi lạy, cô gái trong rèm nói vọng ra "Thôi chàng về nghỉ, thiếp cũng mệt rồi".




* Mao Tường, Tây Tử tức Mao Tường và Tây Thi, người nước Việt thời Chiến quốc, nổi tiếng là giai nhân trong lịch sử Trung Hoa.




Bà già mời sinh qua phòng khác pha trà tiếp đãi, Sinh đề lên vách một bài từ điệu Nam hương tử như sau:




Ẩn ước họa liêm tiền,
Tam thốn lăng ba ngọc duẫn tiêm.
Điểm địa phân minh, liên biện lạc tiêm tiêm.
Tái trước trùng đài cánh khả liên.
Hoa thấn phượng dầu loan,
Nhập ác ưng tri nhuyễn tự miên.
Đãn nguyện hóa vi hồ điệp khứ lộ biên,
Nhất khứu dư hương tử diệc cam.

(Thấp thoáng trước màn là,
Măng ngọc hài thêu mấy tấc hoa.
Chấm đất rỡ ràng cánh sen rụng la đà,
Đài gương gặp lại nghĩ thương ta.
Có hóa được làm trâm,
Vào trong mới biết tóc mây mềm.
Chỉ mong hoá bướm lượn bên nàng,
Ngửi chút hương thừa, chết cũng cam.)




Đề xong ra về. Cô gái xem bài từ không vui, nói với bà già "Ta nói duyên phận đã hết, nay quả không sai". Bà già quỳ rạp xuống đất chịu tội, nàng nói "Không phải chỉ riêng bà có tội. Ta ngẫu nhiên sa vào nghiệp tình, đem sắc đẹp cho người ta thấy nên mới bị lời bậy bạ làm nhơ nhuốc, đều là tự mình chuốc lấy, còn trách ai được? Nếu không đi mau cho xa, sợ sẽ đắm vào vực tình, kiếp sau cũng khó mà thoát ra khỏi". Rồi xách khăn gói đi ra, bà già đuổi theo giữ lại thì trong chớp mắt đã biến mất.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 201 -
Trương Hồng Tiệm
(Trương Hồng Tiệm)

Trương Hồng Tiệm người huyện Vĩnh Bình (tỉnh Hà Bắc) năm mười tám tuổi đã là danh sĩ trong quận. Lúc ấy quan Tri huyện Lư Long (tỉnh Hà Bắc) họ Triệu là kẻ tham bạo, nhân dân đều ta thán. Có Phạm sinh bị đánh đòn mà chết, các bạn đồng học phẫn oán về nỗi sinh bị oan, định kêu lên Pháp ty, mong được người có tài văn chương như Trương làm đơn, mời cùng tham gia, Trương ưng thuận. Vợ Trương là Phương thị xinh đẹp mà hiền thục, nghe chuyện can rằng "Phàm những kẻ văn nhân làm việc lớn chỉ có thể cùng thành chứ không thể cùng bại. Nếu thành thì ai cũng tranh công, chứ nếu bại thì nhao nhao tan lìa, không thể tập hợp được nữa. Đời nay chỉ biết có thế lực, khó mà lấy lý xét chuyện phải trái, chàng lại đơn độc, nếu người ta đổi trắng thay đen thì ai giúp cho khi hoạn nạn?”. Trương phục lời ấy, lấy làm hối, bèn tìm lời mềm mỏng từ tạ với bạn đồng học, chỉ viết hộ đơn rồi thôi. Pháp ty xét hỏi qua một lượt, không có chỗ nào sai, nhưng Triệu đem nhiều vàng đút lót quan trên, khép các Chư sinh vào tội kết bè kết đảng bắt hết, lại tìm bắt người viết đơn. Trương sợ trốn đi, đến ranh giới huyện Phượng Tường (tỉnh Thiểm Tây) thì hết sạch tiền mà trời đã tối, còn đang ngập ngừng trên đồng không biết ngủ đâu chợt thấy có một xóm nhỏ vội rảo bước tới.

Một bà già đang ra đóng cổng nhìn thấy, hỏi muốn gì, Trương kể thật việc mình. Bà già nói "Cái ăn chỗ ngủ chỉ là chuyện nhỏ, chỉ là trong nhà không có đàn ông, không tiện lưu khách". Trương nói "Ta cũng không dám mong gì nhiều, chỉ xin cho được bà cho được ngủ nhờ trong cổng để tránh hùm sói là đủ”. Bà già bèn bảo vào, đóng cổng rồi đưa cho chiếc đệm cỏ, dặn rằng “Ta thương ông khách lỡ đường nên tự ý cho ngủ nhờ, trời chưa sáng nên dậy mà đi cho sớm, kẻo cô chủ biết sẽ trách phạt ta” rồi vào nhà. Trương dựa vào vách thiu thiu ngủ, chợt có ánh đèn lồng sáng rực, thấy bà già đưa một cô gái ra. Trương vội nép vào góc tối nhìn trộm, thấy là một giai nhân khoảng hai mươi tuổi. Tới cổng trông thấy chiếc đệm cỏ, cô gái cật vấn, bà già thưa thật, nàng tức giận nói "Cả nhà toàn là đàn bà yếu ớt, sao lại chứa chấp người lạ?”, rồi hỏi người ấy đi đâu rồi.

Trương sợ hãi, bước ra quỳ sụp xuống thềm. Cô gái hỏi kỹ tên họ quê quán, có vẻ nguôi giận, nói "May là bậc văn sĩ phong nhã, cho ngủ nhờ cũng được, nhưng mụ đầy tớ già không thưa lại, qua loa thế này há phải là lối tiếp đãi bậc quân tử sao?”, rồi sai bà già dẫn khách vào nhà. Giây lát dọn cơm rượu lên, thức ăn đều tinh khiết, kế trải nệm gấm ra giường. Trương rất cảm kích, bèn hỏi tên họ cô gái. Bà già nói "Nhà ta họ Thi. ông bà ta đều đã mất, chỉ để lại ba con gái, người mới rồi là cô lớn, tên Thuấn Hoa". Bà già ra rồi, Trương nhìn trên bàn thấy quyển Nam hoa kinh chú, bèn cầm đặt lên gối, nằm sấp trên giường xem.

Chợt Thuấn Hoa đẩy cửa bước vào, Trương vội buông sách tìm mũ giày. Cô gái tới bên giường vỗ vai sinh nói "Không cần đâu, không cần đâu”, rồi ngồì xuống giường bẽn lẽn nói "Thiếp thấy chàng là bực tài tử phong lưu, muốn đem cửa nhà gởỉ gắm, nhưng e bị ngờ như kẻ qua ruộng dưa sửa giày, ngang giàn bầu sửa mũ, không biết có bị chê bỏ không". Trương lúng túng không biết trả lời thế nào, chỉ nói “Không dám giấu diếm, thật tiểu sinh đã có vợ rồi". Cô gái cười nói “Bấy nhiêu cũng đủ thấy là chàng thành thật, nhưng chuyện đó không sao. Nếu đã không chê bỏ, thì ngày mai sẽ nhờ người làm mai mối”. Nói xong định đi, Trương rướn lên kéo lại, cô gái cũng ở lại. Trời chưa sáng nàng đã dậy, lấy vàng tặng cho Trương, nói “Chàng cầm lấy đi chơi, chiều hãy về, tối tối một chút, kẻo hai bên hàng xóm trông thấy". Trương theo lời, sớm đi tối về, suốt nửa năm như thế thành lệ.

Một hôm Trương về hơi sớm, tới nơi thì không thấy làng xóm nhà cửa gì cả, vô cùng lạ lùng khiếp sợ. Còn đang ngần ngừ, chợt nghe bà già nói "Sao tới sớm thế?", quay nhìn thì thấy nhà cửa như cũ, mà mình thì đã ở trong phòng, càng lấy làm lạ lùng. Thuấn Hoa từ trong bước ra cười nói “Chàng nghi ngờ thiếp phải không? Nói thật với chàng thiếp là hồ tiên, cùng chàng vốn có mối túc duyên. Nếu cho là yêu quái, thì xin lập tức chia tay” Trương mến tiếc vì nàng đẹp nên ở lại, đến đêm nói với cô gái "Nàng đã là tiên thì ngàn dặm cũng vượt qua trong chớp mắt. Tiểu sinh xa nhà đã ba năm, nhớ vợ con không khuây, có thể đưa ta về một lần được không”. Cô gái có vẻ không vui, nói "Trong tình vợ chồng, thiếp thì dốc lòng với chàng, mà chàng thì thân ở nơi này lòng nhớ chốn kia, như vậy đối với kẻ thương yêu mình thì sai lắm". Trương tạ lỗi nói "Sao nàng lại nói thế? Lời ngạn có câu Một ngày làm vợ chồng, trăm ngày nhớ ơn nghĩa, sau này về nhà nhớ nàng thì cũng như hôm nay nhớ vợ nhà, chứ nếu được mới nới cũ thì nàng còn thương yêu được chỗ nào?".

Cô gái bèn cười nói "Thiếp quả hẹp hòi, riêng mình thì muốn chàng đừng quên mà người khác lại muốn chàng quên đi, chứ nếu chàng muốn tạm về thì có khó gì, nhà chàng chỉ trong gang tấc". Rồi nắm tay áo Trương cùng ra cổng, thấy đường đi tối tăm, Trương ngần ngại không chịu bước. Cô gái cứ kéo đi, không bao lâu nói "Tới rồi đấy, chàng về đi, thiếp đi đây". Trương dừng bước nhìn kỹ, thấy quả là nhà mình, liền trèo qua chỗ tường lở mà vào. Thấy trong phòng đèn đuốc còn sáng choang, bèn tới gần lấy hai ngón tay búng vào cánh của. Bên trong hỏi ai, Trương nói rõ từ đâu tới, người bên trong cầm đèn ra mở cửa, chính là Phương thị. Hai người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ nắm tay nhau vào phòng, Trương thấy con nằm trên giường, cảm khái nói “Lúc ta đi con chỉ mới cao bằng đầu gối mà nay đã lớn như thế". Vợ chồng ngồi sát vào nhau, bàng hoàng như trong mộng, Trương kể rõ những chuyện đã trải qua rồi hỏi tới vụ án mới biết các bạn đồng học, người thì chết trong ngục, kẻ thì đi biệt xứ, lại càng phục vợ nhìn xa.

Phương ngã vào lòng chồng nói "Chàng có được tình duyên tốt đẹp, chắc không nghĩ gì tới nơi phòng không gối chiếc có kẻ rơi lệ một mình". Trương nói “Nếu không nghĩ tới thì về đây làm gì? Ta với người kia quả là tình nghĩa sâu nặng có thể chết cho nhau nhưng vẫn không phải là đồng loại, có điều nghĩ tới ơn nghĩa thì khó quên mà thôi". Phương hỏi "Chàng nghĩ thiếp là ai đấy?", Trương nhìn kỹ thì không phải Phương mà là Thuấn Hoa, sờ tới con thì chỉ là một cái gối tre, ngượng quá không nói câu nào. Cô gái nói "Giờ thì rõ được lòng chàng rồi, từ nay phải đoạn tuyệt thôi. May là chàng chưa quên ơn nghĩa, bấy nhiêu cũng tạm đủ để chuộc lỗi vậy”. Qua hai ba hôm cô gái chợt nói “Thiếp nghĩ si tình thương người rốt lại chẳng hay ho gì, nên hàng ngày chàng vẫn oán thiếp không đưa về nhà. Nay gặp dịp muốn lên kinh, tiện đường có thể đưa chàng cùng đi”. Rồi quay lại lấy cái gối tre trên giường cho cùng cưỡi lên, bảo nhắm mắt lại. Trương cảm thấy mình bay lên cách mặt đất không xa, nghe tiếng gió vi vút, giây lát dần dần hạ xuống. Cô gái nói "Từ nay xin giã biệt", Trương đang định căn dặn hẹn hò thì nàng đã biến mất, ngậm ngùi đứng một lúc.

Nghe tiếng chó sủa trong thôn, giữa màn đêm mịt mờ nhìn thấy bóng dáng cây cối nhà cửa đều là cảnh vật cố hương, bèn theo đường về nhà, trèo qua tường vào gõ cửa, làm hệt như hôm trước. Phương giật mình tỉnh dậy, không tin, gạn hỏi chuyện vợ chồng ngày trước mới khêu đèn sụt sùi bước ra, nhìn thấy mặt chồng nước mắt chảy giàn giụa không thôi. Trương vẫn ngờ rằng đây là ảo ảnh mà Thuấn Hoa biến ra, lại nhìn tới đứa con nằm trên giường thấy đều giống hệt tối hôm trước, bèn cười hỏi "Lại mang cái gối tre vào à?". Phương thị không hiểu, biến sắc nói "Thiếp mong chàng năm này tháng khác, vết nước mắt vẫn còn trên gối, thế mà mới gặp được nhau lại không hề tỏ ra thương xót, lòng dạ chàng để đâu?". Trương nhìn lại thái độ mới nắm tay vợ than thở, kể rõ lại mọi việc. Hỏi tới kết quả vụ án thì ra đều như Thuấn Hoa đã nói, đang cùng nhau cảm khái chợt nghe ngoài cửa có tiếng giày nhưng hỏi không thấy ai đáp.

Nguyên là trong làng có một thiếu niên độc ác đã để ý tới sắc đẹp của Phương từ lâu. Tối hôm ấy y từ thôn khác vể, xa xa thấy có người trèo tường vào, cho rằng ắt là kẻ hẹn hò tư thông, bèn lẻn vào theo. Giáp vốn không biết Trương nhiều, chỉ núp nghe trộm, đến khi Phương hỏi gặng mấy lần mới nói “Ai ở trong phòng đấy?” Phương nói tránh là không có ai. Giáp nói “Ta nghe trộm lâu rồi, định lên quan tố giác chuyện thông gian đây". Phương bất đắc dĩ đành thú thật. Giáp nói "Cái án Trương Hồng Tiệm chưa xong, nếu y về nhà cũng phải bắt trói giải lên quan”. Phương lạy lục năn nỉ, Giáp lời lẽ lại càng lấn lướt. Trương bừng bừng nổi giận, không dằn lòng được rút dao xông ra chém Giáp trúng vào đầu Giáp ngã xuống mà còn la lớn, Trương chém liên tiếp đến lúc chết luôn. Phương nói "Việc đã tới nước này, tội càng thêm nặng. Chàng cứ trốn ngay đi, để thiếp chịu tội thay cho". Trương nói “Trượng phu phải chết thì chết, chứ lẽ nào lại để lụy cho vợ con mà cầu sống cho mình? Nàng đừng lo nghĩ gì, chỉ cần đừng để thằng con này làm đứt mạch thư hương, thì ta có chết cũng nhắm mắt".

Trời vừa sáng Trương lên huyện tự thú, Triệu thấy là người đúng ra kiện mình nên chỉ đánh đập qua loa rồi cho giải từ quận lên kinh, cùm trói rất khổ sở. Trên đường gặp một nữ lang cưỡi ngựa đi qua, có bà già cầm cương, thì ra là Thuấn Hoa. Trương gọi bà già muốn nói chuyện mà nước mắt giàn giụa. Cô gái quay ngựa, vén khăn che mặt nhìn rồi kinh ngạc hỏi “Biểu huynh làm sao mà tới nỗi này?”. Trương kể qua đầu đuôi cô gái nói “Cứ theo lối ăn ở của anh thì chỉ đáng ngoảnh mặt đi không nhìn, nhưng ta không nỡ. Nhà ta cách đây không xa, xin mời các vị công sai cùng ghé chơi, ta cũng có thể giúp cho chút ít đi đường". Đi theo hai ba dặm thì tới một sơn trang lầu cao gác rộng, cô gái xuống ngựa vào, sai bà già mở cửa mời khách. Kế dọn rượu thịt ê hề như đã sắp sẵn, lại sai bà già ra nói “Gặp lúc trong nhà không có đàn ông, xin Trương quan nhân cứ mời hai vị công sai uống thêm vài chén, sắp tới trên đường còn phải nhờ vả hai vị nhiều. Đã sai người lo mượn vài mươi lượng vàng để quan nhân làm lộ phí và tặng hai vị, nhưng còn chưa về tới". Hai tên công sai mừng thầm, yên lòng thả sức uống rượu không nói tới việc lên đường nữa, đến lúc sẩm cả hai đều say mèm. Cô gái bước ra chỉ tay vào cái cùm, cùm lập tức rơi xuống, kế kéo Trương lên ngồi chung ngựa phóng như bay, lát sau bảo Trương xuống, nói "Chàng xuống đây được rồi. Thiếp có hẹn với cô em ở Thanh Hải mà vì chàng phải nán lại một buổi, sợ nó đợi lâu”. Trương hỏi lúc nào sẽ gặp lại, nàng không đáp, lại hỏi thì nàng đẩy rơi xuống ngựa rồi bỏ đi.

Đến sáng hỏi thăm thì đó là Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây), Trương bèn vào thành thuê nhà dạy học, đổi tên là Cung Tử Thiên. Qua mười năm, hỏi dò biết việc truy nã đã trễ nãi, bèn lần mò về quê. Tới gần cổng làng không dám vào ngay, chờ đến khuya mới vào, tới cổng thì tường cao quá không trèo qua được, lấy roi đập cửa. Hồi lâu vợ mới bước ra hỏi. Trương hạ giọng đáp vợ mừng quá mở cửa kéo vào, giả cất tiếng mắng "Lên kinh ít tiền lẽ ra phải về sớm, sao nửa đêm mới về?". Vào phòng cùng kể lại nhũng việc đã qua, mới biết hai tên công sai đã bỏ trốn chưa trở về. Lúc trò chuyện thấy ngoài rèm có một thiếu phụ qua lại, Trương hỏi là ai, vợ đáp là con dâu, hỏi con đâu thì đáp lên kinh thi hương chưa về. Trương rơi nước mắt nói “Lưu lạc mười năm, nay con đã nên người, không nói tới việc nối mạch thư hương thì nàng cũng đã tốn bao nhiêu tâm huyết". Còn đang chuyện trò thì con dâu đã hâm rượu nấu cơm xong bày ra đầy bàn, Trương vui mừng vì được an ủi quá lòng mong ước.

Ở nhà vài hôm chỉ núp trong phòng, sợ người ngoài biết. Một đêm vừa đi nằm chợt nghe tiếng nói ồn ào đập cửa rất gấp. Hai người hoảng hốt vùng dậy thì nghe họ hỏi nhau "Có cổng sau không?” càng khiếp sợ. Phương vội lấy cánh cửa làm thang bắc qua tường cho Trương leo ra, kế mới ra cổng hỏi chuyện, thì ra là người báo tin con thi đỗ. Phương mừng quá, rất hối hận về việc Trương trốn đi nhưng không sao đuổi theo giữ lại. Đêm ấy Trương tuông bờ lướt bụi, vội vã không chọn đường, đến sáng thì vô cùng mệt mỏi. Vốn định chạy về hướng tây, nhưng lúc ấy hỏi người đi đường thì té ra chỉ cách đường cái lên kinh không xa. Bèn lần vào làng toan bán quần áo lấy tiền ăn, thấy một ngôi nhà lớn có tờ thông cáo dán trên vách, tới gần đọc mới biết là họ Hứa vừa thi đỗ Cử nhân. Giây lát có một ông già bước ra, Trương vái chào thưa chuyện. Ông già thấy dáng vẻ Trương phong nhã, biết không phải là kẻ lừa dối kiếm cơm bèn mời vào nhà khoản đãi. Nhân hỏi đi đâu tới đây, Trương nói thác rằng mình dạy học ở kinh về quê, giữa đường gặp cướp, ông già bèn giữ lại nhờ dạy đứa con trai nhỏ.

Trương hỏi qua về gia thế, thì ra ông già là bậc quan lớn về hưu, người mới thi đỗ Cử nhân kia là cháu gọi bằng chú. Hơn tháng sau, vị Cử nhân và một người bạn thi đỗ cùng khoa cùng về, nói là họ Trương ở huyện Vĩnh Bình, khoảng mười tám mười chín tuổi. Trương thấy cùng quê cùng họ, thầm ngờ chính là con mình, nhưng vì trong huyện cũng có nhiều người họ ấy nên đành im lặng. Tối đến, viên Cử nhân mở khăn gói ra, Trương thấy có danh sách những người đỗ thi hương, vội hỏi mượn xem thì đúng là con mình, bất giác sa nước mắt. Mọi người cùng kinh ngạc hỏi, Trương chỉ vào tên mình nói "Ta chính là Trương Hồng Tiệm đây", rồi kể lại hết mọi chuyện. Cử nhân họ Trương ôm cha khóc lớn, chú cháu họ Hứa an ủi mới đổi buồn làm vui. ông Húa lập tức sắp vàng lụa viết thư sai người đưa tới các quan lớn ở Pháp ty nhờ thu xếp, sau đó cha con Trương cùng về nhà. Phương từ lúc được tin con thi đỗ, hàng ngày vẫn buồn rầu vì Trương còn lưu lạc, nghe nóí con về càng thêm đau lòng. Giây lát cha con cùng bước vào, nàng hoảng sợ như trời sập, hỏi lại duyên do mới cùng nhau mừng mừng tủi tủi. Cha Giáp thấy con Trương quý hiển, không dám manh tâm làm hại nữa, Trương vì vậy càng đối xử tử tế, lại kể rõ lại việc năm xưa.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 202 -
Thường Nga
(Thường Nga)

Tông Tử Mỹ ở Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) theo cha du học, lưu ngụ ở huyện Quảng Lăng. Cha Tông có quen với bà họ Lâm ở Hồng Kiều, một hôm cha con đi ngang Hồng Kiều gặp nhau trên đường, bà mời vào nhà pha trà tiếp đãi chuyện trò, bên cạnh có cô gái rất xinh đẹp. Cha Tông vô cùng khen ngợi, bà già nhìn Tông nói "Đại lang nhu mì như đồng nam, rất có phúc tướng, nếu không chê là quê mùa, xin dâng về quét dọn hầu hạ, ông thấy sao?”. Cha Tông giục con rời ghế ra lạy tạ, nói “Một lời nói giá đáng ngàn vàng đấy nhé”. Trước là bà già ở một mình, cô gái chợt tự tới, nói là mồ côi khổ cục, hỏi tiểu tự thì tên là Thường Nga, bà già yêu mến giữ lại, thật ra là định lấy làm món hàng quý. Năm ấy Tông mười bốn tuổi, thấy cô gái trong lòng thích lắm, nghĩ là cha ắt sẽ nhờ người mai mối định ngày cưới hỏi, nhưng cha về rồi lại như quên đi, nóng ruột lén kể cho mẹ.

Cha nghe thế cười nói "Hôm trước nói đùa với bà già tham lam ấy thôi, chứ thật không rõ bà ta sẽ đòi bao nhiêu tiền, nói tới chuyện ấy đâu phải dễ?”. Năm sau cha mẹ cùng chết, Tử Mỹ không sao quên được Thường Nga, vừa mãn tang là nhờ người tới dò ý bà Lâm, ban đầu bà ta chối là không có nói như vậy, Tông tức giận nói “Ta bình sinh không dễ mà lạy ai, sao bà coi việc ta lạy không đáng một đồng kẽm thế? Nếu bà trái lời hứa ngày trước, thì phải lạy trả ta". Bà già bèn nói "Có lẽ trước đây hứa đùa với cha ngươi, thì cứ cho là có nhưng không phải là lời thật, nói xong là quên thôi. Nay lại tới nói thế, thì chẳng lẽ ta giữ gả cho vua trời à? Nhưng hàng ngày phải chăm sóc cho nó, thật ra muốn được ngàn vàng, nay xin một nửa số ấy có được không?". Tôn tính thầm thấy khó lo đủ, cũng đành gác đó. Vừa gặp lúc có người đàn bà góa chồng tới ở bên cạnh, có người con gái tuối cập kê, tiểu tự là Điên Đang, Tông tình cờ gặp thấy xinh đẹp không kém gì Thường Nga, trong lòng hâm mộ, thường đưa biếu thức ăn cho bà mẹ. Lâu ngày quen dần, cũng thường liếc mắt đưa tình nhưng chưa có dịp nào nói chuyện. Một đêm nàng qua xin lửa thắp đèn, Tông mừng kéo lại, cùng nhau vui thú. Tông hẹn việc cưới hỏi, nàng từ chối bảo là anh trai đi buôn bán chưa về. Từ đó cứ nhân lúc vắng vẻ là qua lại với nhau, nhưng giữ gìn rất kín đáo.

Có lần Tông tình cờ đi ngang Hồng Kiều, thấy Thường Nga trong cửa vội bước mau qua. Thường Nga nhìn thấy vẫy tay, Tông dừng bước, nàng lại vẫy, bèn vào nhà. Cô gái trách Tông bội ước, Tông kể lại duyên do, nàng bèn vào phòng lấy ra một nén vàng đưa cho. Tông từ chối không nhận, nói “Tự biết mình phải vĩnh viễn xa nàng nên đã có ước hẹn với người khác, nhận vàng lo cưới nàng thì là phụ họ, nhận vàng mà không lo cưới nàng thì là phụ nàng, thật không dám phụ ai cả". Cô gái im lặng hồi lâu rồi nói "Việc chàng ước hẹn với người khác thiếp đã biết, việc ấy nhất định không thành, mà dẫu có thành thiếp cũng không oán chàng phụ lòng đâu. Nên về ngay đi, bà già sắp tới đấy!". Tông hoang mang không tự chủ được, bèn nhận vàng trở về, trong lòng rối loạn nhớ trước quên sau. Qua một đêm kể lại với Điên Đang, Điên Đang rất tin lời, chỉ khuyên Tông nên quyết ý cưới Thường Nga. Tông không chịu, nàng xin làm vợ kế mới vui vẻ, bèn nhờ người mai mối tới nộp sính lễ cho bà Lâm. Bà già không từ chối, gả Thường Nga cho Tông. Nàng về rồi, Tông kể hết lời Điên Đang nói, Thường Nga mỉm cười hối thúc Tông lo gấp. Tông mừng rỡ muốn nói ngay với Điên Đang, nhưng Điên Đang đã đi mất. Thường Nga biết đó là vì mình, bèn lấy cớ về thăm nhà cho hai người có cơ hội gặp nhau, dặn Tông lấy trộm cái túi Điên Đang đeo. Kế đó Điên Đang quả tới, Tông bàn việc cưới xin thì nàng chỉ nói là đừng gấp, rồi cởi áo ôm nhau đùa giỡn, thấy dười bụng nàng có đeo cái túi màu cánh sen bèn lấy luôn.

Cô gái biết được biến sắc vùng dậy nói "Chàng với người ta thì một lòng mà với thiếp thì hai lòng, thật là kẻ phụ lòng, từ nay xin vĩnh biệt". Tông nài nỉ giữ lại giải thích, nàng không nghe, bỏ đi. Một hôm Tông qua cổng dò xét thì đã có một người khách buôn đất Ngô tới ở, còn mẹ con Điên Đang đã dời đi từ lâu, mất tăm tung tích không sao hỏi thăm được, chỉ biết buồn rầu than thở mà thôi. Tông từ khi cưới Thường Nga, nhà giàu có hẳn lên, gác rộng hiên dài kéo ra tận mặt đường. Thường Nga hay đùa giỡn, gặp lúc xem họa phổ về các mỹ nhân, Tông nói "Ta vẫn nghĩ rằng đẹp như nàng thì khắp thiên hạ không có kẻ thứ hai, chỉ còn chưa gặp Phi Yến, Dương phi* thôi". Nàng cười đáp "Nếu chàng muốn gặp chắc cũng không khó". Bèn cầm quyển họa phổ nhìn kỹ qua một lượt rồi bước vào phòng soi gương hóa trang, giả làm Phi Yến múa gió, lại giả làm Dương Phi say nằm, cao thấp béo gầy sửa đổi rất khéo, dáng vẻ phong thái so với các bức họa rất giống. Vừa hóa trang xong có đứa tỳ nữ từ ngoài bước vào không biết là ai, kinh ngạc hỏi chị em bạn, kế nhìn kỹ chợt nhận ra mới phì cười. Tông vui vẻ nói "Ta được một mỹ nhân mà mỹ nhân suốt ngàn năm đều về cả trong khuê phòng”.

* Phi Yến, Dương phi: tức Triệu Phi Yến và Dương Thái Chân tức Dương Quý phi, hai người đẹp nổi tiếng trong nội cung của Đường Minh hoàng.

Một đêm vừa ngủ say, có mấy người nhấc cánh cổng ập vào, đèn đuốc sáng rục. Cô gái vội vùng dậy, hoảng hốt nói ăn cướp vào nhà. Tông vừa tỉnh giấc, đang định hô hoán thì bị một người kề dao vào cổ, khiếp sợ không dám thở mạnh, kế có một người khác bắt Thường Nga cõng lên lưng rồi ồ ạt kéo đi. Tông lúc ấy mới la lớn, gia nhân đều họp lại đủ cả mà những thứ quý giá trong nhà cũng không mất chút gì. Tông vô cùng đau thương, ão não như sắp chết, không còn thiết gì nữa, báo quan truy nã nhưng chẳng có chút tăm hơi. Thấm thoát qua ba bốn năm vẫn cứ buồn bục không vui, nhân rảnh rỗi lên kinh dự thi, ở lại đó nửa năm, tìm đủ mọi cách dò la thăm hỏi. Tình cờ đi ngang kỹ viện, thấy một cô gái mặt mũi lem luốc, áo quần rách rưới bệ rạc như ăn mày, dừng chân nhìn thì ra là Điên Đang, hoảng sợ hỏi "Nàng làm sao mà tiều tụy tới mức này”, nàng đáp “Sau khi chia tay về nam, mẹ già qua đời, thiếp bị kẻ bắt đi bán cho nhà giàu, bị đánh đập chửi mắng đói rét khổ sở thật không muốn nói”. Tông rơi nước mắt, hỏi có thể chuộc nàng ra không, nàng đáp “Khó lắm, e rằng phải tốn kém nhiều, chàng không đủ sức". Tông nói “Nói thật với nàng vài năm nay ta cũng có chút của cải, tức là đang ở đất khách tiền bạc cũng có hạn, nhưng trút tiền bán ngựa thì không dám chối từ. Còn bấy nhiêu không đủ thì phải về nhà lo thêm".

Cô gái hẹn ngày mai ra phía tây thành gặp nhau dưới rạng liễu, nhưng dặn tới một mình đừng cho ai theo, Tông ưng thuận. Hôm sau ra sớm đã thấy cô gái đứng ở đó trước, áo quần lộng lẫy khác xa hôm trước, ngạc nhiên hỏi, nàng cười đáp “Hôm qua là thử lòng chàng thôi, may mà còn cái ý thương xót người xưa, xin mời tới tệ xá, sẽ xin báo đáp”. Đi về phía bắc vài dặm thì tới nhà nàng, kế dọn tiệc cùng trò chuyện vui vẻ, Tông hẹn nàng cùng về. Cô gái nói “Thiếp vương nhiều tục dụng, không thể theo được, nhưng tin tức Thường Nga thì vẫn có nghe". Tông vội hỏi Thường Nga ở đâu nàng đáp "Hành tung của nàng vô định, thiếp cũng không biết chắc, nhưng ở Tây Son có một ni cô già chột mắt, tới hỏi sẽ biết ngay". Tông bèn ngủ lại đó. Sáng ra cô gái chỉ đường cho đi. Tông tới chỗ ấy thấy có ngôi chùa cổ, tường bao quanh đã sụp hết, trong đám tre dày có nửa gian lều tranh, ni cô già mặc áo vá ngồi ở trong, thấy khách tới vẫn ngạo nghễ không chào hỏi gì cả. Tông vái chào, ni cô mới ngẩng lên hỏi chuyện, Tông nói rõ tên họ rồi thưa điều mình muốn nhờ. Ni cô nói “Người già chột mắt tám chục tuổi làm sao biết người đẹp ở đâu?”. Tôn nài nỉ cầu khẩn, lời lẽ càng thêm nhũn nhặn, ni cô bèn nói "Thật tình ta không biết đâu, nhưng có hai ba người quen tới mai sẽ tới, may ra bọn gái nhỏ biết chưa chừng, tới mai ngươi cứ tới đây”.

Tông ra về, hôm sau lại tới thì ni cô đi vắng, bèn dựa vào cánh cổng mục ngồi đợi hồi lâu. Đêm đã khuya, trăng sáng vằng vặc, đang lo lắng không biết về đâu, còn ngần ngừ thì xa xa có mấy nữ lang từ ngoài đi vào, trong đó có Thường Nga. Sinh mừng quá nhảy vọt lên nắm mau lấy áo nàng, Thường Nga nói "Anh chàng thô mãng làm thiếp sợ chết khiếp, thật đáng giận Điên Đang nhạy miệng, xui lấy tình trói buộc người". Tông kéo nàng ngồi xuống, nắm tay kể lể, nói tới những khi buồn bã bất giác sụt sịt. Cô gái nói "Nói thật thiếp là Hằng Nga bị đày xuống trần gian, trôi nổi cùng thế tục, lúc hết hạn bị đày mới làm như bị giặc cướp bắt đi để chàng không còn trông ngóng gì nữa. Ni cô là người giữ cổng của Tây Vương mẫu, lúc thiếp mới bị trừng phạt được đội ơn dung nạp che chở nên lúc rảnh thường tới thăm một lúc. Nếu chàng buông tha cho thiếp, thiếp sẽ ngỏ lời với Điên Đang thay cho”. Tông không chịu, cúi đầu nhỏ lệ, cô gái ngoái nhìn ra xa nói "Các chị em tới cả rồi". Tông vừa mới ngoảnh nhìn bốn phía thì Thường Nga đã biến mất. Tông òa lên khóc thất thanh, không muốn sống nữa bèn cởi dây lưng treo cổ tự tử.

Chợt thấy hồn mình bước ra khỏi gian nhà, rầu rĩ bỏ đi. Chợt Thường Nga tới nắm tay nhấc lên, thấy chân rời khỏi mặt đất trở lại chùa, Thường Nga đỡ cái xác trên cây xuống đẩy vào nói “Chàng ngây ơi, chàng ngây ơi, Thường Nga đây mà” Tông chợt như vừa tỉnh mộng, cô gái tức tối nói "Con tiện tỳ Điên Đang hại thiếp mà giết chàng, ta không thể tha được”. Bèn xuống núi thuê kiệu cùng về. Tông sai gia nhân sắp sửa hành lý rồi sai ra phía tây thành tới tạ ơn Điên Đang, nhưng tới nơi thì chẳng thấy nhà cửa gì, kinh ngạc than thở trở về, trong lòng thầm mừng rằng Thường Nga không biết, nhưng vào cửa thì nàng ra đón cười hỏi “Chàng gặp Điên Đang không?". Tông ngạc nhiên không trả lời được, cô gái nói "Nếu chàng bỏ Thường Nga thì làm sao có được Điên Đang? Xin cứ yên tâm chờ, nàng sẽ tự tới thôi”. Không bao lâu, quả nhiên Điên Đang tới, sợ sệt quỳ xuống dưới giường. Thường Nga co tay búng vào đầu nói "Con ôn dịch, hại người quá lắm rồi". Điên Đang gục đầu, chỉ xin tha chết. Thường Nga nói "Đẩy người ta sa hầm sẩy hang rồi muốn thoát đi nơi xa à? Mười một tiên cô trong cung Quảng Hàn chưa biết lúc nào sẽ lấy chồng, phải có được một trăm chiếc gối thêu, một trăm đôi giày mới, ngươi phải theo ta về cùng cắt may” Điên Đang kính cẩn nói "Chỉ cần giao việc hẹn ngày, đến lúc sẽ tới đưa đủ”. Cô gái không chịu, nói với Tông rằng "Nếu chàng nói là chịu thiếp sẽ tha ngay lập tức". Điên Đang nhìn Tông, Tông cười không nói gì, Điên Đang trừng mắt tức tối rồi xin về nói với người nhà, Thường Nga ưng thuận, bèn đi.
Tông hỏi về lai lịch bình sinh mới biết nàng là hồ tinh ở Tây Sơn, bèn thuê kiệu chờ. Hôm sau quả nhiên nàng tới, bèn cùng nhau về nhà Tông. Có người hỏi han, Tông bịa đặt trả lời qua quít, nhưng Thường Nga trở lại lần này cư xử rất nghiêm nghị, ít khi cười đùa, Tông ép đùa giỡn thì nàng ngầm bảo Điên Đang làm. Điên Đang vô cùng thông minh, khéo chiều chuộng Tông. Thường Nga thích ngủ một mình, hay từ chối không chịu ngủ chung. Một đêm đến canh ba còn nghe trong phòng Điên Đang có tiếng cười khanh khách không dứt, sai tỳ nữ tới nghe ngóng, tỳ nữ quay về không chịu nói, chỉ xin phu nhân tự tới mà xem. Nàng tới cửa sổ nhìn, thấy Điên Đang đang giả trang làm mình, cười khẽ quay về. Giây lát Điên Đang chợt thấy bụng đau buốt, vội vàng khoác áo kéo Tông qua phòng Thường Nga, bước vào liền lạy phục xuống đất. Thường Nga nói “Ta đâu phải là phù thủy mà ếm kẻ bắt chước mình? Chỉ vì ngươi muốn ôm bụng bắt chước Tây Thi đó thôi!"*. Điên Đang khấu đầu, chỉ nói là đã biết tội.

* ôm bụng bắt chước Tây Tht: Tây Thi là mỹ nữ nổi tiếng ở nước Việt thời Xuân thu, lúc chưa được Việt vương Câu Tiễn tuyển cung để dâng Ngô vương Phù Sai thì là con nhà nghèo, làm nghề đập vải, có bệnh đau bụng, mỗi khi lên con đau là ôm bụng nhăn mặt nhưng trông lại càng yêu kiều. Có cô gái láng giểng tên Đông Thi cũng bắt chước nàng ôm bụng nhăn nhó cho đẹp hơn, nhưng xấu xí nên cứ nhăn mặt là người ta phát gớm. Đây Thường Nga có ý nói Điên Đang bắt chước mình cho đẹp thì phải chịu đau bụng.

Cô gái bèn nói "Ngươi khỏi rồi đấy", Điên Đang bèn đứng dậy, cười ngất quay về. Điên Đang nói riêng với Tông rằng “Thiếp có thể khiến nương tử bắt chước Quan âm” Tông không tin, nhân đùa thách để thử xem sao. Thường Nga hay ngồi xếp bằng, nhắm mắt như ngủ. Điên Đang bèn lấy cái bình giả làm bình ngọc cắm nhành dương đặt lên bàn, mình thì xõa tóc chắp tay đứng hầu bên cạnh, khẽ mím môi son, hé lộ răng ngọc, mắt ngó thẳng không chớp. Tông bật cười, Thường Nga mở mắt hỏi, Điên Đang đáp “Ta giả làm Long nữ hầu Quan âm thôi". Thường Nga cười ngồi yên, phạt Điên Đang phải giả làm Đồng tử lạy. Điên Đang buộc tóc lại, lạy lục bốn phía, lăn lộn dưới đất làm đủ mọi vẻ, hết trái sang phải, đầu gối chạm vành tai. Thường Nga bật cười lớn, buông chân đạp lên, Điên Đang ngẩng đầu ngậm vào mũi hài, lấy răng cắn khẽ. Thường Nga đang cười sằng sặc, chợt thấy cảm giác đê mê từ ngón chân lan lên tới người, lửa dục bốc lên như không ngăn được, vội ngưng thần quát "Con chồn tiện tỳ đáng chết, không biết lựa người mà mê hoặc à?”. Điên Đang sợ nhả hài ra lạy phục xuống đất, Thường Nga giận dữ quát mắng, mọi người không ai hiểu gì cả.

Thường Nga nói với Tông rằng “Điên Đang tính hồ không đổi, mới rồi làm thiếp gần như mê muội đi, nếu không có túc căn sâu nặng, thì trụy lạc có khó gì!". Từ đó cứ gặp Điên Đang là nghiêm nghị xét nét, Điên Đang sợ sệt thẹn thùng nói với Tông "Thiếp cùng nương tử như cây liền cành, lúc nào cũng rất thân thiết nên không biết là đã mê hoặc quá đáng, có điều không phải chỉ không dám, mà là không nỡ nữa". Tông thuật lại, Thường Nga bèn đối xử với Điên Đang như trước, nhưng mấy lần khuyên răn Tông về việc đùa giỡn không có chừng mực mà Tông không nghe, vì vậy đám vợ thiếp tỳ nữ đều nhờn, tranh nhau trửng giỡn. Một hôm hai người đỡ một tỳ nữ giả làm Dương Quý phi, lấy mắt ra hiệu bảo tỳ nữ giả làm ra vẻ say rượu, vừa buông tay thì cô ta ngã vật xuống thềm như bức tường sập. Mọi người vừa reo cười vừa tới gần đập dậy, thì Phi tử đã thành cái xác ở Mã Ngôi* rồi.

*Phi tử... Mã Ngôi: Phi tử tức Dương Quý phi. Đời Đường Minh Hoàng, An Lộc Sơn dấy loạn đánh chiếm kinh đô, Minh hoàng mang Dương Quý phi chạy vào Thục, tới Mã Ngôi thì quân sĩ mệt nhọc đói khát không chịu đi nữa, tho rằng vì vua sủng ái Dương Quý phi nên có tai họa này, vua bất đắc dĩ phải sai nàng thắt cổ tự tử để yên lòng quân. Thành cái xác ở Mã Ngôi đây ý nói người tỳ nữ đóng giả Dương Quý phi đã chết.

Mọi người hoảng hốt vội chạy đi báo với chủ nhân, Thường Nga kinh sợ nói "Tai họa tới rồi đấy, ta nói có đúng không?”. Vội tới xem thì không sao cứu được nữa, bèn sai báo cho người cha biết. Cha ngườí tỳ nữ là Giáp, tính vốn vô hạnh, nghe tin gào khóc chạy tới, ôm thây con vào sảnh đường, mắng chửi đủ điều, Tông đóng chặt cửa phòng run rẩy, không biết làm sao. Thường Nga bước ra quát "Ông chủ đánh đập tỳ nữ tới chết thì theo luật cũng không phải đền mạng, huống hồ đây chỉ là ngẫu nhiên đột tử, sao biết là không sống lại được?”. Giáp cãi rằng chân tay con gái lạnh ngắt, lẽ nào còn sống lại được nữa. Thường Nga nói “Phải rồi, nhưng nếu nó không sống lại được thì đã có quan trên”. Rồi vào sảnh đường vỗ vào xác thì người tỳ nữ đã tỉnh, vừa vỗ đã ngồi dậy. Thường Nga quay lại giận dữ nói "May mà nó chưa chết, nhưng không thể cho lão giặc già kia yên thân được, phải trói lại giải lên quan". Giáp không còn lời lẽ nào, chỉ quỳ rạp van xin. Thường Nga nói “Ngươi đã biết tội thì tạm không xét nữa, nhưng đồ tiểu nhân vô lại rất hay lật lọng, giữ con ngươi lại đây là nuôi mầm tai vạ, về mau nhà đem đủ tiền ta mua ngày trước tới đây mà chuộc con". Rồi sai người lôi Giáp ra, mời mấy ông già láng giềng làm chứng viết tờ chuộc, điểm chỉ ký tên xong bèn gọi người tỳ nữ tới trước mặt, bảo Giáp tự hỏi "Con có sao không?”, cô ta đáp “Không sao”, rồi mới giao cho đưa về.

