Trả lời chủ đề

II. Tình hình thế giới, Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam 1936 – 1939


1. Tình hình thế giới và Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933


1.1 Tình hình thế giới 1929 - 1933 


 Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã kết thúc, nhưng hậu quả vẫn còn tác động nặng nề đến nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẩn xã hội vốn có trong lòng mỗi nước tư bản và mâu thuẩn giữa các nước đế quốc ngày càng gay gắt.


Trong thời gian này, Liên Xô đang trên con đường phát triển, hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 3(1933-1937). Phong trào cách mạng và giải phóng cách mạng và giải phóng dân tộc bùng nổ nhiều nơi.


Trong hoàn cảnh đó, giới cầm quyền một số nước tư bản đã tìm lối thoát bằng cách đưa đất nước vào con đường phát xít hóa.Chúng chuyển toàn bộ nền kinh tế phục vụ cho guồng máy chiến tranh, thi hành những chính sách mị dân, lùa phỉnh, kết hợp với sử dụng bạo lực đàn áp lực lượng tiến bộ trong nước và những người chống đối; gieo rác tư tưởng phân biệt chủng tộc, vô vanh, chuẩn bị chiến tranh để nô dịch, cướp bốc các dân tộc khác. Thế lực của bọn phát xít và chủ nghĩa phát xít ngày càng lớn mạnh.


Từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ nghĩa phát xít batứ đầu hình thành ở Italia(cuối 1922).Năm 1935, Italia xâm lược Abitxini (nay là Éthiopie), uy hiếp Ai Cập, Iran, Irắc (thuộc khu vực ảnh hưởng của Anh).lò lửa chiến tranh thứ nhất hình thành.


Ở Đức, chủ nghĩa phát xít ra đời sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1933). Năm 1936, Hítle đưa quân vào hat Rhin, trực tiếp đe dọa Pháp.Lò lửa chiến tranh thứ hai xuất hiện ở châu Âu.


Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản hình thành năm 1932. Năm 1937, Nhật Bản tiến hành xâm lược ba tỉnh Đông Bắc Trung Quốc. Giới quân phiệt Nhật Bản tích cực chuẩn bị chiến tranh giành quyền lợi của Anh, Pháp, Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Lò lửa chiến tranh thứ ba đã hình thành ở châu Á.

Các thế lực phát xít liên kết thành một khối. Ngày 25-11-1936, Nhật Bản và Đức kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”.Tháng 11-1937, Italia cũng tham gia kí kết hiệp ước nói trên. Hình thành trục phát xít Beclin-Tokyo-Roma.


Chủ nghĩa phát xít còn xuất hiện ở nhiều nước khác, như Ba Lan, Bủngi, Nam Phi, hunggari, Rumani…, sang Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Mỹ. Nguy cơ phát xít và chiến tranh đe dọa cả nhân loại.


Tháng 7 namư 1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản được triệu tập ở Matxcova với 65 đoàn đại biểu đại diện cho các Đảng Cộng sản trên thế giới. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu, lần đầu tiên tham dự Đại hội của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đang công tác tại Liên Xô, được Đảng Cộng sản  Đông Dương cử là đại biểu chính thức cảu đoàn đại biểu Đảng Cộng sản  Đông Dương.


Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của phong trào cộng sản quốc tế, trong đó có những vấn đè chủ yếu sau:


- Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.


- Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa tư bản, thiết lập chuyên chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giành dân chủ và bảo vệ hòa bình.


        -Về công tác tổ chức, thiếc lập khối liên minh giữa giai cấp nông dân và công dân, trên cơ sở đó thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi.


Đối với các nước thuộc địa, nữa thuộc địa xây dựng mặt trận thống nhất chống đế quốc, matự trận đó có tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc đấu tranh của mỗi nước ở mỗi thời điểm này.


