Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 28961" data-attributes="member: 699"><p><strong><span style="color: Indigo">3. Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang, và căn cứ địa Cách mạng tháng Tám</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">3. 1 Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p>Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới diễn ra rất căng thẳng, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hoà. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới đang đến gần. Trước tình hình đó, tháng 10 – 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.</p><p></p><p>Sáng ngày 28 – 1 – 1941 (tức mồng 2 tết Tân Tỵ), Nguyễn Ái Quốc rời đất Trung Quốc và đến Pác Bó, Cao Bằng cùng ngày 28 – 1.</p><p></p><p>Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị những công việc của Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19 – 5 – 1941, với sự tham dự của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu Xứ uỷ Bắc Kì và Trung Kì và một số đại biểu hoạt động ngoài nước.</p><p></p><p>Sau khi phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật không phải là nhiệm vụ riêng của giai cấp công nông mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được [7;113 ]</p><p></p><p>Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất cảu bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm địa tôm giảm tức”.</p><p></p><p>Hội nghị chủ trương giải quyết vần đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, để thức tỉnh tinh thần dân tộc của các nước trên bán đảo Đông Dương; thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhât rộng rãi. Ở Việt Nam, mặt trận đó lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng của Mặt trận đều lấy tên thống nhất là “Hội cứu quốc”, như “Hội Công nhân cứu quốc”, v.v…</p><p></p><p>Hội nghị chủ trương thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật thì các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc, một quốc gia tuỳ ý, “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng" [7;113.]</p><p></p><p>Hội nghị đã chính thức bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới với một Ban Thường vụ gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng bí thư.</p><p></p><p>Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hàon chỉnh đường lối đấu tranh mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đàon kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập.</p><p></p><p>Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời, ngày 10 – 1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này […].Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian.</p><p></p><p>Mở con đường sống cho đồng bào, “Việt Nam Độc lập đồng minh” (Việt Minh) ra đời, chào các bạn.</p><p></p><p>Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là:</p><p></p><p>“1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập.</p><p>2.Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do” [ 7;470.]</p><p></p><p>Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.</p><p></p><p>Bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam:</p><p></p><p>Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) và Thư kêu gọi toàn dân đánh đuổi Pháp-Nhật của Nguyễn Ái Quốc (6 – 6 – 1940), Đảng ta xúc tiến công cuộc xây dựng lực lượng mọi mặt, trước hết là xây dựng các đoàn thể Việt Minh trên toàn quốc.</p><p></p><p>Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản báo chí Cách mạng.</p><p></p><p>Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” (gọi tắt là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.</p><p></p><p>Ngày 25 – 1 – 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ quan tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt Trận Việt Minh.</p><p></p><p>Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh (gọi là “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt Minh nắm giữ.</p><p></p><p>Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.</p><p></p><p>Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nông dân cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình (Bắc Kì), Thanh Hoá, Quảng Bình (Trung Kì).</p><p></p><p>Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.</p><p></p><p>Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.2.2 Quá trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng</span></strong></p><p></p><p>Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng.</p><p></p><p>Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai.</p><p></p><p>Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân.</p><p>Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc.</p><p></p><p>Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.</p><p></p><p>Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh.Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng.</p><p></p><p>Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 7-1941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng.</p><p></p><p>Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II* được thành lập tại rừng Khuôn Máy (xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.</p><p></p><p>Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng.</p><p></p><p>Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng.</p><p></p><p>Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây.</p><p></p><p>Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc.</p><p></p><p>Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng.</p><p></p><p>Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du kích.</p><p></p><p>Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh.Đồng thời phải tăng gia gấo việc cổ động ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện [7;251]. Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm chính.</p><p></p><p>Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.</p><p></p><p>Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc.</p><p></p><p>Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng của cả nước.</p><p></p><p>Trong thời gian này ở Bắc Trung Kì,Tỉnh Uỷ Thanh Hoá đề ra chủ trương thành lập căn cứ địa cách mạng, làm cơ sở phát triển lực lượng, thúc đẩy phong trào phản đế. Tỉnh ủy chọn vùng Ngọc Trạo để xây dựng chiền khu ở vùng Đông Bắc của tỉnh. Tháng 7- 1941, Ban lãnh đạo chiến khu được thành lập, Đội du kích Ngọc Trạo cũng ra đời với 21 đội viên. Cuối tháng 9 – 1941, Đội tăng lên 80 đội viên, ảnh hưởng và phạm vi chiến khu ngày càng lan rộng.</p><p>Thực dân Pháp đã điều lực lượng đến đàn áp. Do chênh lệch về quân số, lại thiếu kinh nghiệm và vũ khí, Đội du kích bị tổn thất lớn. </p><p> </p><p>Ban lãnh đạo chiến khu ra lệnh cho Đội du kích rá khỏi Ngọc Trạo phân tán về các địa phương. Cuối tháng 10 – 1941, chiến khu Ngọc Trạo chấm dứt hoạt động.</p><p></p><p>Trong khi đặt trọng tâm công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng chú trọng vận động các tầng lớp nhân dân đấu tranh dưới nhiều hình thức để duy trì và hướng phong trào quần chúng vào mục tiêu cứu quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương viết: “…ta phải khôn khéo huy động toàn thể nhân dân cùng với địa chủ, phú nông đấu tranh chống lại sự tịch thu lúa, gạo, đậu phụng…của Pháp – Nhật. Huy động thợ thuyền tranh đấu chống lại sự bắt làm công như nô lệ dưới báng súng, ngọn roi của quân Nhật trong những công xưởng quan hệ đến quân sự. Huy động nhân dân đấu tranh chống lại sự tàn bạo của lính Nhật. Ngoài ra, hằng ngày phải mở rộng tranh đấu cứu quốc, như tổ chức ra tuần lễ cứu quốc, tuần lễ ủng hộ Bắc Sơn, tuần lễ ủng hộ Liên Xô bằng những hình thức mít tin, diễn thuyết, mở lạc quyên, rải truyền đơn, biểu tình,.v.v." [7; tr129]</p><p></p><p>Theo chủ trương đó, trong những năm 1941 – 1942, các cuộc đấu tranhcủa công nhân ở một số thành phố và các khu công nghiệp đã bùng phát, như các cuộc đấu tranh của công nhân ngành in, cưa gỗ, giặt (Hà Nội), xưởng bột giấy Việt Trì (Phú Thọ) hay xưởng giầy Bata, đồn điền Bình Lộc (Biên Hòa), đồn điền Lộc Ninh (Thủ Dầu Một)…Những cuộc đấu tranh này diễn ra dưới hình thức đình công, bãi công, bãi thực, đưa yêu sách, phản đối đánh đập, đòi tăng lương, trả tiền lương đúng hạn…Nhìn chung, phong trào đấu tranh của công nhân còn ít về số lượng, nhỏ về quy mô.</p><p></p><p>Nông dân đấu tranh dưới hình thức biểu tình, đưa kiến nghị, chống hào lí, chủ đồn điền người Pháp cướp đoạt ruộng đất, lấn chiếm đất công, tham ô công quỹ, chống bắt phu, bắt lính…Tiêu biều là phong trào ở Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Đông, Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên…Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của nông dân còn thiếu bề rộng lẫn bề sâu, chưa liên kết được với các phong trào khác.</p><p></p><p>Tầng lớp thanh niên trí thức ở các thành phố lớn tập hợp trong các đoàn thể, tiến hanh các hoạt động xã hội,khêu gợi lòng yêu nước trong nhân dân, kêu gọi thanh niên phụng sự dân tộc. Ở Sài Gòn – Chợ Lớn xuất hiện phong trao yêu nước công khai lấy tên là “Phong trào câu lạc bộ học sinh”, phong trào thu hút tới ba, bốn nghìn học sinh, sinh viên, trí thức trong các trường Trung học kĩ thuật và Bách khoa ở Sài gòn tham gia.</p><p></p><p>Song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta cũng đề ra chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ủng hộ Liên ban Xô viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống phát xít Nhật.</p><p></p><p>Với tinh thần trên, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên hiệp với các lực lượng cách mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. </p><p></p><p> Ngày 27-8-1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt gaim 13 tháng, sau mới trả tự do cho Người.</p><p></p><p> Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an toàn ở Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng.</p><p> Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô.</p><p></p><p>Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.</p><p></p><p> Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bứơc vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.