Kế vào họp tất cả đám tớ gái quở trách suốt lượt, lại gọi Điên Đang tới nghiêm khắc ngăn cấm, kế nói với Tông "Nay mới biết người trên thì dù chỉ mỉm cười một cái thôi cũng không thể khinh suất. Chuyện đùa giỡn này do thiếp bày ra, mà thói tệ kéo dài không sao ngăn cấm được. Phàm buồn rầu thuộc âm, vui vẻ thuộc dương, dương cực thì âm sinh, đó là vận trời tuần hoàn. Cái họa tớ gái vừa rồi là quỷ thần mới răn dạy qua loa thôi, nếu còn mê muội không tỉnh ngộ thì việc tan nhà nát cửa tới ngay đấy", Tông kính cẩn nghe theo. Điên Đang khóc lóc xin giúp cho, Thường Nga bèn nắm lấy vành tai một lúc rồi buông ra, Điên Đang sững ra một lúc rồi chợt như vừa tỉnh mộng, lạy phục xuống đất, mừng rỡ ca múa. Từ đó trong khuê các yên ả, không ai dám ồn ào. Người tỳ nữ về tới nhà thì không bệnh mà lăn ra chết, Giáp đem tiền chuộc con tới nhờ mấy ông già láng giềng nói giúp xin thương xót tha thứ cho. Thường Nga ưng thuận, lại nghĩ tình cô ta hầu hạ bèn cho luôn số tiền để chôn cất. Tông thường lo về việc không có con, chợt nghe trong bụng Thường Nga có tiếng trẻ con khóc, nàng bèn lấy dao rạch sườn trái đem ra, quả là con trai. Không bao lâu nàng lại có mang, lại lấy dao rạch sườn phải đem ra một con gái. Con trai rất giống cha, con gái rất giống mẹ, sau đều cưới gả cho nhà thế gia.

Dị Sử thị nói:Dương cực thì âm sinh, lời ấy xác đáng thay? Nhưng trong nhà có người tiên có thể làm ta vô cùng vui sướng, giúp ta tiêu trừ tai họa, nối dài dòng giống cho ta, lại không làm ta chết thì đúng là chốn vui, có thể sống tới già ở đó, mà người tiên còn lo lắng sao! Vận trời tuần hoàn, lý vốn là thế, nhưng trên đời vẫn có kẻ khốn cùng lâu năm không được sung sướng lấy một ngày, thì làm sao giải thích đây? Thời Tống xưa có kẻ mong gặp tiên không được, thường nói "Được làm tiên một ngày rồi chết cũng không tiếc", ta thật không sao cười nổi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 203 -
Chử Sinh
(Chử Sinh)

Cử nhân họ Trần ở phủ Thuận Thiên, năm mười sáu mười bảy tuổi thường theo thầy học tới đọc sách ở chùa. Ở chùa có rất nhiều người, trong đó có Chử sinh, tự nói là người Đông Sơn (tỉnh Chiết Giang), học hành rất chăm chỉ, không hề nghỉ ngơi, lại ngủ nhờ luôn trong chùa, ít khi thấy về nhà. Trần chơi thân với Chử nhất, nhân hỏi han, Chử đáp "Nhà ta nghèo, lo tiền ăn học không dễ, nếu không bỏ phí thời giờ mà học tới nửa đêm, thì hai ngày của ta bằng ba ngày của người khác”. Trần cảm động vì lời ấy, muốn đem giường tới ở cùng, Chử ngăn lại nói “Khoan đã, khoan đã, ta thấy thầy ở đây không phải là thầy chúng ta được. Ở cửa thành có Lữ tiên sinh tuy già nhưng giỏi, xin cùng tới đó”.
Đại khái những người mở trường dạy học ở kinh đô phần lớn đều thu tiền từng tháng, hết tháng thì hết tiền, ai muốn học nữa hay thôi là tùy. Rồi đó hai người tới chỗ Lữ. Lữ là bậc túc nho ở đất Việt (tỉnh Chiết Giang) lưu lạc không về quê được nên ở đó dạy trẻ con, thật ra không phải là bản ý, nên được hai nguờì làm học trò thì mừng lắm. Mà Chử lại rất thông minh, sách vở đọc qua là không quên, nên Lữ càng quý mến. Hai người ngày càng thân thiết, ban ngày học cùng bàn, ban đêm ngủ cùng giường, vừa hết tháng chợt Chử chào về nhà, hơn mười ngày không quay lại, hai thầy trò đều ngờ vực. Một hôm Trần có việc tới chùa Thiên Ninh, thấy Chử ở hành lang, đang xe dây gai làm bấc đèn. Chử gặp Trần có vẻ áy náy thẹn thùng, Trần hỏi "Sao lại bỏ không học nữa thế?”. Chử cầm tay ngắt lời, buồn rầu nói "Nhà nghèo không có tiền đóng cho thầy, phải làm nửa tháng mới học được một tháng". Trần ngậm ngùi hồi lâu rồi nói "Cứ tới học đi, ta xin hết sức lo cho”. Chử cảm động vì lời ấy bèn cùng Trần trở lại trường của Lữ, nhưng dặn Trần đừng nói lộ ra, tìm cớ để thưa lại với thầy.

Cha Trần vốn là nhà buôn nên giàu có, Trần cứ lén trộm tiền của cha đóng tiền học cho Chử. Cha thấy mất tiền chửi Trần, Trần kể thật lại, cha cho là ngây ngốc, bèn bắt thôi học. Chử xấu hổ quá, chào thầy định đi, Lữ biết chuyện trách rằng "Ngươi đã nghèo, sao không nói sớm”. Rồi lấy hết tiền đã đóng trả lại cho cha Trần, giữ Chử ở lại dạy dỗ như cũ, cho ăn uống như con mình. Trần tuy không vào trường nữa nhưng vẫn tới mời Chử ra quán rượu thết đãi. Chử vì tỵ hiềm không tới, nhưng Trần cứ nằng nặc mời mọc, lần nào cũng khóc, Chữ không nỡ dứt tình nên vẫn qua lại với nhau. Qua hai năm cha Trần chết, Trần lại tới xin học. Lữ cảm động vì chân thành bèn nhận cho học. Nhưng Trần bỏ học lâu quá nên học kém xa Chử. Được nửa năm, con trai lớn của Lữ từ đất Việt tới, phải xin ăn tìm cha.

Học trò góp tiền giúp thầy trở về, Lữ chỉ biết rơi lệ lưu luyến mà thôi. Lúc Lữ lên đường, dặn Trần coi Chử như thầy. Trần nghe theo, đưa Chử về nhà ở. Không bao lâu được vào học trường huyện, dự khoa thi Di tài, Trần lo không viết đủ quyển nổi, Chử xin thi thay. Đến ngày thi, Chử đưa một người tới, nói là biểu huynh tên Lưu Thiên Nhược, bảo Trần tạm đi theo. Trần vừa bước ra, Chử phía sau chợt kéo mạnh, lảo đảo suýt ngã. Lưu vội đỡ rồi cùng đi. Đi một chặng xa, Lưu đưa vào nhà mình, trong nhà không có phụ nữ nên cho khách ngủ nhà trong. Ở đó vài hôm, chợt đã đến ngày Trung thu, Lưu nói “Hôm nay trong vườn của Hoàng thân họ Lý có nhiều người tới du ngoạn, tới đó chơi một phen cho đỡ buồn rồi sẽ đưa ông về”, rồi sai người gánh lò trà bình rượn cùng đi.

Tới đó thì bến nước đình mai đông đúc ồn ào không chen vào được, qua khỏi bến nước thấy dưới gốc liễu già có con thuyền nằm ngang bèn dắt nhau lên. Uống được mấy chén, thấy vắng vẻ quá, Lưu ngoái lại nói với tiểu đồng "Quán mai hoa gần đây có một ca kỹ mới, không biết có nhà không?” Tiểu đồng đi một lát thì đưa nàng ấy về, té ra là nàng Lý Át Vân. Lý là danh kỹ ở kinh đô, làm thơ giỏi, ca hát hay, Trần từng đi với bạn uống rượu chỗ nàng một lần nên có quen. Gặp nhau chuyện trò thăm hỏi, nàng có vẻ buồn rầu lo lắng, Lưu bảo hát thì hát khúc Cảo lý*. Trần không vui nói "Cho dù chủ khách không hợp nhau, nhưng sao nàng lại hát khúc điệu vong trước người còn sống?”. Nàng bèn đứng lên gượng cười nói, hát khúc diễm tình, Trần vui vẻ nắm cổ tay nàng nói “Lần trước nàng hát khúc Cán sa khê, ta đã nhẩm lại mấy lần nhưng nay quên cả rồi", nàng bèn ngâm rằng:

* Cảo lý: tên khúc hát cổ, ngày xưa dùng làm bài hát lúc đưa tang.

Lệ nhãn doanh doanh đối kính đài,
Khai liêm hốt kiến tiểu cô lai.
Đê đầu chuyển trắc khán cung hài,
Cưỡng giải lục nga khai tiếu yểm.
Tần tương hồng tụ thí hương tai,
Tiểu tâm do khủng bị nhân xai.

(Mắt lệ rưng rưng đứng trước gương
Mở rèm chợt thấy bóng cô nương
Cúi đầu ngoảnh lại nhìn xiêm áo
Nhoẻn miệng buồn tênh với phấn hương
Tay áo mấy lần lau nước mắt
Còn e khách giận vẻ sầu thương)

Trần ngâm đi ngâm lại mấy lần rồi ghé thuyền vào bờ, bước lên hành lang thủy đình, thấy trên vách có rất nhiều thơ đề vịnh, lập tức lấy bút ghi bài từ lên đó. Trời đã xế chiều, Lưu nói “Người trong trường thi sắp ra rồi". Bèn đưa Trần về, tới cổng là chào đi ngay. Trần thấy trong nhà tối tăm không có ai, đang định cất tiếng hỏi thì Chử sinh đã bước vào, nhìn kỹ lại thì không phải Chử sinh. Đang còn kinh ngạc thì người kia đã tới sát bên ngã chúi vào, bọn người nhà nói "Công tử mệt quá rồi”, rồi xúm lại đỡ lên, Trần chợt biết người vừa ngã không phải ai khác mà chính là mình. Choàng dậy nhìn thấy Chử sinh bên cạnh, bàng hoàng như vừa tỉnh mộng, ngồi yên ngẫm nghĩ, Chử nói "Nói thật ông đừng sợ, chứ thật ra ta là ma đây, lẽ ra đã đầu thai lâu rồi, sỡ dĩ còn nấn ná ở đây là vì không quên được bạn tốt, nên mới nhập vào xác ông để thi thay, nay xong cả ba kỳ, đã thỏa nguyện rồi".

Trần lại xin thi hội giùm, Chử nói "Kiếp trước ông ít phúc đức, tính keo kiệt, sợ kiếp này khó thi đỗ làm quan”. Trần hỏi sắp tới sẽ đi đâu, Chử đáp “Lữ tiên sinh với ta có duyên phận cha con, vẫn nghĩ ngợi mà không làm được, biểu huynh coi việc sổ sách dưới âm ty nên ta đã nhờ thưa giùm với Diêm Vương, may ra thì được", rồi chào đi, Trần lấy làm lạ lùng. Sáng ra tới thăm nàng ca kỹ họ Lý, định hỏi han về việc chơi thuyền hôm qua, thì nàng đã chết mấy hôm rồi. Lại tới khu vườn của hoàng thân xem thì bài thơ đề trên vách vẫn còn, nhưng nét mực mờ mờ như sắp phai hết, mới biết kẻ đề là hồn, kẻ làm là ma. Đến đêm Lữ mừng rỡ tới nói "Chuyện ta tính toán may quá đã xong rồi, xin kính cẩn từ biệt ông". Rồi xòe hai bàn tay ra bảo Trần ghi chữ "Chử" vào để ghi nhớ. Trần định sai bày rượu tiễn, Chử xua tay nói “Không cần đâu, nếu ông không quên bạn cũ thì sau khi ra bảng rồi đừng ngại xa xôi".

Trần gạt lệ đưa ra, thấy một người đang chờ ở cổng. Chử đang còn chần chừ, người ấy đã đưa tay nắm vào đầu, Chử theo tay thu người lại còn bé tí, người ấy liền bỏ vào túi vác đi. Qua mấy hôm sau, quả nhiên có tin Trần thi đỗ, bèn thu xếp hành lý tới đất Việt. Vợ Lữ không sinh đẻ gì đã mười năm, đã hơn năm mươi tuổi chợt sinh một con trai, hai tay cứ nắm chặt vào nhau không sao mở ra được. Trần tới xin cho nhìn đứa nhỏ, lại nói trong tay nó phải có chữ "Chử". Lữ chưa tin lắm, nhưng khi đứa nhỏ nhìn thấy Trần chợt xòe mười ngón tay ra, nhìn vào quả đúng. Lữ ngạc nhiên hỏi duyên do, Trần kể lại hết mọi chuyện, mọi người đều kinh ngạc sợ hãi, Trần tặng biếu Lữ rất hậu rồi trở về. Sau Lữ nhờ chân Cống sĩ lên kinh thi đình, tới ở nhà Trần thì đứa nhỏ được mười ba tuổi, đã được vào học ở trường huyện rồi.

Dị Sử thị nói:Già Lữ dạy môn sinh mà không biết đó chính là dạy con mình. Than ôi, làm điều lành cho người thì được điều hay cho mình, chỉ trong chốc lát thôi. Như Chử sinh sau cùng đem thân báo ơn thầy, mà trước tiên đem hồn đền nghĩa bạn, tâm ý cùng hành động đều rạng rỡ với mặt trăng mặt trời, há vì là ma mà lấy làm kỳ dị sao!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 204 -
Cô Gái Họ Hoắc
(Hoắc Nữ)

Chu Đại Hưng là người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), nhà giàu có nhưng rất keo kiệt bủn xỉn, ngoài lễ cưới hỏi cho con thì trên bàn không có khách, dưới bếp không có thịt. Nhưng tính tình lại bợm bãi thích nữ sắc, có gái bên cạnh thì tiêu bao nhiêu cũng không tiếc, cứ đêm đến là trèo tường qua thôn bên cạnh ngủ với đám đàn bà phóng đãng. Một đêm gặp người thiếu phụ đi một mình, biết là kẻ trốn nhà bỏ đi, bèn ép dẫn về, thắp đèn lên nhìn thì vô cùng xinh đẹp. Nàng tự nói là họ Hoắc, Chu hỏi kỹ lai lịch thì tỏ vẻ không bằng lòng, nói “Nếu đã thu dung nhau được thì cần gì phải hỏi kỹ. Còn nếu sợ làm lụy cho nhau thì chẳng bằng xin đi ngay". Chu không dám hỏi nữa, giữ lại trong phòng ngủ. Cô gái không thể ăn uống kham khổ, lại rất ghét thịt cá, phải là yến sào, tim gà, bóng cá nấu thang mới chịu ăn nhưng Chu không tiếc, cứ ra sức cung phụng.

Cô gái lại hay bệnh, nói mỗi ngày phải uống một chén sâm, ban đầu Chu không chịu nhưng nàng cứ rên rỉ như sắp chết, Chu bất đắc dĩ phải cắt thuốc cho thì lại như khỏi bệnh khỏe mạnh như thường. Cô gái mặc quần áo phải là gấm vóc, cứ vài ngày lại bỏ thứ cũ sắm thứ mới. Cứ thế hơn tháng, Chu chịu không xiết, dần dần không cung đốn được, cô gái rơi lệ bỏ ăn, nằng nặc xin đi. Chu sợ lại dịu ngọt khuyên lơn chiều chuộng như cũ. Cô gái lại hay buồn rầu, cứ mỗi ngày lại gọi ban hát tới nhà diễn tuồng, lúc diễn Chu đặt chõng bế con ngồi ngoài nhìn, cô gái vì không có khách cứ chữi mắng, Chu cũng ít khi phân biện. Được hai năm, nhà cửa dần dần sa sút, Chu lựa lời nói với cô gái xin nàng chi tiêu dè sẻn hơn, cô gái ưng thuận, từ đó chi dùng chỉ bằng một nửa lúc trước.

Ít lâu sau vẫn không thể cung đốn được, cô gái bất đắc dĩ phải ăn cháo thịt, kế dần dần cũng phải chịu ăn những món thông thường. Chu mừng thầm, chợt một đêm nàng mở cửa bỏ đi mất. Chu rầu rĩ như mất của, tìm hỏi khắp nơi mới biết nàng tới nhà họ Hà ở thôn bên. Hà là con nhà vọng tộc, tính phóng khoáng hiếu khách, thường đốt đèn yến tiệc đến sáng. Hôm ấy chợt có cô gái đẹp nửa đêm bước vào phòng, hỏi ra thì là người thiếp của Chu bỏ trốn. Hà vốn biết rõ Chu là người thế nào, lại thích cô gái xinh đẹp bèn thu nạp, ăn ở được vài ngày càng thêm si mê, cứ để nàng mặc tình hoang phí, cung phụng như Chu trước kia. Chu được tin qua đòi nhưng Hà không hề quan tâm, Chu liền kiện lên quan. Quan hỏi tên họ lai lịch cô gái, Chu đều không biết rõ, quan bèn để đó không xét xử gì nữa.

Chu bán gia sản đút lót mới được xét xử, cô gái nói với Hà "Thiếp về với họ Chu vốn không có mai mối cưới hỏi, có gì phải sợ”. Hà mừng rỡ, kế đối chất xong trong bọn tân khách có Cố sinh cho là không thể làm như vậy, nói với Hà rằng "Thu nạp kẻ trốn nhà bỏ đi là đã phạm pháp, huống chi cô gái này vào nhà hoang phí quá độ, cho dù là gia sản ngàn vàng cũng đã chắc lâu dài được chưa?". Hà chợt tỉnh ngộ xin thôi kiện, đưa trả cô gái về cho Chu, nhưng được hai ba hôm thì nàng lại trốn đi. Có Hoàng sinh vốn là học trò nghèo, không có vợ. Cô gái gõ cửa vào nhà, nói rõ mình ở đâu tới. Hoàng sợ phạm pháp vì đột nhiên có người đẹp tới nhà, sợ hãi không biết làm sao, chỉ cố từ chối nhưng cô gái vẫn không chịu đi. Trong lúc đối đáp nàng tỏ vẻ rất nhu mì trong trắng, Hoàng xiêu lòng bèn giữ lại, nhưng sợ nàng không chịu yên phận nghèo hèn. Cô gái dậy sớm làm lụng việc nhà, vất vả còn hơn vợ thật.

Hoàng là người hiểu nhiều biết rộng, phóng khoáng đa tình mà cô gái lại giỏi chiều chuộng, vì thế hận gặp nhau quá muộn, chỉ sợ tin tức lộ ra không được chung sống lâu dài. Nhưng Chu từ sau vụ kiện càng nghèo, lại cho rằng cô gái nhất định không chịu yên phận nên cũng bỏ qua không tìm nữa. Cô gái ở với Hoàng được vài năm, tình nghĩa rất thắm thiết, một hôm chợt nói muốn về thăm nhà, xin Hoàng đưa tiễn. Hoàng nói “Trước nàng nói rằng không có nhà cửa, tại sao trước sau bất nhất như vậy?". Cô gái đáp “Lúc trước là thiếp nói dối, chứ thiếp là người huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) trước theo kẻ phóng đãng lưu lạc giang hồ nên mới đến nông nỗi này. Nhà thiếp cũng giàu có, chàng cứ cố tìm tới, ắt có báo đáp". Hoàng theo lời, thuê kiệu cùng đi, tới địa phận Dương Châu ghé thuyền vào bờ sông. Cô gái ngồi trong thuyền nhìn ra, có người nhà buôn lớn nhìn thấy ngạc nhiên vì nàng quá đẹp, quay thuyền lại đuổi theo mà Hoàng không hề biết.

Cô gái chợt nói "Nhà chàng nghèo quá, nay có một cách chữa bệnh nghèo, không biết chàng có chịu không?". Hoàng hỏi cách gì, nàng đáp "Thiếp theo chàng mấy năm chưa từng sinh đẻ, đó cũng là một điều không hay. Thiếp tuy quê mùa nhưng may cũng chưa già, nếu có ai đem ngàn lượng vàng mua thiếp đi, thì bấy nhiêu đủ cho chàng có vợ đẹp ruộng tốt, cách đó thế nào?”. Hoàng biến sắc không biết vì sao nàng nói thế, cô gái cười nói "Chàng đừng vội, trên đời vốn có nhiều người đẹp, ai mà chịu bỏ ngàn vàng mua thiếp? Nhưng nói đùa biết đâu cũng có thật, chứ bán hay không bán là tùy chàng thôi". Cô gái bèn nói với vợ người nhà thuyền, người đàn bà nhìn Hoàng, Hoàng ngần ngại chưa lên tiếng, người đàn bà liền đi, giây lát quay về nói thuyền bên có người nhà buôn lớn xin bỏ ra tám trăm lượng. Hoàng cố ý xua tay làm ra vẻ không được, không bao lâu người đàn bà quay lại nói người nhà buôn ưng thuận, xin mời qua ngay thuyền để giao tiền.

Hoàng cười khẽ, cô gái nói "Người ta mời qua làm giấy ký tên đấy, đi hay không thì tùy chàng thôi". Hoàng không chịu, cô gái cứ hối thúc, Hoàng bất đắc dĩ phải qua. Trong giây lát giấy tờ làm xong, tiền bạc giao đủ, Hoàng bảo gói kín lại, nói “Chỉ vì nghèo nên phải dứt tình, nếu vợ ta không chịu theo, thì vẫn có đủ tiền trả lại". Vừa chở tiền về thuyền thì thấy cô gái đã theo người vợ nhà thuyền từ đuôi thuyền leo qua thuyền người nhà buôn, từ xa vẫy tay chào, không hề tỏ vẻ lưu luyến gì cả. Hoàng buồn rầu vì biệt ly, thổn thức không nói nên lời. Giây lát thuyền kia nhổ neo lướt đi như tên bắn, Hoàng gào lớn muốn đuổi theo, nhà thuyền không chịu, nhổ neo đi về phía nam. Trong nháy mắt đã tới Trấn Giang, Hoàng đem tiền lên bờ xong, nhà thuyền vội nhổ neo rời bến. Hoàng ôm hành lý ngồi buồn rầu, không biết về đâu, nhìn sóng nước lăn tăn trên sông thấy như có hàng vạn mũi kim châm vào lòng. Đang còn gạt lệ chợt có tiếng êm ái gọi Hoàng lang, ngạc nhiên nhìn quanh thì cô gái đã đứng trên con đường trước mặt, Hoàng mừng quá xách hành lý đi theo.

Hỏi sao nàng tới mau thế, cô gái cười đáp "Nếu chậm vài khắc nữa chắc chàng sẽ sinh nghi". Hoàng lại ngờ rằng nàng là người phi thường, hết sức gạn hỏi, cô gái cười nói "Thiếp bình sinh gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì lừa bịp, nếu bàn thật ắt chàng sẽ không chịu, thì làm sao có được ngàn vàng? Bây giờ túi đã đầy tiền, lại còn châu về Hiệp Phố, chàng có được đủ cả tiền cả vợ, còn hỏi làm gì?". Bèn cầm giúp hành lý đưa nhau đi, khỏi cửa sông có một căn nhà quay mặt về hướng nam bèn vào. Giây lát cha mẹ anh trai chị dâu nhao nhao ra đón, đều nói "Hoàng lang tới rồi”. Hoàng vào lạy ra mắt cha mẹ vợ, thấy có hai thiếu niên bèn vái chào rồi cùng ngồi trò chuyện, đó là anh trai và em trai của cô gái là Đại lang và Tam lang. Trong bàn tiệc không có nhiều món, chỉ bày có bốn đĩa mà chật cả bàn, gồm gà cua ngỗng cá đầy vun lên. Hai thiếu niên lấy chén lớn mời rượu, trò chuyện phóng khoáng.

Kế dẫn Hoàng vào một gian nhà riêng cho vợ chồng cùng ở, nệm gối đều tinh khiết sạch sẽ nhưng trên giường thì lót da thay nệm, hàng ngày có tớ gái đưa cơm tới ba bữa, nhưng cô gái có khi cả ngày không thấy tới. Hoàng ở một mình thấy buồn khổ quá, mấy lần đòi về, nhưng cô gái cố giữ lại. Một hôm nàng nói với Hoàng "Nay tính toán cho chàng thì xin nên cưới một người vợ để có con nối dõi, nhưng cưới vợ lẽ thì giá cao, chàng nên giả làm anh thiếp, nói cha lo cưới vợ cho thì tìm con nhà lương dân không khó lắm", Hoàng không chịu nhưng nàng không nghe. Có con gái Cống sĩ họ Trương vừa góa chồng, đòi sính lễ trăm quan tiền, cô gái ép Hoàng cưới về. Người vợ mới tên A Mỹ, cũng xinh đẹp, cô gái gọi là chị dâu. Hoàng áy náy không yên lòng nhưng nàng vẫn thản nhiên. Ngày khác nàng nói với Hoàng “Thiếp sắp theo chị cả tới Nam Hải thăm bà dì một lần, hơn một tháng sẽ về, xin hai vợ chồng cứ ở đây", rồi đi.

Hai vợ chồng ở riêng một gian, nhà cô gái vẫn đưa đồ ăn thức uống qua cho, lại càng đầy đủ chu tất. Nhưng từ khi Hoàng tới đó thì không ai bước vào phòng, mỗi sáng A Mỹ qua hầu mẹ chỉ nói một đôi câu là về, chị gái em dâu ngồi cạnh cũng chỉ nhìn nhau cười một cái, cho dù ngồi lâu hơn cũng chẳng trò chuyện gì nhiều. Hoàng thấy cha cô gái cũng vậy, có khi đang ngồi trò chuyện với các con trai, nhưng Hoàng tới thì tất cả đều im lặng. Hoàng nghi ngờ buồn bực nhưng không nói ra được, A Mỹ biết ý hỏi rằng “Chàng là anh em với mấy người kia, tại sao cả tháng nay thấy đối xử với nhau cứ như khách lạ thế?". Hoàng thảng thốt không sao đáp được, ấp úng nói "Ta xa nhà mười năm, nay mới trở về". A Mỹ lại hỏi kỹ từ gia thế cha mẹ chồng tới quê quán các chị em dâu, Hoàng quýnh quáng không thể giấu giếm bèn kể thật hết. Nàng khóc nói "Nhà thiếp tuy nghèo nhưng không ai làm lẽ mọn, chẳng lạ gì các chị em dâu khinh rẻ không coi ngang hàng".

Hoàng sợ hãi lúng túng không biết tính sao, chỉ quỳ rạp trước mặt xin nhất nhất tuân lời, A Mỹ gạt lệ kéo đứng lên, hỏi qua việc định xử sự thế nào. Hoàng đáp "Ta đâu dám có ý gì khác, chỉ còn tùy ý nàng muốn bỏ thì bỏ thôi". Nàng nói “Đã lấy chồng lại bỏ về, nỡ lòng nào làm thế? Người kia tuy theo chàng trước nhưng là do ý riêng, thiếp tuy tới sau nhưng đúng lễ chung, chẳng bằng cứ chờ nàng về hỏi xem đã bày ra cách này thì sẽ đặt thiếp vào đâu?". Được vài tháng cô gái vẫn không về, một đêm nghe ngoài phòng khách có tiếng người uống rượu ồn ào, Hoàng lén dậy ra nhìn xem, thấy hai người khách mặc nhung phục ngồi trên, một người đội khăn da báo, oai mãnh như thiên thần, phía đông là một người lấy da đầu cọp làm mũ đâu mâu, miệng cọp ngoạm vào đỉnh đầu, tai mũi đều còn đủ. Hoàng kinh sợ trở về kể cho A Mỹ, càng không biết cha con họ Hoắc là hạng người nào. Vợ chồng ngờ vực sợ hãi bàn nhau tìm chỗ khác ở, nhưng lại sợ sinh chuyện ngang trái. Hoàng nói "Nói thật với nàng nếu người từ Nam Hải về thì chuyện chia tay nhau cũng đã định rồi, ta cũng không thể ở đây được. Nay muốn đưa nàng đi, lại sợ nhạc phụ đại nhân nói này khác, chẳng bằng cứ tạm chia tay, trong vòng hai năm ta sẽ trở lại, nếu nàng đợi được thì đợi, nếu có ai cưới thì tùy ý nàng". A Mỹ muốn nói cho cha mẹ biết để đi theo, Hoàng không chịu, A Mỹ gạt lệ đòi Hoàng phải thề thốt, sau đó chia tay trở về.

Hoàng vào từ giã cha mẹ cô gái, lúc ấy hai người con trai đi vắng. ông Hoắc giữ lại bảo chờ họ về, Hoàng không nghe cứ ra đi, buồn rầu lên thuyền, lòng dạ tan nát. Đến Qua Châu (thuộc tỉnh Giang Tô) chợt quay nhìn thấy một cánh buồm đuổi tới, lướt nhanh như bay, dần dần tới gần thì người chống kiếm ngồi đầu thuyền là Hoắc Đại lang, từ xa đã nói vọng tới “Ông muốn trở về sao không bàn kỹ lần nữa? Để phu nhân lại mà bỏ đi, hai ba năm thì ai mà chờ được”. Nói xong thì thuyền đã tới sát, A Mỹ từ trong bước ra, Đại lang kéo lên thuyền của Hoàng, rồi nhảy trở lại đi mất. Trước là A Mỹ vừa về tới nhà khóc kể cho cha mẹ, chợt Đại lang đem kiệu tới cổng, chống kiếm uy hiếp bắt nàng đi ngay, cả nhà run sợ nín thở không dám nói một câu cản trở. Nghe nàng kể như thế, Hoàng không hiểu họ Hoắc có ý gì, nhưng được A Mỹ cũng rất mừng, bèn nhổ neo lên đường. Về tới nhà đem tiền ra mua sắm ruộng vườn, nổi tiếng giàu có.

A Mỹ nhớ cha mẹ, muốn Hoàng đi thăm một lần, nhưng lại sợ cô gái họ Hoắc tới thì lại có chuyện tranh giành ngôi thứ. Không bao lâu ông Trương tới thăm, thấy nhà cửa cao ráo cũng được an ủi, nói với con gái rằng "Sau khi con đi, ta cho người tới nhà họ Hoắc hỏi dò nhưng chỉ thấy cửa đóng chặt, chủ nhà cũng chẳng biết gì, nửa năm sau cũng không có tin tức. Mẹ con ngày nào cũng khóc, cho rằng con bị kẻ gian bắt đi bán rồi, không biết lưu lạc tới nơi đâu, nay vẫn may không sao chứ?". Hoàng kể thật lại sự tình, mọi người vì vậy cho rằng họ Hoắc là thần. Về sau A Mỹ sinh con trai, đặt tên là Tiên Tứ, năm hơn mười tuổi mẹ sai đi Trấn Giang.

Tới địa giới Dương Châu vào nghỉ ở nhà trọ, bọn gia nhân đi theo đều ra ngoài, chợt có cô gái tới kéo đứa nhỏ vào phòng khác, buông rèm rồi bế ngồi lên đầu gối, cười hỏi tên gì, đứa nhỏ nói tên. Cô gái lại hỏi tên ấy có ý nghĩa là gì, đứa nhỏ nói không biết, cô gái nói cứ về hỏi cha thì sẽ biết. Rồi búi tóc cho, lấy cành thoa trên đầu cắm vào thay trâm, tháo vòng vàng đeo vào cổ tay, lại lấy vàng cho vào túi áo đứa nhỏ nói "Về rồi mua sách mà đọc". Đứa nhỏ hỏi bà là ai, nàng đáp "Con không biết là còn có một mẹ khác à? Về nói với cha rằng Chu Đại Hưng chết không có quan tài, nên giúp đỡ cho y, đừng có quên đấy". Người lão bộc quay trở về phòng không thấy thiếu chủ đâu, tìm tới phòng ấy nghe đang nói chuyện với người khác bèn nhìn vào thì ra là chủ mẫu cũ, khẽ hắng giọng định chào hỏi thì cô gái đặt đứa nhỏ lên giường rồi biến mất. Hỏi tới người thuê phòng ấy thì không biết là ai. Mấy hôm sau từ Trấn Giang trở về kể lại với Hoàng, lại đưa những thứ cô gái tặng ra cho xem, Hoàng thở than không thôi, khi hỏi tới Chu thì đã chết ba ngày, xác còn đó chưa chôn được, bèn giúp đỡ cho rất hậu.

Dị Sử thị nói:Cô gái là tiên chăng? Ba lần thay chồng quả không thể gọi là trinh, nhưng gặp kẻ keo kiệt thì phá của, gặp kẻ dâm tà thì kìm chế, cô gái không phải là người vô tâm đâu. Nhưng đã phá của thì không cần thương xót nữa, bọn người tham dâm keo kiệt mà chết ở ngòi rãnh thì có gì đáng tiếc chứ?

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 205 -
Khách Buôn Vải
(Bố Thương)

Có người khách buôn vải là Mỗ tới đất Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), tình cờ ghé thăm ngôi chùa bỏ hoang, thấy chùa thiền đổ nát than thở không thôi. Sư đứng bên cạnh nóì “Nếu thí chủ có lòng thiện tín, xây lại sơn môn thì mặt Phật cũng được rạng rỡ”. Khách khảng khái nhận lời, sư mừng rỡ mời vào phương trượng khoản đãi rất ân cần, kế dắt đi khắp phòng ốc trong ngoài, xin sửa sang hết. Khách từ chối là không đủ sức, sư cố ép buộc, giận dữ quát tháo. Khách sợ xin đưa tiền ngay, rồi dốc túi đưa hết tiền bạc ra. Lúc sắp ra về thì sư chặn lại nói "Ông hết sạch cả tiền vốn không phải là tình nguyện, nhất định không cam lòng. Chẳng bằng ta phải tính trước", rồi cầm đao ra. Khách lạy lục năn nỉ cũng không nghe, bèn xin được tự thắt cổ, sư ưng thuận dắt vào phòng kín, ép thắt cổ ngay. Vừa gặp lúc có quan Phòng hải tướng quân đi ngang qua chùa, nhìn vào chỗ tường vỡ thấy có một người con gái áo đỏ chui vào phòng sư lấy làm ngờ vực bèn xuống ngựa vào sai quân tìm kiếm khắp cả trước sau đều không thấy đâu. Tới chỗ phòng kín thấy hai cánh cửa đóng chặt, sư lại không chịu mở, nói thác là bên trong có yêu quái. Tướng quân tức giận sai phá cửa vào, thấy khách đã treo cổ lên xà nhà vội cứu xuống, giây lát thì sống lại. Hỏi han sự tình, lại tra hỏi cô gái ở đâu thì qua thật không có, thắc là thần phật hóa thân ra mà thôi. Bèn giết sư, trả hết tiền bạc lại cho khách. Khách càng dốc lòng sửa sang chùa chiền, từ đó lửa hương không ngớt. Hiếu liêm Triệu Phong Nguyên kể lại chuyện này rất tường tận

206. Bành Nhị Tranh
(Bành Nhị Tranh)

Ông Hàn Phủ ở huyện Võ Thành (tỉnh Sơn Đông) kể có lần đi cùng đường với người trong huyện là Bành Nhị Tranh, chợt quay đầu lại thì không thấy đâu, chỉ còn con ngựa theo sau. Nhưng nghe có tiếng kêu gào rất gấp, lắng nghe thì từ cái túi da trên lưng ngựa phát ra. Tới gần xem thì cái túi vẫn như cũ, tuy rất nặng nhưng vẫn không rơi xuống. Muốn cứu ra thì miệng túi đã bị khâu kín, lấy dao cắt chỉ thấy Bành Nhị Tranh nằm co như con chó ở trong. Cứu ra rồi, hỏi tại sao lại vào được trong bao, Bành củng ngơ ngác không hiểu, chắc là nhà ấy bị hồ quấy phá, những chuyện như thế rất nhiều.

207. Thần Nhảy
(Khiêu Thần)

Tục ở đất Tế (tỉnh Sơn Đông) trong dân gian hễ ai bị bệnh thì vợ con đi bói toán rồi mời bà đồng tới lắc vòng sắt đánh trống con làm như dáng nhảy nhót, gọi là Thần nhảy. Tục ấy ở thành thị lại càng thịnh hành, các thiếu phụ nhà lương dân vẫn thường làm. Trong sảnh đường bày thịt trên giá, chứa rượu trong chậu bày cả lên bàn, đốt đuốc sáng như ban ngày. Bà đồng mặc quần ngắn, đứng co một chân như con cò, có hai người nắm tay đỡ hai bên, miệng lẩm bẩm không ngừng như ca hát mà cũng như khấn khứa. Số người đã có chồng và người góa chồng xấp xỉ như nhau, cùng nhảy nhót theo tiếng kèn. Kế đánh một hồi trống vang rền như sấm điếc cả tai, rồi bà đồng rẽ mọi người ra, vì tiếng trống ầm ĩ nên không nghe rõ là nói gì. Kế bà ta cúi đầu liếc ngang, đứng cả hai chân xuống đất nhưng không có người đỡ nên ngã ngay, chợt lại vươn cổ nhảy dựng lên cách mặt đất cả thước. Đàn bà con gái trong nhà sợ sệt nói với nhau "Ông bà về ăn uống đấy!", rồi thổi một hơi tắt hết đèn đuốc. Trong ngoài tối đen như mực, mọi người nín thở đứng trong bóng tối không dám trò chuyện với nhau một câu nhưng có nói cũng không nghe vì có nhiều tiếng động đang rộn lên.

Khoảng xong bữa cơm thì nghe bà đồng lớn tiếng gọi tên tục của cha mẹ vợ chồng chủ nhà, mọi người mới cùng nhau thắp đèn lên khom lưng hỏi chuyện lành dữ. Thấy rượu thịt trên bàn đã hết sạch, cứ nhìn mặt bà đồng xem mừng giận ra sao mà khép nép thưa gởi, còn bà ta đáp nghe vang rền. Có ai thầm dè bỉu thì thần biết ngay, chỉ vào mặt nói ngươi dám cười ta thì thực là đại bất kính, phải lột quần ngươi. Người dè bỉu nhìn lại mình thì quả nhiên đã bị lột truồng, cứ ra cành cây cao nhất ngoài cổng sẽ tìm thấy quần trên đó. Đàn bà con gái cả vùng thờ phụng rất kính cẩn, có điều gì nghi ngờ hỏi tới thì thần quyết cho ngay. Có lúc bà đồng lại ăn mặc nghiêm trang cỡi cọp giả làm ngựa, cầm binh khí dài múa trên sạp, gọi là Thần cọp nhảy (Khiêu hổ thần). Những người đóng giả cọp thì làm ra vẻ dữ tợn, gầm thét ầm ĩ. Có khi thần xưng là Quan Công Trương Phi hay thần Nguyên Đàn, không có tên gọi nhất định, dáng vẻ khí thế hung dữ làm người ta phải khiếp sợ. Có người đàn ông lẻn vào nhìn trộm, bị binh khí dài đâm qua song cửa xuyên trúng mũ. Khi thần đã nhập thì phụ nữ cả nhà từ mẹ chồng con dâu tới các chị em gái đều kính kính cẩn cẩn đứng xếp hàng ngay ngắn, không dám nghĩ bậy, không dám ngã ngớn.

208. Công Phu Thiết Bố Sam
(Thiết Bố Sam Pháp)

Sa Hồi Tử học được công phu Thiết bố sam, xòe bàn tay ra có thể chém đứt đầu trâu, đâm thủng bụng trâu. Từng ở nhà Cừu công tử và Bành tam gia, treo khúc gỗ trên không, sai hai người đầy tớ khỏe mạnh nắm một đầu hết sức thúc vào bụng, bình một tiếng, khúc gỗ văng ra xa. Lại lấy hết sức thúc vào hạ bộ cũng không hề hấn gì, duy chỉ sợ đao kiếm mà thôi.

209. Đầu Mỹ Nhân
(Mỹ Nhân Thủ)

Có bọn khách thương ngụ ở kinh, nhà trọ liền với hàng xóm, cách một bức vách, vách ván bị mục thủng một lỗ to bằng cái chậu. Chợt có một cô gái thò đầu vào nhìn, búi tóc cài trâm rất lộng lẫy, kế lại đưa một cánh tay qua, thấy trắng như ngọc. Mọi người hoảng sợ cho là yêu quái, toan nắm lấy thì đã rút ra. Giây lát lại thò vào, cách vách nên không thấy người, chạy mau ra xem thì đã biến mất. Một người bèn cầm dao núp dưới vách, giây lát cái đầu thò vào, y vùng dậy chém, cái đầu theo dao rơi xuống, máu bắn tung tóe lên vách. Mọi người phát hoảng báo cho chủ nhà trọ, chủ nhà trọ sợ hãi đem cái đầu lên báo quan. Quan bắt bọn khách thương tới hỏi cung thấy thưa bẩm rất hoang đường bèn giam giữ suốt nửa năm, họ đều kêu van là không biết gì, kế không thấy ai kiện tụng bèn tha ra, sai chôn cái đầu cô gái.

210. Thần Núi
(Sơn Thần)

Lý Hội Đẩu ở Ích Đô (tỉnh Tứ Xuyên) ngẫu nhiên đi ngang qua núi, gặp vài người đang ngồi dưới đất uống rượu, thấy Lý đều cung kính đứng dậy mời cùng ngồi, rót rượu mời mọc. Nhìn vào mâm thấy đủ thứ rau cỏ, uống với nhau một lúc rất vui vẻ, nhưng rượu rất nhạt. Chợt có một người đi tới, mặt hẹp mà dài khoảng hai ba thước, đội mũ cao mà nhỏ. Cả bọn hoảng sợ nói “Thần núi tới rồi", cùng nhao nhao bỏ chạy. Lý cũng nằm rạp xuống núp dưới hố, lát sau dậy xem thì không thấy rượu thịt gì cả chỉ có vài món bát đĩa vỡ đầy cát bụi vứt lăn lóc, trên mảnh ngói có mấy con rắn mối mà thôi.

211. Tướng Quân Họ Khố
(Khố Tướng Quân)

Khố Đại Hữu tự Quân Thục là người huyện Dương ở Hán Trung (tỉnh Tứ Xuyên) đậu Cử nhân võ, theo làm tướng trong quân Tổ Thuật Vũ*. Tổ rất quý trọng, cất nhắc mấy lần, dần thăng tới chức Tổng nhung của nhà ngụy Chu. Sau thấy thế đã nguy, ngầm đem quân đánh Tổ, chém Tổ bị thương ở tay rồi bắt sống giải về nộp cho Tổng đốc Thái. Tới kinh đô, Khố nằm mơ thấy bị giải tới âm ty, Diêm Vương giận là bất nghĩa, sai quỷ tất lấy dầu sôi đổ vào chân. Tỉnh dậy thì chân đau không sao chịu nổi, kế lở ra máu mủ bê bết, các ngón rụng hết, lại thêm bị mê sảng, cứ gào lớn rằng “Ta quả là kẻ bất nghĩa, ta quả là kẻ bất nghĩa!", rồi chết.