Trong Báo cáo đọc trước Đại hội, Đimitơrốp Tổng Bí thư Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã nhận định:


“Chủ nghĩa phát xít chính là sự tiến công tàn bạo nhất cảu tư bản chống lại quần chúng lao động. Chủ nghĩa phát xít chính là chủ nghĩa sô vanh đến cực điểm và là chiến tranh xâm lược” và “ Chủ nghĩa phát xít nắm chính quyền là nền chuyên chính khủng bố công khai cảu những phần tử phản động nhất, sô vanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”


        Đồng thời khẳng định:


“Ngày nay, trong nhiều nước tư bản chủ nghĩa,quần chúng lao động trước mắt phải lựa chọn một cách cụ thể không phải giữa nền chuyên chính vô sản với chế độ dân chủ tư sản, mà là giữa chế độ dân chủ tư sản với chủ nghĩa phát xít”


Đại hội vạch rõ: Kẻ thù trước mắt cảu giai cấp công nhân và nhân dân thế giới lúc này là chủ nghĩa phát xít, nhiệm vụ trước mát là đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hòa bình, bảo vệ Liên Xô.


Đối với Đông Dương, Đại hội đã đánh giá cao những thành tích đấu tranh cảu gia cấp công nhân và nhân dân lao động trong phong trào 1930-1931 và thời kì khủng bố trắng 1932-1935, công nhận Đảng Cộng sản  Đông Dương là một đội ngủ kiên cường trong phong trào cộng sản quốc tế.


Nghị quyết đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản  đã kịp thời giúp các Đảng Cộng sản  đề ra chủ trương đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh từng nước, đòi thống nhất hành động cánh mạng của giai cấp công nhân thế giới trong một mục tiêu chung.


Lúc này, phong trào chống phát xít ở một số nước đã giành được thắng lợi quan trọng.Ở trung Quốc, hông quân tiến hành nhiều cuộc hành quân chiến lược lên phía Bắc, lấy ba tính Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ làm căn cứ, phá tan âm mưu tiêu diệt lực luợng cáhc mạng của quân phiệt Nhật.


Cuối năm 1936, sau sự biến Tây An, Tưởng Giới Thạch buộc phải batứ tay với Đảng Cộng sản Trung Quốc đế chống Nhật. mặt trận dân tộc thống nhất được hình thành gồm Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trung Hoa Quốc dân Đảng và các lực lượng dân chủ, yêu nước chống Nhật. Để mở rộng Mặt trận, Đảng Cộng sản trung Quốc chủ trương sửa đổi một số chính sách, như tạm thời đình chỉ viẹc thực hiện khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ.


Ở châu Âu, Mặt  trận Nhân dân Tây Ban Nha đã giành thắng lợi trong kì tuyển cử đầu năm 1936. Trên cơ sở thắng lợi đó, Chính phủ Matự trận Nhân dân tây Ban Nha được thành lập.


Tại pháp, đầu năm 1931, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập bao gồm: Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Cấp tiến, Tổng liên đoàn lao động và các đoàn thể quần chúng cảu ba đảng trên.


Tháng 5-1936, Mặt trận Nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra lập Nội các mới do lãnh tụ Đảng Xã hội Léon blum làm Thủ tướng. Chính phủ này vẫn nằm trong khuôn khổ chính quyền tư sản. Nó vẫn duy trì hệ thống thuộc địa như cũ. Tuy nhiên, trước sự đấu tranh của Đảng Cộng sản  pháp và cao trào chống phát xít của nhân dân Pháp, Chính phủ Léon blum buộc phải thi hành một số điểm mà Cương lĩnh Măt trận nhân đề  ra. Đối với  thuộc địa, chính phủ Pháp có ba quyết định quan trọng: Thả tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là ở Đông Dương và Bắt phi, thi hành một số cải cách xã hội cho người lao động.


Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp lên cao.Trong tháng 5 và tháng 6 năm 1936 có 1,5 triệu người bãi công đòi cải thiện đời sống. cuộc bãi công diễn ra có tổ chức, trật tự. Chính phủ Pháp phải thông qua đạo luật hủy bỏ thuế đánh vào tiền bồi thường tai nạn lao động cho công nhân; quyết định số nagỳ nghỉ có lương cho công nhân; hủy bỏ Sắc luật quy định giao kèo tập thể.

Ở châu Phi, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc đại Pháp có những dấu hiệu mới.Ngày 2-8-1936, Đại hội lần thứ hai của matự trận Nhân dân angiêri được triệu . Đại hội quyết định cử đoàn đại biểu đi Pải mang bản thỉnh cầu đến Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mác Đô (Marx Dỏ). Bản thỉnh cầu yêu cầu bỏ luật dân bản xứ, thi hành những luật xã hội cho nhân dân lao động mức tiền lương tối thiểu hàng ngày cho công nhân, thi hành luật ân xá…


Tại Tuynidi, một cuộc mit tinh lớn chưa từng có được tổ chức ở Thủ đô, hoan nghênh Chính phủ do mặt trận Nhân dân cử ra, đòi quyền tự do, dân chủ.Chính quyền thực dân phải hứa thực thi một số cải cách xã hội.


Tại Marốc, Ủy ban hành động được thành lập; tại Sênêgan, Ủy ban của mặt trận Nhân dân tổ chức cuộc biểu tình nhân ngày kỉ niệm Cách mạng Pháp 14-7-1936.



1.2 Tình hình trong nước sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933


Ở Việt Nam, tình hình kinh tế có những thay đổi đáng kể, tuy nhịp độ diễn ra chậm. Ngân hang Đông Dương chi phối toàn bộ hoạt động kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp, nó điều khiển các công ty tư bản chủ yếu về nông, công, thương nghiệp, vận tải, vì vốn dân ta chiếm một tỉ trọng lớn trong các công ti đó. Vốn đầu tư của tư bản Pháp hạn chế, nhưng do bốt lột nhân công rẻ mạt, nên có siêu lợi nhuận cao so với các nước đế quốc khác như Anh, Hà Lan.

Tổng số vốn đầu tư vào Đông Dương của Pháp tính đến năm 1940 là 10-12 tỉ Phơ răng, nhưng lợi nhuận chyển về Pháp, năm 1936 hơn 1 tỉ Phơ răng, năm 1937 là 1,9 tỉ Phơ răng, chưa kể một phần lợi nhuận đã nhập thêm vào vốn.


Về nông nghiệp: Namư 1936, Thống xứ Bắc kì ra Nghị định cấp không cho những công dân Pháp làm đơn xin đất voiứ diện tích dưới 500 ha để lập làng mới. Trong những năm 1936-1939, tại đồng bằng Bắc Kì có1.933.000 xuất điinh thì 968.000 người không có ruộng. Ở Trung Kì, số người không có ruộng và có ruộng dưới 0,5 ha ở tỉnh Quảng Trị chiếm 69,5%, ở tỉnh Thừa thiên là78%, Bình Định 74%, Phú Yên và Khánh Hòa là 50,9%. Ở Nam Kì, 909 địa chủ chiếm hữu hơn 480.000 ha, trung bình 530ha/người. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế, phần lớn ruộng đất tập trung vào tay tư sản Pháp và một số ít vào tay địa chủ , quan lại người Việt. Trong toàn quốc, khoảng 2/3 hộ nông dân không có ruộng haợc ít ruộng (khoảng13-14triệu  người).Đại bộ phận đát đai nông nghiệp độc canh trồng lúa, phần còn lại trồng hoa màu.