</p><p></p><p> Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đông.</p><p></p><p> Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước” [7;279]</p><p></p><p>Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định:</p><p></p><p>1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.</p><p></p><p>2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc.</p><p></p><p>3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]</p><p></p><p>Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”.</p><p></p><p>Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.</p><p></p><p>Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ.</p><p>Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.</p><p></p><p>Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì…</p><p></p><p>Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.</p><p></p><p>Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.</p><p></p><p>Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.</p><p>Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn.</p><p></p><p>Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”.</p><p></p><p>Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.</p><p></p><p>Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.</p><p></p><p>Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.</p><p></p><p>Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục" [ 10; 129] </p><p></p><p>Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.[10;130] </p><p></p><p>Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.</p><p></p><p>Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944.</p><p></p><p>Song song với công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng cũng tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, nhằm chống lại văn hóa, tư tưởng phản động của Nhật – Pháp và tay sai, không để ảnh hưởng đến quần chúng. Đồng thời Đảng tuyên truyền, phổ biến văn hóa, tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng.</p><p></p><p>Nhiều tờ báo của Đảng và Việt Minh lần lượt ra đời: Giải phóng, Cờ giải phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Chặt xiềng, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập…Ngay trong một số nhà tù đế quốc, các chiến sĩ cộng sản cũng ra báo như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ chu), Dòng sông cong (Bá vân).</p><p></p><p>Việt Minh còn cử cán bộ hoạt động công khai, nữa công khai trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng để tổ chức, đoàn kết, hướng dẫn trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, hướng họ tham gia vào sự nghiệp giái phóng dân tộc.</p><p></p><p>Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Đề cương vạch rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa nô dịch ngu dân của Pháp – Nhật, nêu lên tầm quan trọng của văn hóa cách mạng. Văn hóa mới Việt Nam mang tính chấtdân tộc, dân chủ, xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản, khoa học, dân tộc và đại chúng.</p><p></p><p>Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời và tham gia mặt trận Việt Minh.</p><p>Đảng còn vận động một số tư sản, trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập Đảng dân chủ Việt Nam.</p><p></p><p>Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6 – 1944 và đã gia nhập Việt Minh.</p><p></p><p>Đảng Dân chủ Việt Nam và hội văn hóa cứu quốc đã tích cực hoạt động góp phần mở rộng khối đại doàn kết dân tộc, đóng góp vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.</p><p></p><p>(Còn nữa)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 28961, member: 699"] [B][COLOR="Indigo"]3. Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang, và căn cứ địa Cách mạng tháng Tám 3. 1 Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị [/COLOR][/B] Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới diễn ra rất căng thẳng, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hoà. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới đang đến gần. Trước tình hình đó, tháng 10 – 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sáng ngày 28 – 1 – 1941 (tức mồng 2 tết Tân Tỵ), Nguyễn Ái Quốc rời đất Trung Quốc và đến Pác Bó, Cao Bằng cùng ngày 28 – 1. Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị những công việc của Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19 – 5 – 1941, với sự tham dự của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu Xứ uỷ Bắc Kì và Trung Kì và một số đại biểu hoạt động ngoài nước. Sau khi phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật không phải là nhiệm vụ riêng của giai cấp công nông mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được [7;113 ] Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất cảu bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm địa tôm giảm tức”. Hội nghị chủ trương giải quyết vần đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, để thức tỉnh tinh thần dân tộc của các nước trên bán đảo Đông Dương; thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhât rộng rãi. Ở Việt Nam, mặt trận đó lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng của Mặt trận đều lấy tên thống nhất là “Hội cứu quốc”, như “Hội Công nhân cứu quốc”, v.v… Hội nghị chủ trương thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật thì các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc, một quốc gia tuỳ ý, “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng" [7;113.] Hội nghị đã chính thức bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới với một Ban Thường vụ gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng bí thư. Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hàon chỉnh đường lối đấu tranh mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đàon kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập. Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời, ngày 10 – 1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này […].Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống cho đồng bào, “Việt Nam Độc lập đồng minh” (Việt Minh) ra đời, chào các bạn. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là: “1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2.Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do” [ 7;470.] Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam: Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) và Thư kêu gọi toàn dân đánh đuổi Pháp-Nhật của Nguyễn Ái Quốc (6 – 6 – 1940), Đảng ta xúc tiến công cuộc xây dựng lực lượng mọi mặt, trước hết là xây dựng các đoàn thể Việt Minh trên toàn quốc. Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản báo chí Cách mạng. Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” (gọi tắt là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc. Ngày 25 – 1 – 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ quan tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt Trận Việt Minh. Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh (gọi là “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt Minh nắm giữ. Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nông dân cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình (Bắc Kì), Thanh Hoá, Quảng Bình (Trung Kì). Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh. Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng. [B][COLOR="Indigo"]3.2.2 Quá trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng[/COLOR][/B] Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai. Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân. Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc. Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”. Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh.Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng. Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 7-1941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng. Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II* được thành lập tại rừng Khuôn Máy (xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng. Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng. Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc. Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng. Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du kích. Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh.Đồng thời phải tăng gia gấo việc cổ động ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện [7;251]. Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm chính. Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng của cả nước. Trong thời gian này ở Bắc Trung Kì,Tỉnh Uỷ Thanh Hoá đề ra chủ trương thành lập căn cứ địa cách mạng, làm cơ sở phát triển lực lượng, thúc đẩy phong trào phản đế. Tỉnh ủy chọn vùng Ngọc Trạo để xây dựng chiền khu ở vùng Đông Bắc của tỉnh. Tháng 7- 1941, Ban lãnh đạo chiến khu được thành lập, Đội du kích Ngọc Trạo cũng ra đời với 21 đội viên. Cuối tháng 9 – 1941, Đội tăng lên 80 đội viên, ảnh hưởng và phạm vi chiến khu ngày càng lan rộng. Thực dân Pháp đã điều lực lượng đến đàn áp. Do chênh lệch về quân số, lại thiếu kinh nghiệm và vũ khí, Đội du kích bị tổn thất lớn. Ban lãnh đạo chiến khu ra lệnh cho Đội du kích rá khỏi Ngọc Trạo phân tán về các địa phương. Cuối tháng 10 – 1941, chiến khu Ngọc Trạo chấm dứt hoạt động. Trong khi đặt trọng tâm công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng chú trọng vận động các tầng lớp nhân dân đấu tranh dưới nhiều hình thức để duy trì và hướng phong trào quần chúng vào mục tiêu cứu quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương viết: “…ta phải khôn khéo huy động toàn thể nhân dân cùng với địa chủ, phú nông đấu tranh chống lại sự tịch thu lúa, gạo, đậu phụng…của Pháp – Nhật. Huy động thợ thuyền tranh đấu chống lại sự bắt làm công như nô lệ dưới báng súng, ngọn roi của quân Nhật trong những công xưởng quan hệ đến quân sự. Huy động nhân dân đấu tranh chống lại sự tàn bạo của lính Nhật. Ngoài ra, hằng ngày phải mở rộng tranh đấu cứu quốc, như tổ chức ra tuần lễ cứu quốc, tuần lễ ủng hộ Bắc Sơn, tuần lễ ủng hộ Liên Xô bằng những hình thức mít tin, diễn thuyết, mở lạc quyên, rải truyền đơn, biểu