* Tố Thuật Vũ: tướng của Bình Tây vương Ngô Tam Quế thời Thanh, theo giúp Ngô Tam Quế làm phản chống lại nhà Thanh, chiếm cứ vùng đất phía nam Trung Quốc, xưng quốc hiệu là Chu, sau bị nhà Thanh đánh bại.

Dị Sử thị nói:Thờ ngụy triều thì vốn không thể nói là trung, nhưng được coi như bậc quốc sĩ hay kẻ tầm thường thì chịu ơn cũng phải báo đáp, chỉ là người hào kiệt thì buộc mình phải báo đáp sao cho xứng đáng mà thôi*. Chuyện này quả cũng có thể để răn những kẻ bầy tôi ăn ở hai lòng trong thiên hạ vậy.

*Được coi như... mà thôi: Dự Nhượng người nước Tấn thời Chiến quốc theo thờ họ Phạm Trung Hàng, họ Phạm không biết tài bèn bỏ theo thờ Trí Bá, được Trí Bá rất kính trọng. Sau Trí Bá bị Triệu Tương tử giết, Dự Nhượng nuốt than sơn mặt đổi giọng nói thay vẻ mặt để hành thích Tương tử nhưng bại lộ bị bắt. Tương tử hỏi "Trước ông đã thờ họ Phạm Trung Hàng rồi, sao lại liều chết báo thù cho Trí Bá?", Nhượng đáp "Họ Phạm coi ta là kẻ tầm thường thì ta báo đáp như kẻ tầm thường còn Trí Bá coi ta như bậc quốc sĩ nên ta báo đáp theo kiểu quốc sĩ" Cả câu ý nói kẻ hào kiệt phải đền ơn theo kiểu hào kiệt chứ không thể tính toán so kè là chịu ơn nhỏ hay lớn được.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển XII - 212 -
Tư Văn Lang
(Tư Văn Lang)

Vương Bình Tử người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lên kinh ứng thí, trọ ở chùa Báo Quốc. Trong chùa có thư sinh người Dư Hàng (tỉnh Chiết Giang) tới ở trước, Vương vì là ở liền nhà đưa danh thiếp qua làm quen, sinh không đáp lễ, mà sớm tối gặp nhau còn tỏ vẻ khinh khỉnh, Vương giận vì kiêu căng, không giao du gì nữa. Một hôm có một thiếu niên tới chơi chùa, khăn áo đều màu trắng, dáng vẻ đường đường. Vương tới gần trò chuyện, thấy lời lẽ cao xa, lấy làm yêu kính, bèn hỏi tên họ quê quán, thiếu niên nói là họ Tống, quê ở phủ Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông). Vương sai đầy tớ bày ghế mời ngồi, cùng nhau trò chuyện vui vẻ.

Chợt thư sinh người Dư Hàng đi ngang, hai người cùng đứng lên mời ngồi, sinh chễm chệ ngồi tót lên cao, cũng không vờ nhũn nhặn, nghênh ngang hỏi Tống "Ngươi cũng đi thi à?”. Tống đáp "Không phải, ta tài năng kém cỏi nên không có chí bay nhảy đã lâu. Sinh lại hỏi quê quán, Tống đáp, sinh nói "Không có ý tiến thủ như thế đủ biết là bậc cao minh. Cả Sơn Đông, Sơn Tây không có một ai đáng là bậc thông giả". Tống đáp “Người phương Bắc vốn ít kẻ thông tuệ, nhưng kẻ không thông chưa chắc đã là tiểu sinh, người phương Nam vốn nhiều bậc thông tuệ, nhưng bậc thông giả cũng chưa chắc đã là túc hạ". Nói xong vỗ tay, Vương cũng phụ họa cười ầm lên.

Sinh xấu hổ tức giận, trợn mắt giữ áo lớn tiếng hỏi "Có dám ra đề thi làm văn ngay bây giờ không?". Tống không thèm nhìn, nhếch mép cười nhạt nói “Có gì mà không dám", rồi lấy sách đưa Vương. Vương tiện tay giở ra, chỉ vào câu "Ở Khuyết Lý, trẻ con đem mệnh". Sinh đứng dậy tìm giấy bút, Tống kéo lại, bảo "Đọc miệng cũng được. Ta đã làm xong câu phá đề thế này “Ở chỗ tân khách qua lại mà gặp một kẻ không biết gì”. Vương ôm bụng cười sằng sặc, sinh tức giận nói "Toàn là bọn không biết làm văn, chỉ bày trò để xỏ xiên, không đáng là người!". Vương ra sức can ngăn, xin tìm đề khác hay hơn. Lại lật trang khác đọc "Thời Ân có ba người nhân". Tống ứng khẩu đọc luôn "Ba vị tuy đạo bất đồng nhưng cùng theo một điều. Điều ấy là gì? Là điều nhân vậy. Bậc quân tử chỉ cần làm điều nhân là được rồi, cần gì phải đồng". Sinh bèn không làm nữa, đứng dậy nói "Cũng là hạng có tài vặt" rồi bỏ đi.
Vương vì thế càng trọng Tống, mời vào trong phòng, chuyện trò đến tối, đưa hết văn bài ra hỏi Tống. Tống đọc rất nhanh, hơn một khắc đã hết trăm bài, nói “Ông cũng là kẻ đã sâu sắc trong nghiệp này, nhưng lúc làm văn vẫn không có cái chí nhất định phải hơn người mà còn cái lòng cầu may, nên đã rơi xuống hạng kém". Rồi lấy những bài đã đọc qua bình phẩm tường tận, Vương thích lắm, tôn làm bậc thầy, sai nhà bếp lấy đường mía nấu chè xôi nước mời. Tống ăn khen ngon, nói "Bình sinh chưa được ăn món này, phiền hôm khác lại làm cho", từ đó hai người càng thân thiết. Tống cứ năm ba ngày lại tới một lần, Vương lại sai nấu chè xôi nước.

Thư sinh người Dư Hàng thỉnh thoảng cũng gặp, tuy không trò chuyện thân mật nhưng dần dần cũng bớt ngạo nghễ, một hôm đem văn bài đưa Tống xem, trong đó bè bạn đã khuyên son chi chít, Tống chỉ liếc mắt nhìn qua rồi đẩy ra góc bàn không nói một câu. Sinh ngờ Tống chưa đọc lại giục, Tống nói đọc rồi, sinh lại ngờ là không hiểu, Tống nói "Có gì khó hiểu đâu, chỉ là không hay thôi”. Sinh hỏi "Mới nhìn qua những chỗ khuyên son, sao biết là không hay?". Tống liền đọc to lên như đã học thuộc lòng, đọc xong lại chê. Sinh sợ toát mồ hôi, im lặng bỏ đi. Lát sau Tống về rồi sinh lại vào, nài nỉ Vương cho xem văn, Vương không chịu. Sinh cứ lục bừa tìm được quyển văn của Vương, thấy có nhiều chỗ khuyên son, cười nói "Những cái này to như viên xôi nước". Vương cố nén giận chỉ trừng mắt nhìn.
Hôm sau Tống tới, Vương kể lại mọi chuyện, Tống nổi giận nói "Ta cứ cho rằng y đã chịu thua, mà sao thằng ngu ấy còn dám như thế? Thế nào cũng phải cho biết tay". Vương cố lấy lời răn đừng khinh bạc để khuyên Tống, Tống cảm phục lắm. Kế thi xong, Vương đem văn bài đưa Tống, Tống hẹn sẽ đọc, tình cờ cùng dạo xem điện gác trong chùa, thấy một nhà sư mù ngồi dưới hành lang bày thuốc ra bán. Tống kinh ngạc nói "Đây là bậc kỳ nhân, rất giỏi xét văn, không thể không thỉnh giáo một lần, rồi bảo Vương về nhà lấy văn, gặp thư sinh người Dư Hàng bèn đưa nhau cùng tới.

Vương gọi nhà sư rồi lạy chào, nhà sư tưởng mua thuốc liền hỏi bệnh. Vương thưa rõ ý xin thỉnh giáo, nhà sư cười nói “Ai mà nhiều chuyện thế? Ta không có mắt, làm sao bàn luận văn chương”. Vương xin dùng tai thay mắt, nhà sư nói “Ba bài hơn hai ngàn chữ, ai mà nghe nổi? Thôi cứ đốt lên, ta ngửi bằng mũi cũng được". Vương theo lời, cứ đốt bài nào nhà sư lại ngửi rồi gật gù nói “Ông bắt đầu học theo các bậc đại gia, tuy chưa đúng hệt nhưng cũng gần giống, ta đang nhận bằng dạ dày". Vương hỏi "Có được không?”, nhà sư đáp "Cũng tạm được". Thư sinh người Dư Hàng chưa tin lắm, lấy văn của bậc đại gia cổ đốt lên trước để thử, nhà sư hít mấy lần rồi nói "Hay quá! Văn này thì ta phải nhận bằng tâm, không phải là Quy Hồ* thì ai mà làm nổi”. Sinh cả sợ, lúc ấy mới đốt văn mình. Nhà sư nói "Mới thấy được một phần, chưa biết được toàn thể, sao bỗng có văn người khác chen vào đây?". Sinh nói thác rằng "Đó là văn của bạn bè, chỉ có một bài ấy, đây mới là văn của tiểu sinh". Nhà sư ngửi lại mớ tro, ho sặc lên mấy tiếng, nói "Thôi đừng đốt nữa? Nó cứ lục cục lòn hòn không sao xuống được, phải gắng gượng nhận bằng lá cách, đốt nữa thì ói mửa ra mất", sinh thẹn thùng chào về.

*Quy Hồ: tức Quy Hữu Quang, Hồ Hữu Tín, hai người nổi tiếng về văn bát cổ thời Thanh.

Mấy hôm sau ra bảng, sinh đỗ Hương cống còn Vương trượt. Tống và Vương tới báo tin, nhà sư than "Ta tuy mù mắt nhưng mũi không mù, còn các vị khảo quan thì mù cả mũi". Lát sau thư sinh người Dư Hàng tới, vênh vang nói "Này hòa thượng mù, người cũng ăn chè xôi nước của người ta hả? Bây giờ tính sao?". Nhà sư cười đáp !Ta bàn về văn chứ không bàn với anh về mệnh. Anh cứ thử tìm văn các quan chấm trường tới đây đốt của mỗi người một bài, ta có thể nói ai là thầy anh”. Sinh và Vương cùng đi tìm, chỉ được văn của tám chín người. Sinh hỏi "Nếu đoán sai thì chịu phạt thế nào?”, nhà sư tức tối đáp "Thì cho ngươi móc con mắt thong manh của ta đi!". Sinh bèn đốt văn, hết một bài nhà sư lại nói không phải, tới bài thứ sáu chợt quay vào vách nôn ọe, đánh rắm bồm bộp. Mọi người đều cười ầm, nhà sư lau mắt quay qua sinh nói "Đúng là của thầy anh rồi! Lúc đầu ta không biết nên hít vội quá, nó đâm vào mũi, xói vào bụng, quả cật cũng không sao nhận được nên cứ thẳng theo đường hậu môn mà ra". Sinh cả giận bỏ đi, nói "Ngày mai sẽ biết tay, đừng hối, đừng hối!".

Qua hai ba hôm cũng không thấy tới, xem lại thì đã dọn đi ở chỗ khác, mới biết y đúng là môn sinh của viên quan chấm trường ấy. Tống an ủi Vương, nói "Phàm người đọc sách chúng ta không nên cầu hơn người mà cần nghiêm với mình. Không cầu hơn người thì đức càng rộng, biết nghiêm với mình thì học mới tiến. Mới đây ông thi rớt là vì vận số chưa tới, nhưng công bằng mà bàn thì văn của ông cũng chưa thật chín, cứ theo đó mà rèn luyện thì thiên hạ vẫn có người không mù”. Vương kính cẩn nghe theo, kế nghe tin năm sau lại mở khoa thi hương nên không về quê mà ở lại học. Tống khuyên "Ở kinh đô gạo châu củi quế nhưng đừng lo chuyện tiền bạc. Sau nhà có hầm vàng, có thể đào lấy mà dùng", rồi chỉ chỗ. Vương từ tạ nói "Xưa Đậu Phạm* nghèo mà vẫn giữ được điều liêm, nay ta may còn đủ ăn, đâu dám tự làm nhơ danh".

*Đậu Phạm: tức Đậu Nghi và Phạm Trọng Yêm thời Tống. Đậu Nghi lúc trẻ nghèo khó, có Kim tinh (tinh vàng bạc) hiện hình đùa cợt nhưng không động tâm. Phạm Trọng Yêm lúc trẻ tới ngụ ở chùa Lễ Tuyền đọc sách, mỗi ngày chỉ ăn một bát cháo, nhưng một hôm tình cờ đào được hầm bạc chôn mà lấp lại không lấy, sau làm Tây súy các sư tới xin làm công đức sửa chùa, bèn chỉ chỗ cho họ đào lên.

Một hôm Vương đang ngủ say, người hầu và người nấu bếp lén ra đào trộm, Vương sực tỉnh nghe sau nhà có tiếng động rón rén ra xem thì vàng đã chất đống trên mặt đất, hai người thấy đã bị lộ cùng quỳ mọp xin tha tội. Vương đang trách mắng chợt thấy trong đó có nhiều cái chén vàng cùng một kiểu có khắc chữ, nhìn kỹ thì đều là tên húy ông nội mình. Té ra ông nội Vương từng giữ chức Nam bộ lang, lúc vào kinh nhận chức từng ngụ ở đó, bị bệnh nặng mà chết, số vàng ấy là của ông để lại. Vương mừng rỡ, đem cân thử được hơn tám trăm lượng, hôm sau kể lại cho Tống nghe, lại đưa cái chén vàng cho xem, muốn cùng chia với Tống, Tống từ chối mãi mới thôi. Lại đem một trăm lượng tới tặng nhà sư mù, nhưng nhà sư đã đi mất.

Suốt mấy tháng Vương ra sức học hành, đến kỳ thi, Tống nói "Khoa này mà ông không đỗ thì thật đúng là do mệnh", kế Vương phạm trường quy bị đánh rớt. Vương còn chưa nói gì thì Tống đã không kìm được bật khóc nức nở, Vương lại phải an ủi khuyên giải. Tống nói “Ta bị tạo vật ghen ghét, lận đận suốt đời, nay lại làm lụy cho cả bạn tốt, đó là mệnh vậy, đó là mệnh vậy!". Vương nói "Muôn việc đều là có số, nhưng như tiên sinh là không có chí tiến thủ chứ không phải là mệnh". Tống gạt lệ nói "Lâu nay đã muốn nói ra nhưng chỉ e ông ngờ sợ, chứ thật ra ta không phải là người sống mà là hồn ma phiêu bạt. Lúc trẻ mang tài danh mà không được đắc chí nơi trường ốc nên giả cuồng lên kinh đô, gặp người tri kỷ dạy văn chương cho, gặp nạn năm Giáp thân (1644)*, lưu lạc theo tháng năm. Nay may được thương yêu nên cố gắng giúp rập để mượn sức bạn bè, cái ước nguyện chưa đạt được lúc bình sinh thật ra muốn nhờ bạn hiền thực hiện một lần cho khoái ý thôi. Nay tai ách của nghiệp văn chương lại như thế ai mà cầm lòng cho được". Vương cũng cảm động khóc hỏi sao lâu thế mà còn chưa đầu thai, Tống đáp "Năm rồi Thượng đế có mệnh ủy cho đức Tuyên Thánh và Diêm La vương tra xét các hồn ma, loại khá thì giao về các ty tào bổ dụng, số còn lại cho đi đầu thai. Ta đã được chọn bổ dụng, sở dĩ chưa đi là vì muốn được thấy cái thú tranh chiếm bảng vàng một lần thôi, nay xin từ biệt".

*Nạn năm Giáp thân: tức năm Giáp thân 1644, Mãn tộc đánh chiếm Bắc Kinh, bắt đầu lập ra triều Thanh thay triều Minh thống trị Trung Hoa.

Vương hỏi được khảo xét bổ dụng chức gì, Tống đáp "Phủ Tử Chàng khuyết chức Tư văn lang, ấn triện tạm giao cho nha Tủng Đồng giữ nên văn vận vì thế điên đảo. Nếu ta may mắn được giữ chức ấy thì nhất định sẽ làm cho văn giáo được sáng ngời thịnh vượng". Hôm sau hớn hở tới nói "Được toại nguyện rồi. Đức Tuyên Thánh sai ta làm bài Luận về tính và đạo xem xong có vẻ vui mừng, nói ta có thể coi việc văn chương. Diêm La xem lại sổ toan bỏ không dùng vì tội khẩu nghiệt, đức Tuyên Thánh tranh cãi mãi, ta mới được duyệt. Ta lạy tạ xong người lại gọi tới cạnh bàn dặn "Nay ta thương tài thăng cho giữ chức thanh cao quan trọng, phải sửa lòng nhận chức chớ mắc vào tội lỗi cũ. Xem thế đủ biết cõi âm coi trọng đức hạnh còn hơn cả văn học. Ông tu sửa đức hạnh ắt cũng chưa tới được chỗ trọn vẹn, nhưng đừng xao lãng việc làm điều lành là đủ rồi". Vương nói "Đúng thế, nhưng thư sinh người Dư Hàng kia thì đức hạnh tới mức nào?". Tống đáp "Điều đó ta không rõ, nhưng phải biết âm ty thưởng phạt không sai sót chút nào đâu. Như vị sư mù hôm trước cũng là một hồn ma thôi. Đó là bậc danh gia triều trước, lúc sinh thời dùng giấy bút quá hoang phí nên bị phạt mù. Ông ta muốn chữa bệnh cho người để chuộc lỗi trước nên đi khắp các nơi". Vương sai bày tiệc, Tống nói “Không cần đâu, ta đã quấy rầy suốt năm rồi, giờ phút cuối cùng này cứ nấu cho món chè xôi nước là được". Vương buồn rầu không ăn chỉ ngồi mời mọc, giây lát Tống ăn hết ba bát to, ôm bụng nói “Ăn bữa này đủ no ba ngày, ta đã ghi nhớ ơn ông rồi. Những cái trước nay ta ăn đều ở sau nhà, đã mọc nấm cả, cất đi làm thuốc có thể giúp cho trẻ con thông tuệ". Vương hỏi hậu vận, Tống đảp “Đã nhận quan chức nên không tiện nói". Vương lại hỏi "Nếu tới đền thờ Tử Chàng cúng tế khấn khứa, tiên sinh có biết không?”. Tống đáp “Việc đó đều vô ích. Chín tầng trời xa lắm, nhưng nếu ông giữ mình trong sạch, hết sức làm điều lành thì tự nhiên sẽ có tờ tư báo của âm ty, lúc ấy ta sẽ cho biết”. Nói xong từ biệt rồi biến mất.

Vương xem sau nhà quả có nấm tía liền hái cất đi, cạnh đó tự nhiên có nấm đất mọc lên như ngôi mồ mới, mà những viên xôi nước nằm sờ sờ ở đó Vương về quê giữ mình hết sức nghiêm cẩn, một đêm mơ thấy Tống đi kiệu có lọng che tới nói "Trước đây ông có lần vì cơn giận nhỏ lỡ tay giết chết một người tỳ nữ nên bị xóa sổ lộc. Nay gắng sửa mình đã được trừ bớt tội, nhưng phúc mệnh quá mỏng nên không thể làm quan". Năm ấy Vương thi đỗ Hương cống, năm sau lại thi dỗ Tiến sĩ, nhưng không ra làm quan. Vương sinh được hai trai, đứa đầu vô cùng ngu độn, cho ăn nấm lại trở nên hết sức thông minh. Về sau Vương có việc đi Kim Lăng, gặp thư sinh Dư Hàng trên đường, cùng Vương chuyện trò thân mật, thái dộ cực kỳ khiêm cung, nhưng râu tóc đã bạc trắng cả.

Dị Sử thị nói: Thư sinh Dư Hàng công nhiên tự phụ là cậy vào văn chương, ắt không phải không có bài nào hay, nhưng kiêu càng khinh người hiện ra nét mặt thì trong giây phút cũng khiến ngườỉ ta không nhịn được. Trời người cùng ghét điều đó đã lâu, nên quỷ thần đều đùa cợt. Nếu sửa được nết xấu ấy thì những quan chấm thi có loại văn chọc vào mũi xóc vào lòng rất dễ gặp, sao lại tao ngộ chỉ có bấy nhiêu thôi!

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 213 -
Lữ Vô Bệnh
(Lữ Vô Bệnh)

Công tử họ Tôn ở huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam) tên Kỳ, cưới con gái quan Thái sử họ Tưởng, vợ chồng rất tương đắc. Năm hai mươi tuổi nàng chết, Tôn đau buồn khôn xiết, rời nhà vào ở một sơn trang trong núi. Một hôm mưa dầm nằm ngủ trưa, trong phòng không có ai khác, chợt thấy dưới màn ngoài giường lộ ra đôi bàn chân đàn bà, ngạc nhiên lên tiếng hỏi. Thấy một cô gái vén màn bước ra, khoảng mười tám mười chín tuổi, y phục mộc mạc sạch sẽ, nhưng da hơi đen mà mặt rỗ, có vẻ là con gái nhà nghèo. Tôn cho là người trong thôn tới thuê nhà bèn quát “Cần gì thì nói với bọn gia nhân ngoài kia, chứ đâu có phép đi bừa vào đây?”. Cô gái mỉm cười nói “Thiếp không phải là người trong thôn mà quê ở tỉnh Sơn Đông, họ Lữ, cha là học trò. Thiếp tiểu tự là Vô Bệnh, theo cha tới ngụ ở đất khách nhưng không được cha mẹ nuôi dạy đã lâu. Vì hâm mộ công tử là danh sĩ thế gia, nên nguyện làm tỳ nữ lo việc hầu hạ nghiên bút”. Tôn cười nói “Ý nàng rất hay, nhưng ở đây có đủ hạng tôi tớ ở chung, rất là bất tiện, cứ trở về làng ta sẽ đưa kiệu mang lễ vật tới đón". Cô gái có vẻ không bằng lòng, nói "Thiếp tự biết mình hèn mọn, đâu dám mong nhận lễ trọng, chỉ mong được sai phái trước án thư, chắc cũng không đến nỗi bưng ngược sách". Tôn nói “Thu nạp tỳ nữ cũng cần ngày tốt", rồi chỉ lên giá sách bảo lấy bộ Thông thư, quyển tư để thư tài. Cô gái tìm thấy, giở ra xem trước rồi trình lên cười nói “Hôm nay không có hung tinh Hà Khôi chiếu vào phòng”. Tôn hơi động lòng bèn cho ở lại trong phòng.

Cô gái không có việc gì làm bèn quét bàn xếp sách, đốt trầm lau đỉnh, phòng sách trở nên sáng sủa sạch sẽ Tôn rất vừa lòng. Đến tối bảo qua chỗ khác ngủ, cô gái ngước nhìn rồi chớp mắt, càng ân cần phục dịch. Bảo đi ngủ mới vâng dạ cầm nến bước ra. Nửa đêm Tôn chợt tỉnh thấy cạnh giường như có ai nằm, đưa tay sờ biết là cô gái bèn lay gọi. Cô gái giật mình choàng dậy đứng trước giường, Tôn hỏi "Sao không đi ngủ chỗ khác? Dưới giường đâu phải là chỗ ngươi nằm?". Cô gái nói “Thiếp hay sợ lắm". Tôn thương xót, bảo mang gối lên giường nằm. Chợt nghe hơi thở lan tới thơm ngát như nhụy sen, lấy làm lạ gọi xích lại nằm chung gối, bất giác rung động dần dần kéo vào nằm chung chăn, rất vừa ý. Nhưng lại nghĩ giấu diếm không phải là kế hay, lại ngại nếu cùng về nhà thì miệng đời dị nghị. Tôn có bà dì ở cách đó hơn mười căn, bàn với cô gái bảo tới náu ở đó rồi sau đó sẽ cho kiệu tới đón. Cô gái khen hay, nói "Bà dì thì thiếp quá quen, không cần phải tới thưa trước, thiếp xin đi ngay”. Tôn đưa nàng ra, cô gái leo qua tường mà đi. Dì của Tôn ở góa, sáng sớm hôm ấy ra mở cửa thì cô gái bước vào. Bà già hỏi, nàng đáp "Cháu trai bà sai con tới thăm dì. Công tử muốn về nhà nhưng đường xa thiếu ngựa nên gởi con ở đây vài hôm”. Bà già tin lời bèn giữ cô gái ở đó.

Tôn về nhà, bịa rằng dì có một tỳ nữ muốn tặng, rồi sai người tới đón cô gái về, ăn ngủ gì cũng có nhau, lâu ngày càng khắng khít, nhận làm vợ lẽ. Các nhà thế gia bắn tin gả con gái cho mà Tôn đều chối từ cho rằng có Vô Bệnh là thỏa nguyện rồi. Nàng biết ý, hết lời khuyên Tôn cưới vợ, Tôn bèn cưới con gái nhà họ Hứa song rốt lại vẫn say mê Vô Bệnh. Hứa rất hiền, không bao giờ giành chồng buổi tối, mà Vô Bệnh hầu hạ Hứa ngày càng thêm kính cẩn, nhờ vậy lớn bé đều thuận hòa. Hứa sinh một con trai đặt tên là A Kiên, Vô Bệnh yêu thương bồng bế như con mình. Đứa nhỏ được ba tuổi cứ rời vú nuôi là theo ngủ với Vô Bệnh, Hứa gọi cũng không chịu đi. Không bao lâu Hứa mắc bệnh rồi chết, lúc lâm chung trối với Tôn rằng "Vô Bệnh rất thương con, cho dì ấy nuôi làm con thì được, mà đưa dì ấy lên bậc chính thất cũng được". Chôn cất xong, Tôn định làm theo lời vợ bèn bàn với họ hàng nhưng mọi người đều nói là không nên, Vô Bệnh cũng khăng khăng từ chối, Tôn bèn thôi.

Ở huyện có con gái quan Tể tướng họ Vương vừa góa chồng cho người tới đánh tiếng. Tôn vốn không muốn cưới vợ nữa nhưng họ Vương nói mấy lần, người mối lại khen nàng đẹp, họ hàng bên Tôn cũng thích nhà quyền thế nên cùng khuyên nhủ, Tôn xiêu lòng bèn cưới. Người đàn bà quả rất đẹp nhưng vô cùng kiêu căng, quần áo vật dùng được ít lâu cứ chán là hủy hoại vứt bỏ, Tôn vì nể nang nên không nỡ làm phật ý. Về được vài tháng thì giành cả yêu đương chăn gối về mình, còn cứ thấy Vô Bệnh gặp Tôn thì cười khóc gì cũng kiếm chuyện rồi giận lây qua cả chồng, mấy lần cãi vã đánh nhau. Tôn sợ rầy rà nên nhiều đêm ngủ riêng, người đàn bà lại tức giận. Tôn chịu không nổi, tìm cớ lên kinh đô để tránh nạn vợ dữ, người đàn bà lại lấy việc chồng đi xa đổ lỗi cho Vô Bệnh. Vô Bệnh hết sức hầu hạ, nín hơi im tiếng để lấy lòng mà rốt lại nàng ta vẫn không vừa ý. Đêm bảo Vô Bệnh vào ngủ dưới đất, đứa nhỏ cũng chạy theo vào ngủ chung, cứ gọi Vô Bệnh dậy sai khiến là nó lại khóc. Người đàn bà chửi mắng, Vô Bệnh vội gọi người vú nuôi vào bế đi, đứa nhỏ cưỡng lại kêu gào. Người đàn bà tức giận vùng dậy nắm lấy đánh túi bụi, nó mới chịu để người vú bế đi.

Đứa nhỏ vì vậy sợ hãi thành bệnh bỏ ăn, người đàn bà cấm Vô Bệnh không được để nó thấy mặt, đứa nhỏ kêu khóc cả ngày. Người đàn bà quát chị vú bảo vứt nó xuống đất, đứa nhỏ hết hơi khan tiếng đòi uống nước, người đàn bà cấm không cho. Chiều tối Vô Bệnh chờ lúc người đàn bà không có ở đó, lén ra cho đứa nhỏ uống nước, đứa nhỏ thấy nàng hất nước nắm lấy vạt áo khóc nức nở không thôi. Người đàn bà nghe thấy hằm hằm bước ra, đứa nhỏ nghe tiếng nín bặt, giãy mạnh một cái rồi tắt thở. Vô Bệnh khóc òa lên, người đàn bà nổi giận nói “Con tiện tỳ xấu xí định lấy chuyện con chết mà chẹt ta à? Đừng nói gì là đồ lót tã nhà họ Tôn, cho dù có giết chết thế tử nhà vương gia thì con gái của Tễ tướng họ Vương này cũng dám chịu. Vô Bệnh nén giận gạt nước mắt, xin mua quan tài chôn cất, người đàn bà không cho, sai đem vứt nó đi ngay. Người đàn bà đi rồi, nàng lén vỗ về đứa nhỏ, thấy tứ chi còn ấm, bèn nói thầm với người vú "Ngươi đem nó đi mau ra đồng chờ một lát, ta sẽ tới ngay. Nếu nó chết thì cùng chôn lấp, nếu nó sống thì cùng săn sóc", người vú vâng dạ. Vô Bệnh vào phòng lấy trâm xuyến giắt vào người đi ra, đuổi kịp người vú, cùng nhìn đứa nhỏ thì nó đã sống lại. Hai người mừng rỡ bàn nhau tới sơn trang trong núi nương tựa bà dì của Tôn. Người vú lo nàng chân nhỏ khó đi, Vô Bệnh bèn đi rảo lên trước cho xem, bước nhanh như gió, chị ta hết sức chạy theo mới kịp. Khoảng canh hai, bệnh đứa nhỏ trở nên nguy ngập không thể đi được nữa bèn rẽ vào một thôn cạnh đường, tới nhà một ông già làm ruộng, ngồi dựa vào cổng chờ sáng rồi gõ cửa hỏi mướn phòng, bán trâm xuyến lấy tiền rước đủ thầy cúng thầy thuốc mà rốt lại đứa nhỏ vẫn không khỏi bệnh. Vô Bệnh ôm mặt khóc nói “Vú chịu khó chăm sóc đứa nhỏ này, để ta đi tìm cha nó". Người vú còn đang ngờ là nói bậy thì nàng đã biến mất, vô cùng kinh hãi.

Hôm ấy, Tôn ở kinh đô, vừa thiu thiu ngủ trên giường thì Vô Bệnh lặng lẽ bước vào. Tôn giật mình nhỏm dậy nói "Vừa ngủ mà nàng đã hiện vào giấc mộng sao?” Nàng cầm tay Tôn nghẹn ngào, giẫm chân không nói nên lời, hồi lâu mới thất thanh nói "Thiếp trải trăm cay nghìn đắng, đem con trốn tới đất Dương” chưa dứt lời thì bật tiếng khóc lớn, ngã lăn ra biến mất. Tôn sợ quá nhưng vẫn ngờ là nằm mơ, gọi người hầu cùng tới xem thì quần áo giày tất vẫn còn rõ ràng, lạ lùng không hiểu nhưng lập tức thu xếp hành trang về ngay trong đêm. Về tới nhà nghe việc con chết thiếp trốn, Tôn đấm ngực đau thương, mắng chửi vợ kế. Người đàn bà mồm năm miệng mười cãi lại, Tôn căm tức rút dao ra, bọn tớ gái xúm vào cứu, Tôn không sấn tới gần được, từ xa phóng dao tới, sống dao trúng vào trán người đàn bà. Người đàn bà toác trán phun máu, xõa tóc gào thét chạy ra cổng, định về mách với gia đình. Tôn kéo trở vào, vác gậy đập túi bụi, người đàn bà quần áo rách tả tơi, đau quá không động đậy nổi. Tôn sai khiêng vào phòng chăm sóc, chờ khi nào bình phục sẽ đuổi về. Các anh em trai của người đàn bà nghe tin tức giận kéo người ngựa tới cổng, Tôn cũng họp bọn tôi tớ khỏe mạnh cầm khí giới ra chặn, hai bên chửi mắng nhau đến tối mới tan.

Họ Vương chưa vừa ý bèn thưa kiện, Tôn đem đầy tớ hộ vệ lên huyện, tự tới đối chất, trình bày tội ác của vợ kế. Quan huyện không thể khuất phục bèn đưa tới học quan trừng phạt cho Vương hài lòng. Học quan Chu tiên sinh là con nhà thế gia, tính ngay thẳng không xu phụ, hỏi rõ được sự tình nổi giận nói "Quan trên tuởng ta là thứ học quan tham lam hèn mạt trong thiên hạ, quen đòi loại tiền thương luân bại lý để hút mủ liếm trĩ à? Cái tướng ăn mày ấy ta vốn không làm được nên không dám tuân lệnh! Tôn công nhiên trở về, Vương không làm gì được bèn nhờ bạn bè ngỏ ý điều đình, muốn chàng tới nhà xin lỗi một lần, nhưng Tôn không chịu, bên kia qua lại cả chục lần cũng không đổi ý. Người đàn bà dần dần bình phục, Tôn muốn đuổi về nhưng sợ họ Vương không chịu nhận, lần lữa rồi cũng ở yên.

Tôn vì thiếp mất con chết, sớm tối đau lòng, nghĩ rằng nếu tìm được người vú sẽ rõ hết sự tình, lại nhớ Vô Bệnh đã nói là trốn tới đất Dương. Gần đó có thôn họ Dương trồng đay, Tôn ngờ là ở đó, tìm tới hỏi thăm nhưng không ai biết cả. Có người nói cách đấy năm mươi dặm có một đất Dương Cốc, Tôn sai người cỡi ngựa tới hỏi thăm, quả nhiên tìm ra. Lúc ấy đứa nhỏ đã dần dần bình phục, gặp nhau đều mừng rỡ, cưỡi chung ngựa về. Đứa nhỏ từ xa nhìn thấy cha òa lên khóc lớn, Tôn cũng rơi nước mắt. Người đàn bà nghe đứa nhỏ còn sống, giận dữ chạy ra định chửi mắng. Đứa nhỏ đang khóc, mở mắt nhìn thấy người đàn bà hoảng sợ nhào vào lòng cha như tìm chỗ trốn, bế lên nhìn lại thì đã chết ngất, vội vàng lay gọi, hồi lâu mới tỉnh. Tôn căm tức nói "Không biết là tàn ác tới mức nào mà khiến thằng nhỏ tới nỗi này?". Bèn làm tờ ly hôn đưa về, quả Vương không nhận, sai cáng trả lại Tôn. Tôn không biết làm sao, bèn thu xếp cho hai cha con ở riêng, không gặp gỡ người đàn bà. Người vú thuật lại việc Vô Bệnh, Tôn mới biết rằng nàng chỉ là hồn ma, cảm nghĩa bèn đem chôn áo quần giày tất, đề trên bia rằng “Mộ của người vợ ma Lữ Vô Bệnh”. Không bao lâu người đàn bà sinh được một trai, tự tay bóp cổ đứa nhỏ chết. Tôn càng phẫn uất, lại đuổi về, Vương lại sai cáng trả lại. Tôn không còn cách nào bèn làm đơn tố cáo lên quan trên, nhưng họ đều nể mặt Tễ tướng nên không xét tới. Sau Tễ tướng chết, Tôn cứ thưa kiện không thôi họ mới bắt người đàn bà phải về nhà mẹ.

Tôn từ đó không lấy vợ nữa, chỉ cưới thiếp. Người đàn bà bị đuổi, tiếng dữ ngày càng đồn xa, ba bốn năm không ai dạm hỏi, bắt đầu hối hận nhưng không còn kịp nữa. Có bà tớ cũ nhà Tôn tình cờ ghé qua, người đàn bà tiếp đãi niềm nở, trước mặt bà ta sa lệ, xem tình ý có vẻ như nhớ chồng cũ. Bà già về kể lại với Tôn, Tôn cười làm ngơ. Hơn năm sau mẹ người đàn bà lại chết, trơ trọi không nơi nương tựa, các chị em dâu đều không ưa nên càng bơ vơ, ngày ngày cứ rơi nước mắt. Có một người học trò nghèo chết vợ, anh người đàn bà bàn cho nhiều của hồi môn để tái giá mà người đàn bà không chịu, cứ lén nhờ người đi lại ngỏ ý với Tôn, khóc lóc nói rằng đã hối hận nhưng Tôn không nghe, trước sau vẫn làm ngơ.

Một hôm người đàn bà sai một tỳ nữ dắt trộm lừa cưỡi qua nhà Tôn, Tôn mới từ trong nhà bước ra, người đàn bà bước tới chào hỏi, quỳ xuống dưới thềm khóc lóc không thôi. Tôn muốn bỏ đi, người đàn bà níu áo, lại quỳ xuống. Tôn từ chối, nói "Nếu ở lại với nhau mà không có chuyện gì đã đành, chứ một sáng có chuyện thì anh em của cô dữ như cọp, há lại chịu sao?". Người đàn bà nói "Thiếp trốn tới đây, không có lẽ nào mà quay về, nếu chàng cho thì ở lại, không cho thì chỉ còn cách chết”. Lại nói “Thiếp về với chàng năm hai mươi mốt tuổi, đến hai mươi ba bị đuổi, thật là ác đủ mười phần, nhưng chẳng lẽ không có một phần tình sao?”. Rồi cởi cái vòng vàng trên cổ tay, so hai bàn chân, đút vào cái vòng, lấy tay phủ lên, nói "Lời thề hương lửa lúc trước, chàng nỡ không nhớ tới sao?”. Tôn bèn rưng rưng nước mắt, sai người đỡ lên dìu vào nhà, nhưng vẫn ngờ là họ Vương gian trá, muốn được anh em người đàn bà nói một câu làm bằng.

Người đàn bà nói "Thiếp trốn nhà đi, còn mặt mũi nào cầu cạnh anh em nữa? Nếu không tin nhau thì thiếp có mang sẵn dao để tự sát, xin cắt ngón tay để tỏ lòng". Rồi rút dao sắc trong lưng ra bước lại cạnh giường kê một ngón tay trái lên chặt đứt, máu phun vọt ra. Tôn cả sợ vội băng bó cho, người đàn bà đau tái cả mặt nhưng không hề rên rỉ, cười nói "Thiếp nay đã tỉnh mộng, chỉ muốn mượn một gian phòng nhỏ làm cách tu hành, chàng nghi ngờ làm gì?”. Tôn bèn bảo con trai và người thiếp ở riêng một nơi, mình thì sớm tối qua lại hai bên, hàng ngày tìm thuốc chữa vết thương ngón tay cho vợ, hơn một tháng thì lành. Người đàn bà từ đó không ăn mặn, đóng cửa tụng kinh niệm Phật mà thôi. Lâu sau thấy việc nhà bê trễ bèn nói với Tôn rằng "Thiếp tới đây lần này, vốn muốn gác mọi việc ra không hỏi gì tới, nhưng nay thấy trong nhà ăn tiêu như thế, e rằng con cháu về sau có đứa phải chết đói, không còn cách nào nên phải mặt dày ra coi sóc vậy". Rồi họp đám tớ gái lại giao cho đánh sợi dệt vải, hẹn ngày giao nộp. Đám tôi tớ thấy tự xin về ở nên coi thường, lúc vắng người cứ xúm lại chê cười mai mỉa nhưng người đàn bà làm như không biết gì cả. Đến khi tính công, ai lười nhác thì roi vọt không tha, mọi người mới sợ hãi. Lại buông rèm ngồi bên trong tính toán sổ sách với các người quản sự, rạch ròi chặt chẽ. Tôn bèn cả mừng, bảo con trai và người thiếp sáng sáng qua thăm hỏi.
Năm ấy A Kiên chín tuổi, người đàn bà càng lưu tâm chăm sóc, buổi sáng nó đi học rồi thường để dành quà bánh đợi nó về cho ăn, đứa nhỏ cũng dần đần yêu mến gần gũi. Một hôm nó cầm đá ném chim sẻ, vừa lúc người đàn bà đi ngang, trúng ngay đầu ngã ra đất, hơn một khắc vẫn chưa nói được. Tôn cả giận lấy roi đánh con, người đàn bà tỉnh dậy, hết sức can ngăn, lại mừng rỡ nói “Trước kia thiếp ngược đãi con, trong lòng lúc nào cũng áy náy, nay thì may đã được trừ bớt một tội". Tôn càng yêu dấu, nhưng người đàn bà thường không chịu, bảo tới ngủ chỗ người thiếp. Được vài năm, sinh nở mấy lần đều bỏ cả, nói “Đây là quả báo cái tội giết con ngày trước đấy". Khi A Kiên đã cưới vợ, thì việc ngoài giao con trai, việc nhà giao con dâu. Một hôm nói "Ngày ấy tháng ấy thiếp sẽ chết”, Tôn không tin, người đàn bà bèn tự lo sắm quan tài vải liệm. Đến ngày ấy nàng thay y phục nằm vào quan tài mà chết, sắc mặt vẫn như lúc sống. Có mùi hương lạ thơm ngát cả phòng, khi liệm xong mới dần dần tan hết.

Dị Sử thị nói:Trong lòng ưa thích vốn không phải là ở chỗ xấu đẹp Như Mao Tường Tây Thi, biết đâu chỉ có kẻ không tự yêu mình mới cho là đẹp? Nhưng nếu không gặp phải người hung dữ ghen tuông, thì sự hiền thục không thể bộc lộ rõ ràng cho những kẻ ưa thích hâm mộ cùng vui cười được. Đến như người lầu son gác tía kia, túc căn vốn dày nên mới có thể đột nhiên tỉnh ngộ, chứng quả Bồ đề, chứ trong cõi địa nguc kia toàn là kẻ giàu sang nhưng chưa từng trải qua gian khổ vậy.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 214 -
Thôi Mãnh
(Thôi Mãnh)

Thôi Mãnh tự Vật Mãnh là con nhà thế gia ở huyện Kiến Xương (tỉnh Liêu Ninh), tính cương nghị. Lúc nhỏ đi học ở trường, bọn trẻ có đụng chạm gì tới là nắm tay đánh liền, thầy nhiều lần răn dạy vẫn không bỏ, nên tên và tự đều do thầy đặt cho*. Đến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ tuyệt luân, lại có thể chống sào dài nhảy lên mái nhà, thích giúp người rửa sạch nỗi bất bình. Vì vậy người làng đều khâm phục, những người tới nhờ vả kể lể thường chật cả nhà. Thôi đè nén kẻ mạnh, giúp đỡ người yếu không sợ oán thù, ai tỏ ý chống lại thì lập tức lấy gạch đá gậy gộc đánh luôn cho đến lúc toàn thân bầm dập, lúc đã lên cơn giận dữ thì không ai dám khuyên can. Duy thờ mẹ rất có hiếu, mẹ tới là hết giận ngay, mẹ trách mắng bao nhiêu cũng vâng vâng dạ dạ nghe lời, có điều cứ ra khỏi cửa là quên mất.

*Tên và tự đều do thầy đặt cho: “Mãnh" có nghĩa là mạnh bạo, dữ tợn, “Vật Mãnh” có nghĩa là đừng hung dữ, đây người thầy vừa có ý khuyến khích Thôi Mãnh nên mạnh dạn làm điều nghĩa nhưng vừa có ý khuyên dạy đừng hung dữ.