Các đồn điền trồng cây công nghiệp phân bố ở Nam Kỳ và Trung Kỳ. tính đến năm 1939, tổng số diện tích trồng cao su ở Việt Nam là 86.682 ha. Vào đầu năm 1937, Việt Nam có 920 đồn điền (Nam Kì có 902 đồn điền, Trung Kì có 17 đồn điền,Bắc Kì có 1 đồn điền) trong tổng số 1.005 đồn điền toàn Đông Dương. Đại đa số các đồn điền này nằm trong tay tư bản nước ngoài.


Kinh doanh bằng cách các đồn điền cao su của các nhà tư bản Pháp lãi rất lớn, như Công ti Cao su Xuân Lộc, với 6 triệu Phơ-răng tiền vốn, năm 1937 lãi 4.193 Phơ-răng, năm 1938 lãi 6.146 Phơ-răng, năm 1939 lãi 8.833 Phơ-răng.


Ngoài cao su, tư bản Pháp còn trồng các loại cây công nghiệp khác như cà phê, chè, đay, gai, bông…trước Chiến tranh thế giới thứ hai, diện tích trồng chè ở Đông Dương khoảng 12.000 đến 15.000 ha, sản lượng 10.000 đến 11.000 tấn/năm. Diện tích trồng cà phê năm 1938 khoảng 800-900 ha, sản lượng khoảng 3.000 – 4.000 tấn/năm.


Về công nghiệp: trước hết phải kể đến công nghiệp khai thác mỏ. những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, nhu cầu về nguyên liệu chiếc lược ngày càng nhiều, vì thế khai mỏ ở Việt Nam tăng dần, nhất là khai thác than. Tổng sản lượng than năm 1936 – 1939 là 9,344 triệu tấn, (năm 1936 là 2,186 triệu tấn, năm 1937 là 2,308 triệu tấn, năm 1938 là 2,235 triệu tấn, năm 1939 là 2,615 triệu tấn).


Ở Đông Dương, than chiếm khoảng 70% tổng giá trị khai khoảng, các khoáng sản khác chỉ chiếm 30%. Đứng sau than là thiếc và Tungxten. Tổng sản lượng hai loại này ở toàn Đông Dương thời kì 1936 – 1939 là 12.381 tấn quặng, trong đó thiếc là 6.121 tấn và tungxten là 6.260 tấn, gấp 2,5 lần so với thời kì 1926 – 1929. số thiếc khai thác ở Việt Nam chiếm gần 2/3 sản lượng toàn Đông Dương. Các khoáng sản khác chỉ chiếm tỉ trọng thấp.

Trong thời kì 1936 – 1939, nhìn chung ngành công nghiệp khai thác mỏ được đẩy mạnh hỏn trước thòi kì khủng hoảng. tổng sản lượng năm 1939 là 29,5 triệu đồng Đông Dương, trong khi đó năm 1926 chỉ đạt 18,6 triệu đồng.


Công ti Bông vải sợi Bắc Kì gần như chiếm độc quyền ngành công nghiệp dệt. sản phẩm không những tiêu thụ ở thị trường Việt Nam mà còn xuất khẩu sang các nước khác. Năm 1936, Công ti cung cấp cho thị trường trong nước 2.478 tấn vải và 616.000 chiếc chăn; năm 1937 cung cấp 2.373 tấn vải và 742.000 chiếc chăn, năm 1938 là 2.751 tấn vải và 809.000 chiếc chăn. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 1939 đã cung cấp 450 tấn vải, 117.000 chiếc chăn và 5.000 kiện sợi. hàng năm, Công ti này cung cấp 40% nhu cầu vải sợi của toàn Đông Dương.


Ngành công nghiệp nấu rượu phát triển rất mạnh và do các công ti tư bản Pháp nắm độc quyền. Do đó, các công ti này thu lãi rất lớn. Lợi nhuận của nhà máy rươu Đông Dương ăm 1937 là 17.888.000 Phơrăng, năm 1938 là17.181.000 Phơ- răng, năm 1939 là 18.606.000 Phơ răng.