tình,.v.v." [7; tr129] Theo chủ trương đó, trong những năm 1941 – 1942, các cuộc đấu tranhcủa công nhân ở một số thành phố và các khu công nghiệp đã bùng phát, như các cuộc đấu tranh của công nhân ngành in, cưa gỗ, giặt (Hà Nội), xưởng bột giấy Việt Trì (Phú Thọ) hay xưởng giầy Bata, đồn điền Bình Lộc (Biên Hòa), đồn điền Lộc Ninh (Thủ Dầu Một)…Những cuộc đấu tranh này diễn ra dưới hình thức đình công, bãi công, bãi thực, đưa yêu sách, phản đối đánh đập, đòi tăng lương, trả tiền lương đúng hạn…Nhìn chung, phong trào đấu tranh của công nhân còn ít về số lượng, nhỏ về quy mô. Nông dân đấu tranh dưới hình thức biểu tình, đưa kiến nghị, chống hào lí, chủ đồn điền người Pháp cướp đoạt ruộng đất, lấn chiếm đất công, tham ô công quỹ, chống bắt phu, bắt lính…Tiêu biều là phong trào ở Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Đông, Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên…Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của nông dân còn thiếu bề rộng lẫn bề sâu, chưa liên kết được với các phong trào khác. Tầng lớp thanh niên trí thức ở các thành phố lớn tập hợp trong các đoàn thể, tiến hanh các hoạt động xã hội,khêu gợi lòng yêu nước trong nhân dân, kêu gọi thanh niên phụng sự dân tộc. Ở Sài Gòn – Chợ Lớn xuất hiện phong trao yêu nước công khai lấy tên là “Phong trào câu lạc bộ học sinh”, phong trào thu hút tới ba, bốn nghìn học sinh, sinh viên, trí thức trong các trường Trung học kĩ thuật và Bách khoa ở Sài gòn tham gia. Song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta cũng đề ra chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ủng hộ Liên ban Xô viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống phát xít Nhật. Với tinh thần trên, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên hiệp với các lực lượng cách mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. Ngày 27-8-1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt gaim 13 tháng, sau mới trả tự do cho Người. Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an toàn ở Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng. Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô. Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bứơc vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đông. Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước” [7;279] Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định: 1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy. 2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc. 3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290] Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”. Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện. Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa. Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì… Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện. Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ. Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn. Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ. Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng. Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục" [ 10; 129] Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.[10;130] Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944. Song song với công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng cũng tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, nhằm chống lại văn hóa, tư tưởng phản động của Nhật – Pháp và tay sai, không để ảnh hưởng đến quần chúng. Đồng thời Đảng tuyên truyền, phổ biến văn hóa, tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng. Nhiều tờ báo của Đảng và Việt Minh lần lượt ra đời: Giải phóng, Cờ giải phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Chặt xiềng, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập…Ngay trong một số nhà tù đế quốc, các chiến sĩ cộng sản cũng ra báo như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ chu), Dòng sông cong (Bá vân). Việt Minh còn cử cán bộ hoạt động công khai, nữa công khai trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng để tổ chức, đoàn kết, hướng dẫn trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, hướng họ tham gia vào sự nghiệp giái phóng dân tộc. Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Đề cương vạch rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa nô dịch ngu dân của Pháp – Nhật, nêu lên tầm quan trọng của văn hóa cách mạng. Văn hóa mới Việt Nam mang tính chấtdân tộc, dân chủ, xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản, khoa học, dân tộc và đại chúng. Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời và tham gia mặt trận Việt Minh. Đảng còn vận động một số tư sản, trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập Đảng dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6 – 1944 và đã gia nhập Việt Minh. Đảng Dân chủ Việt Nam và hội văn hóa cứu quốc đã tích cực hoạt động góp phần mở rộng khối đại doàn kết dân tộc, đóng góp vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. (Còn nữa) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình)
Top