Láng giềng có người đàn bà ác hàng ngày ngược đãi mẹ chồng, mẹ chồng đói gần chết, con trai lén cho ăn, mụ ta biết được chữi mắng đủ điều, bốn bên hàng xóm đều nghe. Thôi giận vượt tường qua cắt hết tai mũi môi lưỡi, mụ chết ngay lập tức. Mẹ Thôi nghe tin cả sợ, gọi người láng giềng qua, hết lời năn nỉ an ủi, cưới cho một nàng hầu trẻ mới yên chuyện. Mẹ uất ức khóc lóc bỏ ăn, Thôi sợ quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa đã hối hận rồi, nhưng mẹ vẫn khóc không thèm nhìn tới. Vợ Thôi là Chu thị cũng quỳ xuống với chồng, mẹ bèn cầm gậy đánh rồi lấy kim thích vào cánh tay Thôi thành hình chữ thập, dùng son bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều chịu cả, mẹ mới chịu ăn cơm.

Mẹ Thôi thích nuôi các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ ăn no. Gặp lúc có vị đạo sĩ đang đứng ở cổng thì Thôi đi ngang, đạo sĩ nhìn Thôi rồi nói “Lang quân tính khí ngang tàng hung dữ, e khó giữ trọn tuổi trời, nhà tích thiện lẽ ra không nên để có chuyện như vậy". Thôi vừa nghe mẹ răn dạy, nghe thế tỏ vẻ cung kính nói “Ta cũng tự biết thế nhưng cứ gặp chuyện bất bình là không sao kìm mình được, không biết gắng sức sửa đổi có tránh được không?”. Đạo sĩ cười đáp “Khoan hãy hỏi tránh được hay không tránh được, xin cứ hỏi sửa được hay không sửa được. Cứ phải ra sức tự kìm chế, nếu thấy có thể làm được trong muôn một thì ta sẽ nói cho ông một phép giải tử”. Thôi bình sinh không tin chuyện bùa chú nên chỉ cười không đáp, đạo sĩ bèn nói "Ta vốn biết là ông không tin, nhưng lời ta nói đây không phải như lời bọn đồng cốt, làm theo cũng là có đức tốt, cho dù không có kết quả cũng không đến nỗi có hại". Thôi xin nghe, đạo sĩ bèn nói "Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cổng, nên kết giao thật hậu, đến lúc phạm tội chết thì người ấy có thể cứu được", rồi gọi Thôi bước ra chỉ cho biết người ấy, thì ra đó là đứa nhỏ con nhà họ Triệu tên Tăng Ca.

Triệu là người huyện Nam Xương (tỉnh Giang Tây), gặp năm mất mùa phải tới ngụ cư ở Kiến Xương. Thôi từ đó chơi thân với Triệu, mời tới ở nhà mình, đãi ngộ rất hậu. Tăng Ca năm ấy mười hai tuổi, lên nhà lạy mẹ Thôi làm mẹ, nhận Thôi làm anh. Đến vụ mùa đầu năm sau, Triệu đưa gia quyến về quê, từ đó không có tin tức gì. Mẹ Thôi từ khi người đàn bà láng giềng chết càng răn dạy con chặt chẽ, có ai tới kêu nài cầu cứu đều gạt đi. Một hôm em mẹ Thôi chết, Thôi theo mẹ qua viếng, dọc đường gặp mấy người trói một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa xô đẩy bắt đi mau, lại đánh đập túi bụi, người ta đứng xem chật đường, kiệu không tiến được. Thôi ra hỏi thì những người quen biết tranh nhau kể, nguyên là có con trai một vị quan lớn tên Mỗ Giáp, ngang tàng nhất vùng, thấy vợ Lý Thân xinh đẹp muốn chiếm đoạt nhưng không có cớ bèn sai người nhà dụ Thân đánh bạc, đưa tiền cho vay nhưng tính lãi rất nặng, bắt ghi cả vợ vào giấy nợ, thua hết lại cho vay tiếp, một đêm mang nợ tới mấy ngàn. Được nửa năm tính cả vốn lẫn lãi đã hơn ba mươi ngàn, Thân không sao trả được, chúng cậy đông người kéo tới bắt vợ Thân đi. Thân tới cổng kêu khóc, Mỗ giận bắt trói treo lên cây đánh đập buộc phải làm giấy cam đoan không kiện tụng.

Thôi nghe chuyện giận điên người, thúc ngựa xông lên định đánh nhau. Bà mẹ vén rèm kiệu gọi lại nói "Chà, lại thế rồi phải không!", Thôi đành thôi. Viếng tang xong về nhà cứ lầm lì không nói chuyện không ăn cơm, chỉ ngồi sững trợn mắt như có điều tức giận, vợ hỏi han gì cũng không đáp, ban đêm thì mặc cả áo ngoài nằm trên giường, trằn trọc đến sáng. Đêm sau cũng thế, mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ thế ba bốn lần, vợ không dám hỏi, chỉ nằm im nghe ngóng. Kế lại đi ra, lâu lắm mới trở vào, đóng cửa lên giường ngủ say. Đêm ấy có người giết Mỗ Giáp trên giường, phanh bụng rút ruột ra ngoài, xác vợ Thân thì trần truồng nằm dưới giường. Quan nghi là Thân, bắt lên tra hỏi, đánh đập cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân ra nhưng vẫn không chịu nhận, hơn một năm không chịu nổi cực hình phải nhận bừa, bị khép tội chết. Vừa lúc ấy mẹ Thôi chết, chôn cất xong, Thôi nói với vợ rằng !Người giết tên Giáp chính là ta, chỉ vì còn mẹ già nên không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, sao lại mình làm nên tội lại bắt kẻ khác chịu tai họa. Ta lên quan nhận tội chết đây”. Vợ sợ hãi níu áo kéo lại, Thôi dứt áo đi, tới công đường tự thú.

Quan ngạc nhiên, cùm lại giam vào ngục rồi tha Thân ra. Thân không chịu, cứ nhất định nhận tội, quan không quyết được bèn nhốt cả hai. Họ hàng đều chê trách Thân, Thân nói "Việc công tử đã làm là việc ta muốn làm mà không thể làm được. Công tử đã làm thay cho ta mà ta lại nỡ ngồi nhìn công tử chết sao? Nay cứ coi như công tử chưa ra thú là được". Rồi không chịu đổi lời khai, cố tranh tội với Thôi. Lâu sau nha môn đều biết duyên do, đuổi Thân ra khỏi ngục để Thôi chịu tội, lúc ấy đã sắp đến ngày hành hình. Vừa gặp khi có quan Bộ lang họ Triệu coi việc giảm án tới xét ngục, điểm lại danh sách tù phạm tới tên Thôi bèn đuổi hết mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào ngẩng nhìn lên thềm thì là Tăng Ca, vừa tủi vừa mừng kể thật hết sự tình. Triệu ngần ngừ hồi lâu rồi sai giam lại vào ngục như cũ, dặn ngục tốt phải đối xử tử tế, kế lấy cớ đã tự thú giảm tội cho, sung làm lính ở Vân Nam, Thân cũng đi theo để hầu hạ.

Chưa đầy một năm, được theo lệ ân xá trở về, đều là nhờ sức của Triệu. Khi Thôi đã về Thân vẫn theo không rời, thay Thôi coi sóc mọi việc làm ăn, trả tiền công thì không lấy, chỉ chú tâm xin học những thuật phi thân đánh đá, Thôi cũng đối xử rất hậu, cưới vợ cấp ruộng cho. Thôi từ đó cố gắng sửa nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay thì ràn rụa nước mắt, vì thế trong làng có ai đánh nhau thì Thân thác lời Thôi can ngăn dàn xếp chứ không cho Thôi hay. Có viên Giám sinh họ Vương là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân khắp nơi thường lui tới, nhiều nhà khá giả trong huyện bị cướp bóc, ai trái ý thì y sai bọn cướp giết ngay ngoài đường, con y cũng dâm đãng tàn bạo. Vương có một bà thím góa chồng, cha con cùng gian dâm với bà ta, vợ là Cừu thị nhiều lần can ngăn, Vương thắt cổ nàng chết. Anh em họ Cừu thưa kiện lên quan, Vương đút lót để quan buộc họ vào tội vu cáo. Họ hàm oan uất ức không có cách nào phát tiết, tới cầu cứu Thôi nhưng Thân chối từ không cho gặp. Vài hôm sau có khách, gặp lúc không có người hầu, Thôi bảo Thân pha trà, Thân im lặng đi ra nói với mọi người rằng "Ta với Thôi Mãnh chỉ là bạn bè mà theo nhau đi đày muôn dặm, không thể nói là không chí tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào còn coi như đầy tớ, thật không chịu nổi", rồi giận dữ bỏ đi.

Có người kể lại với Thôi, Thôi kinh ngạc vì Thân đổi tính nết nhưng cũng chưa lấy làm lạ. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công, Thôi quá lạ lùng, đích thân lên đối chất. Thân căm tức tranh cãi, quan cho là vô lý bèn quát đuổi về. Vài hôm sau Thân chợt đang đêm vào nhà Vương giết cả hai cha con, bà thím và đứa con dâu rồi dán giấy lên vách tự xưng tên họ, cho đuổi bắt thì đã trốn biệt tích. Nhà họ Vương nghi là do Thôi sai khiến, nhưng quan không tin. Thôi mới sực hiểu ra chuyện kiện tụng trước đây là do Thân sợ giết người sẽ làm liên lụy tới mình. Văn thư truy nã gởi khắp các châu huyện chung quanh, tìm bắt Thân rất gấp, nhưng gặp lúc giặc Sấm* chiếm kinh đô, việc ấy chìm luôn. Không bao lâu nhà Minh mất ngôi, Thân đem gia quyến về, lại thân thiết với Thôi như trước.

*Giặc Sấm: xem chú thích truyện Tố Thu.

Lúc ấy giặc cướp tụ tập khắp nơi, Vương có đứa cháu họ là Đắc Nhân tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ chiếm cứ núi non làm giặc, kéo đi cướp phá thôn xóm. Một đêm dốc cả sào huyệt kéo tới, nói là để phục thù. Gặp lúc Thôi vắng nhà, giặc đã phá cửa Thân mới biết, vượt qua tường núp trong bóng tối. Giặc tìm không thấy Thôi bèn bắt vợ Thôi, vơ vét hết của cải kéo đi. Thân trở vào, chỉ còn có một người đầy tớ, vô cùng căm giận, bèn cắt lấy vài mươi đoạn thừng, đưa người đầy tớ những đoạn ngắn còn mình giữ những đoạn dài. Dặn người đầy tớ lên sào huyệt giặc, tới lưng núi thì châm lửa vào dây thừng treo rải rác trên các bụi gai rồi bỏ đó về ngay. Người đầy tớ vâng lời đi, Thân thấy bọn giặc đều thắt dây lưng đỏ và buộc mảnh vải đỏ trên mũ, bèn bắt chước giả trang theo.

Có con ngựa cái già mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa, Thân buộc ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ ngậm tăm ra đi, tới thẳng sào huyệt giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn, Thân buộc ngựa ngoài thôn vượt tường vào, thấy bọn giặc còn nhốn nháo chưa kịp cởi gươm buông giáo, trà trộn vào hỏi han biết vợ Thôi ở chỗ tên Vương. Giây lát nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng một người báo núi phía đông có lửa, giặc cùng ngẩng nhìn, lúc đầu chỉ có một hai đốm, kế nhiều như sao sa. Thân lấy hơi kêu to "Phía đông có động!", Vương cả kinh, nai nịt dẫn quân kéo ra, Thân nhân dịp lủi ra phía sau rồi quay trở vào. Thấy có hai tên giặc canh giữ trong trướng, bèn lừa nói "Vương tướng quân quên thanh bội đao” hai tên tranh nhau tìm, Thân từ phía sau chém một tên ngã xuống, tên kia vừa ngoảnh nhìn, Thân cũng chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường ra, mở ngựa đưa dây cương dặn "Nương tử không biết đường, cứ để ngựa đi là được". Ngựa nhớ con phóng mau trở về, Thân theo sau, ra khỏi một cửa núi hẹp châm lửa vào dây thừng treo khắp nơi rồi chạy về.

Hôm sau Thôi về, cho là điều đại sỉ nhục, tức giận lồng lên, muốn một mình một ngựa tới phá giặc. Thân khuyên đừng đi, họp người làng bàn tính. Mọi người đều khiếp sợ không dám lên tiếng, khuyên lơn giảng giải ba bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi, nhưng lại không có khí giới. Vừa gặp lúc bắt được hai tên gian tế trong nhà họ hàng của Vương, Thôi định giết nhưng Thân không cho, sai hai mươi người cầm gậy gộc dàn ra trước mặt, cắt tai hai tên rồi thả về. Mọi người tức giận nói "Có một nhúm quân thế này, đang sợ giặc nó biết, mà còn khoe cho hai thằng kia thấy, nếu chúng kéo rốc cả tới thì đóng cổng làng cũng không sao giữ được!". Thân đáp “Ta đang muốn chúng kéo tới mà”. Bèn bắt giết bọn chứa giặc trong nhà, sai người ra bốn phía tìm cung nỏ súng đạn, lại lên huyện mượn hai cỗ pháo lớn.

Chập tối dẫn những người khỏe mạnh tới cửa núi, đặt pháo nhắm thẳng vào, sai hai người cầm mồi lửa núp ở đấy, dặn thấy giặc là bắn ngay. Lại qua phía đông cửa núi, chặt cây đặt trên dốc, kế cùng Thôi chia nhau mỗi người suất lĩnh một toán hơn mười người mai phục hai bên. Gần hết canh một thì nghe xa xa có tiếng ngựa hí, lén lên nhìn quả thấy giặc ồ ạt kéo tới, quân mã nối nhau kéo dài không dứt. Chờ chúng lọt hết vào hẻm núi rồi bèn sai lăn cây xuống để chặn đường về. Giây lát pháo nổ ran, tiếng la thét kêu gào vang động khe núi. Giặc vội rút lui, giẫm đạp lên nhau mà chạy, tới cửa núi phía đông không thoát ra được, chen chúc không còn khoảnh đất nào hở. Súng đạn cung nỏ hai bên dốc núi giáp công, bắn xuống như mưa, bọn giặc đứa đứt đầu đứa gãy chân, nằm chất lên nhau ngổn ngang, chỉ còn hơn hai mươi tên quỳ xuống xin tha mạng, bèn sai người trói giải về.

Kế thừa thắng tiến thẳng tới sào huyệt giặc, bọn giữ trại nghe hơi chạy tan tác, bèn tìm kiếm chở hết lương thảo tài vật đem về. Thôi mừng lắm, hỏi về kế đốt lửa, Thân đáp "Đốt lửa ở phía đông vì sợ chúng đuổi theo về phía tây, dùng thừng ngắn cho mau cháy hết vì sợ chúng dò biết là không có ai, lại đốt ở cửa núi vì chỗ đó chật hẹp, một người cũng chặn giữ được, chúng đuổi tới thấy lửa ắt sợ, đều là hạ sách nhất thời mạo hiểm mà dùng thôi”, bắt bọn giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi tới cửa núi thấy có ánh lửa nên sợ hãi rút lui. Bèn xẻo tai cắt mũi hơn hai mươi tên giặc bị bắt rồi thả về từ đó uy danh của Thôi và Thân lừng lẫy, những người lánh nạn xa gần theo về như chợ, tổ chức được hơn ba trăm dân dũng, giặc cướp các nơi không đám nào dám tới cướp bóc, cả vùng nhờ thế được yên ổn.

Dị Sử thị nói:"Nghé mạnh ắt có thể phá xe"* là nói Thôi chăng! Quả là chí khí khảng khái không ai sánh được vậy. Nhưng muốn trong thiên hạ không còn chuyện bất bình, chẳng lẽ còn định hơn cả kẻ thông đạt ư? Lý Thân thì chỉ là một người dân nhỏ mọn mà lại tới được chỗ tốt đẹp trọn vẹn, vượt tường đột nhập, giết cầm thú tại phòng riêng, chặn đường giáp công, trừ giặc cướp trong núi thẳm, nếu trao cho lá đại kỳ năm trượng, vì quốc gia ra sức, chẳng lẽ lại không làm tới tước vương sao?

* Nghé mạnh... phá xe: Thạch Hổ là con vua nhà Hậu Triệu Thạch Lạc thời Tấn, lúc nhỏ khoẻ mạnh bắn giỏi nhưng tính hung dữ, mấy lần bắn chết người. Thạch Lạc tức giận toan giết, vào thưa với mẹ, mẹ nói "Trâu giỏi lúc còn là nghé thì hay phá xe, con cố nhịn một chút". Đây ý nói người làm nên nghiệp lớn thì lúc nhỏ đã có tính nết, tư chất khác người thường.



Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 215 - 216 -
Đảo An Kỳ
(An Kỳ Đảo)

Quan Tể tướng Lưu Hồng Huấn người huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) cùng viên tướng Mỗ đi sứ Triều Tiên. Nghe nói đảo An Kỳ là nơi thần tiên ở, muốn sai thuyền chở tới đó chơi, nhưng các quan nước ấy đều nói là không được, bảo đợi Tiểu Trương. Đại khái đảo An Kỳ không đi lại với thế gian, chỉ có đệ tử là Tiểu Trương mỗi năm tới đó một lần, ai muốn tới đảo trước hết phải nói rõ với ông ta, nếu ông ta chịu thì một chiếc bè cũng tới nơi, nếu ông ta không chịu ắt sẽ có gió bão đánh chìm thuyền. Qua hai ba hôm, quốc vương gọi Lưu vào bệ kiến, thấy một người đeo kiếm đội nón tre ngồi trên điện, tuổi khoảng ba mươi, tướng mạo thanh kỳ, hỏi ra thì chính là Tiểu Trương. Lưu nhân đó tỏ ý muốn tới đảo, Tiểu Trương ưng thuận, nhưng nói viên Phó sứ không đi được. Lại ra ngoài nhìn ngắm bọn tùy từng suốt một lượt, chỉ có hai người có thể đi cùng Lưu, bèn sai lấy thuyền đưa Lưu đi.

Đường biển không biết xa hay gần, chỉ thấy gió thổi ào ạt, thuyền như lướt mù rẽ mây mà đi. Lúc ấy đang giữa mùa đông, nhưng tới đảo thì thấy khí trời ấm áp, hoa nở đầy núi. Tiểu Trương đưa bọn Lưu vào động phủ, thấy có ba ông già ngồi xếp bằng, hai người hai bên thấy khách vào vẫn thản nhiên như không hay biết, chỉ có người ngồi giữa đứng dậy đón chào thi lễ. Kế mời ngồi gọi lấy trà thì có đứa tiểu đồng cầm cái mâm đi ra, trên khe đá nhỏ ngoài động có cái dùi sắt cắm lút vào đá, tiểu đồng nhổ lên thì nước vọt ra, lấy chén hứng đầy rồi lại nút kín lại. Kế bưng vào, thấy sắc màu xanh nhạt, uống thử thì lạnh tê răng. Lưu sợ lạnh không uống, ông già đưa mắt ra hiệu cho tiểu đồng, tiểu đồng cầm cái chén ra, uống hết nước trong chén rồi tới chỗ cũ nhổ cái dùi lên hứng đầy nước quay vào, thấy nước nóng bốc lên nghi ngút như vừa đun sôi xong, Lưu vô cùng lạ lùng. Hỏi về việc hay dở sắp tới, ông già cười đáp “Người ngoài cõi đời ngay cả năm tháng cũng còn không biết, làm sao biết được việc người?". Hỏi tới thuật trường sinh, ông già đáp "Đó không phải là việc mà người trong trường phú quý làm được đâu.

Lưu cáo từ, Tiểu Trương lại đưa về, tới nơi kể lại mọi chuyện, quốc vương Triều Tiên than rằng “Tiếc là ông chưa uống chén nước lạnh, đó là Tiên thiên ngọc dịch, uống một chén có thể sống thêm trăm tuổi". Khi Lưu về nước, vương tặng một vật gói vải kín mít, dặn còn gần biển thì đừng mở ra xem. Lưu vừa lên tới bờ vội mở ra xem, tháo hết mấy trăm lớp vải bọc mới thấy một tấm gương, cầm lên xem thì Long cung thủy tộc đều rõ ràng trước mắt. Đang còn chăm chú nhìn, chợt có ngọn sóng cao như lầu gác sầm sập đổ tới, cả sợ bỏ chạy, ngọn sóng ầm ầm đuổi theo mau như mưa tuôn gió cuốn, khiếp đảm ném tấm gương lại, ngọn sóng bèn rút ngay.

216. Tiết Ủy Nương
(Tiết Ủy Nương)

Phong Ngọc Quế là nho sĩ ở Liêu Thành, nghèo khổ không có cách mưu sinh. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) gặp năm mất mùa lớn, lẻ loi đi xa kiếm ăn. Hơn một năm định về, tới huyện Nghi (tỉnh Sơn Đông) thì mắc bệnh, cố sức đi mau được vài dặm, tới một đám mộ hoang phía nam thành thì quá mệt nên nằm xuống cạnh một ngôi mộ. Giây lát mê đi như nằm mơ, thấy tới một nhà nọ, có ông già trong cổng bước ra mời vào, nhà có hai gian đều xoàng xĩnh, trong phòng có một cô gái tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo xinh đẹp ông già sai sắc thuốc, rót vào chén bằng đất đưa lên cho khách rồi hỏi quê quán tuổi tác, sinh đáp xong bèn nói "Ta là Lý Hồng Đô người huyện Bình Dương (tỉnh Sơn Tây) lưu ngụ ở đây đã ba mươi hai năm rồi. Xin ông nhớ kỹ nhà này, con cháu của ta nếu có tới hỏi xin làm phiền chỉ cho, lão phu không dám quên ơn. Nghĩa nữ đây tên Ủy Nương cũng không xấu xí lắm, xin gả cho bậc quân tử, hôm nào con thứ ba của ta tới sẽ đính ước".

Sinh mừng rỡ lạy nói "Thân trâu ngựa đã hai mươi hai tuổi vẫn chưa có vợ, được đội ơn cho làm thân thích thì may lắm, có điều không biết con cháu của cha chỗ nào để tìm tới?". Ông già đáp “Ông chỉ cần ở lại trong thôn này, chờ hơn một tháng sẽ có người tới, chỉ cần chúng cầu xin gì thì đừng từ chối thôi”. Sinh sợ là bất tín, đòi ông già phải cam kết, nói "Nói thật với cha, nhà ta chỉ có bốn bức vách, e ngày sau không làm được điều cha mong muốn, nửa chừng bỏ dở không làm được thì cũng không lấy được vợ, nên không dám không xin một lời hứa chắc chắn, chứ không ngại gì chuyện khác". Ông già cười nói "Ông muốn lão phu thề phải không? Ta vốn biết ông nghèo, nhờ việc này không phải để trói buộc ông đâu. Ủy Nương mồ côi không nơi nương tựa, ở với ta đã lâu, không nỡ để cho nó phải lưu lạc nên đem dâng cho bậc quân tử thôi, ông đừng nghi ngờ”. Kế cầm tay đưa sinh ra cửa, chắp tay chào rồi đóng cửa quay vào.

Sinh chợt tỉnh dậy, thấy mình đang nằm cạnh ngôi mộ mà trời đã gần trưa bèn gượng dậy lần vào thôn. Người trong thôn nhìn thấy đều hoảng sợ, nói đã chết cạnh đường hơn một ngày rồi, sinh mới sực hiểu ra rằng ông già tức là người chôn trong mộ, giữ kín không nói ra, chỉ xin họ cho ở trọ. Người trong thôn sợ sinh lại chết nên không ai dám cho ở, trong thôn có người Tú tài cùng họ với sinh nghe thấy tới hỏi gia thế, té ra là chú họ của sinh, mừng rỡ dắt về nhà lo cơm nước thuốc thang cho, vài hôm thì khỏi bệnh. Sinh thuật lại chuyện mình gặp, người chú cũng ngạc nhiên lạ lùng, bèn chờ xem ra sao.

Không bao lâu quả có vị quan nhân tới thôn hỏi thăm mộ cha chôn ở đâu, tự nói là Tiến sĩ Lý Thúc Hướng ở huyện Bình Dương. Trước đó Lý Hồng Đô đi buôn xa với người đồng hương là Giáp, chết ở đất Nghi, Giáp bèn chôn chỗ đám mộ hoang, vừa về tới nhà thì cũng chết. Lúc ấy ba con của Hồng Đô đều còn nhỏ, con lớn là Bá Nhân, sau thi đậu Tiến sĩ, làm Tri huyện Hoài Nam, mấy lần sai người tìm hỏi mộ cha nhưng không ai biết. Con kế là Trọng Đạo, sau thi đỗ Cử nhân. Thúc Hướng là con út cũng thi đỗ Tiến sĩ, lúc ấy đích thân đi tìm mộ cha, tới đất Nghi hỏi thăm khắp cả. Hôm ấy hỏi người trong thôn mà không ai biết, sinh bèn đưa tới chỗ ngôi mộ chỉ cho.

Thúc Hướng thấy sinh trẻ tuổi chưa dám tin hẳn, sinh bèn thuật lại chuyện mình đã gặp, Thúc Hướng lấy làm lạ, nhìn kỹ thì có hai ngôi mộ liền nhau, có người nói ba năm trước có vị quan chôn người thiếp ở đó. Thúc Hướng sợ đào nhầm mộ, sinh bèn chỉ chỗ mình đã nằm. Thúc Hướng liền sai đem quan tài tới để bên cạnh rồi mới cho đào, đào lên thì thấy xác một cô gái, quần áo đã mủn nát nhưng mặt mũi vẫn tươi tắn như còn sống. Thúc Hương thấy lầm, sợ quá không biết làm sao nhưng cô gái đã ngồi dậy nhìn quanh nói “Tam ca tới rồi”. Thúc Hướng ngạc nhiên tới gần hỏi han thì là Ủy Nương, liền cho nàng thay áo đổi giày đưa về nhà trọ, rồi vội đào ngôi mộ bên cạnh, mong cha cũng sống lại, nhưng đào lên thấy da thịt còn nguyên mà vỗ gọi vẫn cứng đờ, thương xót vô cùng, bèn mặc áo mới cho vào quan tài, cúng tế bảy hôm, cô gái cũng chít khăn để tang như con gái ruột.

Chợt nói với Thúc Hướng rằng "Trước cha có hai nén vàng, từng chia cho em một nén làm của hồi môn nhưng vì em yếu ớt không có chỗ cất giấu nên cha lấy vải màu buộc chặt trong lưng chưa từng rời ra, anh có nhặt được không?". Thúc Hướng không biết, bảo sinh quay lại chỗ ngôi mộ, quả nhiên tìm thấy đúng như lời cô gái nói. Thúc Hướng vẫn theo lời cha, chia tặng Ủy Nương một nén rồi hỏi han gia thế của nàng. Trước đây cha cô gái là Tiết Dần Hầu không có con trai, chỉ sinh được Ủy Nương nên rất thương yêu. Một hôm cô gái từ nhà cậu ở Kim Lăng về, cùng bà vú tới bến dò hỏi thuê thuyền, thì nhà thuyền là một người làm mai ở Kim Lăng.

Lúc ấy có vị quan hết hạn về kinh muốn tìm một người thiếp trẻ nhưng y giới thiệu mấy đám đều không vừa ý, nên định đi thuyền tới Quảng Lăng (huyện Giang Đô). Chợt gặp cô gái y nghĩ ra kế lừa gạt, vội gọi thuyền kia tới bên cạnh. Bà vú vốn quen y bèn đi cùng đường, giữa đường y bày tiệc bỏ thuốc độc vào thức ăn, cô gái và bà vú đều mê man, y bèn xô bà vú xuống sông, chở cô gái trở về bán cho vị quan nọ. Tới nơi, vợ cả hay được vô cùng tức giận, cô gái cũng ngơ ngác không biết làm lễ ra mắt, vợ cả đánh đập nhốt lại. Lên bờ đi được ba ngày cô gái mới tỉnh hẳn, đám tỳ nữ kể lại đầu đuôi, nàng òa lên khóc. Một đêm ngủ lại đất Nghi, nàng tự thắt cổ chết, họ bèn chôn ở đám mộ hoang. Cô gái tới bị đám ma ở đó trêu ghẹo ức hiếp, ông Lý ra quát đuổi chúng đi, nàng bèn nhận ông làm cha. Ông nói “Số con chưa phải chết, ta sẽ chọn cho một người chồng vừa ý".

Hôm sinh đã trở ra ông quay vào nói với nàng rằng “Người này nhân phẩm có thể nương dựa, chờ tam ca của con tới làm chủ hôn cho". Một hôm lại nói “Con có thể về, tam ca con sắp tới rồi”, đó là hôm quật mộ vậy. Cô gái thuật lại hết cho Thúc Hướng nghe, Thúc Hướng than thở hồi lâu rồi lập tức nhận nàng làm em gái, đổi theo họ Lý, mua sắm quần áo cho nàng rồi gả cho sinh, nói "Trên đường không có nhiều tiền bạc, không thể mua sắm đầy đủ cho em, muốn tất cả cùng về cho mẹ vui, em nghĩ sao?” Cô gái cũng vui vẻ, rồi đó vợ chồng theo Thúc Hướng đưa linh cửu về. Tới nhà, bà mẹ hỏi biết đầu đuôi, thương yêu Ủy Nương còn hon con ruột, cho ở một căn nhà riêng.

Lúc chôn cất, cô gái khóc thương còn hơn cả con cháu trong nhà, mẹ càng thương yêu, không cho về Sơn Đông, bảo các con trai mua nhà cho nàng. Vừa gặp lúc có họ Phùng bán nhà, ra giá sáu trăm đồng vàng, lúc gấp gáp chưa lo được đủ tiền bèn làm giấy tờ hẹn ngày trả đủ. Đến ngày hẹn, Phùng tới sớm, vừa gặp lúc cô gái cũng từ nhà riêng qua hầu mẹ, bất ngờ gặp nhau, thấy rất giống người nhà thuyền năm trước, Phùng cũng như e sợ cô gái, vội vã đi ra. Hai anh vì thấy mẹ khó ở cũng tới thăm hỏi, cô gái hỏi người thong thả đi trước phòng khách là ai, Trọng Đạo nói "Suýt nữa thì quên, đó ắt là kẻ bán nhà hôm trước”. Rồi lập tức đứng dậy bước ra, cô gái giữ lại nói rõ điều mình nghi ngờ, bảo anh căn vặn thử xem, Trọng Đạo gật đầu bước ra thì Phùng đã đi mất, chỉ còn ông thầy dạy học ở ngõ nam là Tiết tiên sinh ở đó. Nhân hỏi sao lại tới đây, Tiết đáp "Tối qua họ Phùng nhờ ta tới sớm làm chứng ký tên vào giấy bán nhà, vừa rồi gặp nhau trên đường, y nói là quên một việc ở nhà phải về rồi sẽ quay lại ngay, bảo ta cứ ngồi ở đây đợi". Giây lát sinh và Thúc Hướng cùng tới, cùng nhau trò chuyện. Ủy Nương vì việc gặp Phùng cũng núp sau bình phong nhìn trộm khách, nhìn kỹ thì té ra là cha mình bèn chạy ngay ra ôm cha khóc lớn.

Tiết kinh ngạc rơi lệ nói "Con ta sao lại tới đây mọi người mới biết Tiết là Dần Hầu. Trọng Đạo tuy có gặp mấy lần trên đường nhưng cũng chưa từng hỏi tên ông ta, đến lúc ấy rất mừng bèn kể lại chuyện trước, mở tiệc ăn mừng rồi giữ ở lại đó. Tiết kể lại chuyện mình, đại khái sau khi con gái thất tung thì vợ buồn rầu mà chết, ông ta góa vợ không còn ai để nhờ vả nên du học tới đây. Sinh hẹn mua nhà xong sẽ đón ông về ở cùng. Hôm sau đi dò xem thì Phùng đã dắt gia đình trốn mất, mới biết kẻ giết bà vú bán Ủy Nương là y. Lúc đầu Phùng tới Bình Dương buôn bán trở nên giàu có, năm ấy cờ bạc nên dần dần sa sút mới bán nhà, số tiền bán Ủy Nương kể như mất trắng. Ủy Nương được nhà ở cũng không căm hờn gì lắm, chỉ chọn ngày tới ở chứ không sai người tìm bắt y. Mẹ Lý liên tiếp sai mang đồ đạc qua cho, tất cả những thứ vật dụng thường ngày đều chu cấp đủ, sinh bèn ở lại luôn Bình Dương, chỉ về quê dự thi, lấy làm khổ cực nhưng may mắn thi đỗ Cử nhân khoa ấy.

Ủy Nương giàu có, thường nghĩ tới bà vú chết vì mình, vẫn nghĩ cách đền ơn cho con bà ta. Chồng bà vú họ Ân, có một con trai tên Phú, ưa cờ bạc, nghèo không có miếng đất cắm dùi. Một hôm Phú đánh bạc cãi nhau, lỡ tay giết người, chạy trốn tới Bình Dương, tuy không quen sinh nhưng biết Ủy Nương nên tới xin giúp đỡ. Sinh mừng rỡ giữ lại hỏi han cặn kẽ, Phú nói tên họ người bị mình giết, té ra là Phùng Mỗ. Sinh kinh sợ than thở hồi lâu rồi nói rõ, Phú mới biết Phùng là người giết mẹ mình, càng thêm vui mừng, bèn ở lại làm thuê hầu hạ cho nhà sinh, cũng ở gần đó. Tiết Dần Hầu tới ở nhà con rể, con rể cưới vợ cho, sinh được một trai một gái.
 
Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 217 -
Điền Tử Thành
(Điền Tử Thành)

Điền Tử Thành ở huyện Giang Ninh (tỉnh Giang Tô) qua hồ Động Đình, bị đắm thuyền chết. Con là Tiến sĩ Lương Tự cuối thời Minh, lúc ấy còn ẳm ngữa, vợ là Đỗ thị nghe tin uống thuốc độc tự tử. Lương Tự được bà nội thứ nuôi nấng nên người. Sau đi làm quan ở Hồ Bắc, hơn một năm vâng lệnh quan trên đi công vụ tới Hồ Nam. Lương Tự tới hồ Động Đình thì khóc lớn quay về, tự trình là không đủ tài năng, bị giáng làm Huyện thừa huyện Hán Dương, rất không vui bèn chối từ không nhận chức. Các quan trên bắt ép thôi thúc mãi mới chịu đi, nhưng cứ rong chơi trong chốn sông hồ, không vì đang làm quan mà giữ gìn câu nệ. Một đêm ghé thuyền bên bờ sông, nghe thấy tiếng tiêu dìu dặt rất hay, bèn nhân có trăng lên bộ đi khoảng nửa dặm thì thấy giữa bãi đất trống có vài gian nhà tranh lập lòe ánh đèn.

Tới gần nhìn vào cửa sổ thấy ba người đang uống rượu bên trong, ghế trên là một người Tú tài tuổi khoảng ba mươi, ghế dưới là một ông già, ghế bên cạnh chính là người thổi tiêu, trẻ tuổi nhất. Dứt khúc tiêu, ông già vỗ tay khen hay, người Tú tài thì nhìn vào vách trầm tư tựa hồ không hề nghe thấy. Ông già nói "Lô Thập huynh ắt đã có thơ hay, xin ngâm lớn lên cho ta được nghe với", người Tú tài bèn ngâm:

Mãn giang phong nguyệt lãnh thê thê,
Sấu thảo linh hoa hóa tác nê.
Thiên lý vân sơn phi bất đáo,
Mông hồn dạ dạ Trúc Kiều tê (tây)

(Trăng gió đầy sông lạnh tịch liêu
Hoa rơi cỏ úa cảnh tiêu điều
Quê nhà ngàn dặm bay không tới
Hồn mộng đêm đêm cạnh Trúc Kiều)

Tiếng ngâm rất ai oán, ông già cười nói "Lô Thập huynh cứ làm ra vẻ buồn rầu” rồi lấy chén lớn rót rượu, nói "Lão phu không thể họa thơ, xin hát để đưa cay vậy”. Liền hát bài “Rượu ngon Lan Đình..."*, hát xong mọi người đều vui vẻ. Thiếu niên đứng lên nói "Ta ra xem trăng lặn tới đâu rồi”, rồi sấn sổ bước ra, nhìn thấy khách vỗ tay nói "Ngoài này có người, bọn ta ngông cuồng bị bắt gặp rồi”. Liền kéo khách vào, Lương Tự chào hỏi mọi người xong, ông già bảo ngồi đối diện với thiếu niên. Lương Tự nâng chén rượu nhắp thử thấy lạnh ngắt, từ chối không uống. Thiếu niên biết ý lập tức đứng dậy, vơ cỏ rơm hâm nóng bưng lên, Lương Tự cũng sai người hầu lấy tiền đi mua rượu nhưng họ cố ngăn lại.

*Rượu ngon Lan Đình..": nguyên văn là "Lan Đình mỹ tửu” tức "Lan Đình mỹ tửu uất kim hương", câu trong bài Khách trung hành của Lý Bạch thời Đường.

Nhân hỏi tên họ quê quán, Lương Tự nói hết về mình, ông già kính cẩn nói “Đó là quê cha mẹ ta, ta họ Giang tên Thiếu Quân, sinh trưởng ở đây", kế chỉ thiếu niên nói “Đây là Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây". Lại chỉ người Tú tài nói "Lô Thập huynh đây là đồng hương với ông”. Lô nhìn Lương Tự có vẻ ngạo nghễ vô lễ, Lương Tự nhân hỏi "Nhà ông ở làng nào, thi tài như thế mà sao ta không được nghe ai nói?”. Tú tài đáp "Xa nhà đã lâu, họ hàng cũng không ai biết, nghĩ thật đáng buồn, không muốn nói ra”. Ông già xua tay rối lên nói "Gặp được khách quý, không có tửu lệnh thì cứ ăn nói lằng nhằng như thế, nghe chán lắm". Rồi nâng chén uống một mình, kế nói "Ta có một cái lệnh xin mọi người cùng làm theo, ai không làm được sẽ bị phạt. Cứ gieo ba hột xúc xắc, lấy chữ "Tương phùng" làm lệnh, lại phải có một khúc hát cổ phù hợp".
Rồi gieo được ba mặt nhất nhị tam, bèn đọc "Tam thêm nhị nhất cũng tương đồng. Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công* mừng bè bạn tương phùng". Kế tới thiếu niên gieo được hai mặt nhị một mặt tứ, nói "Người không đọc sách thì chỉ hát khúc dân dã, xin chớ cười. Tứ thêm hai nhị cũng tương đồng, Bốn người gặp gỡ ở thành đông**, mừng huynh đệ tương phùng”. Lô gieo được hai mặt nhất một mặt nhị, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Lữ Hướng hai tay ôm lão ông***, mừng phụ tử tương phùng". Lương Tự gieo cũng được như Lô, đọc "Nhị thêm hai nhất cũng tương đồng, Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông (4*) mừng chủ khách tương phùng”.

*Xôi nếp ba năm hẹn Phạm công: lấy tích Trương Thiệu thời Hán vào nhà Thái học, chơi thân với Phạm Thúc. Khi về, Thúc hẹn ba năm sẽ tới làm lễ ra mắt mẹ Thiệu. Gần đến ngày hẹn, Thiệu thưa với mẹ xin giết gà đồ xôi để đợi, mẹ nói “Xa cách ba năm, hẹn nhau ngàn dặm, sao con tin quá thế!”. Đến ngày hẹn quả nhiên Thúc tới. Đây ông già có ý nói Lương Tự là bạn quý của mình.

** Bốn người gặp gỡ ở thành đông: lấy tích ba anh em kết nghĩa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi thời Hán thua trận lạc nhau mỗi người một nơi, sau Quan Vũ biết anh còn sống bèn từ giã Tào Tháo di tìm anh, cuối cùng ba người gặp nhau ở Cổ Thành, lại được thêm Triệu Vân. Đây thiếu niên có ý nói Lương Tự là anh em với mình.

*** Lữ Hướng hai tay ôm lão ông: lấy tích Lữ Hướng thời Tấn có cha đi xa mấy năm không về, sau nghe đồn cha còn sống nhưng Hướng đi tìm kiếm khắp nơi suốt mấy năm không gặp. Sau Hướng thi đỗ làm quan, một hôm từ triều ra gặp một ông già, nhìn kỹ thì đúng là cha mình, vội xuống ngựu ôm chân cha khóc ròng rồi đón về nhà. Đây Lô có ý nói Lương Tự là con mình.

4* Mao Dung hai chén đãi Lâm Tông: lấy tích Mao Dung thời Hán chơi với Quách Thái tự Lâm Tông, Thái tới nhà Dung chơi ngủ lại, sáng ra thấy Tông giết gà làm cơm, nghĩ rằng là để đãi mình, kế Dung bưng thịt gà lên mời mẹ, còn mình dọn rau ăn chung với Thái, Thái phục là hiền. Đây Lương Tự có ý nói tuy mình với ba người kia là bạn, nhưng còn có phận sự của kẻ làm con nên phải ra về.

Xong lệnh Lương Tự cáo từ ra về, Lô mới đứng lên nói "Là người quê cũ, chưa kịp trò chuyện gì nhiều, sao từ biệt sớm thế. Ta còn có chuyện muốn hỏi, xin nán lại thêm một lúc". Lương Tự bèn ngồi xuống, hỏi chuyện gì, Lô đáp "Ta có người bạn già chết đuối ở hồ Động Đình, có họ hàng gì với ông không?", Lương Tự đáp “Đó là cha ta, sao ông biết được?". Lô đáp “Lúc trẻ chơi thân với nhau, lúc ông ấy chết chỉ có ta nhìn thấy nên đã thu hài cốt chôn ở bờ sông". Lương Tự rơi lệ quỳ lạy xin chỉ mộ ở đâu, Lô nói “Sáng mai tới đây ta sẽ chỉ cho, cũng dễ nhận thôi, cứ ra cách đây mấy quãng, cứ thấy trên mộ có khóm lau rậm gồm mười cây là đúng". Lươug Tự khóc ròng cáo từ mọi người, về tới thuyền cả đêm không ngủ được. Lại sực nhớ tới lời lẽ thái độ của Lô như đều có duyên do, sốt ruột không chờ được, mờ sáng trở lại chỗ đó thì không thấy nhà cửa gì cả, vô cùng khiếp sợ.