Về sản xuất xi măng, công ti Porland có một nhà máy duy nhất ở Hải Phòng. Năm 1938, vốn của công ti là 34,2 triệu Phơ răng, năm 1939 là 42,75 Phơ răng. Sản lượng xi măng năm1936 là 149.000 tấn, 1937 là 235.000 tấn, 1938 là 266.000 tấn, 1939 là 306.000 tấn. Các ngành  công nghiệp khác như điện nước, cơ khí,đường giấy , diêm…ít phát triển.


Về thương nghiệp: Chính quyền thực dân Pháp nắm độc quyền bán thuốc phiện, rượu, muối đã thu được lợi nhuận khổng lồ.


Số lượng thuốc phiện bán ra hàng năm:   


Năm    ***Số lương bán    ***Số tiền thu được


1936 ***     35.476 kg     *** 6.816.424 đồng

1937 ***     52.331 kg     *** 8.791.019 đồng

1938 ***     57.592 kg     *** 11.453.554 đồng

1939 ***     71.763 kg     *** 19.665.230 đồng

 


Số rượu bán ra hàng năm:


Năm    *** Số lương bán    *** Số tiền thu được

1935    *** 22.896.035 lít    *** 2.920.853 đồng

1936 ***     29.039.825 lít ****     4.020.488 đồng

1937    *** 32.882.207 lít    ***5.151.250 đồng

1938 ***     35.437.314 lít ***    6.843.705 đồng

1939***     38.875.388 lít***    8.088.065 đồng

 

Muối là mặt hàng chính quyền thực dân thu nhiều lãi, xếp thứ ba sau thuốc phiện và rượu. nhà nước thực dân hạn chế việc sản xuất muối, độc quyền bán muối để bán giá cao. Năm 1937, tiền lãi muối bán thu được là 2.678.500 đồng.


Về ngoại thương: Đông Dương (trong đó chủ yếu là Việt Nam), xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu là khoáng sản, nông sản, nhập khẩu máy móc và hàng tiêu dùng. Năm1938, Đông Dương phải nhập khẩu của Pháp 17% đường, 89% sợi bông, 92% sản phẩm luyện kim, 91% công cụ kim loại, 72% máy móc phụ tùng, 94% áo quần. các công ti tư bản nắm độc quyền xuất nhập khẩu và thực hiện hàng rào thuế quan khép kín trong khu vực Liên hiệp Pháp. Gạo là hàng xuất khẩu chính, các công ti thương nghiệp Pháp nắm 86% số lượng gạo xuất khẩu, năm 1936, gạo thu mua ở Việt Nam là 13 Pho răng/tạ nhưng xuất khẩu bán cho các nước khác có khi lên đến 80 Phơ răng/tạ. [31;283]


Về lĩnh vực tài chính, tiền tệ: ngân hàng Đông Dương giữ độc quyền phát hành giấy bạc ở Đông Dương. Thời kì 1936-1939, đồng bạc Đông Dương bị lạm phát. Nhà băng Đông Dương tăng cường phát hành giấy bạc. năm 1935, gyaays bạc lưu hành là 88,3 triệu đồng, năm 1936 là113,8 triệu đồng, nă 1937 là151,3 triệu đồng, năm 1938 là 173,8 triệu đồng và năm1939 là 216,3 triệu đồng.


Chính quyền thực dân thu hồi dần những đồng bạc mới đúc trong thời kì khủng hoảng, đòng thời ra sức vơ vét vàng. Trên thị trường Đông Dương chỉ còn lưu hành những giấy bạc mất giá.


Nhìn chung, thời kì 1936 – 1939 là thời kì phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung. Tuy nhiên, sự phát triển đó tập trung vào những ngành kinh doanh, những mặt hàng chiến lược, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn trong tình trạng phụ thuộc và lạc hậu. Trong thời kì này chưa xuất hiện những ngành kinh tế mới.


Chính quyền thực dân, hàng năm bắt Đông Dương phải nộp cho chính quốc những món tiền rất lớn. năm 1938 nộp 4.127.000 đ, năm1939 nộp 4.765.000 đ.


Các loại thuế khong ngừng tăng. Thuế thân năm 1937, ở Bắc kì, thu đồng loạt 2,5 đ/người. Từ năm 1939 trở đi, theo định nghĩa ngày 23 -12-1938, thuế thân chia làm 14 bậc. do đó số tiền thu được tăng gấp bội. Ở Trung kì, trước năm 1938, thuế thân cũng thu đồng loạt là 2,5 đ/người. nhưng đến ngày 16 -1-1938, một đạo dụ mới được ban hành cũng chia thuế thân thành nhiều bậc như ở Bắc Kì. Ở Nam Kì, thực dân Pháp đặt thêm thuế lợi tức, mặc dù hạ mức thuế thân từ 7,5 đ xuống còn 4,5 đ và 5,5 đ. Cả nước nói chung, số thu trong thời kì này tăng lên rất nhiều.


Từ năm 1939, chính quyền thực dân lại đặc thêm thuế cư trú thành thị với mức 2,5 đ/người. Người lao động và những người có  mức lương thấp dưới 30 đ phải nộp 0,5 đ. Thuế nhà chia làm 3 loại: nhà lá thuế 1 xu/gian, nhà gỗ 1 đến 3 xu/gian, nhà gạch từ 1 đến 6 xu/gian. Người làm nghề chày lưới phải nộp thuế thủy lợi, mỗi năm nộp 10 đ/khổ lưới. thuyền nhỏ đóng 20đ thuế thông lương, 1,2 đ thuế hàng ngày và 1,2 đ thuế đỗ bến 5 ngày.


Vì vậy, tất cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội đều gặp khó khăn. Năm 1929, ở Việt Nam có 221.000 công nhân. Trong những năm khủng hoảng kinh tế, hàng vạn công nhân bị sa thải. Giữa những năm 1930, kinh tế Việt Nam bắt đầu phục hồi, thậm chí có một số ngành đã phát triển, nhưng số công nhân được trưng dụng vào các cơ sở kinh tế chưa nhiều. Tới năm 1937 chí có hơn 150.000 công nhân có việc làm. Theo số lượng thống kê của cơ quan lao động chính quyền thực dân, năm 1936 vẫn còn 408.336 người thất nghiệp. Ngành than là ngành phục hồi nhanh nhất, năm1939, số công nhân cao nhất cũng chỉ có 55.200 người, hơn năm có số công nhân cao nhất trước khủng hoảng là 1200 người (năm 1928 có 54000 người). các ngành xi măng, dệt…nhận thêm khoảng 1000 người. Nạn thất nghiệp vẫn trầm trọng . “Tại Sài Gòn ngày 14 -6- 1937, độ 2000 người thất nghiệp, vừa đàn ông, đàn bà ,con nít kéo nhau tới tòa Đốc lí xin việc, xin gạo” [15; 121].


Trong những năm 1936 - 1938, lương công nhân thấp hơn so với thời kì đầu khủng hoảng. Năm 1939, tiền lương chỉ bằng năm 1931.


Chính quyền thực dân ra nghị định lương tối thiểu chio công nhân (Bắc Kì ngày 13 – 8- 1937, Trung Kì ngày 17 -12-1939, Nam Kì năm 1937). Báo En Avant, ngày 27 – 8 -1937 viết: “ấn định lương tối thiểu hay họp pháp hóa lương chết đói”, trong khi giá sinh hoạt tăng vọt, chát lượng cuộc sống người làm công ăn lương giảm sút nhiều. theo báo Dân mới, tình hình giá cả một số mặt hàng từ ngày 1 - 10 – 1936 đến ngày 1 - 12 – 1938: giá bột tăng 67%, gạo ngày 30 - 5 – 1937 tăng 100%, thịt bò, thịt trâu tăng 58%, thịt lợn tăng 107%, trứng gà, bơ tăng 127% trứng vịt tăng 143%, khoai tây tăng 58%, đường tăng 72%.