Kế ra chỗ Lô nói tìm quả nhiên thấy một ngôi mộ trên có khóm lau rậm, đếm thì đúng có mười cây, sực hiểu rằng cái tên Lô Thập huynh là có ngụ ý, người mình gặp chính là hồn cha. Hỏi kỹ dân ở đó thì hai mươi năm trước vùng này có ông họ Cao giàu có hay làm điều lành, ai chết đuối đều tìm vớt thây chôn cất cho, nên có mấy ngôi mộ ở đây. Bèn quật mộ thu lượm hài cốt trở lại thuyền, về nói với bà nội, hỏi lại nét mặt tướng mạo thì đều đúng. Đỗ Dã Hầu ở Giang Tây chính là anh con cô con cậu với Lương Tự, năm mười chín tuổi chết đuối trên sông, sau đó người cha tới lưu ngụ ở Giang Tây. Lại chợt nghĩ ra rằng sau khi Đỗ phu nhân chết thì chôn ở phía tây Trúc Kiều, nên trong bài thơ của cha mới có câu cuối như vậy, chỉ không rõ ông già kia là ai mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 218 -
Vương Quế Am
(Vương Quế Am)

Vương Cao tự Quế Am là con nhà thế gia ở phủ Đại Danh (tỉnh Hà Bắc), đi chơi xuống miền nam, ghé thuyền vào bờ sông. Trong thuyền bên cạnh có cô gái ngồi thêu giày, xinh đẹp tuyệt trần. Vương nhìn chằm chằm hồi lâu mà nàng như vẫn không hay biết. Vương ngâm nga "Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa"* cố ý để nàng nghe, cô gái như hiểu là vì mình, khẽ ngẩng đầu liếc qua rồi cúi xuống thêu như cũ. Vương tâm thần càng điên đảo, lấy một thoi vàng từ xa thảy tới trúng vạt áo cô gái, nàng cầm lên ném đi như không biết đó là vàng. Thoi vàng rơi lên bờ, Vương nhặt về rồi lại thảy một cái vòng vàng rơi xuống dưới chân cô gái, nàng vẫn tiếp tục thêu không nhìn tới. Không bao lâu người nhà thuyền trở về, Vương sợ ông ta nhìn thấy cái vòng cân vặn con gái, vô cùng nóng ruột, nhưng cô gái ung dung nhấc đôi hài giẫm lên che đi. Người nhà thuyền cởi dây thuận dòng chèo đi, Vương tâm tình chán nản ngồi ngẩn ra nghĩ vẩn vơ. Lúc ấy Vương vừa cưới vợ thì vợ chết nên hối hận vì không lập tức nghĩ tới việc nhờ người mai mối. Bèn hỏi thăm các thuyền chung quanh nhưng họ đều không biết họ tên cô gái, liền cho quay thuyền đuổi gấp theo, nhìn ngó mỏi mắt mà thuyền kia mất hút không biết đi về đâu. Vương bất đắc dĩ phải cho quay thuyền xuôi nam, việc xong trở ra bắc, dọc đường hỏi thăm hai bên bờ rất kỹ nhưng không hề có tin tức gì, về tới nhà rồi lúc ăn lúc ngủ đều tơ tưởng tới nàng.

*Cô gái Lạc Dương nhà trước cửa: nguyên văn là “Lạc Dương nữ nhi đối môn cư” câu trong bài Lạc Dương nữ nhi hành của Vương Duy thời Đường.

Qua năm sau Vương lại đi xuống phía nam, mua một chiếc thuyền ở hẳn trên đó, ngày ngày nhìn ngó những thuyền bè qua lại, thuộc cả cánh buồm bánh lái nhưng chiếc thuyền năm xưa vẫn bặt tăm. Được nửa năm hết tiền đành quay về, ra tưởng vào nhớ không buồn làm việc gì cả. Một đêm nằm mơ thấy tới một làng ven sông, đi qua mấy ngõ thấy một căn nhà cánh cổng bằng tre quay về hướng nam, phía trong có giậu trúc thưa, cho là vườn hóng mát liền lần vào. Thấy có một gốc dạ hợp đầy dây tơ hồng phủ kín, nghĩ thầm thật đúng với câu thơ "Mã anh trước cổng gốc đầy hoa”*. Đi thêm vài chặng, thấy giậu tường vi tươi tốt lại lần vào, thấy phía bắc có căn nhà ba gian, hai cánh cửa khép kín, phía nam có gian nhà nhỏ, lá chuối che khuất cửa sổ, thò đầu vào nhìn thấy ngay cửa có cái giá áo trên treo chiếc quần hoa, biết là phòng đàn bà con gái vội vàng lui ra. Nhưng bên trong đã biết, có một người chạy ra nhìn khách, môi son má phấn, chính là cô gái trong thuyền năm xưa.

*Mã anh trước cổng gốc đầy hoa: nguyên văn là “Môn tiền nhất thụ mã anh hoa", câu trong bài Bàn Đường giang thượng thị nùng gia của Thủy Tiên Thần thời Thanh.

Vương quá mừng rỡ bật kêu lên "Cũng còn có lúc gặp nhau sao?”, đang định bước tới ôm lấy thì cha nàng vừa về tới, giật mình tỉnh dậy mới biết là nằm mơ. Nhưng vẫn nhớ rõ ràng cảnh vật đã thấy, giữ kín sợ nói ra cho người khác biết thì hỏng mất giấc mộng đẹp. Hơn năm sau Vương lại tới Trấn Giang, phía nam quận có quan Thái bộc họ Từ vốn là thế giao mời Vương tới uống rượu. Vương phóng ngựa đi, lạc vào một thôn nhỏ, thấy đường sá cảnh vật quen quen như từng tới rồi, trong một cánh cổng cũng có một gốc mã anh sờ sờ, phát hoảng vứt roi xuống ngựa lần vào thì cảnh sắc chung quanh không khác gì trong giấc mơ năm trước. Lại đi vào nữa thì nhà cửa phòng ốc cũng giống hệt, biết giấc mơ đã nghiệm bèn không nghĩ ngợi gì nữa, đi thẳng vào gian nhà phía nam. Cô gái trong thuyền năm xưa quả đang ở đó, vừa nhìn thấy Vương từ xa đã giật mình đứng lên núp sau cánh cửa quát hỏi là đàn ông ở đâu? Vương rụt rè bước tới, vẫn còn ngờ là đang nằm mơ, cô gái nghe tiếng bước chân tới gần liền đóng sầm cửa lại. Vương nói “Nàng không nhớ người ném cái vòng sao?”, rồi kể lể nỗi khổ nhớ nhung, thuật lại cả giấc mơ. Cô gái bên trong cánh cửa hỏi vọng ra về gia thế, Vương nói rõ hết. Cô gái nói "Đã là dòng dõi nhà quan thì thiếu gì giai nhân, cần gì tới thiếp?” Vương đáp "Nếu không vì nàng thì ta đã cưới vợ lâu rồi". Cô gái nói “Nếu đúng như thế thì đủ biết lòng chàng rồi. Nông nỗi này thiếp không thể thưa với cha mẹ, nhưng thật ra cũng đã cãi lời mà chối từ mấy người tới dạm hỏi rồi. Cái vòng vàng vẫn còn đây, vẫn nghĩ nếu là người chung tình ắt sẽ tìm hỏi cho ra tin tức. Hiện nay cha mẹ qua thăm bên ngoại cũng sắp về, chàng cứ về nhờ mai mối tới hỏi, chắc chắn là được. Còn nếu muốn nên đôi lứa trái lễ thì tính sai rồi đấy".

Vương thảng thốt quay ra, cô gái gọi với theo nói "Vương lang, thiếp tên Vân Nương, họ Mạnh, cha thiếp tự là Giang Ly". Vương ghi nhớ rồi đi. Xong tiệc ở nhà Thái bộc, Vương vội quay về xin gặp ông Giang Ly, ông đón vào mời ngồi bên giậu trúc. Vương kể gia thế, kế ngỏ ý rồi đưa ngay ra trăm lượng vàng nộp sính lễ. Ông nói "Con ta đã hứa gả rồi”. Vương nói "Ta đã hỏi đích xác là chưa nhận lời ai, sao ông cự tuyệt thẳng thừng như vậy?”. Ông đáp "Vừa nhận lời xong, thật không dám nói dối”. Vương bàng hoàng thẫn thờ chào về, không biết có đúng thế không, đêm ấy cứ trằn trọc, tiếc là không có ai làm mai mối cho. Trước đã định nhờ Thái bộc, nhưng sợ cưới con nhà thuyền bị ông cười, nay việc đã gấp không biết nhờ ai, sáng ra đành tới gặp Thái bộc thưa thật lại chuyện. Thái bộc nói “Ông ấy có họ hàng với ta, là cháu đích tôn của bà ngoại ta, sao không nói sớm?". Lúc ấy Vương mới kể rõ ẩn tình, Thái bộc ngờ vực nói "Giang Ly tuy nghèo nhưng không làm nghề chèo thuyền để sống, có lầm không đấy?”. Bèn sai con trai là Đại lang tới nhà ông Mạnh, ông Mạnh nói “Ta tuy nghèo nhưng không phải là kẻ bán con gái. Mới rồi công tử đem vàng tới tự làm mối, có lẽ cho rằng ta thấy lợi sẽ động lòng, nên ta không dám hứa gả. Nay đã có lệnh của tiên sinh, ắt không có chuyện sai quấy ngang trái, nhưng con bé bướng bỉnh nhà ta cậy được nuông chiều, từ chối nhiều nhà giàu sang rồi, phải bàn lại với nó để về sau nó khỏi oán là phải lấy chồng xa". Rồi đứng dậy vào nhà trong, giây lát trở ra chắp tay xin nhận lời, hẹn ngày cưới rồi chia tay.

Đại lang về báo lại, Vương bèn sửa soạn đồ lễ rất hậu đưa tới nhà Mạnh nộp sính lễ, mượn nhà Thái bộc đón dâu làm lễ cưới. Được ba ngày Vương từ biệt nhạc gia về bắc, đêm ngủ trong thuyền hỏi Vân Nương rằng “Trước đây gặp nàng ở chỗ ấy, ta đã ngờ không phải là con nhà thuyền, hôm ấy nàng ngồi thuyền đi đâu?". Vân Nương đáp "Nhà chú thiếp ở bờ bắc sông, hôm ấy thiếp chỉ tình cờ mượn thuyền đi ngắm cảnh thôi. Nhà thiếp chỉ tạm đủ ăn nhưng không coi trọng loại tiền bạc đột nhiên mà có, thật đáng cười chàng hai mắt chỉ nhỏ bằng hạt đậu, mấy lần đem vàng ra mong làm người ta xiêu lòng. Khi vừa nghe tiếng ngâm thơ đã biết chàng là bậc văn sĩ phong nhã nhưng cũng còn ngờ là kẻ phóng đãng đi tìm loại đàn bà hư hỏng. Nếu để cho cha thấy cái vòng ấy thì chàng cứ gọi là chết không có đất chôn, lòng thiếp mến tài như thế tha thiết đấy chứ”.

Vương cười nói “Nàng sâu sắc lắm, nhưng cũng mắc kế của ta rồi". Vân Nương hỏi là chuyện gì, Vương không đáp, nàng hỏi gặng mãi mới nói "Sắp tới nhà rồi, chuyện này không thể giấu được mãi nên nói thật với nàng ta đã có vợ ở nhà, là con gái Thượng thư họ Ngô”. Vân Nương không tin, Vương làm ra vẻ nghiêm trang như thật, nàng biến sắc im lặng hồi lâu rồi chợt vùng dậy lao ra ngoài. Vương lật đật đuổi theo ra thì nàng đã gieo mình xuống sông rồi. Vương la lớn, thuyền bè quanh đó náo động nhưng đêm tối mịt mùng, trên mặt sông chỉ còn toàn là bóng sao lung linh. Vương đau xót khóc lóc suốt đêm, thả thuyền theo ven sông trả tiền thật hậu thuê người tìm kiếm thi hài nhưng không thấy đâu, rầu rĩ về nhà, vừa đau thương vừa buồn tủi. Lại lo cha vợ tới thăm con gái thì không biết ăn nói ra sao, nhân có người anh rể làm quan ở Hà Nam bèn sai đánh xe tới chơi, hơn một năm mới về.

Giữa đường gặp mưa, trú lại trong một nhà dân, thấy phòng xá sạch sẽ, có bà già đang chơi với một đứa nhỏ trong phòng. Đứa nhỏ thấy Vương vào lập tức giơ tay đòi bế, Vương lấy làm lạ nhưng thấy kháu khỉnh dễ thương bèn đặt nó lên đầu gối, bà già gọi mà nó không chịu rời ra. Lát sau tạnh mưa, Vương nhấc đứa nhỏ lên đưa cho bà già, bước ra chuẩn bị lên đường, đứa nhỏ khóc kêu "Cha đi mất rồi!". Bà già ngượng ngùng, quát mắng mà nó không chịu nín đành bế xốc đi chỗ khác. Vương đang ngồi chờ sửa soạn xe kiệu, chợt có một cô gái đẹp từ sau bình phong bế đứa nhỏ bước ra, chính là Vân Nương. Vương đang sửng sốt thì Vân Nương mắng “Gã bạc tình kia! Để lại một cục thịt này làm gì?". Lúc ấy Vương mới biết đó là con mình, trong lòng chua xót áy náy, chưa hỏi việc nàng vừa qua lưu lạc thế nào, cứ phân trần rằng trước đây chỉ là nói đùa, thề độc để bày tỏ, Vân Nương mới đổi tức giận thành buồn thương, nhìn nhau rơi nước mắt.

Trước là ông Mạc chủ nhà này sáu mươi tuổi mà không có con trai, đưa vợ tới chùa Quan âm cầu tự trở về, trên đường ghé vào bờ sông, vừa gặp lúc Vân Nương bị sóng cuốn chạm vào thuyền. Ông Mạc sai người vớt lên cứu chữa suốt đêm mới tỉnh lại. Hai ông bà thấy nàng xinh đẹp mừng lắm, coi như con ruột, đưa luôn về nhà. Được vài tháng định gả chồng cho nhưng nàng không chịu, qua mười tháng nàng sinh được một con trai đặt tên là Ký Sinh, lúc Vương vào nhà ấy trú mưa thì Ký Sinh mới được đầy năm. Vương lập tức cởi hành lý vào lạy ông bà Mạc, nhận nhau làm cha mẹ vợ và con rể. Ở lại vài ngày Vương mới đưa cả gia đình về, tới nhà thì ông Mạnh tới đợi đã hai tháng. Khi ông mới tới, thấy bọn tôi tớ trong nhà ấp úng sợ sệt rất lạ lùng ngờ vực, gặp con rồi mới vui vẻ khoan khoái, đến khi nghe kể lại mọi việc mới biết sở dĩ họ có vẻ khác lạ là vì như thế.


Phụ : Ký Sinh
(Ký Sinh - Phụ)

Ký sinh tự Vương Tôn là danh sĩ trong quận. Cha mẹ thấy lúc còn nằm tã mà biết nhận ra cha, cho rằng có trí tuệ trời cho nên rất yêu thương. Lớn lên càng tuấn tú, tám chín tuổi đã biết làm văn, mười bơn tuổi được vào học trường huyện, thường có ý tự mình chọn vợ. Cha là Quế Am có em gái tên Nhị Nương, gả cho Tú tài Trịnh Tử Kiều sinh được một gái là Khuê Tú, thông minh xinh đẹp không ai sánh kịp. Vương Tôn trông thấy thầm yêu, ngày càng thiết tha nhung nhớ, lâu ngày bỏ cả ăn uống, cha mẹ lo lắng gạn hỏi mãi mới chịu nói thật. Cha nhờ người mai mối qua gặp Trịnh, nhưng Trịnh tính mực thước khuôn phép, ngại là con cô con cậu ruột nên từ chối*. Nhưng Vương Tôn bệnh càng nặng thêm, mẹ không biết làm sao bèn ngầm ngỏ ý với Nhị Nương, chỉ xin cho Khuê Tú tới thăm một lần để con đỡ bệnh, Tnnh nghe thế càng tức giận, nói ra những lời không hay, cha mẹ đã tuyệt vọng nên chỉ đành chịu trận mà thôi.

*Ngại là... từ chối: tục Trung Hoa ngày xưa con cô con cậu có thể được cưới nhau vì khác họ, nhưng thường là đã qua một đời (con cô con cậu họ).

Trong quận có họ Trương là nhà vọng tộc, có năm con gái đều xinh đẹp, nàng nhỏ nhất tiểu đanh là Ngũ Khả đẹp nhất còn chưa gả chồng. Một hôm nàng đi tảo mộ giữa đường gặp Vương Tôn, ngồi trong kiệu nhìn ra, về kể cho mẹ. Mẹ dò biết ý tìm gặp bà mối họ Vu úp mở nói chuyện, bà mối bèn tới nhà Vương. Lúc ấy Vương Tôn đang bệnh, bà ta hỏi han biết chuyện bèn cười nói "Bệnh ấy thì già này chữa được". Vân Nương hỏi sao nói thế, bà ta kể ý họ Trương, lại tán tụng Ngũ Khả xinh đẹp. Vân Nương mừng rỡ, bảo bà ta qua thăm Vương Tôn. Bà ta vào vỗ về Vương Tôn kể lại, Vương Tôn lắc đầu nói “Thầy thuốc ấy không hợp với chứng bệnh này, làm sao được". Bà ta cười nói "Chỉ cần hỏi thầy thuốc giỏi hay không thôi, nếu là thầy giỏi thì dùng phương hòa hoãn cũng được, chứ cứ nhất định mời cho được thầy nào đó rồi thà chết để đợi thì há không phải là ngây sao?”. Vương Tôn thở dài nói “Nhưng thầy thuốc trên đời không ai kê được phương hòa hoãn cho ta đâu”. Bà ta nói "Sao mà kiến văn hẹp hòi thế”, rồi thì mắt mũi tóc da, thần thái dáng điệu của Ngữ Khả đều khoa tay múa chân tả lại. Vương Tôn lại lắc đầu nói "Thôi bà đừng nói nữa, người ấy thì ta không mong ước tới", rồi quay mặt vào vách không nghe nữa, bà ta thấy không lay chuyển được bèn bỏ về.

Một hôm Vương Tôn đang nằm thiêm thiếp chợt một tỳ nữ bước vào nói "Người công tử mơ ước tới đây này?", mừng quá nhảy chồm dậy, vội vàng bước ra khỏi phòng thì giai nhân đã vào tới trong sân nhưng nhìn kỹ lại thì không phải Khuê Tú. Thấy nàng mặc áo khoác màu vàng, quần thêu gấp nếp nhỏ, hé lộ hai mũi giày cong vút chẳng khác gì thần tiên. Vái chào hỏi tên họ, nàng đáp "Thiếp là Ngũ Khả. Chàng có tình sâu nặng mà chỉ hướng về một mình Khuê Tú khiến người khác bất bình". Vương Tôn tạ lỗi, nói “Bình sinh chưa thấy dung nhan nên trong mắt chỉ có một mình Khuê Tú, nay đã biết lỗi rồi”, rồi định cùng nhau thề thốt, vừa nắm tay đắm đuối thì mẹ vào vỗ về, sực tỉnh, thì ra là nằm mơ.

Nhớ lại nét mặt tiếng cười vẫn như rành rành trước mắt, thầm nghĩ nếu quả Ngũ Khả đúng như trong giấc mộng thì cần gì phải mong ước người khó gặp gỡ kia nữa. Nhân đó kể lại giấc mơ cho mẹ nghe, mẹ mừng thấy con đã hơi bỏ ý cũ vội định nhờ người làm mối. Vương Tôn sợ là nằm mơ thấy đẹp khác hơn người thật, bèn nhờ bà già láng giềng vốn quen họ Trương tìm cớ tới nhà, dặn ngầm nhìn mặt Ngũ Khả. Bà già tới thì Ngũ Khả đang ốm, tựa gối chống cằm, dáng vẻ yêu kiều không ai sánh kịp. Bà già tới gần hỏi thăm đau ốm thế nào, nàng chỉ im lặng mân mê thắt lưng không nói một tiếng, người mẹ đáp thay "Có bệnh gì đâu, suốt sáng giận hờn cha mẹ đấy". Bà già hỏi duyên cớ, người mẹ đáp "Ai tới dạm hỏi cũng không ưng, cứ đòi phải được như Ký Sinh nhà họ Vương mới chịu lấy, mẹ thấy nóng ruột khuyên nhủ thì hờn dỗi bỏ cơm mấy hôm nay".

Bà già cười nói "Cô nương đây mà lấy Vương lang thì đúng là người ngọc thành đôi, mà nếu Vương lang không gặp được Ngũ nương e cũng sẽ khô héo mà chết. Ta về rồi sẽ nhờ người mai mối tới ngay, có được không?". Ngũ Khả ngắt lời nói "Bà đừng làm thế, sợ không thành thì ta càng bị chê cười thêm". Bà già hăng hái tự nhận quyết sẽ làm cho việc phải thành, Ngũ Khả mới mỉm cười. Bà già về tả lại, nhất nhất đều như bà mối đã nói. Vương Tôn hỏi kỹ về y phục thì đều ăn khớp với giấc mơ, cả mừng, tâm tình thư thái dần nhưng rốt lại vẫn chưa dám tin chắc vào lời người khác nói. Vài hôm sau đỡ bệnh, ngầm gọi bà mối họ Vu tới bảo tìm cách cho mình được nhìn thấy Ngũ Khả một lần, bà ta thấy khó nhưng cũng vâng dạ rồi về. Lâu không thấy tới, đang định đi tìm thì bà ta chợt hớn hở tới nói “Có cơ hội rồi đây. Vài hôm nay Ngũ Khả khó ở, ngày nào cũng sai đám tớ gái dìu ra sân đi dạo, công tử cứ tới núp chờ. Ngũ nương đi rất chậm, có thể nhìn kỹ được".
Vương Tôn mừng rỡ theo lời, sáng hôm sau sai thắng ngựa đi sớm, tới nơi thì bà mối đã đứng chờ sẵn, bảo buộc ngựa vào gốc cây trong thôn rồi dẫn vào một nhà gần đường, thu xếp chỗ cho ngồi rình xong, đóng cửa bỏ đi. Giây lát quả nhiên Ngũ Khả dựa tỳ nữ bước ra, Vương Tôn từ trong khe cửa nhìn chằm chằm, cô gái đi ngang qua cửa, bà mối lại cố ý chỉ cho xem cảnh vật này nọ để giữ chân nàng. Vương Tôn nhìn lén thấy rõ cả, mường tượng như lại đang nằm mơ, mừng quá run lên không kìm được. Lát sau bà mối tới hỏi “Thấy Khuê Tú được chứ?”, Vương Tôn cảm tạ rồi về. Lúc ấy mới thưa với cha mẹ, nhờ mai mối qua dạm hỏi, nhưng qua tới thì Ngũ Khả đã hứa gả cho người khác rồi. Vương Tôn thất ý, rầu rĩ muốn chết, lập tức trở bệnh lại. Cha mẹ lo quá, trách con nông nổi.

Vương Tôn không đáp, mỗi ngày chỉ hớp một ngụm cháo, được vài tháng chỉ còn da bọc xương, so với trước kia càng nặng hơn. Bà mối chợt tới, kinh ngạc hỏi "Sao yếu đến thế?”. Vương Tôn sa lệ kể lại sự tình. Bà mai cười nói “Công tử đúng là ngây, hôm trước người ta theo thì nhất định chối từ, hôm nay muốn mong cầu người ta là được toại nguyện ngay sao? Nhưng cũng còn có thể cố sức làm được, chỉ cần bàn tính với già này sớm, thì cho dù đã hứa gả cho hoàng tử con vua ta cũng giành lại được mà!". Vương Tôn cả mừng hỏi cách, bà ta bảo viết thư sai người đưa đi, hẹn hôm sau sẽ tới chờ ở nhà họ Trương. Quế Am sợ đường đột sẽ bị cự tuyệt, bà ta nói "Hôm trước ông Trương đã nói ưng thuận rồi, vì dằng dai mấy hôm nên ông ta đổi ý, nhưng tuy hứa gả cho nhà khác vẫn chưa có thư làm bằng. Lời ngạn có câu Nấu trước được ăn sớm, còn ngần ngại gì nữa", Quế Am bèn nghe theo.
Hôm sau sai hai người gia nhân đưa thư qua không thấy nói gì khác, được thưởng hậu trở về. Vương Tôn mừng, lập tức khỏi bệnh, từ đó hết nhớ nhung Khuê Tú. Trước kia Trịnh Tử Kiều từ chối sính lễ, Khuê Tú đã bực tức, đến khi nghe việc cưới gả với họ Trương đã thành, lòng càng uất ức, thẫn thờ như bị bệnh, càng ngày càng võ vàng, cha mẹ hỏi thì không dám nói. Đứa tỳ nữ biết ý lén nói với bà mẹ, Trịnh biết chuyện tức giận, không mời thầy thuốc, định bỏ cho chết. Nhị Nương bực tức nói “Cháu trai ta cũng không có gì xấu, sao cứ khư khư giữ thói hủ nho mà giết chết con gái cưng của mình?". Trịnh giận dữ nói "Con gái của bà chết sớm càng tốt, khỏi bị chê cười", từ đó vợ chồng bất hòa. Nhị Nương cố nói với con gái rằng thế nào cũng gả nàng cho Vương Tôn, coi như vợ lẽ cũng được. Cô gái cúi đầu không đáp, như rất bằng lòng. Nhị Nương bàn với Trịnh, Trịnh nghe càng nổi nóng, mặc kệ cho Nhị Nương lo coi con gái như chết rồi, không cần biết tới nữa.
Nhị Nương rất thương con, nhất định làm như đã nói, cô gái vui mừng mới dần dần khỏi bệnh. Bèn ngầm hỏi dò ngày Vương Tôn đón dâu, tới hôm ấy lấy cớ sắp đám cưới cháu trai, giả về thăm nhà. Trời chưa sáng đã sai người qua nhà anh mượn xe kiệu, Quế Am rất yêu quý em gái, lại vì hai nhà cũng gần nên sai lấy xe ngựa chuẩn bị để rước dâu đi đón Nhị Nương trước. Xe kiệu tới nơi, Nhị Nương trang điểm cho con gái rồi bảo lên xe, sai hai người tớ trai và hai bà già đưa đi, tới nơi thì trải thảm lông từ cổng mà vào. Lúc ấy đàn sáo đã tề tựu đông đủ, người tớ trai cao giọng sai cử nhạc, mọi người huyên náo cả lên một lượt. Vương Tôn nhào ra xem thì cô gái đã lấy khăn hồng che kín mặt, khiếp sợ toan bỏ chạy thì hai người tớ trai nhà họ Trịnh xốc nách đỡ ra bảo làm lễ giao bái. Vương Tôn chẳng hiểu vì sao nhưng cũng lập tức vái lạy, kế hai bà già dìu cô gái đi thẳng vào phòng tân hôn, lúc ấy mới biết đó là Khuê Tú. Cả nhà phát hoảng không biết làm sao, trời đã xế chiều, Vương Tôn không dám làm lễ rước dâu nữa.

Quế Am sai đầy tớ qua kể sự tình với Trương, Trương nổi giận muốn tuyệt hôn luôn, Ngũ Khả không chịu, nói "Người kia tuy tới trước nhưng chưa có mai mối sính lễ, chi bằng cứ nhắn bên kia qua rước dâu” Cha cho là đúng, nói với người đầy tớ, người ấy về thưa lại nhưng Quế Am vẫn không dám theo lời, nhăn nhó nhìn nhau không biết nên mừng hay nên giận. Trương chờ đợi hồi lâu biết họ Vương không rước dâu, bèn cũng đem xe kiệu đưa Ngũ Khả tới. Vì vậy phải bày một phòng tân hôn khác, mà Vương Tôn ở giữa muốn chu toàn cứ qua lại cả hai nơi không biết ngủ đâu. Mẹ bèn đứng giữa điều đình, sai lấy tuổi lớn nhỏ mà sắp vai vế, hai nàng đều vâng lời. Đến khi Ngũ Khả nghe Khuê Tú hơi lớn hơn, phải gọi bằng chị thì tỏ vẻ khó chịu, mẹ rất lo lắng. Ba hôm sau cùng tới phòng mẹ, thấy Khuê Tú dung mạo đẹp đẽ, thái độ đường hoàng lấy làm kính trọng, từ đó vai vế mới định. Tuy nhiên cha mẹ vẫn lo lâu ngày sẽ không hòa thuận được với nhau, nhưng hai nàng không hề có điều tiếng gì, áo quần giày dép cũng dùng chung, yêu mến nhau như chị em ruột vậy.

Vương Tôn bấy giờ mới hỏi Ngũ Khả vì sao từ khước mai mối, nàng cười đáp "Chẳng vì sao cả, chỉ là để trả thù chàng cự tuyệt bà Vu thôi. Lúc chưa gặp thiếp, thì trong lòng chỉ biết có Khuê Tú, lúc thấy rồi thiếp cũng làm khó một chút xem ý chàng đối với thiếp và Khuê Tú hơn kém nhau thế nào. Nếu chàng bệnh vì người ta mà chẳng bệnh vì thiếp thì cũng không nên ép uổng phải sum họp”. Vương Tôn cười nói "Trả thù như thế cũng thảm độc đấy. Nhưng nếu không có bà Vu thì làm sao ta được thấy mặt hoa một lần". Ngũ Khả nói "Đó là tự thiếp muốn cho chàng thấy, chứ bà ta làm sao tính được. Lúc đi ngang căn nhà ấy thiếp há lại không biết người đang ở trong nhìn ra chằm chằm là ai sao? Từng hẹn nhau trong mộng rồi, thì còn gì mà chưa tin nữa chứ?". Vương Tôn kinh ngạc hỏi sao biết, nàng đáp "Lúc bệnh nằm mơ thấy tới nhà chàng, vẫn nghĩ là mộng mị quàng xiên, sau nghe nói chàng cũng nằm mơ, thiếp mới biết hồn phách có thể làm được như vậy, Vương Tôn lấy làm lạ, nàng bèn kể lại giấc mơ, ngày giờ đều đúng cả. Mối lương duyên của hai cha con đều nhờ chiêm bao mà thành, cũng là chuyện tình kỳ lạ nên chép lại cả hai.

Dị Sử thị nói:Cha ngây vì tình, còn con thì mấy lần suýt chết vì tình, chữ “Nặng tình" có lẽ là chỉ Vương Tôn chăng? Không có người cha khéo nằm mơ như thế thì làm sao sinh được đứa con xuất hồn trong giấc mơ.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 219 - 220 -
Chử Toại Lương
(Chử Toại Lương)

Huyện Trường Sơn (tỉnh Liêu Ninh) có người dân là Triệu Mỗ, thuê nhà của người hào phú, mắc bệnh có khối u không tiêu mà cô đơn, nghèo khổ không đủ ăn, dần dần bệnh càng nặng. Một hôm cố sức lết ra ngoài cho mát, nằm ngủ dưới thềm, khi tỉnh dậy thấy một mỹ nhân tuyệt thế ngồi bên cạnh bèn hỏi. Cô gái đáp "Ta đến đây để làm vợ ngươi". Mỗ hoảng sợ nói “Chưa nói tới chuyện kẻ nghèo không dám mong bậy, chỉ nói tới chuyện đang mắc bệnh sắp chết thì cưới vợ làm gì?". Cô gái tự nói là có thể chữa được, Mỗ nói "Bệnh của ta không phải một ngày một buổi mà chữa được, mà cho dù có phương thuốc hay cũng không có tiền mà mua". Cô gái nói "Ta chữa bệnh không cần dùng thuốc”, rồi xoa mạnh lên bụng Triệu, Triệu thấy nóng như lửa, hồi lâu khối u trong bụng có tiếng ùng ục, giây lát thấy muốn đi đại tiện, vội vùng dậy chạy ra ngoài tuột quần ngồi xuống ỉa tung tóe, khối u cũng theo ra hết, thấy trong người dễ chịu bèn quay lại nói với cô gái “Nương tử là người thần ở đâu xin cho biết tên họ để ta thờ cúng”. Cô gái đáp "Ta là hồ tiên, chàng là Chử Toại Lương thời Đường* vốn có ơn với nhà thiếp, thường ghi nhớ muốn báo đáp, từ bấy đến nay tìm khắp nơi, hôm nay mới gặp được, thật là thỏa nguyện".

*Chử Toại Lương thời Đường: tức Chử Toại Lương, tự Thiện Đăng, người Tiền Đường, làm quan dưới các triều Thái tông, Cao tông dần tới chức Lại bộ Thượng thư Đồng Tam phẩm, vì can Cao tông lập Vũ hậu không được nên từ chức, bị giáng làm Đô đốc Đàm Châu, kế làm Thứ sử ái Châu rồi chết.

Mỗ thẹn mình xấu xí nhơ bẩn, lại lo nhà tranh bếp đất làm bẩn xiêm y nhưng cô gái cứ xin vào. Triệu bèn đưa vào nhà, thì giường đất không có chiếu, bếp lạnh không có lửa, nói “Chưa nói tới tình cảnh thế này không dám làm nhục nhau, cho dù là nàng cam lòng theo thì xin nhìn trên giường không chiếu, dưới bếp không lửa, ta lấy gì mà nuôi vợ con?". Cô gái chỉ nói đừng lo, nói xong quay nhìn thì thấy trên giường đã đủ cả chăn nệm. Đang còn kinh ngạc hỏi han, thì chớp mắt lại thấy cả phòng sáng quắc rực rỡ, mọi đồ vật đều đổi khác, bàn ghế sạch sẽ, rượu thịt đã bày đầy ra, bèn cùng nhau uống rượu rồi kết làm vợ chồng. Chủ nhân nghe chuyện lạ xin được gặp một lần, cô gái lập tức ra gặp, không có vẻ gì là khó chịu. Vì vậy khắp nơi đồn đại, người tới thăm làm quen đông nghẹt ở cửa, cô gái đều tiếp đón không chối từ một ai, có ai mở tiệc mời nàng cũng theo chồng tới.

Một hôm có viên Cử nhân trong tiệc nảy ý tà dâm, cô gái biết ngay, buông lời mỉa mai, lấy tay xô vào đầu y, y chúi ra ngoài, đầu lọt qua chấn song mà người còn vướng bên trong, giãy giụa lăn lộn không sao thoát ra được, mọi người cùng van xin nàng mới tới kéo ra cho. Hơn một năm khách khứa càng đông đúc phiền nhiễu, cô gái phát chán, những kẻ bị nàng chối từ không gặp đều đổ tội cho Triệu. Đến ngày Đoan ngọ mọi người đang cùng nhau uống rượu, chợt có một con thỏ nhảy vào, cô gái đứng lên nói "Ông Thung Dược* tới mời", rồi nói với con thỏ "Xin mời cứ đi trước". Con thỏ phóng nhanh ra xa mất hút, nàng bảo Triệu lấy thang, Triệu ra sau nhà lấy chiếc thang dài lên, thấy cao mấy trượng, trước sân có cây đại thụ bèn gác vào, đầu thang còn cao hơn ngọn cây. Cô gái leo lên trước, Triệu cũng theo sau, nàng quay đầu nói "Các vị bạn bè khách khứa ai muốn theo xin lập tức bước lên”. Mọi người nhìn nhau không ai dám trèo lên, chỉ có một đứa tiểu đồng của chủ nhân hăm hở leo theo, càng lên chiếc thang càng cao, dần dần vào hẳn trong mây không thấy đâu nữa. Mọi người cùng nhìn lại thì chiếc thang là cánh cửa lâu năm mục nát bỏ đi làm tấm ván. Bèn kéo nhau vào xem thì thấy nhà tranh vách đất như cũ, ngoài ra không có vật gì khác, cũng muốn chờ đứa tiểu đồng quay về hỏi han, nhưng rốt lại vẫn bặt tăm.

*Ông Thung Dược: Thần dị ký chép trong mặt trăng có con thỏ ngọc cầm chày giã thuốc, nên "thung dược" (giã thuốc trong cối) đây chỉ con thỏ.

220. Công Tôn Hạ
(Công Tôn Hạ)

Huyện Bảo Định (tỉnh Hà Bắc) có viên Giám sinh Mỗ định vào kinh nộp tiền mua chức Tri huyện. Đang sửa soạn hành trang thì bị ốm, hơn một tháng không dậy được. Bỗng đứa tiểu đồng vào thưa "Có khách tới", Mỗ cũng quên cả bệnh, rảo bước ra đón. Khách ăn mặc sang trọng như người quyền quý, Mỗ vái chào mấy lần rồi mời vào, hỏi từ đâu tới. Khách đáp "Ta là Công Tôn Hạ, môn khách của hoàng tử thứ mười một. Nghe nói ông sắp vào kinh mua chức Huyện doãn, đã có ý ấy thì mua hẳn chức Thái thú có hơn không?". Mỗ từ tạ, chỉ nói ít tiền không dám ước vọng quá cao. Khách xin ra sức giúp đỡ, nói chỉ cần đưa trước nửa tiền, xong việc sẽ tới nhiệm sở lấy nốt. Mỗ mừng rỡ hỏi cách thức, khách nói "Các quan Tổng đốc, Tuần phủ đều là bạn thân của ta, chỉ cần đưa tạm năm ngàn quan là mọi việc sẽ xong. Hiện phủ Chân Định đang khuyết chức Thái thú, phải lo cho gấp". Mỗ ngại vì ở ngay tỉnh nhà, khách cười nói "Ông ngây thơ quá, đã có tiền đấy rồi thì ai hỏi chuyện quê quán ở đất Ngô hay đất Việt làm gì". Mỗ rốt lại vẫn ngần ngừ, ngờ là trái phép, khách nói "Không cần nghi ngại, xin nói thật đây là chức Thành hoàng dưới âm ty bị khuyết. Ông nay tuổi thọ đã hết, tên họ đã ghi vào sổ ma rồi, phải nhân dịp này chạy chọt mới có thể thành bậc quan lớn dưới cõi âm được". Kế đứng lên từ biệt, nói “Ông cứ tính đi, ba ngày nữa sẽ gặp lại", rồi ra cổng lên ngựa đi.

Mỗ chợt mở mắt tỉnh dậy, vĩnh biệt vợ con, bảo mang tiền bạc cất giấu ra chợ mua một vạn thoi vàng giấy, vét sạch mặt hàng ấy trong quận, chất đống trong sân với ngựa cỏ lo đốt ngày đêm, tro cao như núi. Ba ngày sau khách quả tới, Mỗ đem tiền ra đưa, khách lập tức đưa Mỗ tới công thự. Thấy một vị quan lớn ngồi trên điện, Mỗ bèn sụp lạy, vị quan hỏi qua tên họ, kế khuyên Mỗ phải thanh liêm cẩn thận này nọ rồi lấy văn bằng ra, gọi tới trước án đưa cho. Mỗ lạy tạ trở ra, tự nghĩ chức Giám sinh vốn thấp hèn, nếu không có xe kiệu quần áo rực rỡ thì không đủ để trấn áp bọn thuộc lại. Vì thế mua thêm xe ngựa, lại sai bọn quỷ tốt khiêng kiệu kết hoa về đón người thiếp yêu, vừa sắp đặt xong thì nghi trượng từ Chân Định đã tới đón, kéo dài hơn một dặm, thấy suốt đường đi người ta tranh nhau đưa tiễn, vô cùng đắc ý.

Bỗng toán quân mở đường ngừng chiêng trống, dẹp cờ quạt, đang lúc ngờ sợ thì thấy quân kỵ mã đều xuống ngựa phủ phục cạnh đường, người bé khoảng một thước, ngựa nhỏ như con chồn. Toán quân trước xe kinh hãi nói "Quan Đế tới”. Mỗ hoảng sợ xuống xe, cũng phủ phục dưới đất, từ xa nhìn thấy Đế quân đi với bốn năm kỵ sĩ buông lỏng dây cương chậm rãi đi tới, râu rậm trùm cả gò má, không giống như trong tranh người ta vẽ nhưng thần thái rất uy nghi dũng mãnh, mắt dài gần tới tai. Đế quân ngồi trên ngựa hỏi đây là quan nào, đám tùy tùng thưa là Thái thú Chân Định. Đế quân nói “Một chức quận thú nhỏ nhoi sao dám phô trương như thế”. Mỗ nghe thấy sởn gai ốc co rúm người, nhìn lại mình thấy chỉ lớn bằng đứa nhỏ sáu bảy tuổi. Đế quân bảo đứng lên đi bộ theo ngựa, cạnh đường có ngôi đền, Đế quân vào ngồi quay mặt về hướng nam, sai lấy giấy bút đưa Mỗ bảo khai họ tên quê quán. Mỗ viết xong trình lên, Đế quân xem nổi giận nói "Viết chữ sai bét, nguệch ngoạc không ra chữ, là thằng cò mồi ngoài chợ làm sao coi việc dân!". Lại sai tra lại sổ ghi chép việc làm lúc sinh thời, một người bên cạnh quỳ xuống tâu bày, không rõ nói những gì. Đế quân lớn tiếng nói “Cầu cạnh tiến thân là tội nhỏ, buôn quan bán tước là tội nặng”. Lập tức thấy người ấy bị thần Kim giáp xích lại giải đi. Lại có hai người bắt Mỗ ra, lột hết mũ áo đánh cho năm chục roi tuột hết thịt ở mông đít rồi tống ra cổng.

Mỗ nhìn quanh thì xe ngựa đâu mất hết, đau quá không đi được, chỉ nằm thở dốc trong đám cỏ. Nhìn kỹ chỗ ấy thì cách nhà chưa xa lắm, may mà thân thể nhẹ như chiếc lá nên mất một ngày một đêm mới về được tới nhà, chợt tỉnh cơn mơ rên rỉ trên giường. Người nhà xúm lại hỏi han, chỉ nói rằng bắp đùi đau lắm, té ra đã mê man như chết suốt bảy ngày, lúc ấy mới tỉnh lại. Lại hỏi sao A Lân không tới, đó là tên tự người thiếp. Trước đó A Lân đang ngồi trò chuyện, chợt nói “Ông ấy đã làm Thái thú Chân Định, sai lính về đón ta đấy", rồi vào phòng trang điểm thật đẹp, vừa xong thì chết, cũng mới trong đêm trước. Người nhà kể lại chuyện lạ xong, Mỗ hối hận đấm ngực sai để xác đó đừng chôn, mong rằng nàng tỉnh lại. Nhưng mấy ngày sau vẫn không thấy gì, đành đưa đi chôn cất. Bệnh Mỗ đỡ dần, nhưng vết thương ở đùi lại loét to ra, nửa năm mới dậy được, thường tự nhủ "Tiền mua chức quan đã hết sạch, lại còn bị hình phạt tai bay vạ gió dưới âm ty, bấy nhiêu còn chịu được, nhưng người thiếp yêu không biết đã đi đâu, những lúc khuya vắng mới là khốn khổ đây!”

Dị Sử thị nói: Than ôi, chuyện mua bán vốn không chỉ trong quan trường trên thế gian sao! Cõi âm đã có chuvện ấy, nếu ngựa của Đế quân không kịp tới, thì kẻ tác oai tác phúc đâu có bị trị tội! Nghe đồn tiên sinh Quách Hoa Dã ở hương ta cũng có một chuyện tương tự, cũng là thần trong đám người vậy. Tiên sinh nhờ trong sạch cứng cỏi được vua biết tới, mấy lần cất nhắc lên tới chức Tống chế Kinh Sở (vùng Hồ Nam, Hồ Bắc), lên đường phó nhiệm hành lý sơ sài, chỉ có bốn năm người theo hầu, quần áo đều xoàng xĩnh, người đi đường không ai biết là bậc quan lớn.

Trên đường gặp viên Tri huyện đi nhậm chức cùng đi một đường, thấy có hơn hai mươi chiếc xe lớn, quân dẹp đường tới vài ngàn kỵ mã, quân tùy tùng cũng có hàng trăm người. Tiên sinh cũng không rõ là quan gì, cứ lúc đi trước, lúc theo sau, lúc lại mấy người cưỡi ngựa chen vào hàng ngũ của họ, bị quân tiền khu giận dữ quát tháo xua đuổi nhưng tiên sinh cũng không sợ hãi. Không bao lâu tới một trấn lớn, hai bên cùng ghé vào nghỉ chân, tiên sinh sai tùy tùng dò hỏi thì ra đó là một viên Giám sinh nộp tiền được làm quan đang tới Hồ Nam phó nhiệm.

Bèn sai một người qua tự giới thiệu, viên Tri huyện nghe xong vừa ngờ vừa sợ, đến khi hỏi lai lịch thì biết đúng là tiên sinh, run rẫy không biết làm sao, mặc áo đội mũ khúm núm tới gặp. Tiên sinh hỏi "Ngươi là Tri huyện huyện Mỗ phải không?”, viên ấy thưa phải. Tiên sinh nói "Một huyện bé tí tẹo làm sao nuôi nổi bấy nhiêu quân tùy tùng? Ngươi mà tới nơi thì một vùng sẽ phải lầm than, không thể để dân khổ cực được thôi cứ về đi đừng tới phó nhiệm nữa". Viên Tri huyện dập đầu nói "Hạ quan còn có văn bằng bổ nhiệm", tiên sinh lập tức bảo đưa văn bằng lên, xem xong nói "Đây là chuyện vặt, ta có thể xin miễn nhiệm thay cho ngươi”, viên Tri huyện đành lạy chào lui ra. Dọc đường y về người ta đều không hiểu vì sao, nhưng đó là do tiên sinh vậy. Trên đời có nhiều kẻ chưa làm quan đã được thăng chức, nghe rất chướng tai, nhưng tiên sinh là bậc kỳ nhân nên mới có được chuyện khoái ý như thế.


Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 220 - 221 -
Nân Châm (Nân Châm)

Ngu Tiểu Tư người huyện Đông Xương (tỉnh Sơn Đông), làm nghề buôn bán. Vợ là Hạ thị đi thăm cha mẹ trở về, thấy ngoài cửa có người đàn bà dắt đứa con gái nhỏ khóc lóc rất bi ai. Hạ hỏi thì gạt lệ trả lời, mới biết chồng bà ta tên Vương Tâm Trai, cũng là con cháu nhà quan, nhà sa sút không đủ ăn, nhờ người làng bảo chúng vay tiền nhà giàu họ Hoàng để tập đi buôn, giữa đường gặp cướp, tai bay vạ gió mất sạch cả tiền, may mà không chết. Về tới nhà, Hoàng qua đòi nợ, tính cả vốn lẫn lãi không dưới ba mươi lượng vàng, thật không sao trả nổi. Hoàng thấy con gái là Nân Châm xinh đẹp, định lấy làm thiếp, sai người bảo chứng tới đòi nợ rồi tỏ ý, nếu chịu sẽ tiếp tục cho thiếu, ngoài ra vẫn đúng giá cô gái mà trả tiền. Vương bàn với vợ, vợ khóc nói "Nhà ta tuy nghèo nhưng vốn là dòng dõi trâm anh, kẻ kia là tiện dân mới giàu lên, sao dám cưới con gái ta làm thiếp? Vả lại Nân Châm vốn đã hứa gả rồi, chàng đâu thể làm chủ được nữa?".

Trước có Cử nhân họ Phó người cùng huyện chơi thân với Vương, sinh được một trai là A Mão, lúc còn bồng ẳm đã hứa làm thông gia với nhau. Sau Phó vào đất Mân (vùng Phúc Kiến) làm quan, hơn năm thì chết, vợ con không về được, tin tức qua lại thưa dần, nhưng vì cớ ấy nên Nân Châm mười lăm tuổi vẫn chưa lấy chồng. Nghe vợ nhắc lại chuyện ấy Vương không biết nói gì, chỉ tính cách làm sao trả nợ. Vợ nói "Bất đắc dĩ thì thiếp phải bàn với hai đứa em". Đại khái vợ Vương họ Phạm, ông nội từng làm quan trong kinh, hai cháu trai còn nhiều ruộng vườn. Hôm sau vợ Vương dắt con về nói với hai em trai, hai người mặc cho khóc lóc, không nói một lời an ủi giúp đỡ. Phạm gào khóc trở về, vừa lúc gặp Hạ hỏi han bèn vừa kể vừa khóc.

Hạ thương xót, nhìn tới cô gái thì thấy mặt mũi sáng sủa đáng yêu, càng thêm mủi lòng bèn mời vào nhà cho ăn uống, an ủi rằng "Hai mẹ con đừng lo, thiếp xin hết sức giúp đỡ”. Phạm còn chưa kịp cám ơn, cô gái đã khóc lớn lạy phục xuống đất, Hạ càng thêm xót xa. Hạ ngẫm nghĩ rồi nói "Tuy nhà có chút của cải, nhưng ba mươi lượng vàng cũng không phải dễ, phải cầm bán mới có”. Hai mẹ con lạy chào ra về, Hạ hẹn ba ngày sẽ có tiền. Chia tay xong tính toán đủ cách, cũng chưa dám nói với chồng, qua ba ngày cũng vẫn chưa đủ số, sai người qua hỏi mượn mẹ thì mẹ con Phạm đã tới, bèn kể thật rồi hẹn lại hôm sau. Tối mịt thì gia nhân đem tiền mẹ cho mượn về, Hạ dồn cả vào túi đặt dưới gối.

Đến khuya có tên trộm khoét vách theo ánh đèn mò vào, Hạ tỉnh giấc hé mắt nhìn, thấy một người tay cầm đoản đao, mặt mũi hung dữ sợ quá không dám kêu, cứ giả vờ ngủ say. Tên trộm tới gần cái rương, đã toan mở nắp nhưng nhìn thấy bên gối Hạ có cái túi bèn cầm lấy tới cạnh đèn mở ra xem, kế giắt vào lưng rồi không mở rương lục lọi nữa, bỏ đi luôn. Hạ bèn vùng dậy la lớn, trong nhà chỉ có một đứa tớ gái nhỏ đập vách láng giềng báo, láng giềng họp lại đuổi theo thì tên trộm đã chạy xa rồi. Hạ ngồi trước đèn sụt sùi khóc lóc không bao lâu đứa tớ gái thiếp đi, Hạ thắt dây vào song cửa sổ treo cổ tự tử. Đứa tớ gái tỉnh dậy trời đã sáng bạch, mới gọi người vào cởi dây thì thân thể đã lạnh ngắt. Ngu hay tin vội chạy về, hỏi đứa tớ gái mới biết sự tình, sợ hãi khóc lóc lo chôn cất mà thôi.

Lúc ấy mùa hè nhưng xác Hạ không cứng cũng không thối, qua hơn bảy ngày mới liệm. Chôn cất xong, Nân Châm lén ra khóc lóc cạnh mộ, chợt có cơn mưa rào đổ tới, sấm sét ầm ầm đánh xuống vỡ mộ, cô gái cũng bị chấn động chết luôn. Ngu hay tin vội tới xem thì quan tài đã bật nắp, vợ đang rên rĩ ở trong bèn bế ra, thấy xác cô gái không rõ là ai, Hạ nhìn kỹ mới biết, vô cùng kinh ngạc. Không bao lâu Phạm thị tới, thấy con gái đã chết gào khóc nói “Vốn đã ngờ là nó ở đây, quả đúng thế! Từ hôm nghe phu nhân tự tử, nó cứ kêu khóc suốt ngày đêm, đêm nay mới nói với ta là muốn ra thăm mộ, mà ta chưa cho”. Hạ cảm vì nghĩa bèn nói với chồng, bèn lấy quan tài chôn mình để chôn cất cô gái, Phạm lạy tạ. Ngu cõng vợ về. Phạm cũng về kể với chồng.
Chợt nghe nói phía bắc thôn có một người bị sét đánh chết giữa đường, trên xác có hàng chữ "Thằng giặc trộm tiền của Hạ thị", kế nghe láng giềng có tiếng đàn bà khóc, mới biết người chết là chồng chị ta, tên Mã Đại. Người trong thôn lên báo quan, quan sai bắt người đàn bà lên hỏi cung, thì ra Phạm thấy Hạ vay tiền giúp mình cứu con gái nên cảm động khóc lóc kể cho người ta nghe, Mã Đại là kẻ cờ bạc vô lại nghe thấy nổi dạ bất lương. Quan bèn sai giải người đàn bà về nhà lục soát, chỉ còn hai mươi lượng, lại tìm trên xác Mã Đại được bốn lượng nữa, quan phán bán người đàn bà đi bù vào chỗ thiếu trả cho Ngu. Hạ càng mừng rỡ, đưa hết số tiền cho Phạm trả nợ. Chôn cô gái được ba ngày, đêm đến mưa gió sấm sét lại nổi lên đánh vỡ mộ, cô gái cũng sống lại nhưng không chạy về nhà mà tới gõ cửa nhà Hạ thị, đại khái vì nhận ra ngôi mộ, ngờ là Hạ đã sống lại. Hạ nghe tiếng gọi hoảng sợ vùng dậy, cách cánh cửa hỏi vọng ra, cô gái nói "Phu nhân quả nhiên đã sống lại rồi, con là Nân Châm đây”.

Hạ sợ cho rằng là ma, gọi người đàn bà láng giềng cùng ra hỏi han, đến khi biết là nàng sống lại, mừng rỡ mở cửa đưa vào nhà. Cô gái nói xin theo hầu hạ phu nhân, Hạ nói "Như thế là nói ta mất tiền để mua tớ gái sao? Chôn ngươi rồi thì nợ cũng đã trả xong, đừng ngờ vực gì!”. Cô gái càng cảm động khóc lóc, xin thờ như mẹ, Hạ chưa ưng thuận, nàng lại nói “Con biết làm lụng, cũng không đến nỗi ngồi ăn không đâu”. Sáng ra báo cho Phạm thị biết, Phạm mừng rỡ vội tới, cũng chiều lòng con gái, lập tức gởi gắm luôn cho Hạ. Phạm đi rồi, Hạ ép đưa cô gái về nhà, cô gái cứ khóc lóc nhớ Hạ. Vương Tâm Trai bèn đích thân dắt nàng tới đưa vào cổng rồi về. Hạ nhìn thấy kinh ngạc hỏi han mới biết nguyên do, bèn mới để nàng ở lại. Ngu vừa tới, cô gái vội quỳ lạy, gọi là cha. Ngu vốn không có con, thấy cô gái dịu dàng khiến người ta thương xót, cũng rất vui mừng. Cô gái học kéo sợi vá may, không nề vất vả. Hạ ốm mấy lần suýt chết, nàng sớm tối hầu hạ, Hạ không ăn cũng không ăn, trên mặt lúc nào cũng có ngấn lệ, thường nói với người ta rằng "Mẹ mà có bề gì thì ta thề không sống nữa", Hạ hơi đỡ mới thấy nàng cười. Đến khi Hạ khỏi bệnh, nghe kể lại rơi nước mắt nói "Ta bốn mươi tuổi mà chưa có con, chỉ cần sinh được một đứa con gái như Nân Châm là đủ”. Hạ từ trẻ không sinh nở, nhưng qua năm sau chợt sinh được một con trai, người ta cho là ở hiền gặp lành.

Được hai năm cô gái càng lớn, Ngu bàn với Vương là không thể giữ lời hứa cũ mãi. Vương nói "Con gái ở nhà ông, việc gả chồng là tùy ý ông". Cô gái đã mười bảy tuổi, xinh đẹp vô song, nên lời ấy truyền ra thì những kẻ dạm hỏi nối gót nhau tới cổng, song vợ chồng chỉ trả lời qua quít. Nhà giàu họ Hoàng cũng sai người mối tới, nhưng Ngu ghét giàu mà bất nhân nên ra sức chối từ mà chọn họ Phùng. Phùng là học trò giỏi trong quận, cũng thông minh giỏi văn chương, Ngu báo với Vương thì Vương đi buôn chưa về, bèn cứ ưng thuận. Hoàng vì Ngu từ chối cũng giả đi buôn, tìm tới chỗ Vương trọ bày tiệc mời mọc, lại giúp tiền bạc làm vốn, dần dần quen thuộc thân mật mới nói con trai mình thông minh lanh lợi, xin hỏi cưới Nân Châm, Vương cảm động vì ân cần lại hâm mộ vì giàu có, bèn hẹn ước với nhau. Trở về tới nói với Ngu, thì hôm trước Ngu vừa nhận thư đính ước của họ Phùng, nghe lời Vương nói rất không thích, gọi cô gái ra kể lại mọi việc. Cô gái bực tức nói “Chủ nợ ấy là kẻ thù, bắt con lấy kẻ thù, thì chỉ còn một cách chết thôi” Vương tái mặt, nhờ người nói lại với Hoàng là đã hứa gả con gái cho họ Phùng, Hoàng tức giận nói “Cô kia họ Vương chứ không phải họ Ngu, ta đính ước trước họ Phùng, sao lại bội ước". Bèn đâm đơn kiện lên quan huyện, quan huyện có ý muốn xử cho người đính ước trước, bắt gả cô gái cho Hoàng. Phùng nói "Họ Vương đã gởi gắm con cho ông Ngu, lại nói không dự bàn chuyện cưới gả nữa, vả lại ta đã có thư đính ước còn họ Hoàng chẳng qua chỉ là hẹn ước bên chén rượu mà thôi". Quan huyện đổi ý, phán cho tùy ý cô gái.

Hoàng về đem tiền đút lót xin quan xử cho mình được, vì thế hơn một tháng không xử xong. Một hôm có viên Cử nhân lên kinh, đi ngang Đông Xương sai người hỏi thăm Vương Tâm Trai, tới hỏi đúng Ngu, Ngu hỏi lại thì viên Cử nhân ấy họ Phó, tức là A Mão vậy. Sau khi nhập tịch ở Phúc Kiến, mười tám tuổi thi đỗ Cử nhân, vì đã có đính ước trước đây nên chưa cưới vợ, mẹ dặn tiện đường ghé thăm Vương xem cô gái đã lấy chồng chưa. Ngu cả mừng, mời Phó tới nhà kể hết những chuyện đã qua, nhưng vì cưới gả ngoài ngàn dặm nên sợ không có gì làm bằng. Phó bèn lấy ra tờ đính ước hôn nhân của Vương ngày trước, Ngu mời Vương tới xem lại quả đúng, tất cả cùng mừng rỡ. Hôm ấy chính là ngày xét xử lại, Phó đưa danh thiếp ra mắt quan huyện, vụ kiện mới thôi. Phó hẹn ngày làm lễ cưới rồi đi. Thi hội xong, Phó mua lễ vật quay về, ở trong nhà cũ làm lễ rước dâu xong thì có tin thi đỗ Tiến sĩ từ Phúc Kiến đưa tới té ra Phó lại đỗ luôn kỳ thi hội. Bèn vào kinh nhận chức trở về cô gái không muốn xuống nam, Phó cũng vì nhà cửa mồ mả ông bà còn đó bèn một mình trở về Phúc Kiến bốc mộ cha rồi đón mẹ cùng về. Vài năm sau Ngu chết, con trai mới có bảy tám tuổi, cô gái chăm sóc còn hơn em ruột, cho đi học, thi đỗ vào trường huyện rất sớm, nhà nổi tiếng giàu có, đều là nhờ Phó cả.

Dị Sử thị nói:Trong đám thần long cũng có bậc hiệp khách ư? Trừng trị kẻ ác làm rõ điều thiện, cứu người giết người đều bằng sấm sét, đó là điệu múa Tiền Đường phá trận* vậy. Ầm ầm giáng xuống mấy lần, đều vì một người, biết đâu Nân Châm lại chẳng phải là Long nữ bị đày xuống trần?

*Tiền Đường phá trận: xem Truyện Long nữ sau truyện Chúc Thành, quyển III.

222. Hoàn Hầu
(Hoàn Hầu)

Bành Hiếu Sĩ ở Kinh Châu (tỉnh Hồ Nam) uống rượu nơi khác về nhà, dọc đường xuống ngựa đi tiểu. Con ngựa cúi xuống ngoạm cỏ bên đường, có một bụi cỏ nhỏ xanh tốt rất đáng yêu vừa trổ hoa vàng rực rỡ chói mắt, con ngựa ăn mất quá nửa. Bành nhổ chỗ còn lại ngửi thấy có mùi hương lạ bèn cất vào túi lại lên ngựa đi tiếp, thấy ngựa phi như bay thích chí cũng không tính đường về, cứ để mặc cho nó chạy. Chợt thấy mặt trời lặn xuống sau núi mới kéo cương nhìn quanh thì thấy núi non chập chùng, không biết là chỗ nào. Chợt có một người áo xanh tới, thấy con ngựa đang hí vang, bèn nắm dây cương nói “Trời đã xế rồi, chủ ta mời ông ghé lại". Bành hỏi đây là nơi nào, người ấy đáp "Là đất Lãng Trung (tỉnh Tứ Xuyên)". Bành cả sợ té ra trong nửa ngày đã đi hơn ngàn dặm, nhân hỏi chủ nhân là ai, người kia đáp “Tới nơi sẽ biết". Lại hỏi nhà ở đâu, đáp cũng gần đây thôi, rồi dắt ngựa kéo đi mau.
Bành thấy người ngựa cùng như bay, qua một rặng núi thì có nhà cửa phòng ốc trùng điệp ở lưng chừng núi che khuất lẫn nhau. Từ xa nhìn thấy một đám người áo mũ chỉnh tề như đang chờ ai, Bành tới nơi xuống ngựa thì họ đều vái chào rất cung kính. Kế chủ nhân bước ra, khí thế oai mãnh, y phục đều khác người trần, chắp tay nhìn khách nói "Khách hôm nay không có ai xa như Bành quân", rồi vái chào mời Bành đi trước. Bành từ tạ không chịu bước lên, chủ nhân bèn nắm tay kéo đi, Bành thấy tay như bị cùm siết chặt, đau như sắp gãy, không dám tranh cãi nữa bèn đi. Những người còn lại bèn nhường nhau đi trước, chủ nhân đẩy người này kéo người kia, khách đều xuýt xoa rên rĩ muốn quỵ xuống như không chịu nổi, cùng theo lời chủ nhân vào. Tới sảnh đường thấy trần thiết hoa lệ, cứ hai người vào ngồi một bàn. Bành hỏi nhỏ người ngồi với mình rằng chủ nhân là ai, đáp là Hoàn hầu*, kinh ngạc không dám ho hắng, mọi người cũng đều ngồi im.

*Hoàn hầu: tức Trương Phi, tướng và là em kết nghĩa của Thục chủ Lưu Bị thời Tam quốc, nổi tiếng dũng mãnh, trấn thủ Lãng Trung, bị bộ tướng làm phản ám sát, thụy là Hoàn hầu.

Rượu được vài tuần, Hoàn hầu nói "Hàng năm cứ quấy quả các vị, nên có tiệc mọn để tỏ lòng. Lại được khách từ xa tới, có thể nói là hạnh ngộ, ta muốn xin một vật, nếu thương thì cho, không thì không dám ép”. Bành đứng dậy hỏi vật gì, chủ nhân đáp "Con ngựa của ông đã có tiên cốt, không phải người trần cuỡi được , xin đổi con khác cho ông, có được không?". Bành đáp "Xin kính cẩn dâng lên, không dám đánh đổi”, Hoàn hầu nói “Ta sẽ đền một con ngựa thật tốt, lại tặng thêm vạn lượng vàng”. Bành rời ghế lạy tạ, Hoàn hầu sai kéo đứng lên. Giây lát rượu thịt bày ra la liệt, mặt trời lặn lại sai thắp đèn uống tiếp. Mọi người đều đứng dậy xin thôi, Bành cũng xin cáo từ. Hoàn hầu hỏi “Ông từ xa tới, tối nay về đâu?". Bành nhìn người ngồi cùng bàn với mình nói “Đã xin ông đây cho ngủ nhờ tối nay". Hoàn hầu bèn sai lấy chén lớn rót rượu tiễn khách, nói với Bành rằng "Bụi cỏ mà ông cất, tươi thì có thể giúp người ta thành tiên, khô thì có thể dùng để điểm kim, bảy cọng là được một vạn lượng vàng". Rồi lập tức sai tiểu đồng chỉ cách cho Bành, Bành lại lạy tạ. Hoàn hầu nói "Ngày mai xin ra chợ tới chỗ bán ngựa tùy ý lựa lấy một con, không cần phải trả giá đưa tiền, ta sẽ tính cho". Lại nói với mọi người rằng “Ông khách ở xa, lúc trở về nên giúp đỡ ít nhiều tiền đi đường", mọi người vâng dạ, cạn chén rồi cáo biệt.

Trên đường Bành hỏi họ tên thì người ngồi cùng bàn với mình tên Lưu Tử Vựng, cùng đi hai ba dặm, qua rặng núi thì thấy thôn xóm, mọi người cùng đưa Bành về nhà Lưu rồi kể cho nghe chuyện lạ. Vốn là trong làng hàng năm có tế Hoàn hầu trong miếu, giết bò múa hát để cúng đã thành lệ. Lưu là người chủ tế, vừa cúng xong ba hôm trước, trưa nay chợt có người tới từng nhà mời mọi người vào núi, hỏi ai mời thì đều trả lời qua quít nhưng hối thúc rất gấp. Qua khỏi rặng núi thấy lầu gác, mọi người nhìn nhau kinh ngạc, sắp tới cổng người kia mới nói thật, mọi người cũng không ai dám từ chối lui về. Người đi mời nói "Xin cứ họp lại ở đây chờ ta đi mời một người khách xa", tức là Bành vậy. Bành nghe kể rất lấy làm lạ lùng. Trong bọn có người bị Hoàn hầu nắm tay đau quá sợ gãy xương, cởi áo thắp đèn lên nhìn thì thấy da thịt bầm tím, Bành nhìn lại mình cũng thấy thế. Mọi người ra về, Lưu liền mang chăn chiếu ra ngủ chung với Bành.

Sáng hôm sau trong làng tranh nhau mời cơm, lại theo Bành vào chợ tìm ngựa, hơn mười ngày chọn qua mấy mươi con mà không có ngựa hay, Bành cũng quyết ý tìm bằng được. Hôm sau lại vào chợ, thấy có một con dáng vẻ rất khỏe mạnh, cưỡi thử thấy đúng là tuấn mã bèn trở vào làng đợi người bán nhưng trở lại thì đã bỏ đi mất. Bành bèn từ biệt người làng trở về, mọi người đều mang tiền tới tiễn tặng, ngựa đi một ngày được gần năm trăm dặm, Bành về tới nhà kể lại chuyện, mọi người đều không tin, đến khi Bành lấy những sản vật ở đất Thục (vùng Tứ Xuyên) ra cho xem mới cùng ngạc nhiên kinh sợ. Mớ cỏ lâu ngày khô dần, còn được bảy cọng, Bành theo cách đã được chỉ dẫn làm phép điểm kim, trong nhà vụt giàu hẳn lên. Bèn tìm tới nơi ấy vào miếu Hoàn hầu cúng tế tạ ơn, chơi với người làng ba ngày rồi về.

Dị Sử thị nói: Xem Hoàn hầu mời khách mới tin rằng việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình* là có thật. Nhưng chủ nhân kính khách, tỏ tình thân ái mà khiến người ta như bị gãy tay thì có thể biết năm xưa khỏe mạnh tới mức nào.
Ngô Mộc Hân kể có Lý sinh môi không che kín miệng, răng vẩu chìa ra ngoài cả đốt ngón tay. Một hôm tới dự tiệc ở nhà nọ, có hai người khách nhường nhau chỗ trên chỗ dưới đến khổ, một người cứ ra sức đẩy lên, một người cứ hết sức trằn lại, dùng sức mạnh quá vung khuỷu tay ra, đúng lúc Lý đứng phía sau bị khuỷu tay thúc trúng miệng rơi luôn hai chiếc răng cửa, máu tuôn như suối. Mọi người ngạc nhiên, hai người kia mới thôi không tranh cãi nữa. Chuyện ấy cũng buồn cười như chuyện Hoàn hầu nắm tay làm khách muốn gãy xương vậy.


*Việc thần Vũ Di mời khách ở Mạn Đình: Chư tiên ký chép năm Thủy Hoàng thứ 2 thần núi Vũ Di là Vũ Di quân mời dân làng tới ăn tiệc vào ngày rằm tháng tám trên đỉnh núi, kết lán giăng màn rực rỡ, người ta nhân thế gọi đất ấy là Mạn Đình.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 224 - 225 -
Phấn Điệp
(Phấn Điệp)

Dương Viết Đán là học trò đất Quỳnh Châu (tỉnh Quảng Đông). Tình cờ qua quận khác về nhà, đi thuyền qua biển gặp bão, thuyền sắp đắm, chợt có chiếc thuyền không giạt tới vội nhảy qua, nhìn lại thì những người cùng thuyền đều đã chìm cả. Bão càng mạnh, sinh đành nhắm mắt phó mặc cho gió thổi, không bao lâu trời lặng, mở mắt ra nhìn chợt thấy một hòn đảo nhà cửa san sát, liền chèo vào bờ, đi thẳng tới cổng làng. Thấy trong làng yên ắng, ngồi đó hồi lâu mà không nghe một tiếng gà kêu chó sủa. Thấy có một cánh cổng quay về hướng bắc, tùng trúc hun hút, lúc ấy đang đầu mùa đông, thấy trong tường có gốc cây không biết tên gì mà hoa nở dày đặc, trong lòng thích lắm, lân la lần vào.

Chợt nghe tiếng đàn cầm văng vẳng bèn dừng bước, có người tỳ nữ từ trong bước ra, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, phong tư tiêu sái, dung mạo xinh đẹp, vừa thấy Dương vội quay ngay vào. Kế nghe tiếng đàn ngừng lại, kế có một thiếu niên bước ra ngạc nhiên hỏi khách từ đâu tới, Dương kể lại sự tình. Thiếu niên lại hỏi họ tên quê quán, Dương cũng đáp rõ, thiếu niên mừng rỡ nói “Hóa ra là họ hàng bên vợ ta", liền vái chào mời vào, thấy nhà trần thiết rất tinh khiết đẹp đẽ, lại nghe tiếng đàn, vào tới trong phòng thấy một thiếu phụ ngồi trên cao gảy đàn, tuổi khoảng mười tám mười chín, phong tư lộng lẫy, thấy khách vào buông đàn định đi. Thiếu niên ngăn lại nói "Đừng đi, đây là họ hàng bên nàng đấy!”, rồi kể lại lời sinh. Thiếu phụ nói "Thì ra là cháu ta!", kế hỏi bà nội có khỏe không, cha mẹ bao nhiêu tuổi rồi. Dương đáp “Cha mẹ cháu đều hơn bốn mươi, vẫn còn khỏe mạnh, bà nội thì đã sáu mươi, bệnh nặng đã lâu, đi đâu cũng phải có người dìu. Cháu thật không biết cô là thế nào trong gia đình, xin cho biết rõ để về kể lại". Thiếu phụ nói “Đường xa diệu vợi, không được tin tức lâu rồi, về cứ nói vơi cha là cô Thập Nương hỏi thăm, cha cháu sẽ biết". Dương hỏi dượng họ gì, thiếu niên đáp "Ta họ Ân tên Hải Dự. Nơi đây có tên là đảo Thần Tiên, cách Quỳnh Châu ba ngàn dặm, ta tới ngụ ở đây cũng chưa lâu lắm".

Thập Nương vào trong sai tỳ nữ làm cơm đãi khách, thấy rau cỏ tươi ngon, cũng không biết tên gọi là gì. Ăn xong dẫn ra ngắm cảnh, thấy đào mận trong vườn vừa có nụ, Dương lấy làm lạ. Ân nói "Ở đây mùa hè không quá nóng, mùa đông không quá lạnh nên lúc nào cũng có hoa nở". Dương mừng nói "Như thế quả là cõi tiên, cháu về sẽ nói với cha mẹ dời nhà tới đây ở với cô dượng", Ân chỉ mỉm cười. Trở vào phòng sách thắp đèn lên, Dương thấy chiếc đàn cầm đặt ngang trên bàn, xin được nghe một khúc. Ân bèn vặn phím so dây, Thập Nương từ trong ra, Ân nói “Lại đây! Lại đây! Nàng gảy cho cháu nó nghe đi". Thập Nương liền ngồi xuống hỏi “Cháu muốn nghe khúc nào?”. Dương đáp “Cháu chưa từng học đàn, nên thật không biết khúc nào cả”. Thập Nương nói “Cháu cứ tùy ý ra đề, ta đều có thể gảy thành điệu”.

Dương cười hỏi “Thế gió biển xô thuyền, có thể gảy thành một khúc được không?". Thập Nương đáp "Được!", rồi búng dây như gảy theo bản đàn có sẵn, tình ý lên xuống theo khúc điệu, Dương ngưng thần lắng nghe, thấy mình như đang trong thuyền, bị gió bảo xô đẩy lôi kéo. Dương khâm phục sợ hãi, hỏi có học được không, Thập Nương đưa đàn sai gảy thử rồi nói "Có thể dạy được, vậy cháu muốn học gì?”, Dương nói "Bản Gió bãocô vừa gảy không biết học mấy ngày thì xong? Xin cho chép lại để học thuộc trước". Thập Nương nói "Bản đàn ấy không có văn tự, ta chỉ lấy ý mà phổ thành khúc điệu thôi". Rồi lấy ra một chiếc đàn khác, chỉ các thế tay bấm phím búng dây bảo Dương tập theo. Dương tập đến hơn canh một thì âm thanh tiết tấu đã hơi thành khúc điệu, vợ chồng Thập Nương mới đi nghỉ.

Dương ngưng thần chăm chú một mình tập gảy trước đèn, hồi lâu chợt hiểu thấu chỗ ảo diệu, bất giác vùng dậy múa may. Chợt ngẩng lên thấy người tỳ nữ đang đứng trước đèn, giật mình hỏi “Nàng vẫn chưa đi nghỉ sao?", nàng cười đáp "Cô Mười sai chờ chàng đi nghỉ rồi thì đóng cửa tắt đèn". Nhìn kỹ thấy nàng mắt tựa hồ thu, thần thái say người, Dương động lòng khẽ khêu gợi, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười. Dương càng say mê, đứng vụt dậy ôm chầm lấy, nàng ngăn lại nói "Đừng làm thế. Đã qua canh tư chủ nhân sắp dậy rồi. Nếu có lòng với nhau, đêm mai cũng chưa muộn". Đang lúc ôm ấp nhau chợt nghe Ân gọi Phấn Điệp, nàng biến sắc nói “Chết rồi” rồi vội vàng chạy đi. Dương lén vào nghe ngóng, thấy Ân nói "Ta đã nói đứa tỳ nữ này chưa dứt lòng trần, mà mình cứ nhất định thu nhận, nay thì sao nào? Phải đánh nó ba trăm roi”. Thập Nương nói “Cái ý ấy đã nảy sinh thì không thể dùng được nữa, chẳng bằng cho luôn thằng cháu ta cho xong". Dương vô cùng thẹn thùng sợ sệt, trở lại phòng tắt đèn đi ngủ.

Sáng ra có đứa tiểu đồng mang nước rửa mặt tới chứ không thấy Phấn Điệp đâu, trong lòng nơm nớp lo bị quở trách. Lát sau Ân và Thập Nương cùng tới, thái độ bình thường như không có chuyện gì, chỉ khảo khúc đàn mới tập. Dương gảy lại một lượt, Thập Nương nói "Tuy chưa đạt tới chỗ thần diệu nhưng mười phần đã được chín, cố tập cho thành thục thì hay". Dương lại xin dạy khúc khác, Ân dạy cho khúc Thiên nữ trích giáng, thủ thức mới lạ khó khăn, tập mất ba ngày mới gảy rõ tiếng. Ân nói “Những cái khó thế là đã học qua hết. từ nay về sau chỉ cần tập cho thành thực thôi. Nếu thuộc được hai khúc này thì trong nghề đàn không còn khúc nào là khó nữa”. Dương nhớ nhà quá, nói với Thập Nương "Cháu ở đây được cô chăm sóc dạy dỗ rất vui, nhưng vẫn canh cánh nhớ nhà, có điều đường xa ba ngàn dặm không biết ngày nào mới về tới được". Thập Nương nói “Chuyện đó không khó. Thuyền cũ còn đó, chỉ cần giúp cháu một cơn gió đưa buồm về. Cháu không có gia thất, ta đã cho Phấn Điệp rồi". Rồi lấy chiếc đàn tặng cho, lại trao cho thuốc, dặn "Về đưa bà nội uống, không những khỏi bệnh mà còn kéo dài được tuổi thọ”. Kế tiễn Dương ra bờ biển lên thuyền, Dương tìm mái chèo, Thập Nương nói “Không cần đâu!”, rồi cởi xiêm làm buồm, căng lên cho Dương. Dương lo lạc đường, Thập Nương nói "Đừng lo, cứ để cánh buồm đưa đi". Căng buồm xong, đẩy thuyền ra, Dương buồn rầu đang định bái biệt thì gió nam thổi mạnh, thuyền đã ra xa bờ rồi.

Nhìn lại thuyền thấy đã sẵn lương khô nhưng chỉ đủ ăn một ngày, thầm oán trách cô bủn xỉn, đói bụng mà không dám ăn nhiều, chỉ sợ mau hết. Nhưng cắn một cái bánh thì thấy vừa ngọt vừa thơm, còn sáu bảy cái cẩn thận cất lại thì cũng không thấy đói nữa. Chợt thấy mặt trời sắp lặn, đang hối là lúc lên đường không hỏi lấy đèn đuốc thì trong chớp mắt đã thấy khói cơm chiều xa xa, nhìn kỹ lại thì đã tới Quỳnh Châu. Dương mừng quá chèo vào bờ, tháo tấm xiêm làm buồm, ôm bọc bánh về nhà. Vào tới cổng, cả nhà vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, té ra đã xa nhà mười sáu năm, lúc ấy Dương mới biết mình đã gặp tiên. Vào thăm bà nội thấy già yếu bệnh tật hơn trước, bèn lấy ra đưa bà uống, chứng bệnh lâu ngày lập tức tiêu tan. Mọi người đều lạ lùng, Dương kể lại chuyện mình đã gặp, bà nội rơi nước mắt nói "Đó là cô ruột cháu đấy!".
Xưa bà có người con gái út tên Thập Nương, vừa sinh ra đã có phong tư thần tiên, hứa gả cho họ Ân nhưng con rể năm mười tuổi vào núi không trở về. Thập Nương chờ đến năm hơn hai mươi tuổi thì chợt không bệnh mà chết, chôn cất đã hơn ba mươi năm. Mọi người nghe Dương kể chuyện xong đều ngờ là Thập Nương chưa chết. Dương đưa tấm xiêm ra thì đúng là vật trước đây cô vẫn mặc ở nhà. Dương chia bánh cho mọi người, chỉ ăn một cái thôi thì cả ngày không thấy đói, mà tinh thần còn phấn chấn hẳn lên. Bà nội sai đào mộ Thập Nương lên xem thì chỉ có chiếc quan tài không. Trước kia Dương đã dạm hỏi cô gái họ Ngô mà chưa cưới, nhưng mấy năm không về nàng ấy đã lấy người khác. Lúc ấy Dương mới tin lời Thập Nương, chờ Phấn Điệp tới nhưng hơn một năm mà vẫn tuyệt vô âm tín, mới bàn tìm cưới người khác. Tú tài họ Tiền ở huyện Lâm có con gái tên Hà Sinh xinh đẹp nổi tiếng xa gần, mười sáu tuổi chưa lấy chồng vì ba người vừa dạm hỏi chưa cưới đã chết. Dương bèn nhờ mai mối định hôn, chọn ngày tốt cưới về. Nàng vào cổng rồi, thấy xinh đẹp tuyệt thế, nhìn kỹ thì là Phấn Điệp. Dương kinh ngạc hỏi chuyện cũ, nàng quên sạch không biết gì cả, thì ra khi bị đuổi cũng là lúc nàng đầu thai xuống trần. Cứ những lúc Dương đàn khúc Thiên nữ trích giángcho nghe thì nàng liền chống má trầm tư như có chỗ hiểu được vậy.







224. Cẩm Sắt



(Cẩm Sắt)






Vương sinh ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) mồ côi từ nhỏ, nhà nghèo nhưng phong tư đẹp đẽ, quần áo tươm tất hơn người. Có nhà giàu họ Lan gặp Vương thích lắm, gả con gái cho, hứa sẽ xây nhà mua ruộng cho làm sản nghíệp. Cưới không bao lâu thì ông Lan chết, anh em vợ đều khinh thường sinh, vợ thì càng lên mặt, coi chồng như đầy tớ. Thường một mình ăn uống ngon lành, sinh tới thì đem cơm hẩm rau già, đũa tre chén đất bày ra trước mặt, nhưng sinh đều nhịn nhục. Năm mười chín tuổi sinh đi thi khoa Đồng tử bị đánh rớt, từ quận về nhà gặp lúc vợ không có trong phòng, thấy trong nồi có miếng thăn dê ninh chín múc định ăn, vợ bước vào không nói câu nào, bưng luôn nồi thịt cất đi. Sinh xấu hổ quá vứt đũa xuống đất nói "Thế này thì thà chết còn hơn”. Vợ tức tối hỏi chừng nào chết, rồi đưa cho sợi dây nói cầm lấy mà treo cổ. Sinh uất ức, đập tô canh vỡ trán vợ, căm hờn bỏ ra, tự nghĩ đúng là thà chết còn hơn bèn đem theo dây lưng vào chỗ khe sâu trong núi.



Tới dưới một gốc cây lớn, đang chọn cành thắt thòng lọng chợt thấy trên gò đất thấp thoáng bóng xiêm đàn bà. Chớp mắt có một người tỳ nữ bước ra, nhìn thấy sinh vội quay ngay lại như cái bóng mất hút, trên vách đất cũng không có dấu vết gì. Sinh biết là yêu quái nhưng đang muốn chết nên không hề sợ hãi, bèn bỏ sợi dây đấy ngồi rình xem. Giây lát lại có ra nửa khuôn mặt lộ ra, vừa thoáng thấy đã rút trở vào, sinh nghĩ là ma quỷ, theo nó ắt tìm được cái chết sung sướng, liền vớ hòn đá đập vào vách đất, kêu “Ai dưới đất đấy, chỉ đường cho với, ta không cần vui mà muốn chết thôi". Hồi lâu không nghe thấy gì, sinh lại kêu nữa thì nghe bên trong đáp "Người muốn chết xin cứ tạm lui, tối hãy tới!", âm thanh trong trẻo rõ ràng nhưng nhỏ như tiếng muỗi vo ve. Sinh nói “Vâng” rồi ngồi chờ tối.
Không bao lâu, sao mọc đầy trời, vách núi chợt biến thành tòa phủ đệ to lớn, hai cánh cổng khẽ mở ra, sinh theo bậc thềm bước vào. Vừa được vài bước thấy có dòng nước chảy ngang, khói bốc nghi ngút như suối nước nóng, nhúng tay xem thử thấy nóng như sôi, cũng không biết sâu bao nhiêu. Sinh ngờ đây là chỗ chết mà quỷ thần chỉ cho, liền nhảy ào xuống, nước nóng thấm qua mấy lần áo, da thịt rát bỏng nhưng may mà cứ nổi không chìm, ngoi ngóp một hồi thì quen dần với cái nóng, cố vùng vẫy mới lên được bờ bên kia, toàn thân cũng may không rộp lên. Lại đi tiếp, nhìn thấy dưới mái nhà xa xa có ánh đèn, rảo bước tới thì có con chó dữ xồ ra cắn áo xé vớ. Sinh nhặt đá ném, con chó hơi lùi, nhưng cả bầy chó lại đổ ra sủa ầm lên, con nào cũng to bằng con nghé.
Đang lúc nguy cấp thì người tỳ nữ bước ra quát đuổi lũ chó rồi nói "Anh chàng muốn chết tới đó phải không? Nương tử nhà ta thương chàng khốn đốn, sai thiếp đưa chàng tới “ổ yên vui", từ đây không còn tai họa gì nữa". Rồi khêu đèn dẫn đường, mở cổng sau im lặng đi, tới một căn nhà thì giơ đèn lên soi vào cửa sổ nói “Chàng cứ vào nhé, thiếp đi đây!”. Sinh vào nhìn quanh thì ra đã trở lại nhà mình, quay ngay ra thì gặp bà già vẫn hầu hạ vợ, bà ta nói “Cả ngày tìm kiếm, lại còn đi đâu?", rồi kéo sinh trở vào. Vợ buộc khăn chỗ bị thương xuống giường ra đón, cười nói "Làm vợ chồng hơn năm, đùa giỡn mà không biết sao, thiếp biết lỗi rồi. Chàng bị trêu chơi mà thiếp bị thương thật, thôi cũng đủ hả giận rồi mà”, rồi lấy ở đầu giường ra hai nén vàng lớn đặt vào lòng sinh nói "Từ nay về sau cái ăn cái mặc xin theo ý chàng, vậy được chưa?". Sinh không đáp, ném vàng lại xô cửa bỏ đi, định vào khe núi tới gõ cửa tòa phủ đệ.
Ra tới ngoài đồng thì thấy người tỳ nữ đi chậm rãi, ánh đèn vẫn còn thấp thoáng xa xa. Sinh vội chạy theo gọi, ánh đèn bèn dừng lại, chạy tới thì người tỳ nữ nói "Chàng lại tới đây thì thật phụ nỗi khổ tâm của nương tử". Sinh đáp “Ta muốn chết chứ không nhờ nàng giúp cho sống lại. Nương tử nhà cao cửa rộng, dưới đất chắc cũng cần người, ta xin theo phục dịch, chứ thật tình không còn thấy sống là vui nữa". Người tỳ nữ nói “Chết vui cũng không bằng sống khổ, sao chàng nghĩ trái như vậy. Nhà bọn ta không có việc gì khác, chỉ có đào sông hốt phân, nuôi chó chôn xác, mà làm sai thì bị khoét mũi cắt tai, chặt chân cắt gót, chàng làm được không?”, sinh đáp "Làm được!". Kế lại vào qua cổng sau, sinh hỏi "Ta phải làm việc gì? Nàng vừa nói chôn xác, ở đâu mà có nhiều người chết như thế?”. Người tỳ nữ đáp "Nương tử từ bi, lập ra vườn Cấp Cô*, gom nuôi các hồn ma chết bất đắc kỳ tử không nhà dưới âm ty, kể có hàng ngàn, ngày nào có người chết là phải đi chôn xác, xin mời xem qua một lần”.
*vườn Cấp Cô: Kinh Kim cương chép nước Xá Vệ có một trưởng giả tên Tu Đạt Noa thường bố thí cho kẻ nghèo khổ bệnh tật cô độc, về sau xây vườn mời đức Phật thuyết pháp, người ta gọi là vườn Cấp Cô. Đây chỉ nơi trường sở làm việc từ thiện.
Giây lát tới một cánh cổng đề chữ "Cấp Cô viên”, vào trong thấy nhà cửa ngang dọc chen lẫn, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Ma quỷ trong vườn thấy đèn xúm cả lại, đều đứt đầu cụt chân trông rất thê thảm. Quay ra định đi thì thấy có cái xác nằm ngang dưới tường, máu thịt bê bết, người tỳ nữ nói "Mới nửa ngày chưa kịp chôn mà đã bị chó xé nát rồi", rồi sai sinh chuyển đi. Sinh có vẻ ngần ngại, nàng nói "Nếu chàng không làm được thì xin mời cứ về chỗ yên vui vậy!". Sinh bất đắc dĩ phải vác xác đưa vào chỗ kín, rồi nhờ người tỳ nữ cố xin cho mình may ra khỏi phải làm công việc nhơ bẩn ấy, nàng bằng lòng. Đi tới gần một căn nhà, nàng nói "Cứ ngồi tạm ở đây để thiếp vào thưa, việc nuôi chó thì nhẹ nhàng hơn, có thể xin cho để chuộc lỗi vừa rồi".
Vào trong giây lát thì đi nhanh ra nói "Vào đây vào đây nương tử ra đấy!". Sinh theo vào sảnh đường, thấy đèn lồng treo khắp bốn bên, có một cô gái ngồi gần phía trong cùng, khoảng hai mươi tuổi, phong thái như thiên tiên. Sinh lạy rạp dưới thềm, nàng lập tức sai kéo đứng lên, nói "Đây là một người học trò, làm sao nuôi chó nổi, có thể cho ở nhà phía tây trông coi sổ sách". Sinh mừng rỡ lạy tạ, cô gái nói "Người có vẻ thành thật chất phác, hãy làm việc cẩn thận. Nếu có sai phạm thì tội không nhẹ đâu, sinh líu ríu vâng dạ. Người tỳ nữ dẫn sang nhà phía tây, sinh thấy phòng ốc sạch sẽ mừng rỡ tạ ơn rồi hỏi thăm gia thế nương tử. Người tỳ nữ đáp "Nương tử tiểu tự là Cẩm Sắt, con gái Tiết hầu ở Đông Hải. Thiếp tên Xuân Yến, hàng ngày có cần gì, xin cứ gọi".
Người tỳ nữ ra đem áo giày chăn nệm vào đặt lên giường, sinh mừng vì được chỗ yên thân. Sáng ra sinh dậy sớm ra làm việc, ghi chép danh sách ma quỷ. Tôi tớ trong nhà đều tới yết kiến, biếu rượu thịt rất nhiều nhưng sinh giữ ý đều từ chối, ngày hai bữa cơm đều từ nhà trong đưa ra. Nương tử xét thấy liêm khiết cẩn thận nên đặc cách ban cho mũ nhà nho và áo màu, phàm có ban thưởng gì đều sai Xuân Yến đem tới. Người tỳ nữ cũng rất phong vận, khi đã quen rồi thì nhiều phen liếc mắt đưa tình, nhưng sinh cẩn thận giữ mình không dám sơ suất, chỉ giả làm ra vẻ ngốc nghếch. Qua hơn hai năm tiền thưởng đã tăng gấp bội mà sinh vẫn cẩn thận chăm chỉ như cũ.
Một đêm đang ngủ, chợt nghe nhà trong có tiếng la thét ầm ĩ, vội vùng dậy cầm đao ra thì thấy lửa đỏ rục trời, lần vào xem thì bọn cướp lố nhố đầy sân, đám tôi tớ sợ hãi chạy trốn. Một người giục cùng chạy trốn, sinh không nghe mà bôi đen mặt, thắt dây lưng chen vào đám cướp kêu to "Đừng làm Tiết nương tử sợ hãi, nhưng phải chia nhau tìm của cải đừng để sót?". Lúc ấy bọn cướp đang tìm kiếm Cẩm Sắt khắp các phòng mà chưa thấy, sinh biết nàng chưa bị bắt liền lén ra sau nhà tìm kiếm, gặp một bà già núp ở đó, mới biết nàng và Xuân Yến đã leo qua tường ra ngoài. Sinh cũng leo qua tường ra, thấy hai chủ tớ núp trong góc tối, liền nói “Chỗ này làm sao núp được?", cô gái đáp "Ta không sao đi được nữa”, Vương liền bỏ đao cõng nàng, chạy khoảng hai ba dặm, mồ hôi nhễ nhại mới vào tới một hang núi sâu, đặt nàng xuống cho ngồi.
Chợt có một con cọp tới, sinh cả kinh định xông ra chặn thì nó đã ngoạm lấy cô gái. Sinh vội túm chặt tai cọp, hết sức đẩy cánh tay vào miệng nó để thay cho Cẩm Sắt. Con cọp tức giận nhả cô gái ra ngoạm vào tay sinh nghe răng rắc, cánh tay lìa ra rơi xuống đất, con cọp cũng bỏ đi. Cô gái khóc nói “Khổ thân người, khổ thân ngươi!". Sinh đang hăng chưa biết đau, chỉ thấy máu chảy như suối bèn bảo người tỳ nữ xé vạt áo băng bó vết thương. Cô gái ngăn lại, cúi xuống nhặt cánh tay gãy rồi đích thân nối vào cho sinh, buộc chặt lại. Hừng sáng mới từ từ trở về, vào tới nhà thấy vắng tanh, trời sáng hẳn đám tôi tớ mới dần dần tụ tập lại. Cô gái đích thân tới thăm vết thương cho sinh, cởi vải buộc ra thì chỗ xương gãy đã liền lại, lại lấy thuốc ra rịt vào vết thương mới đi.
Từ đó nàng càng quý trọng sinh, đồ ăn thức dùng đều cho hưởng ngang mình. Khi vết thương lành hẳn, cô gái đặt tiệc ở nhà trong để ủy lạo, bảo ngồi, sinh từ chối mấy lần mới ngồi ghé vào một góc. Cô gái nâng chén mời trân trọng như đối với khách, hồi lâu mới nói "Thân thiếp đã kề cận chàng, muốn học em gái vua Sở theo Chung Kiến* nhưng hiềm không có ai mai mối, phải mặt dày tự nói ra”. Sinh hoảng sợ nói "Ta chịu ơn nặng, có chết cũng không đủ đền đáp, nếu làm quá phận thì e trời phạt, thật không dám theo lệnh. Nếu thương ta không có vợ thì ban cho một người tỳ nữ cũng đã là quá rồi”.