Thời kì 1936 -1939, đa số nông dân khong có ruộng đất, hoặc có rất ít. Họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm mướn. địa tô chiếm một nửa hoa lợi mùa mang. Người tá điền còn phải làm không công cho địa chủ một số ngay khi có yêu cầu.


Trong những năm 1936 – 1939, thiên tai, lũ lụt, vỡ đê liên tiếp xảy ra. Năm nào cũng có nạn đối. năm 1937, nạn đói xảy ra gần khắp Bắc Kì. Nhiều tỉnh đồng bằng và trung du ngập lụt, mùa màng thất bát. Nạn đói ở tỉnh Kiến An được báo Bạn Dân, số ra ngày 29 – 7 – 1937 viết như sau: “Đến hạng bầ nông thì cực kì khốn khổ. Họ không dám ăn cơm vì thổi cơm thì quá tốn gạo. Họ phải ăn thứ cháo loãng cho đỡ đói và khỏi bị chết, ấy mà hai ba ngày họ mới được một bữa cháo như thế mà ăn. Tuy thế họ còn khá lám đấy”.


Nạn đói không chỉ xảy ra ở Bắc Kì, Trung Kì mà còn ở cả Nam kì, vựa lúa của Việt Nam. Năm 1938, nhiều tỉnh, như Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên bị đói, nạn đói thường gắn liền với dịch bệnh. Năm 1937, bệnh dịch tả lan tràn khắp nhiều tỉnh Bắc Kì, đến cuối tháng 11 – 1937 , ở Bắc Kì có 8.968 người bị bệnh.


Ngoài ra, ở các làng xã, người nông dân còn phải chịu những khoản phụ thu, lạm bổ của bọn lí dịch, cường hào ác bá, những hủ tục cưới cheo, đình đám.

Tình cảnh của giai cấp tư sản Việt Nam cũng không khá hơn. Họ bị đánh thuế nặng nề và bị tư sản Pháp chèn ép. Một số bị phá sản, một số có vốn nhỏ bé, không có khả năng lặp các công ty lớn. chỉ có một số xí nghiệp dệt nhỏ bé của tư sản Việt Nam được xây dựng ở Mỹ Tho, một số nhà in ở Hà Nội, Sài Gòn. Giai cấp tư sản Việt Nam không có vai trò đáng kể trong nền kinh tế.

Thương nhân Việt Nam vốn ít. Năm 1938, ở Nam Kì có 57.215 môn bài của người Việt, trong đó chỉ có 152 môn bài (3%) đóng thuế mức 100 đồng trở lên, không có môn bài nào trên 400 đồng. ở Bắc Kì, có 67.761 môn bài của người Việt, trong đó có 173 môn bài đóng trên 100 đồng, không có người nào đóng trên 800 đồng.


Nhiều người trong tầng lớp tư sản bị thất nghiệp. người có việc thì bị ngược đãi. Sinh viên các trường Đại học tốt nghiệp ra không có việc làm. Công chức lương thấp, không đủ sống, phải vay nợ.


Tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ bị các chủ đồn điền người Pháp và các địa chủ người Việt chền ép, lấn chiếm ruộng đất, dùng mọi thủ đoạn phá hoại khiến cho sản xuất bị thua lỗ. không ít người bị tịch biên ruộng đất hoặc phải bán ruộng.


Những tầng lớp lao động khác, như thợ may, những người làm nghề thủ công phải chịu cảnh thuế má nặng nề, mức sống thấp do sinh hoạt đắc đỏ. Nhìn chung, trong thời kì 1936 – 1939, đời sống của đa số nhân dân khó khăn, cơ cực. chính vì thế, họ đã hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.


(Còn nữa)


Top