*Chung Kiến: Tả truyện, Định công tứ niên chép quân Ngô đánh tới Sính Đô nước Sở, vua Sở và gia quyến phải tránh nạn, bề tôi của vua Sở là Chung Kiến ghé vai cõng em gái vua Ngô là Ngũ Thiên chạy. Về sau vua Sở định gả chồng cho em gái, Ngũ Thiên không chịu, nói đã kề cận với Chung Kiến lúc được ông ta cõng, vua Sở bèn gả nàng cho Chung Kiến.




Một hôm, chị lớn cô gái là Dao Đài tới, là một giai nhân khoảng bốn mươi tuổi. Đến tối gọi sinh vào Dao Đài bảo ngồi rồi nói "Ta từ ngàn dặm tới đây để làm chủ hôn cho cô em, đêm nay có thể cho thành hôn với bậc quân tử, Sinh lại đứng lên từ tạ, Dao Đài liền gọi rót rượu bảo hai người đổi chén, sinh cố từ chối, Dao Đài giật chén đổi cho nhau, sinh bèn lạy rạp xuống đất tạ tội rồi mới uống. Dao Đài đi ra, cô gái nói "Nói thật với chàng, thiếp là tiên nữ có tội bị đày, tự xin cư ngụ ở cõi âm gom nuôi các oan hồn để chuộc tội. Vừa rồi gặp nạn Thiên ma nên có cái duyên kề cận thân thể với chàng, phải mời chị lớn từ xa tới làm chủ hôn và coi sóc việc nhà giùm để tiện theo chàng về trần". Sinh đứng dậy cung nói "Dưới đất vui lắm, chứ nhà ta có con vợ dữ, vả lại nhà cửa chật chội, không sao bàn cách vẹn tròn để sống với nhau”. Cô gái cười, chỉ nói không sao. Kế uống say cùng đi ngủ, vui vẻ yêu thương nhau rất mực.
Qua vài hôm nàng nói với sinh “Cõi âm không thể chung sống lâu dài, xin chàng về ngay thu xếp việc nhà, xong rồi thiếp sẽ tự tới”. Rồi sai đem ngựa cho sinh, mở cửa bảo ra, vách núi đất lại liền như cũ. Sinh cưỡi ngựa về làng, người làng đều khiếp hãi, về tới cổng thì thấy nhà cao cửa rộng. Trước là khi sinh bỏ đi, vợ mời hai anh tới chuẩn bị roi gậy để đánh cho một trận trả thù, đến tối không thấy sinh về họ mới bỏ đi. Có người nhặt được chiếc giày của sinh trong khe nên ngờ rằng sinh đã chết, kế hơn năm vẫn không có tin tức gì. Có người lái buôn Mỗ ở Thiểm Tây hỏi cưới Lan thị, bèn tới ở luôn nhà sinh, trong vòng nửa năm xây cất thành tòa ngang dãy dọc. Người lái buôn đi xa buôn bán, lại mua một người thiếp về, từ đó trong nhà lục đục, y có khi cũng hàng mấy tháng không về. Sinh hỏi biết chuyện nổi giận, buộc ngựa bước vào thì gặp bà già hầu hạ vợ ngày trước. Bà già hoảng sợ lạy phục xuống đất, sinh mắng chửi hồi lâu, bắt dẫn tới phòng vợ tìm thì đã trốn đâu mất, kế tìm thấy ở sau nhà thì đã thắt cổ chết rồi. Sinh sai khiêng xác trả cho nhà họ Lan rồi cho gọi người thiếp của người lái buôn ra, thấy tuổi khoảng mười tám mười chín, cũng khá xinh đẹp bèn giữ lại trong phòng ngủ.
Người lái buôn nhờ người làng bắn tiếng xin trả lại người thiếp, nhưng nàng kêu khóc không chịu đi. Sinh bèn làm đơn định kiện y về tội chiếm nhà cướp vợ, người lái buôn không dám nói gì nữa, dọn hàng quay về Thiểm Tây. Sinh đang ngờ Cẩm Sắt phụ ước, một tối đang uống rượu với người thiếp thì có xe ngựa tới cổng, cô gái bước vào, chỉ giữ lại xuân Yến còn cho tất cả tùy tùng trở về. Vào tới phòng, người thiếp ra lạy chào, nàng nói "Người này có tướng sinh con trai, có thể chịu khổ thay thiếp", rồi lập tức ban cho quần áo nữ trang. Người thiếp lạy tạ nhận lấy rồi đứng hầu, nàng kéo ngồi xuống cùng chuyện trò rất vui vẻ, hồi lâu nói "Ta say rồi, muốn đi ngủ”. Sinh cũng cởi giày lên giường, người thiếp mới đi ra. Về tới phòng thấy sinh đã nằm trên giường, lấy làm lạ quay lại xem thì đèn trong phòng cô gái đã tắt. Sinh đêm nào cũng ngủ ở phòng người thiếp, nhưng một đêm người thiếp trở dậy tới nhìn trộm vào phòng cô gái thì thấy sinh đang chuyện trò nói cười với nàng, lấy làm lạ lùng vội quay về định nói với sinh thì chỉ thấy có giường không. Sáng ra lén kể cho sinh, sinh cũng không tự biết, chỉ thấy mình lúc thì trong phòng cô gái, lúc thì ngủ phòng người thiếp mà thôi, bèn dặn giấu kín chuyện lạ ấy.
Lâu sau Xuân Yến có mang, cô gái vẫn như không biết gì, khi người tỳ nữ lâm bồn sinh khó bèn gọi nương tử, nàng bước vào thì sinh được ngay, là con trai. Nàng cắt rốn xong đặt vào lòng người tỳ nữ rồi cười nói "Con nhãi đừng thế nữa nhé, nhiều nghiệp chướng thì lắm tai nạn thôi?", từ đó Xuân Yến không sinh đẻ nữa. Người thiếp thì sinh được năm trai hai gái. Ở đó ba mươi năm, thỉnh thoảng cô gái lại trở về nhà, đi về đều vào lúc ban dêm. Một hôm nàng dắt người tỳ nữ đi không trở lại nữa. Sinh sống đến tám mươi tuổi, chợt một đêm dắt người lão bộc ra đi, cũng không trở về.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 225 - 226 -
Phòng Văn Thục
(Phòng Văn Thục)

Đặng Thành Đức người phủ Khai Phong (tỉnh thành Hà Nam) du học tới Duyện Châu (tỉnh Sơn Đông), ngụ trong ngôi chùa nát, chép thuê cho người coi việc làm sổ sách hộ tịch ở đó. Cuối năm đám nha dịch đều về nhà, riêng Đặng ở lại nấu cơm ăn một mình trong chùa. Sáng tinh mơ có người thiếu phụ gõ cửa vào, nhan sắc tuyệt đẹp, tới trước bàn thờ Phật thắp hương quỳ lạy rồi ra, hôm sau cũng thế. Đến khuya Đặng trở dậy thắp đèn, đang làm việc thì nàng tới sớm hơn. Đặng hỏi "Sao tới sớm thế?" nàng đáp "Sáng ra thì đông người lộn xộn, chẳng bằng cứ tới sớm, nhưng sớm quá lại sợ quấy rầy giấc ngủ của chàng, vừa rồi nhìn thấy ánh đèn, biết chàng đã dậy nên mới tới thôi". Sinh đùa nói "Trong chùa không có người, tới ở luôn cho khỏi mất công đi lại". Nàng mỉm cười đáp "Trong chùa không có người, thì chàng là ma à?". Đặng thấy có thể tán tỉnh, bèn chờ nàng làm lễ xong kéo ngồi lại đòi giao hoan. Nàng nói "Trước bàn thờ Phật làm thế sao được? Đã không có nhà cửa gì mà còn mong muốn bậy bạ". Đặng nài nỉ mãi không thôi, nàng nói "Cách đây ba mươi dặm, trong làng nọ có sáu bảy đứa nhỏ mời thầy dạy học chưa được. Chàng hãy tới đó hỏi Lý Tiền Xuyên, có thể được nhận, rồi nói là có mang vợ đi cùng, bảo họ xếp cho một gian nhà riêng, thiếp sẽ lo cơm nước cho, như thế mới là kế lâu dài”. Đặng sợ việc lộ ra sẽ bị tội, nàng nói "Không sao đâu, thiếp họ Phòng tên Văn Thục, không có ai thân thuộc, quanh năm ở nhờ nhà ông cậu, ai mà biết được!”. Đặng mừng rỡ từ biệt nàng, tới ngay làng nọ yết kiến Lý Tiền Xuyên, quả nhiên như đã bàn tính, hẹn sẽ mang gia quyến tới trước Tết.
Trở về, sáng ra nói cho cô gái biết, nàng hẹn sẽ chờ dọc đường. Đặng từ biệt bè bạn, thuê ngựa đi, được nửa đường quả nhiên gặp cô gái đứng chờ, bèn xuống ngựa trao dây cương cho nàng dắt rồi cùng đi. Tới nơi dạy học chung sống với nhau rất tương đắc, suốt sáu bảy năm như vợ chồng mà cũng không có ai tìm bắt người đi trốn. Cô gái chợt sinh được một đứa con trai, Đặng vì vợ ở nhà không sinh đẻ nên có con mừng lắm, đặt tên là Duyện Sinh. Cô gái nói “Vợ chồng giả rốt lại cũng khó thành chuyện thật, thiếp đang định từ giã chàng đi, lại sinh ra của nợ này không biết để làm gì?" Đặng nói "Đang tính nếu may mắn để dành được ít tiền sẽ cùng nàng trốn về quê, sao lại nói thế?”. Nàng đáp "Cảm ơn! Cảm ơn! Ta không thể nhăn nhở mơn trớn lấy lòng để mong chị cả bao dung, mà làm vú em cho người, trẻ con oe oe khó chịu lắm". Đặng thanh minh rằng vợ mình không ghen, cô gái cũng không nói gì. Hơn một tháng sau, Đặng thôi dạy học, định đi buôn chung với con trai Tiền Xuyên, nói với cô gái "Ta nghĩ làm thầy mở lớp thì không bao giờ giàu được, nay học đi buôn ngõ hầu còn có ngày về được quê”, nàng cũng không đáp. Đến tối, bỗng nàng bế con dậy, Đặng hỏi làm gì, nàng đáp "Thiếp muốn đi". Đặng vội trở dậy đuổi theo hỏi han, nhưng cổng còn chưa mở mà cô gái đã biến mất, sợ quá mới biết nàng không phải là người. Đặng vì thấy lai lịch nàng đáng ngờ nên không dám kể cho ai, chỉ nói thác là vợ về thăm cha mẹ ruột.
Trước kia, lúc Đặng ra đi có hẹn với vợ là Lâu thị rằng cuối năm sẽ về, nhưng suốt mấy năm không có tin tức gì, người ta đồn là đã chết. Anh trai thấy không có con, muốn nàng lấy chồng khác, Lâu xin đợi ba năm nữa, hàng ngày chỉ lủi thủi ở một mình một nhà, kéo sợi sinh nhai. Một hôm trời vừa tối, nàng ra đóng cổng ngoài thì có một cô gái bước vào, bế theo một đứa bé còn quấn tã, nói “Ta từ nhà mẹ đẻ trở về, tới đây thì vừa tối, biết chị ở có một mình nên xin ngủ nhờ ". Lâu mời vào, tới trong phòng nhìn kỹ thì là một người đẹp khoảng hơn hai mươi tuổi, vui vẻ cho nằm chung giường. Nhân đùa giỡn với đứa nhỏ, thấy nó trắng như quả bầu, than rằng "Mụ góa ta lại không có được một đứa con thế này". Cô gái nói "Ta đang ngại vì nuôi nó phiền quá, nếu cho chị làm con nuôi để nối dõi thì chị thấy sao?” Lâu nói "Chưa nói tới chuyện nương tử không nỡ dứt tình, cho dù có nỡ thiếp cũng không có sữa, làm sao nuôi được?” Cô gái nói "Chuyện đó có gì khó, lúc sinh cháu, ta cũng lo không có sữa, chỉ uống nửa tễ thuốc là có ngay. Nay thuốc thừa vẫn còn đây, xin biếu cho chị”, rồi lấy gói thuốc ra đặt trước cửa sổ. Lâu thị ậm ừ, chưa thấy có gì khác lạ. Kế ngủ đi, khi tỉnh dậy gọi thì đứa nhỏ còn đó mà cô gái đã mở cửa đi rồi, vô cùng khiếp sợ. Rạng sáng đứa nhỏ khát sữa khóc đòi bú, Lâu bất đắc dĩ phải uống thuốc, giây lát sữa chảy ròng ròng bèn cho nó bú.
Hơn một năm, đứa nhỏ ngày càng bụ bẫm, bắt đầu học nói, nàng thương yêu chẳng khác gì con mình đẻ ra, vì vậy bỏ luôn ý định cải giá. Nhưng sáng ra đã phải bế con, không làm gì được nên ngày càng túng thiếu. Một hôm cô gái chợt tới, Lâu sợ đòi lại con, trước tiên trách ngay về việc lẳng lặng bỏ đi không nói, kế kể tới nỗi khó nhọc nuôi nấng đứa nhỏ. Cô gái cười nói "Chị kêu ca khó nhọc thì ta không đòi con lại sao?", rồi vẫy gọi con. Đứa nhỏ khóc sà vào lòng Lâu thị, cô gái nói “Con nghé con không nhận mẹ nó nữa rồi! Của này dẫu trăm lượng vàng cũng khó đổi được, cứ chồng tiền ra để làm giấy tờ". Lâu tưởng nói thật giận tím mặt, cô gái cười nói “Chị đừng sợ, thiếp tới chính vì con mà! Sau khi ra đi, lo chị không có tiền nuôi cháu, nên tìm đủ cách kiếm được hơn mười lượng vàng”, rồi lấy vàng ra đưa Lâu. Lâu sợ nhận vàng xong cô gái sẽ có cớ đòi con nên nhất quyết từ chối, cô gái bèn đặt vàng lên giường rồi ra cửa đi thẳng. Lâu bế con đuổi theo ra thì nàng đã đi xa, gọi cũng không ngoái lại, còn ngờ là có ý ác, nhưng được vàng đem cho vay lấy lời, trong nhà cũng no đủ.
Ba năm sau Đặng buôn bán có tiền sắm sữa hành trang trở về nhà. Đang cùng hỏi han an ủi nhau, thấy có đứa nhỏ hỏi con nhà ai, vợ kể lại duyên do. Đặng hỏi tên, Lâu đáp "Mẹ nó gọi là Duyện Sinh, thiếp cũng giữ nguyên như cũ. Đặng ngạc nhiên nói "Thế thì đúng là con ta đấy". Hỏi lại ngày giờ thì đúng đêm cô gái bế con đi. Đặng bèn kể lại hết chuyện hợp tan với Phòng Văn Thục, hai vợ chồng càng thêm vui mừng khuây khỏa, vẫn mong cô gái trở lại nhưng rốt cuộc vẫn biệt tăm.


226. Nhốt Rắn
(Khoán Xà)


Trong núi ở huyện Tứ Thủy (tỉnh Sơn Đông) vốn có ngôi chùa, bốn bề không có thôn xóm, ít người lui tới, chỉ có đạo sĩ trú ngụ. Có người nói rằng trong núi có nhiều rắn lớn, nên những kẻ du ngoạn càng lánh xa. Có một thiếu niên vào núi bắt chim ưng, vào sâu quá không có chỗ nào ngủ đêm, nhìn thấy phía xa có chùa chiền bèn rảo bước tới gõ cửa. Đạo sĩ hoảng sợ nói "Sao cư sĩ lại tới đây? May mà không gặp phải đám trẻ”, rồi vội bảo ngồi, dọn cháo cho ăn. Thiếu niên ăn thưa xong thì có một con rắn lớn bò vào, to hơn mười ôm, ngóc đầu nhìn khách, mắt long lên giận dữ. Khách cả sợ, đạo sĩ đánh vào đầu rắn quát “Ra ngoài!", con rắn mới mọp đầu bò vào gian phòng phía đông, ngoằn ngoèo mãi một lúc mới lọt hẳn vào trong, nằm khoanh tròn chật cả phòng, khách cả sợ run lẩy bẩy. Đạo sĩ nói “Trước nay ta vẫn nuôi nó, nên nếu có ta thì không sao, chỉ sợ có ai một mình gặp nó mà thôi”. Khách vừa ngồi yên, lại có một con rắn khác bò vào, hơi nhỏ hơn con trước, to độ năm sáu ôm, thấy khách thì dừng lại, trợn mắt thè lưỡi giống như con trước. Đạo sĩ lại quát, nó cũng bò vào phòng. Trong phòng không còn chỗ nằm, nó vắt nửa thân lên khoanh vào xà nhà, đất trên vách tường cứ rơi đồm độp. Khách càng sợ hãi, cả đêm không dám ngủ, sáng ra dậy sớm xin về. Đạo sĩ đưa ra cổng chùa, thì thấy trên tường dưới thềm lúc nhúc những rắn to bằng cái vò cái chậu, thấy người lạ đều toan cắn. Khách sợ, cứ nép vào sát người đạo sĩ mà đi, đạo sĩ đưa khách tới cửa núi mới trở về.
Quê ta có mấy người làm khách ở Trung Châu (tỉnh Phúc Kiến), tới ngủ nhờ trong một ngôi chùa nhốt rắn. Sư trong chùa làm cơm tối mời, có món canh thịt rất ngon nhưng cứ tròn tròn từng khúc từng khúc như cổ gà. Khách lấy làm lạ, hỏi sư giết bao nhiêu gà mà có lắm cổ thế. Sư đáp "Đây là rắn chặt ra đấy!". Khách phát hoảng, có người ra ngoài nôn mửa. Đến lúc nằm ngủ, chợt thấy trên bụng có vật gì mềm mềm động đậy, sờ thử thì là rắn, sợ hãi vùng dậy la ầm lên. Sư tỉnh dậy nói "Đó là chuyện thường, có gì lạ đâu mà!". Nhân đánh lửa soi lên vách cho xem, thì rắn lớn rắn nhỏ đầy trên tường, trên giường dưới sàn cũng toàn là rắn. Hôm sau sư dẫn khách vào điện Phật, dưới tòa Phật có cái giếng lớn, trong có con rắn to như cái chum lớn nghểnh đầu lên miệng giếng nhưng không bò lên. Soi đuốc xuống nhìn thì bên dưới lúc nhúc rắn con rắn cháu, tính ra có tới hàng trăm vạn con, cả một bầy bên dưới. Sư nói "Trước đây rắn lên khỏi giếng gây hại dữ lắm, từ khi xây tòa Phật bên trên để trấn yểm thì mới yên ổn".

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 227 - 233 -
Thư Sinh Ngông
(Cuồng Sinh)

Học sứ họ Lưu kể ở châu Tế Ninh (tỉnh Sơn Đông) có thư sinh ngông, tính hay rượu. Nhà không có được hai thạch gạo, nhưng kiếm được tiền là mua rượu, không hề lo lắng tới chuyện cùng quẫn. Gặp lúc có quan Thứ sử mới đáo nhiệm, tửu lượng cao chưa gặp ai uống bằng, nghe tiếng sinh bèn mời tới cùng uống rượu, thích lắm, thường uống với nhau. Sinh cậy quen biết, nên cứ có ai kiện tụng chuyện nhỏ muốn được kiện biếu xén món tiền còm lại nói hộ, Thứ sử đều ưng thuận. Sinh quen lệ cứ thế làm mãi, Thứ sử đâm ghét. Một hôm, Thứ sử vừa ra công đường buổi sáng, sinh cầm thiếp bước lên trình. Thứ sử nhìn xong cười khẩy, sinh lớn tiếng nói “Ông thấy được thì cho, không được thì thôi, chứ cười cái gì? Vẫn nghe kẻ sĩ có thể giết chết chứ không thể làm nhục, chuyện khác thì không thể báo hờn, chứ chẳng lẽ một cái cùm lại không báo được à?". Nói xong cười lớn một tràng vang dội cả công đường. Thứ sử nổi giận nói "Ngươi dám vô lễ à? Không nghe tiếng quan Lệnh doãn làm tan nát nhà cửa sao?” Sinh phẩy tay áo bước xuống thềm, lớn tiếng đáp "Thằng học trò này không có nhà cửa gì để tan nát cả” Thứ sử càng tức giận, sai bắt trói lại. Rồi hỏi tới nhà cửa, thì sinh chẳng có nhà đất gì, chỉ dắt vợ tới ở trên tường thành. Thứ sử nghe thế bèn thả ra, nhưng ra lệnh đuổi không cho ở trên tường thành nữa. Bè bạn thương vì ngông, góp tiền mua cho vài thước đất, xây cho một cái lều trong thành. Sinh vào ở, than rằng “Từ nay trở đi thì phải sợ quan Lệnh doãn rồi!".

Dị Sử thị nói:Kẻ sĩ quân tử theo pháp luật, giữ lễ nghi, không dám ăn cướp giữa chợ, thì dẫu là nhà vua đi chăng nữa cũng làm gì được mình? Nhưng nếu có kẻ thù oán mà ngày càng ghét thêm, thì đó là vì mình có nhà cửa mà thôi. Còn nếu như chẳng có nhà cửa gì để tan nát, thì kẻ căm ghét tới đâu cũng không có chỗ nào để hại cả. Ôi, người kia chắc như lời người ta nói, là cậy nghèo hèn để khinh người chăng! Song chỉ có bậc quân tử mới có thể tuy nghèo nhưng không khinh suất mà xúc phạm người, thế mà y vì miếng ăn để lụy thân, hò hét ở công đường, cũng mất phẩm giá lắm. Có điều ngông như thế thì không ai bằng được thật.

228. Tôn Tất Chấn
(Tôn Tất Chấn)

Tôn Tất Chấn qua sông, gặp lúc mưa to gió lớn, thuyền bè nghiêng ngã, người trong thuyền sợ lắm. Chợt thấy một vị thần mặc giáp vàng đứng trong mây cầm một cái bài vàng đưa xuống cho nhìn. Mọi người cùng ngẩng lên xem, thấy ở trên đề ba chữ “Tôn Tất Chấn” rất rõ ràng. Mọi người nói với Tôn Tất Chấn rằng "Ngươi đã phạm tội bị trời phạt, xin mời qua một thuyền riêng, đừng làm lụy cho cả bọn ta". Tôn còn chưa kịp nói gì, họ cũng không đợi là có ưng thuận hay không, thấy cạnh thuyền có chiếc xuồng con, liền xúm vào đẩy Tôn qua đó. Tôn vừa ngồi yên xong, quay nhìn thì chiếc thuyền lớn đã chìm rồi.

229. Trương Bất Lượng
(Trương Bất Lượng)

Nhà buôn nọ đi tới ranh giới tỉnh Trục Lệ chợt gặp mưa đá, bèn núp vào đám lúa. Nghe trên không có tiếng nói "Đây là ruộng của Trương Bất Lượng, đừng làm hại lúa của y". Nhà buôn nghĩ thầm không biết họ Trương là ai, mà "bất lương” tại sao còn được trời che chở. Trời tạnh bèn vào thôn hỏi thăm, quả có người tên như thế, liền thuật lại điều mình nghe, lại hỏi cái tên "Bất Lượng" có nghĩa là gì. Thì ra họ Trương giàu có, thóc lúa rất nhiều, cứ đến mùa xuân lại có nhiều người nghèo túng tới vay, lúc trả thường không đủ số, nhưng Trương vẫn nhận cả không hề đong lường tính toán chi ly nên người làng gọi là “Bất Lượng" (không đong). Mọi người ùa ra đồng xem, thấy lúa khắp nơi xơ xác, chỉ riêng ruộng của họ Trương là không tổn hại gì.

Phụ: Một Truyện Trong Khoáng Viên Tạp Chí Của Ngô Bảo Nhai (Trần Diệm)
(Phụ: Ngô Bảo Nhai Trần Diệm Khoáng Viên tạp chí nhất tắc)


Sư Tế Thủy ở Hoa Ổ kể vào năm Thuận Trị thứ 18 (1661) có một người ăn mày ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) là thần vâng sắc lệnh làm mưa đá. Có người tránh mưa đá nghe trên không có tiếng nói "Đừng làm tổn hại ruộng của Trương Bất Lượng". Tạnh mưa thì ruộng các nơi đều tan tác, chỉ riêng ruộng của Trương là không tổn hại gì. Thì ra họ Trương nhận thóc người khác trả nợ, bảo cứ tự đem đổ vào vựa, không hề đong lại, nên người ta ca ngợi là "Bất Lượng" (không đong). Chuyện này cũng giống chuyện Tưởng Tự Lượng thời Nam Tống.

Họ Tưởng người đất Hàng (tỉnh Chiết Giang), anh cả tên Sùng Nhân, kế tên Sùng Nghĩa, kế tên Sùng Tín, ba anh em đều nhân đức như nhau. Thường đặt các loại thưng đấu công ở kho, ai tới vay thóc cũng đều bảo tự đong lấy, năm mất mùa cũng thế. Người ta vì thế gọi là Tưởng “Tự Lượng” (tự đong). Năm Hàm Thuần thứ 3 (1267) có chiếu phong ba anh em là Quảng Phúc hầu, nay vẫn còn miếu thờ trên Lam Kiều.

230. Tấm Nệm Hồng Mao
(Hồng Mao Chiên)

Nước Hồng Mao trước có hẹn qua buôn bán ở Trung Quốc, chủ tướng ở biên cương thấy họ đông người không cho lên bờ. Người Hồng Mao cố nài, chỉ xin cho được đặt chân lên một khoảnh đất rộng bằng tấm nệm lông thôi. Viên chủ tướng nghĩ một tấm nệm lông thì có được bao nhiêu, bèn cho. Người Hồng Mao đặt tấm nệm lên bờ, thoạt tiên chỉ đủ chỗ cho hai người, kế nở ra đủ chỗ cho bốn năm người, trong chớp mắt tấm nệm nở rộng ra hơn một mẫu đất, đủ chỗ cho mấy trăm người. Họ cùng rút đoản đao ra, nhân lúc bất ngờ cướp phá cả mấy dặm rồi bỏ đi.

231. Quảy Xác Chết
(Phụ Thi)

Có người tiều phu ra chợ bán củi, vác đòn gánh trở về, chợt thấy đầu đòn gánh như có vật nặng máng vào, quay nhìn thấy một cái xác chết không đầu treo lủng lẳng, phát hoảng rẫy đòn gánh ra đập túi bụi, chợt không thấy đâu nữa. Y sợ hãi chạy vào một thôn gần đó, lúc ấy trời đã sập tối, thấy có mấy người đốt đuốc soi trên mặt nước như tìm vật gì. Tới gần hỏi thăm thì ra bọn họ đang ngồi chơi, chợt có cái đầu trên không rơi xuống, râu tóc bòm sờm, trong phút chốc thì biến mất. Người tiều phu kể lại việc mình gặp, tính ra thì đủ một xác người, nhưng nghĩ mãi không biết từ đâu tới. Sau cũng có người quảy sọt muối đi trên đường, người ta thấy trong sọt muối có cái đầu người, lấy làm kỳ quái căn vặn. Y quay nhìn mới phát hoảng đổ ụp cái sọt ra đất, cái đầu người lăn tròn rồi biến mất.

232. Cúc Dược Như
(Cúc Dược Như)

Cúc Dược Như là người phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông), vợ chết, bỏ nhà đi mất. Mấy năm sau ăn mặc như lối đạo sĩ trở về ngủ lại một đêm rồi định đi. Họ hàng họ hàng ép ở lại, giữ riệt lấy quần áo pháp trượng. Cúc nói thác là đi dạo, ra tới ngoài thôn thì áo quần đồ vật từ trong nhà đều phấp phới bay ra, theo Cúc đi mất.

233. Hộ Ăn Cướp
(Đạo Hộ)

Trong niên hiệu Thuận Trị (1644-1661) ở vùng Đằng, Dịch (tỉnh Sơn Đông) cứ mười người thì có sáu bảy làm cướp, quan không dám nã bắt. Về sau bọn chúng quy thuận, quan huyện biên tên riêng làm "hộ ăn cướp". Nếu chúng có tranh giành kiện tụng với dân thường, thì lại thiên vị xử cho chúng được, đại khái vì sợ chúng lại nổi dậy. Về sau những kẻ thưa kiện cứ nhận bừa là hộ ăn cướp, còn bên kia thì cứ ra sức cãi là mạo nhận. Bên nguyên bên bị ai cũng nhận mình là phải, còn quan thì chưa xét chuyện phải trái, trước hết cứ xét bên nào là hộ ăn cướp thật đã, thưa lên kiện xuống, đám nha lại lục lọi sổ sách hộ khẩu rất vất vả. Lúc ấy trong công thự có nhiều hồ, quan huyện có con gái bị hồ quấy phá, bèn đem lễ vật đón thuật sĩ tới, dùng bùa phép bắt được hồ bỏ vào vò, đặt lên lò lửa. Hồ ở trong vò kêu to "Ta là hộ ăn cướp đây", ai nghe chuyện cũng bật cười.

Dị Sử thị nói:Nay có kẻ đốt nhà cướp của, quan lại không cho là ăn cướp mà cho là kẻ gian, còn có kẻ trèo tường gian dâm lại không tự nhận là kẻ gian mà nhận là ăn cướp, thì thế sự đã thay đổi nhiều rồi. Giả như nay trong dinh quan có hồ, thì ắt cũng kêu to rằng ta đúng là ăn cướp đây.
Ở huyện Chương Khâu (tỉnh Sơn Đông) từ thuế má dao dịch cho tới các khoản trưng thu thì dân thường phải chịu gấp mấy lần so với nhà thân hào. Cho nên những nhà có ruộng đều tranh nhau tới nhờ nhà thân hào đứng tên, tuy không hại gì tới thuế nước nhưng có chỗ tổn thất cho quan lại. Huyện lệnh Chung xin trừ mối tệ ấy, được quan trên ưng thuận. Lúc đầu sai tự thú, kế những dân gian trá lấy đó làm bậy, ruộng đất bán đi đã vài mươi năm cũng nói là nhờ đứng tên để kiện lại người mua. Huyện lệnh đều thiên vị họ, nên những dân lương thiện hiền lành nhiều người bị mất cơ nghiệp. Có Lý sinh bị Mỗ Giáp kiện, cùng lên đối chất, Giáp gọi Lý là Tú tài, Lý lớn tiếng tranh cãi nói mình không phải là Tú tài, ầm ĩ không ngớt. Huyện lệnh hỏi tả hữu, đều nói là Tú tài thật. Quan hỏi tại sao không nhận, Lý nói "Tú tài thì cao quý, nhưng cứ chờ tranh giành đất đai xong sẽ làm cũng chưa muộn". Ôi, danh hiệu ăn cướp thì tranh nhau mà nhận, danh hiệu Tú tài thì tranh nhau mà chối, chuyện đổi đời mới kỳ lạ làm sao. Có người dâng đơn nặc danh kiện về việc làm trái pháp luật thôn tính tài sản, nói "Tuổi già không thể làm lụng đóng thuế, nên có năm mươi mẫu ruộng gần thành, vào năm Lỗ ân công thứ 1 (722 trước công nguyên) tạm nhờ thân hào gian ác là Nhan Uyên đúng tên. Nay lệnh quan nghiêm khắc, theo lẽ phải tự thú. Nhưng tên thân hào gian ác ấy không chịu trả, tới nói lý lẽ thì bị thầy y dắt đồng đảng bảy mươi hai người mang gậy gộc xúm vào đánh đập túi bụi, gãy cả tay chân, lại lôi vào nhốt trong căn nhà dột, mỗi ngày mang cho một giỏ cơm một bầu nước, suýt nữa thì chết đói, có làng xóm làm chứng. Vậy cúi xin nghiêm khắc tra xét, trả lại điền sản mồ hôi nước mắt cho. Nay tố cáo", quả thật có thể nói là theo Liễu Chích mà kiện Di Tề*.


*Có người dâng đơn. Di Tề: Khổng Tử gia ngữ nói Nhan Uyên, một học trò giỏi của Khổng Tử có năm mươi mẫu ruộng gần thành, Luận ngữ nói Nhan Uyên là người hiền, ở nhà dột, một giỏ cơm một bầu nước vẫn vui với đạo. Lá đơn kiện nói trên là trào phúng để châm chọc, như nói thầy của Nhan Uyên dắt bảy mươi hai đồng đảng ra đánh mình là nhân chuyện “Khổng môn thất thập nhị hiền" mà bịa ra. Chuyện Liễu Chích kiện Di Tề cũng tương tự. Kiên biều tập chép đời Minh Mục tông Hải Đoan làm Tuần phủ Trực Lệ, có ý đè nén các nhà giàu nên phong khí dân gian điêu ngoa gian trá, có người dâng đơn kiện nặc danh tố cáo Liễu Hạ Huệ và Đạo Chích cậy thế cướp ruộng của dân, hai con vua Cô Trúc là Bá Di Thúc Tề cậy thế cha đào mộ của dân bị kiện, đút lót cho cận thần của vua là Lỗ Trọng Liên để ỉm chuyện đi vân vân (Liễu Hạ Huệ là cao sĩ nước Tề thời Chiến quốc, Đạo Chích tương truyền là tên cướp nổi tiếng thời thượng cổ. Bá Di Thúc Tề người cuối thời Thương, lúc Vũ vương nhà Chu đánh vua Trụ nhà ân, hai người đón dường can ngăn không được bèn thề "không ăn thóc nhà Chu, lên núi Thú Dương hái rau vi ăn, cuối cùng chết đói. Lỗ Trọng Liên là ẩn sĩ nước Tề thời Chiến quốc).

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
Quyển XIII - 234 - 236
Trộm Đào
(Thâu Đào)

Lúc còn nhỏ có lần ta lên tỉnh chơi đúng vào dịp tiết Lập xuân. Theo lệ cũ thì trước đó một hôm, các nhà buôn bán trên phố đều kết kiệu hoa trỗi đàn sáo đưa đám rước tới tỉnh đường, gọi là "diễn xuân". Ta cùng bạn bè kéo nhau đi xem, hôm ấy người đông nghẹt, trên sảnh đường có bốn ông quan mặc áo đỏ ngồi đối diện nhau theo hướng đông tây. Lúc ấy ta còn là trẻ con, chẳng biết là những quan gì, chỉ nghe tiếng cười nói ồn ào, trống chiêng ầm ĩ. Chợt có một người dắt đứa trẻ con xỏa tóc, vác hòm lên thềm, như muốn thưa bẩm. Đang khi ồn ào ầm ĩ, cũng chẳng nghe là thưa gởi những gì, chỉ thấy trên thềm cười rộ. Kế có người lính hầu bước ra lớn tiếng sai diễn trò, người ấy vâng lệnh bắt đầu, hỏi diễn trò gì. Các quan nói với nhau vài câu, rồi người lính hầu lớn tiếng hỏi giỏi trò gì, người ấy đáp giỏi trò đánh tráo vật sống. Người lính hầu vào bẩm quan một lúc, lại trở ra sai diễn trò hái đào. Người diễn trò vâng dạ, cởi áo phủ lên cái hòm, làm ra bộ oán thán nói "Bậc quan trưởng thật chẳng nghĩ cho, băng chưa tan trời còn lạnh, lấy đâu ra đào? Không hái thì sợ quan giận, làm thế nào được?". Đứa con nói "Cha đã hứa, sao lại chối từ”. Người diễn trò ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói "Ta nghĩ kỹ rồi, đầu mùa xuân tuyết chưa tan, tìm đâu ra đào ở cõi trần. Chỉ vườn của Tây Vương mẫu bốn mùa cây cỏ đều xanh tươi, may ra thì có, phải lên trời ăn trộm thôi”. Đứa con nói "Ô, trời mà lên được à?”, đáp "Có cách đây". Bèn mở hòm lấy ra một cuộn dây dài vài mươi trượng thắt thòng lọng một đầu rồi ném lên không, sợi dây lơ lửng trên không rủ xuống như mắc vào vật gì vậy.

Không bao lâu càng ném càng cao, sợi dây cứ vào dần trong mây ra, khi cuộn dây trong tay đã hết bèn gọi đứa con nói “Con ơi lại đây! Cha già yếu, nặng nề lóng ngóng không leo được, ngươi đi một chuyến!", rồi đưa đầu sợi dây cho đứa con nói "Cứ bám vào mà leo lên". Thằng con cầm dây ra vẻ khó khăn, oán trách “Ông già thật là lẩm cẩm, một sợi dây thế này mà bảo ta bám vào leo lên trời cao muôn trượng, giả như nửa chừng dây đứt, còn gì là xương ta?". Người cha lại thúc ép, nói "Cha đã lỡ miệng hứa rồi, hối cũng không kịp. Con ráng đi một chuyến, đừng ngại khó nhọc, nếu ăn trộm được đào, ắt sẽ được thưởng hàng trăm đồng tiền vàng, cha sẽ cưới cho một con vợ đẹp". Đứa con bèn nắm sợi dây leo lên, tay kéo chân quặp, như con nhện leo tơ, dần dần vào trong mây không thấy đâu nữa. Hồi lâu có một trái đào to bằng cái bát rơi xuống, người diễn trò mừng rỡ nhặt lấy đem dâng lên, các quan trên sảnh đường chuyền tay nhau xem hồi lâu, cũng không biết là giả hay thật. Chợt sợi dây rơi xuống đất, người diễn trò hoảng sợ nói "Chết rồi! Trên trời có người cắt sợi dây của ta, thằng nhỏ biết bám vào đâu?". Giây lát có một vật rơi xuống, nhìn ra là cái đầu của đứa con, người diễn trò ôm lên khóc nói "Đây ắt là nó trộm đào bị người canh bắt được, con ta thế là chết rồi!". Giây lát lại một cái chân rơi xuống không thiếu chút gì. Người diễn trò hết sức bi thương, nhặt tất cả cho vào cái hòm đậy lại, nói "Già này chỉ có một đứa con hàng ngày cùng nhau lên bắc xuống nam, nay vâng nghiêm lệnh, không ngờ chuốc phải tai họa thảm lạ đến như thế, phải mang đi chôn thôi". Rồi lên sảnh đường quỳ xuống nói "Vì chuyện hái đào mà con ta chết rồi? Nếu các quan thương giúp tiền tho tiểu nhân chôn cất nó, sẽ xin kết cỏ ngậm vành để đền ơn". Mọi người ngồi xem kinh sợ, ai cũng cho tiền. Người diễn trò nhận lấy giắt vào lưng, rồi gõ vào cái hòm kêu "Bát Bát ơi, còn chờ gì mà không ra cám ơn?". Chợt một đứa trẻ tóc tai bù xù đầu đội nắp hòm chui ra khom người cúi đầu bái tạ, thì ra là đứa con. Ta lấy làm lạ về thuật ấy nên đến nay vẫn còn nhớ. Về sau nghe nói Bạch Liên giáo có thể làm được thuật ấy, có lẽ ngườỉ diễn trò là dòng dõi của họ chăng?

235. Thuật Mồm
(Khẩu Kỹ)

Một cô gái tới làng, tuổi chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm, khoác một túi thuốc đi bán. Có người hỏi xin chữa bệnh, cô gái không biết kê đơn, bảo đến tối hỏi thần, rồi chiều tối dọn dẹp sạch sẽ một gian phòng nhỏ, vào trong đóng chặt cửa lại. Mọi người xúm xít quanh cửa sổ lắng tai nghe ngóng, chỉ thì thào nóỉ chuyện, không dám ho hắng.
Đến giữa canh một, chợt nghe thấy tiếng rèm lay động, cô gái bên trong nói "Cô Chín tới phải không?” một cô gái đáp tới rồi. Lại hỏi "Lạp Mai theo cô Chín tới đấy à?", như có một tỳ nữ đáp vâng ạ. Ba người ríu rít trò chuyện không ngớt. Giây lát lại có tiếng rèm cửa lay động, cô gái nói “Cô Sáu tới rồi", mọi người cùng nói "Xuân Mai cũng bế tiểu lang theo đấy à", có tiếng một cô gái đáp "Tiểu ca kêu khóc không chịu ngủ, nhất định đòi đi theo nương tử, nặng như cả trăm cân, cõng mệt gần chết". Rồi nghe tiếng cô gái nựng nịu, tiếng cô Chín hỏi thăm, tiếng cô Sáu chuyện trò, tiếng hai người tỳ nữ dỗ dành, tiếng trẻ con cười giỡn, rộ lên một hồi. Kế lại nghe cô gái cười nói "Cậu ấm cũng nghịch ngợm quá, xa xôi như thế mà ôm cả con mèo theo". Rồi tiếng nói ngớt dần, lại có tiếng rèm cửa lay động, tất cả lại ồn ào nói "Cô Tư sao tới chậm thế?”, có tiếng một cô gái nhỏ lí nhí "Đường xa hàng ngàn dặm, đi với cô mãi mới tới được, cô đi lại chậm". Rồi mọi người lại thăm hỏi nhau, tiếng kéo ghế, tiếng gọi lấy thêm ghế, cứ nhộn nhạo cả lên ầm ĩ trong phòng, hồi lâu mới ngớt. Kế nghe tiếng cô gái hỏi thuốc, cô Chín cho là nên có sâm, cô Sáu cho là phải có kỳ, cô Tư bảo là cần có truật, bàn bạc một lúc lại nghe cô Chín gọi đem bút nghiên ra. Không bao lâu có tiếng xé giấy soàn soạt, tiếng đặt bút lách cách, tiếng mài mực rin rít, kế đó là tiếng ném bút kéo bàn vang vang, rồi nghe tiếng lấy thuốc trong bao sột soạt. Lát sau cô gái kéo rèm, gọi người bệnh, lấy thuốc nhận đơn rồi quay trở vào.
Lập tức nghe tiếng ba cô gái chào về, tiếng ba thị tỳ chào về tiếng trẻ con bi bô, tiếng mèo ngoao ngoao lại rộ lên cùng một lúc. Tiếng cô Chín trong mà cao, tiếng cô Sáu chậm mà trầm, tiếng cô Tư dịu mà ấm, cho đến tiếng của ba tỳ nữ đều có âm sắc riêng, nghe có thể phân biệt rõ ràng được. Mọi người tin là thần cho thuốc thật, nhưng uống thử thì không khỏi bệnh. Đó gọi là thuật mồm, dùng nó để bán thuốc mà thôi, nhưng cũng kỳ lạ thật!
Vương Tâm Dật kể lúc ở kinh đô ngẫu nhiên đi ngang chợ nghe tiếng ca hát đánh đàn, người xem đông nghẹt. Tới gần nhìn thì thấy một thiếu niên cao giọng ca hát, chỉ lấy một ngón tay đè vào má, vừa đương vừa hát, tiếng nghe vang vang, không khác gì tiếng đàn, cũng là dòng dõi của người biết thuật mồm.

236. Vương Lan
(Vương Lan)

Vương Lan người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) bị bạo bệnh chết. Diêm Vương xét lại thì là quỷ tốt bắt lầm, bèn trách phạt bắt đưa hồn Vương về nhập vào xác lại, thì xác đã nát. Quỷ sợ tội, nói với Vương "Người mà chết làm ma thì khổ, ma mà được thành tiên thì sướng, nếu được sướng thì cần gì phải sống lại làm người?". Vương cho là đúng, quỷ nói "Ở đây có một con hồ đã luyện được kim đan, trộm lấy mà nuốt thì hồn không tan, có thể sống mãi, muốn đi đâu làm gì đều được như ý, ông có chịu không?". Vương nghe theo, quỷ bèn dắt đi, tới một phủ đệ lớn, thấy lầu gác nguy nga nhưng vắng vẻ không có một người nào. Có con hồ đứng dưới trăng, ngửa đầu nhìn lên không, thở ra một hơi, trong miệng có vật tròn bay thẳng vào mặt trăng, hít vào một hơi, vật ấy rơi xuống lại há miệng ngậm lấy, rồi lại thở ra, cứ thế làm mãi. Quỷ bèn rón rén tới bên cạnh, chờ lúc hồ thở phun vật ấy ra vội cướp lấy đưa cho Vương nuốt. Hồ giật mình, nổi giận xông tới nhưng thấy họ có hai người, sợ chống không nổi đành căm hờn bỏ đi. Vương chia tay với quỷ, về tới nhà thì vợ con nhìn thấy đều hoảng sợ chạy tan. Vương kể lại mọi chuyện, vợ con dần dần yên tâm, từ đó lại ăn ở trong nhà như lúc trước.

Bạn là Trương sinh nghe chuyện tới thăm, gặp nhau cùng trò chuyện. Vương nói “Nhà ta và anh đều nghèo, nay có thuật có thể làm giàu được, anh cùng đi với ta được không?”. Trương vâng dạ, Vương lại nói "Ta có thể không cần thuốc vẫn chữa được bệnh, không cần bói vẫn đoán được mệnh, nhưng nếu ta ra mặt lỡ gặp người quen thì họ hoảng sợ, nên cứ ngầm theo anh thôi được không?”. Trương lại vâng dạ, rồi đó sắp xếp hành trang ngay hôm ấy lên đường. Tới địa giới tỉnh Sơn Tây, có người nhà giàu nọ có con gái đột nhiên bị hôn mê, thuốc thang cầu đảo hết cách vẫn không khỏi. Trương bèn tìm tới, tự xưng là chữa được. Phú ông chỉ có một người con gái ấy, nên rất thương yêu, hứa rằng nếu chữa được sẽ đền ơn ngàn đồng vàng. Trương xin vào xem, theo phú ông vào phòng, thấy cô gái nhắm mắt nằm yên, giở chăn lên vỗ vào người vẫn không hay biết gì.

Vương ngầm nói với Trương rằng "Hồn cô này lạc mất rồi, phải đi tìm mới được". Trương bèn nói với phú ông rằng bệnh tuy nguy nhưng vẫn có thể cứu được. Phú ông hỏi cần thuốc gì, Trương đáp rằng đều không cần, hồn con gái ông đi lạc rồi, đã sai thần đi tìm. Khoảng sau một giờ Vương chợt trở lại nói với Trương là đã tìm được. Trương bèn mời ông vào lại trong phòng xem, lại gọi cô gái, giây lát cô ta ngồi dậy, mở mắt nhìn. Phú ông cả mừng vỗ về hỏi han, cô gái nói "Con đang chơi trong vườn thì thấy một thiếu niên cầm cung bắn chim, có mấy người dắt ngựa theo hầu. Con đang muốn chạy thì họ cản đường, chàng thiếu niên ấy đưa cung cho con, bảo con bắn. Con xấu hổ từ chối, y bèn kéo con lên ngựa, thúc ngựa chạy rồi cười nói ‘Ta đang muốn vui vẻ với cô, đừng có xấu hổ’. Được vài dặm thì vào trong núi, con vừa la vừa chửi, y nổi giận xô con ngã xuống cạnh đường. Đang muốn về nhưng không biết đường, chợt thấy có một người tới nắm tay con kéo đi như bay, chớp mắt đã về tới nhà, chợt tỉnh dậy đây".

Phú ông cho là thần kỳ, quả tạ ơn Trương một ngàn đồng vàng. Đêm tới Vương bàn với Trương giữ lại hai trăm để ăn đường, còn bao nhiêu mang cả về nhà, gõ cửa đưa cho con, bảo đem ba trăm đồng qua đưa cho vợ Trương, rồi trở lại nhà phú ông. Hôm sau cáo từ, phú ông không thấy Trương cầm tiền bạc gì cả, càng lấy làm lạ, kính cẩn đưa tiễn. Vài hôm sau, Trương gặp người cùng làng là Hạ Tài trên đường. Tài ham uống rượu đánh bài không lo làm ăn nên nghèo mạt, nghe Trương học được phép lạ kiếm được rất nhiều tiền nên đi tìm. Vương khuyên Trương cho y chút ít tiền bảo vệ. Tài không bỏ nết cũ, chơi bời được chục hôm hết sạch tiền, lại đi tìm Trương.

Vương đã biết trước, nói "Tài là kẻ bừa bãi, không nên gần gũi, chỉ nên cho tiền bảo đi đi, nếu có tai họa cũng không nguy hiểm". Vài hôm quả nhiên Tài tới, năn nỉ xin đi theo, Trương nói "Ta đã biết ngươi sẽ tìm tới nữa, nhưng ngươi chỉ lo cờ bạc rượu chè, dẫu đưa ngàn đồng vàng cũng như bỏ vào cái túi không đáy. Nếu ngươi thật tâm bỏ thói xấu, thì ta tặng cho một trăm đồng vàng". Tài hứa hẹn thề thốt, Trương bèn dốc hết tiền bạc ra đưa cho. Tài trở về, trong túi có trăm đồng vàng, đánh bạc càng lớn, uống rượu chơi gái lu bù, coi tiền như rác. Chức dịch trong làng nghi ngờ bắt giải lên quan, khảo tra rất nặng. Tài khai rõ tiền bạc ở đâu mà có, quan bèn sai lính giải đi tìm Trương, được vài ngày bị thương nặng chết dọc đường.

Hồn Tài không quên Trương lại tìm tới nương tựa, nhân đó gặp Vương. Một hôm cùng uống rượu với nhau. Tài say quá la ầm lên, Vương ngăn lại không nghe. Gặp lúc quan Ngự sử tuần sát đi ngang, nghe tiếng la sai tìm bắt được Trương, Trương nói rõ sự thật. Quan Ngự sử tức giận phạt roi, rồi đốt điệp sớ cáo với thần. Đến đêm nằm mộng thấy một người mặc giáp vàng tới nơi "Đã xét Vương Lan vô tội mà chết đã thành quỷ tiên, làm việc chữa bệnh cũng là sự nhân đức, không thể coi là loại yêu tà quỷ mị. Nay vâng mệnh Thượng đế, đã trao cho y chức Thanh đạo sứ. Hạ Tài càn quấy bừa bãi, đã phạt giam vào núi Thiết Vi. Họ Trương không có tội gì, nên tha y ra". Quan Ngự sử tỉnh dậy lấy làm lạ, bèn tha cho Trương. Trương khoác gói về làng, trong túi còn mấy trăm đồng vàng, bèn đưa một nửa tới nhà Vương, con cháu Vương từ đó trở nên giàu có.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 237 - 241 -
Hải Công Tử
(Hải Công Tử)

Đảo cổ Đông Hải (thuộc tỉnh Sơn Đông) có cây hoa nại đông ngũ sắc, thường nở hoa cả bốn mùa, song trong đảo không có ai ở, ít người lui tới. Trương sinh người huyện Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) tính hiếu kỳ, thích du ngoạn, nghe nóí cảnh ở đó đẹp bèn mang rượu thịt, tự chèo thuyền ra đảo chơi. Tới nơi thì gặp lúc hoa đang nở rộ, mùi hương lan khắp mấy dặm, thấy cây nại đông to hơn chục người ôm, cứ qua lại ngắm nghía mãi, lấy làm thích thú. Rồi mở bầu rót rượn, tiếc là không có ai cùng đi chơi. Chợt trong đám hoa có một cô gái đẹp hiện ra, áo hồng mắt sáng, xinh đẹp không ai sánh được, nhìn Trương cười nói "Thiếp tự cho rằng hứng thú của mình không tầm thường, không ngờ đã có kẻ đồng điệu tới trước". Trương ngạc nhiên hỏi là ai, nàng đáp "Thiếp là con hát ở huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), vừa theo Hải Công tử tới đây. Ông ta thích cảnh đẹp đi khắp nơi, thiếp mỏi chân nên nghỉ lại ở đây". Trương đang buồn về nỗi quạnh hiu, gặp được người đẹp rất vui, gọi tới cùng ngồi uống rượu.

Cô gái nói năng dịu dàng làm say lòng người, Trương rất yêu thích, nhưng sợ Hải Công tử tới nên không dám mặc tình vui vẻ. Chợt nghe gió thổi ào ào, cây cối gảy răng rắc. Cô gái vội xô sinh dậy nói “Hải Công tử tới rồi”. Trương thắt lại áo kinh ngạc quay nhìn thì cô gái đã biến mất. Kế thấy một con rắn lớn từ đám cây rậm bò ra, to như cái thùng. Trương sợ, núp vào sau cây nại đông, mong là nó không nhìn thấy. Con rắn bò sát tới quấn cả người Trương vào gốc cây, cuốn luôn mấy vòng, hai tay Trương bị đè dưới hông không cục cựa gì được. Rắn ngẩng đầu thè lưỡi chọc vào mũi Trương, máu mũi chảy ra đọng thành vũng dưới đất, nó cúi xuống uống. Trương tự nghĩ ắt là phải chết, chợt nhớ trong lưng có mang gói thuốc độc, bèn lấy hai ngón tay móc thủng cái gói, hứng thuốc vào lòng bàn tay, rồi vươn cổ ra đưa bàn tay hứng máu mũi, giây lát được một bụm. Con rắn quả nhiên quay đầu uống máu trong lòng bàn tay, uống chưa hết chợt duỗi ra, đập đuôi mạnh như sét trúng thân cây, nửa thân cây trên đổ xuống, rắn cũng duỗi ra như cái xà nhà chết lăn trên mặt đất. Trương cũng rủn chân hoa mắt không đứng dậy nổi, lát sau mới tỉnh. Bèn chở xác con rắn về nhà, bệnh nặng mấy tháng, ngờ cô gái cũng là tinh rắn.

238. Đinh Tiền Khê
(Đinh Tiền Khê)

Đinh Tiền Khê là người huyện Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), gia tư giàu có, hào hiệp trọng nghĩa, hâm mộ những kẻ du hiệp thời cổ, bị quan tư nã bắt. Đinh bỏ trốn, tới đất An Khâu gặp mưa, vào trú ở một nhà nọ, nhưng mưa suốt cả ngày không ngớt. Có một thiếu niên bước ra mời ăn cơm, cơm nước rất tử tế. Kế trời tối, Đinh nghỉ đêm luôn lại đó, thiếu niên cũng đem rơm cỏ cho ngựa đầy đủ. Đinh hỏi tên họ, thiếu niên đáp "Chủ nhân họ Dương, ta là cháu trong nhà. Chủ nhân ưa giao du, có việc đi vắng rồi, trong nhà chỉ có nương tử, nhà nghèo không tiếp đãi được chu đáo, xin khách tha lỗi". Hỏi tới nghề nghiệp chủ nhân, thì được biết chẳng buôn bán làm lụng gì, chỉ hàng ngày đánh bạc, kiếm ăn cò con.

Hôm sau lại mưa dầm dề. Đinh vẫn được lo cơm nước rất chu tất. Tối đến thiếu niên mang cỏ cho ngựa, bó cỏ ướt đẫm mà lại cọng dài cọng ngắn không đều, Đinh lấy làm lạ. Thiếu niên nói “Thưa thật với khách, nhà nghèo không có cỏ cho ngựa, đây là nương tử rút tranh lợp nhà xuống đấy thôi". Đinh lại càng lạ lùng, cho là họ rất thành thật. Sáng ra đưa tiền, thiếu niên không nhận, Đinh ép thiếu niên cầm vào giây lát lại cầm ra trả, nói "Nương tử nói không phải làm nghề bán quán, chủ nhân ra ngoài thường vài ba ngày chẳng mang theo một đồng, nay khách tới nhà sao lại lấy tiền?”, Đinh ca ngợi từ biệt, dặn "Ta là Đinh Mỗ ở Chư Thành, khi nào chủ nhân về nhớ nói lại rằng lúc nào rảnh mời ghé chơi".
Mấy năm sau chẳng hề qua lại gì, gặp năm đói kém, Dương càng khổ cực, không còn cách nào sinh sống, vợ rụt rè khuyên tìm tới Đinh, Dương nghe theo. Tới nơi, xưng họ tên với người gác cổng, Đinh quên không nhớ, sai hỏi lại mới nhớ ra, vội chạy chân đất ra mời vào. Thấy Dương áo rách giày nát, bèn đưa vào phòng ấm, bày tiệc khoản đãi, cung kính phi thường. Hôm sau may sắm quần áo cho, Dương được ăn no mặc ấm rất cảm kích, nhưng càng lo lắng cho gia đình, cũng mong được chút gì cầm về. Ở mấy ngày liền, chẳng nghe Đinh nói tặng tiền gì cả, Dương nóng ruột nói với Đinh rằng "Thật không dám giấu diếm, lúc ta lên đường tới đây thì trong nhà chỉ còn chưa đầy một thăng gạo, nay ta được quá thương lo cho ăn cho ở, dĩ nhiên vui sướng, nhưng vợ con thì làm sao!”. Đinh nói “Chuyện đó không lo, ta đã sắp xếp thay ông rồi, xin cứ thong thả ở chơi ít hôm, ta sẽ giúp tiền về". Bèn sai người gọi đám con bạc tới, bảo Dương làm cái đánh trọn đêm thắng được trăm đồng vàng, bèn tiễn Dương về Dương về tới nhà thấy phòng ốc bày biện đầy đủ, vợ mặc quần áo mới, có tỳ nữ hầu hạ, ngạc nhiên hỏi. Vợ đáp "Chàng đi được vài hôm thì có người chở vải vóc lúa gạo tới vác vào chất đầy nhà, nói là của ông khách họ Đinh tặng. Lại có thêm mười người tỳ nữ cho thiếp sai bảo” Dương cảm kích vô cùng, từ đó được đủ ăn, không làm nghề cũ nữa.
Dị Sử thị nói:Nghèo mà hiếu khách là điều hay ở đám rượu chè cờ bạc, nhưng người vợ của họ Dương là lạ lùng nhất. Còn nhận ơn của người mà không báo sao đáng là người, nhưng Đinh mỗ quả là kẻ cái ơn một bữa cơm cũng không quên vậy.

239. Con Chuột Có Nghĩa
(Nghĩa Thử)

Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra kiếm ăn một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đứng nhìn, có vẻ rất căm giận. Rắn ăn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột lanh lẹn chạy trốn, rắn đuổi không kịp bèn quay lại, bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt dất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn ta là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này.

240. Quỷ Nhập Tràng
(Thi Biến)

Huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông Mỗ ở thôn Thái Điếm. Thôn cách huyện thành năm sáu dặm, cha con ông ta dựng quán cạnh đường cho người buôn bán qua lại nghỉ trọ, có bốn người phu xe chở hàng vẫn vào trọ ở đó. Một hôm trời rất tối bốn người cùng về tới thì quán trọ đã đầy khách. Bốn người không biết làm sao, cứ nài nỉ xin cho trọ lại. ông Mỗ ngẫm nghĩ tìm được một chỗ, nhưng ngần ngại sợ không hợp với khách. Bốn người lại nói chỉ cần có chỗ ngả lưng là đủ chứ không dám chọn lựa khen chê gì cả. Lúc ấy con dâu của ông Mỗ vừa chết, xác còn đặt trong nhà bên kia đường, con trai đi mua quan tài chưa về, ông thấy trong nhà còn rộng bèn dắt khách qua đó nghỉ.

Khách vào tới thì thấy trên bàn có ngọn đèn leo lét, phòng trong buông rèm, cái xác được đắp chăn đậy mặt nằm đó, chỗ ngủ bên ngoài thì có bốn cái giường đặt liền nhau. Mọi người đều đã mệt mỏi, lập tức lên nằm ngủ khò, chỉ còn một người mơ mơ màng màng chưa ngủ hẳn. Chợt nghe trong phòng người chết có tiếng cót két, vội mở mắt ra nhìn, thì thấy rõ dưới ánh đèn cái xác người đàn bà đã giở chăn ngồi dậy. Kế đó cái xác bước xuống đất từ từ bước ra chỗ đám khách nằm ngủ, sắc mặt lợt lạt vàng khè, vén tấm vải che mặt lên trán, cúi xuống trước giường lần lượt thổi vào mặt ba người kia. Y hoảng hốt, sợ sẽ thổi tới mình, vội kéo chăn trùm kín đầu nhắm mắt nín thở nghe ngóng.
Không bao lâu người đàn bà cũng tới thổi vào y rồi đi trở vào. Y nghe tiếng rèm sột soạt, hé chăn ra nhìn trộm thấy cái xác đã nằm lại trên giường như cũ. Y sợ quá không dám lên tiếng, ngầm lấy chân đạp vào mấy người kia thì họ đều nằm yên không động đậy, nghĩ rằng không còn cách nào, chẳng bằng mặc áo trốn đi. Vừa trở dậy mặc áo thì tiếng cót két trong kia lại vang lên, y hoảng sợ vội nằm xuống kéo chăn che kín đầu, thấy người đàn bà lại tới thổi liên tiếp, hồi lâu mới trở về. Giây lát nghe giường trong có tiếng động, biết là cái xác đã nằm xuống, bèn rón rén mặc áo quần trong chăn, rồi nhảy xuống đất bỏ chạy. Cái xác vùng dậy định đuổi, vừa ra khỏi màn thì y đã tung cửa chạy rồi.

Cái xác đuổi theo, y vừa chạy vừa la, muốn đập cửa quán gọi ông Mỗ dậy nhưng sợ không kịp, bèn cứ theo đường về phía huyện thành ráng sức chạy. Tới cửa đông huyện thành, thấy có ngôi chùa, nghe thấy tiếng gõ mõ, vội vàng chạy tới đập của. Đạo nhân trong chùa thấy có chuyện lạ, lại không mở cửa ngay, y còn chờ thì cái xác đã đuổi tới còn cách có một thước, y càng hoảng hốt. Ngoài cổng chùa có cây bạch dương chu vi khoảng bốn năm thước, y bèn chạy tới đó ẩn núp, cứ cái xác vòng bên này thì y chạy qua bên kia, cái xác càng giận dữ song khách cũng dần dần thấm mệt. Cái xác dừng lại, y đổ mồ hôi thở hổn hển, nép vào gốc cây. Cái xác chợt lao qua, giơ hai tay từ ngoài nhảy xổ vào chụp, y kinh hãi ngã xuống đất, cái xác chụp hụt, ôm gốc cây đứng sững ra đó.

Đạo nhân trong chùa nghe ngóng hồi lâu thấy yên ắng, bèn từ từ mở cửa ra, nhìn thấy y nằm trên mặt đất, nghĩ rằng đã chết, nhưng thấy tim còn đập thoi thóp bèn cõng vào, đến sáng mới tỉnh. Đạo nhân lấy nước cho uống rồi hỏi han, y thuật lại mọi việc. Lúc ấy đã xong hồi chuông sớm, trời đã sáng mờ mờ, đạo nhân ra xem chỗ gốc cây, quả thấy cái thây người đàn bà đứng sững ở đó, cả sợ bèn báo quan. Quan đích thân tới tra hỏi khám nghiệm, sai gỡ tay cái xác ra khỏi gốc cây, mãi vẫn không được. Nhìn kỹ lại thì tám ngón tay đều cong lại như cái móc cắm lút vào thân cây, lại sai mấy người cùng hết sức giật mạnh mới gỡ ra được, nhìn lại thì chỗ ngón tay bấu vào trong gỗ sâu hoắm như lấy dùi đóng vào. Quan sai người tới nhà ông Mỗ dò xét, thì ở đó đang ồn ào rầm rĩ vì xác mất khách chết. Người sai dịch thuật lại chuyện, ông Mỗ bèn đi theo tới chùa, lãnh cái xác về. Người khách khóc nói với quan huyện rằng "Bốn người cùng ra đi với nhau, nay chỉ có một người trở về, kể lại chuyện này làm sao làng xóm tin được?". Quan huyện bèn phát công văn sai người đưa y về quê.

241. Phun Nước
(Phún Thủy)

Tiên sinh Tống Thúc Ngọc người huyện Lai Dương (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở kinh, phủ đệ ở một chỗ rất hoang vắng. Một đêm, hai người tỳ nữ cùng mẹ tiên sinh là Thái phu nhân ngủ ở trong phòng, chợt nghe sau viện có tiếng phùn phụt như thợ may phun nước lên vải để cắt áo vậy. Thái phu nhân bảo một người tỳ nữ dậy xem, người tỳ nữ núp sau cửa sổ nhìn ra thì thấy một bà già người thấp lưng gù, tóc bạc phất phơ, đội một cái mũ chụp cao chừng hai thước, đi vòng quanh nhà, co ro như con hạc, vừa đi vừa phun, mãi vẫn không hết nước trong mồm. Người tỳ nữ kinh ngạc trỡ vào bẩm, Thái phu nhân cũng ngạc nhiên dậy xem, hai người tỳ nữ đỡ ra cạnh cửa sổ cùng nhìn.

Bà già chợt tới sát cửa sổ, phun thẳng vào trong, giấy dán cửa sổ rách toạch, ba người sợ hãi ngả lăn ra đất, nhưng người trong nhà đều không biết. Mặt trời lên cao, người trong nhà đều tụ họp, gõ cửa phòng không thấy trả lời mới hoảng sợ, vội nhấc cánh cửa lên mà vào, thấy một chủ hai tớ đều nằm chết cứng. Sờ tới thấy một tỳ nữ dưới ngực còn ấm, vội đỡ lên cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh, kể lại mọi việc. Tiên sinh tới, đau đớn phẫn hận muốn chết, bèn sai theo vết nước tìm tới một chỗ. Đào xuống hơn ba thước thì lộ ra mớ tóc trắng, lại đào nữa thì thấy có một cái xác, hình dung giống như người tỳ nữ đã trông thấy, sắc mặt vẫn tươi tắn như còn sống. Tiên sinh sai đánh, thì xương thịt đã nát hết, bên dưới lớp da chỉ toàn là nước trong mà thôi.

Bồ Tùng Linh
Liêu Trai Chí Dị II
Dịch giả: Cao Tự Thanh
- 242 - 244 -
Con Quái Trong Núi
(Sơn Tiêu)

Tôn Thái Bạch từng kể ông cố của ông đọc sách trong chùa Liễu Câu ở Nam Sơn, có lần tháng tư về nhà, hơn chục ngày mới trở lại. Mở cửa vào thì thấy bụi bặm đầy bàn, tơ nhện ngập song, bèn sai kẻ hầu quét dọn, đến tối mới xong. Kế dọn giường trải chiếu, gối đầu nằm bên song nhìn ra cửa sổ ngắm trăng. Trằn trọc một lúc thì đêm đã yên ắng, chợt có tiếng gió ào ào nổi lên, cổng chùa rít kèn kẹt. Đang nghĩ một mình rằng chắc sư trong chùa quên cài cổng, thì tiếng gió đã tới cạnh phòng ở, kế đó cửa phòng mở tung. Còn đang ngờ vực chưa biết là gì thì tiếng động đã vào tới phòng, lại có tiếng dép quèn quẹt tới sát phòng ngủ, bắt đầu thấy sợ thì cửa phòng ngủ mở ra. Vội nhìn ra, thì thấy có một con quỷ lớn khom lưng bước vào, tiến tới đứng sừng sũng ở đầu giường, cao ngang xà nhà, mặt vàng như trái dưa già, mắt sáng lóng lánh nhìn khắp bốn vách, há miệng to như cái chậu, răng chơm chởm dài khoảng ba tấc, liếm mép nuốt nước bọt ừng ục, tiếng rền cả phòng. Ông sợ quá, nhưng lại nghĩ nó chỉ đứng cách mình trong gang tấc, không còn cách chạy trốn nữa, chẳng bằng nhân lúc sơ hở mà đâm. Bèn ngầm rút thanh bội đao dưới gối ra chém hết sức trúng vào bụng nó, nghe leng keng như chém vào đá. Con quỷ cả giận, vươn móng vuốt vồ ông, ông co người lại tránh, quỷ vồ trúng cái chăn, giật lấy rồi căm tức bỏ đi. Ông bị kéo rơi xuống giường, nằm dưới đất la ầm lên, người hầu cầm đèn chạy tới thì thấy cửa phòng vẫn đóng như cũ. Trèo cửa sổ vào trông thấy cả sợ, bèn đỡ ông lên giường, ông mới kể lại chuyện. Mọi người cùng đi tìm kiếm thì thấy cái chăn vắt ở của phòng ngủ, đem ra cửa mở xem thì thấy vết móng to như cái rổ, năm dấu ngón tay xuyên suốt từ bên này qua bên kia. Trời sáng ông không dám ở lại nữa, cắp tráp về nhà, sau tới hỏi sư trong chùa, thì không thấy có gì khác lạ nữa.

243. Con Quái Trong Đống Lúa (Thu Trung Quái)

Ông họ An ở huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) chăm việc đồng áng, gặp vụ lúa thu chín, gặt để thành đống trên bờ ruộng. Lúc ấy ở thôn bên cạnh có kẻ đi trộm lúa, nên ông sai đầy tớ nhân đêm có trăng chở thóc về làng nộp thuế, đong đếm xong thì trở lại, còn tự mình ở lại canh giữ, gối đầu lên cái mác ngủ cạnh đống lúa. Vừa mới thiu thiu, chợt nghe có tiếng người đạp lên lúa sàn sạt đi tới, ngỡ là bọn trộm, vội ngóc đầu dậy nhìn thì thấy một con quỷ cao hơn một trượng, mặt mũi hung dữ tới sát bên cạnh. Ông phát hoảng không biết làm sao, bèn nhảy bật dậy đâm bừa, con quỷ kêu rống như sấm sét bỏ chạy. Ông sợ nó quay trở lại, vác cái mác chạy về, gặp đầy tớ dọc đường, thuật lại chuyện mới rồi bảo họ đừng ra ruộng nữa, song mọi người cũng chưa tin lắm.
Hôm sau đang phơi thóc, chợt nghe có tiếng gầm vang tới, ông hoảng sợ nói “Con quỷ tới rồi", rồi bỏ chạy, mọi người cũng chạy tán loạn. Một lúc sau mới dần dần tụ họp lại, ông sai mọi người mang cung nỏ để rình. Hôm sau quả nhiên con quỷ tới, mọỉ người cùng bắn tên ra, quỷ sợ chạy mất, hai ba ngày không tới nữa. Khi đưa hết lúa về kho xong, rơm rạ còn vứt bỏ ngổn ngang ngoài ruộng, ông sai đầy tớ đánh thành đống, tự mình trèo lên xem xét, đứng cao hơn mặt đất vài thước, chợt nhìn ra xa hoảng sợ kêu lên "Con quỷ tới rồi!". Mọi người đang vội vàng tìm cung nỏ thì con quỷ đã xông tới sát ông, ông ngã quay ra, nó bèn cắn vào mặt rồi bỏ đi. Mọi người trèo lên cây rơm xem, thì trên mặt ông mất một miếng xương to bằng bàn tay, hôn mê không biết gì nữa, cõng về tới nhà thì chết. Sau đó không thấy nó nữa, không biết đó là loại quỷ quái gì.

244. Chàng Sáu Vương
(Vương Lục Lang)

Họ Hứa ở phía bắc thành huyện Truy (tỉnh Sơn Đông) làm nghề đánh cá. Đêm nào cũng mang rượu tới bờ sông, uống rồi mới kéo lưới, uống rượu thì rót một chén xuống đất khấn "Ma da trên sông tới mà uống", cứ thế thành lệ. Người khác đánh cá có khi không được chút gì, chứ riêng Hứa thì đêm nào cũng được đầy giỏ. Một đêm vừa đem rượu ra uống một mình thì có một thiếu niên tới quanh quẩn cạnh đó. Hứa mời cùng uống, vui vẻ với nhau, trọn đêm chờ chẳng được con cá nào, Hứa rất thất vọng. Thiếu niên đứng dậy nói "Xin xuống dưới dòng xua cá lên cho ông", rồi nhẹ nhàng bước đi. Giây lát quay lại nói “Cá tới nhiều rồi đấy!” quả nhiên nghe tiếng cá đớp móng vang dưới sông, cất lưới lên thì được vài con dài cả thước. Hứa mừng quá, cám ơn định về, đưa cá biếu thì thiếu niên không nhận, nói "Nhiều phen được cho uống rượu ngon rồi, bấy nhiêu đâu đã đủ để báo đáp? Nếu như không ghét bỏ, xin cứ cho được uống rượu thế này thôi!". Hứa nói “Mới uống với nhau có một lần, sao lại nói là nhiều phen? Còn nếu chiếu cố tới nhau mãi, thì đó là điều ta rất muốn, chỉ thẹn không có gì để tỏ bày tình cảm thôi". Rồi hỏi họ tên, thiếu niên đáp “Ta họ Vương, không có tên tự, gặp nhau cứ gọi là chàng Sáu Vương được rồi", rồi từ biệt nhau.
Sáng ngày Hứa bán cá, mua rượu nhiều hơn, tối đến tới bờ sông đã thấy thiếu niên tới trước chờ đó. Lại cùng vui vẻ uống rượu với nhau, được vài chén, vội đứng dậy đi xua cá cho Hứa. Cứ thế được nữa năm, một hôm chợt nói với Hứa "Được quen biết nhau, tình thân còn hơn cả ruột thịt, nhưng sắp phải xa nhau rồi” lời lẽ rất ảo não. Hứa ngạc nhiên hỏi, thiếu niên định đáp lại thôi, mấy lần mới nói “Thân tình như hai người chúng ta, nói ra thì chắc ông không ngờ sợ chăng? Nay sắp chia tay, nói thật cũng chẳng hề gì, ta thật là ma đây. Lúc sống vốn hay rượu, say quá mà chết đuối, mấy năm làm ma ở đây rồi. Trước kia ông đánh cá được nhiều hơn người khác, đều là do ta xua cá vào để đền đáp cái ơn rót rượu xuống đất cho uống đấy. Ngày mai nghiệp căn đã hết, sẽ có người thay, ta sắp đi đầu thai, chỉ còn gặp nhau đêm nay, nên không khỏi bùi ngùi". Hứa thoạt nghe rất sợ, nhưng gần gũi đã lâu nên không khiếp hãi, lại vì thế mà thương cảm, rót rượu mời nói "Chàng Sáu uống chén này đi, đừng đau đớn nữa? Gặp nhau rồi lại chia tay, kể cũng đáng buồn, nhưng thoát khỏi nghiệp chướng chính là điều nên chúc mừng, buồn bã thì không phải lẽ”, bèn cùng nhau uống thật say. Hứa hỏi người thay là ai, đáp “Ông cứ chờ bên sông mà nhìn, trưa mai sẽ có người đàn bà qua sông chết đuối, là kẻ thay ta đấy!". Nghe gà trong làng đã gáy, hai người gạt lệ chia tay.

Hôm sau Hứa chờ bên sông để xem chuyện lạ. Quả thấy có người đàn bà bồng con tới, tới bờ sông thì khuỵu chân ngã xuống nước, đứa bé văng lên bờ, giơ tay quẫy chân khóc ầm lên. Người đàn bà trồi lên hụp xuống vài lần, chợt vùng vẫy bám được vào bờ trèo lên, nằm lăn ra đất thở dốc một lúc rồí trở dậy bồng con đi. Lúc người đàn bà rơi xuống sông, Hứa thấy bất nhẫn muốn nhảy xuống cứu, nhưng lại nghĩ đây là kẻ thay cho chàng Sáu được đi đầu thai, nên đứng lại không tới cứu nữa. Đến khi người đàn bà tự lên được bờ sông, Hứa ngờ rằng lời chàng Sáu nói không đúng. Tối đến ra đánh cá ở chỗ cũ, lại thấy thiếu niên tới, nói "Từ nay trở đi lại được gặp nhau, không nói chuyện chia tay nữa". Hứa hỏi tại sao, đáp “Người đàn bà ấy đúng là sắp phải thay ta, nhưng ta thương đứa bé còn đang tuổi phải bồng ẵm, bắt một người thay mà hại hai mạng sống nên tha cho chị ta. Người thay chẳng biết đến bao giờ mới có nữa, có khi cái duyên giữa hai người bọn ta chưa dứt chăng?”. Hứa cảm động than thở khen rằng "Tấm lòng nhân hậu thương người như thế có thể thấu tới Thượng đế", từ đó lại gặp gỡ nhau như trước.
Vài hôm sau thiếu niên lại tới từ biệt, Hứa nghĩ rằng chắc lại có kẻ thay. Thiếu niên nói “Không phải thế đâu, một ý niệm hôm trước quả làm cảm động lòng trời, nay đã trao cho ta chức thổ thần đất Ô Trấn huyện Chiêu Viễn (tỉnh Sơn Đông), sáng mai là ngày phải đi nhậm chức. Nếu ông không quên bạn cũ, xin tới thăm nhau một lần, đừng ngại xa xôi khó nhọc". Hứa chúc mừng nói “Ông ngay thẳng mà làm thần, quá đủ để an ủi lòng người, nhưng thần người khác nẻo, dẫu ta không ngại xa xôi khó nhọc, nhưng làm sao được gặp nhau?”. Thiếu niên đáp "Cứ tới đừng lo", dặn dò mấy lần rồi đi. Hứa về nhà, lập tức sắp xếp hành trang lên đường, vợ cười nói "Cách đây vài trăm dặm thì quả có một chỗ tên gọi như thế thật, có đều e rằng tượng đất không nói chuyện được với nhau thôi". Hứa không nghe, đi tới Chiêu Viễn, hỏi thăm người ở đó quả có đất Ô Trấn, bèn tìm tới đất ấy, vào nghỉ ở quán trọ, hỏi thăm đền thờ Thổ thần ở đâu. Chủ nhân kinh ngạc hỏi "Khách họ Hứa phải không?”. Hứa đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Lại hỏi “Khách ở huyện Truy phải không?", đáp "Đúng rồi, sao ông biết?". Chủ nhân không đáp, vội vã bước ra ngoài. Giây lát thì đàn ông bế con, đàn bà nép ở cửa chen chúc rần rần kéo tới đứng đông đặc phía ngoài.
Hứa ngạc nhiên, mọi người bèn nói "Mấy đêm trước thần báo mộng rằng có người bạn họ Hứa ở huyện Truy Xuyên sắp tới thăm, phải lo lắng giúp đỡ, bọn ta đã chờ lâu rồi". Hứa cũng lấy làm lạ lùng, bèn tới đền tế, khấn rằng “Sau khi chia tay ông, đêm ngày không quên nên lặn lội đường xa cho trọn lời hứa, lại được ơn báo mộng cho dân biết để tiếp đón, tình nghĩa xin ghi tạc trong lòng, song thẹn lễ vật đơn sơ, chỉ có chén rượu đục, nếu không ghét bỏ, xin như ngày còn uống rượu với nhau bên sông", khấn xong, đất giấy tiền vàng bạc. Lập tức có một cơn gió nổi lên trước bàn thờ vi vút hồi lâu mới tan. Đêm ấy Hứa nằm mộng thấy thiếu niên tới, áo mão rực rỡ khác hẳn ngày trước, cảm tạ nói “Đường xa vất vả tới thăm nhau, thật ta vừa mừng vừa tủi, nhưng hiện đã giữ chức mọn, không tiện hiện thân gặp mặt, gần trong gang tấc mà như cách trở núi sông, rất là đau lòng. Những cư dân ở đây có chút lễ mọn khoản tặng thay ta, lúc nào ông về, cũng xin sẽ theo tiễn".

Ở được vài hôm, Hứa muốn về, mọi người khẩn khoản lưu lại, sáng rước chiều mời, mọi người báo tin cho nhau, tranh nhau mang lễ vật tặng tiễn, chưa đầy bữa sáng vật tặng đã đầy túi, già trẻ đều tụ họp đưa ra tới ngoài thôn. Chợt có một con gió trốt nổi lên cuốn theo tới hơn mười dặm, Hứa vái dài nói !Xin chàng Sáu tự bảo trọng, đừng vất vả tiễn xa như thế. Lòng ông nhân ái vốn có thể tạo phúc cho dân một phương, cố nhân không phải dặn dò gì nữa". Trận gió còn cuốn quanh hồi lâu mới tan, dân làng cũng kinh ngạc than thở quay về. Hứa về tới nhà cũng hơi dư dật, không phải làm nghề đánh cá nữa. Về sau gặp người ở Chiêu Viễn, hỏi thăm thì được biết Thổ thần ở đó nổi tiếng linh thiêng. Cũng có người nói rằng đó là Thổ thần ở trang Thạch Khanh huyện Chương Khâu, chưa rõ thuyết nào là đúng.

Dị Sử thị nói: Thân trên đường mây xanh mà lòng không quên bạn nghèo hèn, nhờ thế mới được làm thần đấy. Ngày nay những kẻ quý hiển ngồi xe có mấy ai nhìn nhận bạn nghèo đâu! Quê ta có người tên Lâm Hạ, nhà rất nghèo nhưng có người bạn thuở nhỏ nhận chức quan béo bở, cho rằng tìm tới sẽ được giúp đỡ bèn hết sức kiếm tiền ăn đường, bôn ba ngàn dặm, nhưng người bạn đón tiếp khác hẳn với điều y mong muốn, phải vét túi bán ngựa mới về được tới nhà. Đám em họ hay đùa, nhại thiên Nguyệt lệnh trong Lễ ký đặt lời chọc ghẹo rằng "Đến tháng ấy, ca ca về, mũ lông điêu xơ xác, dù lọng không giương, ngựa cưỡi hóa thành lừa, giày bắt đầu há mõm", nghĩ cũng là một chuyện buồn cười